31 | Sự trống không là một khái niệm rỗng tuếch

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6//2023, nhân Hội nghị 2023 ở Seoul, Hàn quốc – Nối kết với cái Ta Cao và vị thày tâm linh.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Và như truyền thống trong thời gian qua, thật là một đặc ân và niềm vui cho thày được trao bài truyền đọc sẽ niêm hội nghị này, một hội nghị đã đánh dấu một chiến thắng to lớn từ nhãn quan của các thày là chân sư thăng thiên, vì nó đã tạo được một xung lực đi vào tâm thức tập thể sẽ khởi động những thay đổi sâu xa, giúp cho nhiều người kết nối chặt chẽ hơn với các chân sư thăng thiên cùng cái Ta Cao của họ. Tất nhiên, các thày cũng thấy được là nhiều người trong các con đã sẵn lòng tham gia, sẵn lòng xem xét bản thân mình, dùng các lời dạy để vươn lên cao hơn. Các thày hy vọng là các con đã cảm thấy đáng công sức cùng thời giờ bỏ ra, và các con cũng cảm thấy mãn nguyện như các thày.

Thày muốn nhân cơ hội này trao cho con một số lời dạy về một khái niệm có vẻ không liên quan đến đề tài của hội nghị này là làm thế nào nối kết với cái Ta Cao cùng các vị thày tâm linh của con, nhưng để xem, chúng ta sẽ thấy nó có liên quan hay không. Có một khái niệm đã được biết đến từ thời của Phật, là Śūnyatā hay sự trống không (emptiness). Từ này thực sự có nghĩa là gì? Một lần nữa, các nhà trí thức của đạo Phật hay truyền thống Phật giáo đã nhìn vào từ này, đã nghĩ ra nhiều cách diễn giải khác nhau và không đồng ý được với nhau cách diễn giải đúng đắn là gì. Và ở đây, thày không đang cố cho con cách diễn giải “đúng đắn” vì không có một cách diễn giải đúng đắn duy nhất nào. Luôn luôn sẽ có nhiều trình độ tâm thức khác nhau và vì vậy có nhiều cách hiểu khác nhau về bất kỳ giáo lý tâm linh nào.

31.1. Trải nghiệm thực tại đằng sau lời dạy

Nhưng thày sẽ nói là có một sự khác biệt cơ bản giữa việc diễn giải một giáo lý tâm linh và việc trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau ngôn từ giáo lý. Và điều con thấy trong mọi truyền thống tâm linh được thế giới biết đến là khi truyền thống này phát triển và thu hút ngày càng nhiều người theo, thì sẽ nẩy sinh một lớp người tự xưng mình là những người diễn giải giáo lý. Xong có một nhóm người ít ỏi hơn cố gắng trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau chữ nghĩa. Và sau đó có số đông quần chúng đi theo giáo lý, và họ cũng đi theo cách diễn giải do lớp tu sĩ kia đưa ra vì họ hy vọng nó sẽ đem lại cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn trong thế giới hiện tại hay thế giới kế tiếp. Con có thể nhìn thấy mô hình này ở khắp mọi nơi. Con có thể thấy nó suốt chiều dài lịch sử, con có thể thấy nó ngày nay cả với các lời dạy tâm linh hiện đại, và thậm chí cũng có xu hướng này trong giáo lý của chân sư thăng thiên. Nếu con thực sự mong muốn sử dụng một giáo lý tâm linh, hiển nhiên con cần vượt xa hơn việc diễn giải các ngôn từ và tìm kiếm không chỉ cái hiểu, không chỉ đơn giản cái nắm bắt, mà con cần trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau ngôn từ.

Chúng ta có thể so sánh với một rạp chiếu phim. Hầu hết mọi người ngồi đó nhìn vào màn hình chiếu phim. Họ chỉ đang trải nghiệm phim trên màn hình. Xong có những người cố tìm hiểu xem phim đến từ đâu, và có thể họ sẽ lên tận phòng chiếu, nhìn tận mắt dải phim trong máy chiếu. Nhưng hình ảnh trên dải phim có thật là thực tại sâu xa đằng sau bộ phim? Hay thực tại sâu xa hơn là ánh sáng trắng tinh trong máy chiếu? Hay thực tại sâu xa hơn nữa là dụng ý của nhà đạo diễn bộ phim, hay của nhà biên kịch, hay của các diễn viên?

31.2. Dùng giáo lý để thăng vượt mức tâm thức hiện tại

Một lời dạy tâm linh chân chính đến từ cõi tâm linh hay cõi thăng thiên. Nó đến từ tâm của một sinh thể tâm linh, và nếu con muốn tận dụng lời dạy, con cần sử dụng lời dạy vỏ ngoài như một công cụ mà thôi, một công cụ để bắt liên lạc với sinh thể tâm linh mà lời dạy đã xuất phát từ tâm vị này. Đây là cách cao nhất để sử dụng một lời dạy tâm linh. Khi con nắm bắt được điều này, con nhận ra là nếu con chỉ đọc chữ rồi cố hiểu hay diễn giải chữ nghĩa bằng tâm thuần trí năng, thì đây không phải là cách dùng cao nhất. Thậm chí còn có thể nói là con đã không dùng đến giáo lý, bởi vì đâu là mục đích của một giáo lý tâm linh chứ? Là giúp con thăng vượt mức tâm thức hiện tại của con. Và khi con cứ tìm cách hiểu và diễn giải với mức tâm thức hiện tại thì con sẽ giam con lại ở tầng mức này.

Con có thể dùng giáo lý tâm linh để khiến con tưởng là bởi vì con đã có một cách diễn giải trí thức, cao cấp và tinh xảo như thế này, thì con đã đạt được một tầng tâm thức cao hơn. Nhưng con không đạt được một tầng tâm thức cao hơn qua sự diễn giải và hiểu biết thuần trí năng. Con chỉ đạt được bằng cách dời chuyển tâm thức của con. Đây là điều mà tâm đường thẳng không thể nắm bắt. Vì tâm đường thẳng chỉ có thể định ra một chuỗi sự kiện dẫn từ điểm này đến điểm kế tiếp, chứ nó không thể tưởng tượng, không thể thấu suốt được là có một tầng thực tại hoàn toàn khác mà con không thể đặt lên một loại thang điểm đường thẳng như vậy.

31.3. Trung đạo

Đó cũng là tại sao nhiều người đã không hiểu được khái niệm Trung đạo. Họ không nắm bắt được ý nghĩa của Trung đạo và những cặp đối cực, mà ngày nay chúng ta gọi là tâm thức nhị nguyên luôn có hai cực đoan. Bên này có đối cực này, bên kia có đối cực ngược lại, và có những người cho rằng Trung đạo nằm đâu đó ở giữa.

Nhiều người đã trí thức hóa các lời dạy được ban truyền qua thày cách đây 2500 năm, và họ cứ nghĩ là việc bước chân trên đường tu, con đường Trung đạo, có nghĩa là tìm được thế quân bằng. Và họ đã cố tìm một thế quân bằng nào đó giữa hai thế đối cực do họ quy định, cho dù quy định này là gì. Nhưng Trung đạo không phải là chuyện tìm thế quân bằng trên một thang điểm đường thẳng giữa hai đối cực, mà Trung đạo là sự thăng vượt chính thang điểm nhị nguyên đó, thăng vượt cả hai đối cực nhị nguyên, và điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là thăng vượt tâm đường thẳng.

31.4. Khái niệm trống không

Trở về với khái niệm trống không. Tâm đường thẳng sẽ lập tức đặt câu hỏi, trống không cái gì? Trống không so sánh với cái gì? Phải có cái gì để có thể so sánh chứ. Điều này cũng phần nào chính đáng, theo nghĩa là một giáo lý tâm linh luôn luôn được trao truyền trong một bối cảnh. Khi thày xuất hiện trong hiện thân vật lý 2500 năm trước đây, thày đã xuất hiện trong một xã hội đặc thù, một nền văn hóa đặc thù là văn hóa Bà la môn Ấn giáo.

Những người Bà la môn đạo Ấn đã đưa ra đủ loại cách diễn giải, đủ loại môn phái, đủ loại tư tưởng khác nhau, cho nên họ đã có đủ loại khái niệm. Giáo lý mà thày đưa ra cách đây 2500 năm được thích ứng với nền văn hóa này – một phần nó dùng lại một số khái niệm, nhưng nó cũng thách thức một số khái niệm khác đã trở nên phổ thông trong truyền thống Ấn giáo. Con không thể thực sự hiểu được khái niệm trống không nếu con không nhìn vào bối cảnh nơi nó được đưa ra. Và khái niệm vô cùng nổi trội trong đạo Ấn là khái niệm về Atman, hay Ngã, là Ngã tối thượng. Và đã có nguyên một nền văn hóa được xây dựng chung quanh khái niệm này mà ít người thời nay hiểu được thật sự.

Để cho con một tóm lược ngắn gọn về cách họ nhìn Atman, có thể nói đó là ý tưởng cho rằng ở cõi trên cao chỉ có một Ngã độc nhất này, Atman, và đó là một Ngã trường tồn bất biến. Nó không bao giờ có thể thay đổi. Có nghĩa là cho dù con có nghĩ ra bất kỳ khái niệm nào – không nhất thiết từ tầng cấp con người mà cả bất cứ những gì có thể xuất phát từ cõi tâm linh – thì trong Atman đó, trong Ngã đó, có một sự quy định mà chúng ta có thể gọi là một hình ảnh, một khuôn đúc (matrix). Thậm chí điều này có thể so sánh với khái niệm của Plato về các hình thể lý tưởng (ideal forms) ở cõi cao.

Nói cách khác, khái niệm này cho rằng ở cõi cao có một khuôn đúc toàn hảo đã được quy định cho tất cả mọi thứ có thể thị hiện trong thế gian cùng mọi sự có thể xảy ra trong thế giới. Và điều này làm nẩy sinh ý tưởng là từ Atman duy nhất đó, mọi Ngã khác đều được quy định, và mỗi Ngã này thì quy định một biểu hiện đặc trưng. Cho nên đối với trái đất, có một cái Ngã ở cõi cao sẽ quy định khuôn đúc toàn hảo bất biến cho trái đất. Cho mỗi con người, có một cái Ngã ở cõi cao quy định linh hồn này là như thế nào, và mặc dù mọi chuyện trên trái đất có thể trải bày ra để trái đất lẫn con người có thể xa rời Ngã trường tồn đó, nhưng kết cuộc thì mọi thứ cũng sẽ đều quay trở về Ngã đó. Và đây chính là khái niệm mà thày đã bác bỏ.

Khi thày nói đến sự trống không, thày nói là nó trống rỗng theo nghĩa nó không có ngã, nghĩa là nó không được định trước bởi một cái Ngã nào đó ở một cõi cao mà nó phải quay trở về. Thày Lanto cũng đã trao cho con một bài giảng vô cùng sâu sắc về đề tài này, nhưng thày muốn trình bày thêm vì nhiều người theo đạo Phật ngày nay đã sử dụng tư duy hiện đại – một tư duy đã trở nên đường thẳng hơn nhiều – để diễn giải khái niệm trống không, hay khái niệm vô ngã, theo nghĩa là không những nó trống rỗng không có ngã mà nó còn không có gì hết. Ở đó không có gì hết. Một lần nữa, đây là một điều mà tâm đường thẳng rất ưa làm.

31.5. Ngã bất biến hay ngã không ngừng thay đổi, không ngừng tự thăng vượt?

Tâm đường thẳng nhìn vào thế gian này thấy mọi thứ đều mang hình tướng, rồi nó nghe nói về khái niệm trống không, xong nó nghe nói là chính đức Phật đã dạy khái niệm này, mà Phật thì là một sinh thể cao cả đã giác ngộ, nhất định các khái niệm mà Phật dạy phải được nể trọng. Thế là tâm đường thẳng nói: “Bây giờ tôi muốn hiểu khái niệm này một cách tối hậu. Thế gian này có hình tướng, vậy trống không phải có nghĩa là vô hình tướng, không có gì ở đó cả.” Và một số người đã diễn giải theo nghĩa là chỉ có Brahman mà thôi, chỉ có sự nhận biết vô biên như một số người thời nay gọi như vậy, và đây là sự trống không. Cho nên, hoặc là có hình tướng như trong thế gian, hoặc là có sự trống không, và họ nghĩ hình tướng đi ra từ trống không, hay nói cách khác, có cái gì đó đi ra từ cái không-có-gì. Nhưng tất nhiên, chuyện không phải là như vậy.

Thày đã không nói trống không nghĩa là không có gì ở đó. Điều thày nói là không có một cái Ngã trường cửu bất biến (permanent) nào ở đó. Thày nói là thế giới không sinh ra từ trống không, và mục đích của thế giới không phải là quay trở về trống không sau một chu kỳ đầu thai dài đằng đẵng. Điều thày đã nói – và điều thày đã có ý nói – là không có một cái ngã trường cửu bất biến nào, nhưng có một cái ta không ngừng thay đổi, không ngừng tự thăng vượt. Và cái ta luôn luôn thay đổi này không có mục đích quay trở về cái không-có-gì sau một chu kỳ đầu thai và đau khổ gần như bất tận. Mục đích của nó là thăng lên một tầng cấp cao hơn nơi nó có thể tiếp tục vươn lên cao hơn nữa.

31.6. Chúng ta có thể hiểu được gì về cõi tâm linh?

Đó không phải là điều thày đã dạy cách đây 2500 năm vì thày đã quyết định trao truyền một giáo lý tập trung vào các khía cạnh thực tiễn chứ không vào các khía cạnh vũ trụ học, cho nên chủ đích của thày là nâng cao cho tâm thức con người vượt lên trên tâm đường thẳng, vì thày thấy rõ qua những người Bà la môn là tâm đường thẳng không thể bao giờ cho con cái hiểu tối hậu về các khái niệm vũ trụ học. Làm thế nào cuối cùng con sẽ hiểu được cõi tâm linh vận hành ra sao? À, tất nhiên, bằng cách thăng thiên lên cõi tâm linh, vì lúc đó con sẽ kinh nghiệm được cõi tâm linh, con sẽ có thể theo đuổi việc tìm hiểu mọi khiá cạnh, mọi cõi giới của thế giới tâm linh, con có thể đi đây đi đó, đi lên càng ngày càng cao hơn và thám hiểm mọi thứ có thể được thám hiểm.

Con cũng có thể nói: “Nhưng ích lợi gì mà cố hiểu những chuyện đó khi con còn đang đầu thai?” Và đây chính là điều thày đã suy luận 2500 năm về trước khi tâm thức tập thể còn khá thấp. Nhưng thật ra ngày nay có chút ích lợi, vì nhiều người có thể lợi lạc nếu họ nắm được một vài khía cạnh của cõi tâm linh cùng cách vận hành của cõi tâm linh. Chắc chắn con sẽ lợi lạc khi con nắm bắt là ở cõi đó có những sinh thể tâm linh – các chân sư thăng thiên là thày tâm linh của con. Nhưng con cũng lợi lạc khi con nắm bắt là có hành tinh tự nhiên, và nhiều người tâm linh đã từ các hành tinh tự nhiên đó đến hành tinh phi tự nhiên này là trái đất.

Cho nên ngày nay có nhiều ích lợi hơn, nhiều giá trị hơn trong việc tìm hiểu cõi tâm linh, và đây là lý do các thày đang truyền giảng vào ngày hôm nay. Và tất nhiên, con sẽ thấy là ngày nay người ta cũng có cùng xu hướng y như 2500 năm về trước, khi có rất, rất nhiều người tìm cầu hiểu biết cao hơn nhưng lại dùng các loại giáo lý được diễn tả bằng ngôn từ để đạt được hiểu biết đó, xong họ phóng chiếu ra, họ diễn giải ra. Và tất nhiên, thời nay cũng có nhiều giáo lý được “truyền kênh” (channeled), thường thường từ cõi lý trí, cho nên chúng thường hấp dẫn tâm đường thẳng, tâm phân tích, tâm thuần trí năng.

Có những giáo lý tự xưng là vô cùng cao cấp, cao hơn cả giáo lý của chân sư thăng thiên, và có những người tin rằng sách này hay sách nọ là lời dạy tâm linh tối thượng – và chuyện này, tất nhiên, hoàn toàn phải lẽ thôi. Con người cần đến một số trải nghiệm trước khi họ có thể nâng cao khả năng phân biện của mình để thấy được sự khác biệt về rung động giữa một lời dạy đến từ cõi lý trí và một lời dạy đến từ cõi thăng thiên. Đây không phải là một điều tâm đường thẳng thấu suốt được. Nó chỉ biết nhìn vào chữ nghĩa, diễn giải chữ nghĩa, rồi suy ra một diễn giải nào đó để bảo rằng lời dạy này cao siêu hơn lời dạy kia.

31.7. Sự trống không của nhận biết thuần khiết

Trở về với “trống không”, đâu là giá trị thực sự của khái niệm này? À, trước tiên hết, khía cạnh alpha là không hề có một ngã trường cửu bất biến nào. Con là một cái ngã, một cái ta. Trong giáo lý ngày nay, các thày đã gọi đó là cái Ta Biết, tức là sự nhận biết thuần khiết. Nhưng một từ khác cho nhận biết thuần khiết có thể là sự trống không. Trống không ý niệm bản sắc, trống không những ý tưởng, trống không những cảm xúc ngụ trong – hay được sản xuất bởi – các thể hay các tâm bản sắc, lý trí, cảm xúc. Con có thể nói là đối với hầu hết mọi người, sự chú ý của họ tập trung vào cảm xúc, ý tưởng hay ý niệm bản sắc của họ. Họ tập trung vào nội dung của tâm thức – nếu có thể nói như vậy – cho nên sẽ có thể ích lợi nếu họ quán chiếu về mặt kia của đồng tiền, về khía cạnh alpha của tâm thức, tức là thay vì tập trung vào nội dung của tâm thức thì họ tập trung vào chính tâm thức. Và tâm thức thì trống không, hay có thể trống rỗng mọi nội dung. Và khi cái Ta Biết tự trải nghiệm chính nó như sự nhận biết thuần khiết, đây là một trạng thái trống không. Chỉ có nhận biết mà không có nội dung nào trong bình chứa của tâm thức.

31.8. Những tầng hiểu khác nhau về trống không

Tất nhiên con có thể đem nó lên một tầng cao hơn và thấy rằng khi con bước chân trên đường tu, vươn cao hơn tầng 48 và đến gần với tầng 96, thì con đang khắc phục các ngã tiềm thức, trong số này có nhiều ngã dựa trên tâm thức nhị nguyên. Con có thể nói là ở các tầng tâm thức thấp nhất được phép hiện diện trên trái đất, con người bị bao trùm, bị mù quáng, bị đồng hóa với tâm vị kỷ, tâm tách biệt. Khi con vươn đến tầng 96 và vượt cao hơn bốn thể phàm của con, bình chứa phàm ngã của con trở nên trống rỗng cái tâm vị kỷ đó. Cho nên đây là một hình thức khác của trống không, một tầng cấp khác của trống không, nhưng tất nhiên không có nghĩa là trong tâm con không có gì.

Con vẫn có một ý niệm bản sắc, vẫn có ý tưởng và cảm xúc. Con vẫn hành động, con hồi đáp lại thế giới, con tương tác với thế giới, con tương tác với Hiện diện TA LÀ của con, với các chân sư thăng thiên. Con không trống rỗng mọi thứ, mà con trống rỗng một số thứ nẩy sinh từ một mức tâm thức nào đó.

Con thấy là trống không có thể hiểu ở những cấp độ khác nhau. Không chỉ có một cách hiểu, một cách nắm bắt duy nhất. Nhưng tất nhiên con có thể đưa khái niệm này xa hơn nữa vì con có thể nói là khi con thăng thiên, nhìn từ nhãn quan cái Ta Biết, có vẻ như con bước vào hình thức tối thượng của trống không. Bởi vì giờ đây cái Ta Biết hoàn toàn nhập một với Hiện diện TA LÀ, nó trở thành chính Hiện diện TA LÀ, và không còn ngôn từ nào có thể mô tả tiến trình này trọn vẹn. Nhưng dẫu sao, con có thể nói là cái Ta Biết bây giờ đã trở nên trống rỗng cái ý niệm bản ngã mà nó đã có từ khi nó được Hiện diện TA LÀ gửi vào hiện thân. Nhưng tất nhiên, điều này vẫn không có nghĩa là không có gì, mà giờ đây có sự nhận biết viên mãn của Hiện diện TA LÀ. Như các chân sư khác có giải thích, con có khả năng lại gần một điểm trong quả vị Ki-tô nơi con ngày càng trở thành một, càng hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Nhưng cái Ta Biết không thể hoàn toàn hợp nhất với Hiện diện TA LÀ cho đến khi con thăng thiên.

31.9. Khái niệm trống rỗng (void) và vô ngã

Để nắm bắt trọn vẹn sự trống không, con cũng cần nắm bắt là khái niệm này có thể bị tha hóa, lạm dụng như thế nào. Và đây là điều đã xảy ra trong một số hình thức xưa hơn của đạo Phật cũng như trong các giáo lý tâm linh hiện đại, thậm chí cả một số truyền thống khác như Advaita Vedanta cùng một số đạo sư hiện đại. Họ nắm lấy khái niệm trống không đó phối hợp với lời dạy của thày rằng nó không có Ngã, rồi họ đã diễn giải theo nghĩa rằng trạng thái phát triển tâm linh tối hậu là trạng thái “vô ngã”, là sự trống không tối hậu. Nhưng tất nhiên đây là một cách diễn giải sai lạc.

Như Lanto vừa giải thích, quả thực một sinh thể đang đầu thai trên địa cầu có thể trải nghiệm một trạng thái có vẻ trống rỗng mọi hình tướng, trống rỗng mọi biểu hiện, trống rỗng mọi ý niệm bản ngã. Nhưng đó không phải là vì có một trạng thái trống không tối hậu nào đó được quy định bởi một sinh thể cao cả nào đó hay bởi Thượng đế. Các thày đã có dạy rằng ở thuở ban đầu có Đấng Sáng tạo, và Đấng Sáng tạo quyết định sáng tạo. Trước hết ngài vẽ một lằn ranh chung quanh chính ngài trong cõi Tất Cả. Ngài rút mọi thứ bên trong lằn ranh đó và tạo ra khoảng trống (void).

Tất nhiên, khoảng trống này có thể được quan niệm như là trạng thái trống không tối hậu. Nhưng con là người đồng sáng tạo, con không thể trải nghiệm khoảng trống đó. Có thể nói là ngay cả Đấng Sáng tạo cũng không trải nghiệm khoảng trống. Tại sao? Trải nghiệm là gì chứ? Trải nghiệm là một cái gì có hình tướng. Nếu không có hình tướng thì làm sao có trải nghiệm? Trong khoảng trống không có hình tướng. Vậy làm sao con trải nghiệm được khoảng trống? Khi người ta trải nghiệm điều mà họ tuyên bố là thực tại cao nhất, là nhận biết thuần khiết, là trạng thái nhận biết tối hậu, thì cái đó là gì chứ? Họ đã trải nghiệm gì chứ? Họ đã không trải nghiệm một sự trống rỗng. Họ trải nghiệm một trạng thái đã được các sinh thể trong tâm thức nhị nguyên tạo ra.

Như Lanto giải thích, sa nhân đã lấy một cách tiếp cận là tìm cách nâng ngã tách biệt lên một địa vị tối thượng, và một cách tiếp cận khác là việc phủ nhận sự hiện hữu của mọi cái ta. Và như vậy chúng đã tạo ra trong tâm thức tập thể một con quái vật, một khuôn đúc, một cái ngã có vẻ như trống rỗng. Nhưng như Lanto có giảng, nếu con bảo: “Tôi không có ngã,” hay “tôi đã trải nghiệm vô ngã,” hay “tôi đã trải nghiệm sự trống không”, thì ở đó vẫn có một cái “tôi”, cho nên không có trạng thái vô ngã.

Vậy thì “vô ngã” là gì? Đó là sự phóng chiếu của một hình ảnh. Cũng giống như vậy, đã có một sự phóng chiếu của một hình ảnh về cái không-có-gì, về sự trống không, và mặc dù một số người tuyên bố là mình đã trải nghiệm trống không, nhưng họ đã trải nghiệm hình ảnh của trống không. Nhưng cái này không phải là trống không, bởi vì nó chứa đầy hình ảnh, và hình ảnh thì có một hình tướng mà một sinh thể trên trái đất có thể trải nghiệm. Cho nên đó không phải là trống không.

Khi người ta có một trải nghiệm – và thày không bác bỏ là họ có một trải nghiệm, thày chỉ bác bỏ đó là một trải nghiệm tối hậu của sự trống không – nhưng khi người ta có một trải nghiệm rồi trở về mức nhận biết bình thường của mình, và họ bắt đầu sử dụng ngôn từ để bày tỏ trải nghiệm này, thì họ chỉ đang xây đắp cho tâm ảnh đó, củng cố thêm và có lẽ diễn giải tâm ảnh đó, thế là giờ đây họ sử dụng nó để phóng chiếu ra là họ đã có một trải nghiệm tối hậu. Và điều này có nghĩa gì? À, nếu có ai đó tự cho mình là một vị thày tâm linh và giảng dạy về một trải nghiệm trống không hay “vô ngã” tối hậu, thì các môn đồ của vị đạo sư này sẽ làm gì? Họ sẽ phóng chiếu ra là nhất định vị ấy phải chứng được tâm thức tối thượng vì vị ấy đã có trải nghiệm tối hậu về trống không. Nhưng làm sao trống không có thể là trạng thái tâm thức tối thượng được? Làm sao trống không có thể là thực tại tối hậu được?

31.10. Trống không là một khái niệm rỗng tuếch

Tại sao con hiện hữu? Tại sao thế gian hiện hữu? Tại sao lại có một thế giới có khả năng cung cấp trải nghiệm cho con? Tại sao, như nhiều nhà khoa học hiện đại đang hỏi, lại có một cái gì đó thay vì không-có-gì? À, bởi vì luôn luôn đã có một cái gì. Chưa bao giờ mà không có gì hết. Nếu chưa bao giờ có gì thì bây giờ cũng sẽ không có gì, và nếu vậy thì cũng không có con đang ngồi đây mà đặt câu hỏi. Chính sự kiện con hiện hữu cho thấy là không có cái không-có-gì. Có một sự sinh tạo những sinh thể tự nhận biết, và luôn luôn đã có một sự sáng tạo nào đó. Có một mục đích, có một đường hướng trong sự sáng tạo đó, và đường hướng này là tăng triển đến những tầng tâm thức ngày càng cao hơn. Và con không tăng triển đến những tầng tâm thức ngày càng cao hơn qua cái không-có-gì. Cái không-có-gì không thể trở nên ngày càng cao hơn. Cái không-có-gì không thể là tối thượng. Thật ra không thể có gì tối thượng được, bởi vì luôn luôn có thể có những tầng tâm thức cao hơn.

Một lần nữa, tâm đường thẳng sẽ hốt hoảng khi nghe những ý tưởng này. Nhưng trong trực giác, con có thể nắm bắt mục đích của sự sống là sự tăng triển tâm thức. Và ở đây trên trái đất, con có khả năng tăng triển để trở thành một chân sư thăng thiên, tức là cao hơn rất nhiều những gì con người đang có trên trái đất. Nhưng một chân sư thăng thiên có thể tăng triển để đạt tới tâm thức của Đấng Sáng tạo, và Đấng Sáng tạo thì có thể tăng triển đến những tầm mức cao hơn nữa. Nhưng này con, khi con bàn đến các tầm mức vượt khỏi tâm thức Đấng Sáng tạo thì ngôn từ thật vô nghĩa. Con không thể thấu suốt được khi con chưa thăng thiên. Ngay cả khi con thăng thiên rồi, con cũng không thể thấu suốt mà con chỉ có thể hé thấy.

Cho nên sự trống không rỗng tuếch mọi ý nghĩa. Đó là một khái niệm vô nghĩa. Nó không có chỗ đứng trong một giáo lý tâm linh chân truyền. Những ai giảng dạy nó, tuyên bố nó là một trạng thái tối hậu nào đó, không phải là thày tâm linh đích thực. Họ không thẳng hàng với các chân sư thăng thiên. Đơn giản là họ đã gạt qua bên cõi thăng thiên, gạt qua bên cõi tâm linh, gạt qua bên tất cả các sinh thể ở giữa con người trên địa cầu và Đấng Sáng tạo. Thậm chí họ gạt cả Đấng Sáng tạo qua bên nếu họ dạy rằng sự nhận biết vô biên, hay nhận biết thuần khiết, hay Brahman, là một loại khái niệm không có bất kỳ hình tướng nào. Và do đó họ không giảng dạy một giáo lý chính đáng.

31.11. Động lực tích cực đến từ ý muốn tự thăng vượt

Họ không giảng dạy một giáo lý có thể cho con một lẽ sống hay một mục đích, và đó là tại sao nhiều người như vậy không tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống, giống như nhiều tín đồ Ấn giáo vào thời của Phật cũng không tìm được ý nghĩa nào trong cuộc sống.

Bởi vì Ấn giáo giảng dạy về những chu kỳ vũ trụ gần như bất tận kéo dài hàng tỷ năm trời, cho nên tác động trên quần chúng vào thời đó cũng như thời nay cho họ cảm tưởng là họ đã đi ra từ cái không-có-gì, xong họ sống qua một số kiếp đầu thai gần như vô lượng nơi họ phải chịu khổ đau trong mỗi kiếp, để cuối cùng phần thưởng cho tất cả sự phấn đấu, tất cả công sức, tất cả khổ đau đó là họ quay trở về cái không-có-gì và biến mất – thật sự, một loại phần thưởng khiến người ta muốn cố gắng hết sức để đạt tới cái không-có-gì, không phải vậy sao?

Điều này cũng phần nào tương tự như nhiều người đạo Cơ đốc mang động lực chủ yếu muốn lên thiên đàng chỉ vì họ muốn tránh không rơi xuống địa ngục. Con thử nhìn xem có bao nhiêu người Cơ đốc giáo có tầm hiểu nào đó về thiên đàng, về những gì họ có thể làm ở thiên đàng, nhưng họ lại hiểu rõ địa ngục là gì cho nên đây là cái họ muốn né tránh. Chúng ta có thể gọi đó là một loại động lực tiêu cực. Và quan niệm về cái không-có-gì, quan niệm về một chu kỳ đầu thai bất tận sẽ dẫn con trở về cái không-có-gì, cùng lắm cũng chỉ là một động lực tiêu cực hay không là động lực gì hết.

Những gì các thày trao cho con ngày nay – các thày hy vọng như vậy – là một động lực khích lệ hơn, qua đó con được sinh tạo như một người đồng sáng tạo, con có tiềm năng thăng vượt ý niệm bản ngã của con, và con vươn đến những tầng cấp cao hơn và cao hơn nữa nơi con tìm được ý nghĩa sâu sắc hơn trong việc biểu đạt bản thân như một người đồng sáng tạo, không chỉ cùng với Đấng Sáng tạo mà cùng với tất cả mọi sinh thể đồng sáng tạo khác. Thậm chí chúng ta có thể nói là ngay cả trong số các sa nhân đã rơi vào nhị nguyên, thì một số dường như cũng có một động lực. Giấc mơ của chúng là hoàn thiện ngã tách biệt để chứng tỏ là Thượng đế sai lầm và chúng sẽ được phép bước vào cõi tâm linh và trở thành bất tử, hay được giao phó việc cai trị bầu cõi chưa thăng thiên này. Con có thể nói là chúng có động lực, nhưng không phải loại động lực mà con có khi con neo mình vào việc đồng sáng tạo và tự thăng vượt. Bởi vì việc xây đắp cho ngã tách biệt ngày càng tinh xảo hơn không phải là tự thăng vượt. Đây là điểm mà nhiều người không nắm bắt, tâm đường thẳng không nắm bắt, và chắc chắn sa nhân cũng không nắm bắt.

Có một cách để minh họa sự thể này là bảo rằng con có thể quyết định, một nhóm người có thể quyết định xây cất một toà nhà vô cùng tinh xảo, và giống như trong truyền thuyết Tháp Babel, họ quyết định là tòa nhà này sẽ vươn lên cao vút, cao đến tận trời. Họ vẽ đồ án, họ thu thập vật liệu và họ bắt đầu xây tháp, họ xây cao hơn, cao hơn và cao hơn nữa. Họ bỏ ra công sức khổng lồ cho cái tháp này, nhưng chuyện gì cuối cùng sẽ xảy ra? À, có một lực gọi là trọng lực, và sẽ đến một điểm khi bất kỳ cấu trúc nào trên trái đất sẽ đạt tới độ cao tối đa trước khi nó sụp đổ dưới sức nặng của chính nó. Cho dù con có xây nền móng vững chắc đến đâu bên dưới, nhưng khi con ngày càng chồng thêm sức nặng bên trên thì sẽ tới một điểm nền móng không thể chịu nổi trọng lượng ở trên được nữa, và tháp bắt đầu vỡ vụn. Thình lình toàn bộ cấu trúc bắt đầu rung chuyển, lắc lư bên này sang bên kia rồi tất cả đổ ập xuống.

Đây là điều sa nhân đang cố làm. Chúng cố dùng vũ lực để xông lên thiên đàng bằng cách xây dựng một tháp Babel từ vật liệu của ngã tách biệt. Tự thăng vượt là gì chứ? Là làm hoàn toàn khác. Để minh họa một cách thô thiển, con hãy mường tượng là con quyết định chế tạo một chiếc hỏa tiễn có khả năng đưa con lên thiên đàng thay vì xây một toà nhà cao đến chín tầng mây. Việc này, khoa học đã chứng minh là khả dĩ. Nhưng tất nhiên, một cách minh họa tinh tế hơn nữa là bảo rằng con sẽ thăng vượt toàn bộ tầng tâm thức nhị nguyên, là tầng tâm thức không những tùy thuộc vào trọng lực mà cả định luật thứ nhì của nhiệt động học. Con không cần sử dụng sức mạnh để đi lên thiên đàng, mà con tự giải thoát khỏi nhu cầu sử dụng sức mạnh, cho nên con vươn lên các tầng cao hơn một cách tự nhiên.

Bởi vì nói cho cùng, thiên đàng là gì? Thiên đàng có phải là một địa điểm vật lý ở cao trên mặt đất mấy kilomét như người ta vẫn nghĩ vào thời Trung cổ bên Âu châu? Hay là như các thày đã giảng, đó là một chiều kích khác, một tầng cấp tâm thức khác? Cho nên thật ra cách duy nhất để lên thiên đàng là thăng vượt tầng tâm thức hiện thời của con, có nghĩa là thay vì tìm cách hoàn thiện cái ngã, con thăng vượt ngã. Và tại sao đây là cách duy nhất? Bởi vì có một cái Ta ở cõi tâm linh, và con đã đi ra từ cái Ta này, đã đi xuống thế giới vật chất bằng cách khoác vào một số ngã khiến con xa rời trạng thái nguyên thủy của con, đã đưa con xuống thấp hơn và khiến con tưởng mình là kém hơn những gì mình thực là. Bằng cách rũ bỏ những ngã này đã kéo con ra khỏi trạng thái thăng thiên, con sẽ trở về đó một cách tự nhiên. Bây giờ một số các con có thể phản bác với tâm đường thẳng: “Nhưng Gautama, chẳng phải là hồi nãy thày bảo là trên cõi cao không có Ngã hay sao?” Ủa, thày đã nói vậy sao?

31.12. Cái Ta không ngừng tự thăng vượt

Các nhà Bà la môn bảo là có một Đại ngã, một ngã trường cửu bất biến ở cõi cao. Còn thày thì nói là không có Ngã trường cửu bất biến. Thày không nói là không có Ngã. Có một cái Ngã, và đó chính là cái Ta không ngừng tự thăng vượt chính nó, nói cho cùng là Đấng Sáng tạo đang tự thăng vượt bằng cách sáng tạo. Rồi sau đó là tất cả các tầng cấp sinh thể thăng thiên trong các bầu cõi trước đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra những phần nối dài của mình – những sinh thể đồng sáng tạo mới – xuống tận đến dưới này là các chân sư thăng thiên đang làm việc với bầu cõi chưa thăng thiên của con và cũng đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra Hiện diện TA LÀ của con. Và Hiện diện TA LÀ đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra cái Ta Biết. Và cái Ta Biết đã đi xuống thế giới hình tướng xa nhất mà nó có thể trong hiện tại. Và một khi tiến trình này – là tiến trình của tâm Đấng Sáng tạo tự nối dài vào thế giới hình tướng – đã đi xa hết mức trong bầu cõi hiện thời, thì bước tự nhiên lúc đó sẽ là gì?

Là khởi sự hành trình quay về ngược trở lên, và đây chính là chức năng, mục đích của cái Ta Biết, là tiến trình thăng thiên. Và khi con hoàn tất tiến trình thăng thiên này, con không bước vào cái không-có-gì mà con vẫn tiếp tục đi lên – một hành trình dẫn con trở về đến tận cao chót là tâm thức của Đấng Sáng tạo. Những gì con làm sau đó tùy vào những chọn lựa mà con sẽ lấy ở mức đó, và nói thật ở mức hiện tại của con, con không cần lo lắng về chuyện này. Điều con cần quan tâm là làm thế nào hoàn tất tiến trình thăng thiên để con có thể thăng khỏi trái đất, khỏi hành tinh chưa thăng thiên này. Và một khi con thăng thiên thì con sẽ quyết định con muốn làm gì từ điểm đó.

31.13. Kết nối với chân sư thăng thiên qua giáo lý

Cho nên một lần nữa, các thày đã trao cho con nhiều hơn những gì hầu hết các con có thể tiếp nhận trong một buổi – chén của con đã đầy và đang tràn ra ngoài. Nhưng các thày không chỉ cố cho con một điều gì con có thể nắm bắt ở mức nhận biết hiện tại của con. Các thày cũng cố cho con một điều gì mà con có thể đọc lại và nghiên cứu hết lần này sau lần nọ, để khi con nắm lấy một điểm giáo lý đánh động tâm con ở mức hiện thời của con và con thể nhập nó, thì con vươn lên mức kế tiếp, rồi con có thể học lại giáo lý một lần nữa, tìm ra một điểm mới mà con đã bỏ sót lần đầu nhưng bây giờ mới hấp dẫn con, con lại thể nhập và vươn lên mức cao hơn. Và đây chính là cách con tiến bộ trên đường tu.

Những ai cho rằng mình chỉ cần đọc hay nghe bài truyền đọc một lần mà thấu suốt được mọi điều có thể lãnh hội, thì họ đã bỏ lỡ sự kiện là một lời dạy luôn luôn được trao truyền cho nhiều tầng cấp khác nhau. Cho nên con không bao giờ thực sự học xong một lời dạy tâm linh vì nếu con cởi mở, lời dạy tâm linh sẽ làm gì? Nếu con quay trở lại 20 năm nữa và đọc lại bài truyền đọc mà con vừa nghe hay vừa đọc hôm nay, thì con có tiềm năng làm gì? Con có thể nói: “Ồ, tôi đã hiểu bài này cặn kẽ bằng tâm trí thức, vỏ ngoài của tôi rồi.” Nhưng mục đích thực sự của lời dạy là gì chứ? Là kết nối con với vị chân sư thăng thiên đã trao truyền lời dạy đó.

Trong 20 năm nữa thày vẫn sẽ còn đây. Trong 20 năm nữa thày sẽ đã tự thăng vượt cũng như thày tin là con cũng sẽ tự thăng vượt. Và điều này có nghĩa là khi con đọc lại bài truyền đọc này trong 20 năm nữa và hòa điệu với Hiện diện của thày, thày có thể cho con những điều không nằm trong lời dạy thành văn mà vượt khỏi lời dạy thành văn. Và thật sự điều này sẽ tùy con có sẵn lòng đến chừng nào để kết nối và nhận được gì từ thày. Có thể sẽ không phải là ngôn từ. Có lẽ con đã vươn tới mức con với thày có thể hòa nhập theo một cách vượt khỏi ngôn từ. Nhưng giáo lý vỏ ngoài vẫn có thể giúp con hòa điệu tâm con với tâm thày để hai tâm gặp gỡ, và thày cam đoan với con sự gặp gỡ này không phải là trống không, mặc dù nó có thể trống rỗng cái tâm của tự ngã, trống rỗng tâm đường thẳng cùng tất cả những khái niệm và tư tưởng kia đang bay phất phơ quanh địa cầu. Cho nên có thể con sẽ không có khả năng diễn tả sự hòa điệu này bằng lời, nhưng thày cam đoan với con đó không phải là trống không. Bởi vì như thày đã cố giải thích, trống không là một khái niệm rỗng tuếch.      

Với lời này, thật là một niềm vui rất lớn cho thày được niêm hội nghị này, khoá tu này, buổi gặp gỡ này, và một lần nữa thày bày tỏ lòng biết ơn của tất cả các thày đã tham dự. Và kỳ thực ngoài các thày đã ban bài truyền đọc, còn có nhiều chân sư thăng thiên khác cũng đã tham gia. Cho nên tất cả các thày đều hy vọng là mặc dù vị chân sư gần gũi nhất với con đã không giảng dạy, hội nghị này vẫn đã giúp con hòa điệu với vị thày gần nhất với tim con. Vì nói cho cùng, tất cả các thày đều là một, cho nên con có thể dùng bài truyền đọc của bất kỳ chân sư nào để hoà điệu với bất kỳ chân sư nào khác.

Và như vậy, một lời cảm tạ thật lớn của các thày cho các con đã hiện diện ở đây trong cõi vật lý và đã sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện của các thày.

Không ngã nào có thể đem con vào trạng thái thăng thiên

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 10/4/2023, nhân Webinar Phuc sinh 2023 – Đem đạo Cơ đốc và chính con xuống khỏi thập tự giá.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Phật có liên quan gì đến thập tự giá và việc đem một ai đó xuống khỏi thập tự giá? À, con không thật tin rằng trước khi Giê-su xuất hiện trên trái đất thì con người đã bị đóng đinh trong tâm họ rồi sao? Các biểu tượng mà các thày đã giải thích trong hội nghị này về ý nghĩa sâu xa hơn của thập tự giá tất nhiên cũng áp dụng cho Giê-su. Các biểu tượng này đã áp dụng kể từ khi con người trên địa cầu bước vào nhị nguyên.

Gautama bước xuống từ thập tự giá

Khi thuở đó ta chuẩn bị sứ vụ của ta trong tư cách là Phật, sứ vụ giáo huấn của ta, nhiều lần ta đã phải gỡ mình xuống khỏi thập tự giá. Ta đã lớn lên trong một môi trường vô cùng bảo bọc nơi cung điện. Ta đã sống trong một số điều kiện vỏ ngoài thật đặc thù, không bao giờ gặp người nào bệnh tật, và ta được hưởng mọi giàu sang cùng thú vui vật chất mà ta có thể mong muốn. Ta đã bị đóng đinh bởi lối sống rất trần tục, thoải mái, sung sướng đó. Ta đã phải gỡ mình xuống khỏi thập tự giá mấy lần trước khi ta thực sự sẵn sàng rời bỏ cung điện này, đi vào rừng để sống như một người khổ hạnh, thiền định, nhịn đói cho đến gần chết. Và khi ta ngồi đó thiền định, tất nhiên là ta xem xét tâm mình và khắc phục được một số ảo tưởng, có nghĩa là một lần nữa ta lại đem mình xuống khỏi một thập tự giá khác, vì như ta đã giải thích, con có thể nói là với mỗi tầng tâm thức trong số 144 tầng, có một ảo tưởng khiến con bị trói chặt vào thập tự giá.

Ta đã đạt tới mức có thể gỡ mình xuống khỏi một thập tự giá vĩ đại, một ảo tưởng vĩ đại, khi ta ngộ ra là lối sống khổ hạnh thật quá cực đoan và vì thế không phải là con đường tối thượng. Đó là khi ta chứng được Trung đạo, nhưng ngay cả khi đó, ta vẫn phải kinh qua một quá trình đã không được thực sự ghi lại trong kinh sách Phật giáo là ta phải hội đủ tư cách để có thể bắt đầu sứ vụ hoằng pháp, và một lần nữa ta lại gỡ mình xuống khỏi một loạt thập tự giá nữa. Nhưng rồi khi ta bắt đầu sứ vụ giảng dạy thì các Phật tử, đại đa số Phật tử, cứ muốn nghĩ là khi đó chắc chắn ta đã là một sinh thể toàn hảo. Nhiều Phật tử muốn nghĩ rằng ta còn toàn hảo ngay từ đầu cơ, nghĩa là ta đã không phải đi qua nguyên một tiến trình. Nhưng điều họ nghĩ thật không có căn cứ nếu họ nhìn kỹ câu chuyện cuộc đời của ta.

Ngay cả sau khi khởi sự giảng dạy, ta vẫn còn những ảo tưởng phải khắc phục, vì lý do giản dị là nếu ta đã vượt qua mọi ảo tưởng thì ta đã không thể cầm giữ một thân thể vật lý. Ta vẫn phải nhìn ra nhiều điều trong bản thân mình, vẫn phải khắc phục những cái ngã tách biệt, vẫn phải gỡ mình xuống khỏi những thập tự giá đó. Điều ta muốn nói giản dị ở đây là ta đã đi qua tiến trình bước xuống khỏi thập tự giá, và vì thế ta đủ tư cách để nói chuyện về đề tài này.

Đồng sáng tạo trong một trạng thái hợp nhất

Các thày có thể trình bày một cách nhìn nào khác về thập tự giá hay không? À như các thày khác có nói, có bốn tầng vật chất, bốn cánh hay bốn đầu trên thập tự giá, bốn điểm của thập tự giá, và vì vậy con bị đóng đinh trong vật chất. Nhưng vật chất là gì? Có thể nói vật chất là hình tướng. Con sống trong một thế giới hình tướng. Con sống trong một thế giới hình tướng không do cá nhân con tạo ra.

Các thày đã giải thích là khi con đi xuống hiện thân lần đầu tiên ở một cõi chưa thăng thiên, con là một người đồng sáng tạo. Con tự xem mình là một sinh thể nối kết, và con thấy mình đang ở trong một môi trường đã được tạo dựng bởi những sinh thể ở một tầng tâm thức cao hơn con. Con đang sử dụng sự nối kết của con để đồng sáng tạo và con cũng biết là con không đang sáng tạo qua uy lực của riêng minh. Cho nên trong hoàn cảnh này khi con chưa bước vào nhị nguyên, con không bị đóng đinh vào vật chất vì con biết con là nhiều hơn hình tướng. Thậm chí con là nhiều hơn cái ngã mà con đã khoác vào trong bầu cõi chưa thăng thiên này.

Ngay khi con đầu thai lần đầu, con đã có bốn thể phàm. Con có một bản sắc thể, một trí thể, một cảm thể và một cơ thể vật lý, và để bắt đầu đồng sáng tạo, con tạo ra một số cấu trúc trong những thể cảm xúc, lý trí và bản sắc đó. Điều này xảy ra khi từ mức Hiện diện TA LÀ của con, con bước xuống qua tầng 144, tầng 143, rồi xuống mãi đến tầng 48 trong bầu cõi của con. Theo một cách nào đó, con khoác vào tất cả những ảo tưởng này, nhưng vì con vẫn xem mình là một sinh thể nối kết cho nên con không bị đóng đinh trong tâm con, và nhờ thế khi con tạo ra một tình huống vật lý nào đó, con không đồng hóa với tạo vật của mình. Cho nên con không bị đồng hóa với tạo vật vật chất mà con đã tạo dựng và con không xem mình đồng nhất với xác thân vật lý của con.

Ảo tưởng vật chất là quan trọng

Chỉ khi con xuống dưới tầng 48 đó và bước vào cõi tách biệt thì con mới bị đóng đinh. Nhưng ta chẳng vừa nói là với mỗi tầng tâm thức, kể cả ở trên tầng 48, đều có một ảo tưởng mà con phải khắc phục và do đó, theo một nghĩa nào đó, con bị đóng đinh vào ảo tưởng này hay sao? Bây giờ có phải ta đang nói ngược lại? Không, vì ta không nói về cùng một hoàn cảnh. Khi con giáng thế lần đầu, con không đi xuống một hành tinh có nhị nguyên. Ngay cả các cư dân nguyên thủy của trái đất cũng đã đầu thai lần đầu khi chưa một ai trên trái đất đã bước vào nhị nguyên. Nhưng khi con đầu thai trên một hành tinh như trái đất nơi tâm thức bị thấm đẫm nhị nguyên, thì con mới có thể nói là con bị đóng đinh vào từng ảo tưởng, và chỉ khi nào con lên đến tầng 144 thì thực sự mới nói được là con đã khắc phục trọn vẹn cái cảm nhận rằng vật chất là quan trọng.

Con không chỉ bị vướng kẹt, hay bị đóng đinh, hay bị ám ảnh về mặt thể xác, cảm xúc hay lý trí, mà con mang cảm nhận các điều kiện vật chất là quan trọng. Không nhất thiết là con đồng hóa với chúng, vì khi con bắt đầu lên cao hơn tầng 96 thì con ngừng không đồng hóa với vật chất nữa nhưng con vẫn nghĩ là trên địa cầu có gì đó quan trọng, có gì đó mà con muốn thấy thay đổi, và trên một hành tinh dày đặc như trái đất thì con duy trì cảm nhận này cho tới chót. Như con thấy thày Giê-su treo thân trên cây thập tự mà vẫn còn chút mong muốn làm gì đó trên trái đất, mong muốn tiếp tục sứ vụ của mình, cho nên thày mới muốn Thượng đế đến cứu thày khỏi thập tự giá để thày có thể tiếp tục sứ vụ của mình. Thày vẫn còn cái cảm nhận là vật chất quan trọng, có gì đó quan trọng trong vật chất.

Mặc dù điều này không được ghi lại trong kinh sách, con cũng có thể nhìn vào sứ vụ giáo huấn của ta. Ta không còn đồng hóa với cơ thể, không còn đồng hóa với vật chất, nhưng ta vẫn còn cảm nhận là trong vật chất có điều gì quan trọng, và đó chính là tại sao ta đã ở lại địa cầu và đã giảng dạy. Ta cảm thấy ta có thể đem lại một cái gì khác biệt. Ta không bảo chuyện này là sai, mà ta chỉ muốn giải thích cho con hiểu là trên một hành tinh dày đặc như trái đất, chỉ khi nào con thăng thiên thì con mới thật sự khắc phục ảo tưởng cuối cùng khiến các điều kiện của thế giới vật chất có vẻ quan trọng.

Sự (không) sẵn lòng buông bỏ hình tướng con đã tạo dựng

Này con, khi con nhìn bức tranh tổng thể và nhìn xa hơn trái đất, con có thể nói là Đấng sáng tạo thế giới hình tướng của con đã tạo ra bầu cõi đầu tiên từ chính bản thể ngài, tạo ra các sinh thể tự nhận biết từ chính bản thể ngài, rồi gửi họ vào bầu cõi để hoạt động trong tư cách làm người đồng sáng tạo với mục đích họ sẽ dần dần tăng triển tâm thức. Bầu cõi thứ nhất thăng thiên, bầu cõi thứ nhì được tạo dựng, nó cũng thăng thiên. Rồi bầu cõi thứ ba rồi thứ tư, và mỗi bầu cõi sau dày đặc hơn bầu cõi trước một chút, cho tới một điểm ở bầu cõi thứ tư khi một số sinh thể từ chối không thăng thiên với bầu cõi của họ, cho nên họ bị rơi xuống, họ sa xuống bầu cõi thứ năm, vân vân. Điều có thể nói về ba bầu cõi đầu là những người đồng sáng tạo nâng bầu cõi họ thăng thiên đã không bao giờ trở nên đồng hóa với hình tướng, có nghĩa là gì? Có nghĩa là, chẳng hạn, cho dù nền văn hóa mà họ tạo dựng trên một hành tinh có tinh xảo tuyệt diệu đến chừng nào thì họ vẫn không bao giờ đồng hóa với hình tướng họ đã tạo dựng.

Chúng ta không chỉ đang nói tới chuyện đồng hóa với thân xác vật lý mà thôi, chúng ta nói đến những sinh thể đã sống trong bầu cõi này suốt một thời gian dài đằng đẵng, đã làm người đồng sáng tạo từ thuở họ mới khởi lên một ý niệm bản ngã vô cùng giới hạn và khả năng đồng sáng tạo cũng vô cùng giới hạn, nhưng lần hồi sau một thời gian rất dài họ đã khuếch trương khả năng đồng sáng tạo này đến mức họ có thể tạo dựng những hình tướng, những hành tinh, những nền văn hóa trên hành tinh vô cùng tinh xảo. Nhưng mặc dù các hình tướng này cực kỳ tinh xảo công phu, họ đã không bao giờ đồng hoá với chúng. Không bao giờ họ bị lạc lối trong hình tướng mà họ tạo ra.

Nhưng bây giờ đến bầu cõi thứ tư, cũng có một số sinh thể đã bỏ ra một thời gian rất dài để khuếch trương khả năng đồng sáng tạo của mình, nhưng khi đến lúc bầu cõi thăng thiên thì họ không sẵn lòng bỏ lại tạo vật của họ. Trong khi các sinh thể từng thăng thiên trong các bầu cõi trước đã đạt tới điểm sẵn lòng buông bỏ những hình tướng tinh xảo mà họ đã tạo ra, thì các sinh thể này ở bầu cõi thứ tư không sẵn sàng bỏ lại. Họ chiêm ngưỡng tạo vật của họ, họ mê say tạo vật của họ, và trong cái tâm đã tạo nên tất cả tạo vật tinh xảo đó, họ không sẵn lòng bỏ nó lại. Nói cách khác, họ đã trở nên đồng hóa với hình tướng họ tạo dựng.

Tất nhiên giáo lý mà các thày đã trao cho con về cái Ta Biết nói rằng cái Ta Biết không bao giờ có thể trở thành hình tướng do nó tạo ra. Nó có thể sáng tạo những hình tướng rất công phu khi nó khuếch trương khả năng đồng sáng tạo, nhưng nó không thể trở thành hình tướng. Tại sao vậy? Con đồng sáng tạo như thế nào chứ? Con đồng sáng tạo bằng cách tạo ra một cái ngã trong cõi bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý, và con đồng sáng tạo xuyên qua ngã này. Ở đây chúng ta không nói về một cái ngã tách biệt. Tuy con tự xem mình là một sinh thể kết nối nhưng con vẫn tạo ra một cái ngã, và điều tài tình ở đây là cái Ta Biết không thay đổi trong nguyên tiến trình nó đi qua. Nó không thay đổi! Chỉ có cái ngã là ngày càng trở nên tinh xảo hơn mà thôi.

Khi bầu cõi của con sẵn sàng thăng thiên, con phải buông bỏ ngã này. Con phải buông bỏ hồn ma. Và đây chính là điều các sinh thể sa ngã không muốn làm vì họ quá mê say với nó, họ quá đồng hóa với ngã do họ tạo ra, họ quá đồng hóa với hình tướng đến nỗi – theo cách diễn tả của Ki-tô hoàn vũ – họ không chịu để mất đời sống của họ vì ta. Họ không chịu đánh mất đời sống của họ để đi theo Ki-tô và bước vào một trạng thái cao hơn của sự sống là sự sống vĩnh hằng. Họ đã được phép kinh qua trải nghiệm mà họ muốn, nhưng hiển nhiên, họ không thể duy trì tạo vật của họ ở bầu cõi thứ tư, cho nên họ đã – cùng với ngã tách biệt mà họ đã tạo dựng – rơi xuống bầu cõi thứ năm. Và ở đây, họ đã có thể sử dụng cái ngã tinh xảo này để khởi sự tạo ra gì đó trong bầu cõi thứ năm, và tất nhiên tạo vật này tiến bộ hơn tất cả mọi thứ các dân cư mới trong bầu cõi này có thể đồng sáng tạo.

Tâm thức sa ngã ảnh hưởng giáo lý tâm linh như thế nào

Những điều trên liên quan thế nào với con là người đang hiện thân trong bầu cõi thứ bảy trên một hành tinh dày đặc chưa thăng thiên có tên là trái đất? À, đó là thế này: toàn bộ mục đích của thế giới hình tướng chỉ đơn giản là cung cấp một môi trường cho các sinh thể tự nhận biết đồng sáng tạo để họ có thể mở rộng khả năng đồng sáng tạo, mở rộng tâm thức của họ. Nhưng trong một bầu cõi chưa thăng thiên, sự mở rộng tâm thức này không xảy ra trong bốn thể phàm, nó cũng không xảy ra ở mức cái Ta Biết, mà nó xảy ra ở mức Hiện diện TA LÀ và căn thể. Và điều này nhằm mục đích là ngay cả nếu con chọn sa ngã, nếu con chọn bị lạc lối trong tạo vật của con, thì Hiện diện TA LÀ vẫn không thể bị đánh mất, và do đó các trải nghiệm của con như một người đồng sáng tạo không bao giờ bị đánh mất.

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là như một đệ tử bước chân trên con đường tâm linh, con đường quả vị Ki-tô, con đường quả vị Phật, con đường dẫn đến thăng thiên, con cần nhận ra là mọi khía cạnh của cuộc sống trên địa cầu đã bị tâm thức sa ngã chi phối, kể cả mọi khía cạnh của tôn giáo lẫn tâm linh. Bất kể lời cả quyết của bất kỳ tôn giáo nào, bất kỳ triết lý tâm linh hay tổ chức tâm linh nào, thì mọi giáo lý tâm linh đều đã bị ảnh hưởng bởi tâm thức sa ngã, theo nghĩa là nếu giáo lý không thích nghi với tâm thức sa ngã một cách nào đó, thì quần chúng sẽ không thể nắm bắt được giáo lý, bởi vì tâm thức sa ngã đã tràn lan quá đỗi, đã trở nên quá thuyết phục khắp địa cầu.

Ngay cả giáo lý của các chân sư thăng thiên cũng phải thích nghi với tâm thức sa ngã, vì nếu không, không ai sẽ có thể nắm bắt được. Đấy là vì sao các thày mới nói đến phương pháp bán hàng của các nhân viên bán xe cũ gọi là “dụ mua hàng hấp dẫn để hướng sang hàng cao cấp”, và các con cần dùng giáo lý này để bước lên một tầng cao hơn nơi con có thể nhận được những giáo lý không bị tâm thức sa ngã ảnh hưởng.

Một cách mà các tôn giáo, chẳng hạn, bị tâm thức sa ngã chi phối là quan niệm cho rằng con có một linh hồn do Thượng đế tạo ra có khả năng bước vào vương quốc thiên đàng. Nhưng như các thày đã giải thích, hồn chỉ vỏn vẹn là những cái ngã hay ngã tách biệt trong bốn thể phàm của con – và cuối cùng cũng gồm cả tự ngã – và tất cả những thứ này sẽ không bao giờ vào được thiên đàng. Hồn không thể hội đủ tư cách để thăng thiên. Chỉ có “người đã đi xuống từ thiên đàng mới có thể lên trở lại thiên đàng” – tức là cái Ta Biết. Đây là một lời dạy có thể làm xốn xang tuyệt đại đa số mọi người trên địa cầu nếu họ có thể thực sự nắm bắt được. Đây là một lời dạy gây xao động và nó đã bị một số đệ tử của các đợt truyền pháp trước bác bỏ. Nhưng lời dạy kia, ý tưởng kia, đến từ đâu? Đâu là gốc gác của ý tưởng cho rằng có một cái gì rõ ràng nằm trong cõi này, nằm trong một cơ thể vật lý nhưng là nhiều hơn một cơ thể vật lý, và cái đó có thể được hoàn thiện một cách nào đó, hay trở nên tinh xảo đến độ nó có thể đi lên thiên đàng hay bước vào cõi tâm linh? Ý tưởng đó đến từ đâu?

Hoàn thiện ngã hay buông bỏ ngã

À, nó đến từ sa nhân bởi vì giấc mơ của sa nhân, ít ra của một số sa nhân từ khi họ sa ngã, là họ có thể cứ tiếp tục xây đắp cái ngã mà họ đã tạo ra nơi bầu cõi khi họ sa ngã, và họ có thể cứ tiếp tục tô điểm cho nó ngày càng tinh xảo hơn cho đến một ngày kia Thượng đế sẽ phải cho nó vào thiên đàng – hay đúng hơn, các chân sư thăng thiên sẽ phải cho nó vào thiên đàng. Đây là giấc mơ cơ bản của ít nhất một số sinh thể sa ngã.

Một số sa nhân khác bị mắc kẹt trong giấc mơ muốn chứng minh là Thượng đế sai lầm, và một trong những cách này là chứng mình Thượng đế đã sai lầm khi ban quyền tự quyết cho mọi người. Nhưng nhiều sa nhân bị kẹt trong giấc mơ là họ có thể tạo ra một cái ngã tinh xảo đến mức nó sẽ nhận được sự sống vĩnh hằng. Nói cách khác, sa nhân sẽ có thể duy trì ngã đó thay vì bị rơi xuống các bầu cõi dày đặc hơn để cuối cùng phải đối mặt với cái chết thứ nhì, nghĩa là họ có thể tránh cái chết thứ nhì bằng cách trở nên tinh xảo đến độ ngã cũng hội đủ điều kiện thăng thiên. Và đây chính là điểm ẩn núp đằng sau tuyệt đại đa số các giáo lý tôn giáo lẫn tâm linh trên hành tinh, và cũng là một điểm rất khó giải thích cho mọi người khi chúng ta còn trong Thời đại Song ngư.

Đối với các đợt truyền pháp của chân sư thăng thiên khởi sự trong Thời đại Song ngư, thật khó giải thích điều đó cho mọi người. Đã có những sự gợi ý nhưng có rất ít người đã nắm được. Một số ít đã nắm được, và một số sẽ hiểu được. Nhưng trong Thời đại Bảo bình, có khả năng rất nhiều người hơn sẽ đạt tới mức nhận thức được. Những người này sẽ tới mức nhận ra là để thăng thiên, con cần phải để cho hồn ma cuối cùng chết đi. Con cần từ bỏ hồn ma cuối, cái yếu tố chót cùng này của ngã tách biệt vì nó sẽ không bao giờ hội đủ tư cách. Nó sẽ không bao giở đủ tư cách để được cứu rỗi, để bước vào thiên đàng, hay niết bàn hay thăng thiên. Cho dù con có gọi cái vượt khỏi bốn tầng vật chất đó là gì, thì cái ngã được tạo ra trong thế giới hình tướng không thể đủ tư cách. Nó không thể bước vào. Đây là chứng ngộ cơ yếu trước khi con hội đủ tư cách thăng thiên.

Điều này không có nghĩa là trước thời hiện đại chưa từng có ai thăng thiên. Tất nhiên là đã có Giê-su, có chính ta, có Mẹ Mary và nhiều người khác nữa. Họ đến từ nhiều truyền thống tôn giáo hay tâm linh, nhiều truyền thống thần bí khác nhau, và họ đã hội đủ tư cách thăng thiên. Nhưng tất cả đều đã làm được vậy bằng cách đạt đến nhận thức rằng đây không phải là chuyện hoàn thiện cái ngã của mình, mà là buông nó ra, thăng vượt nó, để cho nó chết, cho dù cách nhìn hay cách diễn tả của họ là gì. Tất cả đều đã đạt đến chứng ngộ này và điều này cũng đã được truyền dạy qua những lời dạy tôn giáo và tâm linh khác nhau. Con có thể tìm thấy một số dấu vết còn sót lại của lời dạy này. Ngay cả trong tôn giáo hay giáo lý đạo Phật, con cũng có thể tìm thấy nếu con cố tìm. Con có thể tìm thấy một số lời dạy về Biển Luân hồi là cùng một thứ với Niết bàn, và con tới mức ngộ ra là cả hai không có gì khác biệt. Có những lời dạy khác nữa mà rất it người đã nắm bắt được nhưng một số thì đã hiểu.    

Việc các thày đang làm hiện nay trong đợt truyền pháp này là giải thích rõ ràng hơn trước kia, để giúp mọi người dễ dàng nắm bắt hơn rồi khởi sự áp dụng. Hiển nhiên như con có thể nói, đây là sự thách đố cùng cực đối với sa nhân, cơn ác mộng tột độ đối với sa nhân, vì nó thách đố trực tiếp giấc mơ của họ về sự bất tử của ngã tách biệt, sự thường hằng của hình tướng, giấc mơ cho rằng một cái gì được tạo ra trong thế giới hình tướng có khả năng đạt đến thường hằng mà không đi qua tiến trình thăng thiên.

Mục đích của bầu cõi chưa thăng thiên

Và con cũng có thể hỏi giống như một số người đã tự hỏi suốt các thời đại: Tại sao mọi chuyện lại như vậy? Chúng ta có bầu cõi chưa thăng thiên để làm gì? Có hàng tỷ và hàng tỳ và hàng tỷ con người đồng sáng tạo, tất cả đều đang sáng tạo – hoặc một mình, hoặc cùng nhau khi họ nâng cao tâm thức – họ tạo ra những nền văn mình công phu tinh xảo đó trên những hành tinh tuyệt đẹp đó. Rồi sau biết bao thời gian dài đằng đẵng, tất cả những thứ đó họ sẽ phải buông bỏ, họ sẽ phải bỏ lại để chính họ có thể thăng thiên và toàn bầu cõi của họ cũng thăng thiên. Và trong tiến trình thăng thiên này, tất cả những thứ mà họ đã tạo ra sẽ tiêu tan, sẽ bị cuốn mất, sẽ bị xóa bỏ, cho dù con có muốn mô tả như thế nào. Đây là một tiến trình tịch diệt.

Tại sao lại như vậy? Tại sao không có chuyện là trên một số hành tinh, họ có thể tạo ra một cái gì tinh xảo đến độ nó có thể thăng thiên khi bầu cõi thăng thiên? À, các thày đã cho con lời giải thích rồi đó: Quyền tự quyết là cách mọi người tăng triển, mọi sinh thể tăng triển, và quyền tự quyết phải được phép trải bày ra, cho nên luôn luôn có khả năng là có người sẽ từ chối thăng vượt một điều gì đó, muốn bám giữ cái đó, và để tránh cho cái đó trở thành thường hằng thì bầu cõi phải thăng thiên. Nhưng con vẫn có thể nói: “Vâng, chúng con hiểu được là có những hành tinh có người không chịu buông bỏ và vì vậy sẽ sa ngã, thì các hành tinh này có thể bị phân hủy. Nhưng tại sao mọi hành tinh phải bị phân hủy?”

À, bởi vì để thực sự thăng thiên, con phải chứng tỏ sự không dính mắc vào hình tướng, không dính mắc vào cái ngã mà xuyên qua đó con đã tạo ra hình tướng. Và con chỉ làm được vậy bằng cách buông bỏ nó và tin tưởng rằng những trải nghiệm được thu hoạch trong nguyên hành trình của con qua bầu cõi chưa thăng thiên được bảo tồn trong Hiện diện TA LÀ và căn thể của con, và như vậy chúng không bị mất.

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là sau khi một bầu cõi thăng thiên, tất cả mọi trải nghiệm được thu thập trong căn thể của tất cả mọi sinh thể thăng thiên vẫn còn đó. Và sau khi bầu cõi thăng thiên, năng lượng được thanh lọc, có nghĩa là nó không còn dày đặc như ở bầu cõi chưa thăng thiên, và giờ đây việc sáng tạo trong bầu cõi thăng thiên sẽ dễ dàng hơn hẳn. Điều này có nghĩa là tất cả các Hiện diện TA Là đã trở thành chân sư thăng thiên giờ đây có sự chọn lựa. Họ sẽ sáng tạo những gì trong bầu cõi thăng thiên? Họ sẽ đồng sáng tạo những gì trong bầu cõi thăng thiên? Giờ đây họ hoàn toàn tự do quyết định những gì họ sẽ sáng tạo và như thế nào.

Nhưng con thấy không, trước điểm thăng thiên thì con mang cái ngã mà xuyên qua đó con đã sáng tạo một vật gì và nghĩ nó tốt đẹp, tinh xảo. Nhưng con vẫn mang ngã đó. Có nghĩa gì? Có nghĩa là mặc dù con đang khiến cho tạo vật ngày càng tinh xảo hơn, con vẫn làm vậy xuyên qua ngã, qua các thông số của ngã đó. Tạo vật do con đang đồng sáng tạo tùy thuộc và được quy định bởi tạo vật con đã đồng sáng tạo trước đó. Nhưng giờ đây khi con đã thăng thiên và bỏ lại ngã đó, con hoàn toàn tự do đồng sáng tạo bất cứ gì trong bầu cõi thăng thiên. Con có thể rất nhanh chóng tạo lại một cái gì tương tự như cái con đã tạo ra trong bầu cõi chưa thăng thiên nếu đây là điều con quyết định làm. Nhưng trên thực tế, tuyệt đại đa số các sinh thể thăng thiên sẽ muốn sáng tạo một cái gì khác hơn vì giờ đây họ có viễn quan rộng lớn hơn trước rất nhiều.

Tiến trình mở rộng ý niệm bản ngã

Con thấy đó, tất cả đều là một phần của nguyên tiến trình mở rộng ý niệm bản ngã khi một người đồng sáng tạo bắt đầu với một ý niệm bản ngã vô cùng giới hạn rồi lần hồi khuếch trương cho đến khi cuối cùng nó đạt được mức tâm thức trọn vẹn của Đấng Sáng tạo. Nhưng làm thế nào con khuếch trương ý niệm bản ngã? À, qua một tiến trình lần hồi mở rộng ngã, xong con trải qua một số xoay chuyển cách mạng trong ý niệm bản ngã – và một xoay chuyển cách mạng như vậy là khi bầu cõi nơi con đã khởi sự đồng sáng tạo thăng thiên.

Con cũng có những xoay chuyển khác. Lấy ví dụ con thăng thiên trong bầu cõi hiện thời. Trước tiên, con có thể mở rộng ý niệm bản ngã của con trong bầu cõi thứ bảy cho dù bầu cõi này chưa thăng thiên. Nhưng một khi con đã làm vậy – con đã mở rộng đến mức tối đa của con – thì con có thể thăng thiên lên bầu cõi thứ sáu. Rồi ở đó con lại mở rộng thêm nữa và con cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con đạt đến tâm thức của Đấng Sáng tạo. Mỗi bước thăng thiên lên bầu cõi kế tiếp như vậy là một cuộc xoay chuyển cách mạng, và cho dù con đã bước vào các bầu cõi thăng thiên, con vẫn phải từ bỏ ý niệm bản ngã mà con đã mang trong bầu cõi trước.

Đạo Phật là một triết lý thực tiễn

Như con thấy, đây là một tiến trình rất phức tạp. Và tại sao nó lại phức tạp đến vậy? Bởi vì tâm thức của Đấng Sáng tạo vượt khỏi một cách gần như vô hạn những gì con có thể nắm bắt trên địa cầu. Vậy tại sao ta lại đề cập đến chuyện này làm gì? À, con sẽ thấy là 2500 năm trước đây, ta đã có một cách tiếp cận khác hẳn cách tiếp cận mà các thày, các chân sư thăng thiên, đang có ngày nay. Vào thời đó hiển nhiên có nhiều tôn giáo, kể cả đạo Ấn, nói về thế giới thượng thiên cùng các cõi thánh thần và điều này điều nọ. Các giáo lý này đi ngược trở về kinh cổ Veda được ban truyền 10 ngàn năm về trước vào thời tâm thức loài người thấp hơn bây giờ – mặc dù ngày nay vẫn còn những người theo đạo Ấn nghĩ đó là giáo lý cao nhất có thể được ban ra trên địa cầu.

Vậy tình thế như thế nào vào thời ta hiện thân là Phật? Con có những người Bà-la-môn của Ấn giáo, họ hoàn toàn giống như lời mô tả mà Giê-su vừa đưa ra hồi nãy về các thày thông giáo và người Pha-ri-si của Do Thái giáo. Họ đã lấy những lời mà họ xem là chuẩn mực đích thực của kinh Veda, rồi họ đã diễn giải một cách trí thức và càng ngày càng xây dựng những cách diễn giải, những hình tư tưởng tinh xảo hơn mà họ cứ nghĩ là chân lý tuyệt đối.

Và những ai tin họ – các tín đồ Ấn giáo vào thời đó, những người dân bình thường, tuyệt đại đa số dân chúng – không thể thoát ra khỏi vòng ảnh hưởng của những người Bà-la-môn này. Họ không thể nhìn xuyên thấu để nhìn ra đó chỉ là hình tư tưởng, chỉ là ảo tưởng. Họ không có sự nhận biết, khả năng tri thức hay kiến thức về thế giới để nhìn xuyên thấu. Và đó là vì sao ta đã có một cách tiếp cận thật thực tiễn và ta nói: “Đạo Phật không phải là một tôn giáo như đạo Ấn. Đạo Phật không là một tôn giáo nhằm cung cấp kiến thức về các vị thần và cõi thần thánh, vì hầu hết mọi người không thể nắm bắt cõi thần thánh là gì, cho nên họ sẽ bị vướng kẹt trong các học thuyết và cách diễn giải vỏ ngoài đó. Thay vào đó, chúng ta hãy thiết lập một triết lý thực dụng nhằm đưa con người từ nơi họ đang đứng, nâng cao tâm thức của họ, ít nhất giúp họ khắc phục một số ảo tưởng của Maya. Rồi một khi họ đã nâng cao tâm thức thì họ sẽ có khả năng nắm bắt nhiều hơn. Họ sẽ phát triển khả năng trực giác và có thể biết được từ bên trong cái gì là thực, cái gì không thực.”    

Nói cách khác, điều ta đã tránh không làm trong kiếp đầu thai làm Phật là tạo ra một tôn giáo khác nữa tự xưng là cao trội hơn tôn giáo của người Bà-la-môn, vì điều này sẽ khóa chặt ta vào một cuộc chiến với người Bà-la-môn và họ sẽ tấn công ta và hành xử với ta y như họ đã cố hành xử với Giê-su. Đây là một lượng định dựa theo các chân sư thăng thiên đang hướng dẫn địa cầu vào thời đó, nhận định rằng đây là điều con người sẵn sàng làm được, ít ra ở vùng này của thế giới.

Thêm tiết lộ tuần tự

Điều xảy ra trong vòng 500 năm giữa thời của Phật và thời của Giê-su là tâm thức tập thể đã có tiến bộ. Và sự tiến bộ này phần lớn là do nhiều người đã đón nhận đạo Phật, đã chân thành nỗ lực cải hóa tâm thái của mình, nỗ lực khắc phục các ảo tưởng của Maya bằng cách bước chân trên Bát chánh đạo, là con đường ta vừa giải thích trong một bài trước nhằm giúp đỡ con người vượt qua các ảo tưởng. Đến thời của Giê-su, các chân sư thăng thiên đã xác định là các thày có thể dùng một cách tiếp cận khác xuyên qua Giê-su. Giê-su sẽ giảng dạy về Thượng đế, về cõi tâm linh và tiến trình thăng thiên, vì giờ đây đã có nhiều người hơn sẵn sàng chấp nhận tiềm năng thăng thiên một cách ý thức.

Tất nhiên các thày cũng biết là có những hạn chế do tâm thức tập thể dựng lên. Quả là có một tiềm năng rất thực tế là đạo Cơ đốc có thể trở thành cái mà nó đã trở thành sau này, một tôn giáo do sa nhân kiểm soát. Nhưng dẫu sao, đó là một cách tiếp cận mới mẻ khi Giê-su trình bày công khai về đấng Cha, nhưng như con thấy, tương đối Giê-su cũng đã đưa ra ít chi tiết về cõi tâm linh và mọi thứ ở đó. Kỳ thực, Giê-su đã nói về cõi tâm linh ít hơn là kinh Cựu ước, ít hơn rất nhiều những người Bà-la-môn của Ấn giáo. Theo một nghĩa nào đó, Giê-su cũng đã lấy một cách tiếp cận thực dụng.

Rồi những gì xảy ra kể từ thời Giê-su đến nay là, tất nhiên và trên hết do thành quả của lời dạy của Giê-su lẫn của Phật, tâm thức tập thể đã được nâng lên cao hơn. Nhưng rồi sau đó Saint Germain lại quyết định ban truyền phương pháp khoa học, và điều này lại nâng tâm thức lên cao hơn nữa. Nó khiến cho thế giới quan của con người được mở lớn. Nó cho con người một tầm hiểu biết về một số khái niệm tổng quát mà bây giờ các thày đã sử dụng trong khoảng thế kỷ vừa qua để ban truyền thêm nhiều tiết lộ tuần tự qua trung gian một số tổ chức và vị sứ giả khác nhau.

Bây giờ chúng ta đang ở một điểm khi các thày lại cảm thấy tự do hơn giảng dạy về các điều kiện trong cõi tâm linh, nhưng các con sẽ thấy là trọng điểm của các thày vẫn tập trung vào việc cho con thấy làm thế nào con có thể thăng vượt tâm thức của mình. Theo một nghĩa nào đó, các thày đang làm cùng công việc mà các thày đã làm qua tôn giáo hay triết lý của Phật, là trình bày cho mọi người cách nâng cao tâm thức hầu họ có thể biết được từ bên trong cái gì là thực và cái gì không thực, hầu họ không cần lệ thuộc vào một thẩm quyền bên ngoài, thậm chí một giáo lý vỏ ngoài của chân sư thăng thiên, mà ngược lại họ biết được từ bên trong nội tâm. Và tất nhiên, đây là cách duy nhất con có thể tự giải thoát khỏi các ảo tưởng của Maya, các lời dối trá của sa nhân.

Đọc rung động là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá

Nhiều người trong số những Bà-la-môn Ấn giáo kia là sa nhân. Họ có một khả năng đặc biệt làm rối trí và gần như thôi miên những ai chưa thiết lập được mối liên lạc nội tâm với tâm Ki-tô. Nhưng khi con bắt đầu nối được mối liên lạc nội tâm này, con sẽ có thể nhìn xuyên thấu các ảo ảnh của sa nhân. Con có thể làm điều này phần nào qua tâm vỏ ngoài khi con đánh giá là họ không nhất quán, họ không hợp lý, họ không tương hợp với những giáo lý khác mà con xem là đáng tin cậy. Nhưng nói cho cùng, con sẽ bắt đầu làm được điều này giản dị bằng cách đọc sự rung động. Con có thể đạt tới điểm đọc được rung động, con đọc một lời dạy nào đó và chỉ trong vòng một vài câu, con cảm nhận được là rung động không đến từ tâm Ki-tô. Và tất nhiên, đây chính là điểm mà các thày đã cố đưa tất cả các con đến, qua các lời dạy và các dụng cụ về việc khắc phục các ngã, vì chính những cái ngã này ngăn cản con thiết lập sự nối kết với tâm Ki-tô, ngăn cản con sử dụng tâm Ki-tô làm khung tham chiếu để đọc được rung động của bất cứ gì trong thế giới hình tướng.

Theo một nghĩa nào đó, đây là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá: con đọc rung động. Con có thể gọi đó là nhận thức ngoại cảm, là khả năng thấu thị – con muốn gọi là gì cũng được – nhưng khả năng này không gắn liền với giác quan vật lý. Nói cách khác, nhiều người tâm linh mơ ước có thể nhìn thấy hào quang bằng cách mở con mắt thứ ba, nhưng đây vẫn chỉ là sự nối dài của nhãn quan. Nhưng đọc được rung động thì vượt khỏi năm giác quan. Con có thể gọi là giác quan thứ sáu hay thứ bảy hay bất kỳ tên gọi nào khác, nhưng đó là khả năng đọc rung động.

Tại sao người ta có thể đọc được rung động? À, ta đã nói gì cách đây 2500 năm? Tất cả mọi thứ đều là Phật tánh. Điều gì đã được nói về tâm thức Ki-tô? Đó là Ngôi Lời, là Logos, là Đứa con Một, và nếu không có Lời thì không có tạo vật nào được tạo thành. Tất cả trong thế giới hình tướng đều khởi lên từ tâm thức Ki-tô, từ Phật tánh, bất kể tên gọi là gì, và tất cả đều có một rung động nào đó. Tâm thức Ki-tô, Phật tánh, không bao giờ xuống dưới một độ rung nào đó trong dạng thuần khiết của nó khi nó nối kết. Nhưng vì quyền tự quyết phải được phép trải bày, cho nên con có thể hạ thấp độ rung của năng lượng hầu tạo ra ảo tưởng tách biệt cùng ảo tưởng con tách rời khỏi nguồn cội của con. Như các thày có nói, ngay cả độ rung của vật chất trên trái đất đã bị hạ thấp dưới mức ban đầu, và đó là tại sao đã có vẻ hợp lý là con sống trong một thế giới tách biệt, và ngay cả nếu có Thượng đế thì Thượng đế này sẽ có vẻ ở tuốt trên kia nơi thiên đàng.

Phật tánh và các ảo tưởng của Maya

Có một sự khác biệt rõ rệt về rung động giữa những gì là tâm thức thuần khiết của Ki-tô, Phật tánh thuần khiết, và những gì tuy vẫn là Phật tánh nhưng đã bị ảo ảnh của Maya che mờ, khi tâm thức Ki-tô bị che lấp bởi các ảo tưởng của phản-Ki-tô. Nhưng tất nhiên, nó chỉ bị che lấp khi con nhìn hình tướng xuyên qua các ngã tách biệt đã tạo ra hình tướng. Khi đó, con không thể thấy được là mặc dù nó rung động thấp hơn tâm thức Ki-tô thuần khiết, nó vẫn chính là tâm thức Ki-tô. Kỳ thực, đó là một ảo tưởng được tạo dựng từ các rung động thấp hơn. Nó không bao giờ có thể thường hằng, nó không thể trở thành thường hằng, nó không thể nhận được sự sống vĩnh cửu, và do đó, khi con bắt đầu cảm nhận rung động, con có thể lập tức cảm nhận được đâu là rung động thấp và đâu là rung động của Ki-tô hay của Phật tánh.

Và đây là cách tối hậu để tránh khỏi bị lừa bởi sa nhân, bởi ảo tưởng cuả Maya, bởi quỷ dữ của Mara, và đây là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá. Vì chừng nào con không thấy được là một số rung động không phải là bản tánh thuần khiết mà chỉ là những ảo ảnh tạm thời, thì con sẽ nghĩ những hiện hình đó rất có thể thường tồn và chúng có quyền năng trên con, thậm chí chúng còn quy định được con. Con có thể đồng hóa với chúng, ngay cả con có thể say mê những gì chính con hay một ai khác, một sa nhân, đã tạo ra dưới dạng một cấu trúc tinh xảo. Và nó có vẻ thật tinh xảo từ một tầm nhìn nào đó, nhưng nó không thể trở nên thường tồn vì sự sống vĩnh cửu chỉ có thể đạt được qua Ki-tô, qua sự hợp nhất với Phật tánh, sự khắc phục mọi ảo tưởng rằng con có thể tách rời khỏi Phật tánh, sự khắc phục mọi ảo tưởng rằng hình tướng – bất kỳ hình tướng nào – có thể tách rời khỏi Phật tánh và là gì khác hơn Phật tánh.

Đây là ảo tưởng cơ bản mà các thày đã trình bày qua tâm thức nhị nguyên. Ảo tưởng cơ bản là kìa có Phật tánh, có Ki-tô, và kìa có một cái gì khác hơn. Cái này không phải là Phật tánh, cái này khác với Phật tánh, tách biệt khỏi Phật tánh. Đây là ảo tưởng cơ bản của nhị nguyên rằng thế giới có thể được phân chia làm hai, nhưng sự phân đôi này không thể là thực. Phật tánh không thể bị phân chia. Chỉ trong ảo ảnh của Maya con mới có thể tạo ra dáng vẻ có hai. Cho nên ý tưởng bảo rằng có một thượng đế và có một ác quỷ chỉ là một ảo tưởng, và thượng đế mà con nhìn thấy từ trạng thái tâm thức này không phải là Thượng đế chân thực, không phải là Thượng đế vô hình tướng. Các thày gọi là vô hình tướng vì các thày không thể đặt ra ngôn từ nào cho tâm thức Thượng đế. Thượng đế hoàn toàn vượt khỏi các hình tướng mà con có thể thấy từ một bầu cõi chưa thăng thiên.

Cho con người động lực bước trên đường tu

Thế giới không là hai, nó không bị phân chia, nó là một. Nó luôn luôn là một. Nhưng điều gì có thể thúc đẩy một sinh thể bị kẹt trong ảo tưởng của Maya muốn nỗ lực khắc phục ảo tưởng của Maya? Tại sao ta như đức Phật lại nói về niết bàn? Vì ta phải cống hiến một động cơ cho con người cất bước trên con đường khắc phục tất cả những cái ngã dựa trên ảo tưởng của họ. Hiển nhiên những người này đang đau khổ và họ muốn thoát khổ đau. Nhưng khi con bị kẹt trong tâm thức tạo ra đau khổ, con không thể nhìn ra cách thoát khỏi khổ đau. Con cứ nghĩ là có lẽ con có thể phá hủy các điều kiện gây ra khổ đau. Có lẽ con có thể tạo ra những điều kiện tốt đẹp hơn từ tâm thức tách biệt. Nhưng điều này không thể làm được.

Con không thể thoát khỏi khổ đau nhờ tâm thức tách biệt, nhưng con cũng không thể thực sự nắm bắt thế nào là ở ngoài tâm thức tách biệt. Cho nên các thày trong tư cách là thày tâm linh, phải cho con người một động lực nào đó để họ cất bước trên con đường thoát khỏi tách biệt mà họ có thể nắm được, một động lực hấp dẫn đối với họ khi họ vẫn còn trong tách biệt. Đó là vì sao ta đã đưa ra Diệu đế thứ nhất. Cuộc đời là đau khổ, nhưng cũng có một con đường thoát khổ, và đó là Bát chánh đạo. Nhưng cái gì sẽ thúc đẩy con đây? Phải, ta có thể thúc đẩy con lánh xa khỏi đau khổ, nhưng con sẽ bước vào cái gì? Con sẽ hỏi và có những người đã từng hỏi: “Khi con bước trên Bát chánh đạo, mục tiêu chót cùng là gì? Phần thưởng ở điểm đến sẽ là gì?”

À, đấy chính là vì sao ta đã hình thành khái niệm niết bàn như một giải pháp thay thế cho đau khổ, cho Biển Luân hồi. Không phải là ta có khái niệm này trong tâm, nhưng khi người ta nghe nói về khái niệm này thì họ làm gì? Họ liền phóng chiếu một hình tư tưởng lên niết bàn dựa trên ảo tưởng tách biệt, thế là họ nghĩ mục đích con đường Bát chánh đạo là để đạt tới cái hình ảnh nhị nguyên đó về niết bàn. Đấy là tại sao mới có một lời dạy trong kinh sách đạo Phật nói rằng sẽ tới một điểm con nhận ra là niết bàn và luân hồi chỉ là cùng một thứ trên cơ bản, hay cả hai là cùng một chất liệu vì cả hai đều đi ra từ ảo tưởng tách biệt. Và vì vậy, cả hai đều cần bị tiêu diệt trước khi con tự do, trước khi con giải thoát. Và đây là điểm dối trá của nhiều tôn giáo trên trái đất, kể cả Cơ đốc giáo, Do thái giáo và truyền thống Do thái-Cơ đốc.

Như các thày đã nói, một lần nữa khi con bước vào nhị nguyên, con bắt đầu tạo ra một thượng đế trong hình ảnh của ngã tách biệt và giống như ngã tách biệt, thậm chí giống như sa nhân. Con sử dụng các điều kiện của hình tướng trong một bầu cõi chưa thăng thiên trên một hành tinh chưa thăng thiên để phóng chiếu ra cõi tâm linh là thế nào, cho nên con không thể biết được cõi tâm linh là thế nào. Các thày, các chân sư thăng thiên ở cõi tâm linh, sẽ không bao giờ có thể cho con một lời dạy về một số điều kiện trên cõi tâm linh. Nhưng các thày hoàn toàn không có ý định cho con một tầm nhìn toàn diện vì các thày biết nó không thể được nắm bắt, và thật chẳng ích lợi gì nếu con biết cõi tâm linh như thế nào. Bởi vì, như các thày cũng đã giải thích, con sẽ làm gì khi con bước vào tâm tách biệt đường thẳng? Con tự xem mình là một chủ thể đang tìm hiểu một khách thể từ xa. Và đối với cõi tâm linh, con cũng sẽ làm y như vậy. Khi con ở trong một bầu cõi chưa thăng thiên, khi con chưa thăng thiên, con tìm hiểu cõi tâm linh như một đối tượng tách biệt.

Điều này có thể cần thiết cho con để con có được một cái hiểu nào đó về cơ học của tiến trình thăng thiên, và đó là vì sao các thày trao cho con lời dạy này. Nhưng con phải nhìn nhận là cho dù con nghĩ cái hiểu của con về cõi tâm linh tinh xảo đến đâu đi nữa, thì con không đang ở cõi tâm linh và cái hiểu này sẽ không đưa con lên đó. Con sẽ chỉ lên đó bằng cách buông bò hình tư tưởng đó, những cái ngã tách biệt đó. Rồi khi con ở đó, con sẽ trải nghiệm được cõi tâm linh, ít ra từ mức tâm thức vào lúc con thăng thiên. Con không trải nghiệm một cách trọn vẹn vì như ta nói, có nhiều tầng cấp trải dài cho đến Đấng Sáng tạo.

Một lần nữa, ta đã nói quá nhiều, ta đã cho con thật nhiều điều để con suy ngẫm, nhưng ta biết một số các con sẽ hiểu được, một số sẽ sẵn lòng suy ngẫm, sử dụng lời dạy mà các thày đã trao truyền để con đem mình xuống khỏi thập tự giá của cái hiểu cũ của con về con đường tâm linh. Không một cách mô tả vỏ ngoài nào về đường tu có thể đưa con vào trạng thái thăng thiên. Chỉ bằng cách thăng vượt mọi sự mô tả vỏ ngoài mà con có thể thăng thiên.

Và như vậy, ta sẽ niêm hội nghị này. Các thày biết ơn con đã tham dự, đã sẵn lòng tiếp nhận những lời dạy này và phóng chiếu ra qua hào quang cùng luân xa của con vào tâm thức tập thể, đã sẵn lòng thỉnh gọi qua những bài thỉnh đã có ảnh hưởng sâu xa, trong thời buổi đặc thù này khi quá nhiều tín hữu Cơ đốc giáo chú tâm vào Ki-tô bị đóng đinh thay vì Ki-tô phục sinh.

Với lòng biết ơn sâu xa, ta niêm con trong sự an bình vô biên, vô điều kiện, không thể tả xiết của Phật.

15 | Tâm con đầy những gì?

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị qua mạng Internet mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Bước kế tiếp của chúng ta trên con đường Bắt chánh đạo này là bước Chánh niệm. Con hãy xem xét từ này trong tiếng Anh: “Mind-full-ness” [mindfulness là chánh niệm tỉnh giác và mind-full-ness là đặc tính của tâm đầy]. Tâm chứa đầy những gì? Đến một điểm trên đường Bát chánh đạo con cần bắt đầu xem xét: “Điều gì đang choán tâm tôi, đang khiến tôi bận tâm? Trong tâm tôi đang có gì?” Tất nhiên như thày đã có giải thích, đây là những ngã tách biệt, những khuôn nếp phản ứng, những lập trình tiềm thức. Đâu là tác động chủ yếu của các chương trình này, các ngã tách biệt này và tự ngã?

Tự ngã và các ngã tách biệt sinh ra từ ảo tưởng tách biệt. Nếu con ngắm đại dương vào một ngày tốt gió, trên mặt biển có rất nhiều sóng. Bây giờ con thử tưởng tượng con xây một chiếc cần trục có thể vươn ra ngoài biển. Ở cuối cần trục có một cái gắp hay một cái xẻng, và con đang đưa nó xuống để cố gắp lấy một ngọn sóng, kéo sóng ra khỏi đại dương. Liệu con có thành công không? À, có lẽ con sẽ kéo lên một xô nước, nhưng lập tức một ngọn sóng khác sẽ hình thành và xô nước của con sẽ không là một ngọn sóng mà là một xô nước. Con có thể nào tách rời sóng ra khỏi đại dương được không?

Cũng tương tự như vậy, tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng làm bằng một chất vô hình tướng. Chất vô hình tướng này khoác vào một hình thể đặc thù, nhưng chất thì vẫn không thay đổi. Phật tánh vẫn là Phật tánh giống như đại dương vẫn là đại dương khi nó khoác vào hình thù ngọn sóng thay vì lặng yên. Một khi chất vô hình tướng đã mang vào hình tướng thì hình tướng này có đó, nó có một sự tồn tại tạm thời nhưng nó không có một sự tồn tại tách biệt.

15.1. Các hạn chế của giác quan vật lý

Để cho con một ví dụ thị giác, con thử nhìn trái đất cùng tất cả hiện tượng vật lý trong môi trường của con. Có thể có nhà, có cây, có núi, có hồ, có biển hay bất cứ gì khác, nhưng tất cả được tạo thành bằng những hạt hạ nguyên tử không thực sự mang hình tướng nào cụ thể. Con có thể nhìn một thân cây và thấy cây rất khác tảng đá, nhưng cả hai đều cùng làm bằng hạt hạ nguyên tử. Ở trong cây có hạt hạ nguyên tử, cho nên con không thể nói là cây tách biệt với hạt hạ nguyên tử. Cây được tạo thành bằng những hạ hạt nguyên tử đã khoác vào một hình tướng đặc thù.

Tất nhiên con không thể thấy được điều này với giác quan hay với tâm vỏ ngoài của con. Con có thể suy ra chuyện này với tâm lý luận của con. Con có thể trải nghiệm chuyện này với tâm trực giác của con, nhưng có một mức nào đó trong tâm không thể nhìn xa hơn hình dạng hay hình thù. Ấy, thày không bảo là điều này có gì sai trái đâu con. Giác quan vật lý của con đã được thiết kế để phát hiện năng lượng trong một phổ tần số nhất định, cụ thể là cùng phổ tần số cấu tạo cơ thể vật lý của con. Giác quan vật lý là phần nối dài của cơ thể và chúng có mục đích phục vụ cơ thể khi cơ thể tương tác với thế giới vật chất. Cơ thể chỉ là một hình tướng, nhưng nó cũng làm bằng hạt hạ nguyên tử.

Những giác quan vật lý này và sự hạn chế của chúng là cơ sở – ít ra là cơ sở nguyên thủy – cho con người đi vào ảo tưởng tách biệt. Nhưng như thày nói, đó là cơ sở cho ảo tưởng tách biệt chứ không phải là nguyên nhân. Nguyên nhân con người đi vào tách biệt là một loạt những chọn lựa mà con người đã lấy, qua đó lần hồi họ đã chấp nhận ảo tưởng của Maya và tạo ra những ngã tách biệt kia. Ngã tách biệt được tạo ra từ ảo tưởng tách biệt. Khi con, cái Ta Biết, bước vào cái tâm chất đầy những ngã tách biệt này, con nhìn mọi chuyện xuyên qua ngã tách biệt. Con nhìn chính con, con trải nghiệm chính con xuyên qua ngã tách biệt, và suốt nhiều kiếp sống, con có thể quên mất con đã từng là một sinh thể nối kết. Hiện giờ con trải nghiệm con là một sinh thể tách biệt, nhưng liệu con đã trở nên tách biệt khi con tự trải nghiệm mình như thế?

À, đây là điều con bắt đầu tra vấn ở một tầng nào đó trên đường Bát chánh đạo. Con bắt đầu chất vấn ngay chính nhận thức của con về thế giới xung quanh, nhận thức của con về chính con. Có thể nói, khởi đầu của tỉnh giác cao hơn là khi con bắt đầu chất vấn nhận thức của con, các ý tưởng vỏ ngoài của con, ý niệm bản sắc của con, và ngay cả toàn bộ thế giới quan của con.

Con biết giác quan của con có thể dễ dàng bị các dáng vẻ bề ngoài đánh lừa hay phỉnh gạt. Tất cả các con đều đã xem các loại ảo thị (optical illusions) và con biết có cái gì đó vượt khỏi những gì giác quan của con có thể thấy. Có nguyên tử, có phân tử, có hạt hạ nguyên tử. Con biết giác quan không đáng tin cậy. Nhưng cái thực sự không đáng tin cậy là các ngã tách biệt, chúng không chỉ tiếp nhận giác quan mà chúng còn xây dựng một lớp phủ ý thức hệ lên trên nhận thức của giác quan, và ý thức hệ này thì bảo rằng những gì giác quan nhìn thấy thật sự là những vật tách biệt.

Nếu con chỉ lấy nhận thức giác quan mà thôi, con sẽ thấy tự thân giác quan không đưa ra phán đoán nào về những gì nó thấy. Mục đích của giác quan là phân biệt những vật khác nhau ở tầng cấp vĩ mô: “Đây là một con ngựa. Nó không nguy hiểm. Đây là một con sư tử. Có thể nó nguy hiểm.” Đó là mục đích của giác quan. Mục đích của giác quan là thấy rõ và phân biệt giữa đủ loại vật thể liên quan đến sự sống còn và an toàn vật lý của con – những gì con có thể làm và những gì con muốn làm trong thế giới. Giác quan không áp đặt một xét đoán giá trị lên những gì nó thấy.

Giác quan có thể thấy một con sư tử. Nó có thể nhận diện cái đó là một con sư tử nhưng tự thân giác quan không bảo con sư tử là nguy hiểm. Chính tâm con mới áp đặt sự đánh giá này lên sư tử. Nhưng dù sao việc này cũng là một sự đánh giá trung lập mà chúng ta có thể nói là khách quan. Một con sư tử nguy hiểm vì nó có thể tấn công cơ thể vật lý của con, nó có khả năng giết chết cơ thể. Nhưng đây không phải là cùng sự xét đoán giá trị như khi con bảo ngựa là tốt, sư tử là xấu, sư tử là ác. Ở đây con thấy, ngoài chuyện giác quan phân biệt những vật thể và hình tướng khác nhau, tâm con còn áp đặt lên đó một sự đánh giá, một sự xét đoán về tốt và xấu. Đây là cốt lõi của điều mà thày đã gọi là tâm thức nhị nguyên khi con tạo ra hai đối cực như vậy.

15.2. Tư duy trắng đen

Trong dạng cùng cực, nhị nguyên chỉ có hai đối cực và không có gì ở giữa. Có tốt, có xấu. Đây là cái gọi là lôgíc Aristote, lôgíc của khoảng giữa bị loại bỏ. Mọi thứ phải hoặc thế này, hoặc thế kia, và không có gì ở giữa. Tất nhiên như thày cũng đã trình bày, có một cách khác là bảo rằng có hai đối cực nhưng chúng nằm trên một thang điểm. Có một khoảng giữa hai đối cực với những sắc đậm nhạt khác nhau. Nhiều người có lối phán xét giá trị như vậy. Họ thấy có những điều thiện, có những điều ác, nhưng cũng có những điều nằm giữa.

Tâm con chứa đầy những gì? À, nó chứa đầy những ngã tách biệt kia, trong số đó có rất nhiều dựa trên sự phán xét giá trị này. Bất cứ gì cũng phải hoặc tốt hoặc xấu, hoặc đúng hoặc sai. Đâu là mục đích khi làm vậy? À, nếu con là một sinh thể nối kết thì con sẽ thấy gì? Con sẽ cảm thấy thế nào? Con sẽ trải nghiệm ra sao? Con trải nghiệm là con nối kết với một cái gì vượt hơn chính tâm con – cái ta cao của con. Con trải nghiệm là con đang nhận được năng lượng từ cái ta cao này và con có thể dùng năng lượng đó để tạo ra những hoàn cảnh cho con trên trái đất.

Trước khi con người bước vào nhị nguyên và tách biệt, trên trái đất không hề có những xung đột mà con thấy ngày hôm nay. Con người có thể sống hài hòa hơn gấp bội và không chống đối nhau. Có nghĩa là hầu hết mọi người có thể thị hiện những gì họ muốn mà không cần gắng sức nhiều lắm, chắc chắn là không cần tranh đua vật lộn. Vì họ thấy họ nối kết với một cái gì cao hơn và cũng nối kết với nhau và với môi trường, họ không cảm thấy là người khác hay môi trường đang chống lại họ. Không có sự chống đối nào hết.

15.3. Khởi đầu của khổ đau

Khi con là một sinh thể nối kết thì chống đối ở đâu? Con nhận ra là con nối kết với trái đất và với thế giới vật chất, và thế giới vật chất thì hoàn toàn vui lòng cho con những điều kiện mà con mong muốn. Nhưng một khi con bước vào tâm thức tách biệt và tự nhận diện mình là một sinh thể tách biệt, con không còn cảm nhận nối kết nào nữa. Có nghĩa là con bị tách rời khỏi môi trường của con, tách rời khỏi người khác, và con cũng bị tách rời khỏi nguồn cội cao hơn là nguồn cung cấp năng lượng sáng tạo cho con. Thế là bây giờ con phải lấy năng lượng từ môi trường của con. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con lấy năng lượng từ người khác. Tất nhiên là họ sẽ kháng cự lại, cho nên đây là khởi đầu của vật lộn tranh đấu. Con cũng trải nghiệm là ngay cả thế giới vật chất cũng không cho con những gì con muốn khi con là một sinh thể tách biệt, cho nên con phải chiến đấu để có bất cứ gì.

Nghĩa là làm sao? Nghĩa là giờ đây con bắt đầu dùng vũ lực. Khi con là một sinh thể nối kết, con không cần dùng đến vũ lực. Con sử dụng tiến trình tự nhiên là cho phép năng lượng chảy qua tâm con, con hình thành những hình tư tưởng không dựa trên ảo tưởng tách biệt, và các hình tư tưởng này được áp chồng lên năng lương cơ bản và chúng cho con những gì con mong muốn. Khi con bước vào tách biệt, con không thể làm vậy được nữa. Con không thể đồng-sáng tạo theo cách tự nhiên. Con bắt đầu cố gắng đồng-sáng tạo theo một cách phản tự nhiên, tức là thay vì cho phép năng lượng khoác lấy hình tướng theo các nguyên tắc cơ bản, giờ đây con tìm cách ép buộc năng lượng phải khoác lấy hình thù. Trên căn bản thì con vẫn làm cùng một chuyện, con vẫn tạo ra hình tư tưởng và phóng chiếu lên năng lượng, nhưng bây giờ con phải cưỡng ép bằng sức mạnh vì hình tư tưởng của con dựa trên tách biệt, cảm nhận tách biệt.

Một ví dụ điển hình là khi con đi ngược dòng lịch sử, con nhận thấy trong hầu hết mọi xã hội đều có xu hướng hình thành một tầng lớp thượng lưu nào đó. Lớp người này sẽ tuyên bố là họ nắm giữ một loại uy quyền nào đó, chẳng hạn quyền sở hữu đất đai. Điều này có nghĩa là số dân còn lại sẽ không có đất. Cách duy nhất để họ sống còn là làm lụng trên đất của chủ đất, nhưng chủ đất thì đòi hỏi sự đền bù, có nghĩa là giờ đây chủ đất có thể có được đời sống mình muốn do sức lao động chân tay của người khác.

Đây là một ví dụ một số người đã có thể dùng sức mạnh để đạt được những thứ họ muốn, nhưng họ làm vậy bằng cách lợi dụng người khác, cưỡng ép người khác phải phục tùng lớp thượng lưu. Điều gì thực sự xảy ra trong tâm lý? Như thày đã có nói vài lần, một khi con bước vào tách biệt, con cảm thấy một sức ép. Đây là một sức ép quá sức chịu đựng, vì như một sinh thể tách biệt, con không thể thấy được làm sao con có thể tự vệ trước tất cả những mối đe dọa mà con cảm nhận trong thế giới. Con phải làm gí đây?

À, thày đã có giảng là con đè nén cảm xúc và tư tưởng của con, nhưng điều con thực sự làm trong quá trình này là con tạo ra một tập hợp ngã tách biệt dưới ô dù của tự ngã. Mục đích là để tạo dựng một thế giới quan đặt con vào một vị thế an toàn, cao trội, một địa vị đặc quyền được bảo vệ và không thể bị đe dọa. Đây là tâm lý cơ bản của tâm thức tách biệt, qua đó con cảm thấy mình bị đe dọa và con tìm cách dựng lên một thế giới quan sẽ giảm bớt mối đe dọa.

15.4. Nhà tù của tách biệt

Nhưng tất nhiên, người ta cũng có thể lấy những biện pháp vật lý. Một số người trong lớp thượng lưu mà con thấy khắp các thời đại, đã xây lâu đài bằng tường đá kiên cố để bảo vệ mình khỏi đe dọa từ ngoài. Có nhiều ví dụ khác về những biện pháp vật lý mà họ sử dụng, nhưng tất cả đều khởi lên từ trong tâm, từ tâm lý. Tất cả mọi chuyện đều khởi sự trong tâm lý. Bất kể biện pháp vật lý nào cũng chỉ là sự nối dài của cố gắng muốn tạo ra một thế giới quan đặt họ vào một vị thế đặc biệt trong đời để họ có thể chịu đựng được gánh nặng phải sống trên hành tinh này. Họ phải chịu được sức ép, sống chung với áp lực và tiếp tục tồn tại một cách nào đó.

Con có thể hỏi: “Nhưng có gì sai trái với chuyện này đâu?” Phải, ở một mức nào đó thì không có gì sai trái bởi vì trái đất là một cỗ máy trải nghiệm, một máy giả thực tại, nơi con được phép có những trải nghiệm mà con muốn bao lâu cũng được cho đến khi con chán ngán. Nhưng nếu con là một người tâm linh và con đang học giáo lý tâm linh và con muốn bước chân trên một con đường tâm linh, thì rõ ràng làm như vậy sẽ không đủ cho con. Thật không đủ cho con nếu con phải tạo ra tâm ảnh để cảm thấy an toàn, bởi vì đâu là hậu quả của việc tạo ra tâm ảnh như vậy? Hậu quả là một khi con có tâm ảnh thì con cảm thấy như thể mình phải bảo vệ tâm ảnh. Một khi con đạt một vị thế vật lý nào đó, con cảm thấy mình phải bảo vệ nó. Vị thế vật lý chắc chắn trở thành một vòng đai bảo vệ giống như lâu đài với tường đá kiên cố, nhưng nó cũng biến thành một nhà tù vì con không thể rời bỏ đi. Một khi con đã tạo ra thế giới quan đó thì tâm con không thể vượt ra ngoài. Con phải ở lại trong đó, và con luôn luôn phải sẵn sàng bảo vệ nó chống lại mọi hiểm họa có thể xảy đến.

15.5. Trong nhị nguyên, con không thể chứng minh bất cứ gì

Nhưng này con, thày đã có giải thích là tâm thức nhị nguyên luôn luôn có hai đối cực. Một khía cạnh của tâm thức nhị nguyên phối hợp với tâm phân tích và lý trí là, nói chung, con có thể chứng minh bất cứ gì con muốn. Trong nhiều nền văn hóa, người ta đã tranh luận từ rất lâu về câu hỏi này: “Có Thượng đế hay không?” Trong thế giới hiện đại, cũng có tranh luận giữa tín đồ các tôn giáo và những người theo chủ nghĩa duy vật hay người vô thần. Cả hai phe đều cố gắng đưa ra lập luận – người theo tôn giáo thì lập luận ủng hộ sự hiện hữu của Thượng đế, và người vô thần lập luận chống lại sự hiện hữu của Thượng đế. Cả hai bên đều mổ xẻ lập luận của nhau để cố đánh phá hay bẻ gẫy bên kia, nhưng con thấy gì khi con nhìn vào chuyện này? Con thấy là sau một thời gian, có hai nhóm riêng biệt sẽ hình thành, một nhóm tin chắc chắn là có Thượng đế, và nhóm kia tin cũng không kém chắc chắn là không có Thượng đế. Nhưng cả hai đều nhìn vào cùng những lập luận.   

Tại sao nhóm này nhìn vào lập luận và kết luận thế này, trong khi nhóm kia nhìn vào cùng những lập luận đó mà lại kết luận thế khác? Á, đó là vì mỗi nhóm người có mang một số ngã tách biệt trong tâm họ, và các ngã tách biệt này có nhiệm vụ – do chúng đã được lập trình như vậy –phải bênh vực tổng quan của họ. Người theo tôn giáo mang tổng quan là có một thượng đế giữ quyền kiểm soát tối hậu trên mọi chuyện xảy ra trên thế giới, và điều này khiến họ cảm thấy an toàn vì họ nghĩ rằng bởi vì họ là tín đồ ngoan đạo, thượng đế này sẽ che chở họ và ban cho họ thật nhiều ân huệ. Cảm giác an toàn của họ dựa trên ý tưởng thượng đế này là có thật, nghĩa là ngã tách biệt của họ được lập trình để bênh vực cho thế giới quan và sự hiện hữu của thượng đế này. Ngã tách biệt làm thế nào? Bằng cách ngăn chặn và vô hiệu hóa bất cứ lập luận nào chất vấn thế giới quan.

Phía bên kia, những người vô thần mang thế giới quan là không có Thượng đế vì họ cảm thấy – và trong tiền kiếp họ đã cảm thấy – bị đe dọa bởi những người theo đạo đã bức hại họ, như con thấy trong Tòa án Dị giáo và các cuộc Thập tự chinh. Họ suy luận tôn giáo là một trong những hiểm họa lớn nhất trên thế giới, cho nên họ dựng lên một thế giới quan bảo rằng tôn giáo chỉ là chuyện mê tín chủ quan chứ không hề có Thượng đế. Thay vào đó thì có các định luật tự nhiên, và một khi hiểu được các định luật này qua khoa học, họ cảm thấy là họ nắm được quyền kiểm soát nào đó trên hoàn cảnh của họ. Làm thế nào họ đã đạt đến thế giới quan này? Bằng cách tạo ra những ngã tách biệt sẽ loại bỏ, ngăn chặn hay vô hiệu hóa bất cứ bằng chứng nào chất vấn thế giới quan của họ.

Bây giờ con có thể nhìn quanh thế giới và tìm thấy vô số nhóm người khác cũng y như thế. Người Do Thái có một thế giới quan đặc thù xem mình đối chọi với người Ả Rập, và ngược lại người Ả Rập có một thế giới quan xem mình đối chọi với người Do Thái. Rất nhiều nhóm khác khắp thế giới có cơ chế vận hành cũng giống như vậy.

Điều con nhận ra khi con bước lên tỉnh giác cao hơn là mọi người đều đã tạo ra những ngã tách biệt như thế. Mọi người đều có một thế giới quan cơ bản. Con cần có một thế giới quan để có thể vận hành, nhưng vấn đề là khi thế giới quan của con dựa trên tách biệt và nhị nguyên, không thể tránh được là nó sẽ đặt con vào thế xung đột với những ai có một thế giới quan dựa trên đối cực nhị nguyên ngược lại.

Lấy ví dụ các cuộc Thập tự chinh giữa người đạo Hồi và đạo Cơ đốc, cả hai đều tuyên bố thờ cùng một thượng đế, là thượng đế được mô tả trong kinh Cựu ước, nhưng họ vẫn đánh nhau. Người Cơ đốc cảm thấy họ đại diện cho cái thiện và người đạo Hồi đại diện cho cái ác. Người đạo Hồi cũng tin chắc là họ đại diện cho cái thiện và người Cơ đốc mới đại diện cho cái ác. Hiển nhiên là cả hai không thể nào đúng cùng một lúc. Nhưng nếu như chẳng có bên nào đúng thì sao? Nếu như cả hai đều có một thế giới quan chủ quan nhị nguyên thì sao, bởi vì họ đã chụp lấy một đối cực nhị nguyên rồi nâng nó lên địa vị tối cao, và điều này đặt họ vào một vị thế xung đột hiện sinh với đối cực nhị nguyên ngược lại?  

Nói cách khác, đạo Cơ đốc và đạo Hồi đã được đặt lên một thang điểm nhị nguyên trong đó họ đại diện cho hai đầu của cái thang. Người Cơ đốc có thể nói: “À, đầu bên chúng tôi mới tốt, còn đầu bên kia xấu.” Và người đạo Hồi có thể bảo ngược lại. Đây là cách nhị nguyên vận hành. Con lấy một cực đoan tương đối xong con nâng nó lên địa vị không tương đối. Nó tuyệt đối: “Đây là sự thật tuyệt đối. Chúng tôi người Cơ đốc nắm sự thật tuyệt đối. Người đạo Hồi sai lầm tuyệt đối, cho nên việc chúng tôi giết họ là chuyện chính đáng cho dù tôn giáo chúng tôi có điều răn, Ngươi chớ giết người.” Đây là cách con vô hiệu hóa một lời răn và biện minh cho việc vi phạm lời răn, và điều này hiển nhiên là tương đối nhưng con lại nghĩ nó dựa trên một sự thật tối cao nào đó.

15.6. Tám tỷ vũ trụ

Đó là lảm thế nào con tạo ra những thế giới quan đó, và con có thể nhìn ra điều này khi trong tư cách một học trò tâm linh, con bước lên những tầng cao hơn của Bát chánh đạo. Con nhìn ra điều này, cho nên tất nhiên, con cần ngừng tập trung tâm con vào những gì người khác đang làm, và thay vào đó con nhận ra là con cũng đang làm cùng một chuyện như vậy, bởi vì ai ai cũng làm chuyện này cho đến khi họ giải phóng tâm họ khỏi ảo tưởng tách biệt, khỏi các ngã tách biệt. Không thể nào khác được. Không có bí ẩn gì ở đây. Đây là chuyện mọi người đều làm. Khi chính thày còn hiện thân và trước khi thày đạt đến các tầng nhận biết cao hơn, thày cũng đã làm chuyện đó. Trong tiền kiếp thày cũng đã làm như vậy, cho dù nhiều Phật tử sẽ phủ nhận là thày có tiền kiếp.

Con đạt tới điểm có thể nói được: “Tôi hiểu điều gì đang xảy ra trên thế giới. Tôi thấy được cách vận hành khi mọi người đều có một thế giới quan.” Nói chung, tất cả tám tỷ người trên hành tinh đều có một thế giới quan cá nhân. Có nhiều người mang thế giới quan tương tự như nhau, cho nên họ có thể nhận diện mình là thành viên của một nhóm, nhưng thế giới quan của mỗi người thì vẫn khác nhau một chút.

Thậm chí con có thể nói là không có một vũ trụ độc nhất, mà trên trái đất có đến tám tỷ vũ trụ, bởi vì mỗi người đều ở trong – ở ngay trung tâm – vũ trụ cá nhân của riêng mình. Mỗi người đều xem mình là trung tâm của vũ trụ. Có một sự tương đồng nào đó với góc nhìn của con trong không gian vật lý. Ngay bây giờ đây con đang ngồi ở một vị trí cụ thể, cơ thể của con đang ở một vị trí cụ thể. Con đang nhìn qua đôi mắt từ một góc độ cụ thể. Con đang chiếm giữ khoảng không gian nơi con ngồi, đây là không gian cá nhân của con. Một người khác có thể ngồi ngay cạnh con và có một góc nhìn gần giống con, nhưng người đó không thể đẩy cơ thể của họ vào cơ thể của con để nhìn từ cùng góc độ như con. Tâm con cũng như vậy. Con có thể có những điểm tương đồng với người khác nhưng con vẫn là trung tâm của vũ trụ cá nhân của con.

Bây giờ, nếu con có tám tỷ người và mỗi người xem mình là trung tâm vũ trụ và do đó họ là người quan trọng nhất trong vũ trụ, thì có gì đáng ngạc nhiên khi có xung đột, đấu tranh, đau khổ và Biển Luân hồi? Là một học trò trên con đường tâm linh, con có thể nhìn ra điều này. Vậy con cần làm gì đây? À, nếu con muốn tiến cao hơn trên đường tu, con cần nói: “Tôi hiểu là tất cả chúng ta đều đang sống trong vũ trụ riêng của mình. Vũ trụ này chỉ hiện hữu trong tâm mỗi người, nhưng chúng ta hành xử dựa theo cách mình nhìn thế giới, dựa theo thế giới quan của mình. Tôi hiểu là mỗi chúng ta đều có xu hướng bênh vực cho thế giới quan của mình. Tôi hiểu là tôi không có quyền điều khiển thế giới quan của người khác. Dù họ là con cái, cha mẹ hay là người thân, tôi cũng không có quyền kiểm soát tâm họ. Vậy tôi có thể làm gì? Là một học trò tâm linh đang bắt đầu nhận ra những gì tôi đang nhận ra về con đường tâm linh, tôi có thể làm gì?”

15.7. Con từ bỏ việc thay đổi người khác

À, bước đầu tiên con có thể làm là con có thể bước lui lại và lấy một quyết định. Con có thể nói: “Tôi quyết định từ chức khỏi công việc thay đổi tâm người khác.” Thậm chí con có thể tự hỏi: “Liệu tôi có ký hợp đồng lao động nào với một khuôn mặt thẩm quyền ghi rằng công việc của tôi là phải thay đổi suy nghĩ của người khác không? Tôi có hợp đồng này không?” Con thử tìm trong ngăn kéo và tủ hồ sơ của con xem có một hợp đồng như vậy không? Nếu con không có, con có thể tự hỏi: “Vậy thì tại sao tôi đã đảm nhận công việc thay đổi tâm người khác?” Sau đó con có thể dùng lời dạy này để ngộ ra là con đã nhận công việc này vì tự ngã của con nghĩ rằng nó phải thay đổi tâm người khác ngõ hầu thay đổi trạng thái tâm con. Nó nghĩ là để con cảm thấy an toàn, con cần thay đổi tâm người khác.

Sau đó con có thể bước lui lại thêm nữa, ít ra một khi con đã bắt đầu nhìn nhận con không phải là tự ngã, con không phải là tâm vỏ ngoài, thì con có thể lui thêm và nói: “Nhưng có phải là chính tôi đã nhận việc này hay là tự ngã?” Xong con có thể bắt đầu nhận ra là chính tự ngã của con đã đứng ra đảm nhận công việc. Không phải là con. Và điều này có nghĩa là giờ đây con có thể rút lui khỏi công việc và nói: “Thôi đủ rồi. Bây giờ tôi quyết định một cách cốt ý là tôi sẽ ngừng tập trung vào việc thay đổi tâm người khác, và tôi sẽ dành tất cả chú ý vào việc thay đổi tâm tôi. Đây là công việc duy nhất của tôi trên hành tinh này. Mục đích duy nhất của tôi ở trên hành tinh này là nâng cao nhận biết của tôi chứ không phải là thay đổi tâm người khác. Không chỉ là chuyện thay đổi tâm tôi mà là nâng tâm tôi lên những tầng nhận biết cao hơn.”

Con đang chú tâm vào điều gì? Con đang chú tâm vào nhu cầu thay đổi tâm thức của con, tâm lý của con. Con làm thế nào? Như thày đã mô tả rồi đó, con xem xét các khuôn nếp, con phơi bày các ngã, con để cho chúng chết đi. Khi con tập trung làm điều này, con sẽ bắt đầu tiến bộ, tiến bộ nhanh chóng. Sau đó con có thể đi vào những tầng tỉnh giác cao hơn nơi con bắt đầu nhìn vượt khỏi nhiều trò chơi mà người ta bị mắc kẹt.

Con thử nhìn mọi người xem. Lấy ví dụ các thành viên trong gia đình, có người có thể bị nhốt hàng chục năm trời trong một trận chiến tìm cách thay đổi một người khác, hay ngược lại. Cả hai đang chơi một trò chơi xem ai có thể thay đổi ai, ai có thể khống chế ai, vân vân. Con có thể thoát ra khỏi toàn bộ trò chơi này. Con có thể giải phóng sự chú ý và năng lượng của con  – năng lượng ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc – để chúng không còn bị buộc chặt vào trò chơi tìm cách thay đổi người khác. Làm vậy sẽ giúp con tăng trưởng nhanh hơn rất nhiều.

15.8. Sự phán xét liên tục trong tâm

Khi con đạt đến một tầng cao hơn và đã tự giải thoát khỏi trò chơi đó, con có thể đi bước kế tiếp và nói: “Tôi đang bắt đầu nắm bắt được tự ngã làm việc như thế nào, các ngã tách biệt hoạt động như thế nào. Tôi có trải nghiệm là tôi đã nhìn thấy một số ngã tách biệt và để cho chúng chết đi. Tôi đang bắt đầu nắm bắt được quá trình này.” Điều gì đang thực sự xảy ra ở đây? Điều xảy ra là, như thày có nói, tự ngã và các ngã tách biệt tạo ra một thế giới quan đặc thù. Thế giới quan này dựa trên tách biệt, trên các đối cực nhị nguyên và sự phán xét giá trị.  

Điều liên tục diễn ra trong tâm con là con có một tập hợp những ngã tách biệt đang đánh giá mọi chuyện xảy ra trong đời con. Không chỉ là những sự cố bên ngoài. Tất nhiên ngã tách biệt không ngừng theo dõi sự cố bên ngoài. Chúng không ngừng đánh giá: “Chuyện này có đe dọa thế giới quan của tôi không?” Xong chúng phán xét: “À, nếu nó đe dọa thì thật quá tệ, tôi phải ngăn chặn hay tránh xa nó. Còn nếu nó không đe dọa thì quá tốt, tôi có thể chấp nhận nó.”

Trong tâm con liên tục có một tiến trình đánh giá và phán xét những sự kiện bên ngoài. Bất cứ gì xảy ra, dù đó là biến cố trên thế giới, là một sự kiện vật lý cá nhân, là một lời nói của ai đó, là một chuyện gì con đọc được, một chuyện gì con xem trên tivi, bất kỳ xung động nào đến với con từ ngoài bản thân con sẽ được đánh giá không ngừng bởi các ngã tách biệt đó. Phần lớn hoạt động này diễn ra bên dưới mức nhận biết ý thức của con, nhưng khi con vươn lên cao hơn trên đường tu và con trở nên ý thức hơn, con không thể nào tránh nhìn thấy một phần tiến trình này đang diễn ra. Con không thể tránh nhận ra là nó tiêu hao năng lực và chiếm hữu sự chú ý của con.

Ngoài những sự việc đến từ bên ngoài, cũng có sự đánh giá liên tục những gì xảy ra bên trong tâm con. Ở mức cảm xúc, con có những cái ngã đánh giá: “Tôi phải cảm thấy thế nào trong tình cảnh này? Liệu cảm xúc này có ổn không dựa trên thế giới quan tâm linh của tôi? Một người tâm linh mà cảm thấy thế này có chấp nhận được không?” Xong con có những ý tưởng: “Không biết mình nghĩ thế này có được không?” Về cơ bản, sự đánh giá là như sau: “Ý nghĩ này có là một đe dọa cho thế giới quan của tôi hay nó xác nhận thế giới quan của tôi?” Rồi ở mức bản sắc, con liên tục có những ý nghĩ: “Tôi là ai? Làm thế nào để tôi khớp vào với thế giới? Tôi có quyền ở đây không? Tôi có nên thay đổi không? Tôi nên làm theo nhóm này hay nhóm kia?” Tất cả những sự đánh giá như thế liên tục xảy ra, nhưng mục đích chung vẫn là: “Đây có phải là một mối đe dọa cho thế giới quan của tôi không? Điều này có xác chứng thế giới quan của tôi không? Nó có tốt không? Nó có xấu không?”

Một lần nữa, đối với nhiều người thì đó là cách họ trải nghiệm cuộc sống. Họ trải nghiệm cuộc sống qua tâm họ, qua thế giới quan của họ, qua các ngã tách biệt đó. Và một lần nữa, nếu đó là trải nghiệm họ muốn thì tự thân nó không có gì sai trái. Là một học trò tâm linh, con cần đạt tới điểm trở nên tỉnh giác về điều này và con bắt đầu lượng định: “Tôi có muốn những chuyện này lấp đầy tâm tôi không? Bây giờ tôi nhìn ra là những chuyện này đã lấp đầy tâm tôi suốt đời rồi, nhưng tôi có muốn chúng tiếp tục lấp đầy tâm tôi cho phần đời còn lại hay tôi muốn vươn lên cao hơn?” Đó là khi con có thể bắt đầu sử dụng lời dạy để phơi bày các ngã tách biệt cứ không ngừng xét đoán và đánh giá.

Con cũng có thể bắt đầu ý thức được thế giới quan của con. Con thực sự nhìn thế giới và chỗ đứng của con trong thế giới như thế nào? Điều gì trong thế giới quan này cho con cảm nhận là mình có thể chịu được, đương đầu được với cuộc sống, mình có thể tồn tại và tiếp tục tồn tại trong thế giới hỗn loạn này? Xong con có thể nhận ra là cơ sở của tất cả những thứ đó chính là sự phán xét giá trị. Con nhìn vào một hiện tượng trong thế gian – có thể là chuyện vật lý, là tình cảm, tư tưởng hay ý niệm bản sắc của con – và con cứ luôn đánh giá: “Cái này có tốt không, xấu không, đúng không, sai không?” Rồi đến một điểm trên con đường dẫn tới quả vị Phật, con cần bắt đầu lượng định: “Đây có phải là cách duy nhất để nhìn cuộc sống hay không? Tôi có thể nào giải phóng tâm tôi khỏi sự đánh giá và phán xét không ngừng về mọi chuyện?”

15.9. Đau khổ là ở trong tâm

Thậm chí con có thể khởi sự đặt câu hỏi: “Đâu là nguyên nhân của đau khổ? Đó có phải là thế giới bên ngoài? Đau khổ có phải là hậu quả bắt buộc của việc tôi sống trong thế giới khủng khiếp này?” Xong con bắt đầu tự hỏi: “À, ngay lúc này đau khổ đang diễn ra ở đâu?” Con có thể ngộ ra đau khổ là một điều kiện diễn ra trong tâm con.

Phải, rất có thể là có một điều kiện bên ngoài. Có thể con đi xe đạp, bị ngã gãy chân khiến con đau đớn. Có một yếu tố vật lý trong sự kiện này, nhưng đau khổ thật sự xảy ra trong tâm con. Con có thể đã bước vào một tiến trình đánh giá: “Ồ, chuyện này lẽ ra không được xảy ra. Thật là vô lý bất công. Sao tôi quá ngu ngốc không chịu thận trọng. Tại cái anh kia ép tôi ra khỏi đường.” Tất cả những sự đánh giá như vậy bây giờ chiếm đóng tâm con. Đó chính là tiến trình diễn ra trong tâm con tạo ra đau khổ. Các sự kiện bên ngoài chỉ là sự kiện bên ngoài. Hiển nhiên bị gãy chân không có gì vui thú, nhưng đó vẫn là một sự kiện bên ngoài, trong khi việc đánh giá là tốt hay xấu, là vô lý hay bất cứ gì khác, diễn ra trong tâm con.

Cho dù điều kiện vật lý có là gì thì đau khổ vẫn diễn ra trong tâm con. Đau khổ khởi lên từ sự đánh giá không ngừng về đúng-sai, tốt-xấu, cái này đúng lý phải xảy ra nhưng không xảy ra, cái kia không được xảy ra nhưng lại xảy ra, tất cả những loại đánh giá như vậy. Đây là khi con có thể khởi sự phơi trần các ngã tách biệt, và khi con lần hồi nhìn thấy chúng hay để chúng chết đi thì đó là lúc con trải nghiệm một sự nối kết chặt chẽ hơn với tâm Phật. Bởi vì trong tâm Phật không hề có sự đánh giá và phán xét giá trị như vậy.

Đây là điều thày đã cố giải thích 2500 năm về trước qua khái niệm những cặp đôi, qua khái niệm khắc phục đau khổ, khắc phục dính mắc. Chính sự dính mắc của con với mọi chuyện khiến con đau khổ. Đó là sự dính mắc của con với quan điểm cho là có những điều nên xảy ra và những điều không nên xảy ra. Khi những điều con nghĩ không nên xảy ra lại xảy ra, con đau khổ. Khi những điều con muốn xảy ra lại không xảy ra, con đau khổ.

Con thường xuyên ở trong một trạng thái xao động, không hài lòng, không an bình vì con luôn luôn nhìn về tương lai, lo sợ chuyện xấu có thể xảy ra hay chuyện tốt có thể không xảy ra. Con bị căng thẳng liên tục. Nhưng con có thể đạt tới điểm có được những lần hé thoáng khi cái Ta Biết bước ra khỏi tâm vỏ ngoài và con trải nghiệm một sự nối kết với cái ta cao của con, và nhờ vậy con trải nghiệm an bình. Giờ đây con trải nghiệm điều này trực tiếp – không phải một khái niệm lý thuyết. Con đang trải nghiệm là có cái gì khác hơn trạng thái tâm bình thường của con, và cái khác hơn này là một trạng thái tâm an bình hơn. Và đó là khi con bắt đầu hỏi: “Tôi muốn gì? Tôi có muốn ở lại trong xao động này hay tôi muốn bước về phía an bình?” Để có thể bước về phía an bình, đúng vậy, con phải loại bỏ các ngã tách biệt kia đi, nhưng con cũng phải xem xét tổng quan của mình về thế giới và nói: “Có thật là mọi chuyện đều tách biệt hay không? Tôi có thật đang sống trong một thế giới được tạo thành từ những vật tách biệt, những sự việc tách biệt? Tôi có phải là một sinh thể tách biệt? Tôi có tách biệt khỏi tám tỷ người kia trên hành tinh? Tôi có phải là một hòn đảo ở trung tâm vũ trụ riêng của mình, hay là có gì khác?” Tất nhiên là có, và đó là tâm Phật, đó là giác ngộ.

15.10. Khái niệm giác ngộ

Giác ngộ có giai đoạn. Tất nhiên có một số người cho rằng đó là một trạng thái toàn hảo tuyệt đối, nhưng không phải vậy. Giác ngộ là khi con bắt đầu nhìn vượt khỏi ảo tưởng rằng thế giới có thể chia ra thành những vật tách biệt.

Con đang sống trong thời đại máy tính. Nhiều người trong các con có thể nhớ thời máy tính còn sơ khai và màn hình máy tính có những pixel trên đó mà con có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Con có thể thấy từng chấm vuông tạo nên hình ảnh trên màn hình. Nếu con nhìn lại một hình chụp của màn hình máy tính thời đó, và nếu con nhìn thật gần bằng kính lúp, con sẽ chỉ thấy toàn là những chấm vuông đơn lẻ với màu sắc khác nhau – chúng có hình dạng giống hệt nhau mà chỉ khác màu sắc. Về cơ bản chỉ có ba màu và con có thể thấy từng pixel riêng biệt. Điều này có nghĩa là con nhìn vào màn hình máy tính, và trên màn hình có thể có một tấm ảnh như một con hổ chẳng hạn, nhưng khi con nhìn đủ gần thì con chỉ thấy được những chấm vuông khác màu, và chỉ khi con lui về đủ xa thì đột nhiên nhãn quan của con xoay chuyển, con nay thấy được tấm ảnh và con nói: “Ồ, những chấm vuông này tạo thành một tấm ảnh, tấm ảnh này là một con hổ, và hổ là một con thú nguy hiểm có thể ăn thịt tôi.”

Đây là điều con bắt đàu nắm bắt khi con đạt đến các tầng cao hơn của tỉnh giác, cụ thể là chỉ ở một cấp độ nào đó, từ một nhãn quan nào đó, thì thế giới mới hiện ra như được tạo thành bởi những vật tách biệt. Chỉ ở một cấp độ nào đó thì việc sử dụng phán xét giá trị tốt-xấu, đúng-sai, mới xảy ra. Khi con tiến lại gần hơn, con thấy tất cả mọi hình tướng, tất cả mọi hình dạng trong thế gian đều được tạo thành bởi những cái chấm nhỏ đơn lẻ kia. Con có thể đi thêm một bước và nhận ra ngay cả những cái chấm đó cũng không thể xuất hiện nếu không có một màn hình, và do đó tất cả mọi hình dạng trong thế gian đều được làm bằng các đơn vị nhỏ hơn, xuống tận đến các hạt hạ nguyên và sóng năng lượng.

Tất cả chỉ có thể hiện ra vì có gì đó ở đằng sau khiến chúng hiện ra. Cái ở đằng sau những chấm trên màn hình máy tính là chính màn hình, cái ở đằng sau những chấm trên tờ giấy là chính tờ giấy, nhưng cái ở đằng sau những chấm tạo thành thế giới hình tướng là cái vô hình tướng, tức là Phật tánh. Phật tánh là cái vô hình tướng cho phép hình tướng khởi lên. Cái vô hình tướng có thể khoác vào hình tướng tạm thời, nhưng cái vô hình tướng thì không vì vậy mà thay đổi. Một lần nữa, thày đã dùng hình ảnh của một rạp chiếu phim nơi con phóng chiếu lên màn hình với các thể bản sắc, lý trí, và cảm xúc của con. Màn hình có thể trưng bày nhiều bộ phim khác nhau nhưng khi làm vậy, nó hề không thay đổi. Màn hình vẫn ở đó, nó vẫn trắng tinh, không phân biệt, không hình dạng. Cho dù Phật tánh có khoác vào hình tướng nào thì việc này không thay đổi Phật tánh. Hình tướng chỉ tạm thời. Còn Phật tánh thì thường hằng, vượt thời gian, luôn luôn có. Không bao giờ một hình tướng nào có thể thay đổi cái vô hình tướng.

Một hình tướng có thể thay đổi một hình tướng khác, nhưng không hình tướng nào có thể thay đổi cái vô hình tướng, và đây là điều – cụ thể rằng đằng sau mọi hình tướng là Phật tánh – con có khả năng hiểu được không chỉ một cách trí thức, mà cuối cùng trải nghiệm được bằng trực giác. Khi con bắt đầu trải nghiệm điều này qua trực giác, con đạt được một tầm nhìn hoàn toàn khác. Con thấy là toàn bộ sự đánh giá đúng-sai tốt-xấu kia chỉ có thể diễn ra trong tâm nhưng là tâm tách rời khỏi Phật tánh. Và hậu quả của sự đánh giá, sự căng thẳng không ngừng, sự phán xét không ngừng này, là điều giữ chặt cái Ta Biết tập trung vào tâm tách biệt, tập trung ở trong tâm tách biệt, và nhìn thế giới xuyên qua tâm tách biệt. Vì cái Ta Biết là một biểu hiện của Phật tánh vô hình tướng, cho nên nó có khả năng bước ra ngoài tâm có hình tướng để trải nghiệm bản tánh của nó. Đây là sự tỉnh giác cao hơn. Đây là ý nghĩa thật của chánh niệm tỉnh giác.

15.11. Những định nghĩa khác nhau về tỉnh giác

Bây giờ nếu con nhìn vào đạo Phật qua các thời đại, con sẽ thấy nhiều người, nhiều Phật tử, ngay cả các bậc gọi là học giả cao thâm, đã định nghĩa tỉnh giác theo nhiều cách khác nhau. Một số đã cố gắng định nghĩa là có những thứ con không được nghĩ tới và có những thứ con nên nghĩ tới, con nên chú tâm vào. Xong họ đã tạo ra một số hình thức thiền tập nhằm ngăn chặn một số ý tưởng và chú tâm vào một số ý tưởng khác.

Đây không phải là ý nghĩa nguyên thủy của tỉnh giác. Kỳ thực điều xảy ra là những vị đó đã dùng lời dạy của Phật để củng cố, hay thậm chí để tạo ra một ngã tách biệt mới. Họ lấy lời dạy của Phật, mà mục đích là để giải phóng họ khỏi tâm vỏ ngoài, tâm nhị nguyên, tâm tách biệt, và họ dùng lời dạy của Phật để tạo ra một ngã tách biệt giờ đây cảm thấy cao trội hơn những ai không chia sẻ thế giới quan của họ. Họ tạo ra một thế giới quan đặc thù mà họ tuyên bố là dựa trên giáo lý của Phật, nhưng kỳ thực được tạo ra từ tách biệt, qua đó họ nhìn giáo lý của Phật xuyên qua phin lọc tách biệt. Xong họ bóp méo lời dạy, biến nó thành một học thuyết hay một giáo điều, cùng với một thế giới quan rất cố định, khép kín và tuyệt đối.

Đâu là toàn bộ khái niệm Bát chánh đạo? Đó là chừng nào con còn ở trong hiện thân vật lý, con vẫn chưa đạt đến một mức tâm thức tối thượng nào đó. Như thày đã có nói, con sẽ còn một số ảo tưởng chừng nào con còn đầu thai trong cõi vật lý. Không thể nào khác được. Bước trên đường Bát chánh đạo là một tiến trình trọn đời, nhưng các vị ấy đã lấy lời dạy của Phật, hay đúng hơn phiên bản bóp méo của nó, và họ nói: “Đây, chúng tôi có thế giới quan tuyệt đối rồi. Chúng tôi là người đạo Phật. Chúng tôi biết rõ chuyện này. Chúng tôi đang tu theo các pháp tu này. Chúng tôi có khả năng ép tâm để nó không nghĩ về một số chuyện và ép tâm để nó chỉ chú tâm vào một số chuyện khác. Vì vậy chúng tôi tu rất cao. Chúng tôi đã giải thoát. Chúng tôi đã đạt đến một trạng thái tâm thức cao. Chúng tôi là người đặc biệt và chắc chắn đức Phật sẽ ban thưởng cho chúng tôi trong một tương lai sẽ đến.” Chánh niệm tỉnh giác không có nghĩa như vậy. Đây là đánh mất chánh niệm [mindlessness, trong nghĩa đen là đặc tính không có tâm] mặc dù tâm đầy ắp cái thế giới quan mà chính nó đã tạo ra. Tất cả chuyện này chỉ là ảo tưởng, một mạng lưới ảo tưởng khổng lồ, và đây là cốt lõi của tình trạng nan giải mà con phải đối mặt.

Nếu con xem câu chuyện đời thày, con sẽ thấy là sau khi nhập Niết bàn, thày đã suy ngẫm việc trở lại trái đất và giảng dạy. Thày đã đối mặt với ý nghĩ: “Nhưng bạn đã đạt đến một mức tâm thức rất cao, cao hơn hẳn, khác biệt hẳn với tâm thức của mọi người trên trái đất, cho nên sẽ chẳng có ai nắm bắt được lời giảng của bạn. Không ai sẽ hiểu được đâu.” Đó là một cám dỗ mà thày phải đối mặt, vượt qua. Và thày lượng định: “Quay trở lại có đáng công không? Sẽ có ai nắm bắt được không?” Điều đã khiến thày quay trở lại là thày nhận ra là thày đã nắm bắt được. Thày đã hiểu được. Thày đã nâng cao nhận biết của mình đến một mức nào đó, và như thày đã nói, khi con đạt được mức giác ngộ đó và quả vị Phật, thế giới quan của con dựa trên hợp nhất. Con không thấy mình là tách biệt với người khác, cho nên con không xem mình là đặc biệt. Con xem mình là một biểu hiện cá nhân của Phật tánh và mọi người khác cũng vậy, và một biểu hiện của Phật tánh thì không thể – tự thân nó và trong bản chất – cao trội hơn một biểu hiện khác của Phật tánh.

Khi con nhận ra điều này, con cũng nhận ra là vì mình đã có thể nâng cao tâm thức của mình thì mọi người cũng có khả năng làm y như vậy. Việc thày đã làm được có nghĩa là có những người khác cũng sẵn sàng và sẵn lòng, và vì vậy thày có thể cho họ một tấm gương. Thày có thể trao cho họ một số lời dạy, và đó là tại sao thày đã quyết định quay trở lại: “Một số người sẽ hiểu được.” Thày biết là đa số sẽ không hiểu được, và con có thể nhìn lại đạo Phật suốt 2500 năm qua, đã có nhiều môn phái khác nhau xuất hiện và đã có nhiều lý lẽ khác nhau về sự kiện họ có hiểu lời Phật dạy hay không. Con có thể thấy là đa số đã không hiểu nhưng vẫn có một số đã hiểu được, và trong thời đại hôm nay có nhiều người hơn có thể hiểu được, ngay cả khi họ không là Phật tử. Ngay cả khi họ đã lớn lên trong thế giới phương Tây không theo đạo Phật, họ vẫn có thể hiểu được vì các ý tưởng này mang tính phổ quát.

15.12. Thế nào là một lời dạy tâm linh chân chính?

Con thấy đây là một cái ngộ khác mà con đạt được trên đường tu. Con nhận ra là tất cả mọi tôn giáo và triết lý tâm linh khác nhau được tìm thấy trên trái đất đều khẳng định là mình nắm một chân lý cao trội nào đó. Hay nói đúng hơn, các tín đồ và giới tu sĩ của các tôn giáo này tuyên bố là họ nắm được một chân lý cao trội, nhưng nếu một giáo lý tâm linh có giá trị, có xác thực và phát xuất từ một nguồn cao hơn, thì giáo lý này sẽ chỉ ra là vượt khỏi tất cả những mối chia rẽ con chứng kiến trên trái đất, có một cái gì đó, có một mức nhận biết vượt khỏi tâm nhị nguyên, vượt khỏi sự phán xét giá trị và cảm nhận tách biệt.

Vượt lên trên tách biệt và chia rẽ là cái Một mà bất kỳ lời dạy tâm linh chân chính nào cũng chỉ về. Cho nên thật là vô nghĩa mà bảo: “Đây mới là giáo lý cao trội.” Bởi vì con người là những cá nhân, con không thể nào tạo ra một giáo lý tâm linh sẽ thích hợp cho mọi người trên địa cầu. Và điều này thật không quan trọng, con không cần tạo ra một giáo lý như vậy. Điều quan trọng là: “Liệu lời dạy cụ thể này có thể giúp ai đó thăng vượt tâm thức của họ để rốt cuộc thăng vượt tách biệt và nhị nguyên hay không?” Nếu vậy thì lời dạy hiệu nghiệm. Nếu không thì nó không hiệu nghiệm. Bất kỳ lời dạy nào được đưa ra với mục đích này cũng có thể bị tha hóa, sàng lọc bởi tâm tách biệt, cho nên người ta tạo ra phiên bản riêng của họ về lời dạy, và phiên bản này thì không nhằm giải thoát họ khỏi tâm vỏ ngoài, mà nhằm chứng thực thế giới quan của tâm vỏ ngoài, hay cung cấp cho tâm vỏ ngoài một thế giới quan sẽ khiến nó cảm thấy an toàn và cao trội.

Nếu con lấy một lời dạy tâm linh và dùng nó để cho con cảm giác cao trội do con nghĩ rằng con đã có lời dạy cao nhất có thể, rằng con đã có chân lý tuyệt đối, thì con chỉ chứng tỏ là con đã hoàn toàn hiểu lầm mục đích của lời dạy tâm linh đích thực. Mục đích của một lời dạy tâm linh là giải thoát con khỏi chính tâm con, tâm tách biệt. Nếu nó làm được việc này thì nó hiệu nghiệm. Nếu nó không làm được việc này thì nó không hiệu nghiệm. Nếu con dùng nó để tự giải thoát khỏi chính tâm mình thì con đang dùng nó theo cách cao nhất. Nếu con dùng nó để giam con chặt hơn vào chính tâm con – vì con tin chắc là mình có thế giới quan tuyệt đối, thế giới quan cao nhất có thể – thì con đã lạm dụng lời dạy.

Phật không bao giờ có ý định lập ra tôn giáo cao nhất trên trái đất. Các lời dạy của Phật có dụng ý để là một tiến trình giúp mọi người nâng cao tâm thức và thoát ra khỏi nhà tù của tâm mình. Nếu con biến lời dạy của Phật thành bất cứ gì khác thì con chứng tỏ là con không tỉnh giác [mindful] về lời dạy của Phật, vì tâm con đầy ắp [mind full] những tin tưởng khởi lên từ tâm tách biệt đang thấy nó tách biệt với Phật. Nó khởi lên từ ảo tưởng, và thay vì giải phóng con khỏi tấm màn của Maya, nó chỉ có thể giam con chặt hơn đằng sau tấm màn vì con nghĩ là thế giới quan của con không dựa trên ảo tưởng mà dựa trên một chân lý tối thượng nào đó.

Nói một cách thật đơn giản, tỉnh giác cao hơn là gì? Đó là sự nhận biết rằng mục đích của đường tu là để con giải thoát khỏi chính tâm con, giải thoát khỏi nội dung của tâm con. Có nghĩa chăng là con phải đạt tới điểm không còn nội dung nào nữa trong tâm? Đây không phải là điều thày đã nói. Nếu con chú ý những gì thày nói, thì thày đã nói là con tự giải phóng, con giải phóng tâm con khỏi các nội dung dựa trên tách biệt và nhị nguyên. Và khi con làm vậy, con tạo ra những nội dung khác dựa trên nối kết và hợp nhất. Khi thày trở lại giảng dạy, thày đã trở lại với tâm đã giải thoát khỏi nhị nguyên và tách biệt, nhưng nó vẫn có một tính cá biệt nào đó, nó vẫn có một thế giới quan nào đó, và nó thích nghi với nền văn hóa nơi thày hiện thân. Và tất nhiên là thày có những nội dung trong tâm.  

Thày không đồng hóa với các nội dung này. Thày biết là nội dung trong tâm chỉ đơn giản là dụng cụ để tương tác với thế giới vật chất, tương tác với người khác. Các nội dung này không quy định được thày. Chúng có thể được thay đổi. Chúng có thể khác đi. Chúng không phải là nội dung tuyệt đối nào đó của tâm. Con thấy đó, thày không đang yêu cầu con, ít ra ở một tầng nào đó trên đường tu, đạt tới điểm con không còn cá thể nào nữa, không còn cá tính nào nữa. Mà thày đang yêu cầu con sẵn lòng đạt tới điểm không còn một cá thể dựa trên ảo tưởng tách biệt, không cờn một cá tính dựa trên tách biệt và nhị nguyên khiến con xem mình đối lập với người khác. Con có khả năng xây dựng hay con có khả năng phát hiện – bởi vì có thể con đã xây dựng trong tiền kiếp rồi – cái cá tính và cá thể dựa trên cảm nhận nối kết, nối kết với cái ta cao của con, nối kết với một cõi cao hơn, nối kết với người khác, nối kết với thế giới vật lý. Khi đó, con sẽ có một cách hoàn toàn khác để tương tác với người khác, với thế giới vật lý, với cái ta cao của mình cũng như với cõi cao hơn.

Bấy giờ con sẽ có khả năng hành động dựa trên nối kết, và hệ quả tự nhiên sẽ là gì? Là thay vì con tìm cách nâng mình lên như một cá nhân tách biệt, con tìm cách nâng cả tổng thể vì con thấy mình là một phần của tổng thể đó, và vì vậy cách thức để con tự nâng mình lên chính là con nâng cao mọi sự sống. Và điểm này dẫn chúng ta đến chủ đề chót là chủ đề tập trung – con chú tâm vào điều gì – nhưng tất nhiên, đây sẽ là đề tài của bài giảng tới.

Thày vừa cho con một minh chứng về chánh niệm. Thày mong con đã có một trải nghiệm nào đó của một dạng tỉnh giác cao hơn. Tâm thày đầy ắp Phật tánh. Tâm con đầy ắp những gì?

11 | Sinh kế cao hơn là làm việc cho tổng thể

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 8 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Trong bước tiếp theo, chúng ta sẽ nói về khái niệm sinh kế cao hơn. Một lần nữa, xu hướng trong đạo Phật là tập trung vào từ “chánh” [như trong Chánh mạng] cho nên quy định là có những cách kiếm sống chân chính và những cách bất chính. Đối với nhiều Phật tử thuần thành, xu hướng này dẫn đến hậu quả là không có nhiều hình thức sinh nhai được xem là “chánh”, và điều này hạn chế khắt khe các chọn lựa trong việc tìm kế sinh nhai. Không những vậy, nó cũng hạn chế các chọn lựa trong việc hoàn thành Kế hoạch Trọn đời của mình.  

Bây giờ con hãy nhìn hành tinh này. Bước lùi lại và nhìn vào trái đất. Tình trạng con phải đối mặt trên hành tinh này thật vô cùng phức tạp. Khi con nhìn những gì xảy ra trên hành tinh, con thấy rõ là có rất nhiều hỗn loạn nhưng đồng thời cũng có một chiều hướng tiến triển nào đó. Khi con nhìn ngược về các thế kỷ trước, con thấy đã có một tiến bộ rõ rệt: tâm thức con người nâng lên, tính nhân bản cũng nâng lên, các nền dân chủ xuất hiện và mức sống cao hơn cho càng ngày càng nhiều người hơn. Rõ ràng có sự tiến triển trong xã hội, nhưng điều gì đã thúc đẩy tiến triển này? À, đó là sự kiện một số người đã có khả năng hòa điệu với một mức độ nhận biết vượt khỏi cái chúng ta có thể gọi là sự nhận biết bình thường của con người. 2500 năm về trước, thày đã gọi mức độ nhận biết đó là Phật tánh. Tất cả mọi thứ đều có Phật tánh ở bên trong và mỗi con người đều có tiềm năng đạt được mức nhận biết của Phật tánh.

Tiềm năng này mang hai khía cạnh. Một là con vươn lên trên toàn bộ nhân cách vỏ ngoài, nhân cách dựa trên tự ngã, là ý niệm cho rằng con là một sinh thể tách biệt, tách biệt khỏi người khác và thế giới nơi con sống. Cho nên con vươn lên đến tầng tâm thức nơi con trở thành một vị Phật vì con đã chứng tâm thức Phật. Đó là một khía cạnh. Khía cạnh kia như thày đã giải thích là cốt lõi bản thể con, cái Ta Biết, có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm của con ít ra trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, và nhờ vậy bắt liên lạc với Phật tánh là mức nhận biết cao hơn đó. Khi con có khả năng bước ra ngoài, con có thể nhận được một ý tưởng, một sáng kiến về cách cải thiện một điều gì đó trên trái đất.

11.1. Có nhiều cơ hội để cải tiến

Con nhìn vào địa cầu, nhìn vào biết bao vấn đề, biết bao xung đột, biết bao hỗn loạn đang xảy ra, và con thấy không có một phần nào của cuộc sống hay của xã hội mà không thể được cải thiện. Trong mọi lãnh vực đời sống đều có cơ hội, có khoảng trống cho sự cải tiến. Cải tiến này xảy ra khi có những người tham gia vào lãnh vực đó của cuộc sống và có khả năng bước ra ngoài tình trạng vỏ ngoài, bước ra ngoài chính tâm họ, để nhận được một ý tưởng có thể cải thiện lãnh vực đó từ mức nhận biết cao, từ nhận biết của Phật, từ Phật tánh.

Sinh kế thực sự của con là gì? Khi con là một người tâm linh cởi mở với các giáo lý tâm linh, đâu là sinh kế thực sự của con? Đó là cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống, nâng cao một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Có nghĩa là sẽ quá hời hợt nếu con nhìn vào đủ loại nghề nghiệp kiếm sống rồi bảo: “Ồ những loại nghề này một người tâm linh sẽ không nên làm. Chỉ có một số ít nghề nghiệp mà bạn có thể tham gia nếu bạn là người tâm linh.”

Một lần nữa, tất nhiên là chúng ta cần tìm một thế cân bằng tế nhị ở đây. Chắc chắn như một người tâm linh, con không muốn làm nghề buôn ma túy hay buôn người. Phật tánh không hề có mong muốn hoàn thiện việc buôn ma túy hay buôn người, vì các loại hoạt động này cần được bỏ lại đằng sau khi hành tinh hướng lên những mức nhận biết cao hơn. Con có thể nhìn lại lịch sử và nhận thấy nhiều hoạt động đã được bỏ lại, ít ra bởi nhiều người. Các khía cạnh hung bạo hơn đã được nhiều quốc gia bỏ lại đằng sau khi luật mới được ban hành hay xã hội được ổn định và con người nói chung không tìm cách hãm hại lẫn nhau. Rõ ràng đây là điều sẽ xảy ra khi hành tinh ngày càng bước vào một thời đại mang đặc tính nhận biết cao hơn so với quá khứ. Và khi tiến trình này trải bày, có những thứ sẽ được sa thải. Con người sẽ đạt tới điểm chúng dần dần biến mất.

Con có thể nhìn nạn buôn ma túy đang tràn lan khắp mọi nơi hôm nay và tự hỏi: “Ủa, cái gì làm động cơ cho nguyên chuyện buôn bán này?” Không phải là bọn tội phạm đâu mà là sự kiện có một thị trường cho ma túy. Có những người mua ma túy, nhưng tại sao họ lại mua ma túy? À, phần lớn là vì họ tìm sự khuây khỏa khỏi áp lực họ cảm thấy trong cuộc sống thường nhật – vì họ không biết và không bao giờ được dạy làm cách nào đối phó với chính tâm lý của họ, cũng như giải quyết các khía cạnh tâm lý đã khiến họ cảm thấy áp lực, khiến họ đi tìm một sự giải khuây tạm bợ qua ma túy, rượu hay nhiều loại sinh hoạt khác.

Khi tâm thức tập thể được nâng lên và sự nhận biết cũng cao hơn trong quần chúng về cách giải quyết tâm lý cá nhân và giải tỏa áp lực qua cách này, nhu cầu dùng ma túy sẽ giảm bớt cho nên nó sẽ dần dần biến mất. Khi không còn thị trường thì sẽ không còn buôn bán. Một điều tương tự tất nhiên cũng xảy ra với toàn bộ kỹ nghệ sản xuất vũ khí, hay tổ hợp công nghiệp quân sự như người ta thường gọi. Trái với những gì có vẻ đang xảy ra hiện nay, tới một điểm nào đó chiến tranh sẽ bắt đầu tàn lụi, và con người sẽ đơn giản không thể hiểu nổi tại sao chiến tranh lại cần tồn tại. Cho nên nhu cầu phát triển, chế tạo và buôn bán vũ khí cũng sẽ biến mất.

Điều này nghe như một giấc mơ không tưởng, nhưng thật không khó gì mà nhận ra là suốt các thế kỷ đã có một tiến bộ lần hồi, và tiến bộ này sẽ chỉ tiếp diễn, thậm chí còn gia tốc khi càng ngày càng có nhiều người bắt đầu giải quyết tâm lý cá nhân của mình và do đó cũng giải quyết các khía cạnh phản chức năng trong tâm thức tập thể. Không thể nào khác được.

11.2. Khi mọi thứ được tâm linh hóa

Vậy đối với con, một người tâm linh, kết luận là gì khi nói đến “chánh mạng” hay đúng hơn, “sinh kế cao hơn”? À, hiển nhiên là có một số hình thức kiếm sống mà con không muốn dự phần. Tuy nhiên, nhiều Phật tử lại suy luận rằng nếu con là một người thực sự tâm linh thì con không được làm kinh doanh. Chắc chắn có một số khía cạnh của thế giới kinh doanh cũng sẽ biến mất, nhưng không có nghĩa là kinh doanh sẽ biến mất. Sẽ vẫn có một thế giới kinh doanh.

Rất có thể là do kinh nghiệm trong các kiếp trước và sự quan tâm đặc biệt của con đến thế giới kinh doanh, con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của mình việc tìm kiếm một vị thế trong thế giới kinh doanh và nhận được ý tưởng mới về những cách cải thiện thế giới này để giúp nó tiến tới. Liệu sẽ xây dựng lắm không nếu con lại lấy thái độ vỏ ngoài rất phổ biến trong các Phật tử và nhiều người tâm linh, là bảo: “Ồ không được, tôi không thể nào là người tâm linh mà lại đi làm kinh doanh”? Tất nhiên là không xây dựng. Con cần hòa điệu với những gì ở trong Kế hoạch Trọn đời của chính con và theo đuổi cái đó.

Nói chung, con có thể nói là con không thể đơn giản phân chia các loại hoạt động và bảo hình thức sinh sống này là sai, hình thức sinh sống kia là đúng. Điều gì sẽ xảy ra khi trái đất tiến vào thời đại nhận biết cao hơn? Điều sẽ xảy ra là với thời gian, tất cả mọi thứ sẽ được tâm linh hóa. Đâu là ý nghĩa thâm sâu trong câu nói rằng mọi thứ đều là Phật tánh? Ý nghĩa là con không thể quy định một sự phân biệt rõ rệt – mà rất nhiều người tâm linh đã quy định – giữa những việc tâm linh và những việc không tâm linh. Con cần nhận biết sâu sắc hơn và nhìn ra là theo một nghĩa nào đó, tất cả mọi thứ đều có tiềm năng là việc tâm linh, có tiềm năng được xem là việc làm tâm linh. Một lần nữa, đây là một trong những lời phát biểu đòi hỏi một chút phân biện.

Tất nhiên thật dễ mà bảo rằng: “Nhưng nếu mọi thứ đều có Phật tánh bên trong thì bạn có thể thấy được Phật tánh trong mọi hoạt động, cho nên bạn có thể là một kẻ buôn ma túy mà vẫn thấy Phật tánh trong việc buôn ma túy.” Khi con đạt đến một trình độ phân biện và nhận biết cao hơn, con hiểu ra là cho dù Phật tánh ở trong tất cả, điều này không có nghĩa mọi biểu hiện diễn ra là cao nhất có thể. Bởi vì Phật tánh là gì? Bảo rằng Phật tánh ở trong tất cả có nghĩa là gì? À, Phật tánh là một mức độ nhận biết. Thày đã có giảng điều gì? Có những sinh thể đã tạo hình tư tưởng từ một mức tâm thức cao hơn và đã phóng chiếu ra hành tinh địa cầu. Sau đó những con người đã được gửi vào hiện thân để khoác lấy không chỉ một cơ thể vật lý mà cả cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể, và họ là những kẻ đồng-sáng tạo trên địa cầu.

Ở nguyên thủy, trái đất ở trong một trạng thái thuần khiết hơn hiện nay, và từ trạng thái nguyên thủy này nhân loại đã kéo thấp trái đất xuống trong một thời gian dài. Đó là tại sao ngày nay sự đau khổ là trải nghiệm phổ thông nhất trong cuộc sống và con người bị chìm đắm trong Biển Luân hồi. Tình trạng này đã không do một Thượng đế toàn năng nào tạo ra hay do các sinh thể có nhận biết cao hơn tạo ra. Tại sao các sinh thể nhận biết cao hơn lại tạo ra đau khổ làm gì? Chính con người đã tạo ra các điều kiện hiện thời trên trái đất cùng sự đau khổ, hỗn loạn và điên đảo hiện thời. Họ đã làm thế nào? Như thày đã giải thích, bằng cách hình thành những tâm ảnh trong các thể bản sắc, lý trí và càm xúc rồi phóng chiếu chúng lên năng lượng cơ bản cấu tạo thế giới vật chất nơi họ sống.

11.3. Con người đã tạo ra Biển Luân hồi

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là bất kỳ biểu hiện nào con nhìn thấy trên trái đất đều khởi đầu trong tâm thức. Trên cơ bản, đây là điều thày đã giảng dạy 2500 năm về trước: Tất cả đều là tâm thức, tất cả đều là biểu hiện của tâm thức. Nói cho cùng, đây cũng là ý nghĩa của câu nói “Phật tánh ở trong tất cả”, vì Phật tánh chính là tâm thức, một dạng tâm thức. Đặc điểm của Phật tánh là nó nhận biết tất cả, nó nhận biết được tổng thể. Phật tánh là sự nhận biết về tổng thể.

Khổ đau và điên đảo hiện thời trên trái đất được tạo ra như thế nào? Nó không được tạo ra từ sự nhận biết về tổng thể, mà như thày đã giải thích, nó được tạo ra từ sự nhận biết – hay đúng hơn từ ảo tưởng – rằng con người là những sinh thể tách biệt. Nhưng con đã không được sinh tạo là sinh thể tách biệt. Qua các chọn lựa con đã chọn trong quá khứ, con đã bước vào tâm thức tách biệt này và sử dụng các đối cực nhị nguyên – các cặp đôi – để biện mình cho chọn lựa của con, để dựng lên những tâm ảnh về cách vận hành của thế giới, về con người mà con là trong tương quan với thế giới, và con có quyền làm một số chuyện như một sinh thể tách biệt bất chấp hậu quả cho người khác. Hay nói cách khác, đã có một thời điểm khi loài người biến đổi, quên mất mình là những sinh thể nối kết, quên mất “lý duyên khởi” vốn nhìn mọi chuyện đều ảnh hưởng đến mọi chuyện khác. Họ bước vào trạng thái ảo tưởng cho rằng: “Ừ, tôi là một sinh thể tách biệt và tôi có quyền làm bất cứ gì tôi muốn như một sinh thể tách biệt mà không cần xét đến hậu quả đối với tổng thể.”

Đây chính là tâm thức đã tạo ra Biển Luân hồi, tạo ra tình trạng hầu hết mọi người đều kinh nghiệm cuộc sống là đau khổ. Có bảy tỷ người trên hành tinh xem mình là sinh thể tách biệt và vì vậy họ phải tranh đấu chống lại bảy tỷ người còn lại. Đây là Biển Luân hồi. Con có thể nhìn lại một số hoạt động và con có thể nói: “Đúng vậy, các hoạt động này mang Phật tánh bên trong, vì nói cho cùng thì chúng được tạo ra từ tâm Một, từ tâm Phật duy nhất, từ tâm thức duy nhất. Nhưng chúng không được tạo ra với một nhận biết về tổng thể, là điều Phật tánh nhận biết. Chúng được tạo ra từ tách biệt.”

Cho nên con có thể nói là có những hoạt động trên địa cầu hoàn toàn dựa trên nhận biết tách biệt không đếm xỉa gì tới tổng thể, tới người khác, tới hậu quả gây ra. Thậm chí cũng không đếm xỉa gì tới chính những người ở trong tâm thái đó, họ bị tác động thế nào, họ đang tạo ra loại nghiệp quả gì, và những kiếp tới của họ sẽ bị ảnh hưởng ra sao cho dù họ có thể trốn tránh hậu quả trong kiếp này.

11.4. Nhận biết về tổng thể hay nhận biết về tách biệt

Đó chính là một sự lượng định mà con có thể áp dụng cho mọi hoạt động con người, chắc chắn cho kế sinh nhai. Liệu hoạt động có dựa trên sự nhận biết về tổng thể hay sự nhận biết về tách biệt? Cho nên con có thể thấy có những hoạt động tác hại hơn những hoạt động khác cho sự sống nói chung. Tất nhiên con có thể đi vào thế giới kinh doanh hiện nay chẳng hạn, và bảo rằng thế giới kinh doanh ở mọi quốc gia đều bị khống chế bởi một thiểu số thượng tôn quyền lực kẹt cứng trong tâm thức tách biệt. Những người này tin như đinh đóng cột họ là một tầng lớp ưu tú và họ có quyền – một quyền hạn do Thượng đế ban bố hay do luật tiến hóa trao cho họ vì họ là những kẻ mạnh nhất, thích nghi nhất để nắm trùm thế giới kinh doanh – đến độ họ có thể xây dựng những tài sản khổng lồ cho riêng họ, nhiều tiền hơn là họ có thể cần đến, bằng cách lạm dụng sức lao động của người khác. Con có thể thấy vậy và nói: “Đấy, chắc chắn thế giới kinh doanh bị tâm thức tách biệt áp đảo cho nên nếu tôi là một người tâm linh, tôi không nên dự phần vào đó.”

Như thày vừa nói, có một số nghề như buôn ma túy hay sản xuất vũ khí sẽ dần dần biến mất vì chúng chỉ có thể làm hại con người, nhưng thế giới kinh doanh sẽ không biến mất vì trong kinh doanh có những khía cạnh mang tính xây dựng. Không có vấn đề kinh doanh biến mất khi địa cầu nâng lên cao hơn. Điều sẽ xảy ra là một khi ý niệm tổng thể được nhận thức rõ hơn thì kinh doanh cũng được nâng lên một cấp độ hơn hẳn. Điều này đang bắt đầu xảy ra rồi đó vì có những người đã nhận thức được rồi. Có những người tiêu dùng đã nhận thức được và họ không ủng hộ một số doanh nghiệp, hay thậm chí không mua sản phẩm từ một số quốc gia có nhận biết thấp hơn.

Đây là điều con có thể áp dụng khi con xem xét đâu là sinh kế cao nhất cho con như một người tâm linh. Con không dùng tâm vỏ ngoài mà nói: “Ồ, tôi sẽ không tham gia vào lãnh vực này,” mà con dùng trực giác để hòa điệu với kế hoạch mình đã lập ra trước khi đầu thai, cho nên con nói: “À, đây là sự lượng định tôi sẽ cân nhắc. Đây là một điều quan trọng để tôi xem xét. Chỗ nào là chỗ tôi có thể phụng sự để đem lại cải tiến trong lãnh vực này?” Tất nhiên đây không chỉ là vấn đề kinh doanh mà còn có thể là chính trị, là hành chánh, là giáo dục, rất nhiều khía cạnh khác của cuộc sống. Nói chung, những khía cạnh này của cuộc sống không hoàn toàn nguy hại, chúng có nhiều khoảng trống cho sự cải tiến, và chúng sẽ chỉ được cải tiến khi có người dấn thân vào lãnh vực đó.

Con có thể nói là đối với một người tâm linh, việc kiếm tiền không phải là quan tâm hàng đầu, mà quan tâm hàng đầu của con là phụng sự bằng cách cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống và xã hội. Đây là một điểm để cân nhắc. Kế hoạch Trọn đời của con có gì trong đó?

11.5. Giấc mơ kiếm tiền dễ dàng

Khái niệm về sinh kế có thể được đưa lên một cấp độ khác nữa. Hầu hết mọi người khi họ nghĩ đến sinh kế đều cho rằng sinh kế có nghĩa là kiếm tiền. Con phải đi làm, phải lập doanh nghiệp vì con phải có đủ tiền sống. Điều này đã khiến cho nhiều người tâm linh có những loại giấc mơ gọi là mưu kế làm giàu chớp nhoáng. Họ hy vọng tìm ra cách kiếm một số tiền kếch sù để họ có đủ tiền sống suốt đời, không phải lo lắng tiền bạc gì nữa hầu tập trung vào việc đeo đuổi tâm linh.

Có rất rất nhiều người tâm linh như thày vừa trình bày, có đặt vào Kế hoạch Trọn đời là mình sẽ tham gia vào một lãnh vực nào đó. Mục đích là để con ở trong lãnh vực này và đem lại một số cải thiện, thậm chí chỉ do sự có mặt của con và một mức tâm thức cao hơn mà con có thể kéo người khác trong lãnh vực đi lên. Kế hoạch Trọn đời của con không có việc làm giàu chớp nhoáng để sau đó con rút lui khỏi xã hội và tập trung vào những đeo đuổi tâm linh mà con nhìn thấy.

Kế hoạch Trọn đời của con là dấn thân vào xã hội và tiếp tục đem lại cải tiến. Đây không phải là trường hợp của mọi người nhưng chắc chắn là của đại đa số. Con có thể buông giấc mơ làm giàu nhanh chóng này đi, giấc mơ tìm ra một con đường tắt. Việc con buông giấc mơ này thật quan trọng vì mơ ước của lớp thượng tôn quyền lực kinh tế là gì chứ? Chúng mơ ước đúng chuyện đó: một con đường tắt để làm giàu. Nhiều người trong số họ đã tìm ra đường tắt này nhưng chỉ bằng một cách thôi, là lạm dụng người khác, đánh cắp sức lao động của người khác. Đây là cách duy nhất để đi đường tắt.

Nếu con là một người tâm linh và con mơ làm tiền theo cách này thì nó không ăn khớp với sự thăng tiến tâm linh của con. Có những người tâm linh mơ làm vậy đã bỏ ra hàng năm trời hay hàng chục năm trời để đeo đuổi việc này, nghĩ rằng: “Khi nào tôi đủ tiền, tôi sẽ có thể tập trung vào chuyện tìm đạo.” Nhưng điều xây dựng hơn rất nhiều là con làm việc trong một việc làm bình thường, từ từ kiếm đủ tiền rồi nhìn ra là việc mình tham gia vào xã hội là một phần trong bước tăng triển tâm linh của mình, là một phần trong đeo đuổi tâm linh của mình. Đừng nên tách rời các hoạt động tâm linh với các hoạt động thế tục mà bảo: “Ồ, nếu tôi có một việc làm tầm thường thì tôi không thể tâm linh, thật chẳng có gì tâm linh trong đó.” Tất cả mọi thứ đều có thể trở thành một phần của đường tu khi con dùng nó như một phần của đường tu.

11.6. Sinh kế và năng lượng

Bây giờ chúng ta hãy bước thêm một bước cao hơn. Sinh kế là gì? À, hầu hết mọi người sẽ trả lời sinh kế là việc kiếm tiền, nhưng liệu tiền bạc có phải là tài nguyên thực trên trái đất hay không? Thày đã nói gì chứ? Mọi thứ đều là năng lượng. Tài nghuyên thực của thế giới không phải là tiền bạc mà là năng lượng. Nhưng này con, thày cũng có nói thế giới được sinh tạo là vì có một tầng cõi với nguồn năng lượng bất tận vượt quá vũ trụ vật chất. Một phần năng lượng này chảy xuống, hay được hạ xuống phổ tần số cấu tạo vũ trụ vật chất. Thày đã nói là có một dòng năng lượng liên tục từ ngoài vũ trụ vật chất chảy xuống vũ trụ vật chất.

Sự kiện này có thể được chứng minh bởi khoa học. Khoa học đã phát hiện là vũ trụ không chỉ đang giãn nở mà sự giãn nở của vũ trụ đang gia tốc. Nhưng đấy, mọi thứ đều là năng lượng. Bất kỳ thay đổi nào cũng chỉ có thể xảy ra do năng lượng thúc đẩy. Nếu vũ trụ giãn nở thì phải cần nhiều năng lượng hơn để giãn nở. Môt trạng thái thấp hơn chỉ có thể bước lên một trạng thái cao hơn bằng cách bổ sung thêm năng lượng. Phải có năng lượng làm động cơ cho sự giãn nở. Cho nên nếu vũ trụ đang giãn nở và càng ngày càng giãn nở nhanh hơn, và nếu vũ trụ đã làm vậy từ thuở các nhà khoa học gọi là Big Bang (vụ Nổ Lớn), thì nhất định phải có năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một nguồn bên ngoài, nếu không thì giản nở không thể xảy ra.

Con hãy bước ra ngoài nhìn lên bầu trời đêm, ngắm nhìn tất cả những vì sao cùng dải thiên hà và con có thể thầm nhủ: “Nguyên cái này không thể nào hiện hữu nếu chỉ có một khối năng lượng cố định trong vũ trụ. Nó sẽ chẳng bao giờ sinh ra được.” Tài nguyên thực không chỉ là năng lượng mà là năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một cõi cao hơn. Như thày đã nói, tâm con có tiềm năng trở thành một cửa vào cho năng lượng đó.

Con thử nhìn các nhà tỷ phú mà xem, họ đã gom góp những số tiền vĩ đại và con có thể nghĩ là nếu ai đó có hàng tỷ đô-la, chắc họ phải cảm thấy thật an bình: “Bây giờ tôi có dư tiền để chăm lo bản thân tôi và gia đình tôi cho đến mãn kiếp. Tôi cần thêm tiền nữa để làm gì?” Nhưng đối với hầu hết những người đó, chuyện này không xảy ra. Tiền của họ không bao giờ đủ. Họ luôn luôn muốn nhiều hơn, vì nếu như có ai lấy mất thì sao? Cho nên không có chuyện có tiền rồi cảm thấy an bình. Điều sẽ khiến con an bình như một người tâm linh là con có đủ năng lượng. Không theo nghĩa là con có một lượng năng lượng cố định, mà theo nghĩa con đã thiết lập một sự nối kết ý thức với cái ta cao của con, và qua nối kết này năng lượng có thể liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào bốn thể phàm của con. Đây chính là yếu tố sẽ cho con năng lượng sáng tạo, khả năng tạo ra điều gì đó, thị hiện điều gì đó, nhưng nó cũng sẽ khiến con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn, an bình.

11.7. Tự ngã sẽ không bao giờ có đủ

Thày vừa nói điều đã xảy ra cho hầu hết mọi người là gì? Con đã bước vào tâm thức tách biệt đó. Con xem mình là một sinh thể tách biệt. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con đánh mất sự kết nối với cái ta cao của con. Nhiều người đã phóng chiếu hình ảnh là trong quá khứ xa xôi, con người đã sống trong một thiên đàng, thế rồi họ đã làm điều gì đó khiến cho Thượng đế tức giận và ngài đã trục xuất họ ra khỏi thiên đàng. Thượng đế bỏ rơi họ. Đấy, một khi con bước vào tâm thức tách biệt và tạo ra ngã tách biệt đó – nhân cách tự ngã đó, tự ngã đó là một ngã tách biệt và tự xem nó là tách biệt – thì con sẽ cảm thấy bị bỏ rơi. Con sẽ cảm thấy lẻ loi. Nếu con tin là có một Thượng đế đã ép buộc con vào trạng thái này thì con sẽ cảm thấy là Thượng đế này đã bỏ rơi con, nhưng thực tế không phải vậy.

Sự bỏ rơi diễn ra trong tâm con. Không có bỏ rơi thực sự. Con nối kết với cái ta cao, thật ra con là một biểu hiện của cái ta cao của con. Cái ta, cái Ta Biết, cốt lõi của bản thể con, là một phần nối dài của cái ta cao được gửi vào thế gian này vì cái ta cao không thể bước xuống thế gian một cách trực tiếp. Cái ta cao mong muốn trải nghiệm thế giới này và nó đã gửi cái Ta Biết vào thế giới như một phần nối dài của nó, để trải nghiệm thế giới từ bên trong. Con không bao giờ có thể cắt đứt sự nối kết đó nhưng con có thể che phủ nó bằng các khía cạnh dựa trên tự ngã trong các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Cho nên con cảm thấy bị bỏ rơi, con cảm thấy cô đơn, con cảm thấy thiếu sót và không trọn vẹn. Đó chính là tại sao con cảm thấy nghèo nàn túng thiếu, tại sao con nghĩ con cần đến một cái gì bên ngoài chính mình để lấp đầy khoảng trống, lấp đầy lỗ hổng mà con mang bên trong.

Tự ngã sẽ luôn luôn có một lỗ hổng bên trong nó, nhưng đó là một lỗ hổng không thể nào lấp đầy. Tự ngã được tạo ra trong thế gian, cho nên nó chỉ biết nghĩ ra một cách duy nhất để khắc phục cảm giác trống trải và nỗi khổ thiếu hụt là đạt được một thứ gì đó từ thế gian. Tiền bạc là một trong những thứ này, nhưng còn nhiều thứ khác nữa. Tự ngã không ngừng đuổi theo ngày càng nhiều thứ của thế gian vì nó tưởng là nó sẽ cảm thấy trọn vẹn khi nó có đủ, nhưng điều này không bao giờ xảy ra. Tự ngã sẽ không bao giờ cảm thấy trọn vẹn.

Nhưng cái ta mà con là có thể đạt tới điểm nó cảm thấy trọn vẹn trong thế gian, nhưng chỉ khi nào con không bị mù quáng bởi các ảo tưởng của Maya cấu tạo tự ngã. Con phải loại bỏ các ảo tưởng này một cách có hệ thống khỏi các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con, và một khi con làm vậy, con sẽ thiết lập một sự nối kết ý thức càng ngày càng chặt chẽ với cái ta cao. Con sẽ cảm nhận được dòng chảy năng lượng, là năng lượng dựa trên tình thương liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào tâm con. Đây mới là điều khiến con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn.

Cho nên cái hiểu đích thực về sinh kế cao hơn là con làm tất cả những gì có thể để tái lập sự kết nối với cái ta cao hầu con đạt tới điểm cảm thấy mình trọn vẹn và viên mãn trong bản thân mình. Nói cách khác, con không cần bất cứ gì từ thế giới này để cảm thấy trọn vẹn. Con vẫn có thể mong muốn có một số thứ, trải nghiệm một số thứ của thế gian, nhưng con không bị điều khiển bởi nhu cầu ám ảnh cưỡng chế muốn đạt được gì đó từ thế gian để lấp đầy lỗ hổng. Vì con đã bước ra ngoài tự ngã cho nên con không trải nghiệm thế gian qua tự ngã, và vì vậy con không cảm thấy lỗ hổng. Thay vào đó, con trải nghiệm sự nối kết với cái ta cao, dòng tình thương chảy xuống từ cái ta cao, và điều này khiến con tràn đầy bên trong. Tất nhiên con vẫn có thể còn một số khía cạnh của tự ngã, một số những cái ngã – nếu có thể gọi như vậy – có mặt trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, và con có thể tạm thời bước vào chúng và bị chúng khống chế. Nhưng con có khả năng lại bước ra ngoài chúng, kết nối lại với cái ta cao và lại trải nghiệm sự trọn vẹn.

11.8. Tăng dòng chảy năng lượng

Rõ ràng là trên đường tu có nhiều bước, cho nên sẽ tới một điểm con bắt đầu có những hé thoáng nối kết với cái ta cao, con bắt đầu có những cái mà nhiều người gọi là trải nghiệm thần bí. Sau đó con lại trở về nhận biết bình thường của mình, lại bị nhuộm màu bởi tự ngã đang đồng hóa với những cái ngã kia và con lại phản ứng theo chúng. Nhưng một khi con đã trải nghiệm được sự nối kết với cái ta cao, con có thể sử dụng trải nghiệm này để bước ra ngoài sự đồng hóa với nhân cách vỏ ngoài và thiết lập thêm nối kết. Dần dần với thời gian, càng ngày con càng nối kết nhiều hơn và những trường hợp bị ngã vỏ ngoài, nhân cách vỏ ngoài, áp đảo ngày càng hiếm hoi. Con càng nối kết và trọn vẹn lâu hơn, thường xuyên hơn. Đây là ý nghĩa tối hậu của Chánh mạng.

Chánh mạng cũng liên quan đến lượng năng lượng chảy vào tâm con từ cái ta cao, và điều này tùy thuộc vào hai yếu tố. Đầu tiên phải có một sự nối kết rộng mở hơn. Như thày đã giải thích, có nghĩa là con biến hóa năng lượng trong ba thể cao của con đang ngăn chặn sự nối kết, con gỡ bỏ các tin tưởng hư giả hầu con làm sạch các thể cảm xúc, lý trí, bản sắc. Khi có nhiều khoảng trống hơn thì nhiều năng lượng hơn sẽ chảy xuống.  

Kỳ thực con có thể thỉnh năng lượng chảy vào các thể phàm của con, và con có thể làm vậy qua nhiều kỹ thuật khác nhau, kể cả việc tụng niệm như trong đạo Phật, hay nhiều bài chú, bài thỉnh là kỹ thuật hiện đại hơn được trao cho con người trong thế giới ngày nay. Điều này đòi hỏi con phần nào cởi mở với một cách nhìn mới khi con nhận ra là kỳ thực có nhiều sinh thể hiện hữu nơi tầng cõi vượt khỏi vũ trụ vật chất. Qua việc thỉnh gọi các sinh thể này, con có thể thỉnh những năng lượng đặc thù mà các vị đó biểu tượng.

Trong nhiều giáo lý tâm linh đã có khái niệm là có bảy loại năng lượng chính mà con có thể thỉnh, có khi được gọi là các tia sáng tâm linh. Có những vị chân sư đặc thù đảm nhiệm việc rải truyền các năng lượng này đến trái đất. Khi con thỉnh cầu các chân sư đó, con có thể gia tăng dòng chảy năng lượng xuyên qua bản thể con vào trường năng lượng của con, được thể hiện xuyên qua những điểm mà nhiều giáo lý tâm linh gọi là luân xa (chakra) tức là những trung tâm năng lượng trong năng trường của con.

Qua việc gia tăng nhận biết này, con có thể gia tăng dòng chảy đó, gia tăng lưu lượng. Tuy nhiên có một mặt khác nữa là con cũng hiểu được ý nghĩa truyện ngụ ngôn của Giê-su về ba người đầy tớ. Truyện kể có chủ nhà kia đi xa, ông trao cho ba người những lượng ta-lăng – hay vốn liếng – khác nhau. Khi trở về, ông hỏi họ đã làm gì với các ta-lăng. Hai người đã nhân ta-lăng lên gấp bội, còn một người thì chôn ta-lăng dưới đất để khỏi đánh mất. Hai người đã nhân ta-lăng lên được chủ tưởng thưởng. Câu chuyện chỉ ra cho con thấy một nguyên lý chung là khi con lấy năng lượng mà con đã nhận được từ một nguồn cao hơn rồi sử dụng để nâng cao cả tổng thể, để phụng sự những phần khác của sự sống và đem lại sự cải thiện ở đâu đó, thì những gì con đã dùng sẽ được nhân lên. Như thày đã giải thích, cho dù con có làm gì thì con cũng gửi ra ngoài một xung lực năng lượng luân lưu qua bốn tầng của vũ trụ vật chất, nhưng nếu xung lực này dựa trên tình thương, nó sẽ vượt quá vũ trụ vật chất, nó được nhân lên và con sẽ nhận lại nhiều năng lượng hơn so với những gì con đã gửi ra ban đầu.

Điều này có nghĩa là giờ đây đời con trở thành một vòng xoáy ốc hướng thượng, qua đó con dùng năng lượng với một sự nhận biết về tổng thể, con nỗ lực nâng cao một khía cạnh nào đó của tổng thể, với kết quả là con nhận thêm nhiều năng lượng sáng tạo hơn nữa để con lại có thể phụng sự nhiều hơn, và chu kỳ này cứ thế tăng lên suốt đời con. Con có thể nói việc xây dựng vòng xoắn ốc năng lượng tuần tự này là hình thức sinh kế tối hậu. Nó có thể biểu hiện qua nhiều loại hoạt động, nhiều công trình khác nhau trong đời sống, qua đó con dùng năng lượng sáng tạo này cùng nhận biết cao hơn của con, cảm nhận nối kết của con để đem lại cải tiến. Thật rõ ràng là nếu con làm vậy, con sẽ nhận được phần thưởng tương ứng. 

11.9. Làm việc để nâng cao tổng thể

Một lần nữa con thấy có những người tâm linh tìm thấy một giáo lý tâm linh nhưng lại nhìn giáo lý tâm linh qua phin lọc của ngã tách biệt. Trong cốt yếu, họ nói: “Làm thế nào tôi có thể dùng giáo lý này để tạo lợi thế cho ngã tách biệt? Chẳng hạn làm thế nào tôi dùng nó để cảm thấy an toàn, yên ổn? Hay làm thế nào tôi dùng nó để cảm thấy sung sướng hơn người khác?” và đó là loại mong muốn của ngã tách biệt. Con đang cố tâng mình lên cao hơn người khác, thậm chí có lẽ con còn dìm người khác xuống. À, chuyện này sẽ không giúp con khắc phục ảo tưởng tách biệt, phải không con? Con càng dùng giáo lý tâm linh để khiến con cảm thấy mình đặc biệt so với người khác thì con sẽ càng củng cố cho ngã tách biệt cùng ảo tưởng con là một sinh thể tách biệt.

Đâu là mục đích của giáo lý của Phật và con đường Bát chánh đạo? Đó là để khắc phục chính ảo tưởng đó. Chỉ bằng cách chất vấn ảo tưởng, tách rời cái Ta Biết ra khỏi ngã vỏ ngoài, thì con mới có thể nối kết với Phật tánh và nhờ vậy bước vào vòng xoắn ốc hướng thượng nơi con dần dần ngừng đồng hóa với ngã vỏ ngoài, và thay vào đó con đồng hóa với cái ta cao là sự biểu hiện của Phật tánh. Con trở nên nối kết trước tiên với cái ta cao trong chính con, và xuyên qua nối kết này, con nối kết với mọi người khác, với môi trường, với mọi sự sống. Con bắt đầu hành động dựa trên sự nhận biết về tổng thể và đây chính là Phật tánh.

Đây là sinh kế tối hậu. Con không chú tâm vào tiền bạc, con không chú tâm vào chuyện đánh giá xem hình thức nghề nghiệp nào là ổn thỏa cho một người tâm linh. Mà con chú tâm vào: “Đâu là nơi tôi có thể đem lại sự cải thiện? Đâu là nơi tôi có thể phụng sự tổng thể?” Khi con tập trung vào đó, những đại lộ mới sẽ mở ra mà rất có thể ngày hôm nay con không thể tưởng tượng nổi. Khi con nâng cao nhận biết, con nhìn ra cơ hội mới và con trực nhận đây là hướng đi đúng đắn. Đời con trở thành một vòng xoắn ốc phụng sự cứ lên cao hơn mãi, trong khi con vẫn có đầy đủ phương tiện để chăm sóc cơ thể vật lý của con, gia đình của con lẫn những trách nhiệm khác.

Con không thể chỉ quyết định bằng tâm vỏ ngoài. Qua trực giác con phải hòa điệu với cái ta cao của con, với Kế hoạch Trọn đời của con và luôn luôn nỗ lực vượt xa hơn tâm vỏ ngoài chỉ biết xem nó là một sinh thể tách biệt trong một thế giới có nhiều sinh thể tách biệt khác. Con nỗ lực vượt ra khỏi Biển Luân hồi cho nên con an bình. Đây là Sinh kế Cao hơn.

17 | Con chú tâm vào điều gì?

Bài giảng của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Chúng ta đang đi đến giai đoạn cuối của Bát chánh đạo, đây là giai đoạn tập trung, mà có lẽ tốt hơn nên dịch là chú tâm. Con chú tâm vào điều gì? Thày đã nói điều vô cùng quan trọng là con cần nhận ra Bát chánh đạo – con đường tâm linh, con đường dẫn đến các tầng nhận biết cao hơn – có nhiều giai đoạn.

Con tới điểm tìm thấy một giáo lý tâm linh vỏ ngoài. Ở đây không có sự đánh giá là con đang ở mức nào khi con tìm thấy giáo lý. Suốt các thời đại, nhiều người đã đánh giá như vậy và nói: “Đây là một giáo lý sao có vẻ quá tuyệt hảo, nó tự cho là cao siêu, đặc biệt, và vì tôi đã tìm ra cho nên phải có nghĩa tôi cũng là một đệ tử tuyệt xảo.” Điều này không nhất thiết là đúng, và cũng không nhất thiết là sai, nhưng con cần nhận ra một điều, đó là con đang sống trong một thời đại mà thông tin lan truyền dễ dàng hơn bao giờ hết.

Có trang mạng, có sách, cho nên người ta có thể tình cờ bắt gặp một giáo lý tâm linh ngay cả khi họ chưa sẵn sàng nhận giáo lý này, hay họ chưa đạt được một mức tâm thức nào đó trong giai đoạn đi từ những mức nhận biết thấp hơn lên những mức cao hơn. Thày nói điều này không có ý chê trách. Thật không xây dựng mà áp đặt nhận định này lên mức tâm thức của con lúc con tìm ra một giáo lý tâm linh. Điều quan trọng con cần nhận ra là khi con tìm thấy đường tu thì con đang ở một mức tâm thức nào đó, và mức tâm thức này sẽ pha màu và ảnh hưởng cách con tiếp cận đường tu. Hay nói cách khác, thật khó lập ra một phương pháp chuẩn mực hay một quy trình chuẩn mực mà tất cả mọi người phải theo khi họ tìm ra một giáo lý tâm linh. Mỗi người cần khởi sự ở mức tâm thức mà họ đang có, và họ không thể làm gì khác được. Khi tìm ra một giáo lý, nhiều người cần đi qua một giai đoạn, có lẽ một giai đoạn khá dài, sử dụng giáo lý để củng cố thế giới quan hiện hữu của mình hay để xây dựng một thế giới quan mới dựa trên giáo lý. Thế giới quan này có căn bản là quan điểm tách biệt và mong muốn nâng mình lên cho có vẻ cao trội, hay khiến mình cảm thấy an toàn do mình đang đi theo giáo lý. 

Cũng có nhiều người cần cảm thấy: “Vì tôi theo giáo lý tâm linh này cho nên thế nào tôi cũng sẽ được cứu rỗi, thế nào tôi cũng sẽ giác ngộ.” Cảm giác này khiến họ dễ đương đầu hơn với hoàn cảnh sống hiện tại của họ. Đây chỉ là một số nhu cầu có mặt ở những tầng thấp hơn của đường tu. Con người có những nhu cầu như vậy. Họ không thể làm gì khác hơn là tiếp cận con đường tâm linh xuyên qua các nhu cầu đó, và họ phải nếm trải nghiệm đó trong một thời gian cho đến khi tâm họ mở ra một tầm nhìn cao hơn về đường tu. Chúng ta có thể nói là một số người khi tìm ra con đường tâm linh sẽ đi qua một giai đoạn sử dụng giáo lý tâm linh để xây dựng hay củng cố một thế giới quan sẽ giữ họ trong tách biệt. Điều này không thể tránh được. Một số rốt cuộc có thể đạt đến điểm sẵn sàng vượt quá giai đoạn này, trong khi một số khác sẽ vẫn ở trong đó cho đến hết kiếp.

17.1. Bí quyết là thay đổi chính mình

Giai đoạn kế tiếp là gì? À, giai đoạn tiếp theo là con bắt đầu nhận ra con cần thay đổi chính mình. Không phải là chuyện thay đổi người khác, hay thay đổi thế giới, hay thay đổi Thượng đế và những gì Thượng đế sẽ làm cho con. Mà là thay đổi chính con. Con bắt đầu nhận ra điều thày đã mô tả trong loạt bài giảng này, đó là con cần chú tâm thay đổi tâm mình từ bên trong, thay vì thay đổi các hoàn cảnh bên ngoài trước hết, với hy vọng điều này sẽ thay đổi trạng thái tâm con. 

Khi con bắt đầu nắm được điều này thì đó là lúc con bước vào giai đoạn mà công việc chủ yếu là kéo mình ra khỏi lực hút từ tính của tâm thức đại chúng. Mọi sự đều liên kết với nhau, vì vậy con là một phần của tâm thức tập thể của nhân loại. Con cũng là một phần của tâm thức tập thể trong nền văn hoá, chủng tộc và nhóm người nơi con đã lớn lên. Điều con có thể thấy trong tất cả những nền văn hóa này là có một quan niệm nào đó về sự bình thường. Đây là một điều bình thường trong văn hóa của con và có một áp lực từ tâm thức đại chúng muốn con phải tuân theo điều bình thường này. Dĩ nhiên, chuẩn mực cho sự bình thường được quy định dựa trên ảo tưởng tách biệt và tâm thức nhị nguyên. Hầu hết mọi nền văn hóa đều mang một quan điểm nào đó là mình cao trội hơn các nền văn hóa khác. Có lẽ họ đang xung đột với văn hóa khác và họ không thể thấy mình là gì khác hơn. Tất nhiên, để có thể tiến bộ trên con đường tâm linh, con cần kéo con lên trên tâm thức này.

Giờ đây con bước vào giai đoạn mà chú tâm chính yếu – sự tập trung chính yếu – là giải phóng mình khỏi lực hút từ tính của tâm thức đại chúng. Như thày đã mô tả, con làm điều này bằng cách chuyển hóa các năng lượng đang cho tâm thức đại chúng một cái chuôi để nó nắm lấy kéo con đi. Con làm điều này bằng cách trở nên ý thức về các khuôn nếp phản ứng, các ngã tách biệt của mình, con giải tỏa các ảo tưởng và để cho ngã chết đi. Tâm thức đại chúng chỉ có thể lôi kéo con khi trong bốn thể phàm của con có gì đó để nó lôi kéo. Cũng giống như trọng lực vậy, trọng lực chỉ có thể hấp dẫn vật gì có khối lượng. Vật nào không có khối lượng thì trọng lực không làm sao hấp dẫn được. Khi con làm điều này, con càng lúc càng độc lập với tâm thức đại chúng. Con nâng mình lên khỏi tâm thức đại chúng để khi những con quỷ của Mara đến cám dỗ con, chúng không tìm thấy gì trong con để lôi kéo con trở lại các khuôn nếp mà con vốn thấy trong văn hóa của con hay ngay cả trong nhân loại nói chung. Con không bận tâm chuyện chiều theo tiêu chuẩn, mà con chỉ quan tâm đến việc nâng cao tâm thức của con.

17.2. Bước trên con đường tâm linh như một cá thể

Giờ đây như thày đã nói, một khi con trong lọc các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của mình khỏi những ngã tách biệt này và những năng lượng thấp, thì con bắt đầu kết nối nhiều hơn với cái ta cao của con. Đây là lúc con có thể đạt đến một điểm then chốt trên con đường tâm linh, và điểm này khiến nhiều người bối rối. Con có thể đạt đến một điểm con đã giải thoát mình, phần lớn hay thậm chí hoàn toàn, khỏi sức hút của tâm thức đại chúng, nhưng con làm được vậy bằng cách nào? Bằng cách nào con đã giải thoát mình khỏi tâm thức tập thể? À, con chỉ có thể làm được vậy dựa trên mức nhận biết của con, và rất có thể mức nhận biết của con khi khởi sự đường tu sẽ ít nhất cho con cảm giác con là một sinh thể tách biệt. Lẽ tự nhiên trên trái đất có nhiều người bị khống chế bởi tâm thức tập thể đến mức họ có rất ít ý thức cá thể. Có thể nói là họ trôi theo dòng nước cuốn của tâm thức đại chúng thay vì tuôn chảy theo cách riêng của mình.

Để đi trên con đường tâm linh, con cần bước đi như một cá nhân riêng biệt vì hiện nay không có một nền văn hóa nào trên trái đất xem việc tu tập tâm linh là chuyện bình thường. Con phải luôn đi ngược lại quy chuẩn xã hội và con chỉ có thể làm vậy như một cá nhân riêng biệt. Con thật sự đang làm gì khi trong giai đoạn này con nâng mình lên, giải thoát mình khỏi sức hút của tâm thức đại chúng? À, con đang xây dựng một ý thức cá thể mới của một người tâm linh, nhưng con làm như thế nào? Đó là con xây dựng hay con tạo ra một tập hợp những ngã tách biệt dựa trên việc xem mình là một người tâm linh đang bước chân trên đường tu trong giáo lý đặc thù của con. Thày tuyệt đối không ngụ ý điều này có gì sai trái vì con không thể làm gì khác được. Con phải bắt đầu ngay vị trí con đang đứng. Ở giai đoạn đầu, con phải giải thoát mình khỏi tâm thức đại chúng, và con làm vậy bằng cách tạo dựng một ngã riêng biệt thật mạnh mẽ để nó không thể bị cuốn hút vào những khuôn nếp tập thể trong văn hóa của con. Con đang thật sự nắm lấy một giáo lý tâm linh và dùng giáo lý này để xây dựng một tập hợp ngã tách biệt có khả năng cưỡng lại áp lực hay sức hút từ tâm thức tập thể.

Một khi con đã làm vậy tới một mức nào đó, thì con đến bước ngoặt quan trọng nhất trên đường tu, vì giờ đây con đối mặt với một chọn lựa cốt yếu. Chọn lựa này là liệu con sẽ tiếp tục bồi đắp cho ý niệm bản sắc tách biệt này như một sinh thể riêng biệt, hay con sẽ bắt đầu hiểu ra là mặc dù bản sắc riêng biệt này đã hữu ích, nó không thể nào đưa con đến những giai đoạn cao hơn của đường tu. Thật vậy, nó không thể đưa con quá một điểm nào đó. Thày đã có giải thích mục đích thực của con đường tâm linh là con khắc phục mọi ý niệm bản ngã, mọi cái ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Cho nên cái ngã giúp con tự do khỏi tâm thức đại chúng được xây dựng trên ý niệm tách biệt – không nhất thiết là nhị nguyên hay xem mình là kẻ thù của người khác, nhưng nó khiến con đứng riêng khỏi người khác và tâm thức đại chúng.

Để có thể đi tiếp lên các giai đoạn cao hơn của đường tu, con cần bắt đầu nhận ra là ngã này đã hoàn tất mục tiêu của nó, nhưng giờ đây con cần bắt đầu buông bỏ nó. Dĩ nhiên, điều này nghe có vẻ mâu thuẫn – thoạt tiên con dựng lên một cái ngã, sau đó con phải gỡ bỏ nó đi. Nhưng con hãy hình dung một chiếc hỏa tiễn, một hỏa tiễn có lẽ gồm có ba tầng. Có một bình nhiên liệu khổng lồ cùng động cơ nằm bên dưới được dùng để đẩy hỏa tiễn đến một độ cao nào đó nơi trọng lực trái đất và lực cản không khí giảm bớt. Sau đó bình nhiên liệu đã cạn, và để hỏa tiễn có thể bay cao hơn thì nó cần tách khỏi bình nhiên liệu và bộ động cơ đầu tiên, rồi khởi động bộ động cơ thứ nhì để đẩy nó lên mức cao hơn nữa. Ý niệm bản ngã của con cũng tương tự như vậy. Con có một cái ngã và con bồi đắp nó để nó đưa con vượt khỏi sức hấp dẫn của tâm thức đại chúng, nhưng sau đó con cần bỏ ngã này đi để con lên cao hơn. Có sự khác biệt giữa hỏa tiễn và chính con, đó là con không thể và hiển nhiên con không phải loại bỏ tất cả các ngã cùng một lúc. Con cần loại bỏ chúng lần lượt vì thật sự không chỉ có một cái ngã, mà một tổ hợp ngã tách biệt, cho nên con có thể tháo gỡ từng cái một.

Suốt các thời đại nhiều người đã không nắm được quá trình này. Có một số ít đã thấu triệt được nhưng phần đông thì chưa, cho nên họ quá dính mắc với ngã này, hay với bản sắc họ đã xây dựng, đến mức họ không chịu buông nó ra. Như thày đã có mô tả về tự ngã, những người này bây giờ tin rằng đây thật sự là cái ngã sẽ đưa họ lên thiên đàng hay niết bàn, và vì thế họ cần phải tiếp tục bồi đắp, cải tiến và kiện toàn nó cho đến khi nó có thể bước vào thiên đàng, hay cõi tâm linh, hay niết bàn hay bất cứ gì con có thể gọi. Đây là một ảo tưởng, và là một ảo tưởng mang tiềm năng tác hại khiến nhiều người bị mắc kẹt, thậm chí trong nhiều kiếp đầu thai. Thày đã cho con các công cụ giúp con nhận ra tại sao đây là một ảo tưởng, đó là vì nó dựa trên tách biệt, ảo tưởng tách biệt.

17.3. Niềm tự hào tâm linh 

Con cũng có thể nhìn những phong trào tâm linh mà con đã hoặc đang tham gia, và nhận thấy có những người đã ở trong những phong trào này có lẽ cũng khá lâu, và họ đã tạo nên một niềm tự hào, tự hào về các thành đạt tâm linh, về sự hiểu biết giáo lý và công phu tu tập của mình. Họ cảm thấy không những họ cao hơn những người ở ngoài giáo lý, mà cao hơn cả những người ở trong giáo lý nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm như họ. Nếu con cho phép mình bước lùi lại thì con có thể thấy rõ niềm tự hào tâm linh này chỉ có thể xuất phát từ một ngã tách biệt, và một ngã tách biệt thì không thể đưa con lên một mức nhận biết cao hơn. Nó không thể đưa con đến quả vị Phật, nó không thể đưa con lên niết bàn hay thiên đàng. Không cách gì mà chuyện này có thể xảy ra.

Vậy con bắt đầu nhận thấy khi đạt đến mức này, con cần xoay chuyển tâm mình. Con cần đi thêm một sự xoay chuyển để nhận ra là từ giờ trở đi con đang xây dựng một loại ngã khác. Con đang xây dựng một cái ngã không dựa trên việc thấy mình tách biệt khỏi tâm thức đại chúng, mà thấy mình nối kết với cái ta cao của mình. Trong quá trình xây dựng ý niệm bản sắc nối kết này, con dần loại bỏ một số những ngã tách biệt mà con đã tạo ra khi con còn đang nâng mình khỏi tâm thức đại chúng. Đây chỉ là một giai đoạn khác của đường tu, thật sự không có gì bí ẩn ở đây cả, chỉ là điều mà nhiều người không nhận ra thôi.

Điều con cần làm ở đây là bắt đầu sẵn lòng chất vấn cách con tiếp cận con đường tâm linh. Con đã nhìn đường tu như thế nào? Liệu có những yếu tố nào mà con có thể nhận diện khởi lên từ tách biệt hay có lẽ ngay cả từ nhị nguyên? Con có thể bắt đầu nhìn ra là những yếu tố này đang giới hạn con, chúng khiến con mất tự do. Về cơ bản, con có thể nhìn đường tu như một quá trình nhờ đó tâm con càng lúc càng tự do hơn. Con có thể thấy những ai bị tâm thức đại chúng khống chế đều không có tự do tâm trí. Ý niệm bản sắc của họ bị định đoạt bởi ý niệm bản sắc của tập thể. Vì tâm lý trí của họ bị áp đảo bởi tâm đại chúng, họ thường có xu hướng tư duy theo một kiểu nào đó và hiếm khi đưa ra một ý kiến cá nhân độc lập. Họ thường không thể chọn cảm xúc riêng của mình mà họ động cảm theo bất kỳ khuôn nếp nào có mặt trong tâm thức tập thể. Nếu có một tình huống khiến những người trong nhóm họ phản ứng giận dữ thì họ cũng sẽ phản ứng giận dữ. Thường họ xem đó là chuyện hoàn toàn tự nhiên, là cách phản ứng duy nhất. Cho nên họ không tự do trong tâm trí, họ không tự do lựa chọn phản ứng trước một hoàn cảnh, họ không tự do lựa chọn hành động, cảm xúc, suy nghĩ hay cả ý niệm bản sắc của họ.

Khi con còn xây dựng một cái ngã đưa con ra khỏi tâm thức đại chúng thì con ngày càng tự do hơn, nhưng chính cái ngã khiến con tự do khỏi tâm thức tập thể giờ đây lại trở thành một giới hạn cho tâm con, vì con nghĩ con phải ở lại trong ngã đó. Con phải ở lại trong lối tiếp cận đường tu mà con đã chấp nhận khi con ở một mức tâm thức thấp hơn, vì vậy con vẫn không đạt được tự do trong tâm. Con tự do hơn lúc con bị tâm thức tập thể chế ngự, nhưng con chỉ tự do khỏi tâm thức tập thể vì con đã tạo ra một ý thức cá thể mạnh mẽ, nhưng đây vẫn là một ý thức cá thể vỏ ngoài và nó vẫn giới hạn tự do tâm trí của con.

17.4. Gắn kết với cái ta cao hơn của con 

Bước kế tiếp là con giải phóng mình khỏi ngã này, khỏi tổ hợp những ngã này, trong đó con thấy mình là một sinh thể riêng biệt không kết nối đang cố nâng tâm thức mình lên so với một đối tượng là tâm thức tập thể. Khi con xây dựng ý thức riêng biệt này thì kỳ thực con đang phản ứng với tâm thức đại chúng, thậm chí con chống cự lại tâm thức này khi con nói: “À, tôi sẽ không cảm xúc, suy nghĩ hay đồng hóa mình với tâm đại chúng. Tôi sẽ làm theo cách khác.” Vậy thì con vẫn đang dính liền với tâm thức đại chúng, con giống như một hành tinh quay xung quanh mặt trời của tâm thức đại chúng. Giờ đây con cần tự gia tốc để thay vì quay xung quanh nó, thì hành tinh của con đi vào một quỹ đạo xoắn ốc đưa con vượt khỏi điểm này. Con làm vậy bằng cách nhận ra bước kế tiếp là thay vì gắn kết với tâm thức tập thể thì con bắt đầu gắn kết với cái ta cao hơn của con – và cái này đến từ bên trong con, không phải từ bên ngoài con.

Đây là lúc con đi vào con đường nội tâm, giai đoạn nội tâm của đường tu, khi con chú tâm vào tâm thức của mình – giải quyết trạng thái tâm thức mình. Điều này giúp con tăng trưởng và theo một nghĩa nào đó, con có thể tiếp tục làm việc trên tâm lý mình một thời gian khá lâu và đạt được nhiều tiến bộ khi làm vậy. Nhưng vẫn đến một điểm con cần nhìn nhận là mặc dù con đã nâng tâm thức, đã trong lọc tâm thức, bước kế tiếp thật ra là con phải tạo một ý niệm bản ngã mới dựa trên sự kiện con là một sinh thể kết nối, dựa trên trải nghiệm con là một sinh thể kết nối. 

Giai đoạn đầu là con kết nối với cái ta cao của con và nhận ra là ngoài nhân cách vỏ ngoài và ý thức riêng biệt dính liền với thế giới, thì cái ta cao của con cũng có một sắc tính, một cá thể. Thật sự con không thể gọi đó là một cá tính hay một nhân cách như hầu hết mọi người quan niệm, nhưng cái ta cao của con có những đặc tính cá thể mà con có thể neo trụ vào, và vì vậy con có thể bắt đầu đem đặc tính này vào nhận biết ý thức và biểu lộ nó qua các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Giờ đây con đang trong giai đoạn quan hệ với cái ta cao của con thay vì quan hệ với tâm thức đại chúng hay với người khác, và con đang biểu đạt một phần cá thể này từ cái ta cao.

17.5. Bước vào tâm thức hợp nhất

Giai đoạn tiếp theo là con bắt đầu nhận ra cái ta cao của con không thuộc thế giới vật chất. Nó cũng không nằm ở bốn tầng, vật lý, tình cảm, lý trí và bản sắc. Cái ta cao của con nằm ngoài thế giới hình tướng mà con đang biết đây. Nó vẫn có hình tướng nhưng nó ở nơi mà nhiều người gọi là cõi tâm linh. Khi con vượt khỏi thế giới hình tướng này thì tất cả đều là một, tất cả đều là sự duy nhất, và cái ta cao của con thấy được sự duy nhất này vì nếu không, nó không thể ở trên cõi cao đó. Con không thể bước vào cõi cao đó nếu con không thấy tất cả là một.

Giai đoạn kế tiếp là con đem sự hợp nhất này từ cái ta cao vào nhận biết ý thức. Giờ đây con bắt đầu xây dựng một ý niệm bản sắc không phải dựa trên sự tách riêng với tâm thức đại chúng, không phải dựa trên việc con vẫn là một sinh thể riêng biệt đang quan hệ với cái ta cao. Con xây dựng một bản sắc dựa trên việc thấy mình là một con người không những kết nối với cái ta cao mà còn kết nối với mọi người khác và với môi trường vật lý của con. Hay nói cách khác, con bắt đầu vượt qua ý niệm tách biệt – không nhất thiết là nhị nguyên mà ý niệm con đứng riêng khỏi người khác, đứng riêng khỏi môi trường, vân vân. 

Đây là Chánh định. Đây là ý nghĩa sâu sắc, ý nghĩa cao hơn của sự chú tâm hay tập trung. Con không tập trung vào tâm thức đại chúng, con không chú tâm vào chính mình như một sinh thể cá biệt, mà con chú tâm vào tổng thể, con chú tâm vào kết nối, con chú tâm vào hợp nhất, và điều này có nghĩa là giờ đây con bắt đầu nhìn cuộc sống theo một cách khác. Thay vì cân nhắc: “Làm sao tôi có thể nâng mình lên như một cá nhân?” thì con lượng định: “Làm sao tôi có thể nâng tổng thể lên, làm sao tôi nâng người khác lên? Những người tôi biết quanh tôi, làm sao tôi nâng họ lên? Làm sao tôi giúp họ nâng tâm thức? Làm sao tôi giúp cải thiện một khía cạnh đặc thù của cuộc sống? Làm sao tôi góp phần vào sự tiến bộ của nhân loại và thế giới nơi tôi đang sống?”

17.6. Chú tâm nâng cao tổng thể 

Trái đất đã có những tiến bộ đáng kể theo những gì được ghi nhận trong lịch sử. Con có thể thấy những tiến bộ đạt được trong lãnh vực công nghệ hơn hai thế kỷ qua. Con cũng nhận thấy tiến bộ công nghệ không song hành với tiến bộ của tâm thức nhân loại. Đã có vài tiến bộ nhưng vẫn chưa đủ để con người có thể sử dụng những tiến bộ công nghệ một cách cân bằng. Con thấy được điều này qua sự kiện công nghệ gây ô nhiễm môi trường, thay đổi khí hậu, vân vân. Con cũng thấy vũ khí càng ngày càng vũ bão và có nguy cơ giết hại nhiều người hơn. Con có thể thấy có sự tiến triển nhưng cần phải tiến hơn nữa, đặc biệt cần phải gia tốc tâm thức nhân loại, nâng cao tâm thức tập thể. Bằng cách nào để điều này xảy ra? Bằng cách nào con nâng cao tâm thức tập thể? À, điều này chỉ có thể xảy ra khi từng cá nhân nâng cao tâm thức của mình và nhờ vậy kéo tất cả lên theo. 

Ngay cả trong giai đoạn con tìm cách nâng mình lên khỏi sức kéo của tâm thức đại chúng, tất nhiên con không hoàn toàn tách khỏi tâm thức này. Tâm thức đại chúng đang kéo con, nhưng con cũng đang kéo tâm thức đại chúng. Khi con nâng mức nhận biết của mình lên, con cũng nâng tâm thức đại chúng lên. Chừng nào con còn chú tâm nâng mình lên như một cá nhân thì sức kéo không mạnh lắm, nhưng ngay lúc con xoay chuyển và thấy mình như một sinh thể nối kết thì sức kéo của con trên tâm thức đại chúng trở nên mãnh liệt gấp bội. Do đó tác động của con lớn hơn hẳn. Con đóng góp nhiều hơn hẳn vào việc nâng cao mọi sự sống bằng cách nâng cao tâm thức tập thể. Có người gọi việc này là giữ cân bằng tâm linh cho hành tinh hay cho xã hội, qua đó con kéo đại chúng lên cho đến khi mọi người bắt đầu nhìn ra nhu cầu phải chuyển đổi một điều gì đó.

Dân chủ đã ra đời như thế nào? Khi có đủ túc số tới hạn những con người kinh qua ngay trong bản thân họ một sự chuyển đổi tâm thức, thì họ bắt đầu ngộ ra các ý tưởng và lý tưởng đặt nền tảng cho dân chủ. Họ dần dần chấp nhận các ý tưởng này và trong khi họ nâng cao nhận biết của họ thì họ cũng kéo đại chúng lên theo, cho đến khi mọi chuyện bắt đầu lan ra như những vòng tròn trên mặt nước. Càng ngày càng có nhiều người bắt đầu thấy được những sự thật làm nền tảng cho dân chủ sao quá hiển nhiên. Con người có những quyền hạn mà không một thế lực nào trên trái đất có thể tước đi, bởi vì quyền này được trao từ một tầng nhận biết cao hơn. Đây là cách dân chủ đã ra đời, đây là cách tất cả mọi tiến bộ đã diễn ra, bằng việc nâng cao nhận biết của đại chúng, trong đó một túc số tới hạn đã bất ngờ xoay chuyển và thấy được những gì họ không thể thấy trước đó. Thay vì tranh luận đúng sai, họ chỉ nhìn ra: “Ừ nhỉ, rành rành ra đó. Chuyện này thật quá hiển nhiên. Xã hội cần nhắm hướng này mà đi tới.”

Đây là tiềm năng to lớn của con khi con đạt đến tầng cao hơn này của đường tu. Đó là chuyển đổi sự chú tâm. Thay vì chú tâm phát triển cá nhân mình thì con chú tâm nâng cao tổng thể. Đây là cách duy nhất khiến con có khả năng thật sự vượt quá một điểm nhất định trên đường tu. Con không thể đạt quả vị Phật nếu con nhìn mình như một cá nhân tách biệt, chỉ quan tâm đến cá nhân mình mà không đoái hoài đến tổng thể. Quả vị Phật là sự chú tâm vào tổng thể, tập trung vào toàn thể chứ không chỉ một phần nào đó, nhưng tất nhiên, con là một phần của tổng thể và đó là lý do con có thể kéo cả tổng thể đi lên.

Con thấy ở đây có một sự khác biệt cốt yếu giữa việc là một phần của tâm thức đại chúng với việc con vẫn là một phần của tổng thể. Hay nói cách khác, nếu con bị tâm thức đại chúng khống chế thì con không kéo tâm thức này lên được – hoặc con không tác động được gì, hoặc kỳ thực con sẽ kéo tâm thức tập thể đi xuống. Chỉ khi con bắt đầu nâng mình lên, nâng tâm cá nhân vượt khỏi mức tâm tập thể thì con mới có thể kéo tâm tập thể lên. Con càng nâng mức nhận biết của mình lên cao, con càng chú tâm vào tổng thể nhiều hơn là vào cái ta cá nhân, thì con càng kéo tâm thức tập thể mạnh hơn, và tất nhiên con càng ít bị tâm thức này kéo xuống hơn. Con không bị dính mắc với tâm thức tập thể, nghĩa là con trở nên trong suốt trước tâm thức này.

17.7. Trở nên trong suốt 

Con có thể nói là những con quỷ của Mara đang cố kéo con quay lại với tâm thức đại chúng, và chúng có khả năng làm vậy nếu con mang một số tin tưởng, một ngã tách biệt cảm thấy nó phải phản ứng theo một cách nào đó trước cám dỗ của chúng. Giê-su đã diễn đạt điều này hơi khác qua câu “Ông hoàng của thế gian đến mà không nắm được gì trong ta.” Hay nói cách khác, có một lực nào đấy, có một tâm thức nào đấy trong thế gian muốn kéo con về những khuôn nếp cũ để ngăn hành trình tâm linh của con, ngăn con nâng cao nhận biết, cho nên con cần học cách nhận diện điều này. Con đã vượt qua các ngã tách biệt. Con đã để chúng chết đi. Giờ đây con trở nên trong suốt.

Lực này có thể phóng cái gì đó tới con – có thể là một suy nghĩ, một năng lượng cảm xúc, một xung lực nào đó ở tầng bản sắc – nhưng khi nó đi vào tâm con thì không có gì ở đó để nó có thể đánh trúng, khuấy động và tăng cường. Lực này đi xuyên thẳng qua con vì con không dính mắc, con tự do. Giê-su đã diễn đạt điều này trong câu nói: “Chuyện này can hệ gì với con, con cứ bước theo ta.” Hay nói cách khác, con hãy đi theo vị thày, đi theo nhận biết cao hơn và buông bỏ tất cả những cám dỗ kia đang kéo con vào khuôn nếp phản ứng.

Đâu là một cách để nâng cao toàn thể? Đó là chứng tỏ cho mọi người thấy là có một cách phản ứng khác hơn là cách thịnh hành nhất trong tâm thức đại chúng trong văn hóa của họ. Nếu người thân trong gia đình con có xu hướng phản ứng giận dữ trong một số tình huống, và nếu con cho họ thấy là con không phản ứng tức giận trong tình huống như vậy thì có người sẽ hiểu. Họ sẽ hỏi ngay: “Tại sao người này không phản ứng như chúng ta, hay anh kia, hay chị kia, thường phản ứng? Chuyện gì xảy ra vậy? Có gì khác biệt?” Có người sẽ nắm bắt được điều này. Có lẽ không phải là những người thân nhất trong gia đình con nhưng một số người sẽ nắm bắt được.

17.8. Không có nhân riêng rẽ và quả riêng rẽ 

Giờ đây con bắt đầu chú tâm nâng cao tổng thể, nhưng để nâng cao tổng thể, hay tối thiểu để có tác động lớn nhất, con cần một sự xoay chuyển khác nữa. Con cần suy ngẫm giáo lý về lý duyên khởi. Thày đã có bàn về đề tài này rồi, và thày có nói là khoa học hiện đại có xu hướng muốn tách riêng một hiện tượng đặc thù rồi tuyên bố: “Đây là một kết quả riêng rẽ và nó phải có một nguyên nhân riêng rẽ.” Ấy, sự thật là không hề có kết quả riêng rẽ lẫn nguyên nhân riêng rẽ. Tất cả là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau. Như thày cũng đã đề cập, đây là nền tảng của thuyết hỗn mang qua đó một thay đổi nhỏ ở một nơi có thể đưa đến một thay đổi lớn hơn rất nhiều ở một nơi khác.

Điều con cần suy ngẫm là khi con khởi sự chú tâm nâng cao tổng thể thì trong các giai đoạn đầu của quá trình này, con có xu hướng nhìn thế giới và nói: “Đây là một vấn đề cần được thay đổi.” Chẳng hạn vấn đề có thể là: Chúng ta cần khắc phục chiến tranh và đem lại hòa bình thế giới. Con có xu hướng nói: “Đây là một hiện tượng tách biệt, chiến tranh. Chúng ta khắc phục chiến tranh bằng cách nào? À, chúng ta phải xác định nguyên nhân rồi sau đó loại bỏ nguyên nhân.” Đây là cách giải quyết vấn đề phổ biến trong các xã hội hiện đại dựa trên tâm phân tích đường thẳng, thuần trí năng. 

Không phải là con không thể đạt được một hiểu biết sâu sắc hơn về chiến tranh và nguyên nhân của chiến tranh, nhưng trên hết, con cần nhìn nhận là các nguyên nhân gây ra chiến tranh không thể đứng riêng rẽ. Tại sao vậy? Bởi vì cái gây ra chiến tranh chính là con người. Con có thể nhìn vào những lý do vỏ ngoài như: “Ồ, người ta đang đánh nhau vì dầu lửa, hay họ đánh nhau vì tiền bạc hay vì đất đai.” Nguyên nhân thật sự của chiến tranh nằm trong tâm lý con người, và nguyên nhân này thì đến từ ảo tưởng chúng ta là những sinh thể tách biệt, chúng ta có quyền định ra cho mình một chính nghĩa cuồng đại đang bị người khác chống đối, và do đó việc chúng ta sát hại những người này là chính đáng. Ảo tưởng tách biệt này là nguyên nhân tâm lý của chiến tranh. Có thể con sẽ nói: “Vậy làm sao con có thể thay đổi được chuyện này? Chúng con có thể làm gì? Chúng con không thể đi vào tâm mọi người và thay đổi tâm họ.” Điều thày đang cố truyền đạt ở đây là con không thể loại bỏ chiến tranh bằng cách tách riêng ra một nguyên nhân và tìm cách thay đổi nguyên nhân đó. Chiến tranh chỉ có thể loại bỏ khi tâm thức tập thể được nâng lên tới mức có đủ túc số những người thình lình xoay chuyển và thốt lên: “Hiển nhiên là chiến tranh không thể nào chấp nhận được.”

Điều thày đang giải thích ở đây là trong những giai đoạn đầu khi con chú tâm nâng cao tổng thể, thì con có xu hướng tìm kiếm một hiện tượng tách biệt khiến con cảm thấy mình cần làm gì đó và mình muốn thấy cái đó thay đổi. Xong con tìm cách tách riêng nguyên nhân và giải quyết nguyên nhân này để con cảm thấy mình đã thành tựu được điều gì. Rất rất nhiều người tâm linh ở mọi thời đại đều đã làm giống như vậy. Họ đã tách riêng một hiện tượng trong thế giới và cố gắng thay đổi. Dĩ nhiên nhiều người đã muốn loại bỏ chiến tranh, nhưng con thấy đó, đến nay vẫn chưa có ai thành công. Nhiều người sau một thời gian cảm thấy thất vọng, chán nản, họ nói: “Kìa, giáo lý tâm linh chẳng đem lại kết quả gì. Rõ ràng những chuyện tôi làm đã không có kết quả.” Đó là bởi vì con nhìn vào hiện tượng riêng rẽ và nguyên nhân riêng rẽ.

Xoay chuyển mà con có thể thực hiện là con không mong đợi tạo ra những thay đổi đặc trưng bên ngoài. Con tập trung, con chú tâm vào việc nâng cao nhận biết ở mức cá nhân lẫn ở mức tập thể. Con đang kéo nhận biết của cả cá nhân lẫn tập thể đi lên thay vì chỉ thực hiện những thay đổi vật lý đặc thù. Tại sao điều này lại quan trọng? Là vì như thày đã giải thích, những gì xảy ra ở tầng vật lý của thế giới này chỉ là hậu quả của những gì xảy ra ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Con có thể thay đổi một điều gì ở tầng vật lý. Con có thể lấy một cái xẻng và bắt đầu đào đất, và nếu con đào đủ lâu thì con có thể dời chuyển cả một quả núi. Nhưng đối với những hiện tượng lớn hơn, chẳng hạn như chiến tranh, con sẽ không thể khắc phục bằng những thay đổi vật lý. Chọn lựa duy nhất mà con có là quy tụ một đạo binh hùng mạnh đến mức có khả năng đánh bại quân đội của bất cứ nước nào, và điều này có thể đem lại một nền hoà bình tạm thời nào đó, nhưng liệu nó có loại bỏ được chiến tranh không, hay có loại bỏ được nguy cơ chiến tranh khỏi hành tinh này không? À, chừng nào con còn có quân đội và vũ khí thì con chưa khắc phục được chiến tranh đâu.

Thay vì tập trung vào những thay đổi vật lý đặc thù, con có thể chú tâm vào việc tạo ra thay đổi ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Con làm điều này bằng cách nâng cao tâm thức của chính con, chứng tỏ cho người khác thấy là con có thể phản ứng một cách khác, có lẽ bằng cách lan truyền một lời dạy ở thời điểm thích hợp khi người ta mở tâm ra với lời dạy đó. Với cách này, con không đề ra một mục tiêu mà mình không thể đạt được. Cho nên con tránh được sự thất vọng và chán nản vốn là dụng cụ sắc bén nhất trong bộ dụng cụ của ma quỷ. Con có khả năng bước vào một tâm thái nơi con thăng vượt sự nghi ngờ, sự thất vọng và niềm hy vọng là con sẽ chứng kiến một số thay đổi nhìn thấy.

Con thăng vượt tất cả mọi tiềm năng thất bại, con bước trên một con đường mà con biết là hiệu quả vì con biết chắc việc nâng cao tâm thức luôn luôn đem lại kết quả. Con biết con đang làm công việc nâng cao tổng thể và điều này sẽ có kết quả. Con chỉ tiếp tục như vậy, tiếp tục nâng cao nhận biết của con, tìm cách nâng cao nhận biết của người khác, và chính vì con không đòi hỏi những thay đổi đặc thù cho nên con cảm thấy mình đang đóng góp mà không mang rủi ro thất bại hay thất vọng. Tại sao con không nên mong đạt được thay đổi đặc thù? À, trong một số trường hợp thì con nên mong muốn như vậy vì trong Kế hoạch Trọn đời của con có công việc tạo ra một thay đổi cụ thể trong một lãnh vực cụ thể qua việc nhận được một ý tưởng từ một tầng nhận biết cao hơn. Điều thày đang nói đến ở đây là tầm mức bao quát khi con mong muốn tạo ra những thay đổi to lớn, chẳng hạn như chấm dứt hiện tượng chiến tranh, một điều mà cá nhân con thật sự không thể nào làm được vì tất cả đều gắn kết với nhau. Chiến tranh là một trải bày của tâm thức tập thể, và cách duy nhất để vượt qua hoàn cảnh vật lý là nâng cao tâm thức tập thể.

Để không đề ra một mục tiêu bất khả thi cho chính mình, con tập trung nâng cao tập thể và con biết đây là chuyện khả thi. Con có thể đóng góp gì đó, và khi người khác cũng làm tương tự thì chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ xây dựng đủ lực kéo để kéo tâm thức đại chúng đi lên, tạo ra một sự xoay chuyển. Một túc số tới hạn trong quần chúng đã có thể mang lại thể chế dân chủ cũng như nhiều thay đổi tích cực khác. Có rất rất nhiều người trên trái đất ngày nay – dù họ thuộc một phong trào, một giáo lý tâm linh hay là không – cũng đang làm công việc kéo tâm thức tập thể đi lên, và vì vậy họ đặt nền móng cho những xoay chuyển sẽ đem lại những thay đổi vật lý mà nhờ đó con thấy sự xoay chuyển xảy ra.

17.9. Chú tâm vào kết nối thay vì tách biệt

Trong Bát chánh đạo, trên con đường tâm linh, con đi qua nhiều giai đoạn, và ở mỗi giai đoạn con lại chú tâm, tập trung vào một số mục tiêu, khía cạnh, phương pháp. Những giai đoạn con đi qua càng ngày càng cao qua đó con chuyển sự chú tâm xuyên qua các ngã tách biệt và ngã nhị nguyên sang sự chú tâm vào kết nối. Con có thể nói là quỷ Mara, ông hoàng của thế gian, liên tục tìm cách cám dỗ con người với rất nhiều cám dỗ cá nhân, nhưng bên dưới tất cả là một cám dỗ cơ bản nhằm kéo con vào một tâm thái nhìn cuộc sống, nhìn thế giới xuyên qua phin lọc tách biệt. Con thấy mình là một sinh thể tách biệt, con thấy người khác là những sinh thể tách biệt.

Điều xảy ra trong quá trình này là khi con chú tâm vào ảo tưởng tách biệt này, khi tâm con tập trung vào ảo tưởng tách biệt này, thì con không thể thấy đằng sau mọi hình tướng riêng rẽ là Phật tánh. Con không thể thấy ngay cả những hình thể có vẻ tách biệt cũng kết nối với nhau ở một tầng sâu hơn. Con không thể thấy đằng sau những hiện tượng và nguyên nhân có vẻ tách biệt là lý duyên khởi. Mục đích thật sự của quỷ Mara là giữ con trong ảo tưởng tách biệt khiến con nghĩ, chẳng hạn: “À, người này đã làm điều gì đó với tôi mà lẽ ra anh ta không được làm. Cho nên anh ta là một người tách biệt, vì nếu không thì anh ta đã không làm vậy với tôi. Nhóm người kia đã làm điều gì đó với đất nước của tôi mà lẽ ra họ không được làm, cho nên họ tách biệt và tôi có thể giết họ mà không ảnh hưởng gì đến tôi. Thế giới này thật sự chống lại tôi vì đó là một thế giới tách biệt và tôi tách biệt khỏi thế giới.”

Có quá nhiều ảo tưởng như vậy, có hàng triệu ảo tưởng dưới các lớp ngụy trang khác nhau, nhưng tất cả đều nhằm mục đích che mờ cái một và sự nối kết nằm bên dưới, khiến con chú tâm vào ảo tưởng tách biệt. Ngay cả một giáo lý tâm linh cũng có thể được sử dụng cho mục đích này. Con thấy một xu hướng chung trong hầu hết các tôn giáo và giáo lý tâm linh là người ta tạo ra một sự phân biệt rất rõ rệt giữa những người ở trong và ở ngoài giáo lý. 

Họ có thể nhìn người ngoại đạo theo hai cách. Có thể là người mà họ nghĩ có tiềm năng cải đạo theo giáo lý của họ, hay là người họ nghĩ sẽ chống đối giáo lý của họ và vì vậy là kẻ thù. Nhiều người mộ đạo nhìn người vô thần hay người theo chủ nghĩa duy vật như là kẻ thù, và tất nhiên nhiều người theo chủ nghĩa duy vật nhìn người mộ đạo như là kẻ thù. Con có thể dùng một giáo lý tâm linh để củng cố cảm nhận là con tách biệt, vì con đang theo một giáo lý nên con đứng riêng khỏi những ai không theo giáo lý. Khi con làm như vậy thì con chỉ mắc kẹt thêm vào ảo tưởng tách biệt, và tất nhiên điều này không đem lại tiến bộ trên đường tu, chính vì đường tu là khắc phục tách biệt, như thày đã đề cập hàng chục lần rồi. Thày sẽ nhắc lại nhiều lần và nhiều lần nữa vì đây là một trong những điểm khó nắm bắt nhất, và rất nhiều người tu hàng thập kỷ vẫn chưa nắm được.

Có những Phật tử tu tập giáo lý đạo Phật suốt nhiều kiếp sống mà vẫn chưa nắm được điều này. Họ đứng riêng ra khỏi những ai không cùng hệ phái Phật giáo như họ và dựng lên ý tưởng là bởi vì họ có khả năng hiểu và đàm luận những giáo lý trí năng rất cao siêu, bởi vì họ đã thực hành pháp tu từ quá lâu rồi và đã sống cuộc đời tu sĩ tận tuỵ với tu tập, cho nên có nghĩa là chắc hẳn họ đã tiến bộ. Chắc hẳn họ đã đạt đến một mức vượt bậc nào đó khiến họ biệt lập với những ai chưa áp dụng được giáo lý như họ nghĩ họ đã làm được. Họ vẫn chưa xoay chuyển để nhận thấy mục đích thật sự của việc nâng cao tâm thức là để giúp toàn thể, và mục đích thật sự của một giáo lý tâm linh là cho họ quyền năng nâng cao toàn thể thay vì chỉ nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt, hay thậm chí nâng cao nhóm mình như một nhóm tách biệt.

Đến điểm con cần nhận ra con đã tìm thấy một giáo lý tâm linh, con đã thực hành giáo lý này và con đã dùng giáo lý để nâng mình lên đến một mức nào đó. Một cách sẽ giúp con đi xa hơn là tránh đi vào ngõ cụt mà nhiều người đã mắc phải khi họ nghĩ cách thay đổi thế giới là cải đạo người khác, bởi vì khi mọi người cải đạo thì chúng ta sẽ có thiên đàng trên trái đất. Kỳ thực, điều quan trọng duy nhất là nâng cao tâm thức, và tuy con đã dùng một giáo lý đặc thù để nâng cao tâm thức của con, nhưng không có nghĩa là mọi người khác cũng nên làm vậy hay có thể làm vậy. Có thể họ cần những giáo lý khác, hoặc họ cần một số ý tưởng phổ quát, trong bản chất không theo một môn phái nào, không gạt bỏ một ai nhưng bao gồm tất cả.

Thật vậy, điều cần xảy ra trong thời đại nhận biết cao hơn sắp tới là càng ngày càng nhiều người tâm linh cần thăng vượt tư duy môn phái chú tâm cải đạo người khác hay khiến người khác phải đi theo đạo sư của mình. Thay vào đó, họ cần neo trụ vào sự kiện là từ tầng mức vượt khỏi thế giới vật chất, từ tầng nhận biết cao hơn, có một loạt những ý tưởng phổ quát đang được rải xuống, và chính những ý tưởng phổ quát này sẽ tác động tối đa đến việc nâng cao tâm thức tập thể. Những ý tưởng toàn vũ này có thể được biểu đạt xuyên qua một giáo lý hay một vị thày tâm linh đặc thù, nhưng không nhất thiết phải được biểu đạt trong khuôn khổ đó.

Chỉ lấy một ví dụ, con hãy nhìn ở các nước phương Tây có nhiều người tập môn yoga. Yoga có nguồn gốc rất lâu đời từ một nền văn hóa rất đặc thù, và mặc dù ngay từ đầu yoga có tính phổ quát nhưng sau đó lại đồng hóa với đạo Hindu. Nếu con đi ngược dòng thời gian thì đã có một thời để tập luyện yoga, con phải là một tín đồ Hindu, hoặc con phải sống khổ hạnh, rút lui khỏi thế giới, sống trong một tăng đoàn hay trong hang động, ăn uống kham khổ, không sinh hoạt tình dục, không có gia đình và dành hết thời gian tập trung vào việc thực hành tâm linh, gian khổ giống như pháp tu khổ hạnh mà Phật đã thực hành khi thày mới rời kinh thành.

17.10. Đạo Phật không được tạo ra như một tôn giáo 

Nói cách khác, yoga thoạt tiên là một phương pháp và triết lý thực hành tâm linh cực đoan không mấy thích hợp với lối sống năng động hiện đại khi con có gia đình và việc làm. Tuy vậy con thấy nhiều người ở thế giới phương Tây vẫn tập được yoga song hành với một cuộc sống năng động. Đó là vì yoga đã trở nên phổ quát. Yoga đã tập trung vào một cách thực hành đặc thù và tách ra khỏi một giáo phái cục bộ hạn hẹp. Giờ đây một số các con cũng biết đến phong trào thiền chánh niệm (mindfulness) và chắc chắn có sự liên hệ giữa đạo Phật và thiền chánh niệm. Con không cần cải đạo thành Phật tử để thực hành thiền chánh niệm, và tại sao vậy? Vì đạo Phật ban đầu không phải là một tôn giáo. Đó là một loạt những tư tưởng và thực hành phổ quát.

Giê-su cũng đã không truyền bá hay khởi xướng một giáo phái cục bộ tuyên bố chỉ có một con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi. Giê-su đã dạy một loạt những tư tưởng và thực hành bao quát, và đây chính là lý do vì sao thày đã bị xem là mối đe dọa cho giới thẩm quyền đạo Do thái. Thày đã đe dọa môn phái độc quyền cục bộ của họ bằng cách đưa ra những ý tưởng phổ quát. Điều gì có thể phổ quát hơn là nâng cao tâm thức và thăng vượt các ảo tưởng tách biệt và nhị nguyên đã gây ra mọi xung đột của con người? Cho nên tới một điểm con cần chuyển sự chú tâm của con ra khỏi tư duy cho rằng chỉ có một giải pháp độc nhất cho các vấn đề của thế giới, và giải pháp này là cải đạo tất cả mọi người vào pháp tu và triết lý tâm linh của con. Thay vì vậy, con chú tâm vào những tư tưởng bao quát, những cách diễn đạt bao quát có thể giúp cho nhiều người với nhiều gia cảnh khác nhau, từ nhiều tầng lớp khác nhau, mà không cần đòi hỏi họ phải đổi sang một tôn giáo hay một phong trào vỏ ngoài.

Hay nói cách khác, đây có phải là những gì tâm tách biệt luôn luôn muốn làm không? Thày đã nói tâm tách biệt muốn tạo ra một cảm giác an toàn, và để làm vậy nó xây dựng một thế giới quan, đồng thời nó đánh giá từng ý tưởng dựa trên: “Điều này có đe dọa thế giới quan của tôi không, hay có xác nhận thế giới quan của tôi không?” À, đây là phân biệt, đây là chủ nghĩa bè phái, đây là xu hướng cục bộ. Điều gì xác nhận thế giới quan của tôi thì điều đó là đúng, điều gì chất vấn thế giới quan của tôi thì điều đó sai, xấu ác, tội lỗi. Nhưng đây không phải là Phật tánh. Nó khiến cho con người bị giam chặt trong cái bẫy tách biệt.

Phật tánh là cái một, là hợp nhất, là sự kết nối, và vì vậy đây là điều con cố gắng đạt được để giúp người khác nhìn vượt quá tách biệt, nhị nguyên, chủ nghĩa độc quyền và sự cuồng tín, để thấy rằng đằng sau tất cả những phân chia giữa người với người là những tư tưởng và giá trị rộng khắp đang kết nối mọi người. Vượt lên trên các tư tưởng phân chia con người có một tập hợp những tư tưởng toàn vũ nối kết và hợp nhất mọi người. Đây là điều sẽ có tác động lớn nhất trên việc nâng cao tâm thức tập thể trong thời đại hôm nay, trong chu trình đặc trưng này của tâm thức đại chúng. Những ai có khả năng chú tâm vào điều này sẽ có ảnh hưởng lớn nhất, và những ai chấp vào những tin tưởng môn phái và mong muốn cải đạo người khác theo một tôn giáo vỏ ngoài hay một vị thày vỏ ngoài có thể cảm thấy mình rất tâm linh, thánh thiện hơn người, cao trội hơn người, nhưng họ sẽ không có ảnh hưởng tối đa trong việc nâng cao tâm thức đại chúng.

Mục đích của Phật là gì? Đó là giải thoát con người khỏi ảo tưởng. Ảo tưởng căn bản là gì? Đó là cảm nhận rằng Phật tánh không ở ngay nơi con ở, rằng con tách riêng khỏi Phật tánh. Mục đích của Phật là giúp tất cả các sinh thể tự nhận biết thấy được Phật tánh trong chính họ và trong mọi người.

17.11. Chữ “Phật” ban đầu mang nghĩa trung hòa 

Khi thày đưa ra những giáo lý này lúc ban đầu thì chữ “Phật” không mang ý nghĩa môn phái. Nó không liên quan đến một tôn giáo cụ thể, nó trung lập, nó phổ quát. Đạo Phật ngày này được xem như một tôn giáo riêng biệt, vì vậy chữ “Phật” ngày nay mang ý nghĩa khác với thuở ban đầu. Trong thế giới ngày nay, chúng ta có thể nghĩ ra một diễn đạt khác, toàn vũ hơn và trung hòa hơn – là nhận biết cao hơn, là có một nhận biết cao hơn. Có một mức nhận biết cao hơn có khả năng kết nối mọi người, có thể hợp nhất mọi người và giúp họ thoát khỏi nhận biết thấp hơn khiến mọi người chống đối lẫn nhau và tạo ra vô số xung đột.

Điều gì tạo ra căng thẳng? Điều gì tạo ra đau khổ trong thế gian? Đó là mức nhận biết thấp hơn khiến con người không thấy được yếu tố hợp nhất và vì vậy họ xem mình là những sinh thể tách biệt. Mục tiêu là gì? Là nâng cao tâm thức để mọi người đạt được một tầm nhìn cao hơn, một trạng thái tâm thức cao hơn để thấy được sự hợp nhất vượt trên tất cả mọi biểu hiện đa dạng bất tận. Họ thấy được dù mọi người có vẻ khác nhau nhưng có gì đấy nối kết tất cả. Con chỉ thấy được như vậy một khi con kết nối với một cái gì đó cao hơn, một tầng nhận biết cao hơn trong con. Chỉ lúc đó con mới có thể thấy một tầng nhận biết cao hơn nơi người khác. Đây là những tư tưởng toàn vũ thật sự không là độc quyền của đạo Phật hay của bất cứ tôn giáo hay triết lý tâm linh nào. Đây là điều con có thể chú tâm vào: cái phổ quát, cái trung hòa, sự kết nối, sự hợp nhất đằng sau khác biệt.

Thày biết ơn đã có cơ hội trao truyền bài giảng này. Nhiều người trong số các con đã là đệ tử của các chân sư thăng thiên trong nhiều năm, các con có thể nghĩ: “Nhưng chúng con đã chẳng nghe lời dạy này trước đây sao? Các chân sư khác đã chẳng giải thích tất cả những điều này trước đây sao?” Lý do thày dùng cơ hội ở đây để trao truyền những bài giảng này là vì mục đích lâu dài của thày là xuất bản một quyển sách đưa ra một cái nhìn mới về đạo Phật thích ứng với thế giới hiện đại và tư duy hiện đại. Đây là phần đầu của quyển sách này. Sách cũng sẽ bao gồm những bài truyền đọc khác mà thày đã ban ra trong những năm qua, và những bài này sẽ không được trình bày như là bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Các bài truyền đọc này sẽ được chỉnh lược để biểu đạt một cách phổ quát hơn. Sách sẽ được phát hành và có người sẽ hiểu được.

Thày cám ơn con đã cho thày cơ hội được trình bày bài giảng này và thày có thể đảm bảo hội nghị này đã có một ảnh hưởng to lớn trong việc nâng cao tâm thức đại chúng. Mặc dù các thày không đề cập nhưng nó cũng có ảnh hưởng quan trọng đối với tình hình ở Ukraine, tình hình kinh tế và tình hình ở Nga. Việc rất nhiều đệ tử từ Nga và Ukraine sẵn lòng hòa điệu và gia nhập quá trình hướng thượng này thật quan trọng. Một lần nữa, con không thể đi tìm những kết quả đặc thù hiển thị ở một thời điểm cụ thể, nhưng con có thể yên tâm là con đã kéo tâm thức đại chúng đi lên ở cả Ukraine lẫn Nga, và dĩ nhiên cả phần còn lại của thế giới nơi con đang theo dõi qua làn sóng. Và do đó con đã đưa hành tinh này đi lên mặc dù con không nói được đây là kết quả rõ ràng mà chúng ta đạt được tại hội nghị này.

Thày tin là nhiều người trong số các con đang bắt đầu nhận ra là con cần tới một điểm, là con không đi tìm một kết quả cụ thể từ một hội nghị hay từ một canh thức. Con không đặt mình vào vị thế có thể đem lại thất vọng và nản chí. Con tham gia vào một quá trình không ngừng nghỉ là nâng cao tâm thức tập thể, và con hài lòng khi biết mình đang nâng cao tâm thức tập thể. Con đang nâng cao toàn bộ lý duyên khởi và điều này sẽ đem lại những ảnh hưởng tích cực giúp thực hiện thời Hoàng kim của Saint Germain.

Thày không niêm hội nghị này vì thày Padmasambhava sẽ tiếp tục, nhưng thày cám ơn con đã cho thày cơ hội trao truyền những giáo lý mới, những lời dạy hiện đại này về triết lý đạo Phật. Vì vậy, thày gửi đến con lòng biết ơn sâu sắc nhất và giờ đây thày niêm con trong niềm vui của Phật! Niềm vui này chỉ đến khi con đang trải nghiệm cái duy nhất. Làm sao có thể có gì khác hơn là niềm vui trong hợp nhất? Chỉ có tách biệt mới tạo ra bực dọc. Với lời này, thày niêm các con, con yêu dấu. 

13 | Nỗ lực cao hơn là ngừng nỗ lực

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị qua mạng Internet mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Chủ đề kế tiếp là sự tinh tấn, hay nỗ lực. Một lần nữa như theo truyền thống, người ta đã quy định có nỗ lực đúng và có nỗ lực sai. Xong người ta đã cố tránh nỗ lực sai và trau dồi, thực hành nỗ lực đúng. Đối với nhiều người, chuyện này trở thành một chiếc áo tù bó tay bó chân, khiến họ cảm thấy gần như không thể làm bất cứ gì vì họ quá sợ những nỗ lực sai lầm sẽ tạo nghiệp. Cuối cùng họ cảm thấy chỉ còn một việc họ có thể làm là hạn chế tối đa các hoạt động thể chất và trong phần lớn thời gian, hoặc họ thiền định, hoặc họ thực hành những pháp tu khác. Thế là chuyện này trở thành một chứng ám ảnh cưỡng chế, và tuy họ cảm thấy mình rất tâm linh nhưng thật ra họ không tiến bộ chút nào trên con đường tâm linh. Họ không đang leo lên những tầng cao hơn. Họ chỉ dậm chân tại chỗ, càng ngày càng bất an, càng ngày càng lo sợ tất bật để cố nỗ lực làm sao cho đúng với những gì họ đã quy định.

Hiển nhiên, dựa trên những điều thày đã trao cho con trong những bài trước, giờ đây chúng ta có thể khá dễ dàng thẩm định nỗ lực của con một cách khác. Thày đã cố gắng rất nhiều để giải thích mục đích của Bát chánh đạo, mục đích của Trung đạo là gì. Đó chính là nâng cao tâm thức, và con nâng cao tâm thức bằng cách nào? Bằng một cách duy nhất: giải quyết tâm lý. Điều này sẽ mới lạ và gây sốc cho nhiều người, ngay cả nhiều người trong truyền thống Phật giáo. Họ đã bước vào một tâm thái nghĩ rằng nỗ lực đúng có nghĩa là làm một số thực tập tâm linh. Họ cho rằng những thực tập tâm linh này có khả năng hầu như thần diệu chuyển hóa tâm thức của họ, đưa họ đến gần hơn với giác ngộ, hay niết bàn, hay bất kỳ cách nào họ định nghĩa. 

13.1. Khắc phục ảo tưởng không phải là một việc làm máy móc

Thày đã nói là có những thực tập tâm linh có giá trị và hiệu quả, nhưng chúng mang lại hiệu quả như thế nào? Chúng hiệu quả bằng cách chuyển hóa những năng lượng dựa trên sợ hãi đã tích tụ trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con, thậm chí cả trong các tế bào vật lý ở một mức độ nào đó. Một kỹ thuật tâm linh có thể có tác dụng chuyển hóa năng lượng, nhưng không có thực tập tâm linh nào có thể chuyển hóa trạng thái tâm của con, các tin tưởng của con, các ảo tưởng của con, cho dù thực tập đó là gì, đến từ đâu, do ai định ra hay do ai ban ra.

Một ảo tưởng là một ảo tưởng. Nó không thật, nhưng ngày nào con còn nghĩ ảo tưởng là thật, ngày nào con chưa nhận biết mình đang có một ảo tưởng, thì con còn bị giam trong cách nhìn đời xuyên qua phin lọc của ảo tưởng đó. Làm sao con đã tới chỗ chấp nhận ảo tưởng đó? Có con quỷ dữ nào đã cấy ảo tưởng vào tâm con? Quả là có thể có một sinh thể thấp, một sinh thể với nhận biết thấp phóng chiếu một ảo tưởng nào đó vào tâm con. Thật ra tâm thức tập thể hiện đang phóng chiếu rất nhiều ảo tưởng vào tâm mọi người. Nhưng con là một sinh thể cá biệt. Con không phải là một sinh thể tách biệt, nhưng con là một sinh thể cá biệt, có nghĩa là con có thẩm quyền cho phép cái gì đi vào tâm con, cái gì ra khỏi tâm con, cái gì xảy ra trong tâm con. Có thể con đã quên mất là trong một tiền kiếp, con đã cho phép một ảo tưởng đi vào tâm con, nhưng cho dù con nhớ hay quên, đã có một thời điểm khi con quyết định chấp nhận một ảo tưởng nào đó là sự thật. 

Sau khi con bước vào tâm thức tách biệt, con đã cho phép vô số ảo tưởng xâm nhập tâm con. Chúng tạo nên tấm màn huyễn Maya khiến con đui mù không thấy được thực tại con là một biểu hiện của Phật tánh, và tất cả mọi thứ khác cũng là biểu hiện của Phật tánh cho dù hình tướng vỏ ngoài có là gì. Không có kỹ thuật tâm linh nào có thể thay đổi trạng thái tâm của con, thay đổi các tin tưởng của con, tự động giải thoát con khỏi các ảo tưởng. Con chỉ có thể thoát khỏi ảo tưởng khi con thấy một cách ý thức chúng là ảo tưởng, và do đó con buông bỏ chúng vì con thấy chúng là ảo tưởng.

Đây là tình trạng cách đây 2500 năm, đây là tình trạng kể từ đó cho tới nay, và đây sẽ vẫn là tình trạng trong tương lai. Sự tăng trưởng tâm linh đến các tầng tâm thức cao hơn là một tiến trình ý thức nhìn ra các ảo tưởng một cách ý thức. Một thực tập tâm linh có thể chuyển hóa các năng lượng được lưu trữ trong tâm tình cảm của con chẳng hạn, khiến tâm ý thức của con khó lòng thấy được các ảo tưởng. Không phải là thực tập tâm linh không hữu ích, nhưng nó không tự động vì nó không thể lấy quyết định thay con. Chính con, cái Ta Biết là cốt lõi của bản thể con, phải lấy quyết định, nhưng con lấy quyết định như thế nào? Bằng cách trở nên ý thức về những điều mà ngay bây giờ con chưa ý thức. Bằng cách moi ảo tưởng ra khỏi tâm tiềm thức, đem chúng vào nhận biết ý thức nơi con có thể thấy chúng, xem xét chúng, và một khi con nhận ra chúng là ảo tưởng thì con sa thải chúng.

13.2. Các ngã tiềm thức được tạo ra như thế nào

Các thày đã có đưa ra nhiều giáo lý dạy rằng ảo tưởng không chỉ là ảo tưởng. Không phải chỉ là chuyện con có hiểu biết hư giả. Không phải chỉ là chuyện con có tin tưởng mình đang cầm sợi dây khi thật sự đó là con rắn. Bất cứ điều gì xảy ra trong tâm con đều có ba yếu tố. Có năng lượng, có một hiểu biết hay tin tưởng nào đó, và có tâm thức. Khi con nhìn vào một ảo tưởng đặc trưng một cách ý thức và quyết định chấp nhận nó trong tâm mình, thì chuyện gì xảy ra lúc đó? Trước hết, cái Ta Biết mà con là, giờ đây bắt đầu nhìn thế giới xuyên qua ảo tưởng đó.

Cũng giống như con ở trong một căn nhà và căn nhà là các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Căn nhà có cửa sổ, nhưng khi con chấp nhận một ảo tưởng thì con đặt một mảnh kính có màu trước một cửa sổ, hay ít nhất trước một phần của cửa sổ đó. Bây giờ con nhìn qua cửa sổ đó và những gì con nhìn thấy ở ngoài kia đã bị pha màu bởi mảnh kính, cho nên con sẽ thấy một hình ảnh méo mó. Điều này có nghĩa là giờ đây con thấy thế giới không như nó là, nghĩa là khi năng lượng từ cái ta cao của con chảy xuyên qua nhận biết ý thức của con và xuyên qua phin lọc đó, thì con phú cho nó một rung động dựa trên sợ hãi. Ảo tưởng khiến con nhìn đời dựa trên sợ hãi, bởi vì nếu con thấy mọi sự đều là Phật tánh thì đâu cần sợ hãi. Sau khi con đã chấp nhận một tin tưởng hư giả thì con bắt đầu tha hóa, hạ thấp rung động của năng lượng qua tin tưởng này. Một phần của năng lượng này được phóng chiếu ra ngoài, một phần khác tích tụ trong ba thể của con: bản sắc, lý trí và cảm xúc. 

Khi năng lượng tích tụ thì nó tạo một lực hút trên nhận biết ý thức của con, nghĩa là con dễ nổi giận hơn chẳng hạn. Khi con nhìn thế giới qua phin lọc của ảo tưởng, thật ra con đang thấm đẫm ảo tưởng đó với tâm thức của con. Bởi vì khi con tập trung chú ý vào bất cứ gì thì con cho phép tâm thức của con tuôn chảy vào đó và xuyên qua đó. Giờ đây con có ba yếu tố, con có một tin tưởng không thực tế và huyễn ảo, con có năng lượng tích tụ tạo nên lực hút từ tính, và con có sự thấm đẫm ảo tưởng với tâm thức của con. Nghĩa là con đang tạo tác điều mà thày đã gọi là hành uẩn (samskara), là các khuôn nếp mà chúng ta có thể gọi là “ngã” theo một cách diễn đạt hiện đại hơn. Con tạo tác một ngã tách biệt trong tâm bản sắc, lý trí và tình cảm của con, và điều quan trọng là ngã này có một mức tâm thức nào đó. Nó không có khả năng tự nhận biết của cái Ta Biết, cho nên ngã này đã không tạo ra chính nó. Cái Ta Biết có thể tạo ra một cái ngã, nhưng ngã thì không thể tạo ra chính nó.

Điều này có nghĩa là ngã cũng không thể thay đổi chính nó. Nó có thể tăng trưởng, theo nghĩa nó có thêm cường độ, nó có lực hút từ tính càng ngày càng mạnh hơn trên tâm ý thức của con, nhưng nó không thể thay đổi chính nó. Nếu con tạo ra một cái ngã dựa trên ảo tưởng là trong một số tình huống, việc nổi giận là một phản ứng chấp nhận được, thì ngã không thể nói: “Ồ đợi chút nhé, giận dữ là một chuyện không đúng với lời dạy tâm linh, cho nên tôi sẽ tự cho phép mình chết đi.” Ngã sẽ không bao giờ làm được như vậy. Ngã có cái mà chúng ta có thể gọi là bản năng sinh tồn. Nó có thể càng ngày càng nóng giận hơn chứ nó không thể bớt nóng giận, ít nhất là qua nỗ lực của chính nó. Nó có thể bớt nóng giận nếu con ngừng bơm năng lượng nuôi nó sống và dùng các dụng cụ tâm linh để chuyển hóa năng lượng đã tích tụ, nhưng ngã không thể tự nó làm chuyện này.

Thật vậy, ngã giống như một chương trình máy tính chỉ có thể làm những gì mà nó được lập trình để làm. Khi nó thêm cường độ thì lực hút của nó trên cái Ta Biết của con sẽ mạnh hơn. Con bị hút vào ngã đó, và chuyện xảy ra qua nhiều kiếp hiện thân là con dần dà tạo ra một tập đoàn những cái ngã đều dựa trên ảo tưởng tách biệt, và chúng lần hồi tạo thêm lực hút đến độ cái Ta Biết của con bị kéo vào tấm màn ảo tưởng. Con bị kéo ra đằng sau tấm màn ảo tưởng và bây giờ con nhìn mọi sự xuyên qua tấm màn ảo tưởng đó. Thậm chí con có thể tới mức quên khuấy mất là con đã từng ở bên ngoài tấm màn ảo tưởng. Đấy là cách con quên mình có sự nối kết với cái ta cao của con và con có Phật tánh và tiềm năng Phật trong con. Con đồng hóa mình là một con người thế trần – hoặc một kẻ có tội, hoặc một kẻ mang nghiệp rất lớn, hoặc một con vượn tiến hóa. Điều này chỉ có thể xảy ra khi con quên mình có sự kết nối với cái gì bên ngoài tâm con.

13.3. Ngã tách biệt chỉ có thể tạo thêm nghiệp quả

Nếu con muốn thẩm định nỗ lực một cách cao hơn, con có thể nói là nếu con hoàn toàn đồng hóa với tập đoàn ngã tách biệt đó và với tự ngã là cái bình chứa các ngã tách biệt đó – nếu có thể gọi như vậy – thì mọi chuyện con làm, mọi nỗ lực con bỏ ra qua ngã tách biệt sẽ tạo nghiệp quả. Nỗ lực đó sẽ tha hóa năng lượng. Nó sẽ chuyển năng lượng dựa trên tình thương thành năng lượng dựa trên sợ hãi, và nó sẽ chỉ buộc con chặt hơn vào ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt. Rõ ràng đây không phải là nỗ lực cao, đây là nỗ lực thấp.

Vậy thì nỗ lực cao hơn là gì? Đó là những hoạt động có tác dụng giải thoát con khỏi sự đồng hóa với các ngã tách biệt cùng tự ngã. Bây giờ con cần cẩn thận phân biện ở đây. Nhiều người trong truyền thống Phật giáo sẽ nói: “Nhưng Phật đã chối bỏ kịch liệt sự hiện hữu của một tự ngã tách biệt.” Đúng đấy, nhưng con hãy lắng nghe những gì thày đang nói. Phật chối bỏ sự hiện hữu, sự có thật của một tự ngã tách biệt. Tự ngã tách biệt không có thật, nó không hiện hữu trong Phật tánh, trong tâm Phật, nhưng không có nghĩa là nó không có hiện hữu tạm thời và phù du trong tâm con người. Như thày đã giảng, mọi thứ đều là năng lượng. Năng lượng có thể khoác lên bất kỳ hình tướng nào, nhưng nó khoác lên hình tướng xuyên qua tâm thức, khi tâm thức phóng chiếu một tâm ảnh lên năng lượng.

Đây là điều con làm khi hiện thân như một con người. Con đồng-sáng tạo bằng cách dùng khả năng của tâm để áp chồng hình tư tưởng lên trên năng lượng. Khi con làm chuyện này xuyên qua một trong những ảo tưởng tách biệt, thì con tạo ra một ngã tách biệt, thậm chí con tạo luôn ảo tưởng tổng quan rằng mình là một sinh thể tách biệt. Ngã này, tự ngã này, có một sự hiện hữu tạm bợ. Không có sinh thể cao nào tạo ra nó, nhưng con đã tạo ra nó và do đó nó hiện hữu trong tâm con. Nó không có một sự hiện hữu khách quan, và nói theo cách diễn đạt của khoa học thì nó có một sự hiện hữu chủ quan, nhưng chừng nào nó còn ở trong tâm con, chừng nào năng lượng, ảo tưởng và ý niệm bản ngã còn đó, thì nó sẽ ảnh hưởng tâm con. Điều này có nghĩa – trong số nhiều ý nghĩa khác – là tự ngã không thể được chuyển hóa. Quả vậy, có nhiều người đã xây đắp một ngã tách biệt dũng mãnh, họ đồng hóa với nó chặt chẽ đến độ họ nghĩ rằng mục đích của con đường tâm linh là chuyển hóa ngã tách biệt này cho tới khi nó đạt được một trạng thái khả dĩ đi vào thiên đàng hay giác ngộ.

Đây là ý nghĩa thật của giáo lý được truyền dạy 2500 năm trước. Tự ngã không có sự hiện hữu, cho nên nó không thể trở thành Phật, nó không thể đựợc nâng lên và đạt bất cứ tính trường tồn hay bất diệt nào. Có những người trong truyền thống Cơ đốc giáo tin rằng nếu họ là người Cơ đốc ngoan đạo và làm tròn mọi yêu cầu của đạo Cơ đốc thì sau khi chết, Giê-su sẽ hiện ra và đem nhân cách vỏ ngoài của họ, ý niệm bản ngã tách biệt của họ vào thiên đàng.

13.4. Giấc mơ bất khả thi của tự ngã

Đặc tính của thiên đàng, hay cõi tâm linh, hay bất cứ chữ nào con muốn dùng, là gì? Đặc tính ấy là nhận ra mọi sự sống là một, mọi thứ đều liên thông với nhau, tất cả là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau. Như thế thì làm sao một ngã tách biệt chối bỏ sự liên thông này, chối bỏ cái một, có thể đi vào cái một? Chuyện này không thể xảy ra, không thể làm được. Nó chỉ giản dị là một giấc mơ bất khả thi, là giấc mơ tối hậu của ngã tách biệt. Tại sao con người lại nảy ra giấc mơ đó? Ấy như thày đã nói, đó là vì khi con đi vào ảo tưởng tách biệt thì con cảm thấy mình đã mất mát cái gì đó. Con đã mất đi sự nối kết với cái ta cao của con. Con cảm thấy đó là một sự mất mát và con mong muốn bù đắp mất mát này, dù con không ý thức được điều này thực sự nghĩa là gì. Trong con có lòng khát khao một cái gì đó. Người ta có thể tạm thời phủ lấp khao khát này bằng cách chìm đắm trong sinh hoạt thế gian như nhiều người đã làm suốt nhiều kiếp sống, nhưng sẽ tới một điểm nỗi khao khát này – mà trên cơ bản là khao khát một cái gì ở ngoài chính tâm con, ở ngoài tâm tách biệt của con – sẽ trồi dậy và con không thể phủ nhận nó được nữa.

Tự ngã có một dạng nhận biết sơ đẳng. Nó muốn duy trì quyền lực của nó trên tâm con. Khi nỗi khao khát cái gì hơn nữa trồi lên thì tự ngã biết rõ nó không thể đáp ứng được, nhưng nó vẫn cố khiến con tin rằng con có thể thỏa mãn nỗi khao khát đó bằng cách hoàn thiện ngã tách biệt. Tỷ dụ như khi con tìm thấy một giáo lý tâm linh nói về nhu cầu nâng cao nhận biết của con, đạt đến một trạng thái cao hơn, nhập niết bàn, thiên đàng, cõi hỷ lạc hay giác ngộ, thì tự ngã sẽ nói: “Lẽ dĩ nhiên rồi! Tôi ủng hộ mong muốn tự cải thiện của bạn để đạt được trạng thái cao siêu này. Bạn có thể làm được điều này bằng cách nâng tôi lên trạng thái cao đó. Tôi có thể trở nên toàn hảo. Tôi có thể trở nên bất tử.” Đây là một lời nói dối hoàn toàn, một sự hiểu lầm hoàn toàn. Tự ngã sẽ không bao giờ đi vào thiên đàng, cõi tâm linh, niết bàn. Điều này – không – thể – làm – được.

Một ngã tách biệt không thể tự chuyển hóa thành một cái ta hợp nhất với cái một. Đây là điều mà nhiều người tâm linh thuộc nhiều truyền thống sẽ phủ nhận, nhưng đây là sự thực. Con đã sinh tạo những ngã này dựa trên ảo tưởng tách biệt. Mỗi ngã là một ảo tưởng đặc thù, nó có một số năng lượng nào đó và nó được thấm đẫm một ý niệm tâm thức thô sơ nào đó, cho nên nó nghĩ rằng nó có một thực tại nào đó, một hiện hữu nào đó.

Giống như triết gia René Descartes đã nói: “Tôi nghĩ, do đó tôi là.” Nói cách khác, sự kiện tôi ý thức phải có nghĩa là tôi hiện hữu, và đấy là điều ngã tách biệt nghĩ. Tự ngã nghĩ rằng sự kiện tôi ý thức mình là một sinh thể tách biệt có nghĩa là tôi có một thực tại nào đó, một hiện hữu nào đó như một sinh thể tách biệt. Đây là ảo tưởng mà thày đã cố gắng giải thích 2500 năm về trước khi thày nói là không có tự ngã tách biệt nào có một sự hiện hữu thật. Lẽ tất nhiên, thày rất ý thức là ngã tách biệt có một sự hiện hữu tạm thời, và toàn bộ mục đích của Bát chánh đạo là giúp con người vượt qua sự đồng hóa với tự ngã này.

13.5. Buông bỏ từng ngã tách biệt một để khắc phục tự ngã

Con có thể làm gì để khắc phục tự ngã? Ấy, tự ngã là cốt lõi của ý niệm bản sắc tách biệt nhưng nó không phải là cái dễ khắc phục nhất. Con cần thực tiễn. Con bắt đầu bằng cách nhận ra tự ngã giống như cái thùng chứa trong đó có nhiều ngã tách biệt riêng lẻ khác nhau và mỗi ngã dựa trên một ảo tưởng đặc trưng. Con khắc phục từng ngã một, và cách dễ nhất để phơi trần ngã là con nhìn vào phản ứng của mình trong những tình huống đặc thù. Tỷ dụ, tại sao con phản ứng với lòng sợ hãi trong một số hoàn cảnh? Tại sao con đáp trả với sự nóng giận hay bực tức? Tại sao trong một số tình huống con nghi ngờ chính mình? Tại sao khi bị tấn công, con trở nên hung hãn hay con chịu thua?

Con làm việc với từng phản ứng cá biệt. Con nhận ra mình có một ngã tách biệt trong tâm tiềm thức. Một số hoàn cảnh nào đó kích hoạt ngã này hoạt động, và khi điều này xảy ra thì nó làm chủ phản ứng của con. Con đang không dùng tâm ý thức để quyết định cách phản ứng nào với hoàn cảnh đó. Giản dị là khi ngã tách biệt được kích hoạt, nó sẽ tiếp quản và điều khiển phản ứng của con. Điều này chỉ cho con thấy là có một ngã tách biệt lẩn trốn đằng sau khuôn nếp này. Bây giờ con có thể đi sâu vào trong nó. Con đi vào các cảm xúc của mình cho tới khi con đi xuyên suốt chúng, và con có thể tiếp tục quán xét và dùng trực giác cho tới khi con thấy được tin tưởng đằng sau chúng.

Có thể sẽ tới một điểm khi bỗng nhiên cái Ta Biết bước ra khỏi ngã tách biệt này và con nhìn nó từ bên ngoài. Nhiều người chưa từng nghe về giáo lý tâm linh và chắc chắn chưa nghe giáo lý về các ngã tách biệt, đã trải nghiệm điều này một cách tự phát trong suốt đời họ. Họ ở trong một tình huống nào đó, thường là một tình huống nghiêm trọng mà họ cảm nhận như một khủng hoảng, và đột nhiên họ cảm thấy tâm mình xoay chuyển. Thay vì phản ứng theo như họ vẫn thường làm, bỗng nhiên tâm họ trùng vào im lặng. Gần giống như trong một khoảnh khắc vượt thời gian, họ đã bước ra khỏi tình huống đó và bất giác họ thấy nó từ bên ngoài. 

Trong một số trường hợp con có thể có một ý tưởng ý thức như sau: “Tại sao tôi cứ phản ứng cùng kiểu này vậy?” Đây là một ví dụ con tới được điểm cái Ta Biết bước ra ngoài một ngã tách biệt đặc thù, và một khi đứng ra ngoài, con có thể thấy được ngã đó. Con có thể thấy ngã này dựa trên ảo tưởng gì. Con có thể thấy ngã đang hạn chế con như thế nào, nó đang hạn chế phản ứng của con, tước đi quyền tự do phản ứng một cách ý thức của con. Đấy là lúc con có thể lấy quyết định: “Tôi không muốn phản ứng kiểu này nữa. Tôi không muốn điều này trong đời tôi nữa. Tôi không muốn nhìn đời qua phin lọc này nữa.” Sau đó con làm được gì? Ấy, không phải là con cần giải quyết một vấn đề gì, không phải là con cần làm gì với ngã này. Một khi con thấy ảo tưởng, con chỉ giản dị bước tới buông ngã ra, thải ngã ra, cho ngã chết đi.

Con không thể hoàn thiện một ngã tách biệt. Con không thể chuyển hóa nó lên một trạng thái cao hơn. Giản dị con chỉ cần để cho nó chết đi. Trên cơ bản một ngã tách biệt là một dính mắc, và con khắc phục dính mắc như thế nào? Bằng cách để nó ra đi. Bằng cách buông bỏ bất kỳ ảo tưởng và ham muốn nào đằng sau sự dính mắc. Con nghĩ con phải thành tựu một điều gì đó trên thế gian này – nói chung là để khỏa lấp cảm giác là mình không trọn vẹn. Khi nhận ra điều này, con có thể buông nó và hiểu ra con không cần thành tựu bất cứ gì trong thế gian để trở nên trọn vẹn. Con cần buông bỏ ý tưởng con phải làm gì đó trong thế gian thì con sẽ tự nhiên cảm thấy trọn vẹn hơn.

Tại sao như vậy? Con hãy nhớ lại điều thày đã nói. Ở ban đầu, con có cảm nhận mình kết nối với cái ta cao của mình. Rồi con đã che phủ cảm nhận này bằng một ảo tưởng, nhưng trạng thái mặc định của con vẫn là cảm nhận kết nối. Một khi con buông bỏ ảo tưởng thì con sẽ trở về cảm nhận kết nối. Lẽ tất nhiên con có thể khuếch trương cảm nhận kết nối, và đó là kết quả tự nhiên khi con tiến bước trên Bát chánh đạo. Trạng thái mặc định của con người là cảm thấy mình kết nối với cái ta cao của mình. Con có thể biết điều này một cách ý thức hơn, con có thể mở rộng sự kết nối hơn, nhưng con không thể hoàn toàn mất đi tiềm năng trở về kết nối. Theo một nghĩa nào đó, sự kết nối luôn luôn có đó. Cái ta cao của con luôn luôn ở đó, nó luôn luôn hướng năng lượng về phía con. Chỉ có điều là trong tâm con, con đã bước vào một ảo tưởng cho nên con không ý thức được sự kết nối đó. Đây không phải là chuyện nghĩ rằng ngã tách biệt đã ngăn con trải nghiệm kết nối cần phải được hoàn thiện rồi khi đó con mới lại cảm thấy kết nối. Không đâu, con chỉ cần buông ngã ra và trở về trạng thái kết nối tự nhiên.

13.6. Tăng triển không có gì bí mật

Điều này nghĩa là gì? Có nghĩa là bất kỳ cố gắng nào củng cố cho cảm nhận tách biệt sẽ không giúp con tiến bước trên đường tu. Bất kỳ cố gắng nào giảm thiểu tấm màn huyễn Maya sẽ tái lập sự kết nối hay mở rộng sự kết nối, và đây là điều sẽ đưa con xa hơn trên đường tu. Có nghĩa là bất kỳ cố gắng nào giúp con trở về với kết nối là cố gắng cao hơn. Như thày có giảng, không phải là con chỉ cần có hành động hay nỗ lực vật lý. Một thực tập tâm linh tự nó không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức. Học hỏi một giáo lý tâm linh không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức.

Có rất rất nhiều người, rất nhiều người tâm linh qua các thời đại trong truyền thống Phật giáo lẫn các truyền thống khác tin rằng có một bí quyết đem lại sự tăng triển tâm linh. Họ nghĩ rằng có một giáo lý cao nào đó mà họ có thể tìm được. Chẳng hạn nhiều người tin rằng có giáo lý công truyền dành cho đại chúng, nhưng có giáo lý bí truyền chỉ dành cho giới ưu tú được tuyển chọn đã đạt tới tầng cao hơn trên con đường tâm linh. Họ nghĩ các giáo lý này được cất giấu đâu đó, và họ bỏ ra cả cuộc đời cố đi tìm các giáo lý này, vì họ nghĩ rằng một khi tìm ra họ sẽ tự động giác ngộ bằng cách chỉ giản dị đọc giáo lý đó. Làm sao chuyện này xảy ra được? Đúng, một giáo lý tâm linh có thể giúp con thấy một ảo tưởng, nhưng không bảo đảm là đọc một giáo lý đặc trưng sẽ giúp con thấy ra ảo tưởng của con.

Có thể có hai người có cùng ảo tưởng, cùng ngã tách biệt. Họ đọc cùng một giáo lý tâm linh. Một người có thể nhìn ra ảo tưởng và buông bỏ nó, nhưng người kia không nhìn ra ảo tưởng. Tại sao không? Ấy, vấn đề là con có nhận ra tinh túy của con đường tâm linh không? Có phải tinh túy là nhìn ra ảo tưởng và buông bỏ ngã tách biệt, hay là bằng cách nào đó nâng cao và hoàn thiện ngã tách biệt? Chúng ta cũng có thể nói vấn đề là con tập trung chú ý nơi nào? Con nhìn ra bên ngoài con hay con nhìn vào trong con? Con có sẵn lòng nhìn vào chính tâm lý mình, nhìn vào các ảo tưởng của mình, vật lộn với chúng cho tới khi con nhìn xuyên thấu chúng? Hay liệu con nghĩ có cái gì thần diệu ở ngoài con có thể làm giùm cho con? Hay đúng hơn, thậm chí con không nghĩ là điều đó bên ngoài sẽ giải quyết tâm lý của con, mà con nghĩ có vị đạo sư bên ngoài kia sẽ đem cho con sự giác ngộ một cách thần diệu nào đó. 

13.7. Những gì một đạo sư không làm được cho con

Ở phương Đông có một truyền thống lâu đời về quan hệ giữa đạo sư và đệ tử. Nhiều, rất nhiều người tin rằng – và có nhiều đạo sư cũng sẽ xác nhận – là một vị đạo sư chân chính (và họ hầu hết thuộc nam giới) có khả năng thần diệu nâng đệ tử lên một trạng thái cao, giác ngộ, niết bàn hay bất kỳ con gọi là gì. Điều này không thể làm được. Không ai có thể gỡ bỏ quyết định của con hộ con. Con phải sẵn lòng nhìn một cách ý thức vào những quyết định mà con đã lấy trong quá khứ khi con chấp nhận một ảo tưởng và tạo ra một ngã tách biệt, và con phải muốn lấy quyết định một cách ý thức để cho ngã tách biệt này chết đi.

Một vị đạo sư có thể giúp con thấy ngã tách biệt. Vị ấy có thể khiến con phải đối mặt tự ngã của con. Vị ấy có thể hành xử thế nào để phơi bày, kích hoạt một trong những khuôn nếp phản ứng mà con mang. Nhưng vị ấy không thể quyết định hộ con, vì quyết định được tạo ra trong tâm con và chỉ có thể gỡ bỏ trong chính tâm con. Có thể con không ý thức mình đã lấy quyết định đó nhiều kiếp trước, nhưng con vẫn có thể trở nên ý thức là mình đã từng lấy quyết định, hậu quả của nó là gì và do đó con buông bỏ nó. Không có cố gắng bên ngoài, sức mạnh bên ngoài hay đạo sư bên ngoài nào có thể làm hộ con. Ngày nào con còn nghĩ con có thể hướng chú ý ra ngoài và cố gắng thay đổi điều gì đó bên ngoài, thì con sẽ dậm chân tại chỗ trên con đường tâm linh. Con sẽ chẳng đi tới đâu. Một lần nữa, con có thể tạo cảm tưởng mình đang tiến tới, nhưng con thật sự làm gì khi con làm vậy? 

Con hãy suy ngẫm những gì thày nói ở đây. Con có một số ngã tách biệt dựa trên ảo tưởng. Chúng giam con trong tấm màn huyễn Maya. Giờ đây con tìm thấy đường tâm linh, một giáo lý tâm linh. Đấy là một giáo lý tâm linh có giá trị. Nó có tiềm năng giúp con tăng triển khi con dấn thân theo Bát chánh đạo, nhưng liệu nó sẽ làm được hay chăng? Kết quả không thể nào bảo đảm, bởi vì cốt lõi của đường tu chân chính là con khắc phục các ngã tách biệt, con đưa chúng lên tâm ý thức và con thải bỏ chúng một cách ý thức. Nếu con không chịu làm hay không nắm bắt được điều này, thì con sẽ làm gì thay vào đó? Con sẽ lấy giáo lý tâm linh và dùng nó để xây dựng một ngã tách biệt mới. Ngã tách biệt này sẽ dựa trên ảo tưởng là nếu con chăm chỉ học giáo lý, nếu con chăm chỉ thực hành các pháp tu, thì con sẽ trở nên một học trò ngày càng cao cấp qua việc chứng tỏ những thứ vỏ ngoài đó và vì thế con đang tiến bộ trên đường tu.

Nhiều, rất nhiều người qua các thời đại có thiện ý muốn tiến bộ tâm linh nhưng lại không nắm được bản chất cốt yếu của con đường tâm linh, và do đó họ chỉ giản dị tạo ra một số ngã tách biệt dựa trên giáo lý tâm linh. Họ đã củng cố cho tự ngã vốn tin là nó tách biệt và luôn cố gắng cao trội. Một lần nữa, tại sao tự ngã lại cố gắng cao trội? À, tự ngã có đủ nhận biết để biết là nó không trọn vẹn. Nó không thật sự hiểu là nó không bao giờ có thể vào được thiên đàng nhưng nó biết là nó không trọn vẹn. Nó biết là con cảm thấy không trọn vẹn và nó liên tục tìm cách che phủ hay bù đắp cho sự thiếu trọn vẹn này. Tự ngã liên tục tìm cách cao trội theo một kiểu nào đó vì nó nghĩ, tự ngã nghĩ, là nếu nó trở nên đủ tinh xảo lịch duyệt trong thế gian này thì nó bắt buộc phải được phép lên cõi cao.

13.8. Tự ngã được tâm linh hóa

Rất nhiều người tin vào một Thượng đế tối cao đã, trên cơ bản, tạo ra một tự ngã nghĩ rằng nếu tôi làm hết mấy chuyện vỏ ngoài kia đúng theo quy định của tôn giáo, thì đơn giản Thượng đế phải cho phép tôi vào thiên đàng. Thượng đế phải ban cho tôi đời sống bất tử. Và như vậy tự ngã đang thương thảo với Thượng đế: “Con làm mấy chuyện vỏ ngoài này thì ngài phải cho con lên thiên đàng.” Vấn đề là tất cả những thứ này là chuyện tưởng tượng. Trước hết, hình ảnh mà tự ngã tạo ra về Thượng đế chẳng dính dáng gì đến thực tại của cõi tâm linh. Chẳng hạn con có thể nhìn lại ba tôn giáo độc thần đặt căn bản trên hình ảnh của kinh Cựu ước về một Thượng đế giận dữ trên trời, và con có thể nói: “Có chăng một Thượng đế như thế trên trời phù hợp với hình ảnh này hay không?” Sự thực là không có thượng đế nào như thế trên trời, nhưng có một sinh thể được tạo ra bởi tâm thức đại chúng và nó có sự hiện hữu tạm bợ ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc của vũ trụ vật chất và tâm thức tập thể. Đây là một thượng đế do con người tạo ra, dựa trên hình ảnh của tự ngã và giống như tự ngã. Đây là một thượng đế thiên vị tưởng thưởng những ai làm theo mệnh lệnh của ông nhưng trừng phạt những ai không vâng lời ông. Thượng đế này chỉ có thể là một thượng đế nhị nguyên, và do đó ông ấy không thể nào có chút thực tại nào một khi con nắm bắt nhị nguyên và bất nhị là gì.

Tự ngã đang cố làm một chuyện không thể làm được. Nó cố gắng quy định những tiêu chuẩn thế gian sẽ bảo đảm cho nó vào cõi cao. Tự ngã sinh ra từ ảo tưởng tách biệt, nó không bao giờ thấu rõ được cái một. Vậy tự ngã làm gì? Nó quy định những tiêu chuẩn dựa trên ảo tưởng tách biệt, có nghĩa là không thật. Sự thật là cái một, còn sự không thật là tách biệt và phân chia. Con nghĩ, hay tự ngã nghĩ, là con có thể rời cái một và đi vào tách biệt, và dựa trên ảo tưởng tách biệt con có thể trở về với cái một. Điều này không khả thi. Làm sao có bao giờ khả thi được?

Con có thể thấy nhiều người sùng đạo hay tâm linh tìm được một giáo lý tâm linh hay một lời dạy tôn giáo. Giờ đây họ tạo ra – hay đúng hơn, thường thường họ chụp lấy những gì đã được tập thể tín đồ của tôn giáo này tạo ra – một cái nhìn phức tạp về những gì họ phải làm và không được làm. Họ xả thân siêng năng thực tập như vậy, tuyệt đối tin chắc là mình đang tiến bộ và một ngày kia một chuyện gì đó sẽ xảy ra. Giê-su sẽ hiện ra trên trời, dẫn người Cơ đốc lên thiên đàng, cuộn thế giới lại như cuộn giấy và xử phạt mọi người khác xuống địa ngục. Phật sẽ hiện ra cho con người, ban cho họ giác ngộ và bỏ mặc những người còn lại. Một giáo lý thần diệu sẽ hiện ra cho họ và khi họ đọc giáo lý đó, họ sẽ giác ngộ.

Nhiều người mang niềm tin là việc bước chân trên đường tâm linh là một cuộc mạo hiểm đầy vinh quang dẫn họ đến những mức tinh xảo càng ngày càng cao, những địa vị và ca ngợi của thế gian theo các tiêu chuẩn được quy định trong thế gian. Các tiêu chuẩn này là do tự ngã quy định dựa trên tách biệt. Làm sao chúng có thể dẫn con đến cái một được đây? Con đường tâm linh thật sự không vinh quang chút nào. Đó là con đường liên tục nhìn vào chính mình, phản ứng của mình, phơi bày phản ứng trong tâm lý mình và để chúng chết đi. Vạch trần các ngã tách biệt và để chúng chết đi. Đó chính là ý nghĩa của con đường tâm linh. Ngày nào con còn đầu thai thì con sẽ còn ngã tách biệt nào đó mà con chưa phát hiện, bởi vì nếu con không có ngã tách biệt nào nữa thì con không thể ở lại trong một xác thân vật lý trên một hành tinh dày đặc như trái đất.

13.9. Giác ngộ nghĩa là như thế nào

Có một tin tưởng rất lâu đời trong các đệ tử tâm linh bảo rằng: “Ồ, người này đã giác ngộ, vị đạo sư kia đã giác ngộ.” À, ở đây có một sự thật và cũng có một ảo tưởng. Một mặt, rõ ràng là có những người đã đạt đến một tầng nhận biết cao hơn người trung bình. Chắc chắn là với những ai hiểu cách vận hành của con đường tâm linh mà thày đã giảng ở đây, các con đều có thể tu tập và dần dần tiến lên những tầng tâm thức cao hơn so với khi con mới cất bước, và chắc chắn cũng cao hơn một người trung bình. Tuy nhiên, nếu con nghĩ giác ngộ có nghĩa là con không còn ảo tưởng, không còn ngã tách biệt nào nữa thì con không có cái hiểu cao nhất.

Có câu truyện về Phật nói rằng khi thày giác ngộ, thày nhập Niết bàn rồi quyết định thay vì ở lại Niết bàn, thày sẽ trở về trái đất và giảng dạy, và do đó thày đã trở về trong trạng thái giác ngộ. Nhiều người đã phóng chiếu ra là thày, một cách nào đó, là một sinh thể toàn hảo, thày không còn ảo tưởng, không còn ngã tách biệt nào nữa. Sự thật là thày đã khắc phục hầu hết các ảo tưởng có thể có khi là một con người hiện thân. Nhưng thày vẫn chưa khắc phục tất cả mọi ảo tưởng, vì nếu được vậy thì thày đã không thể ở lại trong một cơ thể vật lý. Điều này không có nghĩa là thày không đạt được một tầng tâm thức cao hơn người trung bình – thày có đạt được như vậy. Mà điều này có nghĩa là thày có một sự thẩm định thực tế, hay con có thể nói là thẩm định khiêm tốn về chính mình. Thày không xem mình là một sinh thể toàn hảo như nhiều môn đồ của thày thời đó nghĩ, và đặc biệt sau này vẫn tiếp tục nghĩ.

Có một hiện tượng trong các phong trào tâm linh mà chúng ta có thể gọi là “hội chứng đạo sư chết”. Một khi vị đạo sư qua đời, người ta bắt đầu phóng chiếu ước mơ và ảo tưởng của mình lên đạo sư – vị ấy đặc biệt như thế nào, vị ấy toàn hảo như thế nào. Tại sao họ lại làm vậy? Bởi vì đạo sư càng đặc biệt bao nhiêu thì các đệ tử cũng đặc biệt bấy nhiêu. Qua cách này, họ xây đắp tự ngã, xây đắp ảo tưởng là bằng cách đi theo vị thày hoàn hảo này, và bởi vì thày quá đỗi hoàn hảo, thày sẽ có quyền năng thần diệu biến đổi họ mà họ không cần nhìn vào chính trạng thái nhận biết và tâm lý của họ.

Thày đang nói gì ở đây? Giản dị thày đang nói là khi con còn đầu thai trong thân thể vật lý thì con vẫn có một số ảo tưởng đặc thù mà con cần khắc phục. Nghĩa là con phải khiêm tốn, con phải thực tế và không tuyên bố mình đã đạt được một sự toàn thiện nào đó. Có những người tuyên bố họ là hiện thân của một vị thần hay họ đã đạt được một trạng thái giác ngộ nào đó. Có những người không tự mình tuyên bố như vậy nhưng họ cho phép những ai theo họ tin vào điều này mà không cải chỉnh. Đây không phải là cách nhìn cao nhất.

Ngày nào con còn trong thân vật lý, con vẫn còn ít nhất một ảo tưởng phải khắc phục, và khi con khắc phục nó thì con không thể ở lại trong thân vật lý được nữa. Giản dị như thế. Con có thể chế ra đủ loại truyền thuyết và ý tưởng về những sinh thể toàn hảo sống trên núi Himalaya đã duy trì được thân vật lý của họ suốt hàng thế kỷ. Không phải là không có phần nào sự thật trong đó, nhưng các sinh thể này không nhìn họ như con nhìn họ từ trạng thái tách biệt. Họ đã đạt được một tầng nhận biết cao độ nhưng họ thực tế nhận rằng vẫn còn điều gì đó giữ họ trong thân vật lý, và để vĩnh viễn thoát khỏi thân ấy họ phải khắc phục ảo tưởng đó. Họ thực tế trong sự đánh giá chính mình bởi vì con không thể đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn mà không khắc phục sự tách biệt, ý niệm tách biệt. Chỉ trong ý niệm tách biệt mới có người cao trội hơn người khác. Việc tôn thờ một vị thày tâm linh chỉ có thể phát xuất từ ý niệm tách biệt. Nếu vị đạo sư tuyên bố là mình cao trội, hoặc nếu ông cho phép người theo ông nâng ông thành người cao trội, thì ông vẫn chưa khắc phục được tách biệt. Làm sao ông đã có thể làm được?

13.10. Nỗ lực giả hiệu khi nâng mình cao hơn người khác

Một thẩm định thực tế hơn là khi con đã khắc phục tất cả ngã tách biệt đó, con là sự biểu hiện của tâm một và mọi người cũng vậy. Ấy, làm thế nào một biểu hiện của tâm một có thể tinh xảo hơn, hoàn hảo hơn một biểu hiện khác? Mọi sự đều là Phật tánh. Mỗi sinh thể có tự nhận biết là một biểu hiện của Phật tánh. Làm sao trên cơ bản một sinh thể có thể đặc biệt hơn những sinh thể khác? Tuyên ngôn Độc lập của Hoa kỳ nói: “Mọi con người được tạo ra bình đẳng.” À theo một nghĩa nào đó, đây là sự công nhận tất cả là biểu hiện của Phật tánh. Trong Phật tánh không có phán xét giá trị. Chỉ trong màn huyễn Maya, trong ảo tưởng tách biệt mới có phán xét giá trị nói rằng một người đặc biệt hơn người khác.

Những lời này liên quan gì tới nỗ lực? Ấy, bất kỳ nỗ lực nào để nâng con lên cao hơn so với người khác không phải là nỗ lực cao hơn. Làm sao có thể được? Khi con bước lên cao hơn và thoát khỏi càng ngày càng nhiều ảo tưởng tách biệt, con bắt đầu nhận ra tổng thể, cho nên mỗi nỗ lực của con có mục đích nâng cao tổng thể, chứ con không nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt.

Mong muốn nâng mình lên cao như một cá nhân tách biệt phát xuất từ ảo tưởng tách biệt và chỉ có thể buộc chặt con vào ảo tưởng đó. Nếu con nâng mình lên để là một đạo sư hoàn hảo và con khiến những người theo con tin điều này, mọi nỗ lực con bỏ ra chỉ làm cho chính con mắc bẫy sâu hơn trong ảo tưởng tách biệt, đồng thời giữ những người theo con mắc bẫy sâu hơn trong ảo tưởng tách biệt. Nếu con đọc kỹ những ghi chép, thành thực mà nói khá rời rạc và không đầy đủ, về cuộc đời của Phật và con đọc giữa hai hàng chữ, thì con sẽ thấy điều này – rằng thày không dựng mình lên trong vị thế một sinh thể hoàn thiện. Tuy nhiên con có thể tìm thấy những giáo lý dựng thày lên như vậy, nhưng đây là những giáo lý được thêm vào sau này bởi những người nhìn cuộc đời và giáo lý của Phật qua màn huyễn Maya. Họ đã áp chồng các niềm tin tách biệt của họ lên đó, niềm tin của họ vào sự tách biệt. Và vì vậy họ đã thần tượng hóa Phật, bảo Phật thật quá đặc biệt, cách Phật sinh ra đời đặc biệt đến nỗi Phật là vị đạo sư hoàn hảo duy nhất và độc nhất đã từng xuất hiện trên mặt đất. Đó là lý do tại sao thày có khả năng thần diệu dẫn họ tới giác ngộ mà không cần họ phải bỏ ra nỗ lực vừa khó khăn vừa khó chịu để nhìn vào chính tâm lý mình và khắc phục các dính mắc của mình.

Tất cả đều là ảo tưởng do ngã tách biệt tạo ra. Con không thể khắc phục tách biệt bằng tách biệt. Con không thể tạo ra một ngã tách biệt nắm được cái một, trải nghiệm cái một, nhập vào cái một. Con không thể lấy một ngã tách biệt và hoàn thiện nó để nó đi vào hợp nhất. Con không thể khắc phục một trạng thái tâm thức, khắc phục một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề.

Một số người sẽ bảo sao thày cứ lặp đi lặp lại. Khi con đọc lại một số giáo lý nguyên thủy, con sẽ thấy thường có một câu truyện được kể ra để minh họa một điểm nào đó. Sau đó truyện này được kể một lần rồi lần nhì rồi lần ba, trong một số trường hợp còn kể nhiều hơn ba lần. Tại sao vậy? Bởi vì hầu hết những người nghe không nắm bắt được giáo lý lần đầu tiên họ nghe. Con có thể cảm xúc, lý trí và bản sắc. Khi con học một giáo lý thì con nắm bắt nó ở tầng cảm xúc, rồi con học lại và nắm bắt ở tầng lý trí, và con học lại và nắm bắt ở tầng bản sắc. Nếu như con không nắm bắt được ở tầng cảm xúc thì sao? Con có thể dễ dàng đọc giáo lý mà nó không chuyển hóa tâm thức của con. Con hiểu giáo lý qua trí năng và con dùng hiểu biết trí năng này để tạo ra một loại tâm ảnh về giáo lý. Đó không phải là nắm bắt giáo lý.

Nắm bắt giáo lý thật sự nghĩa là gì? Con ghi nhớ ở đây là thày không nói “hiểu biết” mà thày nói “nắm bắt,” thể nhập. Khi con lấy một giáo lý tâm linh đặc trưng và con dùng giáo lý như một tấm gương để soi chính mình, soi phản ứng của mình, soi chính tâm lý mình, và khi con thấy điều gì đó trong mình, con ý thức về nó và buông bỏ nó, thì lúc ấy con đã sử dụng giáo lý, lúc ấy con nắm bắt giáo lý. Con đã đưa giáo lý vào hành động.

13.11. Mục đích thật của một giáo lý tâm linh

Thậm chí còn hơn thế, mục đích của một giáo lý vỏ ngoài là gì? Đó là nối kết con với cội nguồn của giáo lý. Con làm sao nối kết với cội nguồn của giáo lý? À, không phải là qua tâm tách biệt. Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với bất cứ gì? Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với bất cứ gì vượt quá sự tách biệt? Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với cái một?

Đây con nhìn Phật. Thày đi trên con đường tâm linh nhiều năm. Thày đạt được một tầng nhận biết cao và thày có một chọn lựa. Thày có thể bỏ trái đất lại đằng sau vĩnh viễn và nhập niết bàn. Thày sẽ không mô tả điều gì xảy ra ở niết bàn, nó không liên quan đến cuộc thảo luận ở đây. Thày có chọn lựa bỏ lại trái đất đằng sau. Thay vào đó, thày chọn trở lại một cơ thể vật lý để giáo huấn. Thày muốn thực hiện điều gì? Ấy, thày biết là cơ thể của thày có tuổi thọ giới hạn. Thày biết việc giảng dạy trực tiếp và tương tác với đệ tử chỉ có thể kéo dài một thời gian, do đó mục đích của thày là trao truyền một giáo lý có thể tồn tại lâu hơn thân vật lý của thày và giúp những thế hệ tương lai bước trên đường đạo, chính con đường mà thày đã đi qua để tới được những tầng nhận biết cao hơn.

Có những tầng khác của con đường, như thày đã mô tả, có thể giúp con đi một số bước khác. Cốt lõi của đường tu, mụch đích thật của giáo lý là gì? Ấy, thày đã đạt được một tầng nhận biết cao như thế nào? Thày đạt được bằng cách khắc phục các ảo tưởng, vứt bỏ chúng từng cái một. Sau khi thày bắt đầu khắc phục những ảo tưởng này, chuyện gì bắt đầu xảy ra?  Chuyện bắt đầu xảy ra là thày kết nối với cái ta cao của thày, với Phật tánh trong thày. Thày kết nối với tâm một và thày không làm thế qua trí năng. Thày không làm thế từ một khoảng cách, thày không làm thế bằng cách tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Thày không làm thế bằng cách dùng tâm tách biệt để tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Không đâu, thày làm thế bằng cách bước ra ngoài tâm tách biệt và trải nghiệm trực tiếp tâm một. Đây là mục đích nội tại thật sự của một giáo lý – kết nối con với tâm một bên trong con để con không phóng chiếu là tâm một ở ngoài con.

Đâu là sự thật đằng sau giáo lý nói rằng mọi sự đều là Phật tánh? Con có Phật tánh trong con. Làm thế nào con sẽ tìm thấy Phật tánh? Làm thế nào con tìm được Phật? Chỉ bằng cách nhìn vào bên trong con. Tâm tách biệt, tự ngã không thể nào nắm bắt được điều này. Nó sẽ mãi mãi đi tìm ở ngoài con, ở ngoài chính nó. Con tìm thấy một giáo lý Phật giáo nói về Phật, thế là tâm tách biệt phóng chiếu: “À Phật ở bên ngoài mình. Phật ở kia. Phật ở kia. Phật ở đằng sau tảng đá kia. Phật ở trong hang đá kia trên núi Himalaya. Phật ở trong quyển kinh kia. Phật ở trong pháp tu này.” Có một vị thiền sư Phật giáo đưa ra ý tưởng là nếu con gặp Phật trên đường thì con cần giết Phật. Tại sao thế? Bởi vì nếu con gặp một người và nhận diện người đó là Phật, thì khi làm vậy con sẽ ngăn cản mình nhìn thấy Phật tánh bên trong mình, và điều này sẽ chặn đứng bước tiến của con trên đường đạo. Tốt hơn là con giết con người vỏ ngoài kia – không phải là giết thân vật lý của họ mà giết cái hình tư tưởng trong tâm con – để con còn có cơ hội khám phá Phật tánh trong chính con.

Làm thế nào con khám phá được Phật tánh trong chính con? Không qua hiểu biết trí năng mà qua một trải nghiệm trực tiếp. Điều gì có thể cho con trải nghiệm này? Ấy, thày đã giảng cốt lõi bản thể con là cái Ta Biết, cái ta ý thức. Nó tạo ra nhân cách vỏ ngoài. Nó tạo ra nội dung của tâm cảm xúc, lý trí và bản sắc, nhưng nó không trở thành những nội dung đó. Con đã tạo ra tự ngã nhưng con không trở thành tự ngã. Con chỉ chui vào tự ngã giống như con mặc vào một bộ áo giáp. Con không thể mất đi khả năng bước ra ngoài tự ngã và tâm vỏ ngoài. Khi con ý thức về khả năng này, khi con trau dồi nó, khi con dùng nó, khi con giảm thiểu lực hút của tâm vỏ ngoài trên tâm ý thức của con, thì con sẽ đạt tới một điểm con tự nhiên có trải nghiệm bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình, và do đó con kết nối với cái gì lớn hơn, cái gì vượt quá ý niệm bản ngã bình thường của con. Đây là trải nghiệm tâm một, trải nghiệm Phật tánh trong con.

Đây là mục đích của bất kỳ giáo lý tâm linh đích thực nào. Đây là mục đích của Bát chánh đạo.

13.12. Mục đích của các nỗ lực của con

Cho nên bây giờ con có thể lượng định các nỗ lực của mình. Nỗ lực của con nhắm tới mục đích gì? Phải chăng mục đích là nâng con lên một vị thế nào đó dựa trên những tiêu chuẩn do thế gian quy định? Hay mục đích là cho con trải nghiệm kết nối, trải nghiệm hợp nhất với tâm một, với Phật tánh? Thấy Phật tánh trong con thay vì thấy nó ngoài con. Mục đích của Phật khi trở về từ niết bàn để giáo huấn là gì? Phải chăng là để đời đời nâng mình lên cao khiến cho mọi người trên trái đất phải trầm trồ: “Ồ, ngày xửa ngày xưa, có sinh thể kia toàn hảo tuyệt vời đã bước chân trên mặt đất. Chúng ta phải tôn thờ ngài, chúng ta phải đi theo ngài và một ngày kia ngài sẽ nâng chúng ta lên chỗ toàn hảo?” Có thật chăng là Phật đã chạy theo một cái tôi vĩ đại muốn nâng mình lên trên tất cả mọi người đời đời kiếp kiếp? Nếu con tin như vậy thì con đang ở trong trạng thái tách biệt và con đang phóng chiếu giấc mơ của chính tự ngã của con lên Phật. Thà là con giết ông Phật này đi vì làm vậy còn có thể giúp con tiến bộ, bởi vì việc thờ phượng Phật đó dứt khoát không giúp con tiến bộ.

Thật sự Phật đã muốn gì? Phật muốn đưa ra một tấm gương là bất kỳ người nào cũng có thể đạt một tầng nhận biết cao hơn. Như thế khi nhìn vào Phật như một tấm gương, họ có thể nói: “Điều gì một người làm được thì mọi người cũng đều làm được. Nếu Phật có thể đạt được một trạng thái nhận biết cao thì tôi cũng có thể làm được.” Làm thế nào Phật đạt được nhận biết cao? Bằng cách tìm lại Phật tánh trong chính mình. Phật nói mọi sự đều là Phật tánh, nghĩa là tôi có Phật tánh trong tôi, nghĩa là tôi có thể tìm lại Phật tánh trong tôi bằng cách theo gương và giáo lý của Phật. Nếu tôi phóng chiếu là Phật tánh chỉ có thể hiện ra trong Phật, thì tôi không thật sự là người theo Phật. Tôi không đang dùng giáo lý và tấm gương của Phật. Tôi đang dựng lên một thần tượng và tôn thờ thần tượng đó.

Một lần nữa, nỗ lực của con phải nhắm tới gì? À, mục đích của con trên con đường tâm linh phải là trải nghiệm hợp nhất, trải nghiệm nối kết. Ngay đây con hãy quan sát tâm vỏ ngoài của con đang phản ứng thế nào. Tâm vỏ ngoài của con sẽ nói: “Ồ, để tạo ra trải nghiệm này, để bảo đảm có trải nghiệm này, hẳn tôi phải nỗ lực một cách đặc biệt nào đó.” Nếu con nắm những gì thày nói ở đây, con sẽ thấy sự ngớ ngẩn của lối tiếp cận đó. Không có nỗ lực nào dựa trên ảo tưởng tách biệt mà có thể bảo đảm sản xuất ra trải nghiệm hợp nhất. Điều con cần làm là không nỗ lực, không cố gắng tốt hơn, không cố gắng mãnh liệt hơn. Con cần ngưng cố gắng. Con cần ngưng những nỗ lực của ngã tách biệt muốn chế tạo tiến bộ tâm linh.

Nhưng này con, thày đã nói có những nỗ lực con có thể làm để khắc phục các ảo tưởng, tuy nhiên không có nỗ lực nào con có thể làm để trải nghiệm cái một. Để trải nghiệm cái một, con phải ngưng nỗ lực. Con thật sự phải cho tâm con im lặng, nhưng làm thế nào con làm cho tâm im lặng? Tâm con sẽ hỏi, tôi phải nỗ lực thế nào để tôi im lặng? Chẳng có nỗ lực nào con có thể làm được.

13.13. Nỗ lực để ngừng tâm lại

Nhiều người, thật nhiều người trong truyền thống Phật giáo đã thiền quán và thấy rõ tâm họ luôn xen vào. Tâm khỉ luôn xẹt ra ý tưởng, nên họ nghĩ họ phải tìm ra một nỗ lực cao hơn để khiến tâm im bặt. Con càng nỗ lực làm cho tâm im lặng thì kỳ thực con càng dùng tâm nhiều hơn, do đó con càng kẹt hơn trong tâm mình. Nghĩ rằng con có thể dùng tâm để làm cho tâm im lặng chỉ biến thành một cái bẫy, một cái bẫy khác. Vậy con làm được gì đây? À, con có thể tiến bước trên đường tu, con có thể dùng những giáo lý mà thày cho con ở đây. Và khi con khắc phục những ngã tách biệt, sẽ có những lúc con trải nghiệm một cách tự phát là mình đang bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình và nối kết với cái gì vượt lên trên chính tâm mình.

Trải nghiệm hợp nhất không phải là điều gì con có thể chế tạo, mà đó là một điều con nhận được. Con có thể xem đó như một món quà hay một hồng ân, nhưng con hãy cẩn thật đừng nghĩ là có một lực bên ngoài nào đó ban cho con hồng ân này. Nó chỉ xảy ra một cách tự phát khi con bước trên đường tu. Cho nên con cần kiên nhẫn với chính mình, tiếp tục bước đi trên đường tu và chờ nó xảy ra. Nói theo một khía cạnh nào đó, con đừng dính mắc là nó có xảy ra hay không xảy ra, bởi vì nếu con muốn nó xảy ra thì con đang làm gì? Con đang dùng tâm vỏ ngoài để cố gắng cho nó xảy ra, và điều này sẽ đẩy nó xa hơn khỏi con. Nhiều, rất nhiều người tâm linh quả thực đã đạt đến một mức loại bỏ dược nhiều chướng ngại trong tâm. Họ có khả năng trải nghiệm sự kết nối với tâm cao của họ vì các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của họ đã đủ thông thoáng. Họ có khả năng làm được, nhưng trong tâm ý thức họ quá mức tập trung vào nỗ lực, cho nên họ đẩy trải nghiệm này xa khỏi họ.

Không có nỗ lực nào con có thể bỏ ra. Con chỉ có thể từ bỏ nỗ lực. Con có thể xả bỏ. Con có thể buông bỏ. Buông bỏ sự dính mắc. Nhiều người tâm linh bị dính mắc muốn có những trải nghiệm tột đỉnh này, và sự dính mắc ngăn cản tâm họ buông bỏ và do đó đẩy trải nghiệm ra xa. Nhiều người đã làm chuyện này hàng chục năm trời, thậm chi cả nhiều kiếp, liên tục tập trung quá đỗi trong tâm thay vì buông ra. Hầu hết những ai cởi mở với giáo lý này đều đã có một mức thông thoáng nào đó trong tâm mình. Cho nên con có thể ngay lúc này trải nghiệm sự kết nối, nhưng con sẽ chỉ trải nghiệm kết nối khi con có thể buông bỏ. Thay vì ở trong trạng thái tâm bình thường của con hay ở trong tâm muốn có một trải nghiệm nào đó, con đi vào trạng thái tâm hoàn toàn trung hòa. Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Nếu con có trải nghiệm thì con có trải nghiệm. Nếu con không có trải nghiệm thì con cứ tiếp tục bước trên đường tu.

Trên đường tâm linh con có thể có những nỗ lực sẽ giúp con tăng triển. Có những nỗ lực con có thể áp dụng sẽ dần dần đưa con lên những tầng cao hơn và cao hơn nữa. Sẽ tới một tầng trên đường tu khi con cũng cần suy ngẫm xem là vượt quá nỗ lực – và thày không nói là con phải ngừng nỗ lực – nhưng vượt quá nỗ lực, liệu con có cần vun trồng khả năng không nỗ lực. Con buông bỏ, con phó thác, con xả bỏ để xuôi theo dòng sông sự sống, cho dù con muốn nhìn cách nào. Con không nỗ lực. Nỗ lực tối cao là không nỗ lực.

Với những lời này, thày niêm con. Đối với thày, bài giảng thật dài này được trao truyền hoàn toàn không cố gắng. Liệu con đã có cố gắng khi học bài giảng này hay chăng? Ấy, vậy thì con hãy suy ngẫm những gì thày vừa nói về buông bỏ, vì con có thể đạt tới điểm khi việc học hỏi và thể nhập bài giảng trở nên không cố gắng, và đó là lúc con đã nắm được nỗ lực cao hơn một cách trọn vẹn.

9 | Hành động cao hơn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Chủ đề tiếp theo của chúng ta đương nhiên là điều mà theo truyền thống được gọi là Chánh nghiệp, nhưng thày sẽ chọn gọi là hành động cao hơn.

Con cần lấy các lời dạy của thày về Lời nói Cao hơn, về năng lượng và việc sử dụng năng lượng vì các đề tài này cũng liên quan đến hành động. Con có thể hỏi: “Làm thê nào một hành động vật lý với một cơ thể vật lý lại liên quan đến năng lượng?” À như thày đã nói, mọi thứ đều là năng lượng. Mọi việc con làm đều được làm với năng lượng. Thày biết có thể con sẽ dễ hình dung hơn việc gửi ra một xung lực năng lượng xuyên qua cảm thể khi con phóng chiếu một cảm xúc thật mãnh liệt. Và có thể con sẽ khó hình dung hơn hơn việc gửi ra một xung lực năng lượng bằng cơ thể vật lý.

Vấn đề này tương đối dễ giải quyết khi con nhận ra cơ thể vật lý là thể thấp nhất trong bốn thể phàm của con. Con không thể nào có một hành động vật lý chỉ diễn ra trong cơ thể vật lý ở tầng vật lý mà thôi. Tầng vật lý là sự phóng chiếu của những gì xảy ra ở ba tầng cao hơn. Bất kỳ hành động nào cũng khởi sự ở thể bản sắc của con, đi xuống thể lý trí, đi xuống thể cảm xúc rồi mới được chuyển thành một hành động vật lý. Mỗi khi con hành động vật lý, con gửi ra một xung lực xuyên qua cả bốn thể phàm của con. Hầu hết mọi người không nhận biết điều này. Họ cứ đinh ninh là họ có thể hành động vật lý ở trong tầng vật lý mà thôi. Nhiều người tưởng rằng nếu họ quyết định làm một việc gì đó thì họ đang quyết định bằng tâm ý thức, mà họ không biết là họ đang có những khuôn nếp trong cả ba tâm cao hơn, và những khuôn nếp này đã phần lớn định ra ranh giới cho những gì họ có thể quyết định bằng tâm ý thức.

9.1. Ngăn ngừa một vòng xoáy nghiệp quả không kềm chế

Như thày đã giảng, nhiều người thường hành xử giống như một loại rô-bốt, một loại máy tính với những lập trình, những mô thức mà họ mang nơi những tầng tâm cao hơn, tâm tiềm thức của họ. Các chương trình này điều khiển phản ứng của họ, cho nên họ không đang lấy một quyết định vật lý, ý thức, để làm một việc gì. Quyết định được định đoạt bởi các khuôn nếp trong tâm tiềm thức. Đây là một sự kiện mà một lần nữa chúng ta có thể nói là có vẻ nghịch lý. Thày đã có giảng là về cơ bản, con có thể chọn một trong hai cách tiếp cận con đường tâm linh. Con có thể tìm cách kìm nén một số cảm xúc, một số ý tưởng, một ý niệm bản sắc nào đó, thậm chí cả một số hành động, nhưng điều này sẽ không giúp con nâng cao mức nhận biết của con. Để nâng cao nhận biết, con cần bước vào bên trong, xem xét các khuôn nếp và giải quyết chúng một cách ý thức – giải quyết thay vì phủ nhận và đè nén.

Khi nói đến hành động, có một giai đoạn trên đường tu khi quả thực con cần trau dồi một sức mạnh ý chí có ý thức để chặn đứng không cho một xung lực từ tâm tiềm thức, từ ba tầng của tâm con, bị đưa ra biểu hiện thành một hành động vật lý. Ở một mức tâm thức nào đó, con không hoàn toàn có khả năng giải quyết các khuôn nếp đó, con không thật sự biết cách làm thế nào, có thể con không có sự quyết tâm để giải quyết, hay con không sẵn lòng nhìn vào bên trong tâm mình – nhìn vào cái xà trong mắt mình theo cách diễn tả của Giê-su.

Xuyên qua các thời đại, không chỉ đạo Phật mà nhiều tôn giáo và nhiều truyền thống tâm linh khác, đã lập ra một quy tắc ứng xử, một quy tắc hành động về những gì con làm hay không làm khi con là tín đồ của tôn giáo đó. Chúng ta không thể chỉ đơn giản bác bỏ quy tắc này và bảo nó hoàn toàn sai trái, ngay cả nếu chúng ta dùng những từ “sai” và “đúng” trong bối cảnh này. Thày sẽ không tìm cách bác bỏ nó vì tất nhiên, khi con làm một hành động thì hành động này có thể tạo nghiệp. Như thày có giảng, nghiệp là các xung lực năng lượng đi qua bốn tầng cõi và quay trở về với con. Nếu con cứ liên tục làm những việc tạo ra các dạng nghiệp nghiêm trọng hơn, con có thể phá hoại khả năng nâng cao nhận biết của con. Cho nên ở một giai đoạn nào đó, thật là tự nhiên hoặc cần thiết con dùng sức mạnh của ý chí vỏ ngoài để kỷ luật hành động của mình, bởi vì nếu không, con sẽ phá hoại bước tiến tâm linh của con. Có thể con đang theo học một giáo lý tâm linh, có thể con đang thực hành một số pháp tu, nhưng nếu con không ngừng làm những việc tạo ra các dạng nghiệp nặng nề thì làm thế nào con tăng triển tâm linh được đây? Quả báo thường sẽ ngăn chặn hay cản trở đường phát triển tâm linh của con.

Có một số hành động đã được nhiều tôn giáo quy định suốt các thời đại. Chính thày đây chắc chắn cũng đã định ra một số giới luật cách đây 2500 năm. Một số điều răn được xác định trong Kinh Cựu ước qua những câu “Ngươi chớ…” Những câu này có thể hiệu nghiệm ở một tầng nào đó trong việc ngăn chặn một vòng xoáy nghiệp quả không kềm chế mà nhiều người đã vướng phải suốt nhiều kiếp sống. Đến một lúc nào đó con phải chặn nó lại, và bằng cách chấp nhận một khuôn mẫu lý tưởng về những gì một tín đồ trong tôn giáo của con không làm, thì quả thực con có thể tiến bộ. Nhưng tiến bộ này chỉ có thể đưa con đến một điểm nào đó mà thôi, vì thật ra nó không khiến cho vòng xoáy nghiệp quả ngừng hẳn. Nó sẽ ngăn không cho nghiệp trở thành vật lý nếu con không có những hành động vật lý, và nhờ vậy nó giảm bớt độ khắc nghiệt của vòng xoáy nghiệp quả. Tuy nhiên nếu con vẫn mang cùng những khuôn nếp trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, tất nhiên con vẫn phóng chiếu ra ngoài xuyên qua chúng. Chỉ có điều là nghiệp sẽ bớt nặng, bớt mãnh liệt.

9.2. Con đường vỏ ngoài và con đường nội tâm

Vậy con sẽ làm gì khi con vượt quá giai đọan đó? Thành thật mà nói, hầu hết những người cởi mở tâm linh đều đã vượt quá giai đọan đó rồi. Thường thường từ rất nhiều kiếp, con đã không tham gia vào chuyện giết người, không dùng ma túy hay rượu chè cùng nhiều loại sinh hoạt như vậy mà thày đã quy định ngay từ thuở đó là không có tính xây dựng trên con đường Bát chánh đạo. Vậy bước kế tiếp từ điểm này là gì? Ấy đó là trước hết, con nhìn nhận thật là không đủ mà chỉ quy định một số hành động như vậy mà thôi. Bởi vì tâm vỏ ngoài, tự ngã, vô cùng khéo léo sử dụng một giáo lý tâm linh để ngăn chặn bước tiến của con, để nó lẩn trốn hầu con không thấy nó, con không thấy cần buông bỏ nó, giải tán nó, giải thể nó.

Một trong những cách tự ngã làm là nó tạo ra, như thày đã có đề cập trước đây, khái niệm một con đường vỏ ngoài, một con đường tự động. Con đường này bảo rằng có hành động chân chính và hành động bất chính, có hành động đúng và hành động sai. Nếu con ép mình kiêng cữ những việc sai và nếu con ép mình chỉ làm những việc đúng, thì đảm bảo con sẽ lên được niết bàn. Nếu con cứ nhắm mắt bước theo con đường tự động này thì ở một điểm nào đó trong tương lai, đùng một cái, con sẽ giác ngộ. Con kiêng những việc làm phi tâm linh và con làm những việc làm tâm linh, kể cả những pháp tu do tôn giáo con quy định, và nếu con cứ siêng năng thực hành thì con sẽ tự động tiến bước.

Như thày vừa giảng, bằng cách nhịn không làm những hành động tạo nghiệp và thực hành các pháp tu tâm linh, con có thể tiến bộ nhưng chỉ tới một mức nào đó. Sẽ đến một điểm con không bước xa hơn mức này cho tới khi con neo chặt vào con đường nội tâm. Thật không đủ nữa nếu con chỉ kiêng một số hành động và làm một số hành động khác. Con cần làm việc trên tâm lý của con, giải quyết các khuôn nếp, các ảo tưởng, những cái ngã mà con có trong tâm tiềm thức giống như những chương trình điều khiển phản ứng của con. Con không thể đi quá một điểm nào đó cho đến khi con nhận ra và bước chân trên con đường nội tâm này. Điều tự ngã thường làm là nó định ra một con đường vỏ ngoài rồi bảo, bởi vì con đã chuyên cần kiêng cữ việc sai và chỉ làm việc đúng, cho nên con không cần nhìn vào bản thân con. Con không cần nhìn vào tâm tiềm thức của con. Con không cần làm bất cứ gì có thể phơi bày chính tôi tức là tự ngã của con.   

Xuyên qua các thời đại, biết bao nhiêu người – không chỉ người theo đạo Phật mà bất kỳ giáo lý tâm linh nào – đã tin vào chuyện này. Nhiều người thời nay là Phật tử, là người tâm linh, tin vào con đường vỏ ngoài này. Quả là có một giai đoạn con có thể tinh tiến với con đường vỏ ngoài, nhưng sẽ tới một điểm nó sẽ cản trở bước tiến của con vì nó sẽ ngăn con nhìn vào tâm tiềm thức.

9.3. Khi các nỗ lực tâm linh cản trở bước tiến

Có những người đã quy định thế nào là hành động bất chính hay chân chính và họ đã rất chăm chỉ sống theo cách định nghĩa này. Nhưng dần dần họ đã cảm thấy một sự căng thẳng bất an nào đó. Lý do là vì qua trực giác, họ cảm thấy họ không đang thực sự tiến bộ với cách tu này. Nhưng tâm vỏ ngoài của họ thì rất gắn bó, và họ gắn bó rất chặt với con đường vỏ ngoài. Họ mang một nỗi dính mắc nói rằng nếu họ thay đổi cách tiếp cận đường tu thì điều này sẽ chứng tỏ là cho đến giờ họ đã đi lầm đường. Và điều cuối cùng họ muốn là bị sai trật về con đường tâm linh họ đang đi.

Cho nên họ mới dính mắc, họ ôm chặt lấy quan điểm của họ, họ bám víu vào cách tiếp cận hiện thời của họ về đường tu. Do cảm giác bất an, giờ đây họ lý luận: “Tôi phải tu tập chăm chỉ hơn nữa. Tôi phải cần mẫn hơn nữa trong việc kiêng cữ mọi việc làm bất chính và chỉ làm những việc chân chính.” Có thể trước hết, họ sẽ suy luận là họ không thể nào sống tiếp một cuộc đời thế tục, họ phải lánh xa xã hội, rút vào tu viện nơi họ sẽ không bao giờ bị cám dỗ bởi hành động bất chính. Nhưng ngay cả khi họ sống trong tu viện, họ vẫn cảm được sự bất an cho nên giờ đây họ nghĩ: “Tôi phải tu tập nghiêm mật hơn nữa.” Thế là nó biến thành một chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế, tới mức rốt cuộc họ cảm thấy hành động chân chính độc nhất còn lại là chính pháp tu của họ – dù đó là quỳ lạy trên sàn nhà, quay bánh xe cầu nguyện hay bất cứ gì khác. Càng ngày họ càng bị ám ảnh nhiều hơn đến nỗi họ cảm thấy đây là tất cả những gì họ có thể làm.

Bấy giờ tâm vỏ ngoài sẽ thì thầm vào tai họ: “Ồ xem kìa, bạn tu tập sao quá thuần thành. Hiếm có ai tu nghiêm mật như bạn. Điều này chứng minh bạn là môt đệ tử cao cấp, cho nên bạn không có nhu cầu nhìn vào tâm tiềm thức, bạn không có nhu cầu soi gương. Đừng để ý đến những loại xung lực kia và tập trung tâm trí vào việc tu tập đúng đắn.” Có những người có thể làm chuyện này nguyên một kiếp sống hay hàng chục năm trời mà không bước lên được một bước nào trên đường tu đích thực.

9.4. Trung đạo đích thực

Tất nhiên con sẽ muốn tránh điều đó, và làm thế nào con tránh được chứ? Một lần nữa, qua con đường Trung đạo, mà thật sự chúng ta có thể gọi là Thượng đạo, con đường cao hơn, hay Việt đạo, con đường siêu việt. Tâm đường thẳng nói chuyện như thế này: “Đây là một đối cực, kia là một đối cực nữa. Giữa hai đối cực có một thang điểm, có nhiều sắc thái khác nhau từ màu đen qua đủ các sắc xám ngày càng nhạt hơn cho đến khi bạn có màu trắng. Khi Phật dạy về Trung đạo, nhất định phải có nghĩa là bạn tìm ra trung điểm giữa hai đối cực.”

Và người ta lý giải: “Ồ đúng rồi, tôi cần phải nhịn không làm điều sai và đằng khác tôi cần thực hành pháp tu, nhưng tôi không thể bỏ ra quá nhiều thì giở tu tập đến độ tôi không còn tham gia vào cuộc sống bình thường năng động được nữa. Tôi phải tìm ra một thế cân bằng.” Đây không phải là một cách tiếp cận hoàn toàn vô giá trị, nhưng có một cách hiểu cao hơn. Trung đạo trong nghĩa nguyên thủy, ngay cả trong cách biểu đạt nguyên thủy của nó, không phải là con đường chính giữa. Đó không phải là trung điểm giữa hai đối cực. Đó là con Đường Cao hơn, con Đường Thăng vượt, con Đường Siêu thoát. Là con đường vượt khỏi không chỉ hai đối cực mà toàn bộ thang điểm nhị nguyên giữa cả hai, tất cả mọi sắc đậm nhạt giữa cả hai. Cho đến giờ thày đã nói là tâm nhị nguyên quy định hai cực đối lập, nhưng tâm nhị nguyên hoàn toàn có khả năng quy định một vùng xám với những độ xám khác nhau giữa hai cực. Toàn bộ thang điểm này, không chỉ hai đối cực mà cả những sắc thái khác nhau cùng với điểm chính giữa, vẫn do tâm nhị nguyên quy định.

9.5. Hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời

Vậy thế nào là con Đường Cao hơn để tiếp cận hành động? À một lần nữa, đó là tìm cách gia tăng khả năng trực giác để chạm được phần nào những gì đã được ghi vào Kế hoạch Trọn đời của con. Như thày đã có nói, vào lúc con lập ra Kế hoạch Trọn đời, có thể con đã quyết định là có một trải nghiệm nào đó con có thể có trên trái đất mà con chưa chán chê – như thể con cần trải nghiệm nó cho thỏa thuê tới mức con hoàn toàn chán chê, và nhờ vậy con có thể giải quyết toàn bộ ham muốn này và buông bỏ nó. Con thăng vượt hoạt động đó, ham muốn đó, trải nghiệm đó. Nhưng bây giờ khi con bước vào đầu thai thì con quên mất. Con tìm thấy một giáo lý tâm linh bảo rằng chính cái sinh hoạt mà con muốn nếm thoả thuê cho tới mức chán ngán, là không tâm linh. Và vì vậy con phải kiêng khem không được làm. Con buộc mình phải nhịn hẳn sinh hoạt đó, và kết quả là gì? Con không đạt được tiến bộ mà con đã trù liệu trong Kế hoạch Trọn đời của con.

Thày đang nói gì ở đây? Thày đang nói là con không thể lập ra một thang điểm vỏ ngoài rồi bảo: “Đây là cách một người tâm linh phải hành động, và kia là những hành động mà một người tâm linh không bao giờ được làm.” Chẳng hạn: “Một người tâm linh phải sống độc thân và kiêng quan hệ tình dục.” Nhiều người tâm linh, đặc biệt trong truyền thống Phật giáo, đã lý luận kiểu đó. Nếu ham muốn trải nghiệm tình dục là dính mắc cuối cùng ngăn cản con nhập niết bàn, thì làm như vậy sẽ cản trở bước tiến của con. Đương nhiên tự ngã có thể dễ dàng dùng điểm này như một cái cớ và nói: “Ồ lời dạy này nghe hay quá. Có nghĩa là tôi có thể làm bất cứ chuyện gì tôi muốn. Có lẽ chăng trải nghiệm này nằm trong Kế hoạch Trọn đời của tôi?” Tất nhiên, làm như vậy chỉ là rơi vào cực đoan ngược lại. Tất cả là vấn đề sử dụng trực giác của con để phát hiện chính xác những gì chính con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của con. Những gì người khác nói hay đặt vào Kế hoạch Trọn đời của họ thật không quan trọng gì. Con cần khám phá chính con đã ghi gì trong Kế hoạch của con và con có thể làm vậy qua trực giác. Một lần nữa, bằng cách dùng những dụng cụ này để nâng cao nhận biết, khắc phục các khuôn nếp và chuyển hóa năng lượng thấp, con sẽ có được một tầm nhìn sáng suốt.  

Kế hoạch Trọn đời của con neo trụ ở đâu? À, nó thật sự neo trụ nơi cái ta cao của con. Kế hoạch Trọn đời của con có thể được xem như một quyển sách hay ít ra một tấm bảng trên kia ở một cõi có năng lượng cao hơn. Cách duy nhất con có thể thấy nó là nhìn từ tâm ý thức xuyên qua các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Nhưng nếu các thể này chất đầy những năng lượng thấp, những ảo tưởng của Maya, thì con sẽ không thể nhìn thấy tấm bảng đó, hay ít ra con không thể đọc được.

Khi con bắt đầu dọn dẹp rác rưởi trong các thể cao hơn, loại bỏ Maya, làm sạch năng lượng, thì một cách tự nhiên con sẽ có thể bắt đầu hé nhìn thấy Kế hoạch Trọn đời. Do đó con có thể bắt đầu nhìn ra thế cân bằng cá nhân của con là gì, những hoạt động nào con nên tham gia mà con đã muốn tham gia để khắc phục chúng và được giải thoát khỏi chúng.

Tất nhiên một khía cạnh khác trong Kế hoạch Trọn đời là con muốn đóng góp vào sự thăng tiến của cuộc sống trên trái đất, của tâm thức tập thể, của hoàn cảnh nhân loại. Một lần nữa, nhiều người tâm linh đã đặt ra chuẩn mực quy định sự đóng góp này phải như thế nào. Thường thường có thể là họ tham gia vào công việc từ thiện hay họ thực hành pháp tu tâm linh của họ vì đây là cách họ có thể thay đổi thế giới. Điều này không nhất thiết là sai, nhưng liệu có phải là điều chính con đã định ra trong Kế hoạch Trọn đời của con không? Mặc dù con là một người tâm linh, có thể có một đóng góp cụ thể mà con muốn cống hiến trong một lãnh vực thế tục nào đó. Con muốn đưa ra một ý tưởng mới nhằm đề xướng một cải tiến nào đó chẳng hạn trong lãnh vực kinh doanh, giáo dục, chăm sóc sức khỏe hay nhiều thứ khác. Có lẽ con muốn viết một quyển sách đặc biệt để giúp một số người đạt sáng ngộ. Có thể là nhiều thứ khác nhau. Có muôn ngàn chuyện mà con đã có thể quyết định muốn làm nhưng lại không được hầu hết các phong trào tôn giáo hay tâm linh định nghĩa là việc làm tâm linh, chính vì họ đã mang sẵn quy chuẩn kia. Một lần nữa, con có thể bỏ lỡ cơ hội mà con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của mình, và điều này sẽ không giúp con tăng triển tâm linh cho dù con đã thực hành những pháp tu được thiết kế để giúp con tăng triển tâm linh. Nó sẽ giúp con cảm thấy mình tâm linh hơn, mình tinh tiến hơn, nhưng điều này không phải là tăng triển tâm linh, như thày hy vọng đã giảng rõ rồi.

9.6. Làm hay không làm đều không đủ

Có rất nhiều khía cạnh ở đây cần được cân nhắc nhưng không bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Kỳ thực, chính tâm vỏ ngoài đường thẳng mới thường ngăn cản con hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời của con qua trực giác. Con cần vô hiệu hóa tâm vỏ ngoài đường thẳng này, nó luôn luôn muốn lập ra chuẩn mực có hai đối cực đúng-sai, nó bảo tất cả những gì con cần làm là làm cái này mà không làm cái kia, và như thế con sẽ đạt mục tiêu. Vì lý do gì con sẽ không đạt được mục tiêu bằng cách làm những việc tâm linh và nhịn không làm những việc phi tâm linh?

Thày đã nói mục tiêu là gì? Giác ngộ là gì? Đó là một mức nhận biết cao hơn. Làm thế nào con sẽ đạt được mức nhận biết cao hơn? Chỉ bằng cách, duy chỉ bằng một cách là thăng vượt mức nhận biết hiện tại của con và cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con vươn tới ít nhất những tầng ờ các giai đoạn khởi đầu của giác ngộ. Khi con làm hay nhịn không làm những việc vỏ ngoài, điều này sẽ không tự động chuyển đổi mức nhận biết của con. Trên thực tế, nhiều người tâm linh đã chui vào rồi bị kẹt lại trong một ngõ cụt, và cách duy nhất để họ tiến bước là chất vấn chính cái chuẩn mực về tâm linh và phi tâm linh, trong hành động, trong lời nói, trong ý định, trong toàn bộ cái nhìn của họ về cuộc sống.

Thày có nói là con sống trong một thế giới bất ổn, rằng con không thể nào sống sót về mặt tâm lý, cho nên để sống sót con phải kìm nén một số cảm xúc, một số ý tưởng, một số xung lực ở tầng bản sắc, hầu con tìm được một thế quân bình và một cảm giác liên tục nào đó. Việc kìm nén là cần thiết cho sự sống còn ở một tầng mức nào đó, nhưng kìm nén cũng trở thành cái bẫy chủ chốt – Maya, tấm màn của Maya – sẽ giam giữ con người trong Biển Luân hồi. Do tấm màn ảo tưởng, con người không thấy được là nội dung trong chính tâm họ sản xuất ra trải nghiệm mà họ đang có về cuộc sống. Cho nên cách duy nhất để thay đổi trải nghiệm cuộc sống là thay đổi nội dung trong tâm họ, chứ không phải một cái gì ở ngoài họ ngay cả ở mức hành động.

Con cần lượng định lại các hành động dựa theo ảnh hưởng của chúng trên trình độ tâm thức của con. Rõ ràng có một số hành động sẽ kéo thấp mức tâm thức của con. Và một trong những hành động phổ biến nhất là ma túy, rượu và các chất gây say khác. Tại Ấn Độ đã có một truyền thống khá lâu đời là một số người – thậm chí họ còn tự xưng là swami hay yogi – sử dụng nhiều loại ma túy và cho đây là cách đạt được tiến bộ tâm linh. Nếu có một chất vật lý nào có thể đưa con đến giác ngộ thì tại sao lại có truyền thống hàng ngàn năm trời của các vị thày tâm linh giảng dạy pháp tu gian nan kia thay vì chỉ cứ giản dị sử dụng chất đó? Đấy, có lẽ là vì các vị thày tâm linh này biết rõ ma túy là một ngõ cụt. Nó cho con một cảm giác, có thể nó khiến con nghĩ vì con có một số trải nghiệm cho nên nhất định con phải là người tâm linh. Nhưng không có gì con có thể làm cho bộ não vật lý sẽ nâng cao mức tâm thức của con. Trái lại nó có thể hạ thấp mức tâm thức của con, hay ít ra ngăn con vươn lên cao hơn vì con bị kẹt lại ở một tầng mức nhất định.

Nếu con cứ tiếp tục làm vậy thì quả thực nó sẽ kéo thấp mức tâm thức của con xuống, vì sẽ tới một điểm sau khi con dùng ma túy một thời gian, con bắt đầu trực nhận trong nội tâm là con không thể tiếp tục như vậy được nữa, con cần bước tới vì con đang không tăng triển. Như thày vừa nói, điều này gia tăng sự căng thẳng. Bây giờ nếu con phớt lờ cảm giác này và cứ nhất định làm tiếp – hay con tiếp tục ăn cắp, lừa gạt người ta hay bất cứ thói nào khác – thì chỉ có một chuyện có thể xảy ra. Con sẽ phủ nhận mãnh liệt hơn, và chính việc gia tăng phủ nhận sẽ hạ thấp trạng thái tâm thức của con. Cho nên con bước xuống các bực thang tâm thức khi sự phủ nhận càng ngày càng sâu đậm hơn.

Có những hành động khác cũng có thể đem lại tác động tương tự nhưng lại được nhiều người tâm linh liệt vào loại việc làm tâm linh, thậm chí còn thánh thiện nữa. Ngày nay không còn nhiều thông tin về hoàn cảnh thực tế mà thày đã gặp phải trong tư cách là Phật cách đây nhiều thế kỷ. Thày đã gặp khá nhiều sự chống đối từ các nhà Bà la môn đạo Hindu, họ cho rằng họ có độc quyền giảng dạy tâm linh ở vùng này của nước Ấn. Họ rất coi trọng các loại nghi lễ vỏ ngoài. Ngày nay con cũng thấy rất nhiều lễ hội, có những nghi lễ người ta đi vào đền thờ, được một tu sĩ rưới nước trái cây lên người hay bất cứ việc gì khác, và điều này được cho là sẽ trợ giúp tiến bộ tâm linh. Tất nhiên đó là vì các nhà Bà la môn đã tự xưng là người trung gian giữa quần chúng và cõi tâm linh hay các thần linh được mô tả trong đạo Hindu. Cũng giống như các chức sắc giáo hội vào thời Giê-su cũng định nghĩa một tôn giáo dạy rằng cách duy nhất để đến với Thượng đế là qua trung gian hội thánh cùng các tu sĩ, thành phần tu sĩ của giáo hội. Giê-su bị kết án tử hình và hành quyết là vì thày đã thách thức quan điểm đó với lời dạy rằng Nước Trời ở ngay trong con.

Trong cốt lõi, nói rằng Nước Trời ở ngay trong con cũng giống như nói rằng mọi thứ đều là Phật tánh và mọi người đều có tiềm năng vươn lên quả vị Phật. Đây chính là điều mà các tu sĩ của một tôn giáo có tổ chức không thể chịu nổi. Họ đã dựng lên quan niệm là qua những hành động được tôn giáo vỏ ngoài quy định và việc kiêng khem những loại hành động khác, thì đảm bảo con sẽ được cứu rỗi, con sẽ được lên niết bàn hay bất cứ tên gọi nào khác. Đây là một động lượng vô cùng lâu đời trên trái đất, một động lượng rất mạnh mẽ trong tâm thức tập thể. Rất, rất nhiều người tin như vậy. Tại sao họ tin vào điều đó? Vì nó cho họ một cái cớ để họ không nhìn vào chính tâm họ cùng tâm lý của họ.

9.7. Nỗi sợ những gì nằm trong tâm tiềm thức

Tại sao họ không muốn nhìn vào? Vì họ sợ những gì họ có thể tìm thấy trong đó. Điều này con sẽ không hiểu nổi nếu con không hiểu về luân hồi. Con thử nhìn trường hợp đứa bé kia lớn lên ở một trong những nền dân chủ thịnh vượng hiện đại mà xem. Nhìn từ mọi khía cạnh, đứa bé này đã được hưởng một sự nuôi dạy lý tưởng với cả cha lẫn mẹ thương yêu nó, có thày giáo tốt ở trường học, anh chị em cũng tốt bụng. Nói chung nó có những điều kiện tốt nhất mà một người có thể mong muốn, nhưng nó lại mắc phải những chứng bệnh tâm lý trầm trọng đến độ nó không thể hoạt động bình thường trong xã hội. Có vấn đề gì trong cách nuôi dưỡng hay trong gen của nó hay không (nurture or nature)? Không ai trong gia đình nó có xu hướng mắc bệnh tâm lý cho nên không thể quy cho di truyền được. Trong suốt tuổi ấu thơ nó không bị chấn thương, cho nên cũng không thể quy cho cách nuôi dạy. Làm thế nào con giải thích được tại sao một đứa bé lớn lên trong hoàn cảnh lý tưởng lại mắc phải một chứng bệnh tâm lý ngặt nghèo đến thế? Chỉ có một cách giải thích là trong tiền kiếp, nó đã trải qua chấn thương trầm trọng.

Con hãy nhìn bao nhiêu cuộc chiến đã diễn ra chỉ trong một thế kỷ qua. Bao nhiêu người đã phải chịu cảnh chiến tranh? Bây giờ khi họ tái đầu thai, họ mang chấn thương này trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc. Rất nhiều người trong thế giới ngày nay đã đầu thai lại nhiều lần cho nên họ đã hứng chịu đủ loại chấn thương, nhưng chính họ cũng đã làm nhiều chuyện rất ích kỷ, chỉ lo bản thân mình, dựa trên ảo tưởng họ là những sinh thể tách biệt, và những gì họ gây cho người khác sẽ không ảnh hưởng gì đến họ – hay ít ra nếu họ không phải chịu hậu quả vật lý trực tiếp thì họ đã tránh khỏi hình phạt tày trời. Nếu họ không bị bắt thì hình như họ đã thoát được hình phạt. Bây giờ họ hiện thân trong thời đại tân tiến, một trong những biến chuyển to lớn đã xảy ra trong tâm thức tập thể trong mấy thế kỷ qua là rất, rất nhiều người hơn trước bắt đầu lo việc cải sửa tâm lý, như chữa lành tâm lý, đón nhận nhiều loại giáo lý tâm linh, từ yoga qua thiền chánh niệm cho đến đủ loại liệu pháp khác nhau. Cho nên họ đã khởi sự làm việc trên tâm lý của họ.

Có một động lượng đang lớn mạnh trong tâm thức tập thể xem việc tu sửa tâm lý là bình thường, tự nhiên, cần thiết, xây dựng. Trên thế giới có một nhóm người rất đông không chỉ mang theo chấn thương từ tiền kiếp, mà họ cũng mang theo sự nhận biết tinh tế là họ đã làm những chuyện mà đúng lý họ không nên làm. Và họ không muốn nhìn vào những cái đó. Họ không muốn xem xét tâm lý của họ vì họ sợ những gì họ có thể tìm thấy. Họ sợ bị choáng ngợp đến độ không thể sinh hoạt bình thường được nữa. Những người đó muốn gì? Họ muốn con đường tự động, họ muốn có ai đó hứa hẹn với họ: “Con hãy tuyên bố Giê-su Ki-tô là Chúa, là Đấng Cứu rỗi, thì bảo đảm con sẽ được cứu rỗi,” hay “Bạn hãy gia nhập môn phái Phật giáo này, học tập các giáo lý này, thực hành các pháp tu này thì bảo đảm bạn được giải thoát,” hay “Bạn hãy làm bài tập này, quỳ lạy trên sàn, quỳ lạy đủ mười ngàn lần trong kiếp này thì bảo đảm bạn được nhập niết bàn.” Đó là điều người ta muốn.

Vậy một lần nữa, đâu là cách nhìn cao hơn về hành động? Đó là con nói: “Việc này sẽ tác động đến tâm thức của tôi như thế nào? Không những nó có nâng cao mức tâm thức của tôi hay không, mà khi tôi làm một hành động thì phản ứng của tôi là gì? Phản ứng tâm lý của tôi là gì? Nó khởi lên những gì trong tâm lý tôi? Cái gì đang bị khuấy động?” Rồi con dùng đó như một cơ hội để nhận ra chính vì con là một sinh thể tâm linh, vì con muốn tăng triển tâm linh, cho nên con đã tự đặt mình vào những tình huống sẽ buộc con – nếu có thể nói như vậy – làm một số hành động để khuấy động những điểm chưa giải quyết trong tâm lý của con. Đó là một cơ hội để con nhìn ra một điểm chưa giải quyết, con xử lý nó và nhờ vậy con tinh tiến, con bước lên cao hơn. Thêm một bực nữa trên chiếc cầu thang. Nếu con xem mình là một người tâm linh, con cần thực hiện cuộc xoay chuyển này để con sẵn lòng làm công việc này, con ngộ ra sự cần thiết của công việc này, và con bỏ hẳn giấc mộng kia về con đường tự động. Con cần quan sát phản ứng của con khi con nghe những ý tưởng này và nhìn thấy lực kháng cự trong con đang không muốn xem xét chính mình.

9.8. Hành động không thể đưa con vào Niết bàn

Sau đó con có thể đi thêm một bước liên quan đến hành động. Trong giới mộ đạo truyền thống có nhiều người sẽ bảo rằng nếu con làm một số chuyện thì hành động của con sẽ kết án con xuống địa ngục. Nếu con giết một người hay thậm chí nhiều người, con sẽ bị đọa xuống địa ngục. Một lần nữa, đây lại là lối suy nghĩ nhị nguyên. Con đang định ra một đối cực nhị nguyên. Có một thiên đàng, có một địa ngục, và liệu con đi đến nơi này hay nơi kia tùy thuộc vào hành động của con. Một số hành động sẽ đày con xuống địa ngục, một số hành động khác sẽ bảo đảm đưa con lên thiên đàng. Một lần nữa có một động lượng mạnh mẽ trong tâm thức tập thể khiến người ta muốn tin vào chuyện đó, ít ra nếu những người này đã kiêng cữ không làm những việc đưa xuống địa ngục. Thật không có cơ sở thực tế nào trong chuyện này.

Thày không hề phủ nhận là có một tầng cõi vượt khỏi vũ trụ vật chất, vượt cả bốn tầng của vũ trụ vật chất. Thày không phủ nhận là con người có khả năng vươn lên tầng cõi đó để được giải thoát khỏi bánh xe sinh tử – con không phải trở lại hiện thân mà sẽ vĩnh viễn thăng khỏi trái đất. Tầng cõi này có đó, đó là một tiềm năng, nhưng đó không phải là điều những người mộ đạo gọi là thiên đàng. Sự khác biệt giữa cõi con đang sống và cõi cao hơn kia – mà thày không muốn dùng ngôn từ để mô tả – sự khác biệt giữa cõi hiện hữu của con bây giờ trên trái đất và tầng cõi cao hơn là mức độ tâm thức. Không phải các hành động của con sẽ quyết định con có thể thoát khỏi trái đất và đi lên cõi cao kia nơi không còn những xung đột, không còn Biển Luân hồi như trên trái đất. Điều duy nhất sẽ quyết định là mức độ tâm thức của con.

Hãy thử lấy một ví dụ cùng cực, con hãy tự hỏi loại sinh thể nào có thể bước vào cõi cao đó? Hãy thật cụ thể. Giáo hội Công giáo có dạy về thiên đàng và những tín đồ Công giáo ngoan đạo đảm bảo được lên thiên đàng. Con có thực sự hình dung được một người Công giáo trung bình tồn tại ở một cõi cao được cho là thiên giới hay chăng? Thử lấy một vị linh mục Công giáo. Từ một góc nhìn vỏ ngoài về hành động, thật con không thể tìm được ai tốt đẹp hơn một linh mục Công giáo. Nhưng nếu như vị này đã lạm dụng trẻ em thì sao? Ông là một kẻ đạo đức giả vì ông giả vờ là một linh mục và một người phụng sự Chúa, nhưng ông lại xâm hại trẻ em. Liệu con có thể nào hình dung một người như vậy được bảo đảm lên thiên đàng với mức tâm thức đã khiến ông xâm hại trẻ em? Có thể nào không? Có thể tưởng tượng được không? Đối với những ai đã kích hoạt trực giác thì chắc chắn không thể. Con sẽ lập tức nhìn ra là tuyệt đại đa số mọi người trên trái đất không thể lên thiên đàng hay nhập niết bàn với mức tâm thức hiện thời của họ.

Điều này liên quan thế nào với hành động? À, nhiều người rất lo sợ khi họ tin vào luân hồi, là có thể họ đã làm một việc gì đó trong kiếp trước sẽ ngăn họ không lên được thiên đàng hay niết bàn, cho dù họ định nghĩa là gì. Sau đây là sự thật giản dị mà thày đã cố giải thích cách đây 2500 năm nhưng thày sẽ trao cho con dưới một hình thức trực tiếp hơn nữa. Không có hành động nào con có thể làm trên trái đất sẽ đưa con lên thiên đàng, và không có hành động nào con có thể làm trên trái đất sẽ giữ con ở ngoài thiên đàng. Tại sao? Vì hành động không phải là yếu tố quyết định con có lên thiên đàng hay không, mà là mức tâm thức của con. Tất nhiên, một hành động tuôn ra từ một mức tâm thức nào đó. Nếu con đã làm một hành động thì nó cho thấy là it ra trong tiền kiếp đó khi con đã hành động như vậy – hay ngay cả trong kiếp này – con đã ở mức tâm thức đó, và mức tâm thức này sẽ giữ con ở ngoài thiên đàng.

Nếu con là một người tâm linh, con không cần sợ xem xét tâm lý của mình. Bởi vì cho dù con đã làm gì đi nữa trong một kiếp trước, con vẫn có thể khắc phục hậu quả của hành động bằng cách thăng vượt mức tâm thức đã tạo ra hành động. Vũ trụ, Thượng đế, hay bất cứ gì con có thể tưởng tượng, không quan tâm đến những hành động con làm trên trái đất. Quan tâm duy nhất là trình độ tâm thức của con. Thật chẳng quan trọng gì nếu trong một tiền kiếp con đã làm gì đó bị quy định là phi tâm linh hay phản tâm linh. Nếu con đã thăng vượt mức tâm thức này, hay nếu con sẵn lòng thăng vượt tâm thức này ngay bây giờ, thì con có thể – và con sẽ – thoát ra khỏi hành động. Cho nên con sẽ tiến bộ trên đường tâm linh dựa trên những tiến bộ con đạt được trong tâm thức của con. Hành động không phải là yếu tố quyết định mà là mức tâm thức. Và một khi con đã thăng vượt mức tâm thức thì con không cần cảm thấy tội lỗi về những việc con đã làm.

9.9. Nghiệp quả vận hành thực sự như thế nào

Con có thể được lợi lạc từ việc thỉnh cầu năng lượng cao để nó biến hóa xung lực năng lượng do hành động tạo ra, là điều mà nhiều người gọi là nghiệp. Con có khả năng chuyển hóa nghiệp quả – nếu con đã giải quyết tâm thức. Cũng có thể nói là khi con làm một hành động, con gửi một xung lực vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, và khi nó đi lên tầng bản sắc, nó được phản chiếu lại cho con, đi vào thể bản sắc của con. Đây là một xung lực năng lượng. Năng lượng làm gì? Nó tạo ra những mô thức giao thoa với năng lượng ở xấp xỉ cùng độ rung. Nếu con chưa thăng vượt tâm thức đã khiến con hành động như vậy, nếu con vẫn còn một số ảo tưởng và niềm tin chưa giải quyết trong thể bản sắc của con, năng lượng nghiệp báo sẽ tương tác với những thứ này, sẽ được tăng cường bởi những thứ này. Có nghĩa là nghiệp báo bây giờ đi xuống thể lý trí dưới một dạng tăng cường. Nếu trong thể lý trí con vẫn còn những khuôn nếp và tin tưởng, nó sẽ lại tương tác với chúng và được tăng cường thêm nữa. Rồi nó đi vào thể cảm xúc, và nếu con vẫn còn khuôn nếp cảm xúc chưa giải quyết, nó lại được củng cố thêm, cho nên khi nó băng qua lằn ranh của cõi vật lý, rất có thể nó sẽ thị hiện như một hậu quả dữ dội.

Nhiều người tin vào nghiệp quả tin rằng nếu con đã giết ai đó trong một kiếp trước, quả báo có thể khiến con bị giết trong kiếp này. Không có gì con làm có thể ngăn chặn được sự kiện này vì con đã tạo nghiệp và giờ đây nghiệp phải giáng xuống với kết quả là con bị giết. Điều này chỉ đúng nếu con chưa thăng vượt tâm thức. Nếu con đã thăng vượt tâm thức ở tầng bản sắc, nghiệp báo có thể quay trở lại nhưng không có gì để nó tương tác, không có gì để nó gia tăng. Kỳ thực nếu con đã tạo ra những khuôn nếp cao hơn hay đã tự giải phóng khỏi ảo tưởng và thỉnh cầu năng lượng, nghiệp báo có thể suy giảm.

Đến khi nó xuống đến thể lý trí và nếu con đã thăng vượt các khuôn nếp trí năng, cũng lại không có gì tăng cường cho nó và nó suy giảm thêm. Điều tương tự lại xảy ra ở thể cảm xúc, cho nên khi nó xuống đến thể vật lý, có thể nó đã được chuyển hóa toàn diện thành một độ năng lượng cao hơn, hay nó chỉ thị hiện dưới một dạng nhẹ hơn rất nhiều. Thay vì bị giết, có thể con chỉ gây cho mình một thương tích ngoài da.

Như ngành vật lý hiện đại cho thấy, hành động gắn liền với phản ứng. Không có hành động mà không có phản ứng, nhưng cũng không có phản ứng mà không có hành động. Tất cả buộc chặt với nhau trong lý duyên khởi. Con có thể nói: “Tôi đã làm một hành động vật lý. Hành động này tạo ra một phản ứng từ người khác, và phản ứng của họ đã ảnh hưởng đến tôi.” Hay có lẽ nó không ảnh hưởng đến con vì con đã tránh né được, nhưng nó vẫn tạo ra một phản ứng trong bốn tầng của vũ trụ vật chất. Nó cũng tạo ra một phản ứng trong tâm con. Thật ra hành động dựa trên một tiến trình trong tâm con. Nếu con bị kẹt trong Maya và các ảo tưởng, trong một trạng thái tâm thức tách biệt, trong tâm nhị nguyên, rất có thể hành động của con đã khởi lên từ các khuôn nếp phản ứng có mặt trong ba tâm cao của con. Cho mỗi hành động đều có một phản ứng, nhưng con có khả năng thăng vượt, biến hóa phản ứng từ tấm gương vũ trụ bằng cách thăng vượt cái tâm thức đã dẫn đến hành động.

Có rất nhiều người tin vào nghiệp quả, tin đó là một sự trừng phạt, nhưng thật sự nghiệp quả không phải là trừng phạt. Đó là một cơ hội. Thày đã nói gì về mục đích cuộc sống? Đó là để tăng triển nhận biết của con. Làm thế nào con tăng triển nhận biết? Bằng cách nhìn ra điều gì đang cầm giữ con lại ở mức nhận biết hiện thời, khiến con không thể thăng vượt và vươn lên mức cao hơn. Nếu con không nhìn ra thì làm sao con thăng vượt đây? Đôi khi con có thể cố tình nhìn và con thấy, nhưng khi khác con không cố tình nhìn. Thế rồi một tình huống bên ngoài buộc con phải nhìn thấy nó bằng cách tạo ra một phản ứng trong con. Đấy, đó là điều nghiệp quả vốn làm. Luật nghiệp quả bảo rằng con đang làm một hành động. Con giết một người – một sự vi phạm nghiêm trọng đối với quyền tự quyết của họ cũng như quyền được có cơ hội tăng triển. Nếu luật nghiệp quả trải bày tức khắc, con sẽ bị giết ngay lập tức, nhưng điều này có nghĩa là con sẽ bước ra ngoài hiện thân. Nếu con không bị giết ngay lập tức, con sẽ phải sống phần còn lại của kiếp này biết rằng mình đã giết một người.

Và điều này cho con một cơ hội để con xử lý nó trong kiếp sống đó. Trong những kiếp tiếp theo, có thể con không nhớ lại một cách ý thức, nhưng con vẫn mang cái tâm lý, các khuôn nếp trong tâm lý đã khiến con giết người. Con vẫn có cơ hội nhìn ra cái đó, xử lý nó và khắc phục nó. Mấy kiếp sau, xung lực nghiệp quả quay trở lại. Đây không phải là một trừng phạt mà là một cơ hội. Nếu con chưa thăng vượt tâm thức, xung lực nghiệp quả sẽ khuấy động tâm thức đó lên, ngay cả khi không có một tình huống bên ngoài kích động. Có thể con không ở trong một hoàn cảnh bị thúc giục giết người, nhưng xung lực nghiệp quả quay trở về các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con sẽ khuấy động những gì chưa được giải quyết, để con kinh nghiệm nó và được thêm cơ hội xem xét nó trước khi nghiệp quả trở thành vật lý.

Nếu con không sẵn lòng xem xét nó, nghiệp quả sẽ trở thành vật lý, và giờ đây con hứng chịu một hậu quả vật lý mà con không thể phủ nhận. Nhưng trước khi con phải chịu hậu quả vật lý không thể phủ nhận này, con đã có một cơ hội để chuyển hóa trạng thái tâm thức của con. Con chỉ phải chịu hậu quả vật lý nếu con không sử dụng cơ hội. Vậy đâu là trừng phạt chứ? Mọi sự đều là cơ hội. Đây là điều con có thể neo trụ vào và chấp nhận một cách ý thức. Con có thể tự hỏi, con có thể dùng trực giác mà hỏi: “Đâu là cơ hội ở đây? Tôi cần nhìn ra điều gì trong tình huống này? Có điều gì trong tâm lý mà tôi cần giải quyết để thăng vượt hoàn cảnh này, sử dụng hoàn cảnh này như một bàn đạp để vươn lên cao hơn trên con đường Bát chánh đạo?”  

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn cho con về hành động. Thày niêm con trong niềm vui của Phật biết rằng thày đã chọn một hành động cao hơn khi trao truyền lời dạy này.

7 | Lời nói cao hơn cần năng lượng cao hơn

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 7 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Đề tài tiếp theo mà chúng ta cần bàn đến ở đây là khái niệm lời nói cao hơn. Một lần nữa, nhiều Phật tử đã nhìn vào khái niệm này, lấy cách dịch “Chánh ngữ” và tìm cách định nghĩa thế nào là lời nói chân chính và thế nào là lời nói bất chính. Như thày đã có giảng, đây không phải là cách tiếp cận cao nhất. Làm thế nào vươn lên cao hơn?

À, con không thể thấu triệt khái niệm lời nói cao mà không hiểu về năng lượng. Phải công nhận đây là một điều khó giải thích cho con người 2500 năm về trước, nhưng với tiến bộ của khoa học hiện đại, việc này đã dễ dàng hơn. Như đã có đề cập, Albert Einstein đã chứng minh là thực sự thế giới được tạo thành bằng năng lượng. Có nghĩa gì? Có nghĩa là tất cả mọi thứ con làm đều được làm với năng lượng. Con không thể cảm xúc, con không thể suy nghĩ, con không thể cầm giữ một ý niệm bản sắc, con không thể nói năng và con không thể hành động mà không sử dụng năng lượng. Thày cũng biết là nhiều người nhận thức được là cơ thể của họ cần đến năng lượng, và họ nghĩ họ lấy năng lượng từ thức ăn, có lẽ từ ánh sáng mặt trời, cũng có thể từ việc hít thở không khí, nhưng đây chỉ là khía cạnh vật lý của năng lượng.

Tất nhiên điều này không liên quan gì lắm đến lời nói, lời nói cao hơn. Để nắm bắt khái niệm lời nói cao hơn, con cần nhận ra năng lượng là một tấm thảm liên tục những rung động. Có những năng lượng cấu tạo cái con gọi là cõi vật chất, nhưng còn nhiều rung động năng lượng khác nữa. Con biết qua khoa học là người ta có cách đo những rung động năng lượng không thể nào phát hiện bằng giác quan vật lý. Có một dạng năng lượng rung động trong phạm vi cái chúng ta có thể gọi là phổ tần số vật lý, nhưng vượt ngoài phạm vi này là một dạng năng lượng rung động trong phổ tần số cảm xúc, rồi có một dạng năng lượng lý trí, và cuối cùng là năng lượng rung động ở tầng bản sắc, tức là tầng cao nhất trong vũ trụ vật chất. Vượt ngoài những cái đó tất nhiên có cõi tâm linh với những rung động còn cao hơn nữa, vượt khỏi khả năng đo đạc của các loại dụng cụ vật lý.

Có thể con chưa biết điều này, nhưng có một giới hạn trong những gì các dụng cụ làm bằng vật chất có thể đo lường. Cũng ví như một kính hiển vi quang học không thể nhìn thấy hạt nào nhỏ hơn bước sóng của ánh sáng khả kiến (wavelength of visible light), và đó là lý do người ta đã chế tạo loại kính hiển vi điện tử để phát hiện những hạt nhỏ hơn. Tương tự như thế, có thể có những dụng cụ khác được chế tạo để đo rung động cao hơn, và một số dụng cụ như vậy đã được sáng chế, tuy nhiên có một giới hạn trong khả năng đo đạc của những dụng cụ làm từ cõi vật chất. Cho nên con sẽ không thể nào tạo ra một dụng cụ có khả năng chứng minh sự hiện hữu của một cõi tâm linh vượt khỏi cõi vật chất. Đơn giản là không thể. Tuy vậy, những năng lượng này có thật.

7.1. Tâm đường thẳng, tâm trực giác và sự khách quan

Bây giờ con có thể nhìn sang những gì các nhà khoa học đã khám phá khi họ đưa ra thuyết Big Bang (vụ Nổ Lớn). Họ bảo là vào thuở Big Bang thật sự không có vật chất theo cách con hiểu vật chất ngày nay, vì mọi thứ đều là năng lượng bị dồn nén trong một điểm cực nhỏ gọi là điểm dị biệt (singularity). Quan niệm này về điểm dị biệt thật ra là do tâm đường thẳng mà có, và chúng ta cần nói sơ qua về vấn đề này. Thày có nói là tâm đường thẳng nhìn vào một hiện tượng xảy ra trong hiện tại, nó nhìn vào sự phức tạp đang có mặt ngay bây giờ, nhưng nó muốn chẻ nhỏ ra và bảo rằng sự phức tạp đến từ một trạng thái đơn giản hơn chỉ tuân theo một vài định luật tự nhiên giản dị. Cho nên nếu con cứ tiếp tục đi trở xuống các trạng thái thấp hơn hay cơ bản hơn, cuối cùng con sẽ lần đến cuối đường dây nơi con tìm thấy nguyên nhân ban đầu.

Theo khoa học, đây là điểm dị biệt có mặt trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ngay trước Big Bang. Không ai thực sự giải thích được một điểm dị biệt là gì. Không ai thực sự giải thích được làm thế nào toàn bộ năng lượng được tạo ra trong vũ trụ mênh mông bát ngát này có thể dồn nén lại thành một điểm độc nhất. Đây là một thuyết do tâm đường thẳng dựng lên bảo rằng con phải có thể đi ngược trở lại những giai đoạn đơn giản hơn, cơ bản hơn, cho đến khi con chạm được giai đoạn nguyên thủy, nguyên nhân đầu tiên. Cũng giống như bảo rằng ở một thời điểm quá khứ, trong canh súp ban sơ có một tia sét đánh và sinh vật đơn bào đầu tiên xuất hiện. Nhưng đây có thật là cách  hiểu duy nhất không? Đối với tâm đường thẳng thì đây là cách hiểu duy nhất, nhưng đối với tâm không đường thẳng thì sao? Ngày nay càng ngày càng có nhiều người ý thức được khả năng trực giác. Càng ngày càng có nhiều người nghiệm ra trực giác chỉ đơn giản là một phương pháp khảo sát thế giới nơi mình đang sống, và trực giác cũng có thể sáng giá và chính đáng như tâm phân tích đường thẳng.

Sở dĩ xã hội hiện đại ngày nay phần nào bị bế tắc về mặt phát triển, gây ra biết bao vấn nạn chẳng hạn với môi trường, là vì các nhà chủ nghĩa duy vật khi họ chiếm lãnh khoa học đã muốn bác bỏ vai trò của tâm thức. Họ muốn bác bỏ trực giác vì họ quyết đoán trực giác là chủ quan, không đáng tin cậy, và chỉ có tâm thuần trí, đường thẳng, lô-gíc mới có thể khách quan, đáng tin cậy. Đây là một quyết đoán giả tạo đã gây ra những hậu quả sâu rộng trong xã hội hiện đại cũng như rất nhiều vấn nạn mà con thấy dường như không có giải pháp. Họ không đem lại giải pháp nào với tâm đường thẳng, vì một lần nữa tâm đường thẳng chỉ có thể suy nghĩ trong sự phân biệt so sánh, chỉ có thể nhìn cuộc sống theo cách phân tích tạo ra đối cực nhị nguyên, rồi hàm ý một sự phán xét giá trị. Một khi con rơi vào phán xét giá trị thì con đã khép tâm con lại.

Ban đầu khoa học đã là một tiến trình khách quan nhằm quan sát những gì có thể được quan sát. Thay vì cho rằng một học thuyết hay một giáo điều có thể mô tả vũ trụ chính xác mặc dù sự quan sát đi ngược lại giáo điều, thì con người đã sẵn lòng nhìn vào những gì thực sự xảy ra. Đây là một nỗ lực nhằm thiết lập một phương thức khách quan để tiếp cận thế giới. Đây là một phương thức chính đáng nhưng vẫn chỉ là một mặt của đồng tiền – đồng tiền những khả năng của tâm. Trực giác cũng là một phương thức để bước ra khỏi sự chủ quan. Khi con có trải nghiệm mà thày đã mô tả, khi cái ta, cái Ta Biết bước ra ngoài các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, đó là một trải nghiệm khách quan. Việc trải nghiệm trực giác có thể có giá trị y như việc sử dụng lôgíc và phân tích, nhưng các nhà khoa học lại quyết định chỉ có tâm thuần trí mới đáng tin cậy. Họ đã tìm cách loại bỏ trực giác, tuyên bố là nó chủ quan, trong khi tâm thuần trí thì không chủ quan. Tất nhiên đây là một lời tuyên bố giới hạn, vì con làm gì với cả hai loại tâm đó? Cho dù con dùng lôgíc và lý luận hay con dùng trực giác thì con vẫn đang có một trải nghiệm trực tiếp về một điều gì vượt khỏi mức nhận biết bình thường của con.

Câu hỏi trở thành như sau: Vậy liệu con có sẵn lòng, khi con trở về mức nhận biết bình thường của mình, sử dụng trải nghiệm đó để tra vấn nhận biết của mình, tra vấn tâm mình? Hay con sẽ cố diễn giải trải nghiệm xuyên qua mức tâm thức hiện thời của con vì con muốn nó ăn khớp với phin lọc nhận thức, với hộp tư duy mà con đang có? Các nhà khoa học diễn giải các quan sát khoa học nhiều khi không trung lập hay khách quan. Chắc chắn họ không trung lập hay khách quan nếu họ là những nhà chủ nghĩa duy vật tiếp cận khoa học theo ý thức hệ. Họ sẵn có ý về cách họ muốn vũ trụ phải vận hành ra sao, xong họ áp chồng ý này lên quan sát khoa học vì họ cực kỳ mong muốn quan sát phải ăn khớp với hệ thống tư tưởng của họ.

7.2. Một giải pháp trực giác cho thuyết Big Bang

Đó là cách họ đã tạo ra thuyết Big Bang. Phải có sự khởi đầu ở đâu đó, và nếu con dùng tâm đường thẳng để đi đến vật nhỏ nhất con có thể tưởng tượng, thì con sẽ đến một cái gì tâm không thể tưởng tượng nhưng tâm có thể dán nhãn và gọi đó là một điểm dị biệt. Có ai biết cái đó là gì không? À, nhưng con hãy thử dùng tâm trực giác và nói: Big Bang – hay đúng hơn, quá trình thị hiện của vũ trụ vật chất – đã không khởi đầu với một điểm dị biệt. Nó đã khởi đầu với một cánh cửa mở ra giữa phổ tần số vật chất và phổ tần số nằm ngay bên trên, một độ rung cao hơn vượt quá phổ tần số vật chất. Không cần thiết là toàn bộ năng lượng của vũ trụ hiện hữu bị dồn nén lại trong một điểm độc nhất, bởi vì chuyện này rõ ràng không thể xảy ra. Điều cần thiết duy nhất là có một cửa mở giữa cõi cao hơn và cõi vật chất để năng lượng tuôn xuống qua cửa mở này.

Bây giờ, tất nhiên vẫn còn khái niệm giả tạo là nếu cửa chỉ mở ra ở đúng một điểm, thì sẽ khó lòng tưởng tượng nguyên vũ trụ rộng lớn này có thể khởi đầu ở một điểm độc nhất. Nếu như không phải vậy thì sao? Nếu như thay vào đó có rất nhiều cửa mở ra thì sao?Thay vì mọi thứ phải chui qua cái lỗ nhỏ độc nhất đó, nếu như có một khối năng lượng rất lớn được giảm độ rung từ phổ tần số cao hơn xuống phổ tần số của vũ trụ vật chất thì sao? Nói cách khác, một sự thị hiện đồng bộ, một sự hòa nhập đồng bộ của năng lượng đi vào phổ vật chất, không từ một điểm độc nhất mà từ nhiều điểm.

Nếu vậy thì con không cần đến điểm dị biệt nữa. Bây giờ tất nhiên, tâm đường thẳng sẽ cãi: Chứng minh đi! Và thày sẽ nói: Con hãy dùng trực giác của con thì con sẽ trải nghiệm được sự thật. Làm sao thày diễn tả được đây? Vì tâm con có tiềm năng trở thành một điểm vào, một điểm tiếp nhận năng lượng đến từ cõi cao. Thật ra nếu tâm con không có khả năng này thì con đã không thể có ý thức. Từ ngày chủ nghĩa duy vật lên ngôi, các khoa học gia đã cố loại trừ tâm thức ra khỏi các nghiên cứu khoa học, bảo rằng: “Chúng tôi không cần nghiên cứu tâm thức làm gì vì tâm thức chỉ có thể chủ quan.”

Một nhà khoa học giỏi sẽ biết rõ các dụng cụ mình dùng, sẽ sẵn lòng xem xét những hạn chế của dụng cụ. Các nhà khoa học đã có thể dùng kính hiển vi quang học để quan sát hạt nhỏ nhất họ có thể quan sát nhưng vẫn lớn hơn bước sóng của ánh sáng khả kiến. Nếu họ có cùng tư duy như những nhà duy vật kia thì họ đã có thể quả quyết: “Không có gì nhỏ hơn hạt nhỏ nhất này. Không thể có gì nhỏ hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy qua kính hiển vi quang học này.” Con cần biết hạn chế của dụng cụ con dùng để con biết liệu con có đang quan sát chính xác hay không. À, đâu là dụng cụ cơ bản mà các nhà khoa học sử dụng? Đó là tâm họ. Không những họ dùng tâm họ để xây dựng lý thuyết hầu chế tạo dụng cụ quan sát, mà họ cũng dùng tâm họ để diễn giải các quan sát đó.

7.3. Sự mở rộng nhận biết dẫn đến kiến thức mới

Bây giờ con có thể trở ngược về 2500 năm trước khi thày hiện thân trên trái đất và con người không có nhận thức về bất cứ chuyện gì vượt ngoài khả năng giác quan của họ. Nhiều người không biết là trong cơ thể họ có các bộ phận, Chắc chắn họ không biết đến tế bào, phân tử, nguyên tử, hạt hạ nguyên tử. Họ có thể quan sát năng lượng như ánh sáng mặt trời, nhưng họ thật không có khái niệm về năng lượng. Họ cũng không có khái niệm về rung động, tần số, bước sóng, biên độ. Ngay cả khái niệm về sóng năng lượng họ cũng không có. Họ có thể nhìn thấy sóng trên mặt nước nhưng họ không quan niệm được sóng năng lượng. Không có cách chi giải thích được cho họ. Kỳ thực, không có cách chi các nhà khoa học có thể xây dựng các thuyết hiện thời dựa trên những gì con người hiểu biết vào thời đó.

Điều gì đã xảy từ thuở đó? Nhân loại đã mở rộng nhận biết của mình, không những dựa trên khám phá mới mà cũng nhờ việc hình thành khái niệm mới. Ngày nay con người có nhiều khái niệm hơn hẳn cách đây 2500 năm, và đây là tại sao con người có thể giải thích những chuyện không thể nào giải thích trước đây. Một điều các nhà khoa học không ý thức là cách họ hình thành khái niệm có tác động đến cách họ nhìn toàn bộ vấn đề. Nó tác động đến các lý thuyết mà họ có thể xây dựng, các dụng cụ mà họ nghĩ họ sẽ chế tạo, các đo đạc mà họ nghĩ họ sẽ đo đạc, cũng như cách họ diễn giải các đo đạc đó.

7.4. Cái gọi là lưỡng tính sóng-hạt

Con cũng biết nếu con đã học môn này là trong khoa vật lý lượng tử có một hiện tượng gọi là lưỡng tính sóng-hạt (wave-particle duality). À, hạt là gì chứ? Hạt là một khái niệm đã khởi đầu trong cái tâm sử dụng giác quan để nhìn thế giới, để trải nghiệm thế giới. Mắt con có thể nhìn thấy một quả bóng bi-a, nó có thể nhìn thấy những vật nhỏ hơn rất nhiều xuống đến hạt cát. Cho nên con mang khái niệm về hạt là một hạt khả kiến, rồi khái niệm này được các nhà khoa học dùng tâm đường thẳng nới rộng ra, bảo rằng chắc phải có những hạt càng ngày càng nhỏ hơn cho đến hạt nhỏ nhất có thể. Đây là cái mà người Hy Lạp cổ gọi là nguyên tử, nghĩa là hạt bất khả phân chia. Rồi tới thời điểm các nhà khoa học hiện đại phát hiện cái họ nghĩ là hạt nhỏ nhất không thể phân chia thì họ cũng gọi là nguyên tử. Nhưng sau đó, họ khám phá là nguyên tử thật ra có thể được phân chia và có những hạt nhỏ hơn nữa – thường gọi là hạt hạ nguyên tử với những cái tên khác nhau.

Các thí nghiệm cho thấy là nếu con quan sát hiện tượng hạ nguyên tử này theo một cách nào đó thì nó cư xử như một hạt, nhưng nếu con quan sát theo cách khác, nó sẽ cư xử như một sóng. Cho nên các nhà khoa học nghĩ ra cái tên “lưỡng tính hạt-sóng”, xem như đây là một trong vài bí ẩn còn sót lại trong ngành vật lý hiện đại. Nhưng lưỡng tính hạt-sóng là kết quả của việc lấy một khái niệm vĩ mô (macroscopic) có thể được phát hiện bằng giác quan, rồi phóng chiếu nó lên thế giới vi mô (microscopic) không thể phát hiện bằng giác quan. Nếu con lấy thuyết của Einstein, thuyết này nói rằng mọi vật chất đều thực sự là năng lượng và năng lượng là sóng, thì làm gì có chuyện có hạt nào nhỏ nhất. Kỳ thực ở mức hạ nguyên tử, không hề có hạt nào mà con có thể nhận thức là hạt bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Đây chỉ là một ví dụ cho thấy các khái niệm mà con mang trong tâm ảnh hưởng như thế nào đến cách con nhìn thế giới, đến những kết luận mà con rút tỉa, và do đó đến những trải nghiệm mà con có về thế giới.

7.5. Quan niệm một Thượng đế cá nhân

Có rất rất nhiều người cởi mở với một giáo lý tâm linh nghĩ rằng giáo lý tâm linh có thể cho họ sáng ngộ về cách vận hành của thế giới. Hiển nhiên nhiều giáo lý làm công việc này, nhưng nhiều người cũng hy vọng là giáo lý tâm linh có thể giúp họ thay đổi hoàn cảnh vật lý của họ. Họ tìm kiếm một loại đũa thần được cài sẵn trong giáo lý để họ có thể thay đổi hoàn cảnh vật lý của họ. Ví dụ điển hình là người ta dựng lên ý tưởng là ở một cõi cao trên kia có một vị Thượng đế mà họ nghĩ là một ông già ngồi trên ngai trắng vĩ đại, đang nhìn xuống cá nhân họ và đánh giá từng việc họ làm là đúng hay sai theo quy chuẩn tối thượng của ngài.

Nếu con làm theo những gì Thượng đế này bảo là đúng – hay đúng hơn những gì mà một con người, một tu sĩ thuộc nhân gian, một nhà Bà la môn, đã quy định là đúng dưới mắt Thượng đế – thì con sẽ được tưởng thưởng và được lên thiên đàng. Còn nếu con không nghe theo các nhà Bà la môn của tôn giáo của con thì con sẽ bị trừng phạt đày xuống địa ngục. Niềm hy vọng ẩn chứa trong thế giới quan này là bằng cách làm những điều được tôn giáo mình quy định, con có thể dụ dỗ vị Thượng đế cá nhân này ban cho con một số ân huệ, lấy đi một số trải nghiệm khó chịu và cho con những gì con mong muốn.

Tất nhiên đây là một niềm tin có từ cổ xưa và nhiều người đã sống bao nhiêu kiếp sống với niềm tin đó. Nhiều người thời nay đã từng sống với niềm tin này trong nhiều kiếp đến độ họ phải từ bỏ nó vì họ nhận ra là nó không hiệu nghiệm – ít ra là không có cách nào khiến cho nó hiệu nghiệm mỗi lần. Họ bước vào đầu thai trong thời đại hôm nay với một lòng ngờ vực sâu sắc đối với các tôn giáo truyền thống dạy về một Thượng đế sẽ toại nguyện mọi ước muốn. Lý do là vì họ trải nghiệm là mặc dù niềm tin này cho họ niềm hy vọng, nhưng rốt cuộc đây là một hệ thống tín ngưỡng tước đi quyền năng của họ (disempowering). Bởi vì nếu Thượng đế này không đáp ứng các nỗ lực nhằm xúi giục ngài làm theo ý muốn của họ, thì họ sẽ chẳng làm gì được. Họ bị kẹt cứng, theo nghĩa đen. Họ bị tước mất quyền năng.

7.6. Một giáo lý tâm linh trao quyền năng

Lý do cách đây 2500 năm thày đã không nói đến một cõi tâm linh hay thần linh là vì thày muốn cho con người một phương pháp, một lời dạy trao quyền năng (empowering) cho con. Thế nào là trao quyền năng? Là con nhận ra sự kiện thày vừa nhắc đến lúc nãy. Tâm con mà có ý thức là vì có một luồng năng lượng từ một cõi cao hơn đi vào tâm con. Năng lượng này đến từ cái ta cao của con – mà chúng ta không cần đào sâu ở đây – nhưng trước tiên nó đi vào tâm bản sắc của con. Ở đây năng lượng được phú cho một số đặc tính, hay nó khoác vào hình dạng các hình ảnh con cầm giữ trong tâm bản sắc. Điều này khiến cho năng lượng mang đặc tính, cho nên nó khoác vào một hình tướng nào đó. Con có thể so sánh với một cái kính vạn hoa với nhiều lớp hạt màu khác nhau, và khi ánh sáng đi qua lớp hạt màu đầu tiên, nó khoác vào màu sắc đó, rồi cứ vậy nó đi qua các lớp màu tiếp theo.

Trước hết con có tâm bản sắc và ở đây con có ý niệm về con là ai và con có thể làm gì. Nếu con cảm nhận mình là một sinh thể thụ động không có quyền năng thì đây là đặc tính mà năng lượng sẽ khoác vào khi nó đi vào tâm bản sắc của con. Rồi năng lượng đi qua tâm lý trí nơi con có thể có một số tin tưởng khác gây giới hạn – giới hạn những gì con có thể làm hay không thể làm – và bây giờ năng lượng khoác vào những đặc tính này. Cuối cùng nó đi vào tâm cảm xúc nơi con có thể có một số khuôn nếp xúc cảm như sợ hãi, nghi ngờ hay bất cứ gì khác, và một lần nữa điều này lại phú thêm đặc tính cho năng lượng. Thế rồi năng lượng đi vào tâm ý thức của con, khoác vào bất kỳ tin tưởng nào con có ở mức ý thức.

Con làm gì với tất cả năng lượng này? À, con dùng nó để suy nghĩ, để bày tỏ cảm xúc, con dùng nó để thốt ra lời nói, và con dùng nó để hành động, những hành động vật lý. Đây không phải là tất cả những gì con làm. Tâm con kỳ thực là một máy chiếu tương tự như máy chiếu phim trong rạp xi-nê. Nhưng thay vì chỉ có một cuộn phim độc nhất, nó có tới bốn cuộn phim, một cuộn cho mỗi thể trong số bốn thể phàm của con. Xuyên qua bốn tầng của tâm con, con liên tục chiếu phim vào năng lượng cấu tạo vũ trụ vật chất.

7.7. Tấm gương vũ trụ

Con có thể – và một số các con đã nghe các thày đề cập trước đây – con có thể so sánh vũ trụ vật chất với một tấm gương. Những gì con phóng chiếu ra ngoài bằng tâm con sẽ được tấm gương phản chiếu lại. Có nghĩa gì? À, đây thực sự là ý nghĩa sâu sắc hơn của lời dạy mà thày đã trao truyền 2500 năm trước về lý duyên khởi.

Tất cả mọi thứ trong thế giới vật lý trên hành tinh địa cầu được tạo thành bằng bốn tầng này: tầng vật lý, tầng cảm xúc, tầng lý trí và tầng bản sắc. Vũ trụ vật chất có bốn tầng và mọi thứ biểu hiện ở tầng vật lý đều là sự phóng chiếu của những hình ảnh nơi ba tầng cao hơn. Tầng vật lý giống như một màn ảnh xi-nê có những hình ảnh được phóng chiếu lên đó xuyên qua máy chiếu. Tuy nhiên, vũ trụ vật lý có sự nối kết với tâm con người. Con người là những sinh thể đồng-sáng tạo. Có một số sinh thể tự nhận biết đã tạo ra hành tinh địa cầu từ bên ngoài, nhưng con người là những sinh thể đồng-sáng tạo tạo ra hành tinh địa cầu từ bên trong. Con làm việc này xuyên qua tâm con bằng cách cho phép năng lượng chảy qua tâm khoác vào các hình ảnh, các hình tư tưởng trong tâm, và phóng chiếu chúng vào tấm gương vũ trụ, phóng chiếu chúng vào năng lượng cấu tạo bốn tầng. Đây là ý nghĩa sâu xa hơn của lý duyên khởi đã không thể được giải thích 2500 năm về trước, nhưng có thể được giải thích ngày hôm nay ở một mức dễ nắm bắt hơn nhờ hiểu biết hiện thời về năng lượng.

Con thấy đó, con sống trong một hệ thống duyên khởi, một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Đúng là có một hành tinh vật lý có thực – chúng ta có thể tranh luận nó thực đến chừng nào, nhưng ngay bây giờ thì không phải là chuyện thích đáng nhất. Đúng là có một hành tinh vật lý có thực, nhưng hành tinh vật lý này là một phóng chiếu từ ba tầng cao hơn. Nói cách khác như thày đã giảng về Big Bang, thay vì toàn bộ năng lượng cấu tạo vũ trụ hiện thời bị dồn ép vào một điểm dị biệt, đã có một thời điểm khi vũ trụ không thị hiện vì không có năng lượng nào trong phổ rung động vật lý. Tất cả năng lượng đều nằm ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Rồi tới một điểm đã có một sự phóng chiếu đưa năng lượng vào phổ vật lý. Việc này không xảy ra ở một điểm độc nhất mà ở nhiều điểm, và những điểm này quy định một khoảng không gian là không gian nguyên thủy.

Năng lượng đã tiếp tục xối xuống cho tới khi nó bắt đầu kết tụ thành các hạt vật lý, xong các hạt này ngày càng phức tạp hơn, có tổ chức hơn, cho đến khi tất cả mọi thiên hà được hình thành như con thấy được ngày hôm nay – hay đúng hơn, còn nhiều thiên hà hơn nữa mà con chưa thấy được ngày hôm nay do vũ trụ quá lớn. Đây đã là một quá trình xảy ra từ bên ngoài, nhưng về cơ bản, nó cũng xảy ra theo cùng một cách như con đồng-sáng tạo, nghĩa là năng lượng được phép chảy qua bốn tầng của tâm cho đến khi nó được đưa vào phổ vật lý.

7.8. Một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau

Vậy ở đây con có một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Có bốn tầng trong cái chúng ta có thể gọi là vũ trụ vật chất, nhưng ở trong vũ trụ vật chất này có nhiều sinh thể tự nhận biết cá biệt, những con người, mỗi người với tâm cá biệt hiện hữu trong trường năng lượng rộng lớn hơn của cõi vật chất. Con có một tâm ý thức, một tâm cảm xúc, một tâm lý trí, một tâm bản sắc. Rộng hơn, tất cả những tâm con người cá biệt này đều nối kết, hình thành cái chúng ta có thể gọi là tâm tập thể. Khoa học thậm chí đã khám phá là khi một số biến cố xảy ra, có một sự mạch lạc gắn kết trong tâm tập thể, và điều này ảnh hưởng đến các bộ sinh số ngẫu nhiên (random number generator). Thày không đang cố chứng minh một điều gì cho tâm thuần lý đường thẳng mà chỉ muốn khích động trải nghiệm trực giác của con.

Mọi thứ con làm đều được làm với năng lượng, nhưng con không là một hòn đảo. Ngay cả trường năng lượng của con cũng không là một hòn đảo vì con hiện hữu trong tổng thể này, một tổng thể duyên khởi. Tại sao điều này lại trao quyền năng cho con, ngược lại với tước quyền năng? Bởi vì các tình huống vật lý của con liên kết với các tình huống trong bốn tầng tâm con. Chúng là những phóng chiếu. Phải, hoàn toàn đúng là các tình huống vật lý của con không chỉ độc nhất là sản phẩm của sự phóng chiếu từ tâm con. Chúng cũng là sản phẩm do tác động liên kết của tâm tập thể và tất nhiên cả sự phóng chiếu nguyên thủy đã tạo ra hành tinh.

Đây không phải là một niềm tin thần diệu vào một Thượng đề toại nguyện mọi ước muốn, có uy lực gạt qua bên quyền tự quyết của tám tỷ con người hầu ban cho con đúng những hoàn cảnh mà con muốn, vì như vậy là tước quyền năng. Nhưng nếu như Thượng đế không làm vậy thì sao, vì trong hầu hết trường hợp ngài sẽ không làm vậy? Với hiểu biết này, con có thể có một cách tiếp cận trao quyền năng, và con nói: “Có thể là tôi không thể thay đổi mọi khía cạnh trong hoàn cảnh vật lý của tôi, nhưng tôi có khả năng thay đổi một số khía cạnh bằng cách thay đổi những gì tôi phóng chiếu qua tâm tôi. Dù có tình huống vật lý tôi không thể thay đổi theo cách này, nhưng chắc chắn tôi có thể thay đổi cách tôi trải nghiệm nó, thay đổi cách tôi phản ứng với nó. Kỳ thực, tôi có thể đạt tới điểm tôi tự do chọn lựa, hoặc chọn một cách phản ứng xây dựng hơn, hoặc chọn không phản ứng gì cả.”

Đây là trao quyền năng. Và mặc dù thày đã không thể giải thích điều này cách đây 2500 năm, đó vẫn là điều thày đã cố giải thích. Chìa khóa để chuyển đổi bất kỳ khía cạnh nào của đời con là khởi sự thay đổi chính tâm con, nâng cao mức tâm thức của con. Đây là tinh túy của Bát chánh đạo. Con đi qua tám giai đoạn hay tám bước, qua đó con lần hồi nâng cao mức tâm thức của mình.

7.9. Lời nói và năng lượng

Vậy tất cả những điều vừa rồi liên quan thế nào với lời nói và lời nói cao hơn? Ấy, lời nói là một cách sử dụng năng lượng. Mỗi khi con mở miệng thốt ra âm thanh, con đang dùng năng lượng. Tuy nhiên, ngay cả khi con im lặng trong tâm bản sắc, lý trí và cảm xúc, thì con vẫn đang phóng chiếu, nhưng những phóng chiếu này không có tác động trực tiếp ở tầng vật lý như khi con hành động vật lý hay khi con phát biểu. Nói cách khác, khi con tạo ra một tác động có thể được quan sát bởi giác quan vật lý, điều này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp hơn ở tầng vật lý so với khi con phóng chiếu từ một trong ba tầng cao.

Giọng nói là một dụng cụ đầy quyền năng có thể được dùng để phú đặc tính cho năng lượng, và con sẽ không bao giờ hiểu được khái niệm Chánh ngữ – hay như thày chọn diễn tả ở đây: lời nói cao hơn – nếu con không hiểu là giọng nói của con chuyên chở và định đoạt tính chất của năng lượng. Năng lượng này sẽ tác động đến người khác, hoàn cảnh vật lý của con lẫn chính con.

Có thể con đã ý thức điều này vì con đã quan sát là nhiều lần con có thể có những cảm xúc mãnh liệt, thì con cảm được trong trường năng lượng của con có một sự xáo trộn. Có thể con không ý thức lắm về trường năng lượng của mình, nhưng con có thể cảm thấy có gì đó đang xảy ra. Nếu con rất tức giận, nó gần như có thể biến thành một hiệu ứng tự tăng cường, một vòng xoáy hướng hạ. Một khi con băng qua một lằn ranh nào đó, con mất hết tự chủ. Thường thường con biểu lộ nỗi giận qua giọng nói của mình và nó cuốn hút con vào một cơn lốc, một vòng xoáy đi xuống có thể rất khó lòng nào thoát ra khỏi. Có thể con đã quan sát sự giận dữ nơi người khác hay con đã trải nghiệm nơi chính con. Tất nhiên còn có nhiều loại cơn lốc hay vòng xoáy khác có thể khống chế con, và đây chỉ là một ví dụ về cách con sử dụng năng lượng. Con khiến cho năng lượng mang một sắc thái nào đó và nó tác động trực tiếp đến trạng thái tâm con.

Để biểu hiện lời nói cao hơn, con cần ý thức làm thế nào giọng nói của con phú cho năng lượng một đặc tính và phóng chiếu năng lượng. Con cần không làm vậy một cách đường thẳng, lý luận. Luôn luôn có cám dỗ muốn xử lý một cách đường thẳng, và đây là một chuyện khả dĩ. Hiện nay người ta đã có những dụng cụ có thể đo đạc giọng nói con người cùng sự rung động trong giọng nói con người. Con có thể dùng dụng cụ này nếu muốn, hầu lập ra một thang điểm đường thẳng, rõ ràng, có thể phát hiện những loại rung động khác nhau do giọng nói tạo ra. Một số người đã thử nghiệm điều này, chẳng hạn con thấy những nhà khoa học thí nghiệm ảnh hưởng của âm thanh trên đống cát đặt trên một tấm kính hay những loại dụng cụ tương tự. Điểm đáng nói là thay vì giàn dựng việc này theo kiểu phân tích, điều sẽ thực sự hữu ích cho con là con trau dồi khả năng trực nhận những gì đang diễn ra trong chính trường năng lượng của con khi con dùng giọng nói.    

7.10. Âm thanh ảnh hưởng trường năng lượng của con như thế nào

Con cũng biết là nếu ai đó nổi giận la hét với con, điều này tác động đến con. Lý do là vì họ đang phóng chiếu năng lượng mang một rung động đặc trưng nào đó vào cảm thể của con. Mọi năng lượng đều có khả năng tương tác với những hình dạng năng lượng khác. Nếu con mang một số khuôn nếp đặc thù trong thể cảm xúc và nếu người kia tức giận với con, nó sẽ khuấy động các khuôn nếp này. Chẳng hạn chính con cũng có thể nổi giận theo. Hoặc con có thể xấu hổ hay buồn phiền vì cảm thấy mình có lỗi khi người kia la hét buộc tội mình.

Con có thể sử dụng điều sau đây. Con đã có khả năng này rồi nhưng con có thể tinh luyện và phát triển thêm nữa để con cảm rõ là có những loại lời nói phú cho năng lượng một đặc tính rung động thấp. Về cơ bản có hai loại rung động. Có rung động dựa trên tình thương, có rung động dựa trên sợ hãi. Có rung động cao hơn, có rung động thấp hơn. Con có thể học cách cảm nhận được điều này. Thật đơn giản, con trụ vào giữa trái tim, giữa lồng ngực và con tự hỏi: “Tôi cảm thấy năng lượng đang cao hơn hay thấp hơn? Nó có nâng cao năng lượng của tôi chăng? Hay nó kéo thấp năng lượng của tôi xuống?” Con sẽ có thể cảm được là nếu có ai la mắng con thì năng lượng của con bị kéo thấp xuống, Và nếu có ai nói chuyện với con một cách tích cực, thương yêu, thì năng lượng của con được nâng lên.

Đây là những tiêu chí mà hầu hết người tâm linh đều có thể phát triển khá nhanh chóng. Tất nhiên một số đã làm vậy rồi. Con có thể lượng định mình dùng lời nói như thế nào và người khác dùng lời nói như thế nào. Điều này sẽ cho con một tiêu chí để lượng định: “Liệu đây có phải là loại lời nói tôi muốn tham gia vào không? Liệu tôi có muốn tạo ra những xung lực năng lượng thấp kém phóng về người khác?” Bởi vì dù con có gửi ra những gì, và cho dù con nghĩ con chỉ hướng nó về đúng một người và trong phòng này không có ai khác và không ai khác có thể nghe thấy con, thì bất cứ gì con gửi ra tấm gương vũ trụ vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, cái đó sẽ quay trở về con.   

7.11. Nghiệp thật ra là xung lực năng lượng

Đó là một cách để giải thích quan niệm cổ xưa về nghiệp (karma). Nghiệp là khi con dùng bốn thể phàm của con để phóng chiếu một xung lực năng lượng vào bốn tầng của vũ trụ vật chất. Xung lực năng lượng này khởi đầu nơi thể bản sắc của con, đi vào thể lý trí, vào thể cảm xúc, vào thể vật lý rồi được phóng ra ngoài. Trước tiên nó đi vào cõi vật lý, đi lên cõi cảm xúc, rồi cõi lý trí, rồi cõi bản sắc. Ở đây, nếu đó là một năng lượng dựa trên sợ hãi, nó không thể đi xa hơn, nó bị phản chiếu lại bởi cái thày đã gọi là tấm gương vũ trụ, và như vậy nó bắt đầu đập lại chính con, đầu tiên ở thể bản sắc, rồi thể lý trí, rồi thể cảm xúc, rồi thể vật lý. Đây là điều các tôn giáo và triết lý phương Đông gọi là nghiệp. Giản dị đó chỉ là sự phản hồi về chính con của năng lượng mà con đã gửi ra.

Bây giờ nếu như con phú cho năng lượng một rung động cao hơn, một rung động yêu thương thì chuyện gì xảy ra? À, cùng điều đó lại xảy ra. Nó lại đi xuyên qua bốn thể trong tâm con, đi vào bốn tầng của vũ trụ. Khi nó lên đến tầng bản sắc, rung động cao sẽ không bị chặn lại và phản chiếu trở về con. Kỳ thực nó sẽ vượt ra khỏi cõi vật chất, đi vào cõi cao hơn đến cái ta cao của con. Giờ đây con sẽ nhận được nhiều năng lượng hơn mang rung động cao từ cái ta cao của con, khiến cho các khả năng sáng tạo của con gia tăng, năng lực tinh thần của con cũng gia tăng. Nó cũng giúp nâng cao tâm thức của con. Nói cách khác, khi con phú cho năng lượng một rung động thấp, năng lượng này được gửi trả lại cho con với rung động thấp. Khi con phú cho nó một rung động cao, nó được gửi trả lại cho con với rung động cao đó, nhưng nhiều hơn và mãnh liệt hơn. “Người nào đã có, sẽ nhận được nhiều hơn.” Đây là ý tưởng về các ta-lăng, hay vốn liếng tâm linh, được nhân lên gấp bội mà Giê-su đã mô tả trong một truyện ngụ ngôn.

Vậy chúng ta cũng có thể hỏi: “Tại sao cuộc sống trên trái đất lại đau khổ? Tại sao lại có Biển Luân hồi?” Đấy, bởi vì trái đất là một hệ thống năng lượng, nhưng hiện nay phần lớn năng lượng trong hệ thống này bị tha hóa bởi một rung động thấp kém dựa trên sợ hãi. Có quá nhiều năng lượng sợ hãi trong hệ thống năng lượng và trong tâm thức tập thể, đến độ nó thường khiến cho tâm con người bị quá tải và con người bị đau khổ, cảm thấy buồn phiền, bất lực, tuyệt vọng, oán giận và đủ mọi thứ khác. Tất cả những cảm xúc thấp này liên quan đến sự kiện năng lượng trong tâm thức tập thể làm choáng ngợp trường năng lượng cá nhân của mỗi người. Phương thức để thoát khỏi sự thể này là đổ đầy trường năng lượng cá nhân của con với những năng lượng cao, rung động cao, và thanh lọc các rung động thấp khỏi trường năng lượng cá nhân của con.

Con thấy đó, thày có giảng là nếu con gửi ra một xung lực dựa trên sợ hãi, nó sẽ được gửi trả về cho con, nhưng tác dụng sẽ ra sao trên trường năng lượng của con? Tác dụng là sẽ có sự phản ứng lại, sự khuấy động, sự tăng cường các năng lượng thấp đã sẵn có trong năng trường của con. Con trở nên căng thẳng hơn, bực dọc hơn, sợ hãi hơn. Nếu con loại bỏ năng lượng sẵn có trong năng trường của con và cũng loại bỏ các khuôn nếp phản ứng đã khiến con tha hóa năng lượng với lòng sợ hãi, thì sẽ chẳng có gì để năng lượng tương tác với. Xong nếu con đổ đầy năng trường của con với rung động cao, thì khi rung động thấp quay trở lại, chúng sẽ được các rung động cao này biến hóa. Một lần nữa, đây lại là một điểm khó giải thích vào thời của Phật nhưng dễ giải thích ngày hôm nay qua các nguyên tắc động học sóng đơn giản.     

Nếu con hướng một sóng năng lượng với một độ rung nào đó vào một sóng năng lượng khác, sẽ có một mô thức giao thoa giữa hai sóng với kết quả là một sóng thứ ba phối hợp cả hai. Nói cách khác, con có một sóng năng lượng ở tần số thấp, nếu con hướng vào đó một sóng khác có tần số cao hơn, con có thể tạo ra một sóng thứ ba cao hơn sóng đầu tiên nhưng thấp hơn sóng thứ nhì. Kết quả chung cuộc là con đã nâng năng lượng thấp vào một trạng thái cao hơn.

Con thử nghĩ nếu con đã mang một khuôn nếp trong mấy kiếp sống và đã tha hóa năng lượng với lòng giận dữ, và năng lượng này một phần được phóng ra ngoài, một phần tích tụ lại trong trường năng lượng của con, thì con có thể thấy khuôn nếp đó không chỉ mang một khía cạnh tin tưởng – tin rằng con cần đáp trả bằng sự tức giận hay đây là cách đáp trả duy nhất. Khía cạnh kia của khuôn nếp chính là năng lượng tác động lên cảm xúc của con, và con càng nhiều năng lượng giận dữ trong cảm thể thì con sẽ càng có xu hướng đáp trả, phản ứng lại bằng sự giận dữ trong đủ loại tình huống khác nhau. Nếu con bỏ được năng lượng này đi, con sẽ dễ nhìn ra khuôn nếp phản ứng hơn, nhìn ra tin tưởng đằng sau khuôn nếp và buông bỏ nó, hầu con được tự do và con vươn lên một mức tâm thức cao hơn, một tầng cao hơn trên đường tu.       

7.12. Dùng lời nói để chuyển hóa năng lượng

Tại sao thày lại nói tất cả những điều này khi chủ đề là lời nói? À theo truyền thống, các giáo lý đạo Phật hay các phong trào Phật giáo đã dùng nhiều dụng cụ tâm linh khác nhau để nâng cao tâm thức. Người ta đã dùng pháp thiền trong im lặng, nhưng nhiều người cũng đã dùng pháp tụng niệm, đọc Om, đọc các câu chú hay một số âm tiết, và các pháp này cũng đã được sử dụng trong các truyền thống tâm linh hay các nền văn hóa khác. Lý do làm vậy là vì con người từ thuở xưa đã biết sâu trong trực giác là việc sử dụng giọng nói của mình là một cách đầy quyền năng để thỉnh năng lượng có tần số cao và hướng nó vào năng lượng có tần số thấp. Nhờ vậy họ chuyển hóa năng lượng và giải phóng khỏi lực lôi kéo tâm họ.

Bây giờ con thấy được là có hai khía cạnh khi con mang những dính mắc mà thày đã nói đến khoảng 2500 năm về trước. Một, con có một tin tưởng là một ảo tưởng, và hai, con có một số năng lượng đã được phú cho một đặc tính xuyên qua tin tưởng đó, và năng lượng này lôi kéo tâm ý thức của con. Nếu con đã tích lũy nhiều năng lượng giận dữ, thật không cần gì lắm để kích hoạt phản ứng giận dữ của con trong một số tình huống nhất định. Con có thể nhìn những người với thời gian càng ngày càng có xu hướng phản ứng giận dữ, và lý do đơn giản là vì họ càng ngày càng tích tụ nhiều năng lượng giận dữ hơn trong cảm thể của họ, và nó áp đảo tâm ý thức của họ.

Khi con ý thức được điều này, và bằng cách sử dụng những loại dụng cụ thích hợp để thỉnh năng lượng có tần số cao, con có thể tự giải thoát khỏi lực kéo. Và cách mãnh liệt nhất để thỉnh năng lượng có tần số cao là dùng giọng nói của mình. Tất nhiên con có thể dùng các pháp tụng niệm truyền thống trong đạo Phật, nhưng cũng có những phiên bản hiện đại hơn, có khi gọi là bài chú hay bài thỉnh mà con có thể dùng trong mục đích này. Điều con nhận ra ở đây là ý nghĩa nguyên thủy của khái niệm lời nói, lời nói cao hơn, là con học cách dùng giọng nói của mình, quyền năng của giọng nói, để thỉnh và hướng năng lượng hầu năng lượng dựa trên sợ hãi được biến hóa trở lại thành năng lượng dựa trên tình thương. Khi làm vậy, con giải phóng tâm con để nhìn vào các khuôn nếp và bước lên một tầng cao hơn trên đường tu. Đây là điểm then chốt con cần ngộ ra liên quan đến lời nói.

Nhiều người trong các con đã sẵn cảm thấy là khi mình nói chuyện giận dữ hay bài bác thì năng lượng của mình bị kéo thấp xuống. Khi con nói chuyện tử tế yêu thương, năng lượng của con được nâng lên. Một lần nữa, với thời gian, nhiều Phật tử cũng như nhiều người tâm linh khác đã quyết định bằng tâm vỏ ngoài là trong tư cách một người tâm linh, họ phải luôn luôn nói chuyện theo một cách nào đó. Họ phải tránh nói năng giận dữ, họ phải tránh nói to, họ phải luôn luôn ăn nói nhỏ nhẹ tử tế, và họ cho rằng như vậy là đủ, nhưng họ đang làm gì chứ? Họ đang dùng sức mạnh để trấn áp một số hình thức phát biểu và nuôi dưỡng một số hình thức khác.

Thày vừa cho con điều gì ở đây? Một giải pháp khác. Con không dùng sức mạnh để kềm chế xu hướng nói năng giận dữ, mà con dùng giọng nói của mình để chuyển hóa năng lượng đang lôi kéo tâm ý thức của con. Xong con dùng khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm, xem xét các khuôn nếp trong tâm cảm xúc, tâm lý trí và tâm bản sắc, và nhờ vậy con phá tan Maya là ảo tưởng đã tạo ra cái khuôn nếp khiến con phản ứng giận dữ. Con tự giải phóng khỏi lòng giận dữ thay vì dồn nén nó xuống. Đây là một khác biệt to lớn, cốt tủy.

Con có thể cho rằng bằng cách kềm chế mọi phát biểu thiếu hài hòa thì con đã chứng tỏ một sự tiến bộ vượt bực trên đường tu tâm linh, nhưng thày thà thấy con loại bỏ chỉ một khuôn nếp còn hơn là con kềm chế cả trăm khuôn nếp. Ít ra một khuôn nếp này sẽ đưa con lên một bước cao hơn, trong khi việc kềm chế sẽ chỉ khiến con cảm thấy mình không cần bước lên bước nào vì mình đã là một đệ tử tâm linh cao cấp quá rồi. Một lần nữa, con có khả năng bước lên cao hơn và nhìn mọi chuyện như một cơ hội. Nhiều người tâm linh đã chấp nhận chuẩn mực quy định mình phải nói năng nhỏ nhẹ, không bao giờ được mất hài hòa, không bao giờ được to tiếng, không bao giờ được cáu kỉnh, và nếu làm vậy thì mình cảm thấy vô cùng xấu hổ và hối hận, mình phải tự khiển trách hay khiển trách người khác.

Thực sự tại sao một vị thày tâm linh lại muốn quan tâm đến cách cư xử như vậy? Đúng, nếu đấy là một khuôn nếp cứ lặp đi lặp lại thì nó thật không xây dựng, nhưng thày vừa nói gì chứ? Con có thể nhìn mọi chuyện xảy ra trong đời con như một cơ hội để nhìn ra một điều gì đó trong tâm thức của con và khắc phục cái đó. Nếu con bị mất hài hòa và phát biểu giận dữ, thật chẳng ích gì mà tự khiển trách hay cảm thấy xấu hổ. Con chỉ bước lui lại và nói: “Ồ, đây là một cơ hội để tôi nhìn ra một khuôn nếp tôi đang có trong tâm tiềm thức. Khuôn nếp này là gì? Tôi sẽ bước vào lòng nó. Tôi bước vào lòng năng lượng, tìm ra cái tin tưởng đằng sau nó, gỡ rối nó cho đến khi tôi nhìn thấy nó.” Đây chính là phương thức xây dựng. Đây là cách cao hơn để dùng lời nói, để nhìn vào lời nói, tiếp cận lời nói.

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn trao về chủ đề này. Cho nên thày sẽ niêm con trong lời nói vui mừng của Phật.

3 | Từ chánh kiến đến cái hiểu cao hơn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Bát chánh đạo là một điều mà nhiều người tự xem mình là Phật tử suốt các thời đại đã hoạt động trí năng đáng kể để cố tuân theo trong khả năng cao nhất của mình, có nghĩa là họ đã dùng trình độ nhận biết của họ và biết bao khuôn nếp có mặt trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của họ để tuân theo. Như được mô tả thì đó không phải là một con đường dễ theo, vì vậy thày sẽ cho con một số ý tưởng về cách làm thế nào con có thể đạt được một tầm nhìn mới về con đường này trong thế giới hôm nay.

Bình thường con đường này được định nghĩa là có tám bước, tám giai đoạn, tám phẩm chất, và chúng đều bắt đầu với từ “chánh,” như chánh kiến, vân vân. Nhưng liệu “chánh” có phải là từ thích hợp để sử dụng hay không khi con nhớ lời dạy của thày về các cặp? Tâm thức nhị nguyên luôn luôn muốn chia mọi chuyện thành ít nhất hai đối cực, xong áp đặt một phán xét giá trị bảo rằng cái này là đúng và cái kia sai, cái này là thiện và cái kia ác. Thay vì dùng từ “chánh,” chúng ta hãy dùng từ “cao hơn” – cái hiểu cao hơn, ý định cao hơn, lời nói cao hơn, vân vân.  

Vậy chúng ta hãy bắt đầu với điều mà theo truyền thống được xem là bước đầu tiên, Hiểu biết Cao hơn. Con thấy chuyện xảy ra ở đây là chúng ta vừa xoay chuyển. “Chánh” hàm ý một mục tiêu cuối cùng, một giai đoạn tối hậu nào đó. Đối với nhiều người, “chánh kiến” mang ngụ ý – và đã mang ngụ ý này suốt các thời đại – là con có thể đạt đến một cái hiểu tối thượng nào đó. Và nếu điều gì đúng tuyệt đối thì trong suy nghĩ của nhiều người, đó phải là điều cao nhất, là cái hiểu cao nhất. Cái đó không thể được nới rộng, không thể được thăng vượt, không thể nào qua mặt. Nhưng nếu vậy thì tại sao Phật lại đặt hiểu biết như bước đầu của một con đường tám bước?

3.1. Không hề có hiểu biết tối thượng

Nếu ngay từ bước đầu con đã đạt được một hiểu biết tối thượng nào rồi thì tại sao con lại cần đến bảy bước kia? Con thấy là bằng cách chuyển sang từ “cao hơn,” chúng ta hàm ý là luôn luôn có một cái hiểu cao hơn có thể được thu hoạch. Không có gì là chót cùng. Và chắc chắn sẽ cực kỳ hữu ích nếu con nhìn nhận là chừng nào con còn đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất với tâm thức tập thể dày đặc như thế này, thì không một hiểu biết tối hậu nào có thể đạt được.

Điều này một phần là do sự dày đặc của chính vật chất, nhưng cũng do sự dày đặc của tâm thức tập thể. Tất nhiên với thời gian thì tâm thức tập thể có thể được nâng lên, và nó đã được nâng lên. Sẽ tới một điểm trong tương lai khi con người có thể với tới một hiểu biết cao hơn hiểu biết hiện thời, nhưng đây vẫn không phải là hiểu biết tối thượng. Đó là tại sao Phật đã không đưa ra một tôn giáo với một vũ trụ quan phức tạp và bảo rằng đây mới là cách vận hành thực sự của vũ trụ. Phật nhận ra là tâm con người, nhận biết của con người, có giới hạn.  

Cách đây 2500 năm, tâm thức tập thể thấp hơn ngày nay. Về khả năng nắm bắt hiểu biết sâu sắc về vũ trụ học, con người thời đó còn bị giới hạn hơn cả con người thời nay. Ngày nay tâm thức đã được nâng lên đáng kể, phần nào do ảnh hưởng của khoa học, và do đó con người có một nền tảng tốt hơn để hiểu được một sự thật lớn hơn. Nhưng điều thiết yếu mà con cần nhìn nhận là trình độ hiểu biết hiện thời vẫn giới hạn, và nó sẽ còn giới hạn trong tương lai trước mặt.

Điều này có nghĩa khi con là một đệ tử tâm linh chân thành nỗ lực đạt đến giác ngộ, con không bao giờ có thể ngừng chân và cho phép mình tin rằng: “Bây giờ tôi đã đạt được hiểu biết tối thượng rồi”. Nhiều người đã làm vậy bằng cách lấy một giáo lý vỏ ngoài – dù là giáo lý đạo Phật hay bất kỳ giáo lý nào khác – xong rồi bảo:  “Đây là sự thật tối hậu, và vì tôi đã hiểu được giáo lý này cho nên tôi đã nắm được hiểu biết tối hậu.” Nhưng đây là một sự hiểu lầm về ý nghĩa của cái hiểu.   

3.2. Các hạn chế của tâm đường thẳng

Thày vừa nói là con người ngày nay có một nhận biết cao hơn 2500 năm về trước và điều này phần nào do khoa học đem lại. Nhưng khoa học chủ yếu dựa trên tâm suy luận phân tích, đường thẳng. Thày muốn nói gì qua từ “tâm đường thẳng”? À, tâm đường thẳng muốn nhìn mọi chuyện dưới góc độ nhân và quả. Nó cho là khi con nhìn cuộc sống trên trái đất, con luôn luôn phải có thể xác định rõ ràng: “Đây là một nguyên nhân tách biệt, đây là một điều kiện tạo ra một kết quả đã khởi đầu ở một thời điểm nào đó. Thông qua một chuỗi những bước đường thẳng dẫn từ cái này tới cái kế tiếp tới cái kế tiếp sau nữa, điều kiện hiện tại đã được tạo ra.”

Con thấy được rất nhiều ví dụ về cách suy nghĩ này trong khoa học, nhưng hãy lấy thuyết tiến hóa chẳng hạn. Người ta cho rằng có một tế bào đầu tiên xuất hiện, xong đến sinh vật có hai tế bào, xong đến sinh vật ngày càng phức tạp hơn, và lần hồi từng bước một, theo một đường thẳng, các loài hiện thời được sinh ra. Đây là – và thày không bình luận gì thêm về thuyết tiến hóa – một ví dụ của tư duy đường thẳng. Người ta lấy điều kiện hiện tại, người ta phóng chiếu một chuỗi bước đi từ điều kiện hiện tại về những nguyên nhân đơn giản hơn, và rốt cuộc người ta đến một điểm tận cùng là nơi quá trình đã khởi sự. Trong suy nghĩ của một số người, đây là thành tựu đỉnh cao của khoa học.

Tất nhiên đây không phải là điều thày giảng dạy 2500 năm về trước, vì khi đó thày dạy về lý duyên khởi, hay nhân duyên liên khởi. Sự thật là tất cả mọi thứ đều nối kết với nhau. Quả là có một số lãnh vực khoa học đã phát hiện ra điều này và nhìn nhận là người ta không thể tách rời bất cứ gì. Không có nghĩa là khoa học đã bị chứng minh là sai, vì tất nhiên là vẫn có giá trị trong việc xem xét một hiện tượng cụ thể, cố gắng mô tả nó và tách riêng ra một nguyên nhân nào đó. Cho nên phương pháp khoa học nhìn vào một hiện tượng tách biệt để cố tìm ra nguyên nhân, không phải là không chính đáng. Cái không chính đáng là khi một số người áp chồng một lớp phủ triết học và ý thức hệ lên trên tiến trình đó, bảo rằng có một thực tại tối hậu, khách quan trong việc xem hiện tượng là tách biệt và do đó phải có một nguyên nhân tách biệt. Nói cách khác, con có thể nhìn vào hiện tượng cụ thể này đây, nhìn vào các bước đã dẫn từ nguyên nhân ban đầu đến hiện tượng, thế là giờ đây con có thể biết tất cả mọi chuyện có thể được biết về hiện tượng.

À, rõ ràng đây không phải là cái hiểu cao hơn, bởi vì nó không còn chỗ nào để nới rộng, không còn chỗ nào để thăng vượt vào một cái hiểu cao hơn. Có lẽ cũng tốt thôi nếu con lấy một cái bàn bi-a và đặt lên đó một số bóng bi-a. Con lấy cây cơ và đánh một quả bóng, khiến nó lăn vào một quả bóng khác. Sau đó con đo bất cứ gì con có thể đo và con nói: “Nguyên nhân ban đầu là cái cơ bi-a đập vào quả bóng đầu tiên, sau đó với phương hướng và động lượng, quả bóng đầu truyền sang quả bóng sau một lực nhất định, rồi quả bóng sau lại đập vào quả bóng khác và cứ thế.” Chuyện này hoàn toàn ổn thỏa nếu con muốn mô tả một hiện tượng đặc thù.   

Nhưng liệu chiếc bàn bi-a đó có là một hiện tượng tách biệt không? Làm thế nào nó đã ra đời? Nó chẳng do con người sáng chế hay sao? Chẳng phải nó dựa trên một số nguyên lý tổng quát về những gì có thể được thực hiện trong vũ trụ vật chất hay sao? Các nguyên lý này đến từ đâu? Con thấy đó, như các nhà vật lý lượng tử đã khám phá, con không thể thực sự nhìn vào một hiện tượng hạ nguyên tử và tách riêng nó ra, xong con dùng một tâm ảnh vĩ mô áp chồng lên hiện tượng và nói: “Đây, bây giờ chúng ta có một hạt tách biệt rồi. Chúng ta có thể tìm hiểu hạt hạ nguyên tử này như thể chúng ta tìm hiểu một quả bóng bi-a trên bàn bi-a.”

Các nhà vật lý lượng tử đã khám phá không còn nghi ngờ gì nữa là trong thế giới lượng tử không có hạt nào là tách biệt. Chúng là một phần của một tổng thể lớn hơn. Chúng có thể xa nhau một khoảng cách nhưng chúng vẫn nối kết với nhau, vì vậy mà sự thay đổi của một hạt đi liền tức khắc với sự thay đổi của một hạt khác cho dù rất xa nhau. Đây là điều một lãnh vực của khoa học đã khám phá. Nó đã không vô hiệu hóa phương pháp khoa học trong việc tìm hiểu một hiện tượng đặc thù, mà nó đã vô hiệu hóa cái lớp phủ ý thức hệ bảo rằng người ta có thể tách riêng một hiện tượng để đi đến kết luận là hiện tượng này có một nguyên nhân tách biệt. Không hề có hiện tượng tách biệt và cũng không hề có nguyên nhân tách biệt.

3.3. Tìm cách kiểm soát thế giới của những nguyên nhân tách biệt

Tại sao điều này lại quan trọng? À một lần nữa, chúng ta đã bắt đầu nói về chuyện gì chứ? Con sống trong một thế giới mà trong vài năm qua đã trở nên hỗn loạn hơn, khó lường hơn, khiến nhiều người  cảm thấy bất an về tương lai. Như thày đã nói, phản ứng của nhiều người là họ muốn duy trì cảm giác cân bằng của họ. Mong muốn đầu tiên của họ là tìm cách nào kiểm soát thế giới. Khi họ nhận ra là họ không thể kiểm soát thế giới thì họ bước vào phản ứng mà thày đã mô tả, là họ chối bỏ cảm xúc, chối bỏ tư tưởng và ý niệm bản sắc của họ, đẩy chúng xuống dưới mức nhận biết ý thức để họ có thể duy trì cảm giác cân bằng.

Thày cũng có mô tả là có một con đường cao hơn, đó là nhìn xem tại sao con cảm thấy như vậy, tại sao con nghĩ như vậy, tại sao con nhận diện mình là như vậy, và nhận ra là những thứ đó không là hiện tượng tách biệt. Có một lý do để chúng có mặt và con có thể phát hiện lý do này. Nếu thế thì đây chính là cái hiểu cao hơn, nhưng cái hiểu cao hơn còn là nhiều hơn vậy. Tại sao thày đã nói là trong thế giới hạ nguyên tử không có hiện tượng nào tách biệt? Bởi vì tất cả mọi thứ đều được tạo thành từ hạt hạ nguyên tử, hay ít ra tất cả mọi thứ trong cõi vật lý. Những gì con bình thường xem là thế giới vật lý mà con có thể phát hiện bằng giác quan hay dụng cụ khoa học, con nhìn chúng theo một quy định rất đặc thù. Con nhìn chúng như được tạo thành từ những vật tách biệt mà con áp chồng một tâm ảnh lên trên.

Nhưng ngành vật lý lượng tử đã chứng minh là không có vật nào tách biệt. Quả bóng bi-a không là vật tách biệt vì nó được tạo thành từ các phân tử, nguyên tử, hạt hạ nguyên tử, và ở sâu hơn nữa, từ tầng lớp cấu tạo ra hạt hạ nguyên tử, hay sản xuất ra, hay biểu hiện ra các hạt hạ nguyên tử. Có nghĩa là không có gì con nhìn thấy trong thế giới vật lý có thể tách riêng ra khỏi thế giới hạ nguyên tử. Nó được tạo thành từ chính thế giới đó.

Thêm vào đó, Albert Einstein đã chứng minh là vật chất vật lý thật sự không hiện hữu vì vật chất chính là năng lượng đã khoác vào một hình tướng cụ thể. Tầng lớp sâu hơn, tầng lớp sâu nhất của vật chất không phải là hạt. Đó là năng lượng. Tất nhiên, năng lượng không thể tách riêng ra như con có thể tách riêng một hạt. Một sóng năng lượng tỏa rộng trong không gian. Nó không có một vị trí riêng biệt. Con không thể cô lập một sóng năng lượng. Con không thể đông lạnh một sóng năng lượng xong bảo rằng bây giờ con có cái nhìn chính xác về sóng đó, bởi vì sóng không ngừng chuyển động. Khi thày nói về lý duyên khởi, đó chỉ đơn giản là một cách khác để nói về những gì các nhà khoa học lượng tử đã tìm ra, cụ thể là tất cả mọi thứ con nhìn thấy đều là sự biểu hiện của một cái gì con không thấy, và ở cùng cực, đó là sự biểu hiện của một tổng thể liên kết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau.  

3.4. Con không tách biệt khỏi môi trường của con

Điều này liên quan thế nào với lời dạy của Phật về giác ngộ? À, trải nghiệm của con như một người đầu thai trên trái đất là gì chứ? Bắt đầu với cơ thể vật lý. Con đã được nuôi dạy, thậm chí suốt nhiều kiếp sống, để xem cơ thể vật lý của mình như một đơn vị tách biệt, phần nào biệt lập. Con trải nghiệm cơ thể của con là một đơn vị mạch lạc, tích hợp. Con có thể quyết định đứng dậy khỏi ghế ngồi, đi dạo một vòng ngoài trời, và cơ thể của con di chuyển xuyên qua không gian bên ngoài như một khối riêng biệt. Nó có thể chịu một số tác động. chẳng hạn nếu có chiếc xe chạy tới có thể đụng con. Hay nếu có mưa từ trời rơi xuống, con bị ướt, cơ thể con bị ướt. Nhưng nói chung, con có cảm giác con là một đơn vị tách biệt và con có thể di chuyển theo ý muốn trong không gian vì đó là môi trường địa phương của con.

Khi con nghĩ về chuyện này, con cũng biết là lý do con có thể đi bộ trên mặt đất là vì có một lực vô hình, gọi là trọng lực, đang giữ con trên mặt đất để con không bay đi mất. Con biết một cách trí thức là có những lực ảnh hưởng cơ thể của con, có nghĩa là cơ thể con thật ra không tách biệt. Tất nhiên, con có thể nghĩ xa hơn và nhận ra là cơ thể được tạo thành từ nguyên tử, phân tử, hạt hạ nguyên tử cũng như từ sóng năng lượng. Cho nên nó không thể tách riêng ra khỏi môi trường năng lượng này nơi con sinh sống. Tuy nhiên, do ấn tượng từ giác quan vật lý, do sự dạy dỗ mà con đã nhận được trên trái đất trong kiếp này và ấn tượng từ tiền kiếp, hầu hết mọi người đều có xu hướng xem cơ thể của mình là tách biệt.

Hầu hết mọi người cũng có xu hướng xem thể cảm xúc của mình – nếu họ cho là họ có một thể cảm xúc – như một đơn vị tách biệt. Cũng tương tự vậy với thể lý trí và thể bản sắc. Con thường nghĩ mình là người có cảm xúc, nhưng chẳng phải là biết bao lần con đã bị ảnh hưởng bởi những ấn tượng đến từ ngoài, bởi những gì người khác làm hay nói với con hay sao? Nếu có ai giận dữ tiến lại gần con, con chẳng thấy là điều này tác động lên thể cảm xúc của con hay sao? Làm sao cảm thể của con lại tách biệt được?

Con chẳng đã trải nghiệm một ai đó đến nói với con điều gì khiến con bị phiền lụy hay sao? Con sẽ có xu hướng hoặc tin họ hoặc không tin họ. Con có thể nhập cuộc tranh cãi với họ. Hiển nhiên thể lý trí của con không là một đơn vị tách biệt.

Hầu hết mọi người không nghĩ đến chuyện ý niệm bản sắc của họ cũng có thể bị ảnh hưởng nặng nề bởi môi trường sinh sống. Họ không nhận ra là họ đã được dạy dỗ dến chừng nào để có một ý niệm bản sắc nhất định. Họ cũng không nhận ra là suốt nhiều kiếp sống, họ đã bị lập trình đến chừng nào để chấp nhận mình là một sinh thể tách biệt. Khi con bắt đầu tìm kiếm cái hiểu cao hơn, con cần xem xét vấn đề này. Con cần xem xét là ở mức vĩ mô, ở mức của giác quan và tâm vỏ ngoài đường thẳng, con xem mọi hiện tượng là tách biệt. Có một sự lập trình khổng lồ trong tâm tiềm thức của con và trong tâm thức tập thể, tập trung vào việc nhận diện những khác biệt, những vật tách biệt và hiện tượng tách biệt.

Nhưng tất nhiên, cũng có một lý do rất thực tế cho chuyện này. Con cần có khả năng nhận diện những hiện tượng riêng biệt. Đây là một phần của khả năng sinh sống trong cuộc đời thực tế. “Chuyện này có nguy hiểm cho tôi không? Chất này có hại gì không nếu tôi đem nó vào cơ thể? Nó có làm tôi chết? Nó có giết chết cơ thế của tôi không?” và nhiều loại cân nhắc như vậy.

Một lần nữa, điều này tự thân nó không có gì sai trái. Vấn đề khởi lên khi con áp chồng một lớp phủ ý thức hệ lên những ấn tượng đến với con qua giác quan và tâm vỏ ngoài. Khi đó, có một phần khác của tâm vỏ ngoài bảo rằng những thứ đó đúng là tách biệt. Nó bảo những gì con trải nghiệm qua giác quan và tâm vỏ ngoài là sự thật khách quan. Ở ngoài kia là những vật tách biệt, chúng tách biệt khỏi cơ thể vật lý của con, tách biệt khỏi tâm con. Và vì vậy, nếu cơ thể của con không thể tác động đến chúng thì tâm con cũng không thể làm gì được. Và tất nhiên, vấn đề này cũng ảnh hưởng cách con quan hệ với người khác – họ tách biệt khỏi con.

3.5. Người không thể giết người

Nếu con nhìn các loài động vật, con sẽ thấy là hầu hết không giết hại một thành viên trong cùng giống loài với chúng, nhưng rõ ràng loài người thì có. Sự thật ở đây là một người không thể giết một người khác. Vì nếu con nhìn người kia như một người, như chính con, thì con không thể giết người đó. Đơn giản đây là một cơ chế sống còn ở cấp độ giống loài. Con cũng biết, vì các nhà khoa học đã nói với con như vậy, là có một cấp độ cá nhân và một cấp độ cho toàn bộ giống loài. Đôi khi một số cá nhân cần làm gì đó để đảm bảo sự tồn tại của cả giống loài – có thể qua sự truyền giống, sự bảo vệ, hay nhiều thứ khác nhau.

Để một loài có thể tồn tại, cần phải có một sự lập trình nào đó. Thậm chí trong cơ thể vật lý của con có một lập trình bảo rằng: “Đừng giết đồng loại của mình, vì giết đồng loại là một chiến lược sinh tồn rất tệ.” Tất cả mọi loài đều được lập trình để sống còn. Vậy làm sao lại có chuyện con người giết hại lẫn nhau và họ đã làm vậy từ khi có lịch sử ghi lại? Ấy, chuyện này xảy ra được là vì con có thể lấy ấn tượng từ giác quan và phin lọc nhận thức của tâm vỏ ngoài, và con có thể tạo ra tâm ảnh rằng người kia không phải là một con người như mình đây, mình không gắn liền với họ, và vì vậy mình có thể giết họ mà không ảnh hưởng gì đến mình. Đây là cách duy nhất một người có thể giết một người khác.

Câu chuyện này dẫn đến nhận xét gì? Ít nhất nó gợi ra cho con cái hiểu là con người có khả năng tạo dựng một tâm ảnh hoàn toàn xa rời thực tế. Khoa học đã cho thấy là mọi thứ đều liên kết với nhau, nhưng trong chiều dài lịch sử, loài người đã tạo ra tâm ảnh là họ tách biệt với nhau và do đó họ có thể giết hại nhau mà không bị ảnh hưởng gì. Phải, hiển nhiên con đã trải nghiệm việc một người có thể dùng cơ thể của mình để giết một cơ thể khác và cơ thể của mình thì không chết. Tất nhiên trên thế giới cũng có một phần lớn tin vào nghiệp quả, và do đó, con sẽ bị tác động khi con giết người khác, ngay cả trong những kiếp tiếp theo – cho nên ở đây có một sự liên kết nào đó.

Chắc chắn trong một phần lớn của thế giới hiện đại đã rời bỏ lời dạy của các tôn giáo về nghiệp quả, con chứng kiến tư duy tách biệt này khiến cho người ta tin rằng những gì họ làm tới người khác thì họ không đang làm tới chính họ. Con sẽ thấy là hầu hết mọi tôn giáo đều có lời răn: Đừng làm tới người khác những gì con không muốn người khác làm tới con. Tất nhiên, lời dạy này dựa trên sự nhìn nhận là mọi thứ đều liên kết với nhau, cho nên những gì con làm cho người khác sẽ tác động đến con.

3.6. Tách biệt dẫn đến sự phán xét giá trị

Đâu là khởi đầu của cái hiểu cao hon, bước đầu tiên của Bát chánh đạo? À, đó là khi con bắt đầu chất vấn cảm nhận tách biệt này, ảo tưởng tách biệt này. Đâu là cơ sở đã tạo ra ảo tưởng con là một sinh thể tách biệt? À, đó là điều mà cách đây 2500 năm thày đã gọi là những cặp đôi, nhưng với cách diễn tả hiện đại hơn, chúng ta có thể gọi là tâm thức nhị nguyên. Đó chính là ý tưởng rằng con có thể nhìn cuộc sống, con có thể nhìn thực tế mà có thể nói: “Đây là một hiện tượng riêng rẽ, khác biệt với hiện tượng kia.” Để cụ thể hơn: “Đây là một nhóm người khác biệt với nhóm người kia, họ khác màu da cho nên họ khác biệt.” Ở đây con chỉ có một sự nhận biết về điểm khác biệt trong các đặc tính bên ngoài. Sau đó con đi xa hơn.

Thay vì chỉ bảo rằng nhóm này có màu da này và nhóm kia có màu da kia, giờ đây con nói: “Có một tầm quan trọng ý thức hệ nào đó trong chuyện này.” Để đơn cử một ví dụ quen thuộc ở một thời điểm cách đây không lâu – mà một số người vẫn còn bị dính mắc – người da trắng từng xem bất cứ ai khác màu da đều thuộc một chủng tộc thấp kém hơn. Đây là lúc con dùng tâm nhị nguyên và nói: “Đây là một số khác biệt, khác biệt về màu da, nhưng chúng không chỉ là khác biệt vật lý.” Không, nó không giống như khi con lấy một bông hoa huệ và một bông tulip và con nói: “À, đây chỉ là những bông hoa khác nhau, chúng có hình thù khác nhau, chúng có màu sắc khác nhau, nhưng cả hai đều đẹp.” Thay vào đó con nói: ”Đây là một người da trắng. Đây là một người da đen. Màu da khiến cho họ khác nhau một cách cơ bản. Họ không chỉ là những biến thể của loài người giống như hai bông hoa là biến thể của loài hoa. Họ là những sinh thể khác nhau trong bản chất.”

Không những vậy, họ có thể được xếp vào một hệ thống nhị nguyên: “Màu da này khác màu da kia một cách cơ bản.” Thậm chí con có thể áp đặt lên đó một lớp phủ bảo rằng Thượng đế đã tạo ra một giống dân cao trội hơn giống dân kia. Xong con có thể làm thêm một thủ thuật nhị nguyên là áp đặt sự phán xét giá trị mà thày vừa nói đến. Con bảo giống da trắng cao trội và giống da đen thấp kém. Thậm chí con có thể đi xa hơn nữa và bảo rằng việc giống da trắng khuất phục giống da đen, biến người da đen thành nô lệ, là một chuyện hoàn toàn chấp nhận được. Nếu giống da đen kháng cự lại, thì việc giống da trắng giết họ là chuyện hoàn toàn chấp nhận được. Hay con có thể thế vào một giống dân khác và nói: “Chủng tộc Aryan cao trội hơn chủng tộc Do Thái. Việc người Aryan diệt chủng ngưởi Do Thái là chuyện hoàn toàn chấp nhận được, thậm chí còn cần thiết cho một đại nghĩa cuồng đại nào đó.”

Con sẽ thấy là khi con nhìn lại lịch sử và hỏi: “Người ta đã làm gì để có thể giết người như vậy,” con sẽ thấy là trong đa số trường hợp – và chắc chắn trong những trường hợp lớn rộng như chiến tranh hay diệt chủng – đó không chỉ là chuyện giết người do động cảm, như khi người ta sợ có ai khác sắp sửa giết mình. Không, ở đây có sự biện minh. Có sự biện minh tại sao giống da trắng lại có thể bắt giống da đen làm nô lệ. Có sự biện minh tại sao người Aryan lại tìm cách diệt chủng người Do Thái. Đây là tâm thức nhị nguyên. Nó dựa trên cảm nhận tách biệt, ảo tưởng tách biệt, nhưng nó đi xa hơn, tạo ra các đối cực nhị nguyên và áp đặt một phán xét giá trị. Bấy giờ, những kẻ tin tưởng vững chắc vào phán xét giá trị này có thể biện minh cho hầu hết mọi hành vi xâm phạm nhóm người mà họ đã dán nhãn là thấp kém.

3.7. Cảm nhận cao trội, nguồn gốc của đau khổ

Con thấy được ở đây là trong suốt lịch sử, con người đã nghĩ ra rất, rất nhiều cách biện minh khác nhau cho việc xâm phạm người khác. Tất cả đều dựa trên cảm nhận tách biệt, tâm thức nhị nguyên, dựng lên các đối cực và áp đặt một phán xét giá trị. Tuy nhiên từ một nhãn quan nào đó, con có thể nói: “Nhưng đây chính là điều mang lại cho những người này một trải nghiệm đặc thù.” Thày đã có nói về những người mong muốn cảm thấy cao trội hơn người. Tâm thức nhị nguyên này, sự phán xét giá trị này chỉ là một cái cớ để mang lại cho họ trải nghiệm là họ cao trội.

Chắc chắn là có thể nói như vậy, nhưng đâu là hậu quả khi làm vậy? Hậu quả là khi con bước vào tâm thức nhị nguyên đó, cảm nhận tách biệt đó, con chỉ có thể đau khổ. Có thể nói là tâm thức nhị nguyên, cảm nhận tách biệt chính là nguồn gốc của đau khổ. Cũng có thể nói là con không có cách chi thoát được đau khổ chừng nào con còn ở trong trạng thái nhị nguyên, tách biệt. Đây là điều mà cách đây 2500 năm thày đã gọi là Maya – ảo tưởng. Đây là ý nghĩa sâu hơn, là cái hiểu cao hơn về Maya: Con ở trong ảo tưởng rằng con là một sinh thể tách biệt.

Chuyện gì xảy ra khi con tự nhận diện mình là một sinh thể tách biệt? À, bỗng nhiên con tách biệt khỏi người khác, con tách biệt khỏi môi trường của con ở đây trên trái đất, và con tách biệt khỏi bất cứ gì ở ngoài môi trường của con, nghĩa là bên ngoài vũ trụ vật chất. Con không một mình trên trái đất. Có hàng tỷ người khác ở đây. Có một môi trường vật lý đôi khi biểu hiện thiên tai. Như một sinh thể tách biệt, con sẽ thấy mình bị đe dọa bởi các điều kiện trong môi trường của mình.

Đây là nguyên nhân khiến người ta tìm cách giành được chút nào quyền kiểm soát môi trường xung quanh. Người ta làm vậy ở mức độ vật lý thông qua sức mạnh thể xác hay bạo lực, bằng cách hoặc chế ngự người khác để kiểm soát họ, hoặc cố tiêu diệt người khác để họ không có mặt ở đây nữa. Người ta cũng làm vậy ở mức độ cảm xúc, qua đó nhiều người đi vào tiến trình liên tục tìm cách kiểm soát cảm xúc của mọi người xung quanh ngõ hầu tránh né các cảm xúc tiêu cực hay khó chịu nơi chính mình. Cũng vậy, nhiều người bước vào trò chơi kiểm soát tư tưởng, niềm tin hay hiểu biết của người khác, thậm chí cả ý niệm bản sắc của người khác.

3.8. Sự trớ trêu của tách biệt

Liệu con có bắt đầu nhìn thấy sự trớ trêu ở đây? Đây là một người. Y tự nhận diện mình như một sinh thể tách biệt, một con người tách biệt. Y có một cơ thể vật lý tách biệt. Y có một thể cảm xúc, một thể lý trí, một thể bản sắc tách biệt. Y sợ một chuyện gì đó sắp sửa xảy ra trong môi trường của y sẽ giết chết cơ thể của y. Y cố dùng phương tiện vật lý để kiểm soát môi trường này. Nhưng điều này rất khó thực hiện, và chưa một ai đã thành công hoàn toàn. Cho dù người ta có trở thành nhà độc tài quyền lực đến đâu, không ai có thể kiểm soát hoàn toàn môi trường của mình.     

Người đó cũng tìm cách kiểm soát cảm xúc, lý trí và ý niệm bản sắc của người khác xung quanh y. Nhưng tại sao y lại làm vậy? Y làm vậy để trốn tránh một số cảm xúc, một số ý nghĩ, một sự nghi vấn nào đó về bản sắc của mình. Nói cách khác, thật ra y đang tìm cách kiểm soát chính tâm của y, nhưng bởi vì y ở trong trạng thái tách biệt, tâm thức nhị nguyên, cho nên y cho rằng cách duy nhất để kiểm soát tâm mình là phải kiểm soát môi trường xung quanh mình, hoàn cảnh vật lý của mình, cảm xúc của người khác, ý nghĩ của người khác, ý niệm bản sắc của người khác.

Tất nhiên, điều này có nghĩa là y ở trong tình trạng giao tranh bất tận với người khác. Và người khác cũng tự xem mình là tách biệt, cho nên khi một người cố kiểm soát người thứ hai, thì người thứ hai cảm thấy bị đe dọa, cho rằng người thứ nhất đang hung hãn tấn công mình. Người thứ hai sẽ chống cự lại. Đây là Biển Luân hồi. Đa số con người trên địa cầu bị kẹt trong cảm nhận tách biệt, tâm thức nhị nguyên, và họ tìm cách kiểm soát lẫn nhau để cố đạt được một trạng thái cân bằng, một sự an bình nào đó trong tâm họ.

Phải, một lần nữa con có thể nói: “Nhưng con người có quyền tự quyết, chẳng phải là họ được phép có bất kỳ trải nghiệm nào họ muốn hay sao?” Tất nhiên rồi. Thày chỉ đang chỉ ra là trải nghiệm mà họ đang có thông qua Maya, thông qua tách biệt, thông qua nhị nguyên, là một trải nghiệm vật lộn, và một trải nghiệm vật lộn chỉ có thể tạo ra đau khổ. Nó có thể cho con một cảm giác thích thú tạm thời khi con thấy giờ đây mình đã đạt được một trạng thái quyền lực, hay kiểm soát, hay an bình tối thượng nào đó. Nhưng trạng thái này luôn luôn bị đe dọa, và con sẽ luôn luôn biết điều này. Tại sao con biết? Bởi vì nếu con đạt đến một trạng thái quyền lực qua vũ lực, con sẽ ý thức được vũ lực. Con ý thức là có thể ai đó sẽ tìm cách tước đoạt những gì con đã thu hoạch qua vũ lực bằng cách dùng nhiều vũ lực hơn con.

Con hãy nhìn các nhà độc tài, nhìn xem hầu hết suốt đời càng trở nên hoang tưởng như thế nào. Dù họ có quyền lực và khống chế nước họ biết mấy, họ vẫn luôn lo sợ ai đó có thể đoạt mất quyền lực của họ. Đó là tại sao họ phải liên tục có một lực lượng công an mật vụ để nhận mặt và loại trừ những người có tiềm năng là mối đe dọa cho họ. Con hãy nhìn bao nhiêu nhà tỷ phú có nhiều tiền đến độ không thể nào tiêu hết, nhưng họ luôn luôn lo sợ có người đến cướp mất. Họ phải bảo vệ tài sản của họ hay họ phải kiếm nhiều hơn nữa. Chuyện này trở thành một vòng xoáy ốc không bao giờ chấm dứt vì họ đang cố làm chuyện bất khả thi. Họ cố kiểm soát trạng thái tâm họ qua việc kiểm soát ngoại cảnh. Một lần nữa, điều này hoàn toàn chấp nhận được nếu con muốn ở trong Biển Luân hồi, nhưng nếu vậy thì con không cần đến Bát chánh đạo.

3.9. Bát chánh đạo là giải pháp thay thế cho đau khổ

Bát chánh đạo không phải là những gì nhiều Phật tử đã kết luận. Đó không phải là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi hay Niết bàn. Đó không phải là một con đường cao trội. Bát chánh đạo không bao giờ có mục đích ép buộc con người phải theo. Kỳ thực mục tiêu của thày không bao giờ muốn những lời dạy này phải được truyền bá khắp địa cầu, rằng mọi người phải đi theo một đạo Phật vỏ ngoài và điều này bị áp đặt lên họ. Bát chánh đạo là một lời mời cho những ai đã chán ngán tình trạng bị sóng Biển Luân hồi xô đẩy tới tấp. Đây là những người tìm kiếm một cái gì khác hơn, họ cởi mở với ý tưởng là để đạt cái khác hơn đó, họ không thể cứ tiếp tục làm những gì họ đã làm cho đến nay. Họ cần làm gì đó khác hơn.

Đâu là bước đầu tiên trực chỉ cái hiểu cao hơn? Đó là trước tiên nhìn nhận là tâm con có những hạn chế. Ngay bây giờ con không có cái hiểu cao nhất. Thật ra con không một có cái hiểu cao hơn – bởi vì ở ngay thời điểm này, con đang có một trình độ hiểu biết nào đó, nhưng có thể có những mức hiểu biết cao hơn. Để đạt đến những mức hiểu biết cao hơn này, con phải làm gì đó khác hơn, một cái gì đó mà hiện nay con không làm. Đâu là cái khác hơn? À, đó là con phải ít nhất nắm bắt được sự cần thiết phải thăng vượt Maya, ảo tưởng, ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng nhị nguyên, các đối cực nhị nguyên, sự phán xét giá trị, cảm nhận cao trội lẫn cảm nhận thấp kém. Con phải chất vấn toàn bộ tư duy đó. Con phải bắt đầu chất vấn nó.

Việc này con không thể làm tất cả cùng một lượt. Con cần một sự liên tục nào đó. Đây là một con đường tuần tự chất vấn những ảo tưởng của Maya. Con cần thời gian. Thật ra con cần nhiều kiếp, nhưng nhiều người hiện đang đầu thai – đặc biệt ở các quốc gia hiện đại hơn, phát triển hơn – đã làm điều này trong những kiếp trước. Họ đã khởi sự tiến trình này trong tiền kiếp và tất cả những gì họ cần làm bây giờ là nối kết lại với sự thật là họ cần chất vấn tâm họ, chất vấn cách họ nhìn cuộc sống, cách họ tiếp cận cuộc sống, đặc biệt là ảo tưởng tách biệt, các cặp đôi, các đối cực nhị nguyên.

3.10. Tâm con có thể biến thành một hệ thống đóng kín

Việc này bắt đầu với một sự nhìn nhận mà thày khó lòng đưa ra 2500 năm về trước nhưng có thể đưa ra ngày hôm nay. Sự nhìn nhận này là tâm con người có xu hướng biến thành một hệ thống đóng kín. Con không phải là một hòn đảo. Không người nào là một hòn đảo. Con không phải là một sinh thể tách biệt. Con được nối kết theo nhiều cách vượt khỏi tầm nhìn của mắt thịt, không những với người khác mà với môi trường nơi con sống cũng như với một nguồn cội vượt khỏi môi trường của con – một điều mà chúng ta chưa cần bàn vội. Nhưng con cần biết là có cái gì đó ở ngoài thế giới vật chất – con là ai, con được sinh tạo như thế nào.

Con không nhìn thấy được điều này ngay bây giờ. Lý do con không nhìn thấy là vì tâm con đã bị che mờ bởi Maya, bởi nhiều ảo tưởng khác nhau, nhiều khuôn nếp phản ứng khác nhau trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Bát chánh đạo là một tiến trình tuần tự, từng bước một, mỗi bước một lượt, để đem các ảo tưởng và khuôn nếp phản ứng đó vào tâm ý thức, xem xét chúng một cách phân biện, lượng định hậu quả của chúng, thậm chí cả sự chính đáng và nhất quán của chúng. Và sau đó đi đến kết luận là ảo tưởng này đây và khuôn nếp này đây đang giới hạn mình. Và mình đã chán ngán sự giới hạn, vì chính giới hạn luôn luôn giữ mình kẹt lại trong Biển Luân hồi nổi sóng.

Con có khái niệm về Biển Luân hồi, nhưng bên kia biển, hay ít nhất ở một bên biển, là bến bờ bên kia. Con có thể đến đó bằng cách dùng thuyền, một con thuyền Bát nhã được tạo thành từ giáo lý và tu tập. Một lần nữa, con không thể lấy giáo lý vỏ ngoài, học giáo lý, thực hành pháp tu mà nghĩ rằng con sẽ tự động sang được bờ bên kia. Con sẽ chỉ sang được bờ bên kia bằng cách tự xem xét mình, nhìn vào bản thân, nhìn vào các tin tưởng, các khuôn nếp của mình. Con tự hỏi xem tại sao mình phản ứng cách đó, tại sao mình lại nghĩ kiểu đó, tại sao mình xem mình là loại người đó. Con tuần tự chất vấn tất cả mọi điều như vậy và giải thể từng ảo tưởng một. Đây chính là con thuyền Bát nhã. Đây là cái sẽ chở con đi một khi con leo vào đó, một khi con đã neo chặt vào ý nghĩa của đường tu. Đây là cái sẽ chở con băng qua Biển Luân hồi. Không có nghĩa là con sẽ không bị sóng đánh, bởi vì con sẽ bị sóng đánh, nhưng ít ra con có thể nắm vào cái gì đó sẽ chở con đi xa hơn.

Đây là khởi đầu của minh triết, khởi đầu của hiểu biết. Tâm con có thể trở thành, hay đúng hơn đã trở thành, một hệ thống khép kín. Tại sao thày lại nói vậy? Làm thế nào thày nói được vậy? À, con có cảm thấy mình là Phật ngay bây giờ không? Con có cảm thấy là mình giác ngộ, mình đang ở trong trạng thái Niết bàn hay là Luân hồi? Con có cảm thấy là con đang an bình? Nếu vậy thì cho thấy tâm con là một hệ thống khép kín. Nó khép kín vì con đã dùng khả năng của tâm để kềm nén cảm xúc, tư tưởng và ý niệm bản sắc, để kềm nén bất cứ gì làm con xáo trộn, nhưng chính điều này cũng trở thành một chiếc áo bó tay bó chân giữ chặt con lại, trói buộc con lại. Bởi vì bất cứ khi nào có một ý tưởng mới đến với con, nó phải nhét vừa vào hệ thống sẵn có, tức là kho dữ liệu tiềm thức ở trong con đánh giá mọi ý tưởng mới, bảo rằng: “Chuyện này có nguy hiểm không? Có đúng không? Có phải là một điều tôi cần xem xét hay không xem xét?”  

3.11. Làm thế nào một vị thày tâm linh có thể giúp con?

Một lần nữa, thày đã nói gì về vấn đề nan giải của một vị thày tâm linh? À, một thày tâm linh không bị vướng trong Maya, không bị kẹt trong Biển Luân hồi, nhưng con thì đang bị. Làm thế nào vị thày tâm linh có thể giúp con thoát ra khỏi Maya? Maya là gì chứ? Con có một tin tưởng mà thật sự là một ảo tưởng, nhưng con lại tin đó là sự thật. Con tin chắc đó là sự thật – thế giới là như thế này. Chính tin tưởng này giữ con lại trong Maya. Làm thế nào vị thày giúp được con đây? Đấy, con phải nhìn ra tin tưởng của con là một ảo tưởng.

Điều này có nghĩa là vị thày phải thách thức tin tưởng của con. Tiến trình mà thày vừa mô tả có nghĩa là có một phần trong tâm con đang muốn đè nén bất cứ gì thách thức tin tưởng của con. Nhiều người gặp được một lời dạy tâm linh khác với giáo lý mà họ đang có. Họ nhìn vào lời dạy nhưng tâm ý thức của họ không bao giờ nắm được ý nghĩa hay tầm quan trọng của lời dạy, bởi vì tâm tiềm thức của họ bác bỏ, hay tô màu, hay diễn giải lời dạy. Như thày đã nói, con không thể làm gì khác. Con phải bắt đầu từ đâu đó, và khi con tìm thấy một lời dạy tâm linh, con sẽ diễn giải nó xuyên qua trình độ tâm thức hiện tại của con.

Một lần nữa, điều này tự nó không phải là một vấn đề lớn. Vấn đề là nếu con không nhận ra là chính con đang giới hạn lời dạy, rằng con đang áp chồng một cái gì đó lên lời dạy, thì cái đó sẽ ngăn cản con đi bước kế tiếp trên con đường dẫn đến giác ngộ. Con thấy không, có rất rất nhiều người – cho dù họ là Phật tử hay những người có khuynh hướng thần bí hơn, Thời Mới hơn mà con gặp thời nay – đã nhìn vào khái niệm giác ngộ và họ đã áp chồng lên đó một hình ảnh dựa trên mức tâm thức hiện thời của họ. Nhiều người có nguyên một hộp niềm tin mà họ vô cùng gắn bó. Họ nghe nói về khái niệm giác ngộ và họ thấy có vẻ cũng hay. Nhưng một cách vô ý thức, họ lại phóng chiếu ra hình ảnh là một khi mình giác ngộ, mình sẽ nhận được sự chứng thực về các niềm tin mà mình hiện có, và mình sẽ thấy các tin tưởng hiện thời của mình đúng là chân lý tối thượng. Và tất nhiên, khi có người khác giác ngộ thì người đó cũng sẽ thấy tin tưởng của mình là chân lý tối thượng, và như vậy mình đã luôn luôn đúng.

Đây là một khía cạnh khác của mong muốn cao trội. “Chắc chắn một vị giác ngộ sẽ đồng ý với tôi, với các tin tưởng hiện thời của tôi, với cách tôi đang nhìn cuộc đời.” Nhưng con thấy đó, nếu con chưa giác ngộ thì làm thế nào một vị giác ngộ có thể đồng ý với con? Con chưa giác ngộ chính là vì con còn ảo tưởng. Một vị giác ngộ không có ảo tưởng, đã thăng vượt ảo tưởng. Cho nên làm thế nào vị đó có thể đồng ý với con là các ảo tưởng của con không là ảo tưởng mà là sự thật? Đây không phải là một kịch bản thực tế. Những ai tin vào chuyện này sẽ chỉ giữ mình kẹt lại trong Biển Luân hồi, giữ cho tâm mình bị Maya xâm chiếm. Họ vẫn ở đằng sau tấm màn Maya.

Khởi đầu của Bát chánh đạo là sự sẵn lòng chất vấn chính tâm mình, nhìn ra là nó đã biến thành một vòng tròn khép kín đang tự xác nhận và tự củng cố. Sau đó là sự sẵn lòng nắm lấy lời dạy, và thay vì cố khiến cho lời dạy phải xác chứng các niềm tin hiện có của mình, thì con dùng lời dạy để tra vấn các tin tưởng, các ảo tưởng hiện có. Đó chính là Bát chánh đạo. Cho đến khi con có được cái hiểu này, con không thể thực sự cất bước trên con đường Bát chánh đạo chân chính. Thay vào đó, con sẽ khởi sự đi trên con đường giả dựa trên việc sử dụng các tin tưởng hiện thời của mình để định nghĩa thế nào là chánh kiến, thế nào là chánh tư duy, thế nào là chánh ngữ, thế nào là chánh nghiệp, thế nào là chánh mạng, thế nào là chánh tinh tấn, thế nào là chánh niệm, thế nào là chánh định. Tất cả đều “chánh” vì nó xác chứng cho các tin tưởng hiện thời của con.     

Các tin tưởng hiện thời của con là ảo tưởng. Làm thế nào một lời dạy chân chính có thể xác chứng chúng được? Con chỉ có hai lựa chọn ở đây. Hoặc Phật đã cho con một giáo lý giả trá, hoặc tin tưởng hiện thời của con là ảo tưởng. Con không thể có cả hai đường. Chọn lựa tức là luôn luôn chất vấn tâm mình, nhận thức của mình, cách mình nhìn cuộc sống. Đó là lúc con cất bước trên đường tu, con đường dẫn đến giác ngộ. Con cũng có thể lấy lời dạy của Phật và tạo ra một con đường giả sẽ dẫn con càng ngày càng sâu vào ảo tưởng. Nó có thể cho con một cảm giác là con đã đạt được một trạng thái cao trội nào đó so với người khác, vì con có giáo lý cao siêu này rồi, con đã tu tập bao nhiêu lần rồi và tất cả những chuyện như vậy. Nó có thể thay đổi trải nghiệm của con về cuộc sống nhưng nó không nâng cao tâm thức của con trên chiếc thang đưa con lên giác ngộ. Con vẫn đang mặc cái bộ đồ lặn.

Đây là bài giảng thứ nhì của thày về những gì thày muốn trao cho con trong hội nghị này. Tất nhiên thày còn nhiều điều nữa để trình bày về các bước kia trong Bát chánh đạo. Và như vậy thày niêm con trong cái hiểu minh bạch, không phân rẽ của Phật.

1 | Tiến bước trên con đường tâm linh đòi hỏi con sẵn lòng bị xao động

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng Thiên Phật Gautama. Padmasambhava và thày đã bàn bạc với nhau để xem nên trao truyền điều gì cho các con, những học trò trực tiếp của các thày, ngõ hầu giúp các con trong thời điểm cụ thể này. Các thày cũng đã xem có thể trao truyền điều gì sẽ giúp cho những ai khác có tâm cởi mở về mặt tâm linh và điều gì sẽ giúp cho cả hành tinh này nói chung. Lẽ tự nhiên, chính các con đang kết nối qua internet và cùng nhau đọc các bài chú, bài thỉnh, cũng đang giúp cho hành tinh này rất nhiều.

Bây giờ thày có thể nói gì về cuộc sống trên trái đất mà có ý nghĩa cho đại đa số mọi người? À, thày có thể nói là cuộc sống khó khăn và đầy thử thách, hay như cách đây 2500 năm, thày nói về Khổ đế – Chân lý đầu tiên của Tứ diệu đế – rằng cuộc sống là đau khổ. Có lẽ hầu hết mọi người trên trái đất đều đồng ý như vậy. Nếu con bước lui lại và đặt một câu hỏi khác: “Cuộc sống trên trái đất là gì vậy, có gì có thể so sánh với cuộc sống này không?” Vậy đây là một cách khả dĩ để nhìn vấn đề.

1.1. Cảm giác khi con bước vào đầu thai 

Con cũng biết trước đây người ta có những bộ đồ lặn rất lớn, không thấm nước và khá nặng, gồm một cái mũ bảo hiểm to bằng kim loại có những lỗ nhỏ xíu để nhìn ra ngoài. Thày biết hầu hết các con tất nhiên chưa từng mặc bộ đồ lặn này, nhưng dẫu sao con cứ hình dung đang mặc một bộ đồ như vậy và cảm thấy khá gò bó. Bộ đồ vừa nặng, lại kềnh càng, ngay đơ, khó chuyển động trong đó. Tất nhiên thêm vào đó, người ta dùng một sợi dây cột con vào một vật cố định trên mặt nước, và có một cái vòi dùng để bơm không khí vào mũ bảo hiểm. Con thử hình dung chuyện gì xảy ra khi con ở dưới nước trong một bộ đồ như vậy. Bộ đồ đã khiến con cảm thấy gò bó, nhưng khi con xuống dưới nước thì áp suất của nước sẽ tác động lên thân thể con qua áp suất đè lên bộ đồ. Con càng xuống sâu thì áp suất nước càng lớn. Khi con ở trên mặt nước, ít nhất con có thể nhìn khá xa qua những lỗ nhỏ trên mũ bảo hiểm, nhưng một khi con đã xuống nước, con không thể nhìn xa lắm vì còn tùy thuộc vào độ trong của nước. Bây giờ con hãy hình dung để có thể xuống sâu hơn, con cần phải đeo những vật nặng. Con có thể cần đôi giày lặn thật nặng, hoặc chì lặn đeo ở thắt lưng để có thể chìm xuống đáy. Đó, tình trạng này giống như khi một sinh thể tâm linh, một sinh thể phi vật chất – còn gọi là hồn hay bất cứ tên gì con muốn gọi – bước vào hiện thân vật lý.

Con không chỉ đang mặc một bộ mà đến bốn bộ đồ lặn. Từ một sinh thể tâm linh đi xuống đầu thai, thoạt tiên con đi xuống một thể mà các thày gọi là thể bản sắc, là trụ điểm của bản sắc của con. Bản sắc mà giờ đây con có trong kiếp sống này có thể bị ảnh hưởng rất nhiều bởi môi trường con sinh ra, bởi nền văn hoá, bởi cách mọi người nhìn chính mình và bởi cái mà các thày gọi là tâm thức tập thể. Con đã được nuôi dạy để nhận diện mình theo một cách nào đó.

Đến thể tiếp theo, bộ đồ lặn tiếp theo con mặc vào là thể lý trí, là cách con nhìn cuộc sống, cách con nhìn khía cạnh “như thế nào” của cuộc sống, khác với khía cạnh “là gì” khi con nhìn qua thể bản sắc. Thể lý trí là những điều con có khả năng hay không có khả năng thực hiện, con thực hiện bằng cách nào, và nhiều cách vi tế con nhìn cuộc đời cũng như cách con quy định con là loại người thế nào, những chọn lựa, những tùy chọn của con là gì.

Nhờ trí thể mà con có khả năng tranh luận đồng tình hay bác bỏ một quan điểm nào đó. Con có thể thấy thể lý trí của những người khác nhau có thể suy ra những kết luận rất khác nhau. Thậm chí người ta có thể nhìn vào cùng một ý tưởng, cùng một bằng chứng, nhưng có người đi đến kết luận là không có Thượng đế, không có gì bên ngoài vũ trụ vật chất. Nhưng người khác lại kết luận là phải có cái gì vượt ngoài vũ trụ vật chất, và tất nhiên còn vô số những câu hỏi khác mà người ta có thể tranh cãi. Đây là điều diễn ra chủ yếu trong trí thể, nhưng dĩ nhiên nó bắt đầu ở bản sắc thể, vì có người lớn lên đã chấp nhận bản sắc mình là người sùng đạo, trong khi người khác lại xem mình là kẻ vô thần hay khoác vào đủ loại bản sắc khác nữa.

Thể thứ ba con mặc vào tất nhiên là thể tình cảm, là trụ điểm của những cảm xúc của con. Một lần nữa tùy vào nơi con lớn lên, con đã được nuôi dạy để khoác vào một số khuôn nếp quy định cách phản ứng của mọi người trong nền văn hóa của con đối với một số tình huống nhất định. Có người rất thụ động, họ có xu hướng phục tùng kẻ có thẩm quyền, họ không muốn lấy quyết định, họ có cảm giác mình không được quyền đòi hỏi. Có người lại hung hãn hơn, cảm thấy mình có quyền yêu cầu hay ngay cả áp đặt ý muốn lên người khác. Có người cảm thấy mình có quyền nổi giận, có người cảm thấy mình phải đè nén cảm xúc, không được giận dữ hay bộc lộ bất kỳ cảm xúc nào khác. Một lần nữa, con thấy có vô số phản ứng.

Và cuối cùng tất nhiên là thể vật lý, đây là thể gò bó nhất trong bốn thể vì nó dày đặc nhất. Con có thể thấy một sinh thể phi vật chất đi vào bốn thể này bị gò ép khủng khiếp. Đây chỉ là bốn thể con khoác vào trong kiếp này để có thể đầu thai. Dĩ nhiên đạo Phật và nhiều triết lý tâm linh khắp thế giới công nhận sự đầu thai. Con không chỉ đem vào kiếp sống này nền văn hóa nơi con lớn lên mà con còn đem theo các khuôn nếp bản sắc, lý trí, tình cảm từ những kiếp trước. Và ở đây ít nhất con có thể nói rằng cơ thể vật lý là một thân mới mỗi lần con đầu thai, nhưng vẫn có một số khuôn nếp từ quá khứ định đoạt cơ thể vật lý của con sẽ như thế nào trong kiếp này, sẽ vận hành ra sao, và thậm chí có xu hướng mang bệnh tật gì.

Con thấy là khi con bước lùi lại và nhìn cuộc sống, con có thể nhận thấy một khi con ở bên trong bốn thể này, bốn bộ đồ lặn này, và một khi con đã lặn xuống dưới nước tức tâm thức tập thể hay trường năng lượng của trái đất, thì con không thể không cảm thấy bị gò ép. Đơn giản là không thể khác được. Con không thể đầu thai trên trái đất mà không cảm thấy áp lực khổng lồ này.

1.2. Nguyên nhân thật sự của khổ đau 

Đấy là ý nghĩa sâu sắc của Khổ đế, rằng cuộc sống là khổ đau. Vì vật chất dày đặc, tâm thức đại chúng dày đặc, vì những xung đột liên tục giữa người với người, nên cuộc sống trên một hành tinh như trái đất chính là khổ đau. Con không thể thoát khỏi khổ đau bởi vì đây là môi trường con sinh sống. Vậy thì con có thể làm gì? À, dĩ nhiên con có thể làm nhiều việc và các thày cũng đã trao truyền nhiều giáo lý, nhưng chúng ta hãy tập trung vào Tập đế – Chân lý thứ nhì của Tứ diệu đế. Đau khổ xuất phát từ cái thường được dịch là ham muốn sai lầm. Tuy nhiên, ý nghĩa sâu sắc hơn, hiểu biết cao hơn, là không có “sai” ngược lại với “đúng”.

Có một loại ham muốn đặc thù gây ra khổ đau, và tất nhiên điều này có thể giảng giải ở nhiều mức hiểu khác nhau. Ở đây thày không đang tìm cách bác bỏ cách phần lớn Phật tử đã diễn giải giáo lý của Phật trong suốt 2500 năm qua. Thày không cố nói là họ đã diễn giải sai. Nhưng con thấy đó, không chỉ trong đạo Phật mà trong hầu hết các tôn giáo khác và ngay cả trong các triết lý phi tôn giáo trên hành tinh này, con người có xu hướng định nghĩa cái đúng như là đối nghịch của cái sai.

Đây lẽ tất nhiên là bản chất của tâm thức nhị nguyên. Có hai đối cực, nhưng chúng không chỉ đối lập như trắng với đen chẳng hạn. Có một sự phán xét giá trị được gán ghép lên hai đối cực này, và điều này có nghĩa là người ta thấy một cực đúng và cực kia sai. Tương tự như vậy, nhiều Phật tử xuyên qua các thời đại đã nhìn những ham muốn theo cách này và đã tìm cách quy định bên này là những ham muốn sai mà Phật nói tới, và bên kia là những ham muốn đúng mà Phật nói tới. Nhưng cùng lắm, đây cũng chỉ là một mức hiểu nông cạn.

Cũng có thể nói, đây không phải là ý Phật muốn nói. Đây không phải là điều thày đã nói 2500 năm về trước vì thày đã trao truyền giáo lý về các “cặp đôi” trong kinh Pháp cú. Khi con nói đúng-sai, con đã tạo ra một cặp và chính điều này khiến con rơi vào bẫy của tâm thức nhị nguyên. Thật sự trạng thái tâm thức nhị nguyên này mới là nguyên nhân của khổ đau. Thày đang nói là con không thể đầu thai trên một hành tinh như trái đất mà không cảm thấy áp lực, nhưng áp lực đó là vì tâm thức đại chúng trên trái đất bị chi phối rất mạnh bởi nhị nguyên, bởi các cặp, bởi những đối cực nhị nguyên, bởi những phán xét giá trị: tốt xấu, đúng sai, vân vân.

Nhiều người trên thế giới sẽ không thể nắm bắt được điều này. Họ sẽ không thể nắm bắt nhị nguyên. Đây là lý do tại sao các thày tâm linh luôn phải đối mặt với một số giới hạn. Trở lại với hình ảnh một người mặc bộ đồ lặn, chúng ta có thể nói là con người trên trái đất cũng đang mặc một bộ đồ lặn nặng trịch như vậy, họ đang bị tất cả mọi thứ trì kéo xuống, vì vậy mà họ đang ở tận dưới đáy. Điều gì đang kéo họ xuống? Ấy, đó là cơ thể vật lý của họ, các khuôn nếp cảm xúc của họ, các tin tưởng lý trí của họ hay những con bò thiêng trong trí thể của họ, và ngay cả ý niệm bản sắc của họ. Chính những nội dung trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể là chì lặn của con, chúng kéo con xuống tận đáy đại dương.

1.3. Thách thức đặt ra cho các thày tâm linh 

Giờ đây chúng ta thấy con người trên trái đất, họ đang ở trong bộ đồ bốn thể phàm rất gò bó đang trì kéo họ xuống đáy đại dương. Tùy vào độ trong của nước nơi họ sống, họ chỉ nhìn được bao xa. Nhưng là thày tâm linh, các thày đã giải phóng mình khỏi sức nặng này, giải phóng mình khỏi các bộ đồ lặn, các thày đã lên khỏi mặt nước và hòa mình vào ánh sáng mặt trời trong veo nhờ đó nhìn được rất rất xa, và giờ đây các thày đang cố gắng liên lạc với những người trong bộ đồ lặn nặng trịch kia còn ở tít dưới đáy biển và không làm sao nhìn xa hơn mũi mình ba mét.

Khi con bước lùi lại và bằng trí năng bước ra ngoài bộ đồ lặn thì con có thể nhận ra vấn đề. Các thày, những vị thày tâm linh, đang trải nghiệm một thực tại hoàn toàn khác với những gì hầu hết mọi người trải nghiệm ở đáy biển. Các thày đang nỗ lực cho mọi người biết có một chọn lựa khác hơn những gì các con đang kinh qua. Có một góc nhìn khác, một cách khác để nhìn cuộc sống, và các thày đang cố truyền đạt là trước tiên, con nên mong muốn có được tầm nhìn rộng lớn hơn này. Các thày cũng cố nói là mặc dù con không thể đạt được tầm nhìn trọn vẹn như các thày ở ngoài hiện thân, nhưng con có khả năng đạt được tối thiểu một tầm nhìn rộng hơn trong khi còn đang đầu thai. 

Nhưng liệu có bao nhiêu người có khả năng trụ vững vào đó? Có bao nhiêu người nắm được có một cách nhìn đời khác với cách họ đã được dạy dỗ trong kiếp này, khác với những điều họ đã khoác vào trong nhiều kiếp trước? Bao nhiêu người có thể nắm bắt được điều này?

Điều đã xảy ra với triết lý đạo Phật và nhiều giáo lý tâm linh hay tôn giáo khác, là tất nhiên các triết lý này được trao truyền từ một tầm nhìn cao hơn, một tầm nhìn rộng hơn so với hầu hết mọi người trên trái đất. Nhưng con người thì không thể nâng tâm thức mình lên để có tầm nhìn này, và tất nhiên một vị thày tâm linh không mong đợi như vậy. Nếu là một vị thày tâm linh, con mong đợi mọi người sẽ theo con đường tuần tự từ mức nhận biết hiện thời, tầm nhìn hiện thời của họ, rồi từng bước một mở rộng sự nhận biết, mở rộng tầm nhìn và ít ra cũng đến gần hơn với tầm nhìn của vị thày. Tuy vậy, điều không thể tránh xảy ra và đã xảy ra với tất cả các tôn giáo và các triết lý tâm linh, là có những người bị thu hút bởi triết lý và vì vậy họ phải – và họ không thể làm được gì khác – tiếp cận triết lý này ở tầng nhận thức hiện thời của họ. Có nghĩa không thể tránh việc họ phóng chiếu điều gì đó lên giáo lý tâm linh. Cũng có thể nói, vì họ tiếp cận giáo lý từ bên ngoài cho nên để giáo lý tới được tâm ý thức của họ, nó phải đi qua phin lọc của cảm thể, trí thể và bản sắc thể, thậm chí qua cả thể vật lý và bộ não của họ.

Con có thể nói con đang mặc bốn bộ đồ lặn và ở ngay chính giữa những bộ đồ này là con, tức cốt lõi của bản thể con như một sinh thể tự nhận biết. Nhưng con không thể nhìn thế giới một cách trực tiếp như nó là, con chỉ có thể thấy qua bốn bộ đồ lặn, tức bốn thể phàm tạo thành một phin lọc. Vì thế một lời dạy tâm linh là một xung lực đến với con từ bên ngoài, và để có thể chạm được con như một sinh thể có nhận biết, một sinh thể có khả năng suy nghĩ, khả năng đưa ra quyết định, thì lời dạy này phải đi qua phin lọc của bốn thể, tức bốn tầng của tâm.

1.4. Làm thế nào một giáo lý tâm linh có hiệu quả được?

Tùy vào những gì có mặt trong bốn thể của con trước khi giáo lý tâm linh chạm được con, những thứ này sẽ lọc lựa và pha màu giáo lý. Câu hỏi là: “Làm thế nào một giáo lý tâm linh có hiệu quả được?” À, nó chỉ có thể hiệu quả nếu con, cái ta mà con là, hiểu được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý. Vậy mục đích trao truyền một giáo lý tâm linh là gì? Mục đích là cho con thấy có một cách vượt ngoài tâm con, con thấy con có khả năng vượt khỏi tầm nhìn hiện tại của con, mức nhận thức hiện nay của con, và giáo lý này nhằm cho con một công cụ để đi muốt chặng đường này, là quá trình vượt khỏi nhận thức hiện nay của con về thế giới, phin lọc nhận thức hiện nay của con, cách nhìn đời hiện nay của con.

Nếu một người không hiểu điều này thì chuyện gì sẽ xảy ra? À, họ sẽ nắm lấy giáo lý rồi áp chồng lên đó những gì họ đang có trong ba thể cao của họ. Họ sẽ chồng lên giáo lý các khuôn nếp cảm xúc, khuôn nếp lý trí và một ý niệm bản sắc nào đó. Một hệ quả tiêu biểu của sự thể này là có nhiều người trên thế giới khao khát cảm thấy cao trội hơn người. Họ thường chụp lấy một giáo lý và dùng bất kỳ lời dạy nào trong đó để xây dựng một lớp phủ lên giáo lý, để khiến cho những ai theo giáo lý này, những ai sống theo đủ bộ các yêu cầu vỏ ngoài này, những ai tuân thủ các quy tắc và công phu tu tập, cảm thấy như thể mình cao trội hơn những kẻ không theo giáo lý.

Con thấy trong hầu hết mọi tôn giáo trên trái đất đều có những người cảm thấy họ cao trội hơn kẻ ngoại đạo. Rất rất nhiều Phật tử cảm thấy như vậy. Tất nhiên nhiều người Cơ đốc giáo, người theo Ấn giáo, Hồi giáo, hay bất cứ tôn giáo nào khác cũng có cảm nhận như vậy. Và đây chỉ là một ví dụ cho thấy, khi con không nắm được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý tâm linh thì con sẽ áp chồng lên đó những nội dung của tâm tình cảm, lý trí và bản sắc của mình ở mức tiềm thức. Trong cốt lõi, con đang kéo giáo lý vào bộ đồ lặn của con.

Thày đã nói khi con mặc một trong những bộ đồ lặn này, con cần một cái vòi bơm không khí vào mũ bảo hiểm, nhưng con cũng có một sợi dây cột con với mặt nước phía trên. Một giáo lý tâm linh là gì? À, giáo lý là sợi dây. Câu hỏi là con định làm gì với sợi dây đó? Con có thể thấy rất rất nhiều người khắp thế giới không hề biết là có sợi dây này. Họ đơn giản chỉ lang thang ở đáy biển tìm kiếm một thứ gì đấy với tầm nhìn rất hạn hẹp. Nhưng với những ai đã tìm thấy một giáo lý tâm linh thì họ nhận ra: “Ồ, đây là sợi dây tôi có thể nắm lấy.” Nhưng câu hỏi giờ đây là liệu họ có hiểu mục đích của sợi dây không? Liệu họ sẽ nói: “Ô, chắc phải có gì đó ở cuối sợi dây này, và nếu tôi lần theo nó mà leo lên thì liệu tôi có tìm thấy gì đó ở đầu bên kia không?”

Và dĩ nhiên đây là mục đích của sợi dây. Con lần theo dây để leo lên, nhưng những ai không hiểu cách vận hành cơ yếu của một giáo lý tâm linh sẽ làm chuyện khác. Họ sẽ kéo sợi dây về phía họ cho đến khi cả sợi dây rơi xuống tầng cấp của họ, rồi họ quấn sợi dây xung quanh mình để giờ đây sau khi tiếp cận một giáo lý tâm linh hay một tôn giáo, họ lại càng bị bó chặt hơn trong bộ đồ lặn ban đầu. Sợi dây đáng lẽ dùng để giải thoát họ, nay lại được họ dùng để quấn chặt hơn nữa xung quanh người họ, bởi vì giờ đây tất cả những ý tưởng về một người Phật tử, một tín đồ Hồi giáo hay một tín đồ Cơ đốc giáo cần phải hành xử ra sao, phải cảm thấy thế nào, phải suy nghĩ kiểu gì hay xác định mình là ai, khiến họ gần như không thể nhúc nhích.

1.5. Mong muốn thoát khỏi áp lực 

Đây là tình trạng trên trái đất và điều này đưa chúng ta quay trở lại với những mong muốn đúng đắn. Mong muốn sai lầm gây khổ đau, vì vậy những ai kéo sợi dây về phía mình sẽ suy luận rằng nếu họ xác định được mong muốn nào là đúng và trau dồi những mong muốn này thì chắc chắn họ sẽ thoát khổ. Nhưng làm vậy sẽ không đem lại kết quả. Rất rất nhiều người, không chỉ các Phật tử mà cả những người theo các tôn giáo hay giáo lý tâm linh khác, đã chứng minh là điều này không đem lại kết quả, nhưng con không thể giải thích được cho họ khi họ không hiểu được mục đích của một giáo lý là để giúp họ thấy một điều gì mà hiện giờ họ không thể thấy, giúp họ thấy một điều gì vượt ngoài trạng thái tâm hiện nay của họ.

Sự khác biệt giữa người giác ngộ và chưa giác ngộ là gì? Chỉ khác một điều duy nhất, đó là trạng thái tâm. Để đi về phía giác ngộ – và Bát chánh đạo được định nghĩa là một quá trình đi về phía giác ngộ – con phải bắt đầu ở tầng mức của mình. Con không thể nhảy một bước vĩ đại, hay ít ra hầu hết mọi người không thể nhảy một bước vĩ đại. Bát chánh đạo là một quá trình tuần tự, đi từng bước có hệ thống, qua đó một người có thể tiến đến giác ngộ. Có nhiều điều cần nói về đề tài này và thày sẽ trở lại sau. Nhưng điều căn bản của Bát chánh đạo là có một quá trình dẫn con đi từ nơi này đến nơi kia.

Nơi kia là gì? Ấy, đó là nơi, như thày đã nói, con giải phóng chính mình khỏi tầm nhìn hạn hẹp hiện nay và đạt được viễn kiến rộng hơn, một trạng thái tâm khác hơn. Hay nói cách khác từ một nhãn quan cụ thể, sự khác biệt giữa người chưa giác ngộ và người đã giác ngộ là mức nhận biết. Và con có thể định ra một con đường tuần tự đưa con từ mức nhận biết hiện thời lên đến những mức nhận biết ngày càng cao hơn, cho đến khi con đạt đến trạng thái tự do khỏi hầu hết các giới hạn chung của con người.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể định nghĩa điều gây ra đau khổ là những mong muốn, nhưng đó là loại mong muốn nào? Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn. Hầu hết mọi người đều cảm thấy bị hạn chế vì tất cả đều đang mặc bộ đồ lặn. Mọi người cảm thấy bị cản trở bởi một loạt các giới hạn đối với những gì mình có thể làm hay không thể làm. Họ thường cảm thấy là hoàn cảnh bắt buộc họ phải làm nhiều chuyện.

Ở tầng cấp cơ bản nhất, con phải nuôi sống cơ thể vật lý. Và nếu con không phải là Thái tử Tất đạt đa lớn lên trong cung điện xa hoa được cung cấp mọi thứ cần thiết, thường thường con sẽ phải làm lụng vất vả để nuôi sống cơ thể vật lý, thì ngay ở điểm này nhiều người cảm thấy bị áp lực. Nhưng cũng có nhiều thứ khác mà con người cảm thấy bắt buộc phải làm. Nhiều áp lực đè nặng lên cảm thể. Nhiều khuôn nếp trong tâm lý trí khiến người ta cảm thấy bó buộc phải đương đầu với một số ý tưởng nào đó. Và tất nhiên nơi bản sắc thể, con bị áp lực phải xem mình thuộc thành phần của nhóm người này hay nhóm người kia. Và có lẽ ngay cả khi con thuộc về nhóm này thì cũng có nghĩa con phải chống lại nhóm kia, con phải đánh nhau với họ, tranh đấu với họ. Có thể nói là nhiều người cảm thấy bị áp lực không ngừng. Vậy họ mong muốn điều gì? Họ khao khát điều gì? À, họ mong muốn rũ bỏ áp lực, hay ít nhất tìm cách giảm nhẹ áp lực. Con có rất rất nhiều mong muốn liên quan đến những áp lực mà ai ai cũng đều cảm thấy trong hoàn cảnh hiện tại của mình, dù áp lực đó là gì tùy theo nơi mình lớn lên.

Con có một loạt những mong muốn, con muốn thoát khỏi một số giới hạn, con muốn giảm bớt một số áp lực. Câu hỏi là: “Những mong muốn như vậy có thể nào toại nguyện được không?” Và câu trả lời tất nhiên là: có và không. Nhiều người đã giảm bớt được phần nào áp lực đời sống. Chẳng hạn có nhiều người ở một số nơi trên thế giới được đi học, có công ăn việc làm với thu nhập ổn định đều đặn, nên họ không phải lo lắng về các nhu cầu cuộc sống. Những nhu cầu này đã được chu toàn, nhưng có nghĩa chăng là họ đã tự do khỏi áp lực? Họ đã thoát khỏi một số áp lực nhưng chắc chắn nhiều người vẫn bị đè nặng bởi những áp lực khác.

Nhìn chung, con thấy con có thể tự do phần nào khỏi một số áp lực của cuộc sống, nhưng thật là vô cùng khó khăn để tự do khỏi tất cả mọi áp lực. Tại sao lại như vậy? Ấy, đó là vì con đang tìm kiếm tự do khỏi áp lực, nhưng áp lực này nằm ở đâu? Con trải nghiệm áp lực này ở đâu? Có thể con sẽ nói: “Tôi đang mặc bộ đồ lặn này ở dưới nước và sức nặng của nước tạo một áp lực lên tôi, chính việc tôi đang đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất cùng với tâm thức tập thể cũng dày đặc khiến cho một áp lực bên ngoài tác động lên tôi.” Cũng đúng, quả là có một áp lực bên ngoài.

1.6. Cái hiểu cốt yếu trong một giáo lý tâm linh 

Nhưng cái hiểu cốt yếu trong một giáo lý tâm linh là có sự khác biệt giữa áp lực bên ngoài và việc trải nghiệm áp lực này bên trong. Một lần nữa, suốt các thời đại nhiều người đã không nắm được điểm này. Họ đã học một giáo lý tâm linh truyền đạt những ý tưởng này dưới một dạng thích hợp với thời đại và nền văn hóa nơi các ý này được trao truyền. Nhưng họ đã không nắm được sự khác biệt giữa áp lực bên ngoài và việc trải nghiệm áp lực này bên trong. Có nghĩa là gì?

Đây, con đang cảm nhận áp lực từ thế giới. Xong con tìm thấy một giáo lý tâm linh, và một lần nữa đây lại là một trong những tình thế khó xử cho các vị thày tâm linh. Các thày đã vượt lên trên áp lực. Các thày không có cảm giác áp lực. Các thày trải nghiệm quá nhiều tự do hơn, quá nhiều hỉ lạc hơn chính vì không cảm thấy áp lực đó. Các thày thấy rõ áp lực con đang hứng chịu. Nhưng các thày cũng thấy nhiều người bị áp lực đè nặng đến độ họ không thể nghĩ xa được. Các thày cần cho họ một chút động lực để ít ra còn khích lệ họ học giáo lý tâm linh đang được trao truyền, cũng như tham gia vào quá trình theo học và áp dụng giáo lý.

Điều gì sẽ thúc đẩy được những người đang chịu áp lực to lớn như vậy? Ấy, đó là họ muốn thoát khỏi áp lực. Một giáo lý tâm linh phải ngầm cam kết là con có thể được giải thoát khỏi áp lực. Tất nhiên lời cam kết này đúng sự thật – và đồng thời nó cũng không thật. Vì nếu con lấy một giáo lý tâm linh, và như thày đã nói, con kéo sợi dây xuống rồi con quấn nó quanh mình, thì cam kết này không thật vì giáo lý sẽ không giúp con được tự do khỏi áp lực. Tại sao vậy? Là vì áp lực mà con trải nghiệm không đến từ bên ngoài.

Thày đã nói gì trước đó? Bất kỳ xung lực nào phóng tới con đều phải đi xuyên qua cảm thể, trí thể và bản sắc thể trước khi chạm được vào con, tức sinh thể có ý thức bên trong bốn bộ đồ lặn. Áp lực cũng giống như vậy. Có một áp lực từ thế giới ngoài kia, từ tâm thức đại chúng. Không thể chối cãi điều này. Thày không hề nói là không có áp lực nào lên con. Nhưng việc trải nghiệm áp lực này diễn ra trong tâm con, và vấn đề là con có những khuôn nếp cảm xúc gì, những tư tưởng gì, niềm tin gì và ý niệm bản sắc gì. Đây là những thứ tạo ra trải nghiệm áp lực cho con. Áp lực có đó, nhưng chính việc con trải nghiệm áp lực như thế nào mới tác động đến con.

1.7. Làm thế nào sử dụng một giáo lý tâm linh 

Một lần nữa, con đang ở đây, con đang đầu thai trên một hành tinh rất khó khăn. Con tìm ra một giáo lý tâm linh. Vậy làm sao con sử dụng giáo lý này? Giả dụ như mục tiêu của con là giảm bớt phần nào áp lực mà con đang cảm thấy. Và bấy giờ con nói: “Đây là giáo lý đã hứa tôi có thể tìm thấy tâm an bình, hay giác ngộ, hay niết bàn.” Nhưng làm sao điều này xảy ra? Có phải bằng cách tìm ra một giáo lý tâm linh nào đó rồi quyết định theo học, thì con có thể loại bỏ những áp lực bên ngoài đang đè nặng lên con không? À tất nhiên là không. Bởi vì áp lực bên ngoài một phần do độ dày đặc của vật chất, phần còn lại do độ dày đặc của tâm thức đại chúng dính liền với tất cả mọi người trên hành tinh này.

Làm sao việc con tìm ra và đi theo một giáo lý tâm linh có thể thay đổi được điều kiện bên ngoài đó? Làm sao con thay đổi được độ dày đặc của vật chất và tâm thức đại chúng khi con ngồi trong một tu viện Phật giáo, chân xếp bằng, tụng niệm hay nghiên cứu kinh điển? Một giáo lý tâm linh được trao truyền từ những sinh thể đã tự do khỏi áp lực, khỏi bộ đồ lặn, chưa bao giờ đưa ra những cam kết như vậy. Những ai đã đạt được tự do sẽ không bao giờ cam kết như vậy. Chọn lựa còn lại là gì? Đó là việc đi theo một giáo lý tâm linh sẽ không loại bỏ được áp lực, nhưng nó sẽ thay đổi cách con trải nghiệm áp lực. Một giáo lý tâm linh không thể làm gì khác. Nó chỉ có thể thay đổi kinh nghiệm bên trong của con, nó không thể thay đổi hoàn cảnh bên ngoài.

Dĩ nhiên đây là một lời phát biểu cần được giải thích thêm vì mọi sự đều là sự trải bày của lý duyên khởi mà thày sẽ trình bày sau. Và do đó, bằng cách thay đổi tâm thức của mình thì hoàn cảnh bên ngoài cũng sẽ thay đổi. Nhưng ngay bây giờ, chúng ta cần nhận ra là cho dù con có thay đổi tâm thức nhiều thế nào đi nữa, con cũng sẽ không thay đổi được nền tảng cơ bản của vật chất dày đặc và tâm thức đại chúng dày đặc. Con không thể mong thay đổi toàn bộ áp lực này. Nhưng bằng việc đi theo một giáo lý tâm linh, con có thể mong thay đổi cách mà áp lực này ảnh hưởng đến con, cách con trải nghiệm cuộc sống trên trái đất. Và đây là cốt lõi của bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Đây là sự thật của bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Mục tiêu chủ yếu của bất kỳ giáo lý tâm linh nào là giúp con nhận diện cái chì lặn đang trì kéo bộ đồ lặn của con ở những tầng tình cảm, lý trí và bản sắc, giúp con thấy những chì lặn này, đem chúng vào nhận biết ý thức và nói: “Tôi có muốn tiếp tục kéo lê những thứ này với tôi không?” Và nếu con trả lời “không” thì con buông chúng ra.

1.8. Mong muốn bất khả thi 

Thế nào là mong muốn mang tính xây dựng và mong muốn không mang tính xây dựng? Ấy, mong muốn dựa trên tầng nhận biết hiện tại của con và mong muốn thoát khỏi áp lực con đang cảm thấy, là một mong muốn không mang tính xây dựng vì nó trói buộc con vào tầng nhận biết hiện tại. Mong muốn này đi ngược lại hướng tăng triển vươn lên những tầng nhận biết cao hơn. Làm sao có thể khác được? Chừng nào con còn chì lặn trong bộ đồ lặn, trong cái đai của bộ đồ lặn, thì chúng sẽ kéo con xuống do tác động của trọng lực. Trọng lực của tâm thức đại chúng sẽ kéo con xuống. Không có cách nào khác, đơn giản đây là vật lý học cơ bản, là định luật cơ bản của tự nhiên. Duy có điều đây là vật lý học vượt khỏi tầng cấp vật chất nhưng bao gồm mọi tầng của thế giới vật chất là tình cảm, lý trí và bản sắc.

Những gì giống nhau sẽ thu hút nhau. Có một trọng lực, và lực này sẽ thu hút mọi thứ con đang có trong tâm tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Không có cách nào khác. Hầu hết mọi người khi lần đầu tiên tìm thấy một giáo lý tâm linh thì họ mong muốn làm gì? Họ mong muốn thoát khỏi áp lực bằng cách dùng những thành phần sẵn có trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Hay nói cách khác, thày đã nói gì chứ? Trải nghiệm áp lực của con được định đoạt bởi những gì có mặt trong ba thể của con, ba tầng của tâm con. Chính những nội dung này khiến con trải nghiệm áp lực theo cách con đang trải nghiệm.

Giờ đây con tìm ra một giáo lý tâm linh hứa rằng con có thể thoát khỏi áp lực này. Và con nghĩ chỉ cần học giáo lý vỏ ngoài và thực hành vỏ ngoài là con có thể thoát khỏi áp lực mà không cần làm việc với nội dung trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Hay nói cách khác, con có thể thoát khỏi trải nghiệm mà không cần làm bất cứ gì với chính những điều kiện đã tạo ra trải nghiệm đó.

Điều này không thể làm được, chưa bao giờ làm được. Không có đường tắt nào sẽ giúp con làm được. Đó là một mong muốn bất khả thi. Vì vậy từ một nhãn quan nào đó, chúng ta có thể nói đây là một mong muốn sai lầm. Chắc chắn đây là ý thày muốn nói trong lời dạy 2500 năm về trước. Con phải trong lọc mong muốn của con để không chờ đợi những kiểu đường tắt nhằm thoát khỏi khổ đau, thoát khỏi áp lực, nhưng lại không chịu xem xét bản thân mình và tâm của mình. Nhìn ra những điều kiện trong tâm đang tạo ra trải nghiệm áp lực nơi con – đây là cách thực tế duy nhất để nhìn một giáo lý tâm linh.

1.9. Nhu cầu duy trì sự liên tục 

Bây giờ điều gì ngăn cản con người nắm bắt được sự thật đó, là điều mà Tập đế, Chân lý thứ nhì, muốn nói lên về các mong muốn? Ấy, đó là nội dung của Diệt đế – Chân lý thứ ba của Tứ đế – là các dính mắc. Mọi người đều có một nhu cầu thường không được xã hội, hay ngay cả ngành tâm lý hiện đại công nhận. Chúng ta có thể gọi đó là nhu cầu an toàn, nhu cầu bình an, nhưng sẽ xây dựng hơn nếu gọi đó là nhu cầu duy trì sự liên tục.

Nhu cầu này phát xuất từ phản ứng của con đối với áp lực, những áp lực bên ngoài. Nếu con nhìn từ một nhãn quan nào đó, con có thể nói tất cả nhân loại đều có khả năng bị cái gọi là suy sụp tinh thần. Ngày càng có nhiều người đang phải chịu khủng hoảng tinh thần, ngay cả những người trong thế giới hiện đại không gặp khó khăn vật chất. Mọi việc trở nên quá sức, quá tải, và họ không thể đương đầu với cuộc sống. Họ không thể sinh hoạt theo một cách được xem là bình thường trong xã hội. Đằng sau tình trạng này là gì? À, đằng sau đó là một sự việc rất đơn giản, con sống trên một hành tinh nơi con phải tiếp xúc với một áp lực quá lớn ở thể vật lý, thể tình cảm, thể lý trí, thể bản sắc đến mức không ai có thể đương nổi.

Con không thể sống sót về mặt tinh thần, tâm lý, dưới áp lực của hành tinh này nếu con không tìm ra cách bảo vệ mình trước áp lực. Hay nói cách khác, áp lực quá lớn đến mức không chịu nổi. Vậy tại sao nhiều người vẫn tìm được cách sống tương đối bình thường? Là vì con cũng có khả năng phần nào dẹp bỏ áp lực. Đây là điều thày muốn nói khi đề cập đến một số thành phần trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể hoạt động như một phin lọc giữa con và thế giới xung quanh. Con dựng lên các phin lọc này để có thể bóp nghẹt, kìm nén một số cảm xúc, kìm nén một số ý nghĩ, kìm nén một số áp lực ở bản sắc của con, và nhờ vậy con không bị quá tải để có thể sinh hoạt.

Chúng ta có thể nói là đại đa số con người đã xây dựng một cảm giác cân bằng cho phép họ sinh hoạt bình thường. Tuy nhiên, việc liên tục chịu áp lực khiến luôn luôn có nguy cơ xảy ra điều gì đó phá vỡ thế cân bằng khiến người ta trở nên choáng ngợp, mọi chuyện trở nên quá sức chịu đựng. Chính cơ chế cần phải duy trì trạng thái cân bằng này là lý do khiến người ta dính mắc. Con bị dính mắc vào một số khuôn nếp cảm xúc vì mặc dù con không ý thức được điều này nhưng con vẫn cảm thấy chúng bảo vệ con khỏi những cảm xúc choáng ngợp. Các khuôn nếp lý trí cũng tương tự như vậy. Chẳng hạn có nhiều người sùng đạo rất dính mắc với một số khuôn nếp ngăn chặn họ nghi ngờ tôn giáo của họ. Đây là nguyên nhân của dính mắc.

Thày đã không thể trao truyền lời dạy này cách đây 2500 năm vì tâm thức đại chúng thời đó thấp hơn bây giờ rất nhiều, và rất ít người, hầu như không một ai hiểu được điều này. Nhờ những tiến bộ ở nhiều lĩnh vực trong thế giới hiện đại, trong ngành tâm lý học nhưng không chỉ trong ngành tâm lý học, mà giờ đây thày trao truyền được một lời dạy sâu sắc hơn. Về căn bản, chúng ta có thể nói là để sống sót về mặt tâm lý trên hành tinh này, hầu hết mọi người đều đã dựng lên những thành lũy bảo vệ mình khỏi sự quá tải. Nhưng tuyến phòng thủ này cũng ngăn con vượt ra ngoài mức nhận biết hiện thời của con. Có thể nói là bộ đồ lặn giữ cho con được khô ráo và các chì lặn giữ cho con thẳng đứng, nhưng chúng cũng giam hãm con trong bộ đồ lặn và khiến con chìm xuống tận đáy biển. Vì thế đây là một trong những nghịch lý, nan đề, bí ẩn về con đường tâm linh. Để thay đổi trải nghiệm sống hiện nay của mình, con cần xem xét chính những điều vừa bảo vệ con lại vừa giới hạn con, và đây chính là điều mà Bát chánh đạo được thiết lập để giúp đỡ mọi người. Tất nhiên, Bát chánh đạo không phải là phương pháp duy nhất. Có nhiều phương pháp giá trị khác mô tả quá trình này, nhưng nỗ lực của thày ở đây là chia nhỏ tối đa quá trình này ra và khiến nó trở nên phổ quát nhất có thể.

1.10. Hiểu mục đích của Bát chánh đạo

Chúng ta hãy tóm tắt. Khổ đau là do những áp lực con gặp phải. Từ đó con mong muốn thoát khỏi áp lực, mong muốn giảm bớt áp lực. Đây là những mong muốn sẽ không giải thoát con khỏi áp lực nếu con muốn thoát khỏi áp lực nhưng lại không nhìn vào nguyên nhân gây ra áp lực. Nguyên nhân chính là những điều kiện bên trong con, cho nên những mong muốn này không thể giải thoát con. Khi con dấn thân vào quá trình thật sự của đường tu tâm linh, dù con gọi là Bát chánh đạo hay gì khác, thì nó cũng đòi hỏi con xem xét những cơ chế một đằng sẽ bảo vệ con khỏi bị choáng ngợp bởi áp lực, nhưng đằng khác lại giữ con trong áp lực một cách vô hạn định. Con được bảo vệ bởi bộ đồ lặn, nhưng con cũng không bao giờ ra khỏi bộ đồ lặn trừ khi con chịu nhìn vào cái gì đang trì kéo con xuống.

Đây là mục đích thật sự của Bát chánh đạo. Đây không phải là một giải pháp vỏ ngoài nhằm thay đổi những điều kiện vỏ ngoài để giờ đây không còn những điều kiện gây áp lực hay đau khổ cho con. Bát chánh đạo không thiết kế một quá trình thần thông để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài. Nó thiết kế một quá trình tuần tự có hệ thống để thay đổi những điều kiện bên trong con, từ đó con thay đổi cách trải nghiệm những điều kiện bên ngoài.

Đây là cốt lõi không chỉ của đạo Phật mà của mọi triết lý tâm linh mang tính xây dựng khác. Những ai nắm được điều này sẽ tiến bộ khi áp dụng Bát chánh đạo, hay bất kỳ tên gọi nào để chỉ đường tu. Những ai không nắm được thật ra sẽ chỉ dùng giáo lý tâm linh để trói mình chặt hơn vào tầng mức nhận biết hiện thời của mình. Họ sẽ chỉ củng cố phin lọc nhận thức của họ, và trong quan hệ với mọi người, họ cảm thấy mình rất đặc biệt so với những ai không theo giáo lý của mình, mình cao trội vì mình đã đạt đến mức hiểu biết cao siêu – hiểu biết trí thức – về giáo lý. Họ cũng đã thực hành miên mật quá nhiều năm đến mức họ cảm thấy chắc chắn mình đã gặt hái được vài tiến bộ.

Giờ đây chúng ta cần đặt ra một câu hỏi. Liệu có thể tìm thấy một giáo lý tâm linh có giá trị, rồi theo học và miên mật thực hành những gì giáo lý yêu cầu mà không tiến bộ chăng? Câu trả lời tất nhiên là có thể. Trước hết chúng ta hãy nhìn vào ba thể. Ở cảm thể, con có những khuôn nếp cảm xúc khiến con phản ứng một cách nào đó trong một số tình huống nhất định. Đây là chì lặn con có trong cảm thể. Con có đủ loại chì lặn với đủ loại khuôn nếp phản ứng khác nhau. Đâu là cách để con được tự do và đi lên những tầng nhận biết cao hơn? Đó là nhìn vào những chì lặn này, xem xét chúng, xem tại sao con phản ứng theo cách này, đằng sau những phản ứng này là gì, là những tin tưởng gì, rồi con bỏ chúng đi một cách ý thức. Đây là cách con bỏ một cục chì lặn khỏi thắt lưng và thả nó xuống đáy đại dương. Con nhẹ hơn và do đó con dễ dàng bước thêm một bước trên con đường tuần tự.

Chúng ta cũng có thể nói là con đang chìm dưới nước trong bộ đồ lặn nhưng rồi con bắt gặp một cái thang. Con bám vào thang, và khi con ném bỏ một chì lặn thì con bước lên được một bực thang. Nhưng cho tới khi con vứt chì lặn đó đi thì con tha hồ nắm chặt lấy thang mà vẫn không bước lên được bực kế tiếp. Đây thật sự là cách tăng triển – xem xét chính mình, xem xét các khuôn nếp cảm xúc và buông bỏ chúng. Nhưng thày vừa nói gì hồi nãy? Con người chịu quá nhiều áp lực đến mức chức năng tâm lý của họ không thể hoạt động. Họ đã học cách tạo ra một cơ chế đè nén một số cảm xúc. Rất rất nhiều người, không chỉ trong đạo Phật mà cả những truyền thống tâm linh và tôn giáo khác, đã dùng giáo lý tâm linh để củng cố cơ chế đè nén một số cảm xúc.

Trong hầu hết các phong trào tâm linh, con sẽ thấy có những người đi theo phong trào từ rất lâu, họ rất chăm chỉ thực hành bất cứ pháp hành nào được quy định, họ toát ra sự điềm tĩnh khi đi đứng. Họ đi chậm rãi, cử động, nói năng theo một cách nào đó. Dường như cảm xúc của họ luôn luôn được kiểm soát, luôn phải điềm tĩnh. Nhưng trong nhiều trường hợp, đơn giản là họ đã dùng giáo lý để củng cố hoặc dựng lên những cơ chế mới nhằm đè nén cảm xúc, và điều này không đưa đến tăng triển. Có thể con sẽ nói: “Nhưng những người này đang kinh nghiệm cuộc sống khác với trước khi họ tìm ra giáo lý, vậy phải chăng họ chưa tiến bộ gì trong việc thay đổi trải nghiệm nội tâm? Thày vừa nói khía cạnh chính của cuộc sống trên trái đất là những trải nghiệm nội tâm, kinh nghiệm cuộc sống. Và những người này rõ ràng đã thay đổi.”

À đúng vậy, nhưng điều thày đang nói ở đây là có hai cách để thay đổi kinh nghiệm sống. Con có thể đè nén hay con có thể làm tan biến. Con có thể đè nén cảm xúc và đạt được một trạng thái tĩnh lặng và an bình nội tâm nào đó, nhưng điều này thật mong manh và có thể dễ dàng bị xáo trộn. Đây là lý do con thấy trong nhiều truyền thống tôn giáo và tâm linh, người ta tự cách ly và cô lập khỏi thế giới bằng cách sống trong tu viện chẳng hạn, hay trong một số cộng đồng hoặc bất kỳ nơi nào khác. Họ có thể duy trì cảm giác an bình nội tâm mong manh vì họ hiếm khi bị môi trường bên ngoài quấy rầy, họ hiếm khi bị thách thức. Điều này không dẫn con lên những bước kế tiếp trên bậc thang, và khi những điều kiện bên ngoài thay đổi thì con có thể dễ dàng bị xáo trộn.

Rất rất nhiều người, không chỉ người tâm linh mà rất nhiều người khác đã trải qua những năm tháng vừa rồi, bắt đầu với đại dịch, bây giờ là chiến tranh ở Ukraine rồi sau đó là khủng hoảng kinh tế, thì trạng thái cân bằng của họ đã bị xáo trộn. Thật là dễ hiểu. Thày đang giản dị chỉ ra là nếu trạng thái cân bằng của con có thể bị xáo trộn bởi ngoại cảnh thì có nghĩa là có điều gì đó con chưa giải quyết, và điều này xuất phát từ cơ chế thày đã mô tả. Con mang một điều gì kềm chế mà con chưa giải quyết, vì con vẫn dính mắc vào việc duy trì trạng thái cân bằng này.

1.11. Con phải sẵn lòng bị xao động

Điều này nghĩa là gì? Rất giản dị, để thật sự nắm bắt con đường tâm linh là gì, để thật sự neo trụ vào con đường này, con phải sẵn lòng bị xao động. Thày không nói là con phải sẵn lòng trải qua sự suy sụp tinh thần hay bị choáng ngợp, vì Bát chánh đạo và bất kỳ con đường tâm linh nào khác cũng được thiết kế như một con đường tuần tự. Nó sẽ đưa con lên từng nấc thang một mà không khiến con bị quá tải. Nhưng con phải chịu bị xao động một chút, và đây chính là điều mà rất rất nhiều người không nắm được tầm quan trọng.

Nếu con nhìn vào đời mình và đường tu của mình, con có thể thấy nhiều người khi lần đầu tìm thấy một giáo lý tâm linh đều có khao khát đạt được an bình nội tâm. Đây không phải là một khao khát không chính đáng, nhưng nó lại khiến cho nhiều người sử dụng giáo lý tâm linh nhằm tạo ra một số ranh giới bao quanh tâm mình, họ nghĩ họ có thể đạt được an bình nội tâm bằng cách đè nén cảm xúc thay vì nhìn vào cảm xúc và giải thể chúng, làm tan khuôn nếp của chúng.

Tại sao con phản ứng tức giận trong một số tình huống? Tức giận là một cảm xúc. Nó là một loại năng lượng, nhưng như thày đã giải thích, cảm thể là tầng thấp nhất của tâm con. Bên trên cảm thể là trí thể và trên cùng là bản sắc thể. Năng lượng chảy vào tâm từ cái ta cao của con. Đầu tiên, năng lượng đi vào bản sắc, đến lý trí, rồi đến cảm xúc. Cảm xúc của con không thể đột ngột xuất hiện trong cảm thể. Nó đến từ một số khuôn nếp tư tưởng trong trí thể và thậm chí từ một ý niệm bản sắc trong bản sắc thể. Chính điều này cho con cảm nhận cân bằng hiện thời.

Một lần nữa, thày không đang cố tìm lỗi ở đây. Con không thể làm gì khác được trên một hành tinh như trái đất. Con cần có một ý niệm bản sắc nào đó. Con cần có những khuôn nếp lý trí và cảm xúc nào đó để đối phó với ngoại cảnh. Nhưng để đi đến sáng ngộ, hay có thể gọi là một trạng thái tâm thức cao hơn, thì con phải sẵn lòng xem xét những khuôn nếp này và nói: “Tại sao tôi lại đáp trả bằng cơn giận?” À đó là vì con có một chờ đợi những gì phải xảy ra hay không được xảy ra trong hoàn cảnh bên ngoài. Chờ đợi đó đã không được đáp ứng. Nhưng thật sự không phải vì sự chờ đợi không được đáp ứng mà cơn giận nảy sinh. Đó là vì khi sự chờ đợi không được đáp ứng thì trạng thái cân bằng của con bị xáo trộn. Trạng thái cân bằng che đậy một cảm giác bất lực sâu xa, và khi cảm giác bất lực bị khuấy động thì con nổi giận. Cơn giận là phản ứng mặc định đối với cảm giác bất lực. Có người trong cơn thịnh nộ sẽ có những hành động mà họ không thường làm, và trong vài trường hợp, cơn giận giúp họ thay đổi ngoại cảnh. Trong một số trường hợp khác, cơn giận chỉ làm cho tình trạng tồi tệ hơn. Nhưng trong tất cả mọi trường hợp, cơn giận củng cố cho khuôn nếp.

Cách thực sự để thoát khỏi tình trạng này là truy về cảm giác bất lực cũng như sự chờ đợi điều này điều kia phải hay không được xảy ra. Con truy từ cảm thể lên trí thể cho đến bản sắc thể. Con có những khuôn nếp nào khiến con cảm thấy bất lực, khiến con cảm thấy điều này điều kia phải hay không được xảy ra? Đây chính là đường tu. Bát chánh đạo là xem xét những khuôn nếp trong tâm con một cách tuần tự và có hệ thống, đem chúng ra ánh sáng của nhận biết ý thức. Con thấy chúng và nói: “Tôi thấy khuôn nếp này đã bảo vệ tôi khỏi bị choáng ngợp, nhưng tại sao tôi lại có nguy cơ bị choáng ngợp? Đó là vì có một khuôn nếp sâu xa hơn quy định mối quan hệ của tôi với thế giới tôi đang sống. Tôi có một chọn lựa ở đây. Tôi có thể tiếp tục đè nén với hy vọng sự đè nén vẫn có tác dụng, nhưng như vậy thì tôi sẽ không bước tiếp lên bậc thang. Tôi sẽ không thật sự bước trên Bát chánh đạo cho dù tôi có học giáo lý bao nhiêu và thực hành bao nhiêu đi nữa. Chọn lựa kia là tôi có thể nhận chân Bát chánh đạo là gì, và tôi xem xét một cách có hệ thống các khuôn nếp của tôi, phản ứng của tôi đối với thế giới.”

Thày có đề cập đến những người đã đi theo một giáo lý tâm linh từ rất lâu và học cách đè nén cảm xúc để luôn luôn tỏ ra điềm tĩnh, tự chủ, bình an và kềm chế. Nhưng cũng có nhiều người lại dùng tâm lý trí, trí năng để học giáo lý. Và giờ đây ở tầng lý trí, họ đã củng cố những khuôn nếp cho phép họ duy trì một cảm giác cân bằng. Đây là điều con không chỉ thấy trong các giáo lý tâm linh hay tôn giáo. Quả thật con thấy rất nhiều ví dụ về những người đã dùng tâm lý trí để tạo ra một cảm giác cân bằng. Và điều này dựa vào đâu? Nó dựa vào ý niệm là họ hiểu bằng trí năng, phân tích, lý luận cách thế giới vận hành ra sao, và họ nghĩ họ nắm bắt được một số quy trình, một số định luật thiên nhiên, một số nguyên lý nào đó được Thượng đế quy định. Và vì họ hiểu những điều này nên họ nghĩ họ có khả năng kiểm soát thế giới, hay tối thiểu là kiểm soát được ngoại cảnh của họ.

Kết quả là con thấy có nhiều người đã tạo ra một quan niệm về thế giới phải vận hành thế nào, rồi họ dùng tâm lý trí tìm cách phóng chiếu quan niệm này lên vũ trụ. Và họ nghĩ họ có khả năng thu hẹp sự vận hành của vũ trụ trong vài quy tắc đơn giản để cảm thấy mình kiểm soát được thế giới. Điều họ làm là dùng giáo lý tâm linh, hay có thể một ý thức hệ chính trị như chủ nghĩa cộng sản hay ngay cả chủ nghĩa khoa học duy vật, để tạo ra một hình tư tưởng về cách vận hành của thế giới. Nhưng thày đã nói mục đích của một giáo lý tâm linh là gì chứ? Đó là giải phóng con khỏi trạng thái nhận biết hiện thời của con. Có nghĩa là giải phóng con khỏi những khuôn nếp trong trí thể của con. Và một lần nữa, những khuôn nếp này bảo vệ con khỏi bị choáng ngợp bởi những nỗi nghi ngờ chẳng hạn.

Nhiều người mộ đạo đã tạo ra những khuôn nếp loại này và nói: “Ồ, tôi không cần suy nghĩ về chuyện này. Tôi không cần suy nghĩ về bất cứ gì chất vấn giáo lý tâm linh và tôn giáo của tôi. Chuyện này không cần thiết vì tất cả đều sai, không thể nào đúng được, vì vậy tôi có thể gạt bỏ mà không cần suy nghĩ.” Điều này cho phép họ duy trì cảm giác cân bằng. Nhưng vấn đề tất nhiên là thế giới lại khá hỗn loạn. Mọi người đều có những tin tưởng khác nhau và những hệ thống tin tưởng, tôn giáo và ý thức hệ khác nữa. Sẽ luôn luôn có điều gì trong thế giới đe dọa tin tưởng của con.

1.12. Làm sao thăng vượt mức tâm thức hiện thời 

Nhiều người cũng đã tạo ra cảm nhận là nếu họ theo học một giáo lý tâm linh, thực tập theo quy định, thì đảm bảo là cuối cùng họ sẽ đạt được mục tiêu. Nhiều Phật tử suốt các thời đại và cả ngày nay vẫn tin rằng: “Nếu tôi chỉ học những lời Phật dạy, chỉ chú tâm vào Phật pháp và miên mật thực hành theo quy định của giáo phái Phật giáo của mình, thì tôi đảm bảo sẽ giác ngộ hay nhập niết bàn. Đức Phật là một đạo sư đích thực và ngài đã hứa nếu tôi tu tập theo Bát chánh đạo thì tôi sẽ giác ngộ. Và vì ngài là một vị thày tâm linh chân chính nên lời hứa của ngài phải đúng sự thật.”

Thày vừa giải thích thế nào? Các thày đã phải hứa hẹn để hấp dẫn những đệ tử đang ở mức tâm thức hiện thời của họ. Nhưng con không thể chụp lấy lời hứa đó, diễn giải bằng tâm thức hiện thời của con, nghĩ ra là con phải bước theo Bát chánh đạo như thế nào rồi con bước đi với cùng tâm thức hiện thời của con, để đảm bảo là con sẽ thăng vượt tâm thức hiện thời của con. Không thể có chuyện như vậy.

Con không thể thăng vượt tâm thức hiện thời bằng cách đứng yên ở mức tâm thức hiện thời. Làm sao có thể vậy được? Cho dù con có xây dựng những ý tưởng cầu kỳ đến đâu chăng nữa, chúng cũng sẽ không giúp con thăng vượt phin lọc nhận thức mà con mang trong trí thể. Con phải sẵn lòng bị dao động, nghi ngờ ít nhất một khía cạnh trong cách con nhìn cuộc sống. Con phải sẵn lòng đặt một số câu hỏi nhức nhối và xem xét những gì đằng sau khuôn nếp tư tưởng hiện thời của mình.

Nếu con không chịu làm vậy thì con cứ việc tiếp tục đè nén mọi nghi ngờ và tự thuyết phục là mình đúng, nhưng con không đang leo tiếp bực thang. Con chỉ dậm chân tại chỗ mà thôi. Con chỉ giữ chặt tin tưởng của mình mà thôi. Và có lẽ trong suốt kiếp này, con càng lúc càng tin chắc là mình đúng vì mọi người quanh con có cùng những khuôn nếp tư duy như nhau, và các con củng cố lẫn nhau rằng mình là kẻ đã hiểu giáo lý của Phật. Nhưng con thấy điều thày giải thích ở đây chứ. Con đang ở một mức nhận biết giới hạn. Phật đã vượt khỏi tất cả những giới hạn của con người trên trái đất. Con sẽ không đạt đến tầng cấp của Phật nếu con không thăng vượt những giới hạn hiện thời của con một cách hệ thống và tuần tự. Điều này không thể làm được. Không có cách chi làm được.

Điều này dẫn chúng ta đến đâu? Con là một người tâm linh. Con đã học giáo lý tâm linh một thời gian khá dài. Con đã thực hành miên mật đúng theo quy định một thời gian khá dài. Con chẳng đã tiến bộ hay sao? Ấy, đa số đã tiến bộ vì họ sẵn lòng nhìn vào một vài điều, xem xét chúng, buông bỏ chúng. Còn một số thì chưa tiến bộ vì, như thày đã nói, họ đã dùng giáo lý để củng cố khuôn nếp của họ. Nhiều người đã củng cố ý niệm bản sắc cho rằng mình đặc biệt hơn những ai không theo giáo lý này, những ai không hiểu giáo lý như cách mình hiểu hay những ai chưa chăm chỉ thực hành. Họ củng cố bản sắc mình là người đặc biệt, nhưng tất nhiên điều này chỉ giữ họ kẹt lại trong bộ đồ lặn. Có thể họ đã thay đổi trải nghiệm cuộc sống theo nghĩa là họ thấy mình càng lúc càng đặc biệt, nhưng họ không đang leo thêm được nấc thang nào.

1.13. Những gì một phong trào tâm linh không thể làm cho con 

Phần lớn các con đều đã có tiến bộ. Nhưng con có thể tiến xa hơn bằng cách trở nên ý thức hơn về những điều thày giảng ở đây – quá trình thăng vượt tâm thức đích thực và nhu cầu luôn luôn bị xao động. Như thày đã nói, nhiều người trong các con sẽ nhận ra khi lần đầu con tìm thấy giáo lý thì con nghĩ: “A, bây giờ tôi đã tìm ra cái tôi khao khát. Giờ đây tôi đã về nhà. Tôi thật sự thuộc về nơi này, thuộc về giáo lý này, thuộc về cộng đồng này với những người cùng chí hướng này, và khi tôi ở đây mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Tôi sẽ đạt được cảm giác an bình nội tại, có nghĩa là tôi có thể đương đầu với việc tôi có mặt trên hành tinh này.”

Nhiều người trong các con đã cảm thấy đầy nhiệt huyết khi tìm ra giáo lý và phong trào tâm linh đầu tiên của mình. Nhưng rồi có chuyện xảy ra làm xáo trộn và gây thất vọng cho con. Đột nhiên con nhìn ra đây không phải là điều con nghĩ. Có người đã bỏ đường tu vì lý do này, có người thì tìm ra một hướng để tiếp tục. Nhưng con có hoàn toàn hiểu chăng là không có một giáo lý tâm linh hay phong trào tâm linh nào sẽ tự động cho con điều con muốn? 

Nhiều người tìm được một phong trào tâm linh rồi bị thất vọng, nhưng sau đó họ lại tìm thấy một phong trào tâm linh khác và họ nghĩ: “Đây rồi”. Hay đúng hơn, họ lý luận: “Chắc phải là cái này vì tôi không thể chịu nổi thất vọng lần nữa, vì vậy tôi sẽ đè nén bất kỳ nỗi nghi ngờ nào đối với phong trào thứ nhì hay thứ ba, hay bất kể là thứ mấy.” Nhưng cách duy nhất để tăng triển thật sự là dùng một giáo lý vỏ ngoài và một phong trào vỏ ngoài để chất vấn cảm giác cân bằng của con. Bây giờ con có thể nói: “Nhưng khi lần đầu tôi tìm được một giáo lý tâm linh, tôi đã mong muốn tìm thấy an bình nội tâm thoát khỏi áp lực của thế giới. Mong muốn này có gì sai không?” À, có đúng và sai. Con có thể nói đây là một mong muốn chính đáng vì sau cùng khi con đạt được giác ngộ hay niết bàn, con sẽ tự do khỏi áp lực của thế giới. Nhưng làm cách nào đạt được tự do này? Có người sẽ nói: “Ấy, tôi sẽ chỉ có tự do sau khi rời thế giới này. Khi tôi không còn đầu thai nữa thì tôi sẽ tìm thấy an bình thật sự.”

Nhưng con thấy đó, tất cả giáo lý nói về nghiệp quả và luân hồi, cho dù là Phật giáo, Ấn giáo hay những giáo lý hiện đại hơn nói về quá trình thăng thiên, tất cả đều ngụ ý nếu chưa đạt đến một tầng mức nào đó thì con chưa thể thoát khỏi bánh xe luân hồi, con sẽ phải quay lại đầu thai. Nói cho cùng, con có thể bảo đây không phải là chuyện thân xác này chết đi thì con sẽ đạt được an bình. Con sẽ chỉ an bình khỏi áp lực của thế giới này khi con tốt nghiệp khỏi bánh xe luân hồi, hay con thăng thiên và không còn phải quay lại đầu thai nữa.

Tất nhiên, đây là điều các thày giảng dạy ngày nay. Nhưng đây không là lời dạy thiết thực khi trao truyền cho đại chúng cách đây 2500 năm. Vì vậy, trọng tâm của Bát chánh đạo thời ấy là giúp mọi người thay đổi trải nghiệm sống khi vẫn còn đang đầu thai. Và tất nhiên đây cũng là viễn quan phù hợp với ngày nay. Điều các thày muốn dạy con là làm thế nào thay đổi trải nghiệm sống để con đạt được an bình nội tâm khi vẫn còn thân vật lý và vẫn phải tiếp xúc với áp lực bên ngoài. Một phần là vì nếu con đạt được an bình nội tâm, con sẽ giữ được sự cân bằng tuyệt vời cho toàn bộ hành tinh. Con sẽ giúp kéo tâm thức tập thể đi lên khi con đạt đến mức nhận biết cao hơn trong khi vẫn hiện thân trong cơ thể vật lý. Đối với nhiều người các con, đây chính là Sứ vụ Trọn đời của con – là đạt được sự yên bình cao hơn này khi vẫn còn trong thân vật lý. 

1.14. Kìm nén hay giải quyết 

Con thấy rất nhiều người khắp chiều dài lịch sử đã cách ly khỏi thế giới, sống trong các cộng đồng tu sĩ nơi môi trường ngoại cảnh được kiểm soát chặt chẽ. Họ được bảo vệ khỏi các hành động bạo lực xảy ra bên ngoài, cho nên họ ở trong một môi trường rất kềm chế nơi thế cân bằng của họ không bị xao động. Nhiều người đã sống cả đời trong những môi trường như vậy mà không thật sự tăng triển. Họ đã không bước lên bậc thang. Họ chỉ dùng môi trường và giáo lý vỏ ngoài để củng cố trạng thái cân bằng dựa trên đè nén. Tất nhiên đây không phải là điều thày kêu gọi con làm ngày nay.

Các thày kêu gọi con tìm một lối tu tập sẽ giúp con đạt được an bình thật sự, an bình không do đè nén mà do giải quyết. Con đạt được an bình này khi con vẫn còn thân vật lý hầu con có thể kéo tâm thức đại chúng đi lên, và con cũng trở thành cánh cửa mở qua đó con nhận được các ý tưởng và xung lực từ một tầng nhận biết cao hơn mà sau đó con có thể biểu đạt ra thế giới. Nếu con có thể làm được xoay chuyển cơ bản này thì toàn bộ cách con tiếp cận cuộc sống có thể thay đổi rất nhanh. Giờ đây con đạt được một tầm nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống.

Con có nhận thấy điều khác biệt cơ bản mà thày mô tả ở đây không? Một đằng là cách tiếp cận qua nỗ lực giảm bớt áp lực của đời sống trong thế giới này. Con tìm kiếm một loại an bình nội tâm nào đó cho dù con muốn định nghĩa thế nào, nhưng cách con đạt bình an là dùng một giáo lý và thực hành tâm linh để đè nén cảm xúc, đè nén tư tưởng, đè nén ý niệm bản sắc để dựng lên một cảm nhận hư giả là con chủ động được cảm xúc, con giỏi hơn người khác về mặt trí năng, và vì vậy trong bản chất con là người cao trội hơn những ai không theo giáo lý của con.

Còn cách tiếp cận kia là con đi tìm sự giải quyết. Khác biệt trong cách nhìn thế giới là gì? À, khi con tìm cách đè nén một điều gì thì con nhìn thế giới như một mối đe dọa tiềm ẩn. Bất cứ gì xảy ra xáo trộn sự cân bằng của con đều là mối đe dọa cho trạng thái cân bằng này và do đó cần phải đè xuống. Con cần tìm cách dẹp bỏ nó thật nhanh để quay về trạng thái cân bằng. Con đã tạo nên những khuôn nếp trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể chỉ để làm chuyện này là trấn áp bất cứ gì làm xáo trộn thế cân bằng của con.

Khi con chọn cách thứ nhì này thì con sẵn lòng bị xáo trộn. Và quả thật con có thể xoay chuyển và nói: “Mục tiêu thật sự của tôi là giải quyết tất cả mọi khuôn nếp trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể đã trói tôi vào trái đất, đã giữ tôi trong bộ đồ lặn, đã ngăn tôi nắm lấy sợi dây và leo lên nấc thang để càng lúc càng tự do. Tôi muốn đi theo chánh đạo của đức Phật, đi theo Bát chánh đạo, không phải con đường vỏ ngoài mà là con đường nội tâm của Bát chánh đạo.”

Điều này có nghĩa gì đối với con? Có nghĩa là khi một điều gì xảy ra bên ngoài làm xáo trộn thế cân bằng của con thì nó không phải là một mối đe doạ. Nó là một cơ hội. Nó là một cơ hội để con hỏi: “Tại sao điều này khiến tôi xáo trộn? Tôi đang có cảm xúc gì? Đằng sau cảm xúc này là gì? Thay vì phủ nhận cảm xúc và cố kìm nén nó, tôi hãy đi vào trong lòng nó. Tôi thật sự cảm thấy gì ngay đây? Có gì đằng sau cảm xúc này? Tôi có thể nhận diện tiến trình tư duy gì? Tôi đã có những tin tưởng gì? Tôi đã xây dựng loại thế giới quan nào cho phép tôi cảm thấy cân bằng nhưng đồng thời cũng giữ tôi lại ở một tầng cấp nào đó? Chính vì các khuôn nếp lý trí của tôi mà tôi không thể nắm bắt giáo lý tâm linh tôi đang theo học. Giáo lý luôn phải rập theo các khuôn nếp lý trí này thay vì lẽ ra phải thách thức chúng. Và rồi khi tôi vượt lên trên những điều này thì ý niệm bản sắc của tôi trong quan hệ với trái đất là gì?”

Lấy ví dụ, con làm điều gì đấy và người ta phản ứng tiêu cực với việc làm của con. Cảm xúc đầu tiên là con có thể bực bội với phản ứng của họ. Khi con đi vào trong cảm xúc, trước hết con cảm nhận một sự bất lực là mình không thay đổi được phản ứng của người kia đối với mình, thay đổi cách người kia nhìn mình. Nhưng con cũng cảm thấy là con phải có cách thay đổi được phản ứng của người kia vì con muốn hòa đồng với mọi người. Con không muốn ai giận con và con không biết, ít nhất thể cảm xúc của con không biết, làm thế nào khác hơn là phải thay đổi cảm xúc của người kia để con không cảm thấy mình đã quấy rầy họ.

Sau đó, con bước lên cõi lý trí và nhận ra: Tại sao con lại có những tin tưởng này? Có lẽ con có cảm giác mình đã hiểu quyền tự quyết, mình tôn trọng quyền tự quyết của người khác, và con cảm thấy mình phải sống được trên hành tinh này mà không làm phiền ai, không khiến ai nổi giận, không khiến ai kết tội mình. Con luôn tìm cách hoà hoãn với người khác, đưa ra lời giải thích cho họ thấy lý do họ không nên giận con, lý do con là người thật sự tốt, vân vân.

Rồi con lên tầng bản sắc và nhận ra có lẽ con có cảm giác mình không thật sự được phép thuộc về nơi đây, trái đất này, con không được phép tự biểu đạt, ít nhất nếu điều này gây phiền toái hay khiêu khích người khác. Con cảm thấy mình phải sống được ở đây mà không quấy rầy người khác. Con luôn tìm cách rút khỏi các hoàn cảnh mà con có thể gây phiền phức cho người khác, để con duy trì cảm nhận mình có thể ở đây mà không phải liên tục đối mặt với những người bảo con không có quyền ở đây. Có thể còn nhiều khuôn nếp khác, nhưng đây là một ví dụ có thể áp dụng cho nhiều người tâm linh.

Điều con có thể làm sau đó là bắt đầu xem xét các khuôn nếp này, và dần dần qua thời gian – có thể một thời gian dài – làm việc với chúng, thấy được chúng, dần dần giải quyết chúng, cho đến khi con nhận ra con thật sự có quyền có mặt trên trái đất. Con có quyền đeo đuổi một mức tâm thức cao hơn, một mức nhận biết cao hơn. Con có quyền biểu lộ mức nhận biết này ngay cả nếu nó có quấy rầy người khác. Con thậm chí có thể nhận thấy điều này chắc chắn sẽ quấy rầy người khác, vì đây là điều xảy ra với bất cứ ai nâng cao nhận biết của mình vượt khỏi những điều được xem là bình thường trong bất kỳ xã hội nào. Con sẽ làm xáo trộn cảm giác bình thường, cảm giác cân bằng của họ.

Hầu hết mọi người đã tạo ra một cảm giác cân bằng cho rằng họ có quyền là con người mà họ là, và khi có điều gì từ bên ngoài khuấy động cảm giác cân bằng này thì họ nổi cơn thịnh nộ. Họ đã quy định một cảm giác bình thường rằng đây là tất cả con người mà họ có thể là. Họ cần là như vậy. Khi cái bình thường này bị khuấy động, họ lên cơn giận, và con làm gì khi con đang theo con đường tâm linh? Con đang lần hồi nâng nhận biết của mình lên vượt khỏi những điều thông thường trong xã hội. Nó sẽ xáo trộn người khác chăng? Ấy, làm sao lại không xáo trộn được?

1.15. Sẵn lòng xáo trộn người khác 

Đây là điều chưa được ghi chép trong các lời dạy của Phật hay trong các huyền thoại về Phật, đó là thày đã gặp phải rất nhiều kháng cự, chống đối, tức giận khi thày bắt đầu truyền pháp trong tư cách Phật. Điều này được ghi chép lại nhiều hơn trong Kinh thánh khi Giê-su gặp phải sự chống đối khi thày bắt đầu giảng dạy. Nhưng ở một mức độ nào đó, tất cả mọi vị thày tâm linh đều gặp phải những chống đối này. Một vài vị đã tìm được cách rút lui, như thày đây cuối cùng đã rút vào Tăng đoàn. Vì đây là một cách truyền đạo thích đáng, thày rút khỏi thế giới và những ai mở tâm ra với giáo lý sẽ tìm đến thày.

Một cách thích đáng khác, như Giê-su đã nêu gương, là đi ra ngoài thế giới và làm bối rối nhiều người. Giê-su đã làm gì? Nếu con nhìn toàn bộ sứ vụ ba năm của Giê-su thì con thấy thày đã làm gì? Thày đã thách thức cảm giác bình thường của mọi người. Thày đã nói: “Có cái gì hơn thân phận làm người mà con đang trải nghiệm ngay bây giờ.” Và phản ứng của mọi người là gì? Hoàn toàn bác bỏ. Người ta thà trả tự do cho một tên sát nhân còn hơn là cho kẻ đến khuấy động họ, vì họ có thể chịu được tên sát nhân. Đây chỉ là chuyện bình thường – có những người đi giết người khác. Nhưng khi bảo rằng con có thể là nhiều hơn một con người thế phàm thì thật là thái quá. “Chúng tôi sẽ không chịu bị khuấy động, cho nên chúng tôi sẽ giết người nào khuấy động chúng tôi.”

Con thấy đó, đa số người tâm linh rất ngần ngại không muốn quấy rầy người khác. Vậy điều gì sẽ giúp cho thời hoàng kim của Saint Germain, thời đại của nhận biết cao hơn thị hiện đây? Đó là có một số người chứng tỏ được là cuộc sống có cái gì hơn nữa, hơn cái mà mọi người xem là bình thường, và con cần làm vậy bằng cách bước ra ngoài kia trong bất kỳ vai trò và khả năng nào. Điều này không có nghĩa là con phải làm những gì Giê-su hay Phật đã làm, bị giết hay bị hành hạ, nhưng con sẽ quấy rầy người khác, và đồng thời con cần tìm ra một cách để con an bình với việc làm này hầu hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng con không cần làm vậy khi con mới cất bước trên đường tu. Con có thể dành một khoảng thời gian dài để giải quyết những khuôn nếp này, để khi người khác phản ứng lại thì con không cảm thấy xao động.

Thày biết bài giảng này đã dài. Nhưng thày mong thiết lập một nền tảng để thày có thể trao cho con những giáo lý sâu sắc hơn về Bát chánh đạo, cũng như cách thức con có thể tiến đến niềm an bình nội tại thật sự, không dựa trên đè nén và chối bỏ, mà dựa trên sự giải quyết và một cái nhìn sáng ngộ hơn.

Và như vậy, thày cảm ơn các con đã chú tâm để thày có thể phóng chiếu ý tưởng này qua tâm và luân xa của con để nó đi vào tâm thức đại chúng, từ đó nó chạm được những ai sẽ không bao giờ nghe tới người sứ giả này hay giáo lý này, sẽ không bao giờ nghe tới Chân sư Thăng thiên Phật Gautama, hay sẽ không bao giờ chấp nhận ý tưởng này mặc dù nó vẫn ảnh hưởng lên tâm thức họ. Họ sẽ đột nhiên nhìn ra một điều gì họ chưa từng thấy trước đây, và từ đó họ có thể dùng bất kỳ lời dạy tâm linh nào mà họ tiếp nhận ở một tầng mức cao hơn.

Một lần nữa, mục tiêu của các thày là nâng cao nhận biết của mọi người. Mục đích của các thày không phải là đưa họ vào một giáo lý tâm linh đặc thù, nhưng với những ai mở tâm ra với một giáo lý tâm linh chân chính, các thày mong muốn họ đạt được những mức thấu triệt ngày càng cao hơn. Theo một nghĩa nào đó, con là chất xúc tác giúp củng cố phong trào này, và tất nhiên phong trào này đã diễn ra trong một thời gian rất dài, thậm chí trước cả khi thày truyền đạo cách đây 2500 năm trong tư cách Phật. Đây là một quá trình đã không ngừng nghỉ từ khi bầu cõi chưa thăng thiên này được tạo lập, thậm chí từ các bầu cõi trước nữa. Đây là hơi thở-ra và hơi thở-vào của Thượng đế. Là một phần của hơi thở-vào này, ý thức mình là một phần của hơi thở-vào, có thể rất hữu ích để con đạt được trạng thái an bình dù con đang sống trong một thế giới đầy rẫy biểu hiện xáo trộn. Con có mặt ở đây để góp phần vào quá trình đang tiếp diễn mỗi lúc một cách bất tận, nhằm nâng cao mọi sự sống từng bước vươn lên những tầng càng lúc càng cao hơn. Điều gì sẽ có thể xáo trộn con đây nếu không phải là một khuôn nếp mà con chưa giải quyết, một ngã tách biệt mà con chưa buông bỏ, một dính mắc với ngã tách biệt đó hay với khuôn nếp đó?

Bằng cách nhìn ra điều này, bằng cách làm việc trên ngã tách biệt này cho đến khi con tách mình ra khỏi nó và đột nhiên con thấy nó từ bên ngoài, con thấy nó giới hạn con biết chừng nào và con để nó chết đi – đây chính là cách con dần dần đạt được an bình ngày càng lớn hơn. Không có công thức thần diệu nào đâu. Con không thể bất thần búng ngón tay mà đạt được an bình nội tại. Nhưng con có thể đi qua sự chuyển hoá này, và con đi nhanh hay đi chậm tùy theo con sẵn lòng tới đâu để nhìn vào những gì gây xáo trộn cho con. Với những lời này, thày hy vọng thày đã xáo trộn sự an bình lẫn trạng thái cân bằng của con, và đổi lại, thày trao cho con một cảm nhận an bình sâu sắc hơn. Chắc chắn thày sẽ trở lại và trao truyền những lời dạy thâm sâu hơn, thậm chí còn xáo trộn con nhiều hơn nữa khi con sẵn lòng.

Thày niêm con trong niềm vui của Phật mà Ta Là.

5 | Con không thể lên cao hơn ý định của con

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Ý định cao hơn có nghĩa là gì? Ý định là gì? Thông thường người ta nói: “Tôi có một ý định dựa trên mong muốn có một vật gì, trải nghiệm một điều gì, hoàn thành một điều gì.” Ý định hàm ý quá khứ, hiện tại và tương lai. Nó hàm ý là trong quá khứ con đã hình thành một số mong muốn nào đó, một viễn quan nào đó. Ngay bây giờ, con có ý định là viễn quan này trở thành hiện thực, nhưng con nghĩ nó sẽ xảy ra ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Nhưng ý định cao nhất là gì? Chẳng có cách nhìn nào khác về ý định hay sao?

Thày đã có nói là con sống trong một thế giới khó khăn. Nhiều người có mong muốn tự bảo vệ khỏi thế giới hỗn loạn này. Họ có ý định được bảo vệ khỏi một phần của sự hỗn loạn để không bị quá tải, nhưng cũng có thể họ mong muốn sở hữu một cái gì, thực hiện một việc gì, trải nghiệm một điều gì trong thế gian này. Một lần nữa, tất nhiên là chuyện này không có gì sai trái. Con là con người mà con là ngay bây giờ, và dựa trên con người con là bây giờ, con nhìn thế giới, con nhìn bản thân, con nhìn cuộc sống theo một cách nào đó. Dựa trên cái đó, con có một số ý định, một số mong muốn mà con muốn thấy sẽ hiện thực, một số thứ mà con muốn có, một số sự việc mà con muốn tránh. Không thể nào khác được.

Khi con cất bước trên con đường Bát chánh đạo, con nhận ra là ý định con có ngay bây giờ không phải là ý định cao nhất có thể. Thật con không cần nhất thiết lên án ý định của con, phán xét nó là sai lầm hay mạnh bạo trấn áp nó, mà con cần nhận ra là cuộc sống trên một hành tinh như địa cầu có hai khía cạnh. Một khía cạnh như thày đã nói, là có một số chuyện con cần làm để sống còn, để giữ cho thân xác vật lý của mình tồn tại. Và khía cạnh kia là con có một mục đích rộng lớn hơn, một mục đích dài hạn hơn, là đạt niết bàn, đạt sự an bình nội tâm, đạt sự giác ngộ, bước chân trên đường tâm linh, nâng cao trình độ nhận biết của mình cho dù con định nghĩa như thế nào.

Con cần bắt đầu suy ngẫm là thực sự con có hai loại ý định khác nhau ở đây. Con có một ý định liên quan đến việc sinh sống trên trái đất, ngụ trong một cơ thể vật lý trên trái đất, và con có một ý định liên quan đến việc vượt xa hơn trái đất, vượt xa hơn cơ thể vật lý. Khi con bắt đầu có sự nhận biết tâm linh, thử thách là làm thế nào quân bình được cả hai. Đây là thử thách muôn đời, là thử thách vượt thời gian mà con người đã đối mặt trong một thời gian rất dài. Làm thế nào con dung hòa được sự kiện con đang ở đây với ý định là mình sẽ không ở đây vĩnh viễn, vô thời hạn? Đây là điểm đòi hỏi con khởi đầu một tiến trình thực sự chất vấn các ý định cùng các mong muốn của mình.

5.1. Sự căng thẳng tinh thần khi định nghĩa thế nào là ý định chân chính

Có nhiều Phật tử đã xem xét khái niệm ý định “chân chính” này [còn được gọi là Chánh tư duy] theo cách nhìn của họ, và một lần nữa họ lại tìm cách quy định một cách thức vỏ ngoài để phân biệt ý định chân chính với ý định bất chính. “Tôi cần tránh, tôi cần ép mình để không có ý định nào sai trái, và thay vào đó tôi sẽ ép mình để có, hay để trau dồi, những ý định chân chính.” Điều này đã khiến cho nhiều, rất nhiều người rơi vào một vòng xoắn ốc phải vận dụng càng ngày càng nhiều áp lực tinh thần để kìm nén các ý định mà họ đã dán nhãn là sai trái, để luôn luôn tỉnh thức, tập trung ý định vào việc chỉ cho phép những ý định được họ dán nhãn là đúng đắn mà thôi. Điều này có thể trở thành một nỗ lực trí năng gay gắt, một sự dồn ép căng thẳng mà con có thể chứng kiến không những nơi các Phật tử mà nơi nhiều người tâm linh hay mộ đạo, thậm chí cả nhiều người đang cố sống theo một loại lý tưởng nào đó.

Đây là lúc chúng ta cần bước lui lại một chút. Chúng ta cần nhìn nhận là đường tu dẫn đến nhận biết cao hơn có nhiều giai đoạn. Có một số giai đoạn và con phải bắt đầu ở một điểm nào đó. Con bắt đầu ở mức con đang đứng khi con tìm thấy giáo lý tâm linh trong kiếp này. Đối với mỗi người thì mức này mỗi khác, tùy theo trình độ phát triển con đã đạt được trong tiền kiếp. Đối với cá nhân con, con đã bước vào kiếp đầu thai này với một mức độ ý định nào đó, một mức độ nhận biết nào đó. Con đạt tới điểm lần đầu tiên con khám phá giáo lý tâm linh, con nhận chân là có một đường tu tâm linh, có một quy trình con có thể đi theo. Vào lúc đó, cách con nhìn sự việc này thể hiện trình độ nhận thức tổng quát của con, và dựa theo đó, con hình thành một số ý định về những gì con muốn gặt hái từ việc bước chân trên đường tâm linh. Một lần nữa, không có gì sai trái ở đây – con đâu làm gì khác được?

Điều con cần nhận ra ở đây là khi con bước chân trên đường tu, khi con nâng cao mức nhận biết, con cần tái xét các ý định đã khiến con đi theo đường tu cùng các ý định của con về cuộc sống trên trái đất. Con không thể chỉ đơn giản lập ra một cách đánh giá trắng-đen nhị nguyên về thế nào là ý định “đúng”, thế nào là ý định “sai”. Con không thể tự ép buộc mình. Hay đúng hơn, con có thể tự ép buộc mình nhưng làm như vậy sẽ không nâng cao nhận biết của con. Nó sẽ giữ con kẹt lại ở mức này nơi con cảm thấy bởi vì con đã tự ép mình để không có ý định sai mà chỉ có ý định đúng, cho nên con đã đạt đến một giai đoạn cao cấp nào đó trên đường tu, và vì thế con tốt thiện hơn những kẻ đã không làm giống con. Như thày đã giảng rất nhiều lần, đây không phải là tiến bộ thực.

5.2. Một lượng định cao hơn về ý định

Có một giải pháp khác là con không đánh giá các ý định của con dựa trên đúng hay sai. Thày đã giảng về sự tách biệt, về ảo tưởng tách biệt và tâm thức nhị nguyên. Chuyện gì thực sự xảy ra khi con quy định có hai đối cực nhị nguyên là đúng và sai? Con tự đặt mình vào một tâm thái sẵn lòng sử dụng vũ lực. Như thày đã trình bày, hậu quả cùng cực là con sẵn lòng tiêu diệt một nhóm người khác với nhóm của con theo cách con định nghĩa. Là một người tâm linh, con đã vươn lên một mức cao hơn nơi con không còn quá chú tâm vào việc ép buộc người khác nữa. Thật ra hầu hết những người tâm linh đều không sẵn lòng dùng sức mạnh trên người khác, nhưng thường khi con lại sẵn lòng dùng sức mạnh trên chính con. Con có thể rất dễ bước vào tâm thái cảm thấy mình phải vận dụng ý chí, vận dụng chú ý và tập trung của mình để cưỡng ép mình, cưỡng ép tâm mình.

Nhiều người tâm linh cho rằng họ có thể tiến bộ qua việc thiền quán, nhưng thiền quán thường bị xáo trộn bởi cái mà một số Phật tử gọi là tâm khỉ, qua đó ý tưởng cứ chạy tứ tung. Họ đã tạo dựng quan điểm cho rằng họ có thể cưỡng ép tâm họ để nó không suy nghĩ, cưỡng ép tâm để nó không có ý tưởng, và điều này có thể trở thành một nỗi căng thẳng to lớn cho những ai đã tập theo như vậy trong một thời gian dài. Có thể họ nghĩ là họ đã đạt được ít nhiều kết quả, nhưng tất cả đều dựa trên sức mạnh. Giải pháp khác hơn là con tra vấn cách tiếp cận dựa trên sức mạnh này và nhận ra là con không cần dùng đến sức mạnh.

Điều có thể giúp con trong việc này là con hiểu rằng trước khi con đầu thai trong kiếp này, con đã lập ra một Kế hoạch Trọn đời. Con đã lập ra như vậy cùng với các vị cố vấn tâm linh của con, dù những vị này là ai tùy theo quá trình cùng mức phát triển cá nhân của con. Con đã nhận được lời khuyên từ những vị thày già dặn hơn, giàu kinh nghiệm hơn, và dựa theo đó con đã lập ra một Kế hoạch Trọn đời. Đa số con người trên trái đất hoặc không có Kế hoạch Trọn đời, hoặc có một Kế hoạch Trọn đời rất đơn giản, nhưng con là một người tâm linh cởi mở với giáo lý tâm linh thì con có một Kế hoạch Trọn đời tỉ mỉ, kỹ lưỡng hơn. Kế hoạch này nhằm mục đích chủ chốt là tăng triển trình độ tâm thức, nâng cao mức nhận biết ngày càng cao hơn. Con đã ngồi xuống với các vị thày tâm linh của con và lượng định: “Con đang ở mức tâm thức nào, đâu là những khuôn nếp, những ảo tưởng mà con có trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc mà con cần khắc phục để có thể tinh tiến, và làm thế nào con có thể tạo thuận lợi nhất cho công việc này trong kiếp đầu thai tới của con?”

Và đó là cái khung tổng quát để con chọn lựa mình sẽ hiện thân lúc nào, ở nơi đâu và trong hoàn cảnh nào. Hầu hết những người tâm linh đều chọn cha mẹ và gia đình của mình, họ chọn nền văn hóa và quốc gia, vì trong môi trường đó có một điều gì có thể giúp họ khắc phục các ảo tưởng, các dính mắc, các khuôn nếp, các khuôn nếp phản ứng mà họ muốn vượt qua trong kiếp đầu thai này.

Đây là điểm mà con có thể nói là có một yếu tố vũ lực nào đó, vì khi con lập ra Kế hoạch Trọn đời thì con có một tầm nhìn rõ ràng hơn về những gì con cần khắc phục. Tất nhiên, con biết là một khi con lại bước xuống hiện thân thì con sẽ quên mất tầm nhìn này. Đây chính là bản chất của việc khắc phục một điều gì đó. Nếu con biết trước con sẽ phải khắc phục điều gì thì việc khắc phục đâu còn là thử thách gì nữa?

Làm thế nào con sẽ khắc phục trong thực tế? Con có một ảo tưởng. Nếu con biết đó là ảo tưởng thì con đã khắc phục nó rồi. Cách duy nhất để khắc phục là con bước xuống hiện thân với ảo tưởng đó, con quên mất ảo tưởng, rồi trong khi đầu thai con nhìn ra ảo tưởng. Đây là cách con khắc phục nó. Con vẫn mang một sự nhận biết nào đó trước khi đầu thai về những điều con cần khắc phục, và con quyết định tự đặt mình vào một tình huống bắt buộc con phải giải quyết cái khía cạnh cụ thể đó trong tâm lý của con. Hoàn cảnh vỏ ngoài của con, những người mà con cùng đầu thai như cha mẹ và anh chị em con chẳng hạn, tất cả đều mang một số khuôn nếp trong tâm lý của họ sẽ bắt buộc con phải phản ứng lại họ hầu con có dịp nhìn thấy các khuôn nếp nơi chính con. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là con đã tự ép mình phải đương đầu với hoàn cảnh đó, nhưng tất nhiên khi con bước vào đầu thai thì con đã quên mất, và đây chính là tại sao con thường phản ứng mạnh mẽ đến như vậy đối với cha mẹ mình, gia đình mình, hoàn cảnh vỏ ngoài của mình. Thử thách của con là con nối kết lại với cái đó.

5.3. Tâm muốn kềm chế

Con thấy những gì thày vừa nói đó, có một cơ chế trong tâm muốn kềm chế, trấn áp một số chuyện mà nó xem là mối đe dọa. Đó có thể là mối đe dọa bị choáng ngợp, hay phải chất vấn các niềm tin của mình hay là gì đi nữa, nhưng con muốn kềm chế nó. Khi con bước vào kiếp đầu thai, điều này thường có nghĩa là trong những hoàn cảnh khó khăn phải đương đầu với một người khó tính, con muốn đè nén nhu cầu xem xét chính mình. Con muốn trấn áp các cảm xúc, các tin tưởng, kềm chế tình huống con phải đối mặt để nó không làm xáo trộn thế cân bằng của con. Một lần nữa, đây là một điều tự nhiên trong một thời gian, nhưng nếu con là một người tâm linh, Kế hoạch Trọn đời của con có trù liệu là tới một điểm con sẽ tìm ra một giáo lý tâm linh và con được nhắc nhở một cách ý thức là có một con đường để mình bước theo.

Điều có thể đem lại lợi lạc cho con là con nắm lấy lời dạy này ở đây và nói: “Khi tôi lập ra Kế hoạch Trọn đời của tôi, tôi đã muốn ép buộc mình phải nhìn thấy điều gì? Tại sao tôi đã tự đặt mình vào hoàn cảnh này? Tôi muốn phơi bày điểm gì trong tâm lý của tôi?” Bằng cách quyết định ý thức như vậy, con có thể ít nhất khắc phục được phần nào sự kháng cự không muốn nhìn vào tâm lý của mình để tìm ra tại sao mình lại có khuôn nếp phản ứng như vậy đối với một số loại người.

Đây là một phần trong tiến trình con hình thành một ý định cao hơn, qua đó con nhận ra là trong cái bây giờ và ở đây, trong tình huống trước mắt con, con có một số khuôn nếp phản ứng đang muốn con kìm hãm việc xem xét tâm lý của con. Con có thể bất chấp các khuôn nếp này và quyết định: “Không, tôi sẵn lòng nhìn vào tâm lý của tôi, các khuôn nếp của tôi, để nhìn thấy chúng và khắc phục chúng.” Điều này có nghĩa là giờ đây con đang nối kết với ý định của chính mình đằng sau Kế hoạch Trọn đời. Và khi con nối kết vào đó thì còn đâu yếu tố vũ lực nào nữa? Con đâu cần ép buộc mình phải xem xét một điều gì khi chính con đã nối kết lại với ý muốn giải thoát khỏi điều đó? Khi con nhận ra là con muốn được tự do khỏi cái đó, con không đang ép buộc mình phải đương đầu với nó.

5.4. Con là ai?

Khi đó, con có thể bắt đầu chiêm nghiệm là có hai cấp độ ý định. Như thày vừa nói, bây giờ và ở đây, trong tình huống hiện tại, có một phần trong tâm con, tâm phàm của con mà có thể gọi là tự ngã, đang có một ý định duy trì thế cân bằng của con, không muốn bị xáo trộn, không muốn cảm thấy bị đe dọa. Con muốn kềm chế cảm xúc, kềm chế tư tưởng, kềm chế cách con nhìn chính con. Đây là điều mà phần này của tâm vốn làm. Nó giống như một chương trình máy tính không biết làm gì khác. Đây không phải là ý định cao nhất của con. Ý định cao nhất của con là những gì nằm trong Kế hoạch Trọn đời khi con đã có ý muốn khắc phục một số những khuôn nếp đó, có thể tất cả các khuôn nếp mà con còn sót lại. Một khi con nhận chân điều này thì không có chuyện ép buộc mình phải từ bỏ ý định thấp và chấp nhận ý định cao. Con tái nối kết với ý định cao. Con nhận ra rằng cái ta mà con là, đó là chính con có một ý định cao hơn. Đây mới là ý định của con.

Ý định muốn bưng bít và tránh né một chuyện gì không phải là ý định của con, đó là ý định của tự ngã, của cái ta vỏ ngoài. Xong với thời gian, con có thể lần hồi chiêm nghiệm được điều này: Con là ai chứ? Đâu là cái ta đang có một ý định cao hơn cái ta mang ý định thấp?

Đây là điểm con sẽ được lợi lạc khi con tự hỏi một số câu hỏi mà hầu hết mọi người không thể đặt ra. Chẳng hạn, con là ai ngay lúc này, ai đang thu nhận bài giảng này? Đây là một bài giảng tâm linh. Nó có ý định giúp con nâng cao mức nhận biết của con. Ai là cái ta đang thu nhận lời dạy này?

Con cũng có thể hỏi ai là cái ta đang cưỡng lại lời dạy này? Con có thể nhận ra là trong tâm con có một cố gắng nào đó để khiến con cưỡng lại lời dạy. Có một cố gắng moi ra những kiến thức và tin tưởng hiện thời của mình, rồi dựa trên đó đánh giá lời dạy, tìm xem có điểm nào, có lý do hay viện cớ nào để bác bỏ lời dạy. Nhiều người tìm thấy một giáo lý tâm linh rồi phát hiện một chi tiết nhỏ xíu không tán thành với những niềm tin hiện tại của họ, thì họ dùng điểm này để bảo: “Ồ, toàn bộ giáo lý này sai bét.”

Ai là cái ta đang học giáo lý và ai là cái ta đang cố khiến con bác bỏ giáo lý? Nói cách khác, ai là cái ta đang cởi mở và ai là cái ta đang muốn con đóng tâm lại? Cái ta cởi mở là cái ta thực của con, trong khi cái ta cưỡng chống muốn con khép kín tâm con lại là tâm vỏ ngoài, là nhân cách tự ngã muốn con ở lại trong ảo tưởng. Toàn bộ nhân cách tự ngã này dựa trên ảo tưởng. Nó khởi lên từ ảo tưởng nhưng nó muốn con ở lại trong ảo tưởng. Đâu là cái ta mà con là? Ấy, con có thể bắt đầu cố sức tìm hiểu nó một cách trí thức, nhưng thật sự tất cả chỉ là việc trải nghiệm, cho nên con hãy thử làm bài tập đơn giản sau đây.

Một số các con đã biết bài tập này rồi nhưng đối với một số khác thì đây là điều mới lạ. Con hãy nhận biết là con đang ngồi đây thu nhận bài giảng này. Con nhận biết là có thể con đang ngồi trên một chiếc ghế, cho nên con hãy bước ra ngoài chính con bằng tư tưởng, bước ra ngoài tâm con, và con hình dung, con tưởng tượng là con đang đứng sau ghế và đang nhìn thân con ngồi trên ghế. Bây giờ con nhận ra là con đang ngồi trong một căn phòng, nhưng có gì đó bên ngoài căn phòng. Bây giờ bằng tư tưởng, con hãy lùi về thêm nữa cho đến khi con nhìn thấy nguyên căn phòng nơi con ngồi. Con thấy thân con đang ngồi trên chiếc ghế trong căn phòng. Rất có thể căn phòng này thuộc một căn nhà. Con lại lùi thêm, lại hình dung, tưởng tượng toàn bộ căn nhà, căn phòng trong căn nhà, và thân con ngồi trên ghế trong căn phòng. Bây giờ con có thể lùi lại thêm nữa trong khoảng môi trường bên ngoài căn nhà, nhìn căn nhà, căn phòng, chiếc ghế, vân vân. Con có thể lui lại, lui nữa và lui thêm nữa, nhìn thấy toàn bộ trái đất, con nhìn trái đất từ ngoài không gian, nhìn thái dương hệ, nhìn dải thiên hà, và suốt thời gian này từ nhãn quan của con, con vẫn nhìn xuống nơi thân con đang ngồi trên chiếc ghế.

Đây là một bài tập thật đơn giản nhưng một số người sẽ không thể làm được, trong khi một số khác sẽ không bị khó khăn gì hết, ít ra để tưởng tượng và hình dung là mình đang bước lùi lại. Câu hỏi bây giờ là như sau: Ai là cái ta đang lùi lại? Đâu là khả năng mà con có trong tâm con để lùi lại khỏi thân vật lý của con?

5.5. Cái ta là nhiều hơn cơ thể và tâm vỏ ngoài

Tuyệt đại đa số con người trên trái đất bị đồng hóa với cơ thể vật lý của mình đến độ họ không thể tưởng tượng là họ có thể bước ra khỏi cơ thể và đứng nhìn cơ thể. Nếu con có khả năng làm điều này thì có nghĩa là con không đến nỗi đồng hóa với cơ thể mình như hầu hết mọi người. Điều này có nghĩa là có một cái ta không phải là cơ thể, bởi vì nếu không thì làm sao con đã có thể bước ra khỏi nó bằng tư tưởng? Con không phải, như các nhà chủ nghĩa duy vật thường bảo, là một sản phẩm của những quá trình điện hóa (electrochemical) trong bộ não. Là người tâm linh, con đã chấp nhận mình không phải là cơ thể vật lý của mình. Thế thì con cũng có thể chiêm nghiệm rằng con không là thể cảm xúc của con, con không là các tình cảm của con, con không là các ý nghĩ của con, thậm chí con không là cả cái ý niệm bản sắc của con liên hệ với trái đất. Vậy con là ai? Con là gì?

Khi con suy nghiệm điều này, cuối cùng con sẽ nhận ra là, giống như con có thể bước ra ngoài thân xác vật lý của mình bằng tư tưởng, thì con cũng có thể bước ra ngoài các cảm xúc của mình, các ý nghĩ của mình cùng ý niệm bản sắc của mình, và con ngộ ra là thực sự mình y như một diễn viên. Con bước vào một rạp hát, con mặc vào một bộ trang phục, con trét vào một lớp phấn son, thậm chí con khoác vào một giọng nói đặc thù, một cách nói năng, một nhân cách đặc thù, và đột nhiên con có thể bước ra sân khấu, diễn xuất như thể con là một người khác hẳn con người mà con vốn là trong đời sống bình thường. Cả bốn thể của con giống như một bộ đồ mà con đã chui vào. Vậy đâu là cái ta của con? Cái ta chính là cốt lõi của bản thể con.

Thày biết là tâm con đang bị khó khăn, nó đang đánh lộn vì nó muốn làm những gì nó vẫn thường làm. Nó muốn có một sự mô tả, nó muốn có một cái nhãn, một tên gọi, nó muốn nắm một số đặc tính để nó có thể hiểu được cái ta là gì. Con thấy không, khi bàn đến bản sắc thế trần, tâm lý trí, cảm xúc và cơ thể vật lý của con, tất cả những thứ này đều mang những đặc tính có thể được mô tả bằng từ ngữ, bằng những tâm ảnh mà con sử dụng trên trái đất. Nhưng cái ta mà con là, nó vượt khỏi cái đó. Nó là nhiều hơn bốn thể của con, cho nên nó không thể được mô tả qua ngôn từ cùng các tâm ảnh được sử dụng trên trái đất.

Tâm vỏ ngoài của con không thể nào nắm bắt cái ta thực của con, và rất có thể nó đang nổi loạn chống lại ý tưởng này, nó đang cuống cuồng muốn nắm bắt, gắn nhãn, phân loại khái niệm này. Có thể nó đang lập luận rằng thật vô nghĩa mà nói chuyện về một cái gì có thực nhưng lại không mang đặc tính nào khả dĩ được mô tả.

Đâu là mục đích của một giáo lý tâm linh? Là giúp con nâng cao nhận biết, và làm thế nào con sẽ nâng cao nhận biết? Bằng cách thăng vượt mức nhận biết hiện thời của con. Đâu là mức nhận biết hiện thời của con? Đó là nội dung của các thể bẳn sắc, lý trí, cảm xúc của con. Đó là cái cho con một cái ngã vỏ ngoài, một cảm nhận vỏ ngoài rằng con là ai và con liên hệ thế nào với môi trường nơi con sống.

Ngay bây giờ đây, con có một mức nhận biết nào đó, và khi thày cho con khái niệm là có một phần trong bản thể con vượt khỏi mức nhận biết đó, thì tâm con liền muốn dùng mức nhận biết hiện thời này để cố nắm bắt, phân loại, gắn nhãn, mô tả cái phần này của bản thể con. Có những đệ tử tâm linh đã bỏ ra hàng chục năm trời để cố tìm hiểu các khái niệm tâm linh một cách trí thức bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Thậm chí một số đã cố tìm hiểu khái niệm bảo rằng có một phần của họ vượt khỏi tâm, vượt khỏi tâm vỏ ngoài, nhưng họ không thể hiểu nổi với mức nhận biết hiện tại của họ. Con hãy ngẫm đi, và khi đó nếu con có khả năng buông bỏ cách nhìn cuộc đời hiện thời của mình, con sẽ có thể đạt được cái người ta thường gọi là một trải nghiệm thần bí.

Cái gọi là trải nghiệm thần bí đó thật chẳng thần bí gì cả. Nó dựa trên sự kiện có một cái ta. Chúng ta có thể gọi đó là cái ta ý thức, hay cái Ta Biết, nhưng ở một thời điểm nào đó có một cái ta đã bước vào cơ thể vật lý của con cùng các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Nó đến từ ngoài, nó đã bước vào đó, và nó đang dùng bốn thể này như một cỗ xe để tương tác với môi trường của con trên trái đất. Nó không do các thể này sản xuất ra, mà nó đã khoác vào các thể này. Theo một nghĩa nào đó, thậm chí nó đã chế tạo ra các thể bản sắc, lý trí, cảm xúc trong những kiếp trước. Chính sự kiện nó đã bước vào tâm hiện thời của con cũng có nghĩa là cái ta này có khả năng bước ra ngoài tâm con. Con có thể nói là ngay bây giờ đây, cái ta nhận biết chính nó là bốn thể phàm, nhưng cái ta có khả năng bước ra ngoài bốn thể này và ý thức được chính nó vượt hơn bốn thể, vượt hơn tâm. Đây là nền tảng cho mọi sự tăng triển nhận biết.

Nếu con lại dùng tâm đường thẳng thì con có thể ví con đường này như một chiếc cầu thang có nhiều bực riêng rẽ. Ngay bây giờ con đang đứng ở một bực nào đó trên cầu thang. Câu hỏi là làm thế nào con bước lên bước kế tiếp? Ai đang bước lên chứ? À, đó không phải là các thể cảm xúc, lý trí, bản sắc của con. Đó không phải là ý niệm bản ngã hiện thời của con, ý niệm con là ai, bởi vì cái ngã hiện tại này của con bị buộc chặt vào bực thang hiện tại. Vậy cái gì bước lên? Cái Ta bước lên.  

5.6. Tự quan sát là cốt tủy của con đường tâm linh

Điều này xảy ra khi con nhìn vào bản thân, chẳng hạn một khuôn nếp phản ứng. Con thấy mình có xu hướng phản ứng một cách nhất định nào đó trong một số hoàn cảnh. Thay vì cho rằng đây là cách phản ứng duy nhất, con đạt tới điểm tự hỏi: “Tại sao tôi lại phản ứng cách này? Tôi thật không muốn nổi giận khi có ai đó không làm theo ý tôi. Tôi không muốn có trải nghiệm giận dữ này. Nếu tôi nghĩ đây là cách duy nhất thì làm thể nào tôi có thể thoát ra khỏi nó? Vậy tôi hãy nhìn vào nó, nhìn vào cái gì ở đằng sau nó. Tại sao tôi lại cho rằng đây là cách phản ứng duy nhất?”

Xong con có thể nhận ra là người khác không phản ứng cùng cách đó trong những tình huống tương tự. Có những cách phản ứng khác. Thật ra, Phật có nói là luôn luôn có một cách phản ứng khác dựa trên sự không dính mắc. Nói cách khác, con không mang một khuôn nếp khiến con bị dính mắc với một cách phản ứng nhất định. Điều này con có thể ngộ ra, con có thể nhìn ra là có một ảo tưởng khiến con tin rằng đây là cách phản ứng duy nhất. Khi con nhìn xuyên thấu ảo tưởng này, khi con thấy đó là một ảo tưởng đang giới hạn con, đang cầm giữ con lại, thì con sẽ tự động buông nó ra.

Có một câu chuyện quen thuộc được nhiều vị thày tâm linh sử dụng là nếu con đang đứng trong bóng tối, con nắm một vật gì đó và tưởng đó là sợi dây thừng thì có thể con sẽ nắm tiếp. Nhưng nếu người ta bật đèn lên và con thấy đó là một con rắn, thì con không phải nặn óc phân tích phức tạp dài dòng. Con chỉ tự động mở tay ra và buông con rắn. Điều tương tự cũng xảy ra ở đây. Khi con thấy rằng cái con tưởng là sự thật hay cách phản ứng duy nhất chỉ là một ảo tưởng, thì con tự động buông ảo tưởng ra, thế rồi con bước lên bực kế tiếp. Tất nhiên, con sẽ vẫn đem theo các ảo tưởng khác còn sót lại trong ba thể. Nhưng khi con xem xét ảo tưởng kế tiếp và buông nó ra, con lại đi lên một bước nữa, và đây là cách làm thế nào con lần lần tiến bước trên đường tu. Nhưng công việc này chỉ có cái Ta của con mới làm được, không phải là tâm vì tâm không thể xem xét chính nó.

5.7. Máy tính sẽ không bao giờ có khả năng tự nhận biết

Hiện trong các giới khoa học đang có một phong trào nỗ lực tạo ra thông minh nhân tạo, vì nhiều nhà khoa học trong ngành nghiên cứu hành xử con người, chẳng hạn, đã tìm ra là các phản ứng của con người gần giống như máy tính. Đối với hầu hết mọi người thì nhận xét này không sai. Con đặt người ta vào một tình huống nào đó thì họ sẽ phản ứng y như cách họ đã phản ứng mười lần trước đó trong cùng tình huống này. Lý do là vì như thày đã giải thích, con mang một số khuôn nếp trong tâm tiềm thức của con. Thông thường một khuôn nếp nằm yên như đang ngủ, nhưng khi con gặp một tình huống đặc thù, tình huống sẽ kích hoạt khuôn nếp, sẽ tiếp quản phản ứng của con, thế là bây giờ con phản ứng theo đúng cách đó. Tâm tiềm thức của con có nhiều mặt giống như một chiếc máy tính, nó mang sẵn một số chương trình và khi chương trình được kích hoạt, chúng sẽ điều khiển phản ứng của con, con sẽ phản ứng theo một cách nào đó, rồi có thể sau đó con sẽ hối hận hay con lập luận rằng: “Ồ, đó là cách duy nhất mình đã có thể phản ứng.”       

Điều các nhà nghiên cứu thông minh nhân tạo đã hiểu lầm là đối với một con người, đó không phải là cách duy nhất. Một con người luôn luôn có tiềm năng thay đổi khuôn nếp của mình một cách ý thức và cố tình, và cho dù con đã có thể phản ứng theo một cách hàng trăm lần, con vẫn có thể đột nhiên chọn một cách phản ứng khác trong lần kế tiếp. Một chiếc máy tính sẽ không thể làm vậy được. Tại sao? Vì nó không có sự tự nhận biết. Nó không có một cái ta nhận biết. Cái ta mà thày vừa nói đến là cái ta có khả năng trở nên ý thức về chính nó. Lúc đầu nó trở nên ý thức về chính con, nhưng nó cũng nhận biết nó không phải là ngã vỏ ngoài. Đây là tại sao chính con có tiềm năng – như một con người và mọi con người – thay đổi phản ứng cùng hành động của mình một cách ý thức và cố tình. Con có thể chọn một phản ứng khác so với cách phản ứng trong quá khứ. Trong quá khứ có thể con đã phản ứng theo một chương trình nơi con thực sự không có chọn lựa. Đúng, con đã chọn lựa trong một quá khứ xa xôi qua việc tạo ra chương trình, nhưng khi chương trình kích hoạt thì con không đang chọn lựa ý thức. Đây chính là lý do tại sao một số nhà khoa học đã khám phá là con đã có một phản ứng trong bộ não trước khi con chọn lựa ý thức trong một tình huống đặc thù. Lý do là vì có một chương trình tiềm thức đã chọn lựa trước khi con biết đến chọn lựa đó ở mức ý thức.

Vấn đề rộng lớn hơn ở đây là con mang tiềm năng trở nên tự ý thức, tự nhận biết, không những về các phản ứng của mình mà còn về những mức độ tự nhận biết cao hơn, về con người mà con thực là. Con không là các phản ứng của con, con không là các cảm xúc của con, con không là các ý nghĩ của con, con không là ý niệm bản sắc vỏ ngoài của con. Con là cái mà một số người gọi là một sinh thể tâm linh. Con đến từ ngoài cái môi trường mà con gọi là trái đất. Theo một nghĩa nào đó, Bát chánh đạo – hay bất cứ tên gọi nào cho con đường tâm linh – là một tiến trình càng ngày càng tự nhận biết nhiều hơn. Cái ta mà con là càng ngày càng trở nên ý thức về cái nó là và cái nó không là.

5.8. Không có giác ngộ tức thì

Một lần nữa, tâm vỏ ngoài của con sẽ lại nói: “Vậy tại sao thày không cho con ngay mức tự nhận biết tối thượng đó đi, cái bí ẩn tối hậu về sự tự nhận biết, để con nhảy qua tất cả những bước này và bước vào cõi Niết bàn ngay bây giờ? Con có thể giác ngộ ngay lập tức.” Con thấy đó, điều này không thể làm được. Không có sự giác ngộ tức thì và lý do thật đơn giản. Cái ta mà con là đã không đến trái đất ban đầu để đạt giác ngộ. Con đến trái đất là để có một số trải nghiệm ở đây có thể tạo thuận lợi cho tiến trình hướng đến giác ngộ của con. Con đã không đến địa cầu chỉ để thoát khỏi nơi đây, mà con đến địa cầu để có một số trải nghiệm. Và để có những trải nghiệm này, cái ta mà con là phải tạo ra những nội dung, trước tiên trong tâm bản sắc, xong trong tâm lý trí, rồi trong tâm cảm xúc của con. Chính những khái niệm này đặt nền tảng cho các trải nghiệm con đã có trên trái đất, với mục đích để con có được loại trải nghiệm con có thể có trên trái đất, cho đến khi con chán chê các loại trải nghiệm này và mong muốn một cái gì hơn nữa.

Đó là lúc con sẵn sàng cất bước trên đường tu. Cho đến khi đó, con vẫn có loại trải nghiệm mà con có thể có trên trái đất, rằng mình là một sinh thể tách biệt sống trong một thế giới với những sinh thể tách biệt khác, và con đang giao tranh với các sinh thể này. Con có thể nói bằng tâm ý thức: “Tôi không bao giờ mong muốn chuyện giao tranh này. Đó không phải là lý do tôi đã đến địa cầu.” Nhưng thật ra đó chính là lý do. Khi con bước lui lại khỏi trải nghiệm hiện thời của mình, con nhận ra đây chính là tại sao con đã đến địa cầu. Con có thể có nhiều lý do khác nhau, nhiều động lực khác nhau, nhiều ý định khác nhau ở bên sau, nhưng đó chính là tại sao con đã đến trái đất – để có loại trải nghiệm mà con có thể có trên trái đất. Sẽ tới một điểm sau rất nhiều kiếp sống nếm mùi loại trải nghiệm này, con sẽ chán chê và bấy giờ con muốn cái gì khác hơn. Đó là lúc con mở tâm ra đón nhận con đường tâm linh dưới bất kỳ phiên bản nào con có khả năng nắm bắt.

Mục đích của con đường tâm linh bây giờ là giúp con dần dần trở nên ý thức về những nội dung mà con đã bỏ vào các tâm cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, con lần hồi vứt bỏ chúng đi để càng ngày con càng có ít hơn trong những tâm này. Con trở nên càng ngày càng tự do hơn. Thực sự giác ngộ là điểm khi trong tâm con không còn nội dung nào nữa dựa trên các ảo tưởng của nhị nguyên và tách biệt. Con đã khắc phục tất cả mọi ảo tưởng rằng con là một sinh thể tách biệt, rằng con có thể sử dụng các đối cực nhị nguyên để biện minh cho mọi việc mình muốn làm như một sinh thể tách biệt. Đó là khi con giác ngộ. Có thể nói là trong khi con bước chân hướng đến giác ngộ, con lấy từng nội dung từ trong tâm và vứt nó đi, con để cho nó ra đi, mỗi lần một ảo tưởng, cho đến khi con không còn ảo tưởng nhị nguyên tách biệt nào sót lại.

5.9. Con có đánh mất nhân cách của mình?

Tuy nhiên một số người sẽ phản đối chuyện này và cho rằng: “Liệu sẽ có nghĩa là tôi không còn quan điểm, niềm tin hay lý thuyết nào về cuộc sống, không còn khuôn nếp nào trong cảm xúc? Liệu có nghĩa là tôi không còn nhân cách nào, bản sắc nào?” Phải, có nghĩa đúng là như vậy. Con không còn nhân cách cùng bản sắc vì những thứ này được định nghĩa trên trái đất dựa trên các ảo tưởng của Maya, các ảo tưởng của tách biệt và nhị nguyên. Con mất đi cái mà hầu hết mọi người xem là nhân cách và bản sắc của họ. Không có nghĩa là con trở thành một con số không, vì con vẫn có một sự cá biệt trong bản thể cao của con mà bây giờ con có thể bắt đầu biểu đạt trên trái đất. Cái con mất đi là cái có thể gọi là cá tính, nhân cách và bản sắc nhân thế. Nếu con cởi mở với một giáo lý tâm linh, đây chính là ý định cao hơn mà con đã có trước khi con lập ra Kế hoạch Trọn đời của mình.

Điều này có nghĩa là giờ đây khi con nhìn vào đời mình và các hoạt động của mình, con không phải làm điều mà nhiều Phật tử đã làm, là đánh giá lại xem ý định nào là chân chính, ý định nào là bất chính: “Tôi cần phải ép buộc mình không được có ý định bất chính.” Thay vào đó, con có thể nói: “Trong Kế hoạch Trọn đời của tôi có điều gì nói đến một khía cạnh đặc thù trong đời tôi ngay bây giờ?” Lấy ví dụ con nhận diện trong con mong muốn được nếm một loại trải nghiệm nào đó. Trên trái đất có thể có nhiều loại trải nghiệm khác nhau, nhưng như trong trường hợp nhiều người, con quyết định mình muốn một mối quan hệ riêng tư, một quan hệ tình dục với ai đó. Đây là một loại mong muốn rất phổ biến, ngay cả trong số những người tâm linh.

Có rất rất nhiều sự hiểu lầm về điểm này trong số những người tâm linh, và con vẫn thấy rất nhiều Phật tử tu học giáo lý rồi dùng tâm vỏ ngoài để bảo: “Ồ, bất cứ hoạt động nào không tâm linh đều sai trái cả và tôi phải tránh làm chuyện đó.” Có một điều khác con có thể xem xét ở đây. Giả dụ con đang thảo Kế hoạch Trọn đời của mình, khi đó con có một tầm nhìn rộng lớn hơn bây giờ. Con nhận ra là con vẫn còn mong muốn trải nghiệm một quan hệ riêng tư, ngay cả một quan hệ vật lý. Con quyết định là con sẽ tự đặt mình vào một tình huống nơi con có thể gặp một người và có được loại quan hệ này. Có sai trái gì đâu trong việc trải nghiệm như vậy nếu con đã lượng định là mình cần có trải nghiệm này trong một thời gian để mình có thể chán chê chuyện này? Nhờ vậy con sẽ có thể thoát ra khỏi nó, để sau đó con có thể tập trung vào những trải nghiệm khác mà con muốn cho phần còn lại của kiếp này. Có sai trái gì đâu trong việc này?

Đó là một phần trong Kế hoạch Trọn đời của con sẽ cuối cùng dẫn con lên một mức nhận biết cao hơn. Thay vì ép buộc mình phải kìm nén một trải nghiệm, con bước vào trải nghiệm cho đến khi con chán chê, con chán ngán nó, rồi con có thể lượng định – không nhất thiết là con phải từ bỏ tình huống vỏ ngoài đó, mà con đạt tới điểm mình không còn ham muốn cưỡng chế nào để nếm trải nghiệm đó. Thật chẳng có gì tự thân là phi tâm linh trong hoạt động tình dục, nhưng nếu con dính mắc với nó, nếu đó là một ám ảnh cưỡng chế, thì tất nhiên nó có thể cản trở sự tăng triển lên những tầng nhận biết cao hơn. Nếu con đạt tới điểm khắc phục được sự dính mắc, khắc phục được sự cưỡng chế, khắc phục được ảo tưởng là con cần đến nó để cảm thấy trọn vẹn, thì hoặc con có thể chọn ngừng hẳn hoạt động đó, hoặc tiếp tục một cách khác mà không dính mắc. Trong cả hai trường hợp, nó sẽ tạo thuận lợi cho con tăng triển nhận biết.

Con thấy đó một lần nữa, đâu là ý định cao hơn của con ở đây? Có phải là giải quyết các ảo tưởng, giải quyết Maya trong tâm con? Hay có phải là sử dụng một lời dạy tâm linh để che đậy các ảo tưởng để con, ở mức ý thức, có thể giả vờ như thể con không có ảo tưởng? Con có thể nghĩ: “Ồ, tôi đã hiểu lời dạy tâm linh cao cấp này rồi, tôi đã bỏ ra không biết bao nhiêu thời giờ thực hành các pháp tu này, cho nên tôi đã vượt xa mong muốn này, ý định này.” Nhưng con chỉ giả vờ thôi con. Con đang che phủ mong muốn đó và điều này sẽ không giúp con vươn lên bước kế tiếp của chiếc thang hay của cầu thang.

5.10. Xét lại các ý định của mình

Đây là bước tiếp theo trên con đường Bát chánh đạo, là xét lại các ý định của con. Ý định trên hết của con là cuối cùng con sẽ thoát khỏi trái đất, nhưng con không thể ép mình thoát khỏi trái đất. Nếu con kìm nén một ham muốn nào đó thì con sẽ phải trở lại đầu thai lần nữa để đạt tới điểm con buông được ham muốn một cách ý thức. Nhiều người tâm linh đã ép buộc mình phải sống trong một khung cảnh tu viện nơi họ phải kìm nén ham muốn tình dục. Có thể là họ đã sống được như vậy suốt một kiếp dài, hay ngay cả mấy kiếp, nhưng sẽ tới một điểm họ nhận ra – khi họ ở ngoài hiện thân – là họ đã không tự giải phóng khỏi ham muốn mà chỉ kìm nén ham muốn. Họ sẽ cần trở lại trải nghiệm hoạt động đó cho dù nó là gì, cho đến khi họ có thể buông bỏ ham muốn một cách ý thức và cố tình: “Tôi đã chán chê trải nghiệm này rồi.” Việc này không thể cưỡng ép được, nhưng tiếc thay, rất rất nhiều người đã dùng một giáo lý tâm linh để tạo ra ý tưởng là họ phải tự cưỡng ép. Nếu con thực sự muốn tiến triển tâm linh, ý định của con phải là giải quyết, từ bỏ, buông xả, khắc phục, vượt qua các mối dính mắc của mình, các khuôn nếp, các nội dung trong thể cảm xúc, thể lý trí và thể bản sắc. Đây phải là một ý định bao trùm tất cả, và khi con vươn lên đến mức đó và ý thức được điều đó, con có thể lượng định tất cả mọi ý định khác của con.

Một lần nữa, con phải kiếm sống để nuôi cơ thể, giữ cho nó sống còn. Có thể con có một số bổn phận đối với gia đình và với người khác. Làm thế nào con quân bình được một cuộc sống gia đình bình thường với sự kiện mình là một người tâm linh có nhận thức về giáo lý tâm linh? Con chỉ có thể làm được bằng cách ngộ ra là bất kỳ hoạt động nào – ừm, hầu hết mọi hoạt động trên địa cầu – đều có khả năng tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết của con. Nguyên cái ý tưởng cho rằng con phải từ bỏ cuộc sống trần tục, phải lui vào tu viện để tiến bộ tâm linh, không luôn luôn đúng. Có thể có một số người cần làm như vậy trong một hay vài kiếp sống, nhưng chắc chắn không phải là mọi người. Kỳ thực, trong thời buổi con đang sống hôm nay, điều quan trọng hơn so với các thời đại trước là mọi người cần bước trên đường tâm linh bằng cách sống một cuộc đời năng động ngoài xã hội. Đây là điểm sẽ tạo cảm hứng cho nhiều người hơn trước để họ cởi mở với đường tu khi họ thấy là họ không phải từ bỏ đời sống bình thường, rút vào tu viện trên đỉnh núi ngõ hầu là người tâm linh.

Bây giờ là một thời đại, một thời điểm có rất nhiều người đã tình nguyện bước vào hiện thân để chứng tỏ là con có khả năng tìm ra một sự quân bình giữa đời sống trần thế và sự tăng triển tâm linh, tăng triển nhận biết. Tuy nhiên, thày cũng nói là điều này quan trọng hơn bao giờ hết do thời buổi, nhưng không có nghĩa là nó không quan trọng trong quá khứ. Con nghĩ tại sao thày đã gọi con đường này là Trung đạo? Một lần nữa, Trung đạo là một cách dịch đáng tiếc về một khái niệm phức tạp hơn. Dẫu vậy, Trung đạo không phải là pháp tu khổ hạnh cực đoan mà thày đã đi theo trong thời non trẻ dại dột, cũng không phải là cuộc sống thế tục hoàn toàn mù quáng mà đa số con người đi theo. Nó thăng vượt cả hai, qua đó con sống một cuộc sống năng động trong xã hội với bổn phận gia đình, nhưng con vẫn bước chân trên con đường tâm linh vì con có ý định sử dụng các hoạt động thế tục của mình để tạo thuận lợi cho mình tăng trưởng nhận biết.

Làm thế nào thực hiện được việc này? À, một phần bằng cách xem xét phản ứng của mình trong các tình huống thế tục, và phần khác bằng cách nhận ra là con có khả năng tạo cảm hứng cho người khác qua tấm gương của con. Điều gì xảy ra khi người ta rút lui khỏi xã hội, trở thành tăng ni và sống trong thiền viện? Họ tránh được nhiều áp lực của đời sống thường nhật khả dĩ kích hoạt các khuôn nếp phản ứng của họ. Họ sống trong một môi trường kiềm chế, và một khi họ đã chấp nhận các ràng buộc của môi trường này, rất có thể không có nhiều thứ sẽ kích hoạt phản ứng của họ. Họ có thể tự đánh lừa là họ không còn các phản ứng này nữa, rằng bằng cách chọn sống trong một hoàn cảnh không kích động khuôn nếp thì họ đã khắc phục khuôn nếp. Nhưng không, tất nhiên là họ chỉ áp chế nó thôi.

5.11. Trung đạo thực sự nghĩa là gì

Toàn bộ khái niệm Trung đạo là con không định nghĩa con đường tâm linh theo hai đối cực nhị nguyên, qua đó hoặc con là một người hoàn toàn trần tục, hoặc con phải rút ra khỏi thế gian để là một người tâm linh. Có một con đường khác cho tình trạng “hoặc cái này hoặc cái kia”, một giải pháp khác cho cái nhìn trắng đen đó. Con có thể tìm ra một cách để là người tâm linh trong khi vẫn năng động trong xã hội. Đây là ý nghĩa sâu xa của ý định cao hơn, và bỗng nhiên tất cả mọi thứ đều hiện ra dưới một sắc thái mới. Con có được một nhãn quan mới về mọi khía cạnh đời con. Bỗng nhiên con có thể bắt đầu xem lại một vấn đề đã là một trong những cản trở lớn nhất cho người tâm linh – đó là sự phân biệt giữa những gì là hoạt động tâm linh và những gì là hoạt động không tâm linh, hay thậm chí phản tâm linh. Tất nhiên đây là một chủ đề thày sẽ quay trở lại khi trình bày về hành động cao hơn [Chánh nghiệp]. Nhưng dẫu vậy, điều quan trọng khi con xem xét ý định của mình là con cần vượt qua cái nhìn nhị nguyên về con đường tâm linh.

Đâu là một trong những lời dạy nền tảng của đạo Phật? Đó là mọi thứ đều là Phật tánh. Hiển nhiên, con người trên địa cầu không nhìn thấy mọi thứ là Phật tánh. Tại sao họ không thấy được mọi thứ là Phật tánh? Bởi vì tâm họ bị mù quáng bởi tấm màn Maya. Nhưng cái gì cấu tạo tấm màn Maya? Đó là tâm thức nhị nguyên luôn luôn tạo ra hai đối cực nghịch lại với nhau một cách đen trắng. Tâm thức này ngụ ý một sự phán xét giá trị, nó bảo hoạt động này không tâm linh và hoạt động kia thì tâm linh. Nếu tất cả đều là Phật tánh thì có nghĩa lý gì mà nói: “Cái này tâm linh, cái kia không tâm linh?” Sẽ ý nghĩa hơn chăng nếu con nhận ra mục đích thực của đường tu là khắc phục ảo tưởng? Ảo tưởng là cái che phủ Phật tánh ở bên trong tất cả mọi thứ. Có nghĩa mục đích thực của đường tu không phải là định nghĩa thế này là tâm linh, thế kia là phản tâm linh để rồi phải tránh cái phản tâm linh và chú tâm vào cái tâm linh.

Mục đích thực của con đường tâm linh, của Trung đạo, là ngộ ra mọi hoạt động trên trái đất đều có khả năng tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết của con khi con tiếp cận chúng với ý định thăng tiến nhận biết, nhìn vào bản thân mình, phản ứng của mình, ảo tưởng của mình. Đó là khi hoạt động đó trở nên tâm linh. Bảo rằng một hoạt động là không tâm linh cho nên việc tham gia vào đó – như việc lập gia đình chẳng hạn – sẽ phá hoại bước tiến tâm linh, chỉ đơn giản là một mức độ hiểu biết thấp hơn về đường tu.

Hiển nhiên là có một số hoạt động sẽ không tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết vì chúng càng nhốt con sâu hơn sau tấm màn Maya, nhưng bất kỳ hoạt động nào cũng có thể được sử dụng để giúp con nhìn ra ảo tưởng đằng sau hoạt động. Vì vậy thày không bảo là việc xông ra ngoài kia giết người sẽ giúp con tăng triển nhận biết, nhưng quả thực việc nhìn ra các ảo tưởng đằng sau việc giết người có khả năng tạo thuận lợi cho con tăng triển nhận biết.

Một lần nữa, tâm nhị nguyên luôn luôn muốn tạo ra sự phân biệt và tách biệt để giàn dựng một thế nhị đối, nhưng đường tu, con đường Bát chánh đạo, là nhìn vượt lên trên tấm màn Maya để nhìn thấy mọi sự là Phật tánh. Phật tánh ở trong mọi thứ, cho nên ý định đích thực là nhìn ra điều này, chứ không phải là nhận diện cái này hay sinh hoạt này là tâm linh và sinh hoạt kia thì không. Điều gì sẽ giúp con thấy được Phật tánh đằng sau tấm màn Maya? Nếu điều đó giúp con thấy được thì làm sao nó không tâm linh cho được? Nếu điều gì buộc chặt con vào các ảo tưởng nhị nguyên, thì cho dù con có dùng giáo lý tâm linh để củng cố cho ảo tưởng, làm sao nó tâm linh cho được?

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn trao trong bài này. Những ngọn sóng chấn động chắc chắn đang được gửi vào tâm thức tập thể, làm khuấy động lũ quỷ của Mara. Chúng đang gầm gừ la hét, chúng đang cố khiến cho mọi người bác bỏ những xung lực này để họ lại tiếp tục tham gia vào cuộc đấu tranh của Biển Luân hồi.

Nhưng các con cởi mở với những lời dạy này, các con có thể tránh được chuyện đó bằng cách biến lời dạy thành con thuyền Bát nhã, nhưng con sẽ chỉ làm được vậy nếu con luôn nỗ lực vươn lên một cấp độ ý định cao hơn so với ngay bây giờ. Thày đã hoàn thành ý định của thày trong việc ban truyền lời dạy này. Thày hy vọng nó sẽ giúp con hoàn thành ý định của con trong kiếp đầu thai này.

Hãy tĩnh tâm và xuôi theo Dòng sông sự Sống

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 10/10/2022, nhân dịp Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền Dân chủ.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

“Chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng” [Bài chú 8.06 Gautama, con an bình trọn vẹn].

Khi ta còn hiện thân là Phật nhiều thế kỷ về trước, một phần lớn trong sứ vụ của ta – mà con có thể gọi là trong Tăng đoàn của Phật – là giúp cho các đệ tử tĩnh tâm hầu chấm dứt ý nghĩ lăng xăng. Điều này cần thiết 2500 năm về trước. Thời nay con khó lòng tưởng tượng được thời đó con người sống như thế nào. Con có tưởng tượng nổi không? Đối với những ai trong số các con đủ lớn tuổi để còn nhớ, liệu con có nhớ cuộc sống như thế nào khi chưa có internet? Con có tưởng tượng cuộc sống như thế nào khi chưa có truyền hình? Chưa có máy phát thanh? Con có thể tưởng tượng khi chưa có sách vở và hầu hết mọi người đều không biết đọc?

Ý nghĩ lăng xăng

Chắc chắn đa số con người thời đó đều bận rộn làm lụng thể xác để kiếm sống. Và so với ngày nay, họ chẳng có gì để tiêu khiển hay khích động tinh thần. Con thử nhìn xem thế giới hiện đại có biết bao nhiêu thứ đang níu kéo sự chú ý của con? Có lạ lắm không nếu con không có nhiều ý nghĩ lăng xăng? Thật có quá nhiều thứ đang đòi hỏi sự tập trung của con, đòi hỏi con phản ứng lại và làm gì đó. Nhưng ngay cả thuở trước cũng vậy, thử thách lớn nhất mà ta đã gặp trong cương vị một vị thày tâm linh chính là các ý nghĩ lăng xăng nơi mọi người.

Vậy con hãy tưởng tượng ngày nay với tất cả những thứ kích thích đó, thì liệu việc neo trụ vào Ngọn lửa Hòa bình hầu chấm dứt ý nghĩ lăng xăng sẽ khó khăn đến chừng nào? Việc tĩnh tâm đã luôn luôn là một thách đố, nhưng chưa bao giờ trong lịch sử ghi chép mà thách đố này to lớn như ngày nay. Các thày, các chân sư thăng thiên, biết rất rõ là khi các thày trao cho con bấy nhiêu giáo lý như đã ban truyền, thì không nhất thiết là các thày sẽ giúp con tĩnh lặng các ý nghĩ lăng xăng của con dễ dàng hơn.

Đa số mọi người – và chắc chắn vị sứ giả này có thể chiêm nghiệm điều này nơi bản thân ông – đều trải qua một giai đoạn khi họ lần đầu tiên khám phá đường tu tâm linh, và hẳn giai đoạn này đã phấn khích họ mãnh liệt. Nhiều người trong số các con đã lớn lên trong một cuộc sống thiếu vắng chất liệu tâm linh, nhưng con vẫn biết là có một điều gì đó cần tìm kiếm, một điều gì đó còn thiếu sót, một hiểu biết nào đó mà con hằng khao khát. Khi con tìm ra giáo lý tâm linh thì bấy giờ tâm con được dịp rồ máy. Con muốn học giáo lý, con muốn hiểu giáo lý, con muốn thể nhập giáo lý, con muốn thực hành mọi pháp tu mà giáo lý đưa ra. Và con tập trung hết mình vào đó.

Không cứ là việc này có gì sai trái – đó là một tiến trình mà con cần kinh qua. Nhưng liệu con có thấy là kỳ thực nó tạo ra một mức độ suy nghĩ lăng xăng cao hơn nữa hay không? Nhiều người chú tâm vào giáo lý vỏ ngoài, cách tu tập vỏ ngoài, nét văn hóa vỏ ngoài của tổ chức tâm linh mà họ tham gia. Và họ bị cuốn hút vào đó đến độ gần như không còn lúc nào tâm họ có thể tĩnh lặng, có thể trung hòa, có tai lắng nghe.

Sự phóng chiếu liên tục vào tâm con

Thế rồi tới điểm khi con trụ chặt vào đường tu nội tâm. Bây giờ con nhận ra đường tu không thực sự là chuyện tuân theo pháp tu vỏ ngoài hay học hỏi lời dạy vỏ ngoài, mà là giải quyết tâm lý. Con tập trung vào việc giải quyết tâm lý của con, như nhiều người trong các con và sứ giả này đã làm suốt nhiều năm. Nhưng đây lại là thêm một mức độ ý nghĩ lăng xăng nữa. Bỗng nhiên một ý tưởng nảy ra: “Ồ, có lẽ chăng tôi mang xu hướng này trong tâm lý mình? Tại sao tôi lại phản ứng cách đó trong hoàn cảnh đó? Có điều gì tôi chưa nhìn ra? Có điều gì tôi chưa giải quyết? Ồ, tốt hơn tôi nên nhìn xem, tôi nên tìm xem cái đó là gì, vì chắc chắn tôi không muốn trong tâm mình có vấn đề gì chưa giải quyết.” Cho mỗi tầng trên đường tu đều có nguyên một bộ ý nghĩ lăng xăng. Chúng được phóng chiếu vào tâm con từ các tà lực, các sa nhân, từ tâm thức tập thể và từ những cái ngã tách biệt mà con còn sót. Đây là một sự phóng chiếu liên tục.

Lẽ tự nhiên, con có thể làm gì đó về chuyện này. Các thày có dạy con là con có thể thỉnh gọi Đại thiên thần Michael để thày niêm phong tâm con cùng các luân xa của con. Con có thể thỉnh gọi Astrea để thày cắt đứt cho con thoát khỏi nhiều sợi dây ràng buộc với tà lực.

Nhưng có sự phóng chiếu liên tục những ý nghĩ lăng xăng. Một số vị thày trong đạo Phật gọi đó là “tâm khỉ” không ngừng suy nghĩ. Con bị phóng chiếu liên tục. Con có thể làm gì đây? Có thể nào con tắt nó đi? Con không thể thực sự tắt nó đi. Sa nhân sẽ tiếp tục làm những gì chúng vẫn làm. Tâm thức tập thể sẽ tiếp tục làm những gì nó vẫn làm. Con có thể giải quyết những cái ngã và điều này sẽ giảm bớt các ý nghĩ. Nhưng dù sao con vẫn có một bộ não, một bộ não vật lý. Và bộ não vật lý được thiết kế để suy nghĩ, hay ít ra để chuyên chở suy nghĩ. Nhưng bộ não vật lý cũng có khả năng tạo ra ý nghĩ vì nó có thể tạo ra một số trải nghiệm và cảm thọ khác nhau. Khi con bước chân trên đường tâm linh, não của con sẽ bắt đầu tạo ra những ý nghĩ tâm linh. Và con có thể cảm thấy mình bắt buộc phải suy nghĩ chúng. Sứ giả này đã bước trên đường tu nhiều năm trời trước khi ông ngộ ra là ông thực sự không bắt buộc phải suy nghĩ bất kỳ ý nghĩ nào đi vào trong đầu ông.

Chuỗi tư tưởng cưỡng chế

Con thử xem xét điều này. Có một ý tưởng đột ngột xuất hiện trong đầu con. Nó có thể được phóng chiếu từ đâu đó không liên quan gì tới con. Nhưng tâm con vẫn cảm thấy bị bó buộc phải suy nghĩ về nó. Con cho rằng, và hầu hết mọi người cũng cho rằng, ý nghĩ đó là của mình. Và con thấy bó buộc phải suy nghĩ nó. Có nguyên một tiến trình khi ý tưởng trải bày ra trong tâm con, thế rồi ý tưởng này dẫn đến một sự liên tưởng, và đột nhiên một ý tưởng khác xuất hiện. Và trước khi con biết chuyện gì xảy ra, mấy phút đã trôi qua và con đã nhảy vào đủ loại đề tài vớ vẩn khác dẫn con thật xa khỏi ý tưởng ban đầu. Sứ giả này đã phải mất một thời gian dài trước khi ông chịu nhìn nhận là ông đã có hiện tượng này suốt đời ông. Những chuỗi tư tưởng, những quy trình này chẳng dẫn tới đâu và chẳng chế tạo được gì. Chúng chẳng giải quyết được gì mặc dù đôi khi chúng khoác lấy hình dạng một vấn đề. Nhưng chúng không bao giờ ngừng, không bao giờ giải quyết hay tạo ra bất cứ gì.

Ta không bảo là con không thể có những ý tưởng xây dựng dẫn đến một hành động tạo ra một kết quả. Nhưng rất nhiều khi con chỉ có ý nghĩ chạy loanh quanh luẩn quẩn, nhảy từ đề tài này sang đề tài khác và không sản xuất được gì. Đây là cái ta gọi là ý nghĩ lăng xăng. Nhiều người, hầu hết mọi người, đều cho rằng: “Ồ, chắc đây là ý tưởng của tôi. Tại sao nó lại nảy lên trong đầu tôi nếu nó không phải là ý tưởng của tôi? Và nếu nó là ý tưởng của tôi thì tôi phải suy nghĩ nó, tôi phải đi theo nó, tôi phải chú ý đến nó.” Nhiều người bỏ ra cả đời trong tâm thái này, không ngừng có những ý nghĩ lăng xăng mà họ cảm thấy họ phải suy nghĩ. Ý tưởng dẫn đến liên tưởng, nó tiếp tục như vậy một vài giây, xong nó dẫn đến một ý tưởng khác, và nó nhảy từ cái này sang cái kia rồi cái nọ, chẳng khác gì một con khỉ đu cây. Nó chẳng đi tới đâu, giống như con khỉ cũng chẳng đi tới đâu. Con khỉ nhảy từ cành này sang cành nọ nhưng vẫn ở nguyên trên cây.

Tâm muốn bận rộn

Tới một điểm trên đường tu con cần nhận thức hiện tượng này và tự hỏi: “Tôi có thực sự muốn các ý nghĩ lăng xăng này chiếm trọn tâm tôi? Tôi có muốn cảm thấy bó buộc phải suy nghĩ về chúng và bị cuốn vào các quy trình tư duy đó, những liên tưởng đó, nhảy qua nhảy lại kiểu đó?” Là một học trò tâm linh, con thường vô hiệu hóa nó, vì khi con học tập một giáo lý tâm linh thì con chú tâm vào lời dạy, và nhiều khi không hay biết, con bỗng gạt đi rất nhiều ý nghĩ như thế do con tập trung vào giáo lý. Ý tưởng nhập vào tâm con vì tâm con lẫn bộ nảo được thiết kế để suy nghĩ, cho nên chúng tưởng là chúng phải suy nghĩ hoài hoài. Có một phần trong tâm con, và ngay cả não của con, cảm thấy là nếu nó không đang suy nghĩ thì có gì đó không ổn và nó không đang làm nhiệm vụ của nó. Cũng từa tựa như nếu tim con ngừng đập. Tim ngừng đập quả sẽ là một vấn đề, nhưng tâm mà ngừng suy nghĩ thì thật sự không là vấn đề, thế nhưng tâm lại cho đó là một vấn đề. Nó nghĩ con sẽ chết nếu nó không suy nghĩ.

Con cũng có thể vô hiệu hóa quy trình đó bằng cách đọc chú, đọc thỉnh, vì nó khiến tâm con bận việc. Con thấy đó, tâm con phải bận làm một chuyện gì đó. Nó có thể bận học giáo lý, nó có thể bận đọc thỉnh đọc chú, nó có thể bận làm một công việc thực tiễn, nhưng tâm phải chất chứa một chút nội dung nào đó. Phải có chuyện gì diễn ra trong tâm, vì nếu không thì tâm cảm thấy có vấn đề không ổn. Con sẽ thấy là tâm có khuynh hướng muốn bận rộn. Tâm muốn làm việc. Cách đây khá nhiều năm, sứ giả này phát hiện có một phần trong tâm ông muốn giải quyết những vấn đề. Nó được tạo ra để giải quyết vấn đề. Và nó phải có vấn đề để mà giải quyết. Nếu nó không có vấn đề nào để giải quyết ở bên ngoài thì nó tạo ra vấn đề ở bên trong. Và ông nhận ra là ông có thể bỏ ra cả phần đời còn lại để giải quyết những vấn đề trong tâm do chính tâm ông tạo ra. Nhưng liệu làm vậy sẽ giúp ông đạt được gì chăng trên đường tu hay đường đời?

Làm thế nào con có thể thoát khỏi ý tưởng?

Nếu con quan sát chính mình khi con đang nghe hay đang đọc bài giảng này, chuyện gì xảy ra trong tâm con ngay lúc này? Con đang nhận diện ta là một vị thày tâm linh và một chân sư thăng thiên. Ta đang trao cho con một lời dạy và ta có một mục đích khi làm việc này. Ta muốn giúp con bước chân trên đường tu tâm linh, cho nên con cảm thấy bó buộc phải đặt chú ý vào lời dạy. Và điều gì xảy ra khi con làm vậy? Con có những ý tưởng nảy lên trong tâm. Đó có thể là nhiều loại ý tưởng khác nhau tùy theo từng người, nhưng con có ý nghĩ: “Lời dạy này ý nghĩa là gì? Tôi có thể áp dụng thế nào? Tôi có thể làm gì? Làm thế nào tôi có thể tránh các ý nghĩ lăng xăng đó? Bởi vì đây chính là điều mà hình như Gautama đang ngụ ý tôi phải làm.” Một số các con có thể cảm thấy vô vọng, và một số có thể đang suy nghĩ về cách ngừng hẳn sự suy nghĩ. Làm sao chuyện này có thể được? Và câu hỏi trở thành: Con sẽ làm gì đây?

Nhiều vị thày tâm linh và nhiều đệ tử tâm linh khắp các thời đại đã cố gắng giải quyết vấn đề này theo nhiều cách. Nhiều người, đặc biệt trong truyền thống đạo Phật, đã biết về tâm khỉ. Nhiều người đã tự đặt ra mục tiêu làm cho tâm tĩnh lặng. Họ đã sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau, thiền định, quán chiếu, để làm yên tâm họ. Rất nhiều người thời nay, cả tại Mỹ lẫn khắp các nơi khác, đang tu tập đạo Phật và cố gắng áp dụng các kỹ thuật của đạo Phật. Họ sống trong thế giới Âu Tây nhưng họ cho rằng họ phải có thể làm yên tâm họ, y như người ta có vẻ làm được trong một đạo tràng hay một đoàn tăng trên núi ở phương Đông.

Nhưng nếu các con đang sống trong một thế giới Âu Tây bận rộn, liệu điều này có thực tế lắm không? Với tất cả những thứ đang níu kéo sự chú ý của con, tất cả những chuyện được phóng chiếu vào con, liệu làm yên tâm mình có thực tế lắm không? Ngay cả nếu con có thể bay đến núi Himalaya để sống trong một tu viện, liệu làm yên tâm mình có thực tế lắm không trong một thế giới hiện đại với tâm thức đại chúng bao quanh? Con có thể tự cô lập về mặt địa lý, nhưng đâu là giới hạn của tư tưởng? Thậm chí, liệu tư tưởng có phải tuân thủ giới hạn vận tốc của vũ trụ hay tốc độ của ánh sáng hay không? Không đâu, một ý tưởng không cần bay đến một địa điểm cụ thể để hiện diện tại nơi đó trong vật lý. Nó có mặt ở đó tức thì. Làm thế nào con có thể thoát khỏi các ý nghĩ? Làm thể nào con có thể thoát khỏi tâm thức đại chúng? Chắc chắn là có những cường độ khác nhau, nhưng con không bao giờ có thể thực sự thoát khỏi nó. Và làm thế nào con có thể thoát khỏi chính tâm con khi nó cứ muốn suy nghĩ suốt ngày để cảm thấy nó đang làm nhiệm vụ của nó?

À, xuyên qua các thời đại, một số người đã tìm kiếm nhiều cách khác nhau để cố xử lý cái tâm này. Một số vị thày Phật giáo đã nhìn nhận là chuyện này không thể làm được. Và họ còn đặt vấn đề là liệu việc khiến cho tâm tĩnh lặng có cần thiết hay không.

Con không thể tĩnh tâm bằng cách suy nghĩ về phương cách tĩnh tâm

Điều ta muốn gợi ý, duy chỉ như một cách để xử lý vấn đề này, là con nhìn nhận rằng con là một đệ tử của chân sư thăng thiên và các chân sư đã trao cho con một số dụng cụ. Tất nhiên, con sẽ dùng các dụng cụ này. Con sẽ thỉnh gọi sự bảo vệ tâm linh, thỉnh cầu để mình được cắt ra, thỉnh cầu cho tâm được che chở và niêm phong khỏi tà lực cùng tâm thức đại chúng. Đó là một việc quan trọng và cũng là một việc chính đáng. Nhưng ta cũng sẽ gợi ý là ở giữa tất cả những bài chú, bài thỉnh, ở giữa tất cả việc học tập giáo lý cùng các sinh hoạt thường nhật, con hãy dành ra một chút thời gian để chỉ ngồi đó mà thôi. Con không nỗ lực làm yên tâm con, vì khi con cố làm cho tâm yên tĩnh thì con đang làm gì chứ? Con đang sử dụng tâm để khiến cho tâm tĩnh. Và làm thế nào tâm có thể khiến cho tâm tĩnh ngoại trừ bằng cách suy nghĩ về một cách khiến cho tâm tĩnh? Và khi con suy nghĩ về cách khiến cho tâm tĩnh thì con vẫn đang suy nghĩ đó. Tâm đang làm công việc mà nó nghĩ nó phải làm, cho dù hình như con đang muốn nó tĩnh lặng.

Buông các ý nghĩ

Ta đề nghị con tiếp cận một cách khác hơn. Trước hết, con quyết định là con sẽ dành ra một khoảng thời gian, con vào một phòng yên tĩnh và con có thể bắt đầu đọc chú, đọc thỉnh, nhưng con hãy vào một phòng yên tĩnh. Con không ngồi trong tư thế thiền định, khoanh chân như người ta thường làm. Con nằm trên một chiếc giường hay đi-văng êm ái nơi con có thể thư giãn thân thể, hầu con không có cảm giác nào, không bị khó chịu phải giữ một tư thế nhất định nào. Con chỉ nằm đó, tốt nhất là trong phòng tối, chắc chắn một phòng yên tĩnh. Và sau đó mục tiêu của con là tĩnh tâm, ở trong một trạng thái trung hòa của tâm. Tâm trung hòa (neutral) quan trọng hơn là tâm tĩnh (still) không có ý tưởng. Thay vào đó, con cố gắng, con nỗ lực, con có mục tiêu rằng: “Tôi sẽ trung hòa.”

Điều này có nghĩa là con không đóng chặt để ý tưởng không vào được, mà con không giao tiếp với nó. Con quyết định: “Tôi không ở đây để suy nghĩ về bất cứ chuyện gì, tôi không ở đây để hiểu ra bất cứ điều gì, tôi không ở đây để nhìn thấy bất cứ cái gì. Tôi không ở đây để giải quyết bất cứ vấn đề gì hay đạt được sáng ngộ gì. Tôi chỉ ở đây để không tiếp cận, không tham gia vào các ý nghĩ đang bay đến.” Và như vậy, con nằm đó với mắt nhắm. Con chỉ quan sát tâm. Khi một ý nghĩ bay đến, con nói nhẹ nhàng trong tâm: “Tôi buông [surrender trong tiếng Anh có mấy nghĩa: buông bỏ, từ bỏ, hàng phục, trả lại]. Tôi để cho nó đi.” Con buông ý nghĩ. Thay vì suy nghĩ về nó, đặt chú ý vào nó, cho phép nó liên kết bay ra mọi phía, thì con buông nó, con không nghĩ về nó, con chỉ để cho nó đi. Lúc đầu, việc này có thể khó khăn. Nhưng con càng giải quyết được nhiều ngã tách biệt trong tâm thì sẽ càng dễ dàng hơn. Và con có thể đạt tới điểm khi, ít nhất trong một khoảng thời gian, con có thể tiếp tục nói: “Tôi buông. Tôi cho nó đi. Tôi buông. Tôi buông.” Bất kỳ ý tưởng nào hiện lên, con chỉ buông nó ra. Con không giao tiếp với nó. Rất có thể con sẽ nhận thấy là tâm con bị chuyện này làm khuấy động, nó có thể cuống cuồng hoảng sợ: “Tại sao bạn lại không suy nghĩ những ý tưởng tôi đang gửi cho bạn? Tại sao bạn lại làm ngơ, phớt lờ tôi đi? Bạn không còn ưa tôi nữa sao?” Tất cả những điều đó có thể khởi lên với con. Hoặc có thể con chỉ cảm thấy một sự xao động hay bối rối, vì tâm không biết nó phải làm gì khi con không suy nghĩ các ý tưởng đó. Nhưng con có khả năng cứ tiếp tục như vậy.

Thỉnh thoảng sẽ có một ý tưởng thu hút sự chú ý của con. Con đi theo nó. Và con đi tới chỗ này chỗ nọ, xong thình lình con chợt nhận ra: “Ồ, tôi lại đang suy nghĩ rồi.” Khi đó, con chỉ quay trở lại: “Tôi buông. Tôi buông. Tôi buông.” À, con cần thận trọng ở đây. Con đừng cuồng loạn khi làm chuyện này. Đừng biến nó thành một áp lực. Đừng bị căng thẳng bởi nó. Đừng cảm thấy là con phải có khả năng làm bài tập nói trên và con phải có khả năng buông bỏ các ý nghĩ. Con chỉ việc thực tập một cách thoải mái, càng thư giãn càng tốt. Quả thực những giây phút như thế sẽ giúp con rất nhiều, như các thày đã có đề cập, khi cái Ta Biết của con đứng bên ngoài tâm ý thức và trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết. Nhận biết thuần khiết là gì? À, đó là khi con ý thức mà không có ý nghĩ. Giống như thể con ý thức nhưng không có nội dung chất chứa trong tâm thức.

Sử dụng thần chú

Một số kỹ thuật thiền lấy điều này làm mục tiêu. Một số kỹ thuật thiền sử dụng một câu thần chú không mang ý nghĩa nào, và con chỉ lặp đi lặp lại câu đó. Và khi nào con nhận ra là con đang suy nghĩ, con chỉ quay trở lại với câu thần chú. Theo một nghĩa nào đó, đây chính là điều mà con đang làm ở đây, chỉ có điều câu thần chú của con là: “Tôi buông.” Nếu chuyện này không hiệu quả thì con có thể dùng một câu chú. Ta đề nghị con dùng câu OM, con đọc OM lặng lẽ trong tâm con. Khi con có một ý nghĩ, con chỉ quay trở lại với OM. Con chú tâm vào OM, con lặp lại OM. Nhưng đối với nhiều các con, sẽ hiệu quả hơn nếu con nói: “Tôi buông. Tôi buông ý nghĩ này.”

Ta hoàn toàn không có ý nói rằng đây là một liệu pháp thần kỳ, rằng nó nhất thiết sẽ chấm dứt mọi ý nghĩ lăng xăng. Nhưng nó có thể hữu ích nếu con thực hành. Con không cần phải làm thật lâu, thậm chí con không phải làm mỗi ngày. Chẳng hạn, con có thể thực tập buổi tối khi con nằm trên giường chuẩn bị đi ngủ. Nó có thể sẽ mở tâm con ra một cảm giác an bình – “niềm thanh thản cho Biển động Luân hồi được yên lắng.”

Tâm tĩnh do trung hòa

Thế nào là Biển động Luân hồi? Nhiều người nghĩ đó là thế gian cùng các hoạt động vật lý trong thế gian, nhưng thật ra đó là tâm. Khổ đau xảy ra ở đâu? Trong tâm. Và con khăc phục khổ đau ở đâu? Trong tâm. Nhưng những ai không nắm được lời dạy của Phật sẽ chú tâm vào các thứ vỏ ngoài. Họ nghĩ rằng chính các cảnh huống vỏ ngoài khiến cho tâm trải nghiệm khổ đau. Và do vậy họ nghĩ giải pháp duy nhất là thay đổi cảnh huống vỏ ngoài. Nhưng trong nhiều trường hợp, họ không thể thay đổi cảnh huống vỏ ngoài, một phần là vì người khác không chịu hợp tác, cho nên họ sống trong nỗi bực bội không nguôi tức là Biển Luân hồi.  

Bây giờ là một đệ tử của chân sư thăng thiên, con cũng có thể tạo ra phiên bản riêng của con về Biển Luân hồi, qua đó – như PadmaSambhava có nói – con không ngừng tập trung vào việc giải quyết một vấn đề gì đó trong tâm lý của con, hay thay đổi thế giới, hay đọc bài thỉnh, hay tìm hiểu giáo lý, hay một việc để cải thiện thế giới, quảng bá giáo lý, hay bất kỳ điều gì khác. Con có thể nhìn vị sứ giả này và nói: “Đấy, ông ấy đã đi trên đường tu tâm linh rất nhiều năm trời, ông đã làm sứ giả được gần 20 năm, ông đã có một cuộc sống đầy ý nghĩa và ông được làm việc với các chân sư thăng thiên để ban truyền tất cả những lời dạy kia với sách với trang mạng kia, vân vân.” Nhưng có lẽ con không nhận ra là việc làm này đã khó khăn đến chừng nào. Ông đã có thể làm việc cho tới kiệt sức, ông đã có thể bị căng thẳng đến độ suy sụp tâm thần, ông đã có thể bị choáng ngợp bởi tinh thần trách nhiệm phải chu toàn điều này hay điều nọ. Và chắc chắn đã có những thời kỳ ông phải nếm mùi sự bực tức cao độ khi ông cảm thấy cho dù mình có làm nhiều đến đâu thì vẫn chưa đủ, hay chưa tốt đủ, và mình luôn luôn muốn làm nhiều hơn nữa. Nhưng cuối cùng thì ông đã sống sót, và các con cũng vậy, các thày muốn tất cả các con sống còn. Ông đã sống còn bằng cách xem xét tất cả những gì ta vừa trình bày với con, bằng cách tìm ra một thế quân bình, tìm ra Trung đạo, và không bị bực bội, không quá cuồng nhiệt, không bị ám ảnh cưỡng chế – và thỉnh thoảng, bằng cách tĩnh tâm.

Điều đã giúp cho sứ giả này là ngay từ buổi đầu, ông đã nhận ra là để nhận được thông điệp từ các chân sư thăng thiên, ông phải ở trong một tâm thái trung hòa. Có thể trong Sứ vụ Thiêng liêng của con không hoạch định con sẽ trở thành một sứ giả, nhưng chắc chắn trong Sứ vụ của con có việc tiếp nhận sự hướng dẫn trực tiếp từ các thày thay vì từ một giáo lý vỏ ngoài. Hầu nghe được Hiện diện TA LÀ của con hay một chân sư thăng thiên, con cần ở trong tâm thái trung hòa đó. Con cần dành ra một thời gian để nỗ lực ở trong tâm thái trung hòa đó mà không phấn đấu. Thay vào đó, con đánh gạt tâm con, con khiến cho nó bối rối, để các ý nghĩ lăng xăng không chiếm trọn sự chú ý của con.

Một cách tiếp cận giáo lý cân bằng

Biết bao nhiêu thứ níu kéo tâm con. Biết bao nhiêu thứ. Các thày nhìn nhận là các lời dạy của các thày có thể dễ dàng biến thành một lực níu kéo khác đối với tâm con. Các thày đành nhận lấy rủi ro này, một rủi ro có tính toán. Khi con quan sát diễn biến trong thời gian gần 20 năm qua khi đợt truyền pháp này hoạt động, con sẽ thấy – như các thày đã có đề cập – là giáo lý được ban ra có nhiều cấp độ. Đã có những giáo lý vượt xa hơn giáo lý ban đầu. Con sẽ thấy là một số người đã khám phá ra giáo lý, tham gia được một thời gian rồi bỏ đi làm công việc khác. Lại có một số người đã buộc tội sứ giả này trở thành một sứ giả giả trá. Còn một số khác thì đã tìm được một giáo lý khác để chuyên chú đi theo.

Các thày xác định được là sứ giả này đã sẵn lòng thăng vượt mức tâm thức của ông đến độ các thày có thể ban truyền những cấp độ giáo lý khác nhau đó. Cho nên các thày đã và đang tiếp tục ban truyền giáo lý vì các thày muốn gửi càng nhiều giáo lý càng tốt vào cõi vật lý. Nhưng điều này không có nghĩa là con phải cảm thấy bó buộc luôn luôn theo sát những lời dạy mới nhất. Điều hoàn toàn phải lẽ là con có thể thấy một lời dạy nào đó – ngay cả một lời dạy được ban ra cách đây nhiều năm – hấp dẫn con, có vẻ quan trọng đối với con. Điều hoàn toàn phải lẽ là con tập trung vào lời dạy đó, học hỏi nó, thực hành nó, thể nhập nó, và không để ý đến những lời dạy đang được ban ra.     

Con không cần phải tham dự tất cả mọi hội nghị hay hội thảo trên mạng. Con không cần phải đọc tất cả mọi quyển sách hay mọi bài truyền đọc hay mọi lời giải đáp được đăng tải. Con không cần cảm thấy áp lực phải dự phần vào những giáo huấn đó. Đây quả thực là một sự thay đổi so với các tổ chức trước đây mà trọng tâm được đặt nhiều hơn vào việc đệ tử phải làm cái gì đó suốt ngày, thậm chí phải đọc chú hàng giờ liền để thay đổi thế giới. Nhưng các thày muốn các con được tự do đi vào nội tâm. tập trung vào những giáo lý mà con cảm thấy mình cần tập trung và bỏ qua phần còn lại. Thật hoàn toàn phải lẽ nếu con bỏ ra mấy tháng trời hay mấy năm trời để chú tâm vào một lời dạy cụ thể, rồi khi con cảm thấy mình đã tiến xa đủ với nó thì con có thể quay trở lại và nói: “À các chân sư có vừa dạy thêm gì nữa không?”        

Không có một cách duy nhất để bước chân trên đường tâm linh. Việc đi theo một giáo lý tâm linh không được biến thành một cái áo tù bó tay bó chân như từng xảy ra cho nhiều người, cả đệ tử của chân sư thăng thiên lẫn các đệ tử tâm linh khác, hay tất nhiên như đang xảy ra cho hầu hết mọi người sùng đạo. Nhưng để tránh sự thể này, con cần sẵn sàng nhìn vào tâm lý mình và nhận ra là phản ứng đó đến từ một cái ngã trong tâm. Chân sư MORE có nói: “Hãy nhìn cuộc đời. Mọi thứ xảy ra trong đời đều là một cơ hội để con làm việc trên tâm lý của con.” Vậy con hãy nhìn vào một lời dạy tâm linh, một đường tu tâm linh và một tổ chức tâm linh cũng theo cách tương tự. Tất cả mọi thứ đều là cơ hội để con nhìn ra một điều gì đó chưa giải quyết trong chính tâm con, trong tâm lý của con. Tại sao con phản ứng cách con đang phản ứng?  

Nguyên nhân của trải nghiệm nội tâm nằm ngay trong tâm

Con thử nhìn xem những ai đã rời bỏ giáo lý tâm linh và bây giờ đổ lỗi cho đạo sư hay vị thày hay sứ giả hay chính giáo lý đó. Họ đang làm gì vậy? Họ đang phóng chiếu ra là nguyên nhân trải nghiệm của họ nằm ngoài tâm họ. Trải nghiệm thì xảy ra trong tâm nhưng nguyên nhân thì nằm ngoài tâm. À, nếu thế thì con không thực sự là một học trò tâm linh rồi, vì cốt lõi của con đường tâm linh chính là việc điều ngự tâm con. Và làm sao con có thề điều ngự tâm con nếu con nghĩ nguyên nhân của trải nghiệm nội tâm nằm ngoài tâm? Nếu con nghĩ một vị đạo sư hay một sứ giả nào đó có quyền lực trên trải nghiệm nội tâm của con, thì con bất lực không thể thay đổi được trải nghiện nội tâm. Và nếu con bất lực không thay đổi được trải nghiệm nội tâm thì làm sao con có thể tinh tấn trên đường tu tâm linh khi tinh túy của đường tu tâm linh là việc điều ngự trải nghiệm nội tâm? Khi con tự xưng là một học trò tâm linh mà lại phóng chiếu ra là nguyên nhân trải nghiệm nội tâm của con nằm ngoài tâm con, thì đây chính là một bất nhất nhận thức (cognitive dissonance).

Chờ đợi giáo lý sẽ chứng thực phin lọc nhận thức của mình

Các thày thấy, không cứ trong phong trào này mà chắc chắn trong nhiều phong trào tâm linh, là có một tỷ lệ những người tìm ra một giáo lý tâm linh – một giáo lý tâm linh chính đáng và chân truyền – nhưng họ lại rơi vào phản ứng như vậy. Hoặc họ ở lại trong phản ứng đó vì họ đã từng ở trong đó trước khi tìm ra giáo lý, và họ phóng chiếu ra. Thày Giê-su đã giảng dạy điều gì về tâm thức Phêrô (Peter)? Phêrô công nhận là có điều gì đó đặc biệt nơi Giê-su, nhưng ông không nắm bắt được sự kiện Giê-su đặc biệt là vì Giê-su ở ngoài tâm của Phêrô cho nên có thể cho Phêrô một khung tham chiếu từ ngoài tâm ông. Thay vào đó, Phêrô lại muốn kéo Giê-su vào chính tâm mình và khiến Giê-su phải tuân theo những hình ảnh cùng chờ đợi mà ông có trong tâm.

Hàng ngàn, hàng vạn người, cả ở phương Tây lẫn phương Đông nhưng đặc biệt ở phương Tây, đã tìm ra một giáo lý tâm linh chân chính nhưng họ lại phóng chiếu ra ngoài. Họ nhận diện một điều gì đó trong giáo lý đó, nhưng rồi họ lại bắt đầu phóng chiếu ra để khiến cho vị thày phải tuân theo những chờ đợi của họ. Họ không nắm được là toàn bộ mục đích của con đường tâm linh là thoát khỏi, là thăng vượt, là giải quyết các hạn chế trong chính tâm mình.

Điều kiện vỏ ngoài kích hoạt chứ không gây ra

Khi con nắm được điểm này, con sẽ thấy là không thể nào có một nguyên nhân bên ngoài tạo ra các hiện tượng bên trong tâm con. Không thể nào. Hiện tượng trong tâm là do tâm sản xuất ra. Chúng có thể được kích hoạt, chúng có thể là phản ứng trước một cảnh huống bên ngoài, nhưng cảnh huống bên ngoài không gây ra điều kiện bên trong. Chính tâm mới gây ra điều kiện bên trong qua cách nó phản ứng lại điều kiện bên ngoài. Đây là tinh túy của lời dạy mà ta đã trao cách đây 2500 năm. Con sẽ không tìm thấy lời dạy này trong bất kỳ giáo lý nào được ghi lại. Nó đã không được diễn đạt với ngôn từ đó, nó đã không được diễn đạt rõ ràng như chúng ta có thể ngày nay, vì tâm thức tập thể đã được nâng lên. Nhưng đó chính là điều ta đã cố gắng trao cho đệ tử của ta. Một số đã nắm được nhưng phần đông thì không. Đó cũng là điều mà Giê-su đã cố trao cho đệ tử của thày. Một số đã nắm được nhưng phần đông thì không, và Phêrô nằm trong số người này.

Các thày mong mỏi là những ai trong các con cởi mở với những lời dạy này có thể làm cuộc xoay chuyển đó trong tâm mình, tức là con có thể chấp nhận không có gì bên ngoài tâm con là nguyên nhân cho những gì xảy ra bên trong tâm con. Mọi chuyện xảy ra trong tâm con là kết quả của những điều kiện trong tâm con. Con có thể nghĩ là ta đang mâu thuẫn với những gì ta vừa nói ở trên liên quan đến rất nhiều ý nghĩ được phóng chiếu vào tâm con. Nhưng con thấy đó, ý nghĩ chỉ có thể kích hoạt một khuôn nếp, một cái ngã tách biệt, đã có sẵn trong tâm. Ta đã trình bày về điểm nay 2500 năm trước đây, về hành uẩn (samskara) trong tâm, về các khuôn nếp trong tâm. Bây giờ các thày gọi là ngã tách biệt. Chúng nằm đó tiềm ẩn, im lìm. Khi một cảnh huống bên ngoài xảy đến, một ý nghĩ được phóng chiếu vào tâm con, kích khởi một trong những cái ngã đó hoạt động. Nhưng nếu con cứ tập trung vào cái nguyên do bên ngoài, cái điều kiện bên ngoài, và tưởng đó là nguyên nhân, thì làm thế nào con có thể thay đổi được phản ứng bên trong tâm con? Con không thể đóng chặt không cho các ý tưởng phóng chiếu đi vào tâm con. Là một cá nhân, con không thể thay đổi tâm thức tập thể. Nhưng con có thể thay đổi chính tâm thức của con để không phản ứng lại tâm thức tập thể.

Tĩnh tâm có nghĩa là gì

Và đây là điều có thể xảy ra lần hồi khi con giải quyết các ngã đó, khi con thực hành bài tập này và buông ý nghĩ. Con có thể đạt tới điểm khi không phải là con không có ý nghĩ nào phóng chiếu vào tâm từ ngoài, không phải là con không có bộ não và tâm vỏ ngoài sản xuất ý nghĩ từ trong, mà cái Ta Biết của con, sự nhận biết ý thức của con, không giao tiếp với chúng. Chúng chỉ lướt xuyên qua.

Con hãy nghĩ đến hình ảnh của PadmaSambhava, của người đứng đó, hay người đứng trong phong cảnh bao la đó nhưng không nhìn thấy phong cảnh mà chỉ tập trung vào đám mây đen. Đấy, con có thể nghĩ là có nhiều ý nghĩ đi vào đầu con, nhưng trong thế giới vẫn còn rất, rất nhiều điều kiện mà con không nhận thấy, không chú ý. Con có thể đi bộ trên đường phố, bước qua nhiều người khác nhau nhưng con không để ý đến họ. Hay có lẽ con để ý một hai người nhưng số còn lại thì chỉ lướt xuyên qua. Con có thể đạt tới điểm khi con có đủ loại ý nghĩ đi vào tâm con, nhưng chúng chỉ lướt xuyên qua vì con không chú tâm vào đó. Và đây chính là khi con đã làm yên tâm con. “Chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng” không có nghĩa là ý nghĩ ngừng hẳn, mà có nghĩa là chúng ngưng không tác động tâm ý thức của con, không níu kéo sự chú ý ý thức của con. Đó là cách mà ý nghĩ lăng xăng chấm dứt.

Trải nghiệm Ngọn lửa Hoà bình Hoàn vũ

Thế thì câu điệp khúc mà các con vừa đọc lên nói gì? “Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ, chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng”. Con có thể suy ngẫm và hòa điệu với Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ mà ta giữ cho địa cầu, và con cũng có thể sử dụng để tránh tập trung vào các ý nghĩ. Nhưng đây là một điều mà hầu hết mọi người không thể làm được khi mới bắt đầu, và đó là tại sao ta đã cho con các bài tập kia trước. Nhưng chắc chắn một khi con đã đạt được một trình độ không dính mắc nào đó đối với ý tưởng, một khi con đã bỏ ra một thời gian để nói: “Tôi buông, tôi buông, tôi buông,” thì sau đó con có thể quyết định chú tâm vào Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ của ta, hòa điệu vào đó, mở tâm con ra với nó và đơn giản được nó bao bọc chung quanh.

Tuy nhiên con hãy cẩn thận ở đây. Điều gì xảy ra cho tâm con khi ta nói Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ? Điều xảy ra trong tâm sứ giả là ông nghĩ ông phải thấy nó như một ngọn lửa. Phải có một loại lửa nào đó có một hình thù nào đó, và ông phải có thể hòa điệu vào ngọn lửa. Nhưng làm vậy thì đã khiến cho tâm suy nghĩ rồi – con không hòa điệu vào ngọn lửa mà con đang suy nghĩ về chuyện hòa điệu vào ngọn lửa. Và chừng nào con còn nghĩ ngợi về nó, con còn suy nghĩ, con còn nhìn ngọn lửa như một cái gì tách biệt với con, một cái gì ở ngoài kia: “Lửa ở đó, tôi ở đây, tôi phải hòa điệu vào cái ở đó,” thì con không thể làm được. Không thể nào làm được. Con có thể hoặc ở trong ngọn lửa hoặc không ở trong ngọn lửa. Con có thể hoặc ở trong ngọn lửa hoặc suy nghĩ về chuyện ở trong ngọn lửa. Nhưng ở trong đó hay nghĩ tới việc ở trong đó – hai cái này khác nhau. Đó là tại sao con cần một chút thực tập để tới điểm con không thực sự hòa điệu vào ngọn lửa mà con đang trải nghiệm ngọn lửa, con đang ở trong đó, con đang được nó bao trùm.

Trong chương trình canh thức chữa lành tâm lý, con vừa được thày Hiện diện Tình thương ban truyền một bài thực tập, một bài thỉnh cầu, qua đó con hình dung một cái tháp quan sát [xem bài truyền đọc ở đây] và con nhận thấy có một chiếc cầu thang dẫn lên một mặt phẳng và có một vị chân sư đang đứng trên mặt phẳng. Khi sứ giả này bắt đầu làm bài tập đó, ông hình dung trong tâm có một chân sư đứng đó như một hình người đứng trên mặt phẳng, và ông bước chân lền cầu thang rồi ôm lấy chân sư như thể ông ôm một người. Nhưng sau vài ngày, ông nhận ra là kỳ thực, làm vậy sẽ khiến ông bị rối trí, vì ông cho rằng mình phải hình dung tiến trình và điều này kéo chú tâm của ông ra khỏi việc trải nghiệm vị chân sư. Thế rồi ông nhận ra là thay vì hình dung hình một người và chính ông cũng là một hình người đang ôm lấy chân sư, thì ông có thể thay đổi cách hình dung để cảm thấy mình không phải là một hình người đang leo lên cầu thang, mà mình chỉ là một điểm chú ý, mình được bao bọc trong quả cầu là vị chân sư, quả cầu tâm thức, Hiện diện của vị chân sư. Thậm chí ông có thể cảm thấy mình là một cái chấm bên trong quả cầu của chân sư đang nhìn xuyên qua Hiện diện của chân sư, và làm như vậy sẽ cho ông một trải nghiệm mật thiết hơn.

Một điều tương tự cũng xảy ra với Ngọn lửa Hòa bình. Con không ngồi đó như một hình người cố gắng hòa điệu với ngọn lửa ở ngoài kia đang bốc cháy giống như những đám lửa mà con thường thấy. Ngọn lửa ở đây là một quả cầu, và con thì là một cái chấm. Con ở bên trong quả cầu. Con trải nghiệm ngọn lửa, thậm chí con trải nghiệm xuyên thấu qua ngọn lửa. Khi con đã làm nhiều lần và có trớn, con còn có thể nhìn thế giới xuyên qua ngọn lửa. Đây là cách con có thể dùng Ngọn lửa Hòa bình. Và khi con chỉ trải nghiệm Ngọn lửa Hòa bình và chính con cũng ở trong ngọn lửa, chính con là một với ngọn lửa, thì các ý nghĩ lăng xăng sẽ chấm dứt. Nhưng như ta vừa trình bày, ít người làm được điều này ngay từ đầu, và con cần đi qua một số bước.

Một lần nữa đối với một số người, điều này sẽ khó thực hiện. Con đừng quá lo lắng. Đừng cảm thấy là mình phải làm cho được. Ta chỉ cống hiến cách này cho những ai đã sẵn sàng. Nếu con chưa sẵn sàng thì chẳng có vấn đề gì, và cũng không có gì để xấu hổ. Con không đang làm gì sai trái cả. Con hãy tìm một lời dạy hấp dẫn đối với con rồi chú tâm vào đó. Đôi khi như PadmaSambhava có nói, con có thể bị ghiền chuyện giải quyết một vấn đề nào đó trong tâm lý con, gần như thể con nghiện bước chân trên đường tâm linh, và con cảm thấy mình phải có khả năng làm tất cả mọi thứ các thày đưa ra, con phải có thể sử dụng, phải có thể tận dụng, phải có thể hình dung cái này hay cái nọ.

Dùng trực giác để bước trên đường tu

Hãy đứng lui lại. Con không phải làm tất cả mọi thứ. Con không phải tận dụng mọi thứ mà các thày đề nghị ở đây. Con cần tìm ra cái khía cạnh của giáo lý thu hút con ở mức tâm thức hiện thời của con trong số 144 tầng tâm thức. Con không nhất thiết cần biết mình đang đứng ở tầng nào, mà con chỉ đơn giản cảm nhận bằng trực giác rằng lời dạy này hấp dẫn đối với con. Xong con hãy tập trung vào đó chừng nào con cảm thấy mình còn cần đến nó. Sự thể là nhiều người trong các con đã không làm như vậy. Con đã tiếp cận một cách năng động hơn, con tìm ra giáo lý, con hào hứng với giáo lý và con nói: “Ồ, tôi muốn làm mọi thứ. Tôi muốn học hỏi tất cả, đọc hết tất cả. Tôi muốn thực hành tất cả, đọc tất cả các bài thỉnh và điều này điều nọ.” Làm như thế cũng phải lẽ thôi, nhưng đó chỉ là một giai đoạn. Mong thay sẽ tới một giai đoạn khác khi con bắt đầu có nhiều trực giác hơn. Thay vì cố bước trên đường tu với tâm vỏ ngoài, con bắt đầu lắng nghe trực giác của mình. Và thay vì cố làm mọi thứ một lượt, con tập trung vào đúng một thứ mà con cần ngay bây giờ, và con không tiếc nuối, con không có cảm tưởng mình bị bắt buộc, hay cảm giác là mình phải làm nhiều hơn. Con chú tâm vào đúng một chuyện, xong con tận dụng nó chừng nào mà con còn cần đến nó, sau đó con lại tìm đến điều kế tiếp sẽ đưa con lên tầng kế tiếp.

Các thày đã cho con rất nhiều thứ vì các thày biết khi con tìm thấy đường tu lần đầu tiên, con thường chưa có một phương hướng nội tâm mạnh mẽ. Con nói: “Tôi có thể làm gì? Hãy cho tôi một việc gì đó mà tôi có thể làm.” Đó cũng chính là cảm nhận của sứ giả này khi lần đầu tiên ông tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên. Ông vô cùng háo hức – chúng ta có thể gọi là ám ảnh cưỡng chế – khi đọc chú, học hỏi giáo lý, dọn sang Hoa Kỳ, tu học tất cả những khóa tu kia và vân vân. Một lần nữa, ông cần kinh qua giai đoạn đó, nhưng sẽ tới điểm khi ông nhận ra đã tới lúc ông cần tiếp cận một cách khác. Tới lúc ông cần ngưng tập trung vào việc cứu nguy thế giới cho Saint Germain, và thay vào đó, ông tập trung vào việc giải quyết tâm lý của chính mình. Và điểm đó đã tới khi thay vì để cho tâm vỏ ngoài của ông cuống cuồng muốn làm chuyện này chuyện nọ, ông đã bắt đầu lắng nghe trực giác, và nhờ vậy ông đã bắt đầu nhận được nhiều sự hướng dẫn hơn từ các chân sư, cho đến khi ông có khả năng nhận được lời hướng dẫn của Giê-su muốn thực hiện một công việc xuyên qua ông, và tất cả đã dẫn đến việc phụng sự mà ông đã cống hiến.

Bước từng bước một là đủ rồi

Con cũng có thể đi theo cùng mô thức như vậy. Tất nhiên, tất cả các con sẽ không phụng sự giống nhau, nhưng các con vẫn có thể đi theo tiến trình lắng nghe đó, bước đi từng bước một, tập trung vào từng bước một. Con không thể leo nguyên cái cầu thang bằng cách bước tất cả mọi bực thang cùng một lúc. Con có thể toan nhảy hai ba bước một, nhưng làm vậy sẽ khiến con kiệt sức trước khi con leo đến đỉnh. Con hãy vừa lòng với việc bước đi từng bước. Chẳng có gì sai trái nếu con ở tầng tâm thức 48 và chú tâm tìm cách bước lên tầng 49. Con sẽ luôn luôn ở một tầng nào đó cho tới khi con thăng thiên, và thử thách sẽ luôn luôn là bước lên bực kế tiếp. Đường tu là như thế đó.

Tâm đường thẳng muốn làm đủ mọi trò trống. Các ngã tách biệt của con cứ muốn nói: “Ồ, lẽ ra tôi phải tiến bộ hơn thế này. Đáng lý tôi phải ở một tầng cao hơn hiện nay. Tôi không được ở tầng hiện tại của tôi. Tôi phải cao hơn 10 hay 50 tầng. Tôi phải có khả năng làm tất cả mọi thứ các thày chỉ bảo. Tôi phải biết hết giáo lý.” Tất cả những chuyện này chỉ là tâm vỏ ngoài đó thôi, là những ý nghĩ lăng xăng do các ngã tách biệt sản xuất ra, hay là phóng chiếu của tà lực đang cố khiến con kiệt sức và bị cháy trên đường đạo.

Hãy đứng lui lại. Lắng nghe từ bên trong. Khi tâm vỏ ngoài phóng chiếu tới con: “Bạn phải làm cái này hay bạn phải làm cái kia,” con sẽ phản ứng ra sao? “Tôi buông. Tôi buông. Tôi buông làm chuyện này, tôi buông làm chuyện kia. Tôi buông.” Và con cứ tiếp tục buông hoài cho tới khi con đạt tới trạng thái có khả năng lắng nghe từ bên trong. Rồi một ý tưởng sẽ đến với con: “À, tôi sẽ làm điều này, vì nó không đến từ bên ngoài, nó không đến như một bổn phận tôi phải làm điều đó.” Nó chỉ đến như một ý nghĩ về một điều con có thể làm. Không có chút áp lực nào, cho nên con làm theo. Nhưng đây là một thử thách, một thử thách to lớn để có thể hành xử như vậy trong một thế giới hiện đại quá bận rộn, nơi có quá nhiều thứ níu kéo chú ý của con, lôi con về phía này hay phía nọ, nơi có quá nhiều áp lực mình phải làm cho giỏi, phải làm tốt hơn nữa, phải học hành, phải có giáo dục hay nghề nghiệp, phải kiếm nhiều tiền, phải có ngôi nhà thật lớn, tất cả những thứ như vậy, đặc biệt tại Hoa kỳ nơi mọi người đều phải cố sánh kịp với ông A bà B, và không một ai bỏ ra một phút để tự hỏi: “Ủa, thế ông A bà B đang cố sánh kịp với ai đây? Liệu người đó có thật không? Có ai đã gặp ông Nặc danh bao giờ chưa?”

Con nhận ra ở đây là khi lần đầu con tìm thấy một con đường tâm linh, như ta có nói về sứ giả này, ông đã đương đầu với nó như một thách đố. Cũng giống như chuyện chinh phục một ngọn núi vậy. Đó là một nhiệm vụ phải làm cho được, là một sự nghiệp khi ông bước trên đường tu tâm linh. Đó là một cuộc phấn đấu. Ông cảm thấy ông phải đạt được kết quả tốt. Ông phải làm tròn những mong đợi của chính mình cũng như mong đợi của người khác, mong đợi của một vị sứ giả và mong đợi của các chân sư thăng thiên. Có quá nhiều thứ mà ông phải cố xứng đáng và ông háo hức muốn làm tròn. Nhưng rất may, thay vì bị kiệt lực, ông đã tới điểm đứng lui lại và nhận ra nhu cầu tập trung vào tâm lý của mình. Và tất cả các con có thể làm được tương tự.

Đây không phải là một sự nghiệp, không phải là một áp lực, không phải là một chuyện con phải hoàn thành và đạt được. Các thày đã nói gì về những ai sẵn sàng dùng vũ lực? Rằng vũ lực sẽ không đưa con đến đâu trên đường tu tâm linh. Con không thể cưỡng chiếm thiên đàng bằng vũ lực. Con có thể cưỡng chiếm bằng vũ lực một vật mô phỏng thiên đàng, nhưng đó không phải là thiên đàng. Con đừng tự ép mình phải đi trên đường tu. Vũ lực đến từ ngã tách biệt. Hãy nhận diện nó và buông nó ra. Rồi sau đó, làm thế nào con sẽ bước trên đường tu tâm linh khi con không còn tự ép mình chứ? Bằng cách xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Ta cũng biết đây là một khái niệm khó khăn, đặc biệt đối với những ai đã lớn lên trong thế giới Âu tây – xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Nhưng dù sao thì đó vẫn là một điều để con ngẫm nghĩ cùng với các lời dạy mà các thày đã trao và sẽ trao.

Cho phép mình xuôi chảy

Câu kinh thánh nói gì chứ? “Tốt lắm, hỡi người đày tớ trung tín kia. Con đã từng trung tín trong một ít việc. Ta sẽ giao cho con trọng trách của nhiều việc.” Một lần nữa, đây là câu chuyện nhân lên các ta-lăng. Con đã nhân lên các ta-lăng mà các thày đã giao cho con. Con đã tinh tấn. Hãy nhìn nhận điều đó. Đứng lui lại. Hãy nhìn xem con đã tiếp cận con đường tâm linh như thế nào cho tới giờ, rồi hãy quyết định buông bỏ cách đó, và nhìn xem những gì đến với con từ nội tâm. Con có thể nghĩ sứ giả này có một số khả năng hay chứng đạt đặc biệt và đó là lý do ông làm sứ giả. Chắc chắn người ta đã phóng chiếu ý tưởng này trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước đây khi vị sứ giả được xem là vô cùng đặc biệt. Nhưng tại sao sứ giả này lại là sứ giả chứ? Tại sao ông lại trở thành sứ giả? Tại sao ông vẫn là sứ giả 20 năm sau? Bởi vì ông đã sẵn lòng buông xả hết lần này đến lần khác. Ông đã sẵn lòng buông ra bất kỳ dính mắc nào về giáo lý cũng như về việc làm sứ giả. Tới một điểm khi cách duy nhất để tiến bước trên đường tu tâm linh không phải là bằng vũ lực hay bằng nỗ lực, không phải là qua trung gian tâm vỏ ngoài. Cách duy nhất để tiến tới là buông ra, là từ bỏ, là cho phép chính mình xuôi chảy với dòng chảy.

Với những lời này, ta đã cho con những gì ta muốn cho con, và ta chỉ có thể bày tỏ lòng biết ơn của tất cả các chân sư đối với sự tham gia của con trong hội nghị này cũng như việc con sẽ sử dụng các lời dạy. Ta niêm hội nghị này trong ngọn lửa vui mừng của Hòa bình Hoàn vũ của đức Phật mà TA LÀ. Hãy an bình. An bình. Tĩnh lặng.

Làm thế nào loại bỏ đau khổ con người

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2022, nhân dịp Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

Một truyền rải chưa từng có của Ngọn lửa Hòa bình

Hòa bình là một ngọn lửa, một năng lượng, một tâm thức, một sinh thể – một sinh thể vũ trụ mà sự chứng đạt vượt khỏi tầng mức nơi ta đang đứng trong tư cách đức Phật cho trái đất. Sinh thể vũ trụ này đã được từ hóa (magnetized) đến địa cầu bởi các chân sư thăng thiên, bởi các con là đệ tử của chúng tôi và bởi sự xoay chuyển tâm thức vừa xảy ra do hệ quả cuộc xâm lăng nước Ukraine. Biến cố đó đã tạo ra một sự xoay chuyển trong tâm thức tập thể đến độ chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã khẩn khoản sinh thể vũ tru đó từ hóa sự hiện diện của thày trong cõi ê-the bên trên địa cầu và rải xuống một sự phát tỏa chưa từng có của Ngọn lửa Hòa bình.

Hiển nhiên ngọn lửa hòa bình này không có nghĩa là trên địa cầu sẽ tức khắc có hòa bình theo nghĩa hòa bình vật lý. Ý nghĩa thực sự là ngọn lửa sẽ phơi bày ra tất cả mọi năng lượng, mọi tâm thức, mọi sinh thể của phản hoà bình, cho nên có vẻ như ngọn lửa sẽ đem lại cái đối nghịch của hòa bình, nhưng điều này sẽ chỉ kéo dài một thời gian. Chúng tôi đã từng nói là địa cầu không thể cưỡng lại lực kéo hướng thượng của toàn bộ bầu cõi. Và địa cầu cũng không thể cưỡng lại Ngọn lửa Hòa bình Toàn vũ. Cho nên đây là một sự đặc miễn, một cơ hội cho một địa cầu đã được từ hóa bởi bao nhiêu người trên trái đất mong muốn hòa bình. Họ mong muốn một tương lai được hưởng thái bình khỏi tay những kẻ sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực.

Tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực

Thế nào là tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực? Đó là một chất độc tâm linh. Nó có mấy yếu tố. Thật ra nó khởi lên từ tất cả những chất độc kia, từ vô minh cho đến dục vọng, thèm muốn, tham lam, bởi vì tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực không bao giờ thấy đủ. Những người, những sinh thể sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực tạo ra điều gì? Họ tạo ra đau khổ, thường là cho người khác, nhưng họ luôn luôn tạo ra đau khổ cho chính họ. Những kẻ chủ mưu chiến tranh, chẳng hạn, không thể tránh tạo ra trong chính tâm họ và bốn thể phàm của họ một sự nhiễu loạn có thể sẽ nhanh chóng khiến họ không sao chịu đựng nổi. Đó là tại sao con thấy một số nhà lãnh đạo khởi sự chiến tranh đã trở nên điên loạn – trong nghĩa đen – và họ bước vào một tâm trạng hoàn toàn hoang tưởng, xa rời thực tế. Cho nên liệu con có thể nói được là khi một sinh thể bước vào tâm thức mong muốn hay sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực, thì sinh thể đó có còn quyền tự quyết, còn ý chí tự do nữa hay không? Hay chẳng phải là họ đã nộp quyền tự quyết của họ cho những con quái vật tập thể, những quỷ dữ hay sa nhân chỉ muốn gây rối loạn hoặc mưu toan chứng minh Thượng đế sai lầm? Liệu những người như thế có còn ý chí tự do hay không? Họ có một ý chí, nhưng ý chí đó không tự do.

Điều gì xảy ra trong tâm lý những người đi vào tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực? Hiển nhiên, họ cũng bước vào tâm thức nhị nguyên. Có nghĩa là họ có thể dùng tiến trình lý luận nhị nguyên để biện minh cho hành động của mình, nhưng chỉ từ một góc cạnh nào đó thôi. Con thấy đó, sức mạnh hướng thượng của toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên là tâm thức Ki-tô đưa tất cả mọi thứ xích lại ngày càng gần hơn với duy nhất. Chắc chắn, duy nhất là một cái gì khó mường tượng cho những người đầu thai trên một hành tinh với vật chất dày đặc như địa cầu, nhưng dù sao đi nữa, trong vũ trụ có một hướng chuyển động đi lên. Khi con đi vào tâm thức chiếm đoạt bằng vũ lực, con không thể ở trong duy nhất. Bởi vì nếu con ở trong duy nhất, con sẽ nhận ra là nếu con lấy của người khác bằng vũ lực thì con cũng lấy từ chính con, và thử hỏi có ai lại điên rồ đến mức làm chuyện đó?

Trạng thái phi hòa bình và phi tự do

Các sinh thể đó đi ngược lại sức mạnh hướng thượng của vũ trụ và họ không thể nào không cảm thấy điều đó. Thường thường họ không cảm thấy một cách ý thức. Họ không nhận thức được tại sao họ lại có cảm giác đó, nhưng họ cảm được một sự nhiễu loạn. Họ liên tục ở trong tâm trạng phi an bình, bất ổn này. Họ không thể bình an trong tâm. Cuối cùng nó có thể khiến họ điên loạn – cho dù con có định nghĩa từ này như thế nào – nhưng trong trung hạn, họ sẽ rơi vào một tâm trạng hoang tưởng nơi họ không thể nhìn ra hậu quả việc làm của mình. Họ không có khả năng nhìn nhận hậu quả việc làm của họ. Tại sao thế? Bởi vì để có thể sống còn về mặt tâm lý trong trạng thái phi an bình đó, họ phải cố tìm ra trong tâm một cách biện luận hầu bênh vực cho hành động hung hãn bạo ngược của họ, và họ không thể nhìn nhận hậu quả vì hậu quả sẽ vô hiệu hóa cách biện luận đó. Họ bắt buộc phải đi vào tâm trạng hoang tưởng, phủ nhận thực tế, hầu sống còn trong tâm lý.

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là giờ đây họ bước vào tâm trạng cùng cực của phi tự do. Họ có còn tự do nào nữa hay chăng khi họ không thể rút lại những chuyện bạo lực mà họ đã làm, không thể hủy bỏ hay tháo gỡ những hậu quả mà họ đã gây ra cho tha nhân? Và nếu họ nhìn nhận các hậu quả đó, dù chỉ là hậu quả trên nhân dân họ và chính họ, thì họ sẽ phải công nhận là cách biện minh của họ không sao đủ được.

Có nghĩa là trong tâm, họ sẽ phải nhìn nhận là mình sai lầm, nhưng nếu họ đã ở trong trạng thái cùng cực muốn cưỡng chiếm thì họ cũng tự coi mình là cao trội hơn, vì cái cho họ ý muốn nắm quyền lực cao nhất cũng chính là cái khiến họ cưỡng chiếm. Và nếu đã là một sinh thể cao trội hơn thì họ không thể sai lầm – hay đúng hơn, họ không thể chịu đựng nổi là mình sai lầm, và do đó họ cũng không thể nhìn nhận là mình sai lầm. Họ không thể nhìn nhận thực tế của những gì đang xảy ra trên thế giới, và do đó họ hoàn toàn phi tự do.

Họ không thể thay đổi quan điểm, vì khi họ thay đổi quan điểm hay thay đổi cách hành động, họ sẽ phải thừa nhận là hành động nguyên thủy của mình là sai trái và cách biện minh cho hành động đó cũng sai trái. Cho nên họ đã sai lầm, và khi đã là một sinh thể cao trội thì họ không thể chịu đựng mình đã sai lầm, và vì thế họ phải phủ nhận. Trong sự phủ nhận toàn diện đó, họ đánh mất tất cả mọi tự do trong tâm.

Bề ngoài có vẻ như sa nhân có tự do làm bất cứ gì họ muốn mà không phải cân nhắc những hậu quả cho người khác mà một người bình thường sẽ cân nhắc. Có vẻ như họ thường hay trốn tránh được hậu quả việc làm của họ vì họ khiến cho những ai đi theo họ phải gánh dùm nghiệp chướng. Nhưng khi con nhìn sâu vào tâm của sa nhân, con sẽ thấy ở tầm mức của tâm, họ là những sinh thể ít tự do nhất. Họ có vẻ tự do ở tầm mức hành động vật lý, nhưng họ ít tự do nhất ở tầm mức của tâm.

Những lãnh đạo không chịu nổi là mình sai

Từ khá lâu nay chúng tôi đã có đề cập đến các thiên thần sa ngã qua một đợt truyền pháp trước. Trong đợt truyền pháp này, chúng tôi nói đến các sinh thể sa ngã và đưa ra một số lời dạy rất thâm thuý về sa nhân. Lời dạy đó đã đi vào tâm thức tập thể, đã chạm được những ai có tâm cởi mở do họ đã nhìn vào lịch sử và tự hỏi tại sao trên địa cầu lại có loại lãnh tụ như vậy, những người thiếu hẳn lòng trắc ẩn hay quan tâm đến nỗi đau khổ của người khác. Hẳn lời dạy này đã chạm được các con, những học trò trực tiếp của chúng tôi. Các con đã suy ngẫm những ý tưởng đó, đã đọc thỉnh dựa trên những bài truyền đọc của chúng tôi, và tất cả đã tạo ra một động lượng hướng thượng – giờ đây được tăng cường và kết tinh do cuộc xâm lăng nước Ukraine – đến độ hành tinh đã đạt đến một khối lượng tới hạn (critical mass).

Hiện nay đã có một sự xoay chuyển trong tâm thức tập thể khi có nhiều người hơn thấy được, nhận ra được, sự cần thiết phải hiểu biết tại sao ngay cả trong thế giới hiện đại vẫn có những loại lãnh đạo như thế, những lãnh đạo sẵn sàng hành động bạo lực rõ ràng, gây ra biết bao hậu quả khốc liệt cho nhân dân xứ họ cũng như các xứ khác. Hơn thế, họ không sẵn lòng công nhận hậu quả đó để mà thay đổi hành động, thay đổi quan điểm của mình. Họ không có lòng trắc ẩn. Họ xem thường hậu quả mà họ gây ra, tại sao chứ? Như ta vừa nói, vì họ không thể chịu đựng nổi là mình sai lầm, và đây chính là điểm mà nhiều người đã bắt đầu nhìn ra: sự xơ cứng hoàn toàn, sự thiếu vắng khả năng cùng thiện chí để chấp nhận là mình đã sai lầm, hay việc làm của mình đã không tối ưu mà lại còn gây tổn hại cho chính quyền lợi của mình.

Sự xơ cứng của các chế độ độc tài

Điều này dẫn đến sự tỉnh ngộ rằng các nền dân chủ là những xã hội có đủ khả năng cho phép một lãnh đạo sai lầm. Những xã hội đó có đủ khả năng cho phép người ta sai lầm. Người ta có đủ khả năng nhìn nhận là mình đã sai lầm, rồi dựa vào đó, thay đổi cách nhìn và cách làm của mình. Đây là một trong những khác biệt cơ bản giữa một chế độ độc tài và một thể chế dân chủ. Người lãnh đạo trong một chế độ độc tài không thể công nhận là mình sai lầm, người dân không thể công nhận là mình đã sai lầm về lãnh đạo độc tài của mình, và sự thể này tạo ra một sự xơ cứng ở mức cơ bản, có nghĩa là một chế độ độc tài không có khả năng thích ứng với những tình huống thay đổi. Họ phải tiếp tục hành xử y như trước mà cứ chờ đợi kết quả sẽ khác đi, và như con cũng biết Einstein đã từng nói, đó chính là một hình thức điên rồ. Họ rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ sẽ cứ đi xuống mãi cho tới khi một biến cố xảy đến, một biến cố gây sốc đến độ nó sẽ đập tan sự phủ nhận của họ. Có thể biến cố đó là một thảm bại toàn diện như con thấy trong trường hợp Đức quốc xã. Đó có thể là sự phơi bày những dã man khủng khiếp như con thấy với Đức quốc xã và cuộc diệt chủng người đạo Do Thái. Hay đó có thể là hiểm họa một sự sụp đổ kinh tế toàn diện như con thấy trong trường hợp Liên Xô.

Con cũng thấy đôi khi một chế độ độc tài có thể chuyển hướng và bước vào một vòng xoắn ốc hướng thượng. Con đã thấy Đế chế Anh đã phải tự xét mình như thế nào do tấm gương của Gandhi và phong trào bất bạo động, và vì thế họ đã chuyển đổi từ cách cư xử chuyên chế đối với Ấn Độ sang nhận thức là họ không thể tự xưng là một nền dân chủ ở trong nước mà lại hành xử độc tài ở ngoài nước. Con đã thấy nước Đức chuyển đổi từ một quốc gia độc tài dưới Hitler thành một quốc gia dân chủ. Gần đây con thấy nước Đức nhìn nhận là chính sách của họ đối với Nga và Putin là một sai lầm và họ sẵn sàng thay đổi. Con cũng thấy các nước dân chủ khác nhìn nhận là họ đã đánh giá sai về Putin cùng tình hình ở Nga và họ cũng sẵn sàng thay đổi theo đó. Nhưng con cũng thấy một số nước dân chủ chưa sẵn sàng làm chuyện đó.

Uyển chuyển có nghĩa là sống còn

Dù sao đi nữa, điều ta muốn nêu ra ở đây là ta đã từng đầu thai trên trái đất rất nhiều ngàn năm trước khi hiện thân là Phật Gautama. Ta đã không là Phật trong suốt thời gian đó – ta chưa chứng được tâm thức Phật nhưng ta đã đầu thai trong một thời gian rất dài. Ta thăng thiên cách đây 2500 năm và kể từ đó, ta đã là một chân sư thăng thiên trong tâm thức Phật. Ta có một kinh nghiệm rất dài, một cái nhìn vô cùng dài hạn về địa cầu. Điều này có nghĩa là khi nói về xã hội, ta biết cái gì có thể sống còn và cái gì không thể sống còn. Và quả thực, cái duy nhất có thể sống còn là khả năng thích nghi, tính linh hoạt uyển chuyển, sự sẵn lòng thay đổi. Không chỉ thay đổi chiều ngang mà thay đổi chiều dọc, thay đổi trong sự thăng vượt mức tâm thức cũ của mình.

Bất cứ ai có cái nhìn dài hạn như ta đều có thể thấy sự tiến bộ là một đòi hỏi tuyệt đối, không chỉ trên địa cầu mà khắp mọi nơi trong vũ trụ. Thăng vượt trạng thái cũ, tiến lên một trạng thái cao hơn, đó chính là nền tảng để sống còn. Con cũng có thể thấy được điều này khi con nhìn vào lịch sử, nhìn xem những xã hội đã ra đời và biến mất như thế nào. Con có thể nhìn vào các loài động vật và dòng tiến hóa. Tại sao loài khủng long lại tuyệt chủng? Vỉ chúng không thể thích nghi. Thật sự con có thể thấy, đây chính là một định luật tự nhiên. Tất nhiên, đây cũng là một định luật tâm linh nhưng con có thể nhìn hoàn toàn trung hòa và gọi đó là một định luật tự nhiên. Khi xã hội trở nên xơ cứng, thiếu uyển chuyển và từ chối thích ứng, xã hội đó sẽ không thể bền vững trong thời gian. Nó có một thời hạn, một thời điểm hết hạn. Điều gì khiến cho một xã hội trở nên xơ cứng? Khi người ta không thể nhìn nhận, không nhất thiết rằng mình sai lầm, mà người ta không thể nhìn nhận là mình có khả năng làm tốt hơn những gì mình đang làm.

Sự sụp đổ của các nền văn minh và sức kéo hướng thượng của phần còn lại của vũ trụ

Tiến tới cái tốt đẹp hơn là một định luật. Tất nhiên, dựa theo lịch sử ghi chép thì con không nhất thiết thấy được là đã từng có những thời đại trong quá khứ khi toàn bộ hành tinh rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ khiến cho các nền văn minh bị sụp đổ. Một hành tinh như địa cầu hoàn toàn có khả năng rơi vào một vóng xoáy hướng hạ và đi ngược lại định luật tự nhiên của sự tự thăng vượt tuần tự. Nhưng hiển nhiên biến cố đó cũng đã gây ra sự sụp đổ cho các nền văn minh, sự hủy diệt của các nền văn hiến và dân số bị suy giảm xuống một mức rất thấp so với ngày nay. Tình trạng này tất nhiên không thể duy trì mãi, và đã tới một điểm khi không còn nơi nào thấp hơn để đi xuống và vòng xoáy hướng hạ đã chạm đáy.

Thế rồi lực kéo hướng thượng của phần còn lại của vũ trụ bắt đầu vực địa cầu lên trở lại, và lần hồi loài người lại đáp ứng, tạo nên một động lượng đi lên. Có những thế lực hoạt động chống lại một động lượng đi lên như vậy và chúng có thể phần nào thành công dựng lên những đế quốc tạm thời chặn đứng sự tăng trưởng. Và mặc dù đôi khi chúng có thể kéo dài cả ngàn năm nhưng chúng không thể tồn tại mãi mãi.

Và ngay cả nếu con nhìn vào lịch sử được ghi chép, con sẽ thấy tuổi thọ của những đế quốc như vậy rõ ràng ngày càng ngắn ngủi hơn. Đế chế La Mã sống sót được khá lâu. Đế chế Công giáo La Mã sống sót được một thời gian. Đế chế Nga hoàng, các vị vua tại Âu châu, các vương quốc châu Âu, cũng sống sót một thời gian, nhưng con thấy ngày càng ngắn hơn. Rồi con chứng kiến các lãnh tụ với tham vọng chinh phục toàn thế giới, như Napoleon thành công một thời gian nhưng không được bao lâu. Con thấy Hitler cũng thành công một thời gian nhưng rất ngắn ngủi. Con thấy là lãnh đạo càng hành xử bạo ngược bao nhiêu thì tuổi thọ của chế độ càng ngắn ngủi bấy nhiêu. Liên bang Sô viết sống sót được như vậy là vì họ tránh được chiến tranh lạnh trở nên quá nóng. Putin đã kéo dài được như vậy cũng là vì ông đã tránh vượt qua lằn ranh đó. Nhưng bây giờ lằn ranh đã bị vượt qua thì không có đường nào để quay trở lại được nữa.

Một nhận biết mới tại các quốc gia phi dân chủ

Đây là một điểm mà nhiều người có thể nhận biết và nắm bắt được, không những tại các nước dân chủ mà cả các nước phi dân chủ. Có một động lượng đang được vun đắp trong tâm thức tập thể, đó là: Rất, rất nhiều người tại các nước phi dân chủ đã hiểu ra – đột nhiên mà không cần suy nghĩ gì đặc biệt – rằng họ cũng đang mang các nhược điểm nói trên trong quốc gia của họ, trong chính quyền cũ và trong các chế độ độc tài. Họ bắt đầu thấy được là mình đang ở trong một vòng xoắn ốc tự hủy diệt không thể kéo dài lâu hơn. Và nếu xã hội của họ muốn tránh khỏi phần nào bị đổ vỡ thì phải có một sự thay đổi.

Có những người tại Trung quốc thấy được là một cuộc xâm lăng Đài Loan sẽ là một hành động tự sát đối với đảng Cộng sản và thiểu số tự tôn quyền lực Trung quốc. Có những người tại các nước Ả rập thấy được là không thể nào kéo dài tình trạng đạo Hồi chi phối chính quyền đến mức đó. Có những người tại một số nước khác thấy được là âm mưu của một số lãnh đạo nhằm khuynh đảo và phá hoại nền dân chủ, cũng như tự trao cho mình những quyền hạn vi hiến, là không bền vững. Thổ Nhĩ Kỳ là một ví dụ hiển nhiên của tệ trạng này. Đổi tên thôi thật không đủ mà cần đổi cả cách hành xử, có nghĩa là cần đổi người cầm đầu ở trên cùng.

Hẳn là có một động lượng như vậy đang được bồi đắp ở hạ tầng nhưng hầu như chưa được người ta nhìn thấy hay công nhận – một động lượng hướng tới việc nhận thức rằng đau khổ không phải là một điều chắc chắn không thể tránh khỏi. Đau khổ phần lớn do con người tạo ra, và nó được tạo ra bởi những kẻ chiếm đoạt bằng vũ lực, những kẻ biện minh cho bạo lực và nhất định không thừa nhận là mình sai lầm. Chính sự xơ cứng đó, chính sự kháng cự lại nhu cầu phải thích nghi và thay đổi, là nguyên nhân thực sự của hầu hết mọi khổ đau có mặt trên địa cầu. Hay nói cách khác, đó là động lực chủ yếu làm khuấy động biển luân hồi.

Chìa khóa để khắc phục đau khổ con người

Như ta có nói, động lượng hướng thượng đã phần nào do các học trò của chân sư thăng thiên xây dựng lên, phần nào do rất nhiều Phật tử suốt 2500 năm qua đã cố gắng hiện thân những lời dạy mà ta truyền giảng, phần nào do rất nhiều tín hữu Cơ đốc đã cố gắng hiện thân những lời dạy của Giê-su, và phần nào cũng do rất nhiều người tại các nước dân chủ lẫn phi dân chủ đã suy ngẫm về sự khác biệt giữa chế độ độc tài và thể chế dân chủ. Họ đã suy ngẫm: “Tại sao lại có đau khổ con người? Đâu là nguyên nhân? Có thể làm gì được để giảm bớt, thậm chí loại bỏ, đau khổ con người? Có thể nào trừ hẳn mọi đau khổ con người?” Nhiều người đã đặt ra câu hỏi đó. Một số đã kết luận là chuyện đó không thể làm được, vì họ không thấy được làm thế nào. Nhưng một số đã suy ngẫm là chuyện đó phải có cách làm được. Họ có thể trực nhận, hoặc có thể họ biết được từ tiền kiếp, hay trong thời gian giữa hai kiếp đầu thai, rằng có cách giảm bớt, loại bỏ, giải quyết đau khổ con người.

Nói cho cùng, chẳng phải đó là những gì Phật đã nói hay sao? Chẳng phải là những gì Giê-su đã nói? Chẳng phải là những gì nhiều tôn giáo khác và nhiều phong trào tâm linh khác cũng đã nói? Có cách vượt qua đau khổ. Một số sẽ bảo, người ta chỉ thoát được đau khổ sau khi nhắm mắt bỏ lại cõi đời này. Nhưng nhiều người khác, đặc biệt trong thời đại hôm nay, bắt đầu tự hỏi: “Hẳn là phải có cách nào thoát khỏi khổ đau ngay trong thế giới này chứ?” Điều mà nhiều người trong số đó bắt đầu cảm nhận là con người có khả năng thoát khỏi khổ đau không qua một phương thức vỏ ngoài, không bằng cách tạo dựng một xã hội lý tưởng hay không tưởng. Vì nói cho cùng, đau khổ xảy ra ở đâu? Con có thể bảo rằng nếu con ngã ngựa và gẫy chân thì có một cơn đau vật lý khiến con đau khổ. Nhưng đau khổ đó được trải nghiệm ở đâu? Trong tâm con. Khi con được tiêm một mũi thuốc tê để làm dịu cơn đau, liệu thuốc tê có ảnh hưởng gì trên cái chân gẫy của con? Hay là thuốc tê ảnh hưởng đến bộ não cảm nhận cơn đau vật lý?

Nhưng xa hơn cơn đau vật lý, tất nhiên còn có trải nghiệm tâm lý về nỗi đau, và đây chính là đau khổ. Cơn đau, nỗi đau vật lý, ngay cả khi được trải nghiệm bởi bộ não, không thật là đau khổ, bởi vì đau khổ không là cùng một thứ như cơn đau. Cơn đau có thể gây ra hay kích hoạt đau khổ, nhưng tự thân cơn đau không phải là đau khổ. Đau khổ là một trải nghiệm của tâm. Nó có thể bao gồm một số yếu tố nhưng luôn luôn có yếu tố này: “Đúng ra tôi không được cảm thấy cơn đau này. Đúng ra tôi không phải trải nghiệm điều kiện này. Đúng ra những người kia không được hành xử như vậy với tôi.” Luôn luôn trong tâm có một ý niệm rằng chuyện đó đúng lý không được xảy ra. Nhưng bởi vì nó đang xảy ra và con không thể làm cho nó biến mất, cho nên đó là cái gây ra đau khổ.

Nhiều người ít ra đã bắt đầu ngờ ngợ và cảm nhận được là đau khổ diễn ra trong tâm, có nghĩa là mặc dù nó có thể được những yếu tố bên ngoài kích hoạt, nhưng nguyên nhân thực sự của đau khổ phải nằm bên trong. Và điều này có nghĩa là cách duy nhất để loại bỏ đau khổ là làm việc trực tiếp trên tâm mình. Chắc chắn các xã hội dân chủ đã cố gắng tạo ra một môi trường nơi các công dân không phải trải nghiệm rất nhiều điều kiện vỏ ngoài thường hay gây ra đau khổ hay kích hoạt đau khổ. Có nhiều người lớn lên trong một xã hội dân chủ đã sống cả đời mà không phải trải nghiệm những loại tình huống vật lý khắc nghiệt đó. Thế nhưng nhiều người vẫn đau khổ. Họ đau khổ mặc dù họ không có lý do vật lý nào để đau khổ, nhưng họ có một lý do tâm lý gây ra đau khổ.

Các nền dân chủ đã chứng minh là cho dù người dân được cung cấp những điều kiện vật chất lý tưởng, điều này vẫn không loại bỏ được đau khổ. Giờ đây đã rõ ràng là cách duy nhất để loại bỏ đau khổ là phải làm việc trên tâm. Và như con cũng biết, đó chính là điều ta đã nói cách đây 2500 năm. Đó là điều Giê-su đã nói cách đây 2000 năm. Và đó cũng là điều mà Khổng Tử và Lão Tử cùng bao nhiêu vị sứ giả tâm linh khác đã nói rất nhiều lần trong rất nhiều hoàn cảnh khác nhau. Thường người ta đã không lắng nghe các vị đó, bởi vì mặc dù người ta có thể nghe được lời dạy vỏ ngoài nhưng người ta không thể hoàn toàn thể nhập được lời dạy. Nhưng ngày nay chúng ta đã tiến gần hơn đến một thời đại khi càng ngày sẽ càng có nhiều người có khả năng nắm bắt lời dạy, nắm bắt nội dung thực sự của lời dạy, và đó là: Chìa khóa để vượt qua đau khổ nằm trong tâm con người.

Con có thể toan tính tạo dựng một xã hội không tưởng, và con có thể toan tính tạo dựng một xã hội lý tưởng, nhưng con sẽ không bao giờ giảm thiểu được đau khổ. Con thấy được điều gì trong một xã hội dựa trên vũ lực với một chính quyền dựa trên vũ lực? Con thấy đau khổ ở một mức cao trong loại xã hội đó. Người dân trong Liên bang Sô viết rõ ràng đau khổ hơn người dân tại Tây Âu vào thời đó. Người dân ở Nga trước cuộc xâm lược rõ ràng đau khổ hơn người dân tại Tây Âu vào lúc đó. Người dân ở Nga sau cuộc xâm lược rõ ràng đang đau khổ hơn người dân tại Tây Âu.

Con thấy đó, trong một xã hội dựa trên vũ lực, với một chính quyền dựa trên vũ lực, người dân đau khổ hơn. Trong một quốc gia dân chủ, người dân đau khổ ít hơn, nhưng họ vẫn đau khổ. Và đau khổ của họ cũng khác. Họ không đau khổ do hệ quả của những điều kiện vỏ ngoài, nhưng giờ đây càng ngày họ sẽ càng đau khổ do những điều kiện tâm lý. Chúng tôi đã từng giải thích nguyên nhân của sự thể này, rằng những ai đã từng trải qua chấn thương trong tiền kiếp sẽ có xu hướng muốn đầu thai, nếu có thể, trong một quốc gia dân chủ nơi họ có cơ hội tốt hơn để giải quyết tâm lý chấn thương của họ.

Con không thể loại bỏ đau khổ bằng vũ lực

Nhưng dù sao thì điểm ta muốn nói ở đây là con cần tự hỏi, chủ yếu tại các nước dân chủ nhưng cũng ở mọi nước khác: Đâu là mục đích của xã hội chúng ta? Con có thể nhìn vào các chế độ độc tài và thấy được mục đích của độc tài là để cung cấp cho nhà độc tài cùng thiểu số thượng lưu quyền lực đang ủng hộ ông ta tất cả những gì mà họ thèm khát – cảm giác quyền lực, cảm giác mình cao trội, cảm giác mình đặc biệt, cảm giác mình giàu có, cảm giác mình có nhiều đặc quyền, bất kỳ … Nhưng toàn bộ xã hội đó đặt trên nền tảng sự tước đoạt bằng vũ lực mà thiểu số độc tôn quyền lực này đã áp đặt lên dân chúng.

Rõ ràng là khi con có một xã hội dựa trên vũ lực nơi đa số dân chúng gần như làm nô lệ cho một thiểu số thượng lưu, thì dân chúng sẽ phải khổ đau. Sẽ không thiếu gì những điều kiện bên ngoài khiến cho dân chúng khổ đau vì họ sẽ cảm thấy là chuyện đó không phải phép, rằng đúng ra họ phải có một cuộc sống tốt đẹp hơn, đúng ra họ không được bị kềm kẹp đến như vậy, đúng ra họ không được bị chà đạp, vân vân. Nhưng như ta vừa giải thích, thật sự không có ai đau khổ bằng chính nhà độc tài cùng nhóm tay sai của ông ta. Họ mới là những người đau khổ nhiều nhất.

Con có thể nói được như thế này: Một xã hội dựa trên vũ lực không phải là một xã hội có mục đích chấm dứt, hay ngay cả giảm thiểu, đau khổ của con người, và cho dù nó có muốn biết mấy thì nó cũng sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu đó. Con không thể loại trừ đau khổ bằng vũ lực. Vũ lực sẽ chỉ tạo thêm đau khổ. Và tất nhiên, đau khổ cũng tạo thêm vũ lực, bởi vì những người có tư duy đó sẽ nghĩ rằng nếu họ đang đau khổ thì hẳn phải có một nguyên do vỏ ngoài nào đó, và nếu họ dùng vũ lực để tiêu diệt nguyên do đó thì họ sẽ hết đau khổ. Thế nhưng nỗ lực tiêu diệt nguyên do sẽ chỉ gây ra thêm nhiều khổ đau, và như thế họ rơi vào cái vòng xoắn ốc không bao giờ ngừng lại mà sẽ chỉ ngày càng cuồng nhiệt hơn, cho tới khi họ không thể sống còn về mặt tâm lý, thậm chí cả về mặt vật lý.

Con không thể loại bỏ đau khổ qua phúc lợi vật chất

Khi con nhìn vào các nền dân chủ, con có thể nói được điều gì về dân chủ? Con có thể nói đó là những xã hội có mục đích giảm thiểu tối đa đau khổ con người, giảm thiểu tối đa đau khổ của quần chúng nói chung. Thậm chí con có thể nói rằng mục đích cao hơn của một nền dân chủ là loại bỏ đau khổ con người. Nhưng điều chúng tôi đang chỉ ra cho con qua loạt bài giảng này là điều đó không thể nào thực hiện được, bất kể xã hội vỏ ngoài mà con tạo dựng có tốt đẹp đến đâu. Bất kể các điều kiện vật chất có tốt đẹp thế nào, bất kể người dân có tự do chừng nào, bất kể cuộc sống có dễ dàng biết mấy, thì điều đó cũng không loại bỏ được khổ đau bởi vì nguyên nhân đau khổ nằm trong nội tâm. Như chúng tôi đã có nói, bước lô-gíc kế tiếp cho các nền dân chủ tân tiến là cần chú tâm vào sức khỏe tâm lý, phúc lợi tâm lý, thay vì phúc lợi vật chất.

Đây rõ ràng là thêm một bước tiến, một bước lô-gíc và tự nhiên trong tiến trình mà các nền dân chủ hiện đại đi qua – ít ra là các nền dân chủ đã phát triển cao nhất trong tiến trình dân chủ. Một lần nữa, điều này không có nghĩa là họ phải công nhận một giáo lý tâm linh hay sự trợ giúp của các chân sư thăng thiên, nhưng họ thực sự cần khám phá ra một số nguyên lý phổ quát về tâm lý con người rồi đem ra áp dụng.

Con có thể nói giống như các thày cũng đã nói, vấn đề quan trọng thực sự cho dân chủ là con người, chứ không phải là tư tưởng, hay lý thuyết, hay chủ nghĩa. Điều thực sự quan trọng cho dân chủ là quần chúng nói chung, chứ không phải một thiểu số thượng lưu. Và một bước cao hơn trong mục đích của dân chủ chính là giảm thiểu nỗi khổ đau của dân chúng. Hiển nhiên, đây là một điểm mà càng ngày sẽ càng có nhiều người xét đến, nắm bắt, công nhận, rồi họ sẽ nói đến, sẽ viết lách. Là học trò trực tiếp của chúng tôi, các con là một thành phần của tiến trình này khi các con nâng cao tâm thức của mình, khi các con đọc thỉnh đọc chú, khi các con tu học giáo lý, nhưng ngoài các con ra thì còn rất, rất nhiều người khác.

Tạo vòng xoáy hướng thượng cho mọi người

Như chúng tôi có giảng mấy lần trong các đợt truyền pháp trước, học trò của chúng tôi đã có nhu cầu cảm thấy chỉ có mình mình đang cứu nguy địa cầu cho Saint Germain. Nhưng như con đủ trưởng thành để nhận ra, đó chỉ là một cái nhìn ngây thơ. Muốn thay đổi thế giới phải cần đến rất, rất nhiều người. Con có thể là người đi tiên phong, là mũi nhọn của ngọn giáo, nhưng con không thể làm chuyện đó một mình. Thật là ngây thơ mà nghĩ như vậy. Cho nên mấy lần rồi chúng tôi đã yêu cầu các con xoay chuyển, tức là các con không làm những gì con đang làm để nâng mình lên thành người đặc biệt, vì khi con mang tư duy đó thì con sẽ rất dễ dàng mở cửa ra cho chất độc tâm linh của ganh tị và ghen ghét. Chất độc này khiến con làm gì? Con muốn chỉ có mình con thực hiện một điều gì tích cực cho Saint Germain. Con không muốn mọi người ở ngoài kia hoà điệu với tư tưởng của các chân sư rồi đem ra áp dụng vì họ sẽ tước mất công lao của con. Trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên đã có lối tư duy như thế, cũng như trong nhiều phong trào tôn giáo lẫn tâm linh.

Nhiều đạo sư vẫn còn mong muốn nâng cao bản thân mình và họ truyền mong muốn đó cho đệ tử của họ. Chúng tôi yêu cầu các con hãy bước lên một mức trưởng thành cao hơn, buông nó ra để nắm lấy viễn kiến rằng tất cả những ai có tiềm năng hòa điệu với các ý tưởng nói trên, tiềm năng đem vào thực hiện và thay đổi thế giới, sẽ ra tay làm chuyện đó. Họ sẽ đạt được thành công tối đa như trong sứ vụ thiêng liêng của họ. Bởi vì thật sự, con yêu dấu, khi con đạt đến một mức cao hơn của quả vị Ki-tô, con sẽ thấy việc người khác hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của họ hiển nhiên không thể ngăn trở chính sứ vụ thiêng liêng của con. Ngược lại là đằng khác, người khác càng thành công bao nhiêu thì chính con cũng thành công bấy nhiêu, vì con là một phần của tổng thể, và chỉ bằng cách nâng cao tổng thể đó thì con mới nâng cao chính con một cách tối đa. Điều này con sẽ thấy là chuyện đương nhiên một khi con đạt đến một mức nào đó của quả vị Ki-tô. Con hiểu ra cái quan trọng nhất không phải là con như một sinh thể tách biệt. Cái quan trọng nhất là cái ta rộng lớn hơn của tất cả những ai đã bước vào vòng xoáy hướng thượng. Nói cho cùng, đó là toàn bộ nhân loại, vì tất cả mọi người đều có thể được vòng xoáy hướng thượng đó kéo lên, ngay cả khi họ chưa tích cực neo chặt và chưa gia tốc vòng xoáy đó.

Thành công to lớn của hội nghị này

Hội nghị này – và ta không nói điều này để khiến con cảm thấy mình đặc biệt, nhưng con xứng đáng nhận được một sự lượng định thực tiễn – hội nghị này đã có một tác động đáng kể do thời điểm của nó. Do sự xoay chuyển, sự thức tỉnh mà liều thuốc gây sốc của Putin đã kích hoạt, hội nghị này, các bài truyền đọc của chúng tôi, những lời kêu gọi của các con, nỗ lực thể nhập và lắng nghe bài truyền đọc của các con, đã có một tác dụng to lớn hơn rất nhiều so với bình thường.

Con có thể nói: “Nhưng các thày đã có thể, nói chung, ban ra cùng những bài giảng này cách đây sáu tháng.” Các con đã có thể đọc, không cùng những bài thỉnh nhưng những bài thỉnh quyền năng hơn, và chúng ta đã có thể tổ chức một hội nghị về dân chủ và quả vị Ki-tô vào mùa thu [Bắc bán cầu]. Nhưng bởi vì tâm thức tập thể lúc đó ở trong một tình trạng bế tắc cho nên một hội nghị vào thời điểm đó sẽ không thể nào có được tác dụng mà nó có bây giờ. Trong hội nghị này, các con đã tác dụng thật to lớn để định hướng một tâm thức tập thể bị lâm vào rối loạn – một tâm thức tập thể chứa đựng rất nhiều năng lượng nhưng lại thiếu sót một hướng đi. Tuy đã có một đường hướng nào đó vì như chúng tôi có nói, quả thật các quốc gia dân chủ đã phản ứng ở mức độ cao hơn là chúng tôi chờ đợi, nhưng hướng đi vẫn thiếu sót và các con đã cống hiến được một lực đẩy. Lực đẩy này, nếu người ta chịu nắm lấy, có thể sẽ kết tụ thành những viễn quan mới, những đường hướng mới và một niềm quyết tâm mới. Về điểm này, các con xứng đáng được chúng tôi biết ơn.

An bình đến từ thái độ “bất cứ gì xảy ra cũng được”

Có lẽ con đã nhận diện ra chúng tôi là những sinh thể uyển chuyển, linh hoạt tột bậc. Điều này sẽ khiến cho một số hoc trò của chúng tôi ngạc nhiên vì họ tưởng chúng tôi bất biến. Theo một nghĩa nào đó, chúng tôi bình đẳng ở mức tâm thức của mình mặc dù vẫn luôn luôn tự thăng vượt như chúng tôi đã có nói. Nhưng chúng tôi uyển chuyển một cách vô biên trong việc giúp đỡ loài người trên địa cầu. Bất kỳ trong hoàn cảnh nào, bất kỳ chuyển đổi nào trong các điều kiện trên địa cầu, chúng tôi cũng luôn luôn tìm cách tận dụng để khởi xướng tăng triển. Chắc chắn chúng tôi sẽ ưa thích hơn nếu cuộc chiến này đã không xảy ra. Nhưng giờ đây nó đã xảy ra thì chúng tôi không nhìn cuộc chiến với chút tiếc nuối nào. Chúng tôi nói:”Làm thế nào giúp được mọi người tiến tới tử điểm này? Làm thế nào biến nó thành một cái gì tích cực, biến nó thành một cơ hội tăng triển sẽ thực sự đem lại tăng triển, để đưa hành tinh và những xã hội có thiện ý đó xích lại gần hơn với Thời đại Hoàng kim của Saint Germain?”

Tất nhiên đây cũng là một thái độ mà các con là học trò của chúng tôi có thể khoác vào. Vị sứ giả này, như ông có chia sẻ, đã bị chấn động khi cuộc chiến bùng nổ, nhưng ông đã làm việc trên bản thân cùng tâm lý của ông, và ông đã thay đổi thái độ. Một ý tưởng đã giúp cho ông là khi con nhìn vào trái đất ngày nay, con có thể thấy các điều kiện hiện hữu trên hành tinh kém xa những gì sẽ hiện hữu trong Thời đại Hoàng kim của Saint Germain. Chúng tôi đã ban ra nhiều lời dạy về Thời đại Hoàng kim của Saint Germain, đủ để con thấy được là các điều kiện hiện hữu trên điạ cầu ngay bây giờ rất, rất thấp kém so với Thời Hoàng kim, và điều này có nghĩa là những cuộc thay đổi to lớn sẽ cần diễn ra trước khi thời đại đó có thể thực sự bắt đầu thị hiện.

Sứ giả này đã hiểu ra là cho tới giờ, ông đã có thái độ, có tư duy, ông đã hy vọng, đã mong mỏi, đã cầm giữ viễn kiến rằng những thay đổi đó sẽ diễn ra lần hồi và tuần tự, để không có những biến động quá lớn, chẳng hạn như chiến tranh, như bệnh dịch corona, như một sự sụp đổ kinh tế hay những biến cố khác giống như vậy. Ông cứ hy vọng sẽ được thấy cùng một loại tăng trưởng như ông đã chứng kiến gần như suốt đời và hầu hết các con cũng đã chứng kiến gần như suốt đời trong thế giới dân chủ tân tiến – tức là một sự phát triển lần hồi và ổn định không có cú sốc lớn.

Ông hy vọng như vậy. Nhưng khi ông xem xét tư duy đó, ông mới nhận ra: “Nhưng nếu sự thay đổi lớn lao cần thiết đó chỉ diễn ra thật tuần tự, thì chẳng phải là nó sẽ tốn rất nhiều thời gian trước khi thời hoàng kim có thể thị hiện hay sao?” Điều này đã khiến ông xoay chuyển tư duy, và ông nói: “Nếu vậy thì tôi có thể chấp nhận một số biến động to lớn, một số biến cố dữ dội có khả năng xoay chuyển tư duy, hầu chúng ta có thể biểu hiện thời hoàng kim sớm sủa hơn.” Tất cả các con đều có thể làm giống như vậy, không những vì nó sẽ gia tốc sự tăng triển bởi con không mang một viễn kiến khuyến khích sự tăng triển chậm chạp, mà cũng vì chính con có thể đạt được một niềm an bình lớn hơn khi các biến cố đó xảy ra.

Ta hoàn toàn không có ý giảm thiểu nỗi đau khổ của người dân Ukraine. Ta không đang nói rằng nếu con sống tại Ukraine thì con phải giữ được an bình giữa tất cả những gì đang xảy ra. Nhưng có rất nhiều các con, hầu hết các học trò của chân sư đang sống tại các quốc gia hòa bình hơn, các con có thể chọn lấy một trạng thái tâm an bình hơn. Các con chọn lấy thái độ “bất cứ gì xảy ra cũng được” thay vì lòng sợ hãi: “Ồ, chuyện này không được xảy ra, hay chuyện kia không được xảy ra.” Có nghĩa là khi một biến động lớn xảy đến, con sẽ không bị mất an bình. Con sẽ không bước vào trạng thái nhiễu loạn khi con nghĩ, giống như ngay cả sứ giả này trong những ngày đầu của cuộc chiến cũng nghĩ: “Ồ, chuyện này đúng lý không được xảy ra. Làm sao nó đã xảy ra được? Chuyện này không được xảy ra.” Thay vào đó, con bước vào thái độ: “Vậy à, chuyện đó đã xảy ra, làm thế nào chúng ta có thể dùng nó một cách tối ưu? Làm thế nào chúng ta có thể biến nó thành một bước tăng triển?” Làm như vậy sẽ giúp con đối mặt dễ dàng hơn với thời gian còn lại của con trong kiếp hiện thân.

Lời đề nghị của Gautama

Có thể sẽ có những sự xoay chuyển rất mãnh liệt. Chúng tôi không bao giờ nói rằng những cuộc xoay chuyển như vậy sẽ không xảy ra. Nhưng chúng tôi đã cố làm việc để đạt đến một nhịp tăng triển đều đặn hơn không đòi hỏi những cú sốc quá lớn trong Trường đời Cay đắng. Các con là những học trò trực tiếp, các con không ở trong Trường đời Cay đắng, cho nên các con có thể cố gắng đạt được một trạng thái tâm không bị xáo trộn khi người khác phải nhận chịu những cú giáng đó. Tâm này, ta mong muốn con có được. Ta hy vọng hội nghị này đã giúp con xích lại gần hơn với trạng thái an bình đó. Nếu không, ta trao cho con Ngọn lửa An bình Toàn vũ của ta sẽ dẹp yên những ý nghĩ lăng xăng đó. Con hãy đọc bài chú của ta, hay con có thể chỉ đọc đoạn lặp lại, gồm có bốn câu. Con có thể học thuộc lòng đoạn này rất nhanh chóng và con hãy đọc khi cảm thấy nhiễu loạn. Con hãy đọc khi con nằm trên giường vào buổi tối và thấy mình khó ngủ. Con chỉ cần lặp lại đoạn điệp khúc trong bài chú của ta:

Gautama, Lửa Hoà bình Hoàn vũ,
Chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng,
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
Cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Ta giữ viễn kiến cho con là biển luân hồi sẽ được yên lắng trong tâm con. Và như vậy, ta niêm con trong Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ của ta cũng như ngọn lửa biết ơn của tất cả các chân sư thăng thiên mà con đã lắng nghe hay đã cầu thỉnh trong suốt dịp hội nghị tuyệt vời này.

Thử thách của con là giải quyết bí ẩn của quyền tự quyết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 31/12/2021. Đăng ngày 3/1/2022.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Thật là một niềm vui cho tất cả chúng tôi, các chân sư thăng thiên, được dõi nhìn các con, các đệ tử trực tiếp của chúng tôi, trong suốt năm vừa qua. Rất nhiều người trong số các con đã sử dụng giáo lý của chúng tôi và đã có những tiến bộ vượt bực trên đường tu. Thường khi, có thể ta không là người đầu tiên ban lời khen ngợi, nhưng dù sao thì ta muốn ghi nhận bước tinh tấn này – bước đó đã rất đáng kể đối với nhiều người trong số các con đã dùng những lời dạy này.

Khi ta nói tiến bộ tâm linh, tất nhiên là ta muốn nói đến sự tiến bộ trong việc giải quyết tâm lý của con, là tâm lý đang buộc chặt con lại với địa cầu, bởi vì đó chính là mục đích của tiến bộ tâm linh. Trước đây chúng tôi đã có đề cập đến một tình thế oái oăm mà chúng tôi gặp khi làm việc với con người trên trái đất. Thày Giê-su có nói là chúng tôi giống như những nhân viên bán xe cũ, sử dụng kỹ thuật nhử mồi xong đánh tráo. Để khiến con bước qua ngưỡng cửa, chúng tôi phải đưa cho con một lời dạy hấp dẫn đối với con, sau đó chúng tôi hy vọng là con sẽ có thể tiến xa hơn, tự điều chỉnh và nhận diện được mục đich thực sự của đường tu tâm linh.

Tất nhiên khi con nhìn địa cầu trong tổng thể, có một số đáng kể những người tự xem mình là tâm linh nhưng họ vẫn bước đi trên con đường vỏ ngoài, con đường công truyền. Họ nghĩ đó chỉ là chuyện sử dụng một kỹ thuật tâm linh, tìm hiểu một giáo lý tâm linh, học hỏi nó một cách trí thức, đi theo một vị đạo sư, thì một ngày kia họ sẽ tự động đạt đến cái mà họ xem là mục tiêu, cho dù mục tiêu đó là gì. Như chúng tôi đã giải thich rất nhiều lần, tất nhiên chuyện đó không phải vậy. Đó là một ảo tưởng được khởi xướng bởi các sa nhân, các thày giả muốn giam giữ con người kẹt lại trên địa cầu, kẹt lại dưới quyền kiểm soát của chúng.

Điều gì cho phép một thế lực nào đó – cho dù là con người hay những sinh thể phi hiện thân – nắm quyền kiểm soát trên con? Phải, ngoại trừ một nhà độc tài kiểm soát được thân xác của con, thì đó chỉ có thể là một sự kiểm soát tâm lý. Vậy điều gì cho phép một ai đó kiểm soát tâm lý của con? Đó là một cái gì trong chính tâm lý con mà họ có thể sử dụng để kiểm soát con. Ông hoàng của thế gian nắm được trong con một cái gì đó để y sai khiến con. Y có thể bắt con làm những điều y muốn con làm. Y có thể khiến con phản ứng, giống như bọn quỷ của Mara đã mưu toan khiến ta phản ứng lại khi ta sẵn sàng bước vào Niết bàn.

Tại sao con không sẵn sàng bước vào Niết bàn chứ? Vì bọn quỷ của Mara nắm được một phản ứng nơi con mà chúng có thể dùng để kéo con vào vở tuồng, như ta đã giảng dạy hồi năm ngoái. Điều gì lôi kéo và khiến con tập trung vào vở tuông đang được trình diễn trên địa cầu? Có một dính mắc nào đó. Nhiều người trong các con đã nghe nói về “dính mắc”, có người đã nghe nói nhiều năm rồi, nhưng liệu con đã nắm bắt được dính mắc thật sự là gì chăng?  

Thế nào là một dính mắc? Con thử lấy tình cảnh được mô tả trong kinh Tân ước. Có một thanh niên kia đến với Giê-su, nói: “Thưa thày, con thực sự muốn đi theo thày, nhưng trước tiên xin thày cho phép con đi chôn cha con đã.” Giê-su nói với anh ta: “Hãy để cho người chết đi chôn người chết.” Rồi có một tình cảnh khác khi Giê-su bước đến các môn đồ tương lai của thày đang vá lưới đánh cá, và thày nói: “Hãy bỏ lưới lại và đi theo ta.” Chàng thanh niên kia muốn chôn cha mình thì bị dính mắc vào một loại phong tục tập quán. Và nếu các môn đồ kia không chịu rời bỏ lưới cá của họ ngay tức khắc thì đó cũng là vì họ có dính mắc.

Nói cách khác, vị thày tâm linh luôn luôn tìm cách thực hiện điều gì? Đó là giúp con chuyển dời từ tầng tâm thức của con ngay bây giờ để bước lên tầng tâm thức cao hơn một bậc. Cho nên vị thày sẽ luôn luôn đến và nói: “Con hãy bước với ta lên tầng kế tiếp.” Nếu trong con có cái gì đó mà con dính mắc, con sẽ trả lời: “Ồ, con sẽ đi theo thày, nhưng trước tiên con phải làm xong việc này hay việc nọ cái đã.” Con không thể theo thày được, và có thể con sẽ nói: “Nhưng chắc hẳn con sẽ có thể theo thày sau đó.” Tất nhiên là con có thể, chúng tôi không bảo là hoặc có hoặc không – phải ngay bây giờ hay không bao giờ.

Nhưng đằng khác, liệu con có xét xem con có một Sứ vụ Thiêng liêng hay chăng? Liệu con có xét xem trong Sứ vụ Thiêng liêng đó, khi con hoạch định kiếp đầu thai sắp tới của con – tức kiếp này đây – chính con đã có một viễn quan cao hơn. Con đã định ra một muc tiêu, và con thấy được là để đạt mục tiêu mà con định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng, con sẽ phải kinh qua một tiến trình, vì con sẽ phải chuyển từ mức tâm thức sẵn có khi con bước vào hiện thân, để vươn lên mức tâm thức cần thiết cho việc hoàn thành mục tiêu trong Sứ vụ của con.

Con cũng định ra một mốc thời gian, và con nói, lý tưởng nhất con muốn đạt mục tiêu trước khi con mãn kiếp đầu thai này, hoăc ở một thời điểm nhất định nào đó, một độ tuổi nào đó. Cho nên con không có nhiều thì giờ để do dự lần lữa, đi lạc đường hay chui vào ngõ cụt đâu con. Con đã có một thời khóa biểu mà con định ra cho chính mình. Khi vị thày đến với con, thày không đến bởi thày muốn ép uổng gì con. Thày đến là vì trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, con đã muốn thày đến nhắc nhở cho con là đã tới lúc con cần bước đi. Cho nên nếu bấy giờ con nói: “Ồ, xin thày để yên con một lúc, con đang bận đây,” không phải là con đang thất hứa với thày mà con thất hứa với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cho nên đó là tại sao tất cả các con sẽ được ích lợi rất nhiều nếu các con ghi nhớ rằng: “Tôi đã định ra những gì trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi? Tôi đã muốn thực hiện những điều gì trong kiếp này?”  

Khi đó, con có thể nhìn vào bản thân và nói: “Tôi thấy là trong hai ba năm vừa qua, tôi đã trở nên dính mắc với một số quan điểm, một số vấn đề đã chiếm mất quá nhiều sự chú ý của tôi. Thực sự chúng đã hút mất một khối năng lượng đáng kể, cả về lý trí lẫn tình cảm, vì tôi đã nghĩ ngợi quá nhiều về các vấn đề này rồi cứ nghiền đi nghiền lại, duyệt qua đủ loại kịch bản trong tâm trí mình và cố thuyết phục người khác là mình đúng. Tôi mang quan điểm thật dứt khoát về các vấn đề đó.” Nếu con nhận thấy tâm trạng này trong con, con có thể nói: “Liệu chuyện này sẽ giúp hay sẽ ngăn cản Sứ vụ Thiêng liêng của mình? Liệu chuyện này sẽ giúp mình tiến gần hơn đến mục tiêu, hay nó sẽ khiến mình bị kẹt lại một mức tâm thức nào đó? Vậy đây có phải là một dính mắc hay không?”

Và rồi có lẽ con sẽ có một căn bản tốt hơn để quyết định: “Bây giờ đã đến lúc tôi buông nó ra. Bởi vì so với Sứ vụ Thiêng liêng, liệu vấn đề này sẽ quan trọng lắm không, cho dù là nó thế này, thế kia hay thế nọ? Nó quan trọng thế nào? Liệu tôi sẽ nói được với Giê-su: Chuyện đó có là gì đâu đối với con, vì con sẽ bước theo thày.”

Liệu con sẽ nói được với vị thày: “Con sẽ đi theo thày. Con sẽ bỏ lại lưới cá của con. Con sẽ để yên cho những người chết đi chôn người chết. Con sẽ để yên cho những kẻ chết bàn cãi, tranh luận về vấn đề này hay vấn đề nọ. Con sẽ chỉ BUÔNG nó ra và bước chân đi tiếp.”

Đây là điểm khác biệt giữa những người có thể tận dụng một vị thày tâm linh và những người không thể. Đó là điểm khác biệt giữa những ai sẽ đạt được mục tiêu và những ai không đạt được. 

Nếu con so sánh đợt truyền pháp này mà chúng tôi đã ban truyền qua sứ giả này, với đợt trước qua tổ chức Summit Lighthouse, con sẽ thấy là nhiều người trong Summit Lighthouse đã ý thức rõ ràng hơn nhiều rằng cốt yếu của đường tu tâm linh là kỷ luật, là đi theo vị thày, tuân lời đạo sư, nhắm theo một hướng nhất định nào đó. Họ đặt trọng tâm nhiều hơn vào mục tiêu.

Trong đợt truyền pháp này, chúng tôi đã không đặt áp lực nào lên các con. Chúng tôi đã để yên cho con tự ý chọn cách thi hành lời dạy, định ra tốc độ thăng tiến của mình. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là cách tiếp cận này hay hơn cách trước. Chỉ là hai cách tiếp cận khác nhau mà thôi, vì khi con nhìn vào Summit Lighthouse, con sẽ thấy rất nhiều thành viên có mục tiêu rõ ràng, họ rất kỷ luật, rất quyết chí trong tâm vỏ ngoài để dành ra rất nhiều giờ đọc chú mỗi ngày, để thi khảo hạch và nhiều thứ khác. Nhưng họ đã không thực sự tinh tấn nhiều lắm vì họ vẫn còn dính mắc. Họ dính mắc với cách thức làm việc, họ cũng dính mắc với một số quan điểm cứng nhắc, kể cả quan điểm về tầm quan trọng của bản thân họ trong vai trò đệ tử tâm linh đang đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain, hay đang cứu nguy địa cầu cho Saint Germain theo cách nhìn của họ.

Phương pháp mà chúng tôi sử dụng thật không quan trọng mấy, vì không có gì bảo đảm là học viên sẽ đáp ứng. Chuyện này tùy thuộc vào học viên có đáp ứng hay không. Con thấy chẳng hạn, sứ giả này đã không tự xưng mình là đạo sư, ông đã không quy tụ một nhóm tín đồ chung quanh ông và bảo họ rằng: “Phải làm cái này, phải làm cái kia.” Nhưng ông đã làm gương cho con. Ông rất chuyên chú nhắm đến mục tiêu. Khi ông khám phá con đường tâm linh, khi ông tìm ra các giáo lý, ông đã tỏ ra rất chuyên cần. Cách đây rất lâu rồi, ông đã tới điểm là ông quyết định làm việc trực tiếp trên tâm lý của ông. Ông rất kỷ luật, rất sẵn lòng xem xét tâm lý mình, học tập giáo lý cùng sách vở. Ông rất sẵn lòng nắm lấy các giáo lý được ban truyền qua trung gian chính ông và ông không lý luận: “Ồ, lý do tại sao các chân sư truyền giáo lý này xuyên qua tôi là vì tôi đã vượt xong tất cả các khai ngộ đó rồi.” Ông đã không cho phép mình suy luận như thế. Trái lại, ông nắm lấy các lời dạy, soi vào gương và nói: “Những lời này áp dụng cho tôi như thế nào?”

Tất nhiên, tất cả các con đều có cùng tiềm năng như vậy. Chúng tôi không đang tâng ông lên mà thật sự chúng tôi muốn nói: “Điều gì một người làm được thì mọi người cũng làm được.” Liệu con quyết tâm như thế nào để hoàn thành những mục tiêu mà con đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng của con cho kiếp này? Con cảm thấy mình đã hoàn thành được tới đâu? Liệu con có sẵn lòng tự hỏi, hay hỏi một chân sư, hay hỏi một vị Thượng sư? Vào ngày 2 tháng 1 tới đây, các con sẽ tiếp tục khóa canh thức với các Thượng sư, liệu con có sẵn lòng hỏi thày Lanto và sau đó các Thượng sư kia rằng: “Xin thày chỉ cho con thấy con đang ở điểm nào trên đường tu. Liệu con có bị trễ trong Sứ vụ Thiêng liêng hay con đang đồng hành với Sứ vụ? Xin thày chỉ cho con thấy con còn thiếu sót chỗ nào, và dính mắc nào đang kìm hãm con lại?” Với khoá canh thức này, đây là một cơ hội to lớn cho các con trong cương vị một cộng đồng. Nó có thể đem lại sự tăng triển vượt bực cho những ai trong số các con thật chuyên cần.

Như ta vừa nói, sứ giả này đã sẵn lòng thực hành các lời dạy, xem xét tâm lý của mình, không những để giải quyết chấn thương nhập đời vũ trụ khi ông mới đến địa cầu, mà còn để nhận ra một điều mà chúng tôi chưa đề cập nhiều lắm – đó là sự kiện ông đã không đến địa cầu với một tâm lý đã giải quyết xong xuôi hoàn toàn. Khi ông đến địa cầu, ông chưa sẵn sàng thăng thiên. Ông đến địa cầu với một thái độ nào đó, một tư duy nào đó, và như ông đã sẵn lòng nhận ra, tư duy đó đã khiến ông nghĩ mình đến đây là để giúp nâng cao địa cầu, giúp giải thoát người khác.

Kỳ thực, ông đến đây là để tự giải thoát chính ông khỏi tư duy đã cầm chân ông lại trên một hành tinh tự nhiên. Tất nhiên điều này cũng đúng với tất cả các con là avatar. Tại sao chúng ta đã đến địa cầu chứ? Không phải như con nghĩ bởi vì chúng ta là những người xấu ác hay ích kỷ chỉ biết lo lợi cho mình, và do đó chúng ta đã xứng đáng đi xuống một hành tinh như thế này. Không phải vậy đâu con. Chúng ta xuống đây là để giúp nâng cao địa cầu bằng cách có một trạng thái tâm thức cao hơn hầu hết mọi người khác trên trái đất, hầu chúng ta có thể kéo tập thể đi lên. Nhưng chúng ta cũng không đến đây với một mục đích nhất định để đem lại một số thay đổi nhất định và để thay đổi một số người nhất định.

Nói cách khác, trước khi ta đến địa cầu như một avatar, ta đã không có ý định đặc biệt gì để sáng lập một tôn giáo có tên là Phật giáo. Trước khi Giê-su đến địa cầu như một avatar, thày cũng không có ý định đặc biệt trở thành Ki-tô hiện thân cũng như sáng lập một tôn giáo toàn cầu. Ngược lại với các tín đồ của chúng tôi muốn tin là chúng tôi thật đặc biệt, chúng tôi không có gì là đặc biệt so với tất cả mọi avatar khác đã đến địa cầu. Chúng tôi mang cùng tiềm năng y như mọi avatar khác, nhưng tiềm năng này chỉ có thể trải bày ra khi chúng tôi đáp ứng với sự có mặt của mình trên địa cầu, là khi chúng tôi bắt đầu khắc phục phản ứng ban đầu, chấn thương nhập đời và những phản ứng của mình đối với địa cầu, cũng như khắc phục chính cái tâm lý đã đưa chúng tôi tới đây.

Đâu là tầng giáo lý kế tiếp mà chúng tôi muốn trao truyền trong khuôn khổ công việc tiết lộ tuần tự về các avatar? Đó là sự kiện trong cương vị một avatar, con đã nhập thế gian trên một hành tinh tự nhiên, có nghĩa là ở đó không có sa nhân, không có chuyện phần lớn dân cư bị rơi vào nhị nguyên và tách biệt. Có tiềm năng là con sẽ rơi vào tâm thức tách biệt, tương tự như ở địa cầu trước khi nó biến thành một hành tinh phi tự nhiên, nhưng chuyện này không có gì là chắc chắn.

Con khởi sự trên một hành tinh tự nhiên cũng gần giống như chúng tôi đã nói về địa cầu, nghĩa là con khởi sự với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm. Nhưng khác với địa cầu, trên một hành tinh tự nhiên con khởi sự ở tầng tâm thức thấp nhất có mặt trên hành tinh đó (vì chỉ trên hành tinh phi tự nhiên con mới bắt đầu ở tầng 48 và có nhiều tầng khác ở dưới mức này). Trên một hành tinh tự nhiên, con khởi sự ở tầng tâm thức thấp nhất mà hành tinh đó được thiết kế, xong con lần hồi vươn lên cao hơn cho tới tầng cao nhất có mặt trên hành tinh đó.

Tất nhiên, điều xảy ra trên một hành tinh tự nhiên là sẽ có một số dòng sống đi qua tiến trình này nhanh hơn một số dòng sống khác. Một số chuyên cần hơn, họ tận dụng những vị thày mà họ có, nghĩa là họ đạt tới tầng tâm thức cao nhất hiện diện trên hành tinh đó.

Vấn đề đặt ra là khi đó họ sẽ làm gì đây? Bởi vì chẳng có lý do gì mà họ ở lại trên hành tinh đó, ít ra là không quá một thời hạn nào đó. Trong một thời gian, con có thể phụng sự trong một tư cách lãnh đạo, nhưng sẽ tới một điểm con khao khát một việc làm khác hơn. Con biết là con sẽ cần tiến lên bước kế tiếp. Đối với các avatar đã đạt đến mức này, có hai chọn lựa mở ra cho họ. Một là có những hành tinh tự nhiên khác đang ở tâm thức cao hơn hành tinh nơi con đã khởi sự, và con có thể chuyển sang một hành tinh như thế. Và chọn lựa thứ hai là con có thể di đến một hành tinh phi tự nhiên.

Là một sinh thể đã đạt đến tầng tâm thức cao nhất có thể có trên một hành tinh tự nhiên, vì lý do gì con lại muốn chọn đến một hành tinh phi tự nhiên chứ? Điều này tùy thuộc phần lớn vào trình độ tâm thức của con lúc đó. À, ta vừa nói là trên mỗi hành tinh tự nhiên (vì hiển nhiên các con không đều đến từ cùng một hành tinh tự nhiên) thì trên hành tinh đó có một tầng tâm thức cao nhất. Nhưng điều này không nhất thiết là con đã sẵn sàng thăng thiên. Không phải là khi con đi mút tíến trình tăng trưởng trên một hành tinh tự nhiên thì con sẽ tự động sẵn sàng thăng thiên để trở thành chân sư đâu.

Lý do là vì để trở thành chân sư thăng thiên, con phải giải quyết xong toàn bộ bí ẩn của quyền tự quyết. Con cần thực sự thể nhập và hiểu rõ quyền tự quyết là gì và mang ý nghĩa như thế nào. Con cần giải được tại sao đó là một quyết định kỳ tài, một tuyệt tác của Đấng Sáng tạo khi ngài ban quyền tự quyết cho mọi sinh thể tự nhận biết. Sự thật là tất nhiên, đấng Sáng tạo đã không phát minh ra khái niệm đó, và quyền tự quyết đã được sử dụng trong nhiều cuộc sáng thế khác – nhưng không trong mọi cuộc sáng thế, vì đã có một số Đấng Sáng tạo đã thử nghiệm một quyền tự quyết không hoàn toàn tự do, và tất cả các Đấng ấy đều đã học được bài học là việc hạn chế quyền tự quyết không mấy thành công. Thật sự cách duy nhất để sáng thế, để sáng tạo một thế giới hình tướng bền vững là ban cho nó quyền tự quyết toàn diện.

Để thăng thiên từ một bầu cõi phi tự nhiên, con cần giải quyết bí ẩn đó. Một số các con sẽ nói: “Được rồi, tôi sẽ cố làm vậy trên một hành tinh tự nhiên.” Nhưng cũng có một số khác – thành thật mà nói, đó là những người có can đảm bảo rằng: “Tôi không nghĩ tôi hiểu được chuyện này. Tôi không nghĩ tôi hiểu được quyền tự quyết. Tôi không hiểu tại sao Đấng Sáng tạo của chúng ta lại ban cho mọi người quyền tự quyết.” Và số đó trong các con sẽ nhìn về các hành tinh phi tự nhiên và nói: “Khi tôi nhìn một hành tinh phi tự nhiên, tôi thật sự không hiểu nổi tại sao Đấng Sáng tạo lại ban quyền tự quyết cho mọi người. Nhưng tôi muốn nắm bắt lý do tại sao như vậy. Tôi muốn nắm bắt nó và đó là lý do tôi sẵn lòng đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên. Tôi sẵn lòng trải nghiệm trong chính bản thể của mình thực tế của những con người bị kẹt vào nhị nguyên và tôi thì không thể nào thuyết phục họ. Tôi muốn trải nghiệm thực tế của những sinh thể sa ngã bị mắc kẹt trong nhị nguyên đến độ họ không thể được thuyết phục, mà ngược lại họ còn cố bịt miệng tôi hay chứng minh là tôi sai, hoặc thậm chí họ cố cải tạo tôi để tôi cũng rơi vào trạng thái tâm của họ.”

Nói cách khác, có một số sinh thể trên hành tinh tự nhiên sẽ nói: “Tôi thực sự muốn giải quyết vấn đề này và có lẽ cách hay nhất là tôi đi đến một hành tinh phi tự nhiên nơi quan điểm mà tôi đã tạo dựng về cuộc sống và tiến trình sáng tạo, về quyền tự quyết trên hành tinh tự nhiên ấm cúng này của tôi, sẽ bị thách thức. Hay nói cách khác nữa, con nói: “Tôi muốn quan điểm của tôi bị thách thức. Tôi muốn đi đến một chỗ nơi tôi không thể tìm ra lý lẽ nào sẽ thuyết phục được người khác, như tôi vẫn từng quen làm trên một hành tinh tự nhiên.” Khi con là người lãnh đạo, khi con ở một tầng tâm thức cao trên một hành tinh tự nhiên, con quen nghĩ rằng con có khả năng đưa ra một tiến trình suy luận sẽ giúp cho những ai ở một tầng tâm thức thấp hơn thấy được là “con có lý”, và do đó họ sẽ đi theo con, họ sẽ nghe theo lời khuyên nhủ và hướng dẫn của con.

Đó là cách vận hành trên một hành tinh tự nhiên nơi ai nấy đều cởi mở học hỏi điều mới, học hỏi những điều mà họ chưa biết. Nhưng trên hành tinh phi tự nhiên thì không như thế, như chắc chắn các con sẽ đều đồng ý như vậy. Đó là tại sao trong số chúng ta có những người – mà ta không nhất thiết gọi là tinh tấn hơn, hay hăng hái hơn, hay can đảm hơn – nhưng chúng ta đã quyết định: “Chúng tôi muốn tự thách thức mình bằng cách đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên.”

Đối với đệ tử nào đã sẵn sàng cho lời dạy này, điều có thể ích lợi cho con là con bắt đầu một cách rất chậm, rất lần hồi, xét xem con sẽ nhìn vấn đề tự quyết như thế nào, và con sẽ giáp mặt với nó như thế nào. Quan điểm của con về vấn đề đó là gì? Đâu là phản ứng cố hữu, phản ứng tức thì từ ruột gan – nếu có thể gọi như vậy. Khi con chứng kiến tình trạng thảm hại mà con người đã tạo ra trên địa cầu, khi con thấy sa nhân đã lạm dụng quyền tự quyết của chính họ lẫn của người khác như thế nào, phản ứng của con ra sao? Từ đó con có thể bắt đầu xét xem thái độ nào, tin tưởng nào đứng đằng sau phản ứng đó, phản ứng từ ruột gan đó. Con nghĩ gì trong đầu về quyền tự quyết? Sau đó con có thể đi vào tầng bản sắc và khởi sự xem xét: “Tôi tự nhìn mình như thế nào trong cương vị một sinh thể có quyền tự quyết đang tương tác với người khác cũng có quyền tự quyết? Tôi tự nhìn mình thế nào như một sinh thể ít ra đã bắt đầu vươn lên khỏi nhị nguyên, đang tương tác với những người ở trong nhị nguyên và do đó họ không thực sự sử dụng ý chí tự do vì ý chí của họ chưa tự do?”

Rồi con có thể bắt đầu làm sáng tỏ vấn đề này, và như vậy con có thể nhìn ra bài toán về quyền tự quyết mà con chưa giải quyết trên hành tinh tự nhiên. Rồi con có thể bắt đầu nhìn vào địa cầu và thật sự xem xét: “Làm thế nào tôi giải quyết được đây?” Chúng tôi các chân sư đã ban ra nhiều lời dạy có thể hữu ích cho con, và con có thể xem các lời dạy này. Nhưng trong tương lai chúng tôi sẽ ban ra nhiều hơn nữa, vì tất nhiên đây chỉ là bước khởi đầu của một cấp giảng dạy mới.

Cảm giác của con đối với quyền tự quyết như thế nào? Con nghĩ quyền tự quyết vận hành thế nào và nó có thể vận hành cách khác hay không? Con tự xem mình ra sao như một sinh thể có quyền tự quyết trong quan hệ với người khác? Con nghĩ làm thế nào con sẽ thoát ra khỏi hành tinh này – hành tinh điên đảo này như một số chúng ta thường cảm thấy, kể cả chính ta ở một giai đoạn nào đó? Điều gì sẽ giải quyết được vấn đề tự quyết, và con có những dính mắc nào về quyền tự quyết đang níu giữ con ở lại đây? Không phải vì con bị bó buộc ở đây, nhưng vì con không muốn rời nơi đây trước khi con thực hiện được mục đích của con khi đến đây. Con không muốn rời nơi này cho tới khi con giải quyết được bí ẩn đã đem con tới đây, đã khiến con quyết định tới đây.

Điều con có thể khởi sự là có lẽ con bắt đầu xoay chuyển thái độ của con đối với sự hiện diện và trải nghiệm của mình trên địa cầu, kể cả chấn thương nhập đời, kể cả toàn bộ nỗi bực dọc khi con thấy người ta tự gây tổn thương cho họ mà vẫn không muốn ngừng tự gây tổn thương. Họ không muốn biết họ đang làm hại chính họ. Họ không muốn lắng nghe con là người hiểu biết hơn lại có khả năng giúp họ thoát khỏi khổ đau. Họ cứ muốn sống tiếp trong đau khổ, và không những họ phớt lờ con, họ còn tích cực bác bỏ, hạ thấp, chế giễu con, thậm chí tra tấn hay giết hại con để bịt miệng con. Làm sao con đương đầu với sự thể này? Con nhìn chuyện đó như thế nào?

Đấy, điều con có thể làm là làm như sứ giả này. Con có thể nói: “Liệu tôi có là một tên ngu ngốc khi tôi chọn đến hành tinh này hay không? Liệu tôi có đáng chịu tất cả mọi chuyện xảy ra cho tôi? Liệu tôi phải cảm thấy tội lỗi về hành vi của mình trên hành tinh này, vế cách ứng xử của mình?” Hiển nhiên, có lẽ con có thể bắt đầu xoay chuyển tâm trạng đó và nói: “Không, thật ra tôi đã rất tỉnh trí, rất chín chắn, rất mong muốn tăng triển, và đó là tại sao tôi đã quyết định đến đây.” Quyết định đó của con dựa trên mong muốn tăng triển. Con không hề bị bó buộc. Không phải là con không thể tiến xa hơn trên hành tinh tự nhiên nên con đã phải hiện thân trên địa cầu. Không, con ở đây là vì con đã quyết định đây là cơ hội tăng triển tối đa cho con.

Khi đó, con có thể bắt đầu xét đến một điểm khác nữa sẽ giúp con ứng phó với sự có mặt của con trên địa cầu, và điểm đó như sau. Như chúng tôi có nói, khi con đến địa cầu như một avatar, con đi xuống tầng tâm thức thứ 48 để hiện thân. Đương nhiên, với mỗi bước đi xuống từ tầng 144, con khoác vào một ảo tưởng. Ảo tưởng này trở thành cái phin lọc nhận thức sẽ che khuất tầm nhìn của con cũng như ký ức về thời con ở trên một hành tinh tự nhiên. Nhưng điều này không có nghĩa là con không đem theo con một số hành trang.

Không phải là một ký ức rõ mồn một về thời con từng ở trên hành tinh tự nhiên, nhưng con đem theo với con một thái độ nào đó về cuộc sống, một thái độ nào đó về bản thân như một avatar, kể cả khi con ở tầng tâm thức 48. Dĩ nhiên, khi con nâng tâm thức lên thì điều này trở nên càng rõ ràng hơn. Một lần nữa con có thể lấy ví dụ của sứ giả này, và tuy mỗi người mỗi khác, nhiều người trong số các con sẽ nhận ra điều ta nói ở đây. Sứ giả này đã cảm thấy có một số lỗi lầm trên địa cầu mà ông không nên mắc phải. Có một số việc trên địa cầu mà ông không nên làm, một cấp độ nào đó mà ông không nên hạ mình xuống, và ông nên đứng trên một số hỗn tạp mà ông tìm thấy ở đây. Trong suốt kiếp này cũng như những kiếp trước đi ngược trở về kiếp đầu thai đầu tiên của ông, ông đã luôn luôn vô cùng khó tính với bản thân mình.

Nhiều người trong số các con sẽ nhận ra mình cũng như vậy. Con có thể vô cùng dễ tính đối với người khác, nhưng con không tha thứ được chính con, vì con đã đến đây với một thái độ nhất định về cuộc sống dựa trên cách sống trên một hành tinh tự nhiên. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con đã tạo ra một chuẩn mực cho bản thân về cách cư xử, về những gì con phải làm hay không được làm. Và nếu con đi ngược lại chuẩn mực đó, con cảm thấy mình đã làm chuyện tồi tệ nhất có thể có trong toàn thể vũ trụ.

Chúng tôi đã nói gì về sa nhân, rằng chúng đã làm gì cho tan nát mọi chuyện trên trái đất? Phải, chúng đã tạo ra một chuẩn mực và phóng chiếu khiến mọi người phải đánh giá mọi chuyện dựa theo tiêu chuẩn đó. Sự khác biệt ở đây là chuẩn mực do sa nhân tạo ra là một chuẩn mực nhị nguyên phát sinh từ tâm thức nhị nguyên. Là một avatar trên một hành tinh tự nhiên nơi con đã đạt đến mức tâm thức cao nhất ở đó, con không ở trong tình trạng nhị nguyên. Con đã không tạo ra một chuẩn mực dựa trên nhị nguyên.

Nhưng con thấy đó, điều này nghĩa là gì? Giờ đây con đến một hành tinh nơi mọi chuyện bị thấm đẫm, bị ô nhiễm bởi nhị nguyên, vậy mà con lại cho rằng có những chuyện con không được làm trong nhị nguyên, và cũng có những chuyện con phải làm. Con không nhận ra – bởi vì con không thể nhận ra điều này cho tới khi con đạt đến một mức tâm thức và một trình độ phân biện Ki-tô nào đó – rằng con không thể nào thấy sự khác biệt giữa chuẩn mực của con và chuẩn mực của sa nhân.

Con cho rằng nếu con không hành xử theo đúng tiêu chuẩn của con thì con đã làm chuyện gì đó xấu xa, sai trái. Trên một hành tinh tự nhiên, con đã từng có một chuẩn mực để đánh giá cách cư xử của mình, nhưng con không xét đoán theo tiêu chuẩn đúng-sai, con không đánh giá chủ quan bởi vì đó là nhị nguyên. Nhưng bây giờ con ở trên một hành tinh thấm đẫm nhị nguyên, và con bắt đầu áp dụng cách đánh giá chủ quan đúng-sai nhị nguyên đó đối với bản thân con. Đó là tại sao con cảm thấy: “Vì tôi đã hành xử như vậy, liệu tôi có khá hơn bọn sa nhân chút nào không, hay là tôi cũng xấu như sa nhân?”

Tất nhiên, sa nhân sẽ khai thác điểm này một cách không thương tiếc. Đâu là cách thoát ra? Con không thể lật ngược những gì con đã làm. Con không thể thay đổi những gì đã xảy ra trong quá khứ. Điều con có thể làm là nói: “Được rồi, tôi đã làm chuyện đó, nhưng chuyện tôi đã làm, cho dù chỉ mới năm phút trước, cũng không còn đó nữa. Đó không phải là một thực tế đang hiện thực vật lý. Trong hành vi đó, điều ảnh hưởng đến tôi chính là phản ứng của tôi. Vậy thì phản ứng của tôi xuất phát từ đâu – từ sự kiện tôi đã tạo ra những cái ngã tách biệt.”

Như vậy con có thể xem xét những ngã tách biệt này, con có thể dùng các dụng cụ của chúng tôi để giải hóa chúng, nhưng con cần đi xa hơn nữa. Thật sự con cần nói: “Nhưng một số ngã này không phải là ngã tách biệt được tạo ra trên địa cầu. Đó là một thái độ mà tôi đã đem theo tôi từ một hành tinh tự nhiên và tôi cần giải hóa nó. Tôi cần buông nó ra và nói: Tuyệt đối không có nghĩa lý gì mà tôi áp dụng một chuẩn mực từ một hành tinh tự nhiên khi tôi đang đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên. Những gì tôi đã làm trên hành tinh dày đặc hỗn tạp này có quan trọng lắm không? Nếu tôi đã lầm lỗi nơi đây, điều đó có quan trọng hay không? Ngay cả việc đánh giá xem đó là lỗi lầm hay không lỗi lầm, liệu nó có ích gì không? Những hành vi của tôi phát xuất từ một mức tâm thức nào đó với một số ngã tách biệt nào đó. Nếu tôi vượt qua được thì tôi sẽ giải thoát khỏi nó. Nếu tôi sẵn sàng tự giải phóng khỏi nó thì tôi phải được giải thoát khỏi nó.”   

Nói cách khác, điều ta muốn nói là như sau. Tất cả chúng ta đã làm y hệt như con đã làm. Chúng ta đã đến với một chuẩn mực, rồi đã làm gì đó trên địa cầu này mà mình cảm thấy không đúng với chuẩn mực. Chúng ta bị rơi vào vực thẳm, rơi vào hố đen của tự trách, của tủi hờn và tiếc nuối, chúng ta ghét bỏ và oán giận bản thân vì chúng ta đã không toàn hảo, không luôn luôn tự chủ mọi phản ứng của mình.

Gần như là do trên hành tinh tự nhiên chúng ta đã luôn luôn “bình thản, điềm tĩnh và trầm lặng”, cho nên chúng ta cũng chờ đợi là khi bước xuống tình trạng hỗn loạn toàn diện của hành tinh địa cầu, chúng ta cũng sẽ vẫn giữ được thái độ “bình thản, điềm tĩnh và trầm lặng” đó, chúng ta sẽ luôn luôn hoàn toàn tự chủ.

Thế nhưng, con yêu dấu, đó là một chuẩn mực hoàn toàn không thực tế. Chưa từng có ai thực hiện được điều đó. Chưa từng có ai, bất kể trình độ tâm thức, đã làm tròn được một chuẩn mực như vậy. Là Phật, ta đã không làm được. Là Ki-tô, Giê-su đã không làm được. Thày Maitreya cũng đã không làm được – không một ai đã từng hiện thân nơi đây làm được. Chuyện đó không thể làm được – vì con phải đi xuống tầng tâm thức 48 và phản ứng dựa theo mức tâm thức ở tầng 48. Làm sao khác được? Đó chính là cơ chế của việc hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên.

Trên một hành tinh tự nhiên thì con sẽ phản ứng một cách khác. Ở đây, con không thể giữ bình tĩnh, nhưng tại sao con lại cần bình tĩnh? Tại sao con phải bình tĩnh? Tại sao con phải đặt ra tiêu chuẩn đó cho con? Điều ta muốn nói là như thế này. Tất cả chúng ta đều đã làm vậy, chúng ta đều đã rơi xuống vực thẳm của tự trách móc. Chúng ta đều đã phải bò ra khỏi vực thẳm đó từng bước một, bằng cách bám chặt vào cái thang dây mà các chân sư thăng thiên đã hạ xuống cho chúng ta, rồi chúng ta đã trèo lên bằng cả tay lẫn chân, từng bước một. Chúng ta đã leo đến bờ vực thẳm, nhưng cách duy nhất để rời khỏi vực thẳm là nhìn vào chuyện này và nói: “Tại sao tôi lại tự trách mình chứ? Tại sao tôi cảm thấy có lỗi? Tại sao tôi lại giận mình? Tại sao tôi nghĩ mình phải toàn hảo, rằng đáng lẽ mình đã không được phản ứng lại? Tại sao tôi lại nghĩ ngợi kiểu đó? Có thật sự hợp lý hay không, có nghĩa lý gì hay không?”

Thế rồi con đạt tới một điểm, không phải là một quyết định vỏ ngoài với tâm vỏ ngoài, mà con chỉ nhìn thấy nó. Con nhìn thấy cái ngã mà con đã mang trên một hành tinh tự nhiên. Vì trên một hành tinh tự nhiên, làm thế nào con tăng triển, làm thế nào con có thể tăng triển? Trên một hành tinh tự nhiên, con khởi sự ở mức tâm thức thấp nhất trên hành tinh đó. Nghĩa là gì? Đúng vậy, có một số ảo tưởng mà con chưa giải hóa. Bởi vì ngay cả một hành tinh tự nhiên cũng có ảo tưởng, nếu không thì làm thế nào có nhiều tầng tâm thức được? Làm thế nào tăng triển được nếu không có những tầng tâm thức? Con tăng triển như thế nào chứ? Chúng tôi đã dạy con điều gì, làm thế nào con học hỏi được chứ?

Con là một sinh thể đồng sáng tạo, con học hỏi bằng cách đồng sáng tạo. Làm thế nào con đồng sáng tạo? Con tạo ra một tâm ảnh, con phóng chiếu tâm thức và năng lượng qua tâm ảnh đó lên trên vật chất, và nó khoác một hình tướng. Xong con lượng định. Nhưng khi con đồng sáng tạo, con làm gì chứ? Chúng tôi vừa nói là con tạo ra một tâm ảnh, đúng vậy, nhưng kỳ thực con đang tạo ra một cái ngã, con đang tạo ra một ý niệm bảo rằng: “Đây là con người mà tôi là, đây là bản sắc của tôi, đây là trí thể của tôi, đây là cảm thể của tôi và đây là cơ thể vật lý của tôi. Đây là con người mà tôi là.” Và cái đó trở thành một cái ngã mà con đang phóng chiếu qua.

Khi con tiến lên những tầng tâm thức cao hơn, con sẽ để cho một cái ngã chết đi, con tạo ra một cái ngã khác, y hệt như con làm trên địa cầu. Sự khác biệt, tất nhiên, là con không đi vào nhị nguyên, nhưng con vẫn tạo ngã, con vẫn tạo những cái ta. Lần lần khi con vươn lên cao hơn trên một hành tinh tự nhiên, càng ngày con càng tạo ra ý niệm bản ngã tinh xảo hơn. Như chúng tôi đã nói, y như con làm trên điạ cầu giữa tầng 48 với 96. Đây chỉ là một tiến trình tăng trưởng trong tâm thức.

Nhưng làm thế nào con thăng thiên? Phải, con thăng thiên bằng cách khắc phục những cái ngã đó. Đối với những sinh thể đã đạt đến tầng trên cùng ở hành tinh tự nhiên của họ và chuyển sang một hành tinh tự nhiên cao hơn, họ đem theo những cái ngã mà họ đang có, và ngã này trở thành điểm khởi đầu của họ trên hành tinh thứ hai. Lẽ tự nhiên đối với con khi con quyết định đến một hành tinh phi tự nhiên, con cũng đem theo những ngã này, và ở một mức nào đó, chúng trở thành khởi điểm cho thái độ của con đối với bản thân con ở nơi đây, thậm chí cả thái độ của con đối với địa cầu.

Vậy con cần làm gì để thăng thiên? Đối với chúng tôi là những con người đã thăng thiên từ địa cầu, tất cả chúng tôi đã cần làm gì? Chúng tôi đã cần xem xét những ngã đó và buông chúng ra. Chúng dễ buông bỏ hơn vì chúng không xuất phát từ nhị nguyên, chúng không là cùng một loại ảo tưởng. Nhưng mặt khác, con chỉ có thể buông chúng ra khi con nhìn thấy chúng, và trên một hành tinh phi tự nhiên dày đặc như trái đất, con khó nhìn thấy chúng hơn rất nhiều, con khó lòng nhìn ra những cái ngã con đã đem theo từ một hành tinh tự nhiên.

Đó là tại sao trước tiên, con cần giải quyết chấn thương nhập đời và nhiều cái ngã mà con đã tạo ra nơi đây trên địa cầu trước khi con có thể bắt đầu xét đến những gì đã đưa con tới đây. Nhưng trong số các con, có khá nhiều người đã sử dụng giáo lý mà chúng tôi ban ra về avatar, về việc chữa lành các chấn thương tâm linh và nhiều hơn thế, cho nên giờ đây con đã sẵn sàng tiến lên bước kế tiếp và bắt đầu xem xét những cái ngã mình đã đem theo với mình, giải hoá chúng đi, hầu con đạt tới điểm khi con nhìn lại địa cầu và bảo: “Không có gì ở đây có thể níu kéo tôi lại.” Nhưng con cũng có thể nhìn vào toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên và nói: “Thật chẳng có một hành tinh tự nhiên nào khác lôi kéo được tôi nữa. Tôi đã sẵn sàng thăng thiên. Tôi sẵn sàng bỏ lại đằng sau nguyên bầu cõi chưa thăng thiên này.” Đó là cách con trở thành một chân sư thăng thiên.

Với lời này, ta đã trao cho con những gì ta muốn trao trong bài giảng dịp Tân niên này. Chúng tôi sẽ nhìn xem có lời dạy nào khác chúng tôi mong muốn trao truyền về đề tài này trong năm sắp tới hay không. Ta muốn cảm ơn các con đã sử dụng những giáo lý trước đây, vì các con là những người tiên phong đã khai mở tâm thức của tập thể đến mức bài giảng này có thể được ban ra trong cõi vật lý. Một lần nữa, con hãy nhận lòng biết ơn sâu đậm của ta. Lòng biết ơn này sẽ còn tiếp tục vì tất nhiên, bất cứ lời truyền đọc nào mà chúng tôi ban ra cũng chỉ là một trong chuỗi dài những tiết lộ liên tục.

Ta biết, đôi khi một số trong các con có thể có cảm giác – và ngay cả vị sứ giả này cũng có cảm giác rằng: “Bài truyền đọc hôm nay thật đặc biệt, nó ở một tầng cấp cao hơn và tự thân nó gần như trọn vẹn.” Thật tốt lành thay khi con có cảm giác như thế, nhưng tất nhiên, bất kỳ bài truyền đọc nào cũng chỉ là một viên ngọc quý trong một chuỗi ngọc trải dài về tương lai, và hiện không có cách nào nói trước được nó sẽ kéo dài đến bao giờ. Nhưng chắc chắn chúng tôi dự kiến một chuỗi liên tục thật dài sẽ đem lại những hòn ngọc nhận thức cao hơn.

[Hình tư tưởng của Phật được sử dụng trong năm 2022 sẽ là cùng hình tư tưởng về Mặt trời giống như năm ngoái:

  • “Phật Gautama, thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất.”
  • “Saint Germain, thày là tấm gương tuyệt hảo cho nền kinh tế.”
  • “Mẹ Mary, thày là tấm gương tuyệt hảo cho phụ nữ.”]

[Bạn cũng có thể đọc thêm bài vấn đáp do chân sư thăng thiên Saint Germain: “Avatar và những cái ngã được tạo ra trên một hành tinh tự nhiên”]

Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra!

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/10/2021, nhân dịp Webinar 2021 cho Hàn quốc – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Thày Giê-su vừa nói đến sự kiện có quá nhiều tín đồ đạo Cơ đốc không thấy được mối liên hệ nào giữa thày và công nghệ hiện đại. Chắc chắn một điều tương tự cũng có thể nói về rất nhiều Phật tử không thấy mối liên hệ nào giữa sự thị hiện rất “phi công nghệ” của ta cách đây 2500 năm và xã hội phương Tây là xã hội hiện đại với công nghệ rất cao. Nhưng ta đang giữ một trách nhiệm tâm linh cho hành tinh này, là Chủ tể của Thế giới. Vậy chức năng của trách vụ này là gì?

Nạn nghèo đói và ý thức hệ

Hiển nhiên, đó là nâng cao tâm thức loài người, và ta hỗ trợ hoàn toàn mục tiêu xóa nghèo. Và tất nhiên ta biết rõ, như các thày Saint Germain và Giê-su đã có trình bày, để cho điều này xảy ra, để mức sống vật chất của con người được nâng lên, chúng ta cần đến những hình thức công nghệ mới, bởi vì vấn đề này chỉ có một giải pháp công nghệ.

Chắc con cũng nhận thấy khi ta thị hiện 2500 năm về trước, toàn bộ dân số trên địa cầu rất, rất ít so với ngày nay. Do đó hầu hết mọi người vào thời đó, ít ra trong khu vực ta thị hiện, có một mức sống tương đối thoải mái trong một xã hội nông nghiệp. Con có thể thấy trên thế giới đã có những thời kỳ xã hội nông nghiệp khi cuộc sống con người tuy không mấy sung túc, nhưng người ta cũng không đến nỗi chết đói, không đến nỗi phải lo lắng bữa cơm tới của mình sẽ đến từ đâu. Cái giá mà họ phải trả, dĩ nhiên, là họ phải bỏ ra phần lớn thời gian làm lụng để duy trì một mức sống vật chất, một đời sống vật chất nào đó.

Rõ ràng là trong những xã hội này, cách duy nhất để con người có thể tập trung vào việc tu tập tâm linh là rút về một tu viện hay một nơi ẩn cư nơi họ không có nhu cầu phải bỏ ra toàn bộ thời gian lo việc nuôi thân. Đây là một mô thức khá thực tế cho thời đó, nhưng kể từ đó tất nhiên với sự gia tăng dân số mạnh mẽ trên địa cầu, con gặp phải tình trạng một xã hội nông nghiệp không còn khả năng cung ứng mức sống tốt đẹp cho số đông được nữa. Và cũng vậy, xã hội vật chất hay công nghệ cũng không có khả năng cung ứng mức sống đó. Tuy vậy, phải nói là nếu các nguồn tài nguyên sẵn có được phân phối đồng đều hơn, thì nạn nghèo đói, ít ra là trong những dạng cùng cực nhất, chắc chắn có thể được giảm thiểu đáng kể.

Như luôn luôn, vấn đề không chỉ là công nghệ, mà vấn đề là tư duy, là ý thức hệ, và đặc biệt là ý thức hệ đã khoác vào nhiều dạng cụ thể, và tất cả những dạng này đều hỗ trợ cho sự hiện hữu của một giai cấp thượng lưu nhỏ hẹp với một mức sống khác hẳn mức sống của quần chúng rộng lớn. Con có cái mà ta gọi là những ý thức hệ thường tình phổ quát, vượt ra khỏi các dạng hệ tư tưởng đặc thù hơn, sự phân biệt ưu tú đặc thù hơn. Và một trong những ý thức hệ này nằm sâu bên dưới là sự phân chia xã hội thành những phân loại hay giai cấp tách biệt. Đây tất nhiên, phần nào là vấn đề mà ta đã cố giúp xã hội và dân chúng thời đó vượt lên khỏi. Con sẽ thấy là khi ta bước chân trên địa cầu, xã hội thời đó là một xã hội nông nghiệp bị Ấn giáo chi phối, và Ấn giáo chủ trương phân chia con người thành bốn giai cấp thật rõ ràng, và ngay cả ngày nay con vẫn thấy hệ thống giai cấp này được Ấn giáo tiếp nối và duy trì. Đương nhiên, điều ta đã cố làm là thành lập một tôn giáo không chấp nhận, hay không dựa trên một sự phân chia con người như thế.   

Khi con nhìn đạo Phật, con thấy là tất nhiên, tâm thức phân rẽ đã len lỏi vào được trong đó, cho nên mới có sự phân biệt giữa người đạo Phật và người không đạo Phật, người thuộc môn phái này hay biến thể kia của đạo Phật. Một số tự xem mình là cao trội và các môn phái khác là thua kém, vân vân. Và lại có cả những người xem giai cấp tu sĩ đạo Phật phần nào đứng cao hơn quần chúng, nhưng ngay cả quần chúng thì vẫn cao hơn những kẻ chưa sẵn sàng nhận được bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Một lần nữa, con tìm thấy những phân chia như vậy trong xã hội, và đó tất nhiên là điều mà ta đã cố giúp con người vượt qua bằng cách khắc phục tâm thức nhị nguyên.

Vấn đề kiểm soát

Bởi vì dĩ nhiên, chính tâm thức nhị nguyên là nền tảng và cũng là phương pháp mà cách phân chia như thế được tạo ra. Ở đây ta muốn giảng cho con một số điều tiếp nối những gì chúng tôi, các chân sư, đã trao cho con trước đây, nhưng đi xa hơn một chút. Con có thể xem đến một số lời dạy của chúng tôi về sa nhân, là những kẻ đã thực sự đưa hành tinh địa cầu vào vòng xoáy đi xuống khi chúng đem tới đây một cách hiểu cực đoan hơn về nhị nguyên. Chúng tôi có nói là các xã hội trên địa cầu đã rơi vào nhị nguyên trước đây nhưng không đến nỗi những hình thức hung hãn của nhị nguyên, vì đây chính là hình thức mà sa nhân đã đem đến đây. Chúng tôi có nói là các sa nhân hình thành một nhóm thượng lưu quyền lực khi chúng đầu thai, và chúng lập ra nhiều nhóm ở các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc. Chúng tôi cũng có nói là mục đích của chúng là nắm quyền kiểm soát địa cầu, kiểm soát loài người trên địa cầu, trong âm mưu rộng lớn hơn là chứng minh Thượng đế sai lầm.

Điều ta muốn bàn đến ở đây là chủ đề kiềm soát. Có vẻ như trên địa cầu có một số xã hội gần như bị hoàn toàn kiểm soát bởi một thiểu số thượng lưu. Chúng có thể là chế độ độc tài, như các nước cộng sản chẳng hạn, Liên xô dưới Stalin, Đức dưới Hitler, Trung quốc dưới Mao và nhiều ví dụ khác nữa, Bắc Hàn dưới chế độ hiện hữu. Dựa trên đó, con có thể nghĩ sa nhân có khả năng áp đặt một độ kiểm soát rất cao trên các xã hội. Có người cho rằng sa nhân cũng kiểm soát chặt chẽ một số xã hội đã trở thành dân chủ và các xã hội này thực sự là những chế độ độc tài, nhưng thực tế là ngay cả ở một nước nghiêm ngặt như Liên xô, sa nhân cũng không nắm được kiểm soát toàn diện.

Chúng chưa bao giờ toàn quyền kiểm soát được địa cầu, và chúng sẽ không bao giờ làm được chuyện đó, tại sao vậy? Bởi vì sa nhân là nạn nhân của chính tâm lý của chúng. Chúng tôi nói sa nhân đã làm gì? Chúng đã bị rơi vào tâm thức nhị nguyên, chúng đã hoàn toàn bị bao trùm, bị chế ngự, bị đui mù, bị mắc bẫy, bị đồng hóa với tâm thức nhị nguyên. Nhưng điều gì xảy ra trong tâm thức nhị nguyên chứ?

Trong tâm thức đó, con lấy toàn bộ chiều rộng của nhận thức con người, xong con tập trung vào một lãnh vực nhất định và con nâng nó lên vị thế tuyệt đối của một chân lý – như một ý thức hệ cao trội, hay tôn giáo cao trội, hay cái gì gì nữa. Và con dùng cái đó, đưa nó ra làm chuẩn mực để lượng định xem mọi thứ là đúng hay sai, tốt hay xấu. Và con có thể nghĩ, những kẻ đã chiếm đoạt được đặc quyền định nghĩa vấn đề là gì, đã kiểm soát chuẩn mực để đo đạc mọi thứ theo chuẩn mực đó, thì chúng phải kiểm soát được sự suy nghĩ của mọi người.

Tuy nhiên trong nhị nguyên, con không bao giờ có thể kiểm soát được toàn diện, vì lý do giản dị là khi con lấy ra một đơn vị khỏi tổng thể và nâng nó lên vị thế cao trội, con bắt buộc sẽ tạo ra một sự mất cân bằng cơ bản. Chúng tôi đã có nói về định luật thứ hai của nhiệt động học sẽ đưa mọi vật trở về trạng thái năng lượng thấp nhất có thể có, nhưng chúng tôi cũng có thể bảo đó thực sự chỉ là sự minh hoạ của định luật cân bằng của vũ trụ. Không phải là luật cân bằng, hay ngay cả định luật thứ hai của nhiệt động học, cố đưa tất cả vào một trạng thái không phân biệt, mà quy luật vũ trụ được thiết lập để đảm bảo mọi thứ tăng trưởng đến những trạng thái ngày càng cao hơn, nhưng là một sự tăng trưởng bền vững, liên tục và tuần tự.

Điều con làm trong nhị nguyên là con tách rời con ra khỏi sự tăng trưởng vững bền liên tục đó, và con tạo ra một trạng thái mất cân bằng bằng cách con chù trương, thay vì tổng thể được tăng trưởng, con lại muốn sự tăng trưởng cục bộ của một ý thức hệ, một nhóm người hay một tầng lớp thượng lưu mà thôi, và điều này chỉ có thể xảy ra bằng cách tước đi một cái gì đó từ tổng thể. Nói cách khác, một nhóm ít người tước đoạt một cái gì đó từ tổng thể, và chính điều này vi phạm quy luật cân bằng của vũ trụ, vì khi tổng thể mất cân bằng thì quy luật vũ trụ sẽ kéo nó trở về cân bằng.

Luôn luôn sẽ có một đối cực kéo bất kỳ mất cân bằng nào trở về trạng thái cân bằng. Đây là điều mà chúng tôi đã mô tả là một đặc điểm của nhị nguyên, nghĩa là khi con tạo ra một đối cực nhị nguyên, nó cũng đồng thời tạo một đối cực nhị nguyên trái ngược. Đây là điểm mà triết gia Hegel đã mô tả là phép biện chứng, nghĩa là khi một tư tưởng hay một lý thuyết trở thành luận đề tạo ra phản đề, thì sẽ có một cuộc đấu tranh giữa hai lực, dẫn đến kết quả một trạng thái mới gọi là tổng hợp, tuy nhiên chính tổng hợp này lại trở thành luận đề kế tiếp tạo ra một phản đề mới nữa, rồi lại có một cuộc đấu tranh, vân vân và vân vân cho đến vô tận. Hegel tin đó là cách thức người ta đạt được tiến bộ và là cách thức duy nhất. Đấy là sự giới hạn trong cái nhìn của Hegel.

Thật ra đó lá cách thức vận hành trong một trạng thái mất cân bằng, bởi vì khi con có cân bằng, con vẫn tăng trưởng nhưng không có đấu tranh, không có đối lập, không có căng thẳng giữa hai đối cực. Tất cả những gì xảy ra trong một trạng thái cân bằng trên một hành tinh tự nhiên đều nhắm vào việc nâng cao tổng thể. Chỉ khi con tìm cách nâng cao một thành phần của tổng thể qua việc hạ thấp phần còn lại của tổng thể, thì con mới có mất cân bằng, mới có đối lập, mới có đấu tranh biện chứng. Điều mà Hegel và Marx đã làm là nhìn vào một trạng thái mất cân bằng xuất hiện đâu đó trên địa cầu, rồi cố dùng nó để tạo ra một xã hội lý tưởng hơn không còn xung đột mâu thuẫn. Hiển nhiên, chuyện này không bao giờ có thể thực hiện được, vì một dạng mất cân bằng không thể dẫn đến hài hòa và trọn vẹn, mà nó chỉ dẫn đến một dạng mất cân bằng khác mà thôi.

Tại sao ta nói là sa nhân không có quyền kiểm soát? Bởi vì mỗi khi chúng lấy một tư tưởng, một nhóm người hay một tôn giáo và nâng lên vị thế cao trội, chúng cũng tạo ra một đối nghịch. Nghĩa là chúng sẽ không bao giờ có thể đạt đến trạng thái mà chúng mơ ước, tức là một quyền kiểm soát vĩnh viễn mà không gì có thể đe dọa. Luôn luôn sẽ có một sự đối lập, hay đe doạ, cho quyền kiểm soát của chúng. Tất nhiên, điều này chúng không thể nào chịu được, cho nên chúng bắt buộc phải tìm cách tiêu diệt đối lập. Đó là vì sao con thấy tất cả những ý thức hệ loại đó luôn luôn chứa đựng ý tưởng là có phải và trái, có đúng và sai. Có những người theo phe đúng, có những người theo phe sai, và những ai theo phe đúng phải tiêu diệt những ai theo phe sai. Vì thế mới có đấu tranh liên tục. Chuyện này là một đặc điểm không thể thiếu của nhị nguyên.

Không có an bình trong phản ứng  

Nhưng bây giờ con hãy nhìn vào tâm lý của sa nhân. Chuyện gì xảy ra trong tâm lý sa nhân? Như các chân sư khác đã nói, khi con là avatar mới đến địa cầu, con đã phải nhận chịu một chấn thương gọi là chấn thương nhập đời. Còn sa nhân thì sao? Nơi bầu cõi chúng bị sa ngã, khi chúng phải đối mặt với các chân sư thăng thiên, đối mặt với sự thật là có một quyền uy lớn hơn quyền năng của chúng, thì chúng cũng nhận chịu một chấn thương, hay chúng tạo ra chấn thương, như chính con cũng từng làm vậy.

Kể từ đó trở đi, sa nhân đã luôn tìm cách bù đắp cho chấn thương mà cảm giác mất mát đó đã gây ra. Chúng đã mưu toan giành lấy quyền kiểm soát hầu tìm cầu một tâm trạng bình an, không bị phân rẽ, không bị tổn thương và đau đớn bởi chấn thương. Nhưng tất nhiên, điều này chúng không thể làm được vì chúng cố làm qua trung gian tâm thức nhị nguyên, mà nhị nguyên thì bắt buộc phải tạo ra đối nghịch. Luôn luôn phải có một cặp đối nghịch. Vậy có nghĩa là gì?

Có nghĩa là một sa nhân, một sa nhân nào đó, sẽ bắt đầu tìm cách nâng cao, chẳng hạn, một tôn giáo nào đó thành tôn giáo cao trội. Nó sẽ tin là nếu nó có thể tạo ra một tình trạng trên địa cầu nơi ai ai cũng đi theo tôn giáo đó và không có ai thách thức, không có ai chống đối tôn giáo đó, thì hẳn là nó sẽ vô cùng yên trí. Nó sẽ nắm quyền kiểm soát. Và nó sẽ cảm thấy là nó nắm toàn quyền, vì đó là cách duy nhất mà một sa nhân có thể mường tượng sự yên trí. Không hẳn là sa nhân tìm cầu sự yên trí, mà nó tìm kiếm một thế cân bằng nào đó nơi nó có thể cảm thấy mình làm chủ tình hình, và cách duy nhất nó có thể nghĩ ra là nắm quyền lực một cách độc đoán. Nhưng cho dù sa nhân có phấn đấu đến đâu, nó cũng sẽ không bao giờ đạt được trạng thái tâm lý nơi nó cảm thấy nó làm chủ và nắm quyền lực tuyệt đối.

Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là, như chúng tôi đã có nói, tâm lý của một sa nhân thật sự là định nghĩa chính xác nhất về chứng rối loạn đa nhân cách (split personality disorder), chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive disorder). Một sa nhân có vẻ như kiểm soát được tình hình, chẳng hạn như Stalin, nếu nói về sự kiểm soát trong cõi vật lý thì Stalin hoàn toàn kiểm soát Liên xô, vì ông muốn gì thì người ta răm rắp làm theo. Nhưng nhìn vào tâm lý của Stalin, con sẽ thấy ông hoàn toàn không kiểm soát được trạng thái tâm ông, vì ông luôn luôn cảm thấy mình bị đe dọa, luôn luôn sợ hãi, luôn luôn tìm cách triệt hạ mọi tiềm năng đe dọa bằng cách sát hại ngay cả những cộng tác viên thân cận nhất của mình. Mao, Hitler, cũng tương tự như thế. Điều con thấy ở đây là sa nhân bị mắc kẹt trong nhu cầu ám ảnh cưỡng chế đó, luôn tìm cách tạo ra một trạng thái – có thể nói là – yên tâm, hay ít ra không bị đe dọa, nhưng nó lại làm vậy bằng cách tiêu diệt một cái gì khác.

Hiển nhiên, không một sự an bình hay một thế cân bằng nào có thể đạt được qua hủy diệt, nhưng sa nhân sẽ không bao giờ nhìn ra được chuyện đó từ tâm thức nhị nguyên. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói là sa nhân có vẻ như kiểm soát được ngoại cảnh, nhưng trong nội tâm, sa nhân không ngừng phản ứng, và tất nhiên, khi con phản ứng lại những hoàn cảnh vượt quá tầm kiểm soát của mình, làm sao con có thể giữ được kiểm soát? Không thể được. Sa nhân không bao giờ kiểm soát được chính tâm lý của chúng. Chúng luôn luôn phản ứng lại những mối đe dọa, cho dù là thực hay là tưởng tượng.

Khi ta nói “thực”, tất nhiên là ta dùng dấu ngoặc kép, mặc dù con có thể bảo là có một số đe dọa hiện hữu trong cõi vật lý, và có một số đe dọa khác thì do sa nhân bịa đặt ra trong tâm trí. Kỳ thực, khi con trong tư cách là một học trò tâm linh nhận ra điều này, đương nhiên con sẽ nhận ra là tâm lý của sa nhân cũng không khác tâm lý của con người trên cơ bản. Sa nhân chỉ cực đoan hơn mà thôi. Con là một học trò tâm linh, chừng nào con còn mang chấn thương nhập đời, thì con cũng sẽ ở trong tâm trạng phản ứng lại những sự kiện có vẻ vượt khỏi tâm kiểm soát của con, và con cũng làm vậy bằng cách tạo ra một cảm giác cân bằng, an tâm, yên trí nào đó.

An bình nội tâm

Khi con nhận ra điều này, con cũng nhận ra đây là một tâm thức vô cùng xưa cũ trên hành tinh địa cầu, một động lượng đã có từ rất lâu, thậm chí một con quái vật tập thể luôn khiến con người tạo dựng một cảm giác an tâm qua nhiều phương cách. Một phương cách, chẳng hạn, trong cõi vật lý là xây thành lũy kiên cố với tường dày đến độ không một kẻ thù nào có thể đâm thủng, rồi con tích trữ lương thực để cố thủ trong đó thật lâu, chẳng khác gì cách phản ứng sợ hãi của những kẻ gọi là lãnh đạo xã hội thời trung cổ. Hay con cũng có thể dùng nhiều phương cách khác, qua khoa học, qua công nghệ, hay con mua bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ hoặc mọi loại bảo hiểm mà con có thể nghĩ ra, hay con cũng có thể tích trữ nhiều tiền bạc đến độ con tưởng con sẽ có thể tung tiền mà thoát khỏi mọi khó khăn. Nhưng phương cách của con cũng có thể là tôn giáo hay giáo lý tâm linh. Con thấy Giê-su đã nói gì về những tín đồ Cơ đốc tạo dựng một tâm trạng mà họ tưởng là cân bằng do họ tin chắc là họ sẽ được cứu rỗi khi Giê-su tái lâm, và họ tin chắc là họ chỉ cần tiếp tục sống cuộc đời thoải mái và có lẽ đóng góp một chút tiền bạc cho từ thiện.

Con thấy trong Phật giáo có bao nhiêu người, ngay cả những vị tu sĩ trong tu viện, cũng đã tạo ra một trạng thái tương tự như vậy, có vẻ rất cân bằng và yên ổn vì họ cho là mình chỉ cần tiếp tục sống cuộc đời tu hành, tuân thủ mọi yêu cầu tụng niệm, cầu nguyện, tu tập, thiền định, và điều này và điều kia. Nói cách khác, đó là con đường vỏ ngoài, con đường tự động mà qua đó con nghĩ con có thể đắc đạo hay nhập niết bàn mà không cần xem xét đến tâm thức của mình và chuyển đổi tâm thức.

Tất nhiên, như chúng tôi đã nói nhiều lần, có những học trò tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên cũng đã cố làm y chang như thế với giáo lý của chân sư, và hiển nhiên, đó là chuyện khả thi. Chuyện này dễ hơn trong những đợt truyền pháp trước, và nó khó hơn hẳn trong đợt truyền pháp này, vì lần này, lần đầu tiên ít ra là trong lịch sử được ghi chép, chúng tôi đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm để phơi bày ra các cơ chế tâm lý, hầu con chỉ có thể vừa ở lại với giáo lý, vừa xây đắp một cảm giác yên ổn, bằng cách con bỏ qua, hay phủ nhận, một phần đáng kể của giáo lý. Nếu con là người cởi mở, tất nhiên con nhận ra là con không thể là một cánh cửa mở hoàn toàn nếu con dùng giáo lý theo cách đó. Con cần bước vào một trạng thái – và đa số các con đã bước vào rồi – nơi mình sẵn lòng xem xét tâm lý mình một cách liên tục, sẵn lòng giải quyết những gì cần giải quyết, rồi vươn lên cao hơn hầu thực sự trở thành một cánh cửa mở.

Tất nhiên, điều mà con cũng gặt hái được qua cách này là một trạng thái an bình chân thực hơn. Chúng tôi có nói là luôn luôn sẽ có những ảo tưởng mà con cần vượt qua cho tới khi con thăng thiên, nhưng chúng tôi cũng có nói là điều này không có nghĩa là con phải sống hết kiếp này trong một tâm trạng thiếu sót, cảm thấy như mình luôn luôn bất cập, khiếm khuyết, như luôn luôn có điều gì mình chưa làm hay cần phải làm. Điểm mà con cần thực sự đạt đến là sự chấp nhận. Con chấp nhận chính mình như một học trò sẵn lòng bước đi trên đường tu, luôn luôn tìm xem mình có cần nhìn ra điều gì trong tâm mình, trong tâm lý mình. Một khi con vượt qua được điểm đó, là điểm mà chúng tôi gọi là điểm kháng cự không muốn nhìn vào tâm lý mình, thì con sẽ có được một cảm giác an bình nội tâm nào đó, vì không có điều gì trong tâm mà con sợ nhìn vào, không có gì trong tâm lý của con mà con không thể khắc phục, không có gì trong thế gian mà con cần sợ hãi.

Điều kiện ngoại cảnh có mục đích gì

Tại sao con người lại sợ ngoại cảnh? Họ có nhiều lý do. Họ nói, tôi sợ đau ốm, tôi sợ đau đớn, tôi sợ này sợ kia. Phải, điều này có thể thông cảm được. Nhưng dù sao đi nữa, tại sao họ lại sợ một điều kiện bên ngoài chưa thị hiện? Bởi vì họ sợ nó sẽ tác đông đến tâm lý của họ như thế nào. Như chúng tôi đã có trình bày, không phải là điều kiện vỏ ngoài khiến con đau đớn. Nỗi đau hiện hữu trong tâm con. Ngay cả đau đớn thể xác cũng hiện hữu trong tâm con, hay ít nhất nó khơi ra một phản ứng trong tâm con. Đó là điều khiến nó không chịu đựng nổi. Kỳ thực, con luôn luôn lo sợ phản ứng của con đối với một điều kiện bên ngoài thay vì chính điều kiện đó. Nhưng nếu con biết là con có thể khắc phục phản ứng đó bằng cách nhìn vào phản ứng cũng như ngã tách biệt đằng sau nó, thì tại sao con lại cần lo sợ phản ứng? Và nếu con không lo sợ phản ứng thì tại sao con lại cần sợ hãi điều kiện đó?

Thật sự, điều mà một số các con đã bắt đầu sẵn sàng nhìn nhận là con không có lý do gì để sợ hãi bất cứ điều kiện nào trên địa cầu. Phần nào đây cũng là điều mà Giê-su đã chứng tỏ khi thày chấp nhận để mình bị đóng đinh trên thập tự giá. Con có thể nói là nếu việc bị đóng đinh và chịu đựng nỗi đau đớn tạm thời đó đã giúp cho thày đủ tư cách thăng thiên, thì liệu việc trải qua nỗi đau nhất thời đó chẳng bõ lắm hay sao? Con thử nhìn xem Giê-su sau khi thày thăng thiên. Thày có thể nhìn lại những giờ phút đau đớn đó, nhưng chuyện đó còn hề chi nữa? Trong trạng thái thăng thiên, bất cứ gì đã xảy ra trên địa cầu có còn quan trọng gì nữa không?

Chúng tôi đã nói gì về mục đích thực sự của địa cầu, của trải nghiệm của con trên địa cầu? Đó là để nâng cao tâm thức. Một phần công việc nâng cao tâm thức là con phải vượt qua một cái gì đó nơi bản thân con – những cái ngã tách biệt, hay cái gì khác nữa. Và để vượt qua cái đó, con phải nhìn thấy nó. Và để nhìn thấy nó, chuyện gì cần xảy ra? Phải, đôi khi con có thể nhìn thấy nó qua một tiến trinh nội tâm. Nhưng có những thứ mà con không thể nhìn thấy, hoặc ít ra con sẽ nhìn thấy nhanh chóng hơn nếu nó được các điều kiện ngoại cảnh kích hoạt cho hiển lộ ra.

Đâu là mục đích của bất kỳ trải nghiệm nào mà con có thể có trên địa cầu? Đó là để làm hiện rõ ra trong nội tâm của con một số điều kiện đang hạn chế con – đó chính là tại sao con mới có một phản ứng khó chịu – hầu con có thể nhìn thấy điều kiện đó, giải quyết nó và được giải thoát khỏi nó. Và một khi con đã giải thoát khỏi điều kiện đó trong chính con, thì điều kiện bên ngoài hoàn toàn vô can, không dính dáng gì đến con nữa. Nếu con không có phản ứng tiêu cực nào đối với điều kiện, thì nó có quan trọng gì nữa không? Nó không kìm hãm được sự tăng trưởng tâm linh của con.

Một khi con bắt đầu suy ngẫm điều này, con có khả năng đạt đến một điểm khi con xoay chuyển một cách ý thức, và con nói: “Tại sao tôi lại sợ tất cả những điều kiện đó có thể xảy đến? Tại sao tôi lại cần sợ tất cả những điều kiện đó? Bất cứ gì xảy ra cũng sẽ tạo ra phản ứng. Khi tôi nhìn thấy phản ứng, đó là cơ hội cho tôi tìm kiếm những ảo tưởng, những cái ngã tách biệt đã gây ra ảo tưởng, hóa giải những ảo tưởng đó, để cho ngã tách biệt chết đi, và khi đó tôi được tự do. Tại sao tôi lại sợ những chuyện xảy ra cho mình khi thật sự chúng sẽ giúp mình đạt được giải thoát tối hậu và thăng thiên? Tại sao tôi cần phải sợ bất cứ điều kiện nào? Liệu tôi có thể nói, “Chuyện gì xảy ra cũng được! Bất cứ gì xảy ra cũng được!”?

Hết sợ hãi

Một lúc nào đó con hãy thử ngồi xuống trong một khung cảnh yên lắng, nhắm mắt lại, tập trung vào trái tim rồi nói: “Bất cứ gì xảy ra cũng được.” Xong con dõi nhìn xem phản ứng đến từ bên ngoài tim con, đặc biệt từ những luân xa bên dưới, từ cảm thể của con. Con nhìn xem con có phản ứng thế nào. Thử theo dõi phản ứng. Thử nhìn xem con có nhận diện được một ngã tách biệt nào hay không. Nhìn xem cái tin tưởng đứng đằng sau nó. Con đang thực sự sợ hãi điều gì? Tại sao con lại nghĩ, đây là một chuyện khủng khiếp mình cần phải tránh? Cái gì ở trong điều kiện đó mà con thực sự sợ hãi, và con sẽ thấy đó là phản ứng bên trong con, nhưng một phản ứng bên trong thì con có khả năng ảnh hưởng. Con có thể bó tay không làm gì được đối với điều kiện bên ngoài, nhưng con có thể làm gì đó với phản ứng của con. Không phải đây chính là cốt lõi lời dạy của các chân sư hay sao?

Tại sao con thực sự sợ nó? Con có nghĩ là con cần sợ nó? Điều này sẽ lần hồi dẫn con – đồng ý, tất cả các con sẽ cần thời gian để đạt tới đó – nhưng nó sẽ dẫn con đến điểm khi con có thể nói: “Ừ nhỉ, bất cứ gì mà tôi gặp trên địa cầu chỉ là một thử nghiệm. Nó không có gì là thực, theo nghĩa là nó không có quyền năng gì trên tôi để có thể định nghĩa được tôi.” Và khi con có thể nhìn mọi chuyện xảy ra cho mình chỉ là thêm một thử nghiệm trong số muôn vàn thử nghiệm khác, thì con sẽ có khả năng vượt qua nỗi sợ hãi mà biết bao người gán ghép cho tương lai, là nỗi sợ những chuyện có thể xảy ra.

Khi ta hiện thân trên địa cầu, trong sáu năm trời ta đã sống trong rừng, ta đã ngồi đó và bỏ đói thân mình, ta đã đối mặt với đủ loại điều kiện trong thể xác. Qua đó ta đã học được điều này, rằng không một điều kiện nào của thể xác có quyền lực đối với tâm mình trừ khi ta cho nó quyền lực. Qua đó ta đạt được một sự thản nhiên nào đó đối với thân xác mình và những gì có thể xảy ra cho thân xác, và hơn thế nữa, đối với những gì có thể xảy đến cho ta trong cõi vật lý. Trong phần còn lại của cuộc đời phụng sự, chắc chắn là sau khi ta trở về giảng dạy, ta không có sợ hãi nào về tương lai. Con có thể nói: “Nhưng chuyện đó quá dễ, thày đã có một cuộc đời quá dễ dàng.” Đúng, nhưng ta vẫn đang là người đầu thai giữa tâm thức tập thể của loài người, và tâm thức này luôn luôn tác động lên ta y như mọi người khác. Chỉ vì ta không phản ứng lại bọn quỷ của Mara mà ta mới giải thoát ra được mà thôi.

Giải phóng khỏi ngoại cảnh

Cho dù chuyện gì có xảy ra trong điều kiện bên ngoài, con vẫn mang sẵn tiềm năng thoát ra khỏi phản ứng của mình, và do đó, con không thể bị quỷ Mara cám dỗ. Điều gì gây ra phản ứng chứ? Tại sao con lại phản ứng tiêu cực trong một số hoàn cảnh mà không phản ứng tiêu cực trong một số hoàn cảnh khác? Đó là vì trong tâm, con có một cái chuẩn bảo con: “Chuyện này được xảy ra cho tôi, chuyện kia không được xảy ra cho tôi.”

Khi có điều gì xảy ra nằm trong danh mục “những chuyện được xảy ra”, con có một cảm giác tích cực. Con có một phản ứng tích cực. Nhưng khi có điều gì xảy ra nằm trong danh mục “không được xảy ra”, con rơi vào phản ứng tiêu cực, và con cho đó là cách duy nhất để nó diễn ra. Nhưng tại sao đó là cách diễn ra duy nhất? Đó chỉ là cách duy nhất trong tâm thức nhị nguyên mà thôi, nơi con có một cái chuẩn và một phán đoán giá trị. Nhưng khi con giải thoát khỏi nhị nguyên, nó sẽ phai nhạt đi. Tại sao lại có hoàn cảnh tích cực và hoàn cảnh tiêu cực? Tại sao một cái dẫn đến phản ứng hân hoan mất cân bằng, còn cái kia dẫn đến phản ứng tiêu cực cũng mất cân bằng? Tại sao có bất cứ gì mà con cần phải tránh né? Cho dù chuyện gì có xảy ra thì đó là một trải nghiệm, và bất kỳ chuyện gì xảy ra trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng là điều thích hợp để phơi bày ra một điểm nào đó trong tâm lý của con mà con chưa nhìn thấy. Vậy không tích cực lắm hay sao?

Con có thể nói: “Nhưng vẫn có những trải nghiệm trên địa cầu mà con không muốn có.” Điều này có thể hiểu được. Nhưng có một sự khác biệt giữa (1) sợ hãi và muốn tránh né một cái gì đó, và (2) quyết định là mình thật sự không muốn có trải nghiệm đó. Khi con làm điều thứ hai, con sẵn sàng nói: “À, vậy thì tôi cần làm gì để tránh loại trải nghiệm đó? Tôi cần tim xem trong tâm lý mình có điều gì sẽ được đưa ra ánh sáng bởi trải nghiệm đó, rồi tôi cần giải hóa điều kiện tâm lý đó hầu tôi không cần phải trải nghiệm điều kiện bên ngoài.”

Không có trừng phạt ở đây. Không có cưỡng ép, theo nghĩa là mọi chuyện xảy ra là để giải quyết vấn đề tâm lý. Mà nếu con giải quyết được tâm lý thì con không cần phải có biến cố bên ngoài xảy ra cho con. Trừ khi con làm vậy để chịu gánh nặng cho người khác – luôn luôn có ngoại lệ cho mọi quy luật – nhưng đối với đa số các con, nếu con giải quyết được điều kiện tâm lý thì con sẽ không cần trải nghiệm điều kiện bên ngoài. Giản dị như vậy đó.

Dựa trên đó, con thấy được là đối với số đông các con đã thực hành lời dạy này trong một thời gian, việc đạt được trạng thái cân bằng, an bình đó là một điều khả thi và thực tế. Nhưng nó không dựa trên sự phủ nhận. Ta có nói là nhiều Phật tử có được một cảm giác cân bằng, nhiều tín đồ Cơ đốc cũng có được cảm giác cân bằng, nhưng đó là vì họ phủ nhận một điều gì đó trong tâm lý họ. Họ làm ngơ. Họ từ chối nhìn vào, và do đó họ mang ảo giác yên tĩnh mà không thực sự an bình. Nhưng con có khả năng áp dụng các lời dạy của chúng tôi để đạt được trạng thái đó nơi tâm – là khi những chuyện ngoại cảnh không làm phiền con, con không phản ứng, con có thể nhìn quỷ Mara diễn hành trước mặt mình mà không phản ứng. Có nghĩa là khi đó con đạt được tự do tư duy để thực sự tự vấn: “Tôi thực sự muốn những loại trải nghiệm nào cho phần còn lại của kiếp này?” Và nhiều người trong số các con sẽ có khả năng xoay chuyển và nhận ra: “Chính những gì đang xảy ra là những trải nghiệm mà tôi muốn có, bởi vì trải nghiệm này nằm gọn trong tiến trình tăng trưởng của tôi. Đây là mong muốn mà tôi đang có, và bằng cách kinh qua và trải nghiệm nó, tôi có thể tự giải phóng mình khỏi mong muốn đó.”

Nhiều người trong số các con sẽ thấy mình đạt tới điểm này khi mình tự dưng biết rõ là đã đến lúc mình cần thay đổi cuộc sống, cho dù cuộc sống đó là gì trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con. Con có thể thực hiện thay đổi đó và con có thể có một trải nghiệm khác xa những gì con đã sống qua trước đây. Và trải nghiệm này là một phần của tiến trình tăng trưởng của con. Nó cũng có thể là một phần của món quà mà con muốn mang lại qua sứ vụ thiêng liêng của con.

Ngoại cảnh tự nhiên thay đổi

Một số các con có thể sẽ tự hỏi: “Tôi muốn loại trải nghiệm nào? Chẳng hạn tôi muốn trải nghiệm việc bày tỏ một ý tưởng nào đó.” Nhưng để làm điều này, con cần một số thay đổi, rồi con phải thực hiện những thay đổi đó. Ta sẽ không nói chi tiết những thay đổi cần thiết là gì. Chính con, tất nhiên, sẽ nhận thấy khi nào con sẵn sàng thay đổi. Đây không phải là một điều mà con áp đặt bằng tâm vỏ ngoài, mà nó sẽ xảy đến khi nào con đã đạt được trạng thái an bình nội tâm một khi con giải quyết tâm lý mình. Khi đó con sẽ ý thức tự đặt câu hỏi: “Tôi muốn loại trải nghiệm nào trong giai đoạn kế tiếp của đời tôi?”

Rất nhiều các con sẽ nhận thấy là một khi con sáng rõ, một khi con không còn bị phân ly trong tâm nữa, thì hoàn cảnh cuộc sống sẽ tự nhiên ăn khớp vào nhau và con thấy mình sống trong một tình cảnh đổi mới. Đây là tình huống mới được thị hiện một cách không khó nhọc. Nó xuôi chảy với Dòng sông sự Sống khi con không kháng cự lại bất cứ gì. Con không đang tìm cách gò ép cho điều gì xảy ra – có thể nói là con chỉ quan sát nó xảy ra. Con quan sát mọi sự trải bày ra.

Liệu ta có đang bày đặt một ảo mộng gì đó ở đây? Liệu chuyên này chỉ xảy ra cho một số ít người? Không đâu, nó áp dụng cho tất cả những ai sẵn lòng thực hành lời dạy và giải quyết tâm lý của mình. Tại sao nó lại có thể xảy ra? Tại sao khi con thay đổi trạng thái tâm mình thì hoàn cảnh vỏ ngoài cũng có thể thay đổi theo? Đây không phải là hiện tượng mà người ta thường gọi là lấy tâm điều khiển vật chất. Con thấy đó trên thế giới, có cả một phong trào những kẻ cố sức đạt được quyền năng lấy tâm điều khiển vật chất, ép buộc vũ trụ phải ban cho họ những gì họ muốn. Họ muốn ép buộc chì phải biến thành vàng, hoặc thế này thế khác – bất cứ gì mà họ mơ ước. Nhưng đó là sa nhân đang tìm cách sử dụng điều mà các chân sư gọi là ma thuật để thị hiện một số kết quả nào đó.

Điều mà ta đang nói đến ở đây là thị hiện mà không chút cố gắng và cũng không dùng đến sức lực hay quyền lực. Con thấy không, khi tâm lý con đã giải quyết, con không cần phải gò ép gì nữa. Bởi vì con không tìm cách tránh né bất cứ gì. Con không tìm cách cưỡng bách bất cứ gì lên bất cứ ai, hoặc xua đuổi bất cứ gì. Tại sao khi con xoay chuyển trong tâm, thì bên ngoài, các tình huống lại có thể xảy ra như ăn khớp vào với nhau?

Tất cả đều nối kết

Phải, điều đó xảy ra được là do một nguyên lý mà ta đã giảng dạy bao nhiêu năm về trước, đó lý duyên khởi (interdependent originations). Đây là một khái niệm vô cùng thâm sâu. Các chân sư đã có đề cập rồi và đã khuyến khích con nên suy ngẫm, và một lần nữa, ta lại khuyên con nên suy ngẫm và từ từ chiêm nghiệm nguyên lý này. Con cần nhìn nhận là con đã lớn lên trong thế giới hiện đại, là môt thế giới chủ yếu dựa vào, không những một nhân sinh quan dựa trên sức mạnh, một hệ tư tưởng dựa trên sức mạnh, mà cả một hệ tư tưởng dựa trên tách biệt. Ta đã nói gì về tâm thức nhị nguyên? Trong nhị nguyên, con nhìn vào toàn bộ tấm thảm của sự tồn hữu con người, xong con lấy ra một phần, con nâng nó lên, đồng thời con cũng kéo thấp những phần khác xuống. Con tạo ra một sự mất cân bằng. Nhưng trong lý duyên khởi không hề có mất cân bằng, tất cả đều nối kết với nhau.

Nhưng con đã lớn lên và được dạy dỗ cái nhìn cho tằng tất cả mọi thứ đều không nối kết với nhau. Tất cả đều là những thực thể tách biệt. Chúng hiện hữu riêng rẽ. Chúng là những thứ riêng rẽ bị tác động bởi những nguyên nhân riêng rẽ. Khi con nhìn khoa học, khoa học hiện đại, con sẽ thấy khoa học đặt nên tảng trên cái nhìn tách biệt này. Con cho rằng con có thể nhìn vào tấm thảm của vũ trụ và lôi ra một sự kiện nào đó, một điều kiện nào đó, và cô lập nó ra rồi bảo: “Đây là một hiệu ứng biệt lập, và hiệu ứng biệt lập này là do nguyên nhân biệt lập kia. Hiệu ứng này hoàn toàn được gây ra bởi nguyên nhân kia, và nguyên nhân kia là nguyên nhân độc quyền gây ra hiệu ứng này.” Đây là cái nhìn tách biệt mà khoa học phương Tây vẫn tiếp tục cổ võ, cho dù nó đã bị chính khoa học phương Tây – vật lý lượng tử – bác bỏ.

Có lẽ con cần bỏ ra thì giờ để suy ngẫm về điều này và nhận ra cách nhìn về nguyên nhân tách biệt và hệ quả tách biệt chỉ hữu ích cho một giai đoạn nào đó. Đó là một giai đoạn cần thiết khi loài người cần chuyển từ thế giới quan tôn giáo thời trung cổ sang thế giới quan khoa học, lý tính, hiện đại hơn. Không phải là cách nhìn đó sai – nó không sai khi xã hội cần kinh qua giai đoạn đó, nhưng đó chỉ là một giai đoạn, hay ít nhất, đó là một giai đoạn mà xã hội phải đi qua nhưng nó không thể đưa xã hội hay loài người quá một trình độ nào đó.

Là học trò tâm linh, con sẽ muốn suy ngẫm xem làm thế nào con có thể giải thoát tâm con khỏi niềm tin đó. Một lần nữa, con có thể hỏi, tại sao mình lại sợ một tình huống nào đó? Phải chăng là vì con cho rằng có nguyên nhân tách biệt kia sẽ tác động đến con là một sinh thể tách biệt, và con như một sinh thể tách biệt sẽ phản ứng lại nguyên nhân đó? Và con như một sinh thể tách biệt sẽ muôn tránh né nó, muốn tránh né nguyên nhân đó? Nhưng con đang nhìn bản thân như một sinh thể hiện hữu trong một tổng thể rộng lớn hơn. Con biết điều đó. Con đang sinh sống trên một hành tinh với bảy tỷ người khác, với đủ loại điều kiện vật lý khác nhau, có cả những chuyện như thời tiết, và nếu trời mưa và con ra ngoài đường thì con sẽ bị ướt. Con biết là con đang sống trong cái tổng thể đó, nhưng thay vì nhìn vào tổng thể, con lại tập trung vào một số khía cạnh đặc thù của tổng thể, và con xem mình như một sinh thể tách biệt đang hiện hữu trong tổng thể, và con nghĩ đối với sinh thể tách biệt đó, có những chuyện nên xảy ra cho nó và những chuyện khác không được xảy ra cho nó.

Xong con tìm cách làm thị hiện những chuyện nên xảy ra và xua đuổi những chuyện không được xảy ra, dựa theo tiêu chuẩn của con. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói con là một sinh thể cá biệt với quyền tự quyết cá nhân, nhưng con không nhận ra là con hiện hữu trong một tổng thể với bảy tỷ cá nhân khác cũng có quyền tự quyết. Có nghĩa lý gì mà lại cho rằng con có thể tự cô lập khỏi tổng thể đó và không bị tác động bởi những chọn lựa tự quyết của người khác? Nghĩ như vậy có thực tế hay chăng?

Nhiều người nghĩ như vậy. Như ta vừa nói, có những người xây thành lũy với tường thật dày để cố cách ly, tưởng là mình có thể tự cô lập khỏi tổng thể, nhưng tất nhiên họ không thể. Họ có thể tạm thời tạo cảm tưởng là họ có thể, nhưng thực tế là họ không thể. Toàn bộ ý tưởng cho rằng mình có thể cách ly khỏi tổng thể để che chở bản thân khỏi một số điều kiện – và hấp dẫn một số điều kiện khác – là một ảo tưởng. Dù con có ưa hay không ưa, con vẫn là một phần của tấm thảm nhân loại. Điều ta gợi ý cho con ở đây, và cũng là điều xảy ra cho những ai đã vươn lên một mức tâm thức Ki-tô nào đó và đã bắt đầu khoác vào tâm thức Phật, là con có khả năng xoay chuyển cách nhìn của mình về cuộc sống.

Con có thể khởi sự suy ngẫm là có một cách khác để nhìn cụôc sống hơn là nhìn từ quan điểm một cá nhân tách biệt đang cố tránh né một số chuyện và tìm cầu một số chuyện khác. Con có thể nhận ra là với tư cách một cá nhân tách biệt, thật chẳng có nghĩa lý gì khi con muốn cái này và không muốn cái kia. Bởi vì thực tế là mọi thứ đều nối kết với nhau, và rất có thể điều gì con muốn có sẽ khiến cho ai khác không có được, và điều gì con tránh né sẽ khiến cho ai khác không tránh được. Nói cách khác, nếu mọi sự đều là một tổng thể liên kết và con ở trong tổng thể đó, con không thực sự là một thành phần (a part) của tổng thể vì con không hề tách rời (apart) khỏi tổng thể. Mà giản dị, con là một khía cạnh trọn vẹn và không thể thiếu của tổng thể. Thật sự không có nghĩa lý khi nói: “Tôi muốn gì như một cá nhân tách biệt?”

Có một cách nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống, và đó là nhìn cuộc sống từ một cá nhân nối kết, một người nối kết với tổng thể – tức là thật sự sẽ không nghĩa lý gì khi con bảo: “Liệu tôi có thể trở thành tỷ phú bằng cách lấy tiền của người khác hay không?” Con có thể làm vậy như một số người đã từng làm, nhưng kỳ thực con không tách rởi khỏi tổng thể. Khi con tạo ra một sự mất cân bằng thì con sẽ trải nghiệm một sự mất cân bằng nơi chính con. Khi con tạo một sự mất cân bằng tác động lên người khác, con sẽ tạo một sự mất cân bằng tâm lý tác động lên chính con. Con cũng sẽ tạo ra một đối nghịch vật lý có thể sẽ tác động đến con trong tương lai. Vì tác động này có thể bị trì hoãn tới một kiếp sau cho nên con không thể thấy được, nhưng con sẽ trải nghiệm một sự mất cân bằng tâm lý. Chẳng hạn như con thấy đó, tất cả những ai làm giàu do tước đoạt của người khác cũng đều phải chịu những mất cân bằng tâm lý sẽ liên tục gây tổn hại cho họ.

Mục đích là nâng cao tổng thể

Có một cách nhìn cuộc sống khác hẳn cái nhìn tách biệt mà con đã được giáo dục, được lập trình và đã phải tiếp cận suốt nhiều kiếp sống. Con sẽ cần trang bị lại tâm trí để có thể xoay chuyển, nhưng ở đây thày đang chỉ ra cho con những giai đoạn khởi đầu của tiến trình đó. Con có thể bắt đầu suy ngẫm và chuyển dời tâm thức. Con có thể bắt đầu trau dồi nhận thức là con không thực sự ở đây để tự nhấc mình lên, ít ra là không tạo sự mất cân bằng sẽ làm hại đến người khác. Con ở đây để nâng cao tổng thể.

Liệu điều này có ăn khớp với đường tu tâm linh dẫn đến quả vị Ki-tô hay không, vì chúng tôi đã có nói là ở những chặng đầu của đường tu, công việc quan trọng nhất của con là tách mình ra khỏi tâm thức tập thể? Đúng vậy, có vẻ như con cần tự tách ra khỏi một cái gì đó, và theo một ý nghĩa nào đó, con đang tự tách mình ra khỏi tâm thức tập thể. Nhưng tâm thức tập thể là gì? Đó là tâm thức tách biệt. Khi con tách mình ra khỏi tâm thức tách biệt, liệu con đang tách ra khỏi một cái gì đó, lánh xa một cái gì đó, hay con đang bước vào tâm thức hợp nhất, tâm thức nối kết? Con không thể thực sự tách ra khỏi sự tách biệt. Con chỉ có thể đi vào tâm thức vượt khỏi tách biệt, tức là đi vào hợp nhất. Con nhận ra là để nâng cao tổng thể, con cần phải tách mình ra khỏi tâm thức tập thể hầu con có thể nâng cao chính tâm thức cá nhân của mình, và khi con làm vậy, con tạo ra một lực kéo theo cả tập thể đi lên.

Sự khác biệt vi tế nằm ở chỗ một số đệ tử sẽ tìm cách làm vậy với động lực nâng mình lên như một cá nhân tách biệt. Đây là điều chúng tôi từng đề cập là ở tầng thứ 96, con cần tìm ra đáp số cho bí ẩn là con không còn cố nâng mình lên như một cá nhân tách biệt, mà con nhìn ra sự nối kết với tổng thể. Đây là tâm thức Ki-tô, không phải mức cao nhất nhưng chắc chắn là chặng khởi đầu của tâm thức Ki-tô. Khi con xoay chuyển, con nhận ra là tất cả mọi thứ đều tương kết với nhau. Theo một nghĩa, con có thể nói là tâm lý của mọi người trên địa cầu đều nối kết với nhau. Có một vài ngã tách biệt mà mọi người đều có, và có rất rất nhiều ngã tách biệt mà hầu hết mọi người đều có.

Vậy sẽ cần gì để nâng cao nhân loại? Sẽ cần gì để nâng cao tâm thức tập thể? Cần giải quyết những cái ngã tách biệt. Nhưng làm thế nào? Điều này không thể xảy ra trên bình diện tập thể, vì tập thể không có ý thức và mọi người đang bị những cái ngã tập thể phân rẽ. Không có hy vọng nào khơi lên ý thức này, ít ra là trong tương lai gần, vì mọi người đều có ngã tách biệt và đều cần khắc phục nó cái đã. Tuy nhiên, con có thể thấy một số chuyển đổi tập thể đang diễn ra, nhưng những chuyển đổi này khởi lên là do một số cá nhân đã bắt đầu tự xoay chuyển bản thân, và điều này tạo ra động lượng khiến cho nhiều người khác cũng chuyển đổi theo.

Nhân loại được nâng lên là nhờ một số người đã sẵn sàng xem xét và giải quyết ngã tách biệt của riêng mình. Điều này tạo ra một khuôn mẫu, một khung sườn, một đường khai thông cho người đi sau, một động lượng cho tập thể. Nếu có một người nhìn thấu qua một ngã tách biệt nào đó, thì sẽ có một người khác khắc phục ngã tách biệt đó dễ dàng hơn do người kia đã làm được trước đó. Rồi sẽ có một người thứ ba cũng thấy dễ dàng hơn nữa, và nó sẽ lan rộng ra giống như vòng tròn trên mặt nước, cho tới khi tập thể được xoay chuyển, và bỗng nhiên nó gần như trở thành một loại kiến thức phổ thông, hay ít nhất một chuyện đầu môi của nhiều người. Ngay cả chỉ trong một đời người, con đã thấy trong lãnh vực xuất bản sách tự cải tiến, đã xảy ra những chuyển đổi khiến cho một vấn đề nào đó bỗng nhiên trở nên thời trang và được nhiều người nói tới. Chẳng hạn ngay giờ đây, con có thấy đề tài về những kẻ ích kỷ yêu mình quá độ đang trở thành phổ biến hay không? Tất cả đã bắt đầu là do có một vài người sẵn sàng tự cải sửa rồi kéo theo mọi người đi lên.

Không còn kháng cự

Như vậy có nghĩa là bây giờ con có thể trở về với khái niệm ta đề cập ở trên, là có một số điều kiện mà con muốn tránh né, nhưng giờ đây con nói: “Phải, có một điều kiện này mà tôi không muốn xảy ra nhưng nó vẫn xảy ra như thường, vậy có nghĩa là gì?” Có lẽ có nghĩa là: “Cho dù tôi có muốn tránh né với tâm vỏ ngoài, nhưng trong sứ vụ thiêng liêng của tôi, chính tôi đã hứa là mình sẽ tiếp nhận điều kiện đó để nó giúp mình giải quyết cái tâm lý ở đằng sau, và nhờ vậy tôi sẽ nâng cao tổng thể.” Nói cách khác, những gì xảy ra cho con không phải là điều gì nhằm đánh phá con, nó không phải là điều gì mà con cần kháng cự lại. Trái lại, đó là một điều mà con cần ôm lấy và nói: “Tôi có thể học được gì từ chuyện này? Có gì trong bản thân mình mà tôi cần nhìn thấy qua chuyện này? Làm thế nào tôi có thể giúp giải quyết một điều gì đó trong tâm thức tập thể và nhờ đó nâng cao tập thể?”

Một lần nữa, cách suy nhĩ này là một phần của câu “Bất cứ gì xảy ra cũng được”. Khi con nói “Bất cứ gì xảy ra cũng được”, nó không có nghĩa là chỉ có những thứ dễ chịu mới được quyền xảy ra. Mà nó có nghĩa là “bất cứ gì”. “Dù bất cứ gì xảy ra, tôi cũng sẽ gặp gỡ nó với tâm tích cực, tôi sẽ tìm cách tận dụng nó tốt nhất, và tôi sẽ vui mừng vì những gì tôi đã phải chịu đựng đều đã đóng góp nâng cao tổng thể.”

Điều này sẽ xoay chuyển trạng thái tâm con, khiến con không cưỡng chống lại bất cứ gì nữa. Và tất nhiên, con không thể an bình nội tâm khi con còn cưỡng chống hay tìm cách tránh né bất cứ gì. Làm sao an bình được? Và điều này ăn nhập thế nào với đề tài trở thành cánh cửa mở? Thật hiển nhiên là khi con càng giải quyết được tâm lý của con thì con sẽ càng sẵn sàng nói “Bất cứ gì xảy ra cũng được”, và con càng trở thành một cánh cửa mở. Khi còn đầu thai trong cõi vật lý, con luôn luôn gặp thử thách mình bị mù quáng bởi toàn bộ hoàn cảnh mà mình đang trải qua, bởi tâm thức tập thể, bởi chính bốn thể phàm của mình, và con không thấy được rõ ràng trong tâm ý thức những gì con đã thảo ra trong sứ vụ thiêng liêng của con. Con không nhìn thấy sự nối kết rộng lớn với công cuộc nâng cao tổng thể mỗi khi con trải qua một tình huống. Nhưng tư duy mà con có thể trau dồi là không những con sẽ cởi mở đón nhận những ý tưởng tuyệt vời từ cõi tâm linh, mà con cũng sẽ cởi mở để trải nghiệm tất cả những tình huống mà con đã quyết định trong sứ vụ thiêng liêng, là những trải nghiệm mà con muốn kinh qua và đương đầu hầu giúp nâng cao tập thể. Thậm chí có cả những bệnh tật mà con muốn chuốc lấy.

Làm hòa với sự đầu thai trên địa cầu

Điều ta cố trao cho con ở đây là ý tưởng con có khả năng làm hòa với sự đầu thai của con trên địa cầu, cho dù hành tinh này có đày đặc và khó khăn như hiện tại. Điều này không có nghĩa là ta yêu cầu con phủ nhận những điều kiện hiện hữu trên trái đất. Khi con nâng cao tâm thức, con nhìn thấy rõ hơn mọi điều kiện. Nhưng con cũng nhìn những điều kiện đó mà không có phán đoán nào về giá trị, là sự phán đoán của tâm thức nhị nguyên, và đây là điểm mà một số người đã không hiểu. Một số người đã đi qua giai đoạn mà thày Saint Germain đã giải thích rất tỉ mỉ là những giai đoạn khởi đầu trên con đường quả vị Ki-tô, khi con vẫn con suy nghĩ mọi chuyện theo đen và trắng. Con vẫn còn cho rằng cái này đúng, cái kia sai. Nếu cái này đúng thì cái đối nghịch phải sai. Đấy là cách con suy nghĩ ở một giai đoạn nào đó. Đó là khởi đầu của phân biện nhưng đó chưa thực sự là quả vị Ki-tô, vì quả vị Ki-tô là khi con bước lên cao hơn một chút, và con bắt đầu nhìn vượt khỏi mọi phán đoán giá trị. Khi nào con còn ở trong tâm trạng trắng đen này thì con sẽ vẫn phán xét giá trị, con sẽ vẫn cho rằng cái gì sai là xấu, là ác, là cần tránh né, là không có quyền hiện hữu.

Khi con bước lên cao hơn trong tâm thức Ki-tô, con nhận ra là bất cứ gì hiện hữu cũng chỉ là quyền tự quyết của con người đang trải bày ra. Khi con lên cao hơn nữa vào những mức tâm Phật, con bắt đầu bỏ lại toàn bộ ý thức lượng định là một điều gì đó phải hiện hữu hay không được hiện hữu. Khi con nối kết với bản chất nối kết của tổng thể cũng như với quyền tự quyết được trải bày ra, con nhận ra là theo một nghĩa nào đó, từ một quan điểm nào đó, hoàn toàn không có gì mà không được hiện hữu – bởi vì bất cứ gì hiện hữu cũng là sự trải bày của tâm thức con người sống trên địa cầu, và tâm thức này đang trải bày nó ra để làm cho nó lộ diện. Khi con thấy được cách vận hành của bộ máy giả thực tại này, và thấy được loài người đã bước vào nhị nguyên như thế nào, thì bất cứ gì hiện hữu cũng hiện hữu như sự trải bày của một cái gì đó khó nhìn thấy, bây giờ được hiển lộ ra cho con thấy. Nhìn từ góc độ đó, nó phải hiện hữu.

Con thử lấy tất cả những đánh giá mà nhiều người có trên hành trình tu tập, thì con có thể nói tiến trình đi tới quả vị Ki-tô và quả vị Phật là khi con bắt đầu kết nối với tổng thể, cho nên con trải qua một giai đọan khởi lên lòng trắc ẩn đối với tha nhân. Con nhìn thế giới ngày nay, nhìn rất, rất nhiều người mà xem. Có thể họ đi theo hay không theo tôn giáo nào, nhưng con thấy là rất nhiều người – mà chúng ta có thể gọi là người tiến bộ, thiện tâm – được thúc đẩy bởi lòng trắc ẩn. Họ có lòng thương xót đối với nỗi đau khổ của người khác, và với lòng thương xót đó, họ nói: “Ồ, điều kiện tệ hại này không được có mặt ở đây. Người ta phải đau khổ như thế này thì thật là sai trái. Những chứng bệnh này không được hiện hữu, tình trạng nghèo đói này không được hiện hữu, tra tấn, bạo lực, chiến tranh này không được hiện hữu.”

Hiển nhiên, con có thể lấy quan điểm đó và bảo rằng theo nguyên tắc lý tưởng, theo cách vận hành của một hành tinh tự nhiên, thì những chuyện như vậy sẽ không có mặt ở đây nếu địa cầu là một hành tinh tự nhiên. Nhưng một lần nữa, mục đích của chúng ta trên địa cầu là gì chứ? Phải, tối hậu là đưa địa cầu trở về trạng thái một hành tinh tự nhiên, nhưng đó vẫn chưa phải là mục đích thật. Mục đích thật là nâng cao tâm thức. Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, không ngồi đây bảo: “Ồ, địa cầu là một hành tinh đen tối thật, và chúng tôi phải cố gắng hết sức hồi phục địa cầu về vị thế một hành tinh tự nhiên càng sớm càng tốt, bất chấp điều gì xảy ra.”

Không, thật ra chúng tôi nói: “Với tình trạng hiện nay của địa cầu, trong những điều kiện hiện tại, làm thế nào chúng tôi có thể nâng cao tâm thức loài người bằng cách làm hiển lộ cái tâm thức đã tạo ra những điều kiện đó?” Khi con nối kết với điều này, con sẽ tránh bị mắc kẹt trong lòng trắc ẩn, bởi vì kỳ thực, nhiều người thiện tâm và nhạy cảm bị mắc kẹt trong lòng trắc ẩn. Chính sứ giả này cũng từng bị mắc kẹt như vậy trong những năm đầu của kiếp này, ngay cả những năm đầu sau khi ông cất bước trên đường tu, thậm chí sau khi ông tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên. Rất nhiều các con có thể nhận thấy một điều tương tự nơi chính mình. Con cảm thấy một lòng trắc ẩn mãnh liệt đối với sự khổ đau của mọi người đến độ con sẵn sàng sử dụng vũ lực để loại bỏ khổ đau.

Các chân sư thăng thiên cũng muốn xóa bỏ đau khổ của loài người, nhưng tại sao chúng tôi đã không dùng quyền năng lớn lao của mình để xóa bỏ nạn nghèo đói trên trái đất? Phải, bởi vì như vừa nói, mục đích chủ yếu của chúng tôi không phải là xóa bỏ nghèo đói, xóa bỏ cách thể hiện vỏ ngoài của nghèo đói, mà chúng tôi muốn giúp con người thăng vượt cái tâm thức đã làm thị hiẹn tình trạng nghèo đói đó. Chúng tôi muốn dùng nghèo đói để khiến cho tâm thức đó hiển lộ ra hầu mọi người có thể nhìn thấy và giải quyết. Đó là mục đích chúng tôi. Đó là cách chúng tôi làm việc. Nhiều người trong số các con đã không hiểu điều này, nhưng khi con hiểu ra thì con cũng sẽ xem xét và chấp nhận là con không cần khiến cho lòng trắc ẩn của mình trở thành một chứng ám ảnh cưỡng chế, khi con luôn bị thôi thúc phải làm cái gì đó để giảm bớt một dạng đau khổ nào đó, và con không thể an bình cho tới khi điều này xảy ra.

Rất nhiều người thiện tâm mà ta đang nói tới, ngay cả một số đệ tử của chân sư thăng thiên, bị rơi vào trạng thái ám ảnh cưỡng chế này khi họ không thể an bình cho tới khi vấn nạn này hay vấn nạn kia vẫn còn hiện hữu. Sứ giả này đã sống qua một thời kỳ ở tổ chức Summit Lighthouse khi ai nấy đọc bài chú trong những buổi canh thức kéo dài hàng giờ nhằm chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản, ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, hay đem lại một số thay đổi nào khác. Không phải là những công việc đó vô ích và vô giá trị. Nhưng sứ giả này đã nhận ra là mình ở trong một trạng thái tâm thức ám ảnh cưỡng chế, và ông thấy nhiều người khác cũng giống như ông. Con không an bình khi con ở trong trạng thái tâm thức đó.

Chắc chắn chúng tôi mong muốn đệ tử của mình kêu gọi thay đổi một số điều kiện trên thế giới, nhưng có bao giờ chúng tôi bảo các con phải làm vậy trong tâm trạng ám ảnh cưỡng chế đâu? Tại sao chúng tôi lại muốn đệ tử của mình hành động với tâm mất cân bằng trong khi chúng tôi luôn cân bằng? Chúng tôi muốn đệ tử có những gì mà chúng tôi có – tâm cân bằng. Con có thể nói là trong trạng thái thăng thiên, chúng tôi nào cần đến tâm cân bằng vì ở đây không thể có sự mất cân bằng. Nhưng con đang sống trong một môi trường khác, nơi tâm mất cân bằng là chuyện khả dĩ, và có rất, rất nhiều thế lực tác động lên tâm con để lôi kéo con vào những phản ứng mất cân bằng.

Các chân sư cố giúp con đạt được trạng thái tự do khỏi tất cả những thế lực đó, những con quỷ của Mara, hầu con cũng có thể ngồi dưới cây bồ đề mà không mảy may bị quỷ Mara ảnh hưởng, hay bị phiền hà bởi ông hoàng của thế gian tới đòi phần ăn của y. Chúng tôi đã trao cho con những dụng cụ để con đạt được điều đó. Con sẽ cần thời gian, nhưng bằng cách ý thức nhận biết điều đó và đặt nó làm mục tiêu ý thức, con sẽ đạt được nhanh chóng hơn rất nhiều.

Nhiều người trong số các con gần hơn là các con tưởng, nhiều người trong số các con gần hơn là các con tưởng.

Như chúng tôi đã nói: “Hãy hỏi thì con sẽ nhận được”. Con hãy hỏi chân sư gần gũi nhất với con, hãy yêu cầu thày giúp con nhìn ra trong thái độ của con có điều gì đang kéo con ra khỏi bình an. Nhưng cũng đừng quên hỏi vị sứ giả này, vì ông đã đạt được một mức độ bình an rất cao và sẵn lòng làm việc với con để con cũng đạt được như vậy. Một lần nữa, con sẽ cần đến gì để con cũng trở thành cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu? Hãy hỏi và sẵn sàng nhận.

Và một nhận xét chót – ta muốn gửi đến tất cả các con lòng biết ơn sâu xa của các chân sư khi con đã sẵn lòng tham gia vào tiến trình buổi hội thảo này. Rất đông các con đã hòa điệu để cùng nhau đọc bài thỉnh, các con đã thực sự hoàn thành một công việc tuyệt vời để nâng cao tâm thức tập thể. Các con đã vượt quá chỉ tiêu ban đầu của chúng tôi, đã vượt quá mục đích đó, và các con hãy nhận lòng biết ơn của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng là chính các con cũng cảm thấy hội nghị này đã nâng tâm thức mình lên cao hơn cả kỳ vọng ban đầu của mình.

Chắc chắn bây giờ sứ giả này có thể thư giãn, như ông thường làm sau những buổi hội thảo như thế này, và ông kinh ngạc nhìn vào số lượng giáo lý mới mà chúng tôi ban truyền. Đôi khi ông cảm thấy rất nhiều lời dạy đã được đưa ra, và ông tự hỏi, không hiểu làm sao chúng tôi lại có thể đưa ra nhiều thêm nữa như vậy, nhưng ông luôn vui mừng khi được trải nghiệm nhiều bài giáo lý mới và chúng tôi thì luôn luôn sẵn lòng đưa ra nhiều hơn. Chúng tôi hy vọng các con đã có cùng trải nghiệm đó, đã vui mừng được chiêm nghiệm dòng chảy của Tánh linh và sự trải bày của những ý tưởng này. Ta hy vọng một số các con có thể đã cảm thấy là mình vừa nhận được một điều gì đó mà mình không yêu cầu. Nhưng con đã chỉ nhận được những gì con không yêu cầu một cách ý thức, chứ trong tiềm thức, chắc chắn là con đã yêu cầu. Và điều đó, một lần nữa, chúng tôi thật biết ơn. Và như vậy, ta niêm các con, ta niêm hội nghị này trong sự an bình vui mừng của Phật.

Mối quan hệ trực tiếp của con với các chân sư thăng thiên

Bài truyền giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 5/9/2021, nhân Webinar 2021 cho Hoa kỳ – Hướng tới các quan hệ Thời Hoàng kim.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

TA LÀ với an bình. TÀ LÀ trong an bình. TA LÀ sự an bình. Ta truyền giảng từ an bình. Làm sao có thể có vũ lực trong Phật? Điều này thật không thể, vì Phật vượt khỏi vũ lực. Phật không phản vũ lực mà vượt lên trên vũ lực.

Phật biết gì về các mối quan hệ? Chẳng phải là khi ta còn hiện thân, ta đã bỏ lại vợ hiền cùng con thơ, bỏ lại mọi người để ra đi sống trong rừng giữa thú hoang lẫn con người hoang dại? Đúng vậy, nhưng Phật đã làm gì trong cuộc đời sau đó? Chẳng phải là ta đã thiết lập một cộng đồng và quy tụ các đệ tử đến học từ Phật?

Cho nên ít ra Phật cũng biết đôi điều về mối quan hệ giữa thày và đệ tử. Và tất nhiên trong tư cách một chân sư thăng thiên, ta cũng biết đôi điều về mối quan hệ giữa chân sư thăng thiên và những sinh thể chưa thăng thiên trên địa cầu. Chúng ta hãy bàn về mối quan hệ này. Bởi vì như các thày đã có nói, các thày không hẳn mong con tìm thấy một vị đạo sư trong cõi vật lý, mà hơn thế các thày mong muốn con có khả năng nhận được sự hướng dẫn ngay trong nội tâm của con từ các chân sư thăng thiên.

Việc khám phá mối quan hệ tốt nhất với các chân sư thăng thiên sẽ đòi hỏi nơi con những gì? À, trước hết, con cần suy ngẫm rào cản lớn nhất cho một mối quan hệ trực tiếp với chân sư thăng thiên là việc sùng bái thần tượng. Thần tượng hóa là khi con đặt một ai đó lên làm thần tượng, ở một địa vị cao hơn con đến độ nhân vật đó vượt khỏi tầm với của con.

Vị sứ giả này sống ở vùng quê và khi ông lái xe ra thành phố, ông thường đi ngang một cơ sở Phật giáo, một trong vài cơ sở hiện diện trên đất Đan mạch này. Sau nhiều năm lái xe ngang qua đó, một hôm ông quyết định tra cứu trên mạng internet xem cơ sở này như thế nào. Ông ngạc nhiên tìm ra là cái nhìn của họ về Phật rất khác với những gì ông thường nghĩ người Phật tử nhìn Phật. Họ có cái nhìn rất sùng bái về ta. Không những họ nghĩ rằng ta thật đặc biệt ngay từ lúc sinh ra đời mà ta còn đặc biệt trước cả khi sinh ra đời. Ta thuộc về một hạng người hoàn toàn cách biệt khỏi mọi người khác trên địa cầu, và đó là tại sao ta đã có thể là vị thày độc nhất vô nhị này, tại sao Phật giáo là tôn giáo độc nhất vô nhị sẽ dẫn con người đến một cõi cao siêu hơn.

Sứ giả này thấy rõ chính cách nhìn thần tượng hóa này đã ngăn chặn các Phật tử đó có được một mối quan hệ cá nhân với đức Phật đích thực, vì họ chỉ có thể tương tác với thần tượng mà họ đã tạo ra trong tâm họ. Làm sao họ có thể thực sự bước theo lời dạy chân chính của Phật, và lời dạy chân chính của Phật là gì chứ? À, chẳng phải là ta đã dạy mọi thứ đều là Phật tánh hay sao? Tất cả mọi thứ đều mang Phật tánh ở bên trong. Mỗi con người đều có Phật tánh trong bản thân mình, và điều này có nghĩa là mỗi người đều có tiềm năng trở thành Phật.

Nhưng làm thế nào con trở thành Phật đây? Bằng cách học hỏi và nhận linh hứng, bằng cách đi theo tấm gương của Phật cho tới khi con trở thành một với Phật. Nhưng làm sao con có thể trở thành một với Phật nếu con nghĩ Phật ở quá cao trên con đến độ Phật thuộc về một phạm trù hoàn toàn riêng biệt?

Con thấy đó, trên hành tinh này có một truyền thống rất, rất lâu đời sùng bái thần tượng kiểu đó. Tất nhiên, nó do sa nhân tạo dựng. Sa nhân là những kẻ muốn tự đặt mình vào một phạm trù mà trong cơ bản khác hẳn mọi người khác trên địa cầu. Theo một nghĩa nào đó, đúng là chúng khác mọi người vì tâm thức của chúng thấp hơn hẳn mọi người trên trái đất, nhưng điểm này không khiến chúng đặc biệt mà chỉ khác biệt mà thôi. Chắc chắn nó không khiến chúng cao trội hơn, mặc dù chúng tin là chúng có trí tuệ và hiểu biết cao siêu hơn, hay ngay cả trong một số trường hợp, một số khả năng vượt trội do chúng đã có nhiều thời gian hơn để rèn luyện các khả năng này.

Con thấy sự thần tượng hóa này – được tìm thấy trong biết bao tôn giáo – thật ra là điều mà sa nhân mơ ước. Chúng mới là kẻ mơ ước được thờ phượng y như nhiều người thờ phượng Thượng đế vậy. Chúng là những kẻ muốn trở thành thần thánh trên trái đất, thậm chí loại thần thánh ở cõi bản sắc được con người tôn thờ như những kẻ tự thân đã siêu đẳng – một hạng người đặc biệt mà không ai có thể với tới. Điều này khiến chúng cảm thấy chúng thật đặc biệt, trong khi một chân sư thăng thiên thì không hề có mong muốn cảm thấy mình đặc biệt, không có nhu cầu cảm thấy đặc biệt, thậm chí còn không nghĩ tới chuyện đặc biệt hay có gì đặc biệt nhiều hay ít.

Là học trò của chân sư thăng thiên, con có thể quán chiếu những ý tưởng này. Con có thể nhìn vào bất cứ tôn giáo nào mà con đã lớn lên trong kiếp sống này. Con có thể nhìn vào những tôn giáo mà con đã tiếp cận trong tiền kiếp và nhận diện hiện tượng sùng bái đó. Con có thể nhìn ra làm thế nào những tôn giáo gọi là độc thần (monotheistic) tuyên bố Thượng đế của họ mới là cao trội, và đồng thời họ gán cho Thượng đế này một số đặc tính kỳ thực chỉ phản ánh cái tâm lý chưa giài quyết của chính họ. Con người phóng chiếu ra là Thượng đế cũng giống như họ vậy, cho nên đó là một thượng đế nóng giận ở trên trời, đó là thượng đế thù hằn có ý muốn đập tan mọi kẻ thù và đày đọa những ai cả gan chống đối vào nỗi thống khổ triền miên nơi địa ngục.

Rõ ràng một số những điều trên phát xuất từ sa nhân vì chúng là kẻ muốn tiêu diệt hay trừng phạt bất cứ ai chống lại chúng. Con thấy được ở đây, con có thể bắt đầu nhận diện ở đây ảnh hưởng của sa nhân trên các tôn giáo trên địa cầu to lớn đến chừng nào, ngay cả trên nhiều khía cạnh của đạo Phật. Khi con làm vậy thì con có thể khởi sự giải tỏa những ảo tưởng đó khỏi tâm mình. Con còn có khả năng nhận ra là trong những kiếp trước, con đã từng tiếp xúc với hình thức tôn giáo này, với hậu quả là con đã gây dựng một số ngã tách biệt.

Có một thời điểm sứ giả này đã nhận biết là mình mang một cái ngã tách biệt – mà vào thời đó ông chưa gọi là ngã tách biệt – nhưng ông mang trong tâm lý của ông một khía cạnh sợ hãi xúc phạm Thượng đế. Ông sợ mình có thể nói ra hay thậm chí nghĩ ngợi một số chuyện sẽ khiến cho Thượng đế phật lòng. Khi đó ông đã là một đệ tử của chân sư thăng thiên trong một đợt truyền pháp trước, nhưng ông đã bỏ ra một thời gian khá dài vật lộn với ảo tưởng này trước khi ông nhận ra thượng đế đó không thể nào là Thượng đế đích thực. Cái đó bắt buộc phải là một thượng đế giả, vì thực sự, làm thế nào Thượng đế đích thực lại có thể bị xúc phạm bởi bất cứ điều gì trên trái đất?

Thế rồi ông chứng nghiệm được Thượng đế đích thực, Đấng Sáng tạo đích thực vượt khỏi mọi hinh tướng như ông từng mô tả trong một số bài viết của ông. Lý do ông mở tâm ra với sự chứng nghiệm này là vì ông đã vật lộn với hình ảnh Thượng đế đó. Ông đã từng vật lộn với hình ảnh một Thượng đế nóng giận xét đoán, một Thượng đế xa vời ở trên trời muốn được thờ phượng và có khả năng bị con người làm tổn thương. Ông ngộ ra là một sinh thể ở cõi tâm linh không thể nào thực sự bị bất cứ hành vi nào của con người trên trái đất làm cho tổn thương. Làm sao chuyện này có thể hữu lý được khi sinh thể đó vượt khỏi mọi điều trên trái đất? Cho nên ông ngộ ra vị thượng đế có thể bị xúc phạm đó cũng chỉ là sự phóng chiếu của một tâm lý chưa giải quyết, mà nói cho cùng là tâm lý của sa nhân và cũng là tâm lý dễ bị xúc chạm của rất nhiều người trên địa cầu.

Nếu con nhìn sự kiện các tôn giáo độc thần đều bắt nguồn ở vùng Trung Đông, con có thể thấy là ngay cả ngày nay, rất nhiều người ở Trung Đông rất dễ bị xúc chạm. Họ vô cùng nhạy cảm và dễ bị nhục mạ khi có ai đó nói điều gì mà họ cho là không được nói ra. Họ nổi giận, trở nên hằn học và mong muốn trừng phạt những ai làm nhục họ như vậy. Đây là những đặc điểm của một nhóm người đặc thù được chính họ phóng chiếu lên hình ảnh của họ về Thượng đế.

Một khi con nhận ra vấn đề này trong các tôn giáo lớn, con có thể bắt đầu xem xét mối quan hệ của con với các chân sư thăng thiên. Con có thể nhận ra thử thách lớn nhất mà các thày phải đối mặt trong tư cách chân sư thăng thiên là các đệ tử của mình không phải là những tờ giấy trắng tinh khi họ đến với giáo lý. Các con đều đến với một loại gốc tích, một loại hành lý nào đó, các con đã tiếp xúc với một hay nhiều tôn giáo khác nhau, cả trong kiếp này lẫn các kiếp trước. Con đến với một số kỳ vọng và định kiến, con đến với một cái nhìn nhất định về một sinh thể tâm linh là như thế nào và phải như thế nào.

Và nếu con sẵn lòng, con có thể nhận ra là các quan điểm mà con đã khoác vào về Thượng đế cùng các sinh thể tâm linh là sự phản ánh của chính tâm lý chưa giải quyết của con. Con có thể nhận ra hạn chế lớn nhất mà các thày phải đối mặt khi cố giúp con phát triển tâm linh, tất nhiên, là sự phóng chiếu đó đến từ tâm lý chưa giải quyết của con.

Khi con mang một tâm lý chưa giải quyết mà con phóng chiếu lên các thày, và khi một khía cạnh của tâm lý chưa giải quyết đó là con cho rằng các thày toàn hảo và do đó cái nhìn của con về các thày cũng toàn hảo, thì làm thế nào con có thể giải thoát mình khỏi điều này đây? Đó là một thế tiến thoái lưỡng nan. Có hai quan điểm đang khóa sừng chống chọi nhau trong bài toán nan giải này, vì làm thế nào con có thể nhận ra rằng quan điểm của mình về chân sư thăng thiên là giới hạn nếu con nghĩ các thày toàn hảo và cái nhìn của con cũng toàn hảo, hoặc nếu con nghĩ các thày sẽ bị xúc phạm nếu con chất vấn cái nhìn của con về chân sư thăng thiên? Nhiều các con mang cảm nhận vi tế là con không thể chất vấn cái nhìn của mình về chân sư thăng thiên vì con nghĩ đó không phải là một cái nhìn, mà con nghĩ các thày là y như vậy, và con nghĩ các thày sẽ bị xúc phạm nếu con chất vấn cái nhìn của con về các thày.

Một lần nữa, con yêu dấu, các thày đã thăng thiên. Các thày không hề bị xúc phạm bởi bất cứ gì trên trái đất. Không có gì con làm, nói, nghĩ hay cảm thấy có thể xúc chạm được các thày. Điều duy nhất các thày có thể làm nếu con ở trong một tâm thái khiến các thày không thể giúp con ngay lúc này là để yên cho con một mình. Nếu đệ tử của các thày cần nhận thêm nhiều cú giáng từ Trường đời Cay đắng, thì đôi khi các thày phải để yên họ một thời gian cho tới khi họ nhận đủ những cú giáng rồi mở tâm ra để các thày lại có thể giúp được họ trực tiếp hơn.

Nhưng điều này không có nghĩa là các thày bị xúc chạm. Các thày không bị xúc chạm khi bị con từ chối hay làm ngơ. Các thày không thể bị bất cứ gì xúc chạm. Con có thể nghĩ các thày có thể bị như vậy, con có thể phóng chiếu ra là các thày có thể bị như vậy, con có thể cảm thấy là mình đã xúc chạm các chân sư và do đó con không xứng đáng được tiếp xúc với chân sư. Cho nên con chui vào cái hang nhỏ nơi con cảm thấy buồn rầu tủi thân, và con phóng chiếu lên các thày rằng các thày mới là kẻ đang trừng phạt con vì con đã hư đốn chất vấn một tâm ảnh do chính con tạo ra về các thày. Nhưng các thày nhìn thấy rất rõ các tâm ảnh của con. Và làm sao các thày có thể bị xúc phạm khi con chất vấn một hình ảnh không liên quan gì đến bản thể thực của các thày – ngay cả trong trường hợp không thể xảy ra là các thày có thể bị xúc phạm?

Một lần nữa con thấy đó, các thày không thể giận hờn. Điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là như đã nói nhiều lần, các thày ở trong một trạng thái tâm thức khác hẳn trong bản chất so với tâm thức của con người chưa thăng thiên. Ta cũng biết đây là một khái niệm thật trừu tượng, ta biết là con không thể nắm bắt được hoàn toàn khi con vẫn con đầu thai, nhưng ít nhất nhiều người trong số các con có thể bắt đầu hé thấy, bắt đầu có một trải nghiệm nào đó về trạng thái tâm thức của các thày, giống như sứ giả này đã trải nghiệm khi ông nhận bài truyền đọc, hay giống như con có thể trải nghiệm khi con lắng nghe bài truyền đọc hay con thiền quán về các thày trong tim con. Và một khi con có trải nghiệm đó, con có thể đạt đến một chứng nghiệm, và ta sẽ cho con chứng nghiệm này từ bên ngoài, nhưng nó sẽ chỉ thực sự có giá trị đối với con khi nào nó cũng đến từ bên trong.

Chứng nghiệm đó là như sau – mối quan hệ của con với chân sư thăng thiên sẽ không giống như mối quan hệ của con với con người. Hạn chế lớn nhất mà các thày phải đối diện khi thiết lập mối quan hệ trực tiếp với con là sự kiện con chụp lấy cách nhìn của con về quan hệ con người rồi chuyển nó sang các thày. Cho nên ví dụ, nhiều các con có thái độ là nếu con là đệ tử của chân sư thăng thiên, nếu con muốn quan hệ trực tiếp với các thày, thì có một số điều con phải làm hay không được làm, một số điều con phải nói hay không được nói, một số điều con phải cảm thấy hay không được cảm thấy, một số chuyện con phải nghĩ hay không được nghĩ.

Các thày đã chứng kiến, đặc biệt trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước, các đệ tử có thể trở nên gần như cuống cuồng, gần như điên loạn khi cố sức đáp ứng tất cả mọi đòi hỏi mà họ phóng chiếu ra là các thày đang phóng chiếu lên họ. Họ cứ tưởng chính các thày đang phóng chiếu tất cả những yêu cầu đó lên họ. Nhưng những yêu cầu này dựa trên những quan hệ giữa con người bị ảnh hưởng nặng nề bởi tâm thức sa ngã, những cái “phải làm” và những cái “không được làm”, ý thức nghĩa vụ và bổn phận, ý thức mình phải trung thành với người khác, vân vân và vân vân.

Nhưng các thày không mang tâm lý của người phàm, các thày không có tâm lý sa ngã. Tại sao con lại cho rằng các thày phản ứng giống như sa nhân hay cư xử giống như con người? Điều này không hữu lý, không lô-gíc chút nào, và khi con bắt đầu suy ngẫm thì con sẽ có khả năng lần lần thoát mình ra khỏi nó, có nghĩa là ít ra con có thể khởi sự đáp ứng được yêu cầu duy nhất để bắt liên lạc với các thày, đó là một tâm cởi mở, một tâm trung hòa.

Trong tâm con phải có khoảng trống để các thày bước vào, và nếu con cứ mang những cái “phải” và những cái “không được”, những quan điểm cố định, cái nhìn sùng bái thần tượng nói trên, thì đâu là khoảng trống đây? Các thày sẽ không cưỡng ép con, các thày sẽ không hiện ra trong một dạng thị hiện không thể nào chối cãi, ngoại trừ trong một số trường hợp thật hiếm hoi khi việc này nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, là một điều mà con đã quyết định trước khi đầu thai trong kiếp này.

Các thày sẽ không bao giờ vi phạm quyền tự quyết của con người, cho nên các thày sẽ chỉ bắt liên lạc với một sinh thể chưa thăng thiên khi trong tâm con có khoảng trống để các thày bước vào, và điều này không có nghĩa là con phải có một ý định ý thức muốn liên lạc với các thày. Các thày đã chứng kiến nhiều đệ từ tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên rồi họ quyết định: “À, tôi muốn một trải nghiệm trực tiếp, một sự tiếp xúc trực tiếp với các chân sư, tôi muốn nhận được một thông điệp cá nhân từ chân sư,” thế rồi họ nghĩ họ phải làm chuyện này chuyện nọ, phải đọc bài chú, phải cầu nguyện, phải thỉnh gọi các thày. Họ trở nên gần như cuống cuồng, gần như điên loạn làm những chuyện mà họ nghĩ họ cần phải làm để có liên lạc trực tiếp đó.

Nhưng họ đang làm gì chứ? À, họ đang chất đầy tâm họ với tất cả những hoạt động đó, tất cả những ý nghĩ đó, tất cả những lời cầu đó, tất cả những hình dung đó khi họ tưởng tượng việc liên hệ trực tiếp với các thày sẽ tuyệt vời đến chừng nào, khi các thày ban cho họ những khả năng đặc biệt như thế nào, và giờ đây họ trở thành đặc biệt đến làm sao, họ sẽ thực hiện bao điều kỳ diệu mà ai nấy đều ngưỡng mộ, hay bất kỳ mơ tưởng nào mà con người có thể nghĩ đến. Và như vậy, càng ngày họ càng lấp đầy tâm họ với nhiều tiếng ồn ào hơn. Đâu là sự tĩnh lặng, đâu là khoảng trống để các thày bước vào? Cho nên các thày phải lui lại, chờ cho tới khi có lẽ họ sẽ mệt mỏi, sẽ chán ngán tất cả những hoạt động cuồng nhiệt đó, cho tới khi một khoảnh khắc tĩnh lặng hiện ra và đột nhiên mối liên lạc với chân sư thăng thiên xảy đến.

Bây giờ, một thử thách lớn khác mà các thày phải đối diện trong quan hệ với một đệ tử chưa thăng thiên là, tất nhiên, nhiều người chờ đợi việc tiếp xúc với chân sư thăng thiên phải là một trải nghiệm tột đỉnh tuyệt vời, ấn tượng, siêu phàm. Và đúng thế, một số đã có trải nghiệm như vậy, nhưng rất, rất hiếm hoi trải nghiệm đó đến từ chân sư thăng thiên. Họ đã có một cảm giác kịch tính dữ dội như vậy là do, như các thày đã giảng, sự tương phản to lớn giữa trải nghiệm đó và trạng thái tâm thức bình thường của họ. Nhưng thực tế là các thày không hề tìm cách cho con những trải nghiệm ngoạn mục tuyệt vời.

Các thày cố gắng cho con một khung tham chiếu để con thẩm định trạng thái tâm thức hiện thời của con. Các thày cố gắng cho con một sự hướng dẫn có thể giúp con bước lên bước kế tiếp. Cho nên nếu con đang ở tầng tâm thức thứ 60, các thày sẽ cố cho con một xung lực giúp con vươn lên tầng 61. Các thày không tìm cách cho con một loại trải nghiệm tột đỉnh ngoạn mục nào đó mà con có thể có ở những tầng tâm thức cao hơn vì con chưa sẵn sàng nhận lấy, và hầu hết mọi người nếu họ kinh qua trải nghiệm này sẽ cảm thấy choáng ngợp. Sứ giả này đã có được trải nghiệm Thượng đế vô hình tướng vì ông đã sẵn sàng, nhưng ông vẫn tốn nhiều năm trời để suy nghiệm và thể nhập trải nghiệm đó.

Cho nên nói chung, con thường không có trải nghiệm ấn tượng, siêu phàm đó khi tiếp xúc trực tiếp với các thày. Thật ra nhiều người đã nhận được một sự hỗ trợ trực tiếp từ các thày mà không hay biết nó đến từ đâu vì nó có vẻ quá bình thường, nó quá tầm thường đối với họ. Vì vậy con có thể bắt đầu nhìn xem kỳ vọng của con là gì trong việc quan hệ với chân sư. Con có thể bắt đầu xem xét liệu con có mang những kỳ vọng thiếu thực tế đó, những mong muốn trải nghiệm đặc biệt khiến mình cảm thấy mình là đặc biệt, và cũng khiến người khác cảm thấy con là người đặc biệt vì họ đã không có được trải nghiệm đó. Xuyên qua các đợt truyền pháp khác nhau, nhiều đệ tử đã ấp ủ giấc mơ này – là ảo giác mình vĩ đại cao quý khi mơ ước đạt được những khả năng đặc biệt sẽ khiến người ta nể phục, ngưỡng mộ mình. Và không cứ tất cả các đệ tử đó đều là sa nhân mặc dù một số là sa nhân.

Ta đoán con cũng biết là khi một sa nhân đang hiện thân tìm được một giáo lý của chân sư thăng thiên, sa nhân đó chỉ nhìn vào giáo lý cùng các chân sư với ý định: “Làm thế nào cái này có thể giúp tôi ra vẻ là người đặc biệt? Làm thế nào nó khiến tôi cảm thấy đặc biệt? Tôi có thể dùng giáo lý này như thế nào để cất mình lên cao hơn?” Tất nhiên, đó không phải là động lực mà hầu hết các con đều có, nhưng chắc hẳn con có mang một số ngã từ tiền kiếp khi con hứng chịu sự hiếp đáp của sa nhân khiến con tạo ra một số ngã muốn đền bù bằng cách nâng mình lên cao, bằng cách tỏ ra đặc biệt hơn người, hay bằng cách đạt một khả năng nào đó hầu chứng minh sa nhân sai trái. Có thể có những cái ngã đủ loại giống như vậy, và khi con tìm ra giáo lý của chân sư thăng thiên thì những ngã này sẽ muốn dùng giáo lý để thực hiện kỳ vọng của chúng – nhưng tất nhiên đây là một kỳ vọng rỗng tuếch. Cácc thày sẽ không bao giờ cho con cái đó, vì nếu các thày cho con thì chuyện gì xảy ra chứ? Ngã sẽ càng được củng cố, và con sẽ càng đồng hóa nhiều hơn với ngã, khiến con càng khó lòng tách ra khỏi nó và cho nó chết đi.

Cho nên con nhận ra ở đây là các thày, các chân sư thăng thiên, không cảm thấy mình đặc biệt. Tại sao vậy? Con có thể bảo: “Nhưng chẳng phải các chân sư đặc biệt lắm hay sao? Chẳng phải các chân sư ở trong một trạng thái tâm thức cao hơn con người chưa thăng thiên hay sao?” Và đúng thế, các thày có như vậy thật, nhưng vì sao các thày lại ở trong trạng thái tâm thức cao hơn đó chứ? Bởi vì các thày đã thăng vượt nhị nguyên. Cảm nhận mình đặc biệt có thể có mặt ở đâu chứ? Chỉ có thể trong cõi nhị nguyên, vì khi có ai đặc biệt thì điều này ngụ ý một sự so sánh giữa những người đặc biệt và những người không đặc biệt, và đó chính là cốt lõi của nhị nguyên – cái thang điểm đó, sự tương phản đó, sự xét đoán giá trị đó.

Các thày đã thăng vượt cái đó rồi. Thậm chí các thày còn không nghĩ tới chuyện đặc biệt. Các thày không nhìn thấy con là người kém cỏi, thiếu sót hay tội lỗi. Các thày không tìm cách trừng phạt con dù bằng cách nào đi nữa, các thày không tìm cách khiến con cảm thấy xấu hổ. Các thày không tìm cách khiến con phải nhận tội hay khai tội. Các thày chỉ cố giúp con thăng vượt tất cả cái tâm thức phàm phu đó. Cho nên các thày chỉ có một mục đích, một mong muốn thôi là giúp con thăng vượt mức tâm thức hiện thời của con và cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con thăng thiên. Không hề có một mong muốn nào khác.

Ta cũng biết là trong các đợt truyền pháp trước đã có trọng tâm đặt vào việc phụng sự thày Saint Germain và đem lại thời hoàng kim, và ở đây con cũng có thể nói là các thày có đặt một chút trọng tâm vào công việc này. Tất nhiên là các thày mong muốn con phụng sự, nhưng chỉ khi nào đó là một việc con đã quyết định trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Các thày không tìm cách ép buộc con làm vậy. Các thày không tìm cách khiến con cảm thấy là mình bắt buộc phải làm, mình có bổn phận đối với chân sư. Các thày không tìm cách khiến con cảm thấy là con phải làm chuyện này và không được làm bất cứ gì khác, nhất là bất cứ gì thú vị.

Con thấy là trong tôn giáo, trong các giáo lý tâm linh, có một truyền thống rất lâu đời cho rằng thế giới tự thân nó xấu xa, rằng các sinh hoạt thế tục là tội lỗi, rằng chúng khiến con xao lãng mà xa rời việc tăng triển tâm linh, vân vân và vân vân. Và điều này đã tạo ra cái tư duy mà nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên bị lạc vào, kể cả sứ giả này trong những năm đầu. Con nghĩ, bây giờ con đã tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên thì con phải tập trung tất cả chú ý của mình vào chuyện này, con phải chú tâm vào việc phụng sự, dù là qua các bài chú hay một cách nào khác, và con không được làm bất cứ gì khác, bất cứ gì đem lại thú vị cho con. Con phải làm tối thiểu để kiếm kế sinh nhai hay làm tròn bổn phận đối với gia đình, nhưng con không được làm bất cứ gì để tìm niềm vui thú.

Đấy như các thày đã nói, con đã thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng từ một mức tâm thức cao hơn mức hiện tại của con. Nếu con đã quyết định là có một số trải nghiệm con muốn kinh qua vì các thày sẽ giúp con sạch hết lỗi lầm để sẵn sàng bước tới, thì không những đó là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng mà đó còn là một hoạt động vô cùng tâm linh cho con. Chúng sẽ chỉ thúc đẩy chứ không cản trở sự tăng triển tâm linh của con. Cho nên con không thể mang thái độ trắng đen đó mà cho rằng mọi sinh hoạt thế gian đều là phản tâm linh và con phải kềm chế chúng lại. Đặc biệt con không nên có thái độ đó.

Ta nhận thấy là ta đang sử dụng các từ “phải” với “không được”, nhưng dù sao đi nữa, thật sẽ không xây dựng cho con nếu con mang thái độ là các thày đang áp đặt con phải làm gì hay không được làm gì, rằng các thày đang bắt con không được cho phép mình hưởng thụ mà chỉ được sống tối thiểu cuộc đời thế gian, và con không được thực sự hưởng thụ vì như vậy sẽ chứng tỏ con không phải là người tâm linh. Con yêu dấu, con không cần chứng tỏ cho các thày rằng con là người tâm linh, và con không cần chứng tỏ điều đó qua hoạt động vỏ ngoài. Các thày đã chứng kiến những người tìm ra giáo lý chân sư, gia nhập một tổ chức rồi bỏ ra không biết bao nhiêu giờ đọc chú, tham dự hội nghị, tham dự các buổi lễ và tất cả những thứ đó. Họ tuân thủ tất cả những thứ vỏ ngoài đó nhưng họ không vui thú. Không có niềm vui nào trong việc làm đó mà họ chỉ làm do bổn phận.

Đâu là cái tư duy đằng sau cách hành xử như vậy? Đó là điều các thày đã từng đề cập, là sự kiện nhiều người mộ đạo tìm cách mặc cả với Thượng đế. “Chúa ơi, con đang thờ phượng ngài như một tín đồ ngoan đạo. Con đang xưng tội với ngài đây. Con không đang làm gì thú vị cả. Con đang sám hối. Con đang làm đúng tất cả mọi điều quy định, và Chúa ơi, khi nào con làm vậy đủ lâu, khi nào con đã khiến mình bị đau đớn đủ nhiều, thì đương nhiên ngài sẽ phải cho con lên thiên đàng.” Nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã tìm cách mặc cả với các thày: “Khi nào con đọc xong tất cả các bài chú này để cứu nguy thế giới, khi nào con tự chế không làm tất cả những chuyện kia, thì thày phải cho con thăng thiên,” hoặc “thày phải biến con thành một người đặc biệt,” hoặc “thày phải cho con một chứng ngộ gì đó.”

Con yêu dấu, con không thể mặc cả với chân sư thăng thiên. Tại sao con không thể? Trước hết vì như các thày có nói, con không thể dùng vũ lực để xông lên thiên đàng. Nhưng thêm vào đó, vì các thày không muốn thấy con tìm cách dùng vũ lực xông lên thiên đàng, vì các thày biết rõ cách duy nhất để thăng thiên là buông bỏ. Một lý do nữa là muốn mặc cả, phải có điều gì đó mà cả hai bên đều mong muốn. Nhưng trên địa cầu liệu có điều gì mà một chân sư thăng thiên có thể mong muốn hay chăng?

Biết bao nhiêu các con đã bị cái nhìn tôn giáo truyền thống kia ảnh hưởng và cho rằng Thượng đế, đấng Thượng đế tối cao của vũ trụ, cần được thờ phượng bởi những con người trên hành tinh nhỏ bé này, và do đó họ phải đến nhà thờ mỗi chủ nhật, phải quỳ gối và lẩm nhẩm những lời cầu nguyện đã được định sẵn, như thể Thượng đế cần chuyện đó, như thể ngài cần sự chú ý hay năng lượng của con người. À, ai mới là kẻ cần đến chú ý và năng lượng của con người? Sa nhân, tà lực, là những kẻ không có khả năng tự mình nhận được năng lượng từ một nguồn cao hơn.

Các thày đã thăng thiên là vì các thày nhận năng lượng trực tiếp trong bản thể mình từ một nguồn cội cao hơn. Các thày tự đủ. Các thày không cần bất kỳ năng lượng nào từ ngoài mình. Các thày không cần sự chú ý từ ngoài mình. Các thày có cần gì nữa hay muốn gì nữa chăng? Không gì nữa, tuyệt nhiên không có gì nữa. Một khi đã thăng thiên thì không cần gì nữa từ địa cầu. Các thày không cần con chú ý. Các thày không cần ai thờ phượng, cho nên làm sao con có thể mặc cả với các thày đây? Làm sao con có thể cống hiến điều gì để các thày nói: “Ừ há, người này đã cho ta điều ta muốn, cho nên ta sẽ cho người đó thăng thiên?” Làm sao các thày có thể cho con thăng thiên? Làm sao các thày có thể cho phép con thăng thiên? Đây hoàn toàn là sự chọn lựa tự quyết của con dựa trên sự buông bỏ mọi dính mắc với địa cầu.

Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là không có một khối lượng bài chú nào mà con có thể đọc để hội đủ tư cách thăng thiên. Điều này không có nghĩa là con không cần đọc chú để biến hóa năng lượng, nhưng tự thân bài chú không thể đưa con lên cõi thăng thiên, vì trong tâm con cần có một sự giải quyết, là buông bỏ mọi dính mắc, buông bỏ mọi ham muốn và đạt tới điểm con có thể ngoái nhìn lại trái đất mà không còn gì níu kéo con trở xuống đó. Con có thể ngồi dưới cây Bồ đề, con có thể nhìn tất cả ma quỷ của Mara, tất cả mọi thế lực của thế gian này diễn hành trước mắt, và cho dù chúng có làm gì, nói gì, bày ra những gì, cho dù chúng có làm gì với nhau, có làm gì tới con người, thì không có gì ở đây, không có gì trong đó mà con phản ứng lại.

Điều này không thể thực hiện được bằng vũ lực, không thể đạt được bằng bài chú, và không thể làm được bằng học tập. Con chỉ có thể đạt được qua một sự nhận biết nhạy bén giúp con nhìn ra các ảo tưởng và từ bỏ chúng. Đó là sự buông bỏ, buông bỏ, buông bỏ sau khi buông bỏ sau khi buông bỏ. Có lúc nào sự buông bỏ sẽ ngừng lại chăng? Có, sau khi con thăng thiên, nhưng ngay cả khi đó, con vẫn buông bỏ cái ý niệm bản sắc giới hạn như một chân sư thăng thiên để đạt đến một bản sắc cao hơn nữa như một chân sư thăng thiên. Các thày đã có nói là con thăng thiên trong tư cách Ki-tô, nhưng sau khi thăng thiên một thời gian, con có thể đạt đến mức quả vị Phật. Nhưng con chỉ làm được vậy bằng cách buông bỏ ý niệm bản sắc giới hạn để vươn lên một ý niệm bản sắc cao hơn.

Mối quan hệ các thày mong muốn là như thế nào? À, các thày mong muốn một mối quan hệ mà trước hết, con cởi mở để nhận được một điều gì đó từ các thày. Con mở tâm ra để nhận những gì các thày thấy sẽ giúp con vươn lên từ tầng tâm thức hiện thời của con lên tầng kế tiếp. Điều này có nghĩa là nếu con muốn như vậy từ các thày, con cần nhìn vào các kỳ vọng của con. Làm đệ tử của chân sư thăng thiên có nghĩa là gì, và quan hệ với các thày có nghĩa là gì? Con có thể nhận được gì từ các thày? Con muốn điều gì từ các thày? Con chờ đợi những gì? Liệu con chờ đợi như ta đã nói, một loại trải nghiệm siêu phàm nào đó khi con gặp chân sư? Liệu con chờ đợi các thày sẽ hiện ra trước mắt con và trao cho con những chỉ dẫn cụ thể sẽ khiến con cảm thấy mình thật đặc biệt, đặc biệt hơn người khác?

Nếu con có những kỳ vọng như thế thì chúng sẽ chặn nghẽn khả năng của các thày để giao tiếp với con một cách trực tiếp hơn, vì kỳ thực con sẽ làm ngơ hay bác bỏ những điều các thày nói. Con sẽ nghĩ: “Ồ, cái này không thể đến từ chân sư thăng thiên. Nó không đúng với kỳ vọng của tôi về những gì một chân sư thăng thiên phải nói với tôi, cách chân sư phải phát biểu như thế nào và phải hiện ra như thế nào.”

Một lần nữa, ở những mức sơ khởi trên đường tu, nhiều khi các thày sẽ không cho con một sự giao tiếp trực tiếp vì con không cởi mở với nó, cho nên các thày sẽ cố giao tiếp với con qua những người khác. Đó là vì sao nếu vị sứ giả là một con kiến thì con hãy lắng nghe nó, vì con chưa sẵn sàng nghe thấy các thày trực tiếp.

Nhưng vấn đề tệ nhất cho các thày, trở ngại khó khăn nhất cho các thày là loại đệ tử có thành kiến rất cố định về mối quan hệ của họ với các thày phải như thế nào. Trong một số môn phái Phật giáo, đặc biệt là Thiền tông, người ta có khái niệm “nắm chặt, giữ chặt lấy quan điểm của mình.” Đó là vì các vị thày Phật giáo đó nhận thấy nhiều người đến tu tập với quan điểm và niềm tin có sẵn, và họ cứ nắm chặt lấy như thể đó là chuyện sinh tử. Các vị thày đó đã nhận ra là loại học trò này không cởi mở.

Các thày đã nói điều này nhiều lần và ta sẽ nói lại một lần nữa, nếu con thực sự muốn có quan hệ với các thày, con hãy xem xét bản thân mình. Hãy xem xét quan điểm của mình. Liệu con có một số quan điểm thật kiên cố? Những quan điểm mà con bám lấy rất chặt? Mà con cảm thấy nhu cầu phải bênh vực? Mà con cảm thấy phải bác bỏ bất cứ ai chất vấn hay không chia sẻ quan điểm của mình? Liệu con có một ý tưởng rất, rất kiên cố về những gì một chân sư thăng thiên phải nói hay không được nói? Trong trường hợp đó, nếu con sẵn lòng thành thật với chính mình, con sẽ biết là con không cởi mở với một sự tương tác trực tiếp với các chân sư thăng thiên.

Suốt nhiều năm trời với những đợt truyền pháp khác nhau của chân sư thăng thiên, các thày đã chứng kiến một khuôn nếp nhất định cứ diễn đi diễn lại hoài hoài. Chẳng hạn các thày thấy một nhóm học trò – có thể là một nhóm học trò từ một quốc gia nào đó – và dựa trên văn hóa cùng lịch sử của quốc gia này, họ mang sẵn một quan điểm mà họ vô cùng gắn bó. Nó vô cùng quan trọng trong nền văn hóa của họ. Họ giữ chặt ý tưởng là nó phải đúng, do đó vì chân sư là bậc cao siêu chắc chắn phải biết rõ sự thật, cho nên chân sư không bao giờ được nói gì sẽ chất vấn điều họ tin là cái nhìn tối hậu về một sự việc nào đó.

Khi các thày nói ra một điều gì chất vấn niềm tin đó thì các thày từng thấy nguyên nhóm học trò xác quyết: “Ồ, sứ giả này không phải là sứ giả đích thực, bởi vì một chân sư thăng thiên đích thực không thể nào nói ra lời này.” Thế là họ rút ra khỏi giáo lý. Các thày từng thấy những cá nhân cũng hành xử tương tự bởi nhiều lý do khác nhau. Thường là vì trong tâm lý của họ, họ chạm trán với một điều gì mà họ không sẵn sàng xem xét hay từ bỏ, mà các thày thì lại nói ra những lời chất vấn cái đó, cho nên họ phải gạt bỏ lời nói của các thày. Có một số học trò đến với giáo lý của chân sư thăng thiên với một số ngã tách biệt mà họ không sẵn sàng xem xét, không sẵn sàng buông bỏ. Họ đã tạo ra một ngã tách biệt khác bảo rằng: “Tôi không phải từ bỏ điều này.” Họ không phải xem xét nó vì họ nghĩ người ta có thể thăng thiên mà không cần xem xét khía cạnh này của tâm lý mình. Họ tin rằng họ có thể làm những chuyện khác, chẳng hạn như nếu họ thỉnh đủ số lượng lửa tím thì họ sẽ không cần nhìn vào điều này trong tâm lý họ mà vẫn có thể thăng thiên.

Rất nhiều lần các thày đã nói gì? Con không thể thăng thiên với một tâm lý chưa giải quyết. Một chân sư thăng thiên không có tâm lý chưa giải quyết. Con thấy có những người bị phật lòng vì điều này. Đó là những người trong một đợt truyền pháp trước – khi có lời dạy được đưa ra là con có thể thăng thiên sau khi cân bằng 51% nghiệp chướng của mình – đã hiểu lời đó theo nghĩa đen, nghĩa là nếu có ai cân bằng được 51% nghiệp của mình thì người đó có thể thăng thiên, và một khi họ thăng thiên thì họ trở thành một chân sư thăng thiên. Nhưng nếu con biết một số người đã băng qua tấm màn cuộc đời sau khi được sứ giả đợt truyền pháp đó cho biết là họ đã cân bằng 51% nghiệp chướng, thì con sẽ dễ dàng thấy được là họ vẫn còn một số tâm lý chưa giải quyết. Điều mà họ không sẵn lòng xem xét là liệu họ có thể thực sự trở thành chân sư thăng thiên khi họ vẫn còn tâm lý chưa giải quyết? Hiển nhiên là không.

Có thể có ai đó đã cân bằng hơn 51% nghiệp của mình và không phải trở lại đầu thai, nhưng người đó vẫn phải bỏ ra một thời gian trước khi trở thành chân sư thăng thiên, vì trước tiên họ phải giải quyết xong tâm lý cái đã. Như Mẹ Mary có giảng, phần 51% nghiệp chướng là nghiệp con mang với người khác và phần 49% là nghiệp con mang với chính con dưới dạng tâm lý chưa giải quyết, nhưng phần này thì con có thể cân bằng mà không đầu thai. Đối với hầu hết mọi người, nếu họ ở trong hiện thân thì họ sẽ cân bằng nhanh hơn là khi đứng ngoài hiện thân. Nhưng đối với một số người, họ đã chọn làm vậy và do đó họ sẽ tốn một số thời gian.

Có người bám quá chặt vào những điều được nói trong các đợt truyền pháp trước đến độ họ đã chối bỏ khi các thày chất vấn điều đó trong đợt truyền pháp này. Họ chối bỏ sứ giả này. Họ chối bỏ các thày vì các thày không nói những điều mà họ nghĩ các thày phải nói.

Nhiều người khác trong các đợt truyền pháp khác nhau có cùng những dính mắc đó vào một số quan điểm, một số góc nhìn đến độ họ đến với giáo lý cốt yếu là để xác chứng các niềm tin kiên cố của họ. Và khi không nhận được xác chứng thì họ tìm ra một lý cớ nào đó để chối bỏ giáo lý.

Nhiều người bị rơi vào một khuôn nếp đặc trưng là họ tìm thấy một lời dạy, họ chấp nhận sứ giả là vị sứ giả của đợt truyền pháp đó, và họ tin đó là vị sứ giả đích thực nhận được lời truyền đọc từ chân sư thăng thiên. Nhưng rồi xuyên qua sứ giả, các thày chất vấn một trong những quan điểm mà họ không sẵn sàng từ bỏ hay tra vấn.

Thế là họ lý luận: “Ồ hỏng rồi, chuyện gì đã xảy ra cho sứ giả rồi. Khi chúng ta bước vào tổ chức này, chúng ta đã không sai lầm nhận định sứ giả này là vị sứ giả chân chính. Nhưng giờ đây có chuyện gì đã xảy đến và sứ giả này không còn là sứ giả chân chính nữa. Ông ấy hay bà ấy đã bị tước mất trách vụ và hiện đang liên lạc với hàng ngũ thày giả hay những kẻ mạo danh. Cho nên chúng ta phải rời tổ chức và bác bỏ bất cứ lời dạy nào từ một thời điểm nào đó trở đi.” Các thày đã chứng kiến sự kiện này mấy lần trong mấy đợt truyền pháp, mỗi lần đại khái với cùng những lập luận như thế. Và tại sao chứ? Bởi vì đó là cùng cái tâm lý chưa giải quyết nơi đệ tử khiến họ phải bác bỏ sứ giả hầu họ không phải nhìn vào cái đà trong mắt họ.

Đây là một điểm con có thể cảnh giác nơi chính mình, con có thể nhìn xem: “Liệu tôi có một niềm tin nào mà tôi bám chặt đến độ tôi không muốn các chân sư thăng thiên thách đố?” Và nếu con có mang loại niềm tin đó thì con có thể nói: “À, không thể nào chính tôi trong tư cách cái Ta Biết đang bám chặt lấy quan điểm đó, bởi vì cái Ta Biết không thể bám vào bất cứ quan điểm nào trên địa cầu, cho nên đây chỉ có thể là một cái ngã tách biệt. Và nếu tôi muốn tinh tiến, tôi sẽ phải xem xét ngã tách biệt này và đạt tới điểm có thể buông nó ra, buông cho nó chết đi, buông quan điểm đó và ngộ ra là phải có một cách hiểu biết cao hơn. Và tôi muốn hiểu biết cao hơn này thay vì cứ bám giữ cái hiểu biết giới hạn kia.”

Nói cho cùng, điều gì sẽ giúp con hội đủ tư cách để thăng thiên? Phải chăng là bám giữ ý tưởng của mình, ôm chặt lấy ý tưởng, hay là buông nó ra? Chỉ bằng cách buông bỏ thì con mới có thể trở về trạng thái mà cái Ta Biết đã đi xuống thế gian và do đó cũng sẽ thăng lên. Như Giê-su đã diễn tả thật hùng hồn cách đây 2000 năm: “Chỉ duy nhất con người đã đi xuống từ thiên đàng mới có thể thăng trở lại lên thiên đàng.”

Con muốn gì từ một mối quan hệ, từ mối quan hệ của con, mối quan hệ cá nhân của con với các chân sư thăng thiên? Con muốn gì? Không phải cái mà sa nhân muốn hay cái mà sa nhân muốn con muốn. Không phải cái mà người đời muốn hay cái mà họ muốn con muốn. Không phải cái mà tự ngã hay ngã tách biệt của con muốn hay cái mà nó muốn con muốn. Không, con muốn gì chứ? Ở mức tâm thức hiện thời của con, với mức nhận biết hiện thời của con, mức nối kết hay không nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, trải nghiệm hiện thời hay thiếu trải nghiệm của con về sự nhận biết thuần khiết, con muốn gì chứ? Con có muốn bước lên bực thang kế tiếp trên cái thang 144 bực? Nếu con muốn vậy thì cái cơ chế, cơ học của chuyện này thật giản dị. Ngay bây giờ con đang mang một ảo tưởng mà con không thể nhìn thấy. Chỉ bằng cách nhìn ra ảo tưởng đó và đón nhận một tầm nhìn cao hơn – cao hơn một chút thôi – thì con mới có thể vươn lên bước kế tiếp. Con không thể nhảy từ nơi con đang đứng lên thẳng tầng 144. Con phải đi qua tất cả mọi bước, từng bước một.

Con muốn gì chứ? Nếu con muốn sự tăng triển này thì con không thể nắm chặt vào các ý tưởng của mình. Con không thể nắm chặt vào ảo tưởng đã ngăn con vươn lên bước kế tiếp mà đồng thời lại vươn lên được bước kế tiếp. Con không thể ăn hết bánh mà lại vẫn còn bánh. Con không thể có được đức Phật của con mà lại thần tượng hóa đức Phật. Con không thể có được các chân sư thăng thiên của con mà lại phóng chiếu những đặc tính nhân phàm hay sa ngã lên chân sư thăng thiên. Đơn giản là có những thứ không thể đi đôi với nhau.

Các thày thấy có một số đệ tử không tin như vậy. Họ không chấp nhận điều đó, vì họ cả tin vào lời dối gạt của sa nhân rằng họ có thể tìm cách gian lận để lên thiên đàng. Một số sa nhân vẫn tin là chúng có thể tìm ra cách thay đổi quan điểm của Thượng đế vì chúng xem đó là quan điểm của Thượng đế, là sự phán xét của Thượng đế đối với chúng. Chúng nghĩ là ngài đã phán xét chúng, ngài đã cưỡng ép chúng phải sa ngã, và chúng phóng chiếu ra là một sinh thể bên ngoài đã gây chuyện đó cho chúng. Và do đó để quay trở về trạng thái cũ, chúng phải thay đổi sinh thể bên ngoài đó, phải thay đổi quan điểm cùng sự phán xét của sinh thể đó đối với chúng. Và chúng vẫn nghĩ là chúng có thể tìm ra cách làm chuyện này vì chúng vẫn chưa nhìn nhận là chính những chọn lựa của chúng mới khiến chúng sa ngã, và sự thay đổi duy nhất mà chúng cần làm là thay đổi các chọn lựa đó đi, thay đổi cái tâm lý đó đi.

Cho nên chính chúng mới cần thay đổi. Đây là một sự thay đổi nội tâm cần phải xảy ra, và không một nỗ lực gian lận hay khuynh đảo nào sẽ đem chúng lên thiên đàng. Và đối với các con cũng vậy, các đệ tử của chân sư thăng thiên. Con không thể khuynh loát các thày, con không thể đánh lừa các thày, con không thể mặc cả với các thày. Con không thể khiến các thày thương hại con. Tại sao như thế? Vì các thày không muốn con lên thiên đàng trong tư cách một con người – nếu giả dụ điều này có thể xảy ra.

Các thày muốn con trở thành chân sư thăng thiên như các thày đang là, và con chiêm nghiệm sự tự do cùng niềm vui không sao tưởng tượng nổi mà các thày đang cảm thấy, vì nó vượt khỏi mọi cảm giác mà con có được trên địa cầu. Các thày không thể nào truyền đạt được cảm giác này cho con, chắc chắn là không thể qua ngôn từ. Nhưng các thày hy vọng có thể trao cho con một hé thoáng là trên cõi thăng thiên có một điều gì đó mà con mong muốn hơn bất cứ gì trong tâm thức nhân phàm. Và làm thế nào con đạt được chứ? Bằng cách từ bỏ tâm thức nhân phàm. Yêu cầu chỉ có vậy thôi. Các dính mắc đều đến từ tâm thức nhân phàm. Chúng phải được buông bỏ. Con thử nhìn xem con có đang bám giữ cái gì không. Đâu là cách duy nhất để giải thoát khỏi cái đó? Nếu con cứ nắm chặt một cái gì trên địa cầu thì con cũng buộc chặt con vào địa cầu. Đâu là cách duy nhất để được tự do? Có phải đó là thay đổi một cái gì trên địa cầu hay là đơn giản buông tay ra và để cho nó rơi xuống?

Chính sự buông tay này sẽ giải thoát con khỏi dính mắc. Chừng nào con còn nắm chặt ý tưởng của mình, làm sao con có thể thoát khỏi chúng đây? Điều này không thể. Cho dù con có tìm cách thao túng thế giới, thao túng người khác, Thượng đế hay các chân sư thăng thiên đến chừng nào, thì con cũng không thể thoát ra được. Chỉ có một cách mà thôi, và để giúp con tìm đường trở về, các thày cống hiến cho con một mối quan hệ trực tiếp với các thày. Nhưng các thày không thể cưỡng ép con, các thày sẽ không cưỡng ép con. Con mới là người phải đáp ứng các yêu cầu bằng cách tiếp nhận lời dạy của các thày, đem ra áp dụng và buông những gì ngăn cách con với các thày.

Con không thể có một mối quan hệ trực tiếp với các thày xuyên qua tự ngã của con hay các ngã tách biệt, mà chỉ bằng cách vượt khỏi ngã tách biệt và ngộ ra sự nhận biết thuần khiết của con. Nhận biết thuần khiết là một tâm thái trung hòa. Nó không mang đặc tính những quan điểm kiên cố, quan điểm đối cực hay cảm xúc mãnh liệt. Ta là Phật. Ta trụ trong một tâm thái trung hòa so với tâm thái nhị nguyên. Đề mô tả nó đầy đủ, ta có thể dùng những từ khác, nhưng những từ này sẽ ích gì cho con? Ta sẽ mô tả là nó khác biệt với tâm thái của con để con có thể nhìn ra đây thực là cái con muốn. Trong số các con có ai là avatar thì đang mong mỏi trở về với tâm thái tự nhiên hơn mà con từng có trên một hành tinh tự nhiên. Và con có khả năng có được tâm thái này, con có thể có nó ngay trên hành tinh này nhưng chỉ khi nào con buông bỏ những gì đang ngăn cách con khỏi nó.

Với lời này, ta đã trao cho con những gì ta muốn trao trong bài truyền giảng này. Ta có thể nói nhiều hơn nữa, và rất nhiều điều hơn nữa sẽ được ban truyền. Sứ giả này đã nỗ lực tu tập trong một thời gian dài để sẵn sàng nhận được một lời dạy trực tiếp hơn từ ta, nó có thể sẽ được ban truyền trong một tương lai không quá xa. Ta có rất nhiều điều để trao cho con cùng những ai trên địa cầu cởi mở với một lời dạy trực tiếp từ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

Giờ đây ta cũng gửi lời cảm tạ của ta cũng như tất cả các thày đến tất cả các con đã tham dự buổi hội nghị này. Một lần nữa, các thày đã đạt được những gì các thày mong muốn đạt được, các thày đã vượt quá mức tối thiểu mà các thày mong muốn đạt được, qua số người cùng sự sẵn lòng của các con mở tâm ra, buông bỏ định kiến để nhận được lời dạy.

Các thày rất biết ơn điều đó. Một lần nữa, nó đã xoay chuyển tâm thức tập thể, nó đã giải thoát nhiều người là những con người sáng tạo hơn, cởi mở với các ý tưởng mới về quan hệ. Và với thời gian, nó sẽ tỏa rộng giống như những vòng tròn trên mặt nước và thực sự mở ra khả năng càng ngày càng có nhiều người hòa điệu với mối quan hệ của Thời Hoàng kim. Họ có khả năng mở tâm ra để thử nghiệm mối quan hệ này, và trải nghiệm một dạng quan hệ mới hơn và cao hơn không dựa trên vũ lực, mà dựa trên dòng chảy tự do của năng lượng sáng tạo của Thượng đế. Với lời này, ta biết ơn và niêm các con trong sự an bình hoan hỉ của đức Phật mà ta là.

Con đang chú tâm vào điều gì?

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 31/12/2020.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Địa cầu là gì? Địa cầu là gì? Địa cầu, tất nhiên, có thể mô tả bằng nhiều cách, nhưng một cách là coi địa cầu là một cuộc trình diễn như khi con đi xem phim hay xem kịch vậy. Nhiều người thời nay có internet, có truyền hình và phim ảnh, hiếm khi nào đi xem một vở kịch biểu diễn sống, và một số bạn trẻ thì chưa bao giở. Trong số các con nếu đã đi xem kịch nghệ đều biết rằng có những lúc diễn tiến vở kịch thay đổi đột ngột, có biến chuyển bất thần xảy ra trên sân khấu và bỗng nhiên con nghe thấy khắp cử tọa ồ lên một tiếng vì mọi người đều phản ứng đồng loạt với nhau.

Điều này cho con thấy tất cả khán giả đều bị lôi cuốn vào vở kịch đến độ họ quên bẵng mất là chỉ trước đó không lâu, họ đã sửa sọan ở nhà, tắm gội sạch sẽ, cạo râu chải đầu, mặc quần áo, lái xe đến rạp hát, đậu xe bước vào, đưa áo choàng cho người ta giữ, ngồi vào ghế, nhìn quanh xem có ai cũng đang đi xem kịch như mình, và vẫn tiếp tục lo nghĩ đến những công chuyện khác trong ngày. Nhưng khi vở kịch bắt đầu, mặc dù họ biết mọi diễn biến trên sân khấu đều là giả bộ, rằng đó chỉ là một câu chuyện gì đó do một kịch gia nào đó viết ra có thể là hàng trăm năm trước – họ vẫn từ từ bị lôi cuốn vào, rồi họ dồn hết tập trung tâm trí vào buổi trình diễn đến nỗi họ quên mất tất cả mọi chuyện khác. Họ quên hẳn lý do nào đã khiến họ vào đây ngồi, quên hẳn cuộc đời của họ ở ngoài rạp, và bây giờ họ bị cuốn hút vào những gì xảy ra trên sân khấu, và đó là lý do tại sao khi có biến chuyển ly kỳ trong vở kịch, họ đều phản ứng đồng loạt như thể một người.   

Con yêu dấu, đó là địa cầu đấy con. Ở khởi thủy, tất cả các con đều biết mình bước vào nơi đâu, tại sao các con bước vào đây để làm gì, các con biết rõ đây chỉ là cái máy giả thực tại, như ta đã từng gọi là như thế. Nếu con nhìn hành tinh hôm nay, con sẽ thấy là hầu hết mọi người, tuyệt đại đa số mọi người, đều giống như những khán giả kia ngồi trong rạp hát, quên hẳn họ đến từ đâu, quên hẳn là có một thế giới khác ở ngoài rạp hát. Họ quên mất là đang có những sự kiện khác đang xảy ra, rằng điều mà họ theo dõi chỉ là một câu chuyện đang biểu hiện ra trên sân khấu. Họ đã bị cuốn hút vào vở kịch, vào buổi trình diễn. Thay vì xem buổi trình diễn là một cái gì có thể giúp họ thăng tiến trong hiểu biết và chuyển vọt tâm thức mình, thì họ xem đó là sự thực, là thế giới thực, và mọi diễn biến trên sân khấu là những sự cố có thực.

Phải, ta biết là khi ta nói như vậy, và dĩ nhiên là ta cố tình nói vậy, nhiều người trong số các con sẽ có phản ứng. Họ sẽ nói, “Thày bảo con là thế gian không có thật, nhưng hàng triệu người đã bị nhiễm vi-rút corona trong năm vừa qua, nhiều người đã chết, không lẽ tất cả đều không thực hay sao?” Dĩ nhiên là không phải vậy! Khi con trong rạp hát, đó là một sân khấu, và trên sân khấu có người ta. Những người này đều thực. Họ có thể đang mặc trang phục trình diễn và hóa trang, nhưng họ là những người thực đang đóng một vở kịch.

Khi ta bảo những người kia đã quên là nó không thực, ta muốn nói họ đã quên là họ không phải là những con người, mà là sinh thể tâm linh. Các con hiện diện ở đây để trải nghiệm một cuộc trình diễn đang được biểu hiện trên địa cầu. Những gì xảy ra trên hành tinh có thể thực từ một góc cạnh nào đó, nhưng con không là một con người, con là một sinh thể tâm linh, con đang ở đây để có một trải nghiệm hầu chuyển đổi tâm thức mình. Tất cả mọi thứ xảy ra trên địa cầu chỉ là chuyện xoay chuyển tâm thức của con.

Khi Shakespeare ngồi vào bàn viết kịch, ông không có ý muốn giải trí người ta đâu. Ý của ông là xoay chuyển tâm thức người xem. Ông không đang tìm cách khiến cho người ta tin là có một Hoàng tử xứ Đan Mạch tên là Hamlet vì ông thừa biết là không bao giờ có người này. Ông chỉ muốn dẫn cử tọa qua một cốt truyện có khả năng chuyển đổi tâm thức của họ, và trái đất này cũng thế, trái đất chỉ là vậy thôi. Ta biết, điều này nghe có vẻ vô cảm khi nhiều người coi năm 2020 vừa qua là một năm đầy khó khăn.

Đương nhiên là năm qua đã vô cùng khó khăn cho nhiều người – các thày đâu có đui mù. Nhưng có điều, cái gì đây sẽ làm giảm bớt nỗi khó khăn của mọi người? Cái gì sẽ giúp cho mọi người đương đầu dễ dàng hơn? Có phải chỉ là chuyện an ủi và nói với họ là năm rồi quả là một năm tồi tệ? Hay là phải cho họ một góc nhìn khác? Vì các thày là chân sư thăng thiên, vai trò của các thày là gì? Vai trò các thày là cho mọi người một góc nhìn khác, đó là lý do duy nhất mà các thày có mặt trên hành tinh này. Các thày có mặt ở đây là để nhắc nhở mọi người rằng mặc dù các con sinh sống trên hành tinh trái đất, mặc dù các con đều có một xác thân vật lý bị tổn thương do những gì đang xảy ra, nhưng các con không thể bị định nghĩa bởi cõi vật chất, bởi xác thân vật lý, bởi ngoại tâm của con. Con là nhiều hơn tất cả những thứ đó.     

Điều này thực sự có nghĩa là gì? Thực sự có nghĩa là trong bản chất, con là cái mà ta gọi là tính nhân bản cốt yếu, là tiềm năng cho con vượt lên trên những trải nghiệm vỏ ngoài. Đâu là cốt lõi của tiềm năng này? Là cái phần của tâm con mà ta gọi là cái Ta Biết, hoặc con có thể gọi bằng bất kỳ tên nào con muốn, nhưng trong tâm con có một thành phần cho con cái khả năng, cho con quyền năng dừng lại và nói: “Tất cả những ý tưởng quấy phá đó, hãy ngừng lại.”  

  • Tôi sẽ lùi ra khỏi tình trạng ngoại cảnh trên địa cầu.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi tình cảnh của riêng tôi.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi xác thân tôi và mọi điều làm nó tổn thương.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi cảm thể của tôi và mọi rối loạn ở đó.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi trí thể của tôi và mọi ý tưởng về những điều tôi phải nghĩ, phải hiểu, phải biết.

Tôi sẽ lùi ra khỏi bản sắc thể của tôi và mọi xu hướng tự xem mình là một con người do ngoại cảnh định đoạt.

Tôi sẽ lùi ra cho tới khi tôi chiêm nghiệm – tôi kết nối được với cái phần của chính tôi, Hiện diện TA LÀ của tôi, cái ta tâm linh của tôi, là phần biết rõ và chưa bao giờ quên là nó không do trái đất này định đoạt.

Đây là bản chất nhân bản cốt yếu của con, cái thực chất nhân bản mà qua đó con có thể lùi lại một bước, có thể kết nối, có thể chiêm nghiệm rằng:

  • Tôi là nhiều hơn thế này.
  • Tôi là nhiều hơn những gì đang xảy ra trên địa cầu.
  • Tôi là nhiều hơn những gì đang xảy ra trong xác thân tôi.
  • Tôi là nhiều hơn sự rối loạn trong cảm thể của tôi.
  • Tôi là nhiều hơn những ý tưởng trong trí thể của tôi.
  • Tôi là nhiều hơn ý niệm bản sắc vỏ ngoài hay bản sắc làm người của tôi.
  • Ta là.

Và con không cần thêm bất cứ gì sau hai chữ “ta là”. Con có thể chứng nghiệm TA LÀ. Tôi có cái là. Tôi có nhận biết. Tôi có tự nhận biết.

Tự nhận biết có nghĩa là gì? Đối với rất nhiều người, nó có nghĩa là tôi nhận biết rằng tôi hiện hữu trong bản sắc này, rằng tôi có những ý tưởng này đang chạy trong tâm tôi, những cảm xúc mà tôi cảm thấy, thân xác mà tôi đang có, tình huống ngoại cảnh mà tôi đang trải. Đó là sự tự nhận biết của tôi. Tôi là một con người đang đau khổ trên địa cầu, đó là sự tự nhận biết của tôi. Nhưng sự tự nhận biết thực sự, cốt lõi của tự nhận biết, chỉ đơn giản là “ta là”. Tôi ý thức. Tôi nhận biết.    

Triết gia René Descartes nổi tiếng với lời nhận định: “Tôi nghĩ, do đó tôi là.” Nhiều người đã hiểu lầm câu này của ông. Ông chỉ muốn nói là ông đã nhìn vào tất cả mọi thứ mà ông có thể đặt vấn đề hay xem là giả trá, thì chỉ có một điều mà ông không thể chối cãi được, đó là ông có sự suy nghĩ. Nhưng thực sự đây không phải là sự suy nghĩ trong ý nghĩa một sinh hoạt của trí thể. Điều ông ngộ ra là điều duy nhất mà ông không thể chối cãi là sự kiện ông đang ý thức, ông đang nhận biết. Đó là điều duy nhất ông không thể chối cãi. Đó cũng là điều duy nhất mà con có thể nối kết để nhận ra rằng con không chỉ là ngoại vật. Khi con lùi về khỏi ngoại cảnh và chiêm nghiệm con là sự nhận thức, sự hiện diện, sự chiêm nghiệm, sự nhận biết, thì con không còn bị lôi cuốn vào vở kịch đang diễn ra trên sân khấu, sân khấu của thế gian. Con không còn tự đồng hóa với nó nữa. Con không còn bị nó định nghĩa là gì.

Thế nào là một con người? Trong cốt lõi, là cái này đây, là ta là, tôi đang nhận biết, tôi đang nhận biết rằng tôi là cái gì đang là. Trong cốt lõi của nhận biết, không cần thêm bất cứ gì khác, ít ra là không cần thêm bất cứ gì khác của điạ cầu bởi vì con không là tất cả những ngoại vật đó trên địa cầu. Tất nhiên hầu hết mọi người đều không nhận thấy như vậy, họ nghĩ họ là ngoại vật. Nhưng tính nhân bản cốt yếu có nghĩa là con có thể đứng riêng ra và chiêm nghiệm mình là nhiều hơn những ngoại vật, rằng chúng không thể định nghĩa được mình là ai. Khi con chiêm nghiệm điều này, đó là chiêm nghiệm thực. Và con biết là vở tuồng đang diễn ra trên sân khấu không thực được như thế.

Nhưng ngay giây phút con bước ra khỏi kinh nghiệm “ta là” đó và bước vào bản sắc vỏ ngoài của con, vào trí thể, cảm thể cùng xác thể của con, thì lập tức những gì con kinh nghiệm qua bốn thể phàm này sẽ có vẻ là thực đối với con. Chính điều này cho con cảm giác thực tế. Mọi lời dạy của các thày muốn hướng con về đâu? Hướng con về sự chứng nghiệm này đây, rằng có một thực tại vượt khỏi cảm giác thực tế mà con có được qua bốn thể phàm. Có một sự cảm nhận thực tại lớn hơn cảm giác thực tế mà con có được qua bốn thể. Do đó con không bị định hình bởi trải nghiệm của con trong bốn thể. Con tự định mình khi con là cái mà con là, khi con kết nối với cảm nhận “ta là”.  

Đây là điều đã giúp ta vượt qua thử thách khi đương đầu với quỷ Mara. Hẳn con cũng biết câu chuyện được kể lại trong đạo Phật rằng khi ta sẵn sàng nhập Niết bàn, ta đang ngồi thiền dưới cây bồ đề. Tất cả những con quỷ của Mara diễn hành trước mặt ta để lôi kéo ta nhập vào với chúng. Chúng đang diễn một vở tuồng và muốn ta bị cuốn hút vào đó, muốn ta tin rằng vở tuồng có một thực thể nào đó, có quyền lực nào đó trên ta, có quyền lực nào đó trên thế gian, có quyền lực nào đó trên người khác.       

Làm thế nào ta vượt qua được thử thách? Bằng cách nối kết với chứng nghiệm TA LÀ. Khi không có chữ nào đi theo sau hai chữ TA LÀ thì không có gì mà quỷ Mara có thể giao tiếp được. Như Giê-su đã diễn tả: “Không có gì trong ta mà ông hoàng của thế gian có thể nắm lấy.” Cho nên đây là cốt lõi giáo lý của ta. Tất cả mọi điều mà ta đã dạy con chỉ có một mục đích dẫn con đến điểm này mà thôi. Những lời này không chỉ là lý thuyết. Đây không phải là một giáo lý công truyền mà con có thể hiểu được bằng lý trí mà là một điều con phải chiêm nghiệm. Hầu hết các con đã chiêm nghiệm được rồi, một số đã chiêm nghiệm mà không ý thức, nhưng nhiều người trong số các con đã có chiêm nghiệm.  

Một khi con đã chiêm nghiệm được thực tại đó, con có thể sử dụng nó, bồi đắp nó, con có thể dùng các dụng cụ tu tập của các thày nhằm giải quyết những chấn thương sâu xa, đi ngược trở về chấn thương đầu tiên, và ngay cả trước đó nữa khi con là avatar giáng thế từ hành tinh khác. Và con có thể đạt tới một điểm khi bất kể chuyện gì xảy ra trên địa cầu, bất kể việc gì con đang làm, con cũng nhận biết liên tục rằng con là nhiều hơn thế, rằng con đang (phần nào) chứng kiến những gì đang diễn ra thay vì phải đứng ngay giữa cơn bão lốc. Hoặc ít nhất, con cũng nhận biết rõ rằng con có thể, bất cứ lúc nào, dời chuyển vào trong sự nhận biết TA LÀ nơi con không còn hoàn toàn tập trung vào cơn bão nữa.

Con người là gì? Ta đã từng nói: “Theo một nghĩa nào đó, con người là sự chú tâm, là sự nhận biết rằng mình chọn cách mình tập trung. Có thể nói, vượt ngoài tất cả mọi thứ đang xảy ra chung quanh, con là sự tỉnh giác, là sự nhận biết. Một số người nhận biết rất hạn hẹp, một số người khác nhận biết rộng rãi hơn. Một số thì rất chú tâm vào chính mình, trong khi một số khác có sự nhận biết toàn cầu hơn. Nhưng bất kể nhận biết hẹp hay rộng, con là sự nhận biết. Chọn lựa căn bản của con, có thể nói là chọn lựa duy nhất mà con có thể có, là chọn đối tượng cho sự chú tâm của con. Nhiều năm trước, Saint Germain có nói: “Anh đó là nô lệ sự chú tâm của anh ta”, và tất nhiên câu này cũng áp dụng cả cho phái nữ.  

Cho nên vấn đề là như sau: con đang chú tâm vào điều gì? Một lần nữa trong thời buổi này, ta không có ý bảo con phải chú tâm vào điều gì đó. Đã có những thời trước đây, và ngay cả bây giờ trong số học trò của các chân sư, khi người ta hay nghĩ rằng thế giới này không có gì là tâm linh, và do đó con không được chú tâm vào những chuyện trần thế. Con phải rút sự tập trung ra khỏi những chuyện trần tục và đặt trọng tâm vào những chuyện tinh thần. Rất nhiều người ở mọi thời đã làm điều này, họ đã rút lui khỏi thế giới để sống ẩn dật nơi một tu viện, một cái am Phật giáo, một nhà tu Cơ đốc giáo, hay bất cứ một khung cảnh, môi trường nào được tạo ra để họ triệt thoái khỏi thế gian, và khi họ chú tâm học hỏi kinh sách, cầu nguyện và làm lễ và hát và tụng, thì họ nghĩ, “À, tôi thật là tâm linh vì tôi đang tập trung vào những chuyện này.”        

Nhưng con yêu dấu thấy đó, rất nhiều người trong số đó thật ra không khác gì người đời. Người đời có sẵn một ý tưởng nào đó trong đầu về cuộc sống, về họ phải làm gì hay không làm gì, và họ sống theo cái tâm ảnh đó. Những người tâm linh rút khỏi xã hội cũng có một tâm ảnh về cuộc sống mà họ muốn sống, chỉ khác là tâm ảnh của họ không giống người đời. Thành thử một bên, chúng ta có đa số mọi người sống theo một tâm ảnh trần tục, và bên kia một thiểu số sống theo một tâm ảnh mà họ nghĩ là tâm linh. Nhưng con yêu dấu, đó vẫn chỉ là một tâm ảnh và tâm ảnh này sẽ giam giữ họ y như nó giam giữ người trần tục.

Thật không có bao nhiêu người, thời xưa cũng như thời nay, đã đạt được sự tinh tấn khi họ chỉ thay đổi tâm ảnh mà thôi, bởi vì tâm ảnh vẫn còn đó. Nếu con tập trung chú tâm của con đến độ con nghĩ: “Tôi là người thế này, tôi thật là tâm linh vì tôi đang làm tất cả những điều vỏ ngoài này” thì con đang làm gì? Con đang ban thêm sức mạnh cho tâm ảnh. Trong khi đó thì những người sống trong thế gian và tự đồng hóa với thế gian, khi họ trải qua một năm 2020 thật tồi tệ do dịch corona, thì họ làm gì? Họ cũng tăng thêm sức mạnh cho tâm ảnh của họ.     

Khi con chú tâm vào điều gì thì con tạo ra một luồng năng lượng xuyên qua bốn thể phàm của con hướng về tâm ảnh đó. Con củng cố tâm ảnh cho nó mạnh hơn, cả trong tâm con lẫn trong tâm tập thể. Con củng cố cấu trúc mà tâm ảnh này đã tạo ra. Con càng củng cố nó thì năng lượng sẽ hình thành một lực từ trường càng mạnh hơn để thu hút sự chú tâm của con. Con càng đặt chú tâm vào một đề tài nào thì càng có nhiều năng lượng xối vào đó. Càng nhiều năng lượng xối vào thì nó càng thu hút chú tâm của con, và tất cả trở thành một vòng xoáy triền miên, tự nó nuôi nó cho ngày càng lớn mạnh.    

Đó là lý do tại sao người ta đi xem kịch bị cuốn hút vào vở kịch và tưởng đó là thực. Tâm trí họ bị cuốn hút vào vòng xoáy mà chính họ đã tạo dựng, và song song cũng có sự tạo dựng tập thể đến độ nhiều người không thể gỡ mình ra do họ đã cho phép vòng xoáy cuốn tâm trí họ vào. Cũng vậy với nhiều người tự xem mình là tâm linh, họ đã tạo ra một vòng xoáy tuy có khác hầu hết người trần tục, nhưng vẫn kéo tâm trí họ vào một cách mãnh liệt. Giáo lý của ta chủ ý là gì và luôn luôn vẫn là gì? Giáo lý trong đợt truyền pháp này đã nói rõ ràng và rành mạch những gì? Rằng mục tiêu là để giúp con dời chuyển sự chú tâm của con khỏi tâm ảnh và chiêm nghiệm được “ta là”. “Tôi là nhiều hơn những tâm ảnh vỏ ngoài, nhiều hơn tâm ảnh mà tôi có về chính tôi và bốn thể phàm của tôi. Tôi nhiều hơn thế. Cho nên tôi không có nhu cầu bị lôi cuốn vào những gì đang xảy ra trên thế giới.”   

Ta đã có dịp giảng về khái niệm “giữ quân bình tâm linh”. Đã có những lời dạy đề cập đến khái niệm này, về một nhóm người tiến hóa cao độ trên dãy núi Himalaya mà chưa ai được gặp, chưa ai được nghe biết. Một số người đã có nghe về vị thày Babaji chưa thăng thiên, và một số khác nữa. Người ta bảo rằng các vị này cầm giữ quân bình tâm linh cho địa cầu. Giữ quân bình tâm linh nghĩa là gì? Là các vị ấy tập trung chú ý vào “là hơn nữa”. Mình biết mình là “hơn nữa”, và bằng cách duy trì một trạng thái tĩnh lặng toàn hảo, một nội tâm hoàn toàn an bình, mình có thể giữ được sự quân bình vì vẫn hiện thân trong xác thân vật lý. Tuy nhiên, mặc dù ta không muốn giảm bớt công sức phụng sự của những vị đó, điều mà ta mong muốn, và Saint Germain cũng mong muốn cho Thời Hoàng kim, là có thật nhiều người có khả năng giữ được quân bình tâm linh trong khi vẫn tích cực tham gia vào cuộc sống.   

Theo một nghĩa nào đó, việc giữ quăn bình sẽ dễ dàng hơn nếu con ngồi trong hang động và không bao giờ bị quấy rầy, bị thử thách. Và lẽ tự nhiên, sẽ khó giữ quân bình hơn nếu con sống một cuộc đời năng động. Nhưng con yêu dấu, điều sẽ thực sự hiệu quả, sẽ thực sự đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain nhanh chóng hơn, là có thật nhiều người sống bình thường trong cuộc sống hàng ngày, làm lụng những công việc mà họ thường làm, mà vẫn nhận biết rằng đây không phải là con người thực của mình. Nói cách khác, con ngồi trong rạp hát, con quan sát vở tuồng trên sân khấu, và thay vì hoàn toàn chú tâm vào sân khấu, con vẫn nhận biết rằng “tôi là nhiều hơn buổi trình diễn này”. Con tỉnh giác rằng mọi người khác trong rạp đều hoàn toàn bị cuốn hút vào vở kịch, nhưng con vẫn giữ được cái phần tỉnh giác nằm ngoài vở kịch. Con trải nghiệm vở kịch như là một vở kịch, chứ không như một cái gì thực, như hầu hết mọi người khác. Đó là cách con giữ sự quân bình tâm linh, là thái cực Omega cho những ai đang giữ thái cực Alpha khi họ rút lui khỏi xã hội.

Đây chính là điều đã thiếu sót từ hàng ngàn năm nay. Đã có những vị sống ẩn dật và giữ được quân bình tâm linh, nhưng chưa có những vị để cầm giữ thái cực Omega của những người có thể sống trong thế gian, ở trong thế gian nhưng lại không thuộc về thế gian. Điều này sẽ đem lại sự khác biệt lớn lao trong thời đại này, là thời đại mà chúng ta đang bước vào khi ngày càng có nhiều người đạt tới mức có thể nhìn thế giới và nói: “Tôi nhiều hơn thế này. Tôi sẽ không cho phép mình bị cuốn hút vào cái đang cuốn hút người khác. Tôi không cần tham dự vào đó, nó sẽ nuốt hết sự chú ý của tôi, và cuối cùng tôi sẽ chỉ vứt thêm năng lượng mình vào để nuôi cho vòng xoáy kéo mình vào thêm.”   

Trên thực tế, con có thể đạt tới một điểm khi con biến nó thành một quyết định ý thức. “Tôi sẽ không để cho bất kỳ vòng xoáy tập thể nào lôi kéo bốn thể phàm của tôi”. Nhân tiện, đây cũng là một cách để nâng cao sức khỏe thể chất của con, khi con không để cho các vòng xoáy tập thể ảnh hưởng đến xác thể, hay cảm thể, trí thể, bản sắc thể. Con không bị kéo vào. Cho nên con có khả năng đứng ngoài các khuôn nếp phản ứng mà đa số người ta bị cuốn vào. Con có thể ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Con có thể ngồi dưới gốc cây bồ đề, nhìn bọn ma quỷ của Mara diễn hành trước mắt nhưng con không hề tham dự với chúng. Sau khi con để cho chúng làm trò chán chê, con sẽ đặt tay xuống mặt đất và nói: “Vajra, Vajra, Vajra, nay ta xác nhận quyền làm Ki-tô của ta, quyền làm Phật của ta trên địa cầu.”  

Đó là những gì ta mong muốn cho tất cả các con là học trò trực tiếp của các chân sư, để con khỏi bị lôi kéo. Các chân sư hoàn toàn không trách móc gì các con. Các thày hiểu rõ năm qua đã là một năm khó khăn. Các thày biết nhiều vòng xoáy tập thể to khủng khiếp đã được tạo ra ở khắp mọi nơi trên thế giới. Một phần là vì đại dịch corona, phần khác vì nền kinh tế, phần khác nữa vì một số điều kiện chính trị như cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ. Các thày hoàn toàn không muốn con buồn rầu về cách phản ứng của mình nếu chẳng may con đã bị lôi cuốn vào những vòng xoáy đó – đành chịu thôi. Nhưng con có cơ hội bước lùi lại, nối kết với cái TA LÀ, để con nhận ra rằng con là nhiều hơn thế, và có lẽ để con nhìn vào “điều gì trong bốn thể phàm của tôi đã khiến tôi bị cuốn hút”.    

Sau đó nếu con dùng cac dụng cụ tu tập để giải quyết chấn thương, con sẽ thấy là cuối cùng, tất cả đều liên quan đến cái chấn thương nhập đời vũ trụ, và cả những cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra sau trải nghiệm nhập đời này. Con sẽ luôn luôn nhận thấy mỗi lần con bị lôi cuốn vào một phản ứng, thì y rằng sẽ có một cái ngã hiện diện, có khi nhiều hơn là một, nhưng tất cả những ngã này đều không thực. Chúng không thực trong ý nghĩa mà ta vừa mô tả. Chúng nằm trong bốn thể phàm của con – không nghi ngờ gì cả. Chúng có một sự hiện hữu nào đó vì chúng được tạo ra từ năng lượng, chúng dựa trên một tin tưởng nào đó của con và do đó đã trở thành như một sinh thể sống trong lòng bốn thể phàm của con, tương tự như một con thú sống trong nhà con vậy. Nhưng chúng không thực trong ý nghĩa là chúng không phải là con, và con không phải là chúng.

Khi con kết nối với nhận biết TA LÀ, Hiện diện TA LÀ, con có thể nhận ra: “À, đây chỉ là một cái ngã, đây không thực là tôi, tôi không là ngã đó. Hoàn toàn không phải là tôi. Chưa bao giờ nó là tôi. Trước kia tôi tưởng nó là tôi. Nhưng bây giờ tôi thấy nó chỉ là một cái ngã. Tôi thấy nó hạn chế tôi. Tôi thấy nó bắt nguồn từ một tin tưởng nào đó mà bây giờ tôi không chấp nhận nữa.” Và điều này đưa con đến một điểm khi con có, không phải một quyết định vỏ ngoài của ngoại tâm, mà một sự giải tỏa tự phát: “À, tôi sẽ để cho mi chết. Mi không phải là tôi. Tôi để cho mi chết đây.” Đây là điều mà ta mong muốn thấy tất cả các con làm được nếu con chưa làm trong năm 2021 này.  

Con yêu dấu, điều đó sẽ khiến ta vui mừng làm sao. Và nó cũng sẽ khiến con vui mừng. Nó sẽ đem vui mừng cho mọi người chung quanh con, ít ra là đa số, cho dù là một số người sẽ không bằng lòng khi thấy con không gần gũi như trước, và do đó họ không thể ảnh hưởng con được như trước nữa. Nhưng đành thôi, đành thôi. Con không thể tiến bước trên đường dẫn đến quả vị Ki-tô và quả vị Phật mà không làm phật lòng một số người.  

Bây giờ, con yêu dấu, năm 2021 sẽ như thế nào? Nhiều người cho rằng đây sẽ là một năm khó khăn, một phần vì đại dịch sẽ không được giải quyết nhanh chóng như mong muốn. Thành thật mà nói, ta đã mong có thể giải quyết sớm hơn nhưng điều này đòi hỏi nhiều người phải xử sự một cách khác, mà nhiều người thì không chịu thay đổi và đại dịch cứ thế tiếp diễn. Nhưng tất nhiên, thử thách lớn nhất cho năm 2021 là nền kinh tế vì kinh tế đã bị đại dịch làm tổn thương, cho nên đối với rất nhiều người, năm 2021 sẽ là một năm rất khó khăn, không khó khăn bằng 2020 nhưng trên một vài phương diện sẽ khó khăn hơn.

Nhưng tại sao sẽ khó khăn cho mọi người? Bởi vì mọi người tự đồng hóa với vở kịch. Ta vẫn biết là hầu hết không có khả năng tách mình ra khỏi vở kịch, nhưng có một điều ta muốn con ghi nhớ và cầu gọi, là có những người tuy không có nhu cầu biết đến các chân sư và họ cũng chưa từng nghe đến các chân sư, nhưng họ lại cởi mở với ý tưởng đặc biệt này. Ý tưởng đó, ta đã từng giảng dạy cách đây 2500 năm, rằng toàn bộ thế gian là một tổng thể tương kết. Ý tưởng này trong đạo Phật thường có tên là Lý Duyên khởi. Không có sự kiện riêng rẽ nào tự dưng xảy ra mà trái lại mọi sự kiện đều xảy ra do vô số những nguyên nhân, một chuỗi nguyên nhân dài dằng dặc và phức tạp vô cùng – phần nào cũng giống như thuyết hỗn mang mà khoa học đưa ra.  

Và như vậy, nhiều người trong đó có những thành phần cấp tiến, sáng tạo nhất, đã trở nên thực sự cởi mở và nhận ra điều này, với tiềm năng dẫn đến nhiều hệ quả tích cực khi người ta bắt đầu xét lại cách nhìn cố hữu của mình về xã hội. Một điều có thể xảy ra là người ta bắt đầu đặt nghi vấn: “Ơ kìa, cái gì đã gây ra đại dịch corona? Phải chăng chỉ vì đúng một con dơi ở Trung quốc đã tiếp xúc với con người? Hay là vì bất kỳ nguyên nhân đơn lẻ nào khác mà người ta có thể nghĩ tới? Liệu chỉ có một nguyên do duy nhất hay là có nhiều nguyên do sâu xa hơn? Phải chăng một số điều kiện trong xã hội, trong cách chúng ta nhìn xã hội, cũng đã góp phần vào toàn cảnh? Phản ứng của chúng ta đối với đại dịch nói lên điều gì về những điều kiện đó, và như vậy chúng ta có thể xem xét, phân tích, học hỏi và thay đổi điều gì? Chúng ta có thể rút tỉa điều gì tích cực từ đại dịch để giúp đưa xã hội về một hướng tốt đẹp hơn?”

Con yêu dấu, hiển nhiên là rất, rất nhiều điều người ta có thể nêu lên, có thể học hỏi từ khủng hoảng này, và ta không có ý liệt kê ra hết bởi vì có quá nhiều và cũng quá rộng lớn. Nhưng có một điều nổi bật ở đây mà ta muốn đặt trọng tâm là kinh tế. Thật là dễ mà nói rằng: “Ồ, kinh tế có xuống dốc thật nhưng chỉ là do đại dịch. Chỉ vì người ta không thể đi du lịch, ra tiệm mua sắm, đi ăn nhà hàng mà dân chúng bị mất việc, và đó là lý do kinh tế phải đi xuống”.    

Con yêu dấu, kinh tế không chỉ là kinh tế, kinh tế không là một hiện tượng biệt lập. Kinh tế là một thành phần của lý duyên khởi của toàn thể xã hội, của tâm thức tập thể. Tâm thức tập thể chúng ta đang ở đâu? Nếu con nhìn kinh tế từ một góc độ rộng lớn hơn, con thấy gì? Con sẽ thấy như một số kinh tế gia và ký giả đã thấy được, là kẻ giàu, giới thượng lưu, đã không bớt giàu đi trong cơn đại dịch, trong cơn khủng hoảng.

Mặc dù kinh tế có suy thoái nhưng người giàu đã trở nên giàu có hơn. Đầu tư của họ trị giá nhiều hơn, thị trường chứng khoán tăng vọt. Nhưng những ai đã nghèo hơn? Phải, những người tầm thường. Những người bình thường, những người dân hàng ngày phải gánh chịu hậu quả lớn nhất của đại dịch, do bị nhiễm bệnh, do phải trông nom người bị nhiễm bệnh, do phải ở nhà mà thiếu hụt ngân sách, do mất nguồn lợi thu nhập. Đúng vậy, những người bình thường, dân chúng nói chung.  

Con hãy nhìn quanh thế giới. Những nước nào đã bị tác động nặng nhất? Chắc chắn rất nhiều nước nghèo đã bị ảnh hưởng nhiều hơn, nhưng không phải tất cả. Con cũng thấy một nước như Hoa Kỳ có tỷ lệ nhiễm bệnh và tử vong do đại dịch cao hơn. Vậy con hãy tự hỏi: “Tại sao như thế, tại sao lại thấy những những chuyện như thế?” Con sẽ thấy nguyên do nằm bên dưới tất cả là sự chú tâm vào chính mình, chỉ chăm sóc cho chính mình, chỉ quan tâm đến cái tâm ảnh của mình, làm sao cố giữ tâm ảnh đó cho bằng được.   

Con hãy nhìn ở ngay khởi đầu của đại dịch, Trung quốc biết rõ có một loại vi-rút mới đang lan rộng. Nhưng họ giấu giếm thông tin cho ngay cả công dân của họ và đối với thế giới. Có nghĩa là khi người ta biết đến, vi-rút đã lan vượt ra ngoài biên giới của Trung quốc đến độ không thể kiềm chế được nữa. Có thể nào ngăn chặn ngay từ đầu không? “Có, có thể lắm chứ”, nếu giới chức trách Trung quốc kể cả đỉnh cao của lãnh đạo sẵn sàng có những biện pháp cần thiết. Nhưng tại sao họ lại không sẵn sàng có biện pháp cần thiết? Bởi vì họ đang cố, với tất cả sức bình sinh, bám giữ cái tâm ảnh mà họ có về Trung quốc là một quốc gia toàn hảo, một xã hội toàn hảo, một xã hội cộng sản toàn hảo, là xã hội thực sự cộng sản duy nhất còn sót lại? Tại sao vi-rút đã lây lan? Tại vì tâm ảnh của giới lãnh đạo Trung quốc. Hiển nhiên con có thể hỏi thêm: “Tại sao vi-rút lại xuất hiện tại Trung quốc?” Một lần nữa, phần nào là vì lãnh đạo, và phần khác cũng vì người dân Trung quốc, vì cái tâm ảnh mà người dân ôm giữ về một nước Trung quốc vượt trội hơn bất kỳ quốc gia nào khác.

Thế những nước khác thì sao? Họ cũng có một tâm ảnh nào đó về Trung quốc, và họ đã chưa quyết định là họ muốn quan hệ thế nào với Trung quốc, họ muốn làm gì với Trung quốc. Như ta đã có nói, các nước có thể nào thực sự tiếp tục buôn bán với Trung quốc, một nước đàn áp chính dân mình và không tôn trọng lý tưởng dân chủ mà các con mong muốn? Liệu con có thể chấp nhận để cho các tập đoàn ở Tây phương kiếm những số tiền khổng lồ do sản xuất rẻ tiền tại Trung quốc rồi bán lại với lợi nhuận lớn hơn là nếu họ sản xuất tại xứ họ? Liệu con có thể cho phép sự thể này tiếp tục rồi bảo: “Các thày sẽ bỏ qua những vi phạm nhân quyền của Trung quốc, bỏ qua những diễn biến tại Hồng Kông nơi họ đang bóp nghẹt dân chủ. Các thày sẽ không đứng ra hỗ trợ dân chủ vì Trung quốc quá lớn. Các thày thật sự không muốn nhúng tay vào, không muốn có quyết định về Trung quốc”. Không phải đây là lý do vi-rút đã lây lan khắp các nước hay sao? Là vì các nước đã không chịu lấy quyết định họ muốn làm gì với Trung quốc và mối quan hệ với Trung quốc.

Bây giờ con hãy nhìn sang Hoa Kỳ, một trong những nước bị thiệt hại lớn nhất về tỷ lệ nhiễm bệnh COVID-19 cũng như tỷ lệ tử vong. Điều này cho con thấy gì? Nhìn một cách thực tế, con có thể thấy rõ Hoa Kỳ đã đáp ứng kém hơn hẳn những quốc gia có hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng. So với Âu châu, cho dù ở đó cũng có một số nước bị ảnh hưởng nặng nề, nhưng vẫn đỡ hơn Hoa Kỳ. Điều này cho con thấy gì? Đúng vậy, Hoa Kỳ có thể nào tiếp tục là quốc gia giàu mạnh duy nhất trên thế giới không có một hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng? Sự thể này có bền vững không? Và Hoa Kỳ xem mình là quốc gia vĩ đại nhất, là xã hội tốt đẹp nhất thế giới, điều này có bền vững không?     

Con hãy nhìn vào kinh tế và thấy bao người bị mất việc làm. Có bền vững hay chăng một nên kinh tế nơi người giàu đã giàu hơn rất nhiều và sẽ còn giàu hơn nữa? Người giàu tại Hoa Kỳ đã kiếm tiền giữa cơn khủng hoảng này nhiều hơn là họ có thể kiếm được khi không có khủng hoảng. Con có thể chấp nhận một nền kinh tế mất cân bằng đến độ ngày càng đổ thêm nhiều tiền vào túi người giàu mặc dù các nghiên cứu cho thấy sự thể này đã tiếp diễn suốt bốn thập niên qua? Có bền vững không? Liệu điều này có phần nào giải thích tại sao Hoa Kỳ lại bị đại dich đập nặng đến như vậy? Không phải là nguyên hệ thống đã trở thành quá thiên vị cho người giàu hay sao? Có bền vững không?

Nay con hãy nhìn sang nước Nga, là một nước khác nữa cũng rất quyết tâm duy trì một tâm ảnh nào đó. Hóa ra số người bị chết bởi đại dịch lớn hơn rất nhiều các con số tử vong chính thức. Tại sao như vậy? Bởi vì giới lãnh đạo cho tới Putin ở tột đỉnh đều thèm muốn, thèm muốn giữ lấy tâm ảnh về sự vĩ đại của nước Nga, về khả năng kiểm soát và giải quyết mọi vấn đề. Nhưng họ có làm được không? Có thể nào một lãnh tụ nắm hết quyền hành đảm đương được mọi chuyện? Có phải chăng là một hệ thống tập trung quyền lực không thể thực sự là một xã hội bền vững, đặc biệt trong thời đại này?     

Xong hãy trở lại với nước Mỹ và nhìn xem đại dịch đã ảnh hưởng tiến tình bầu cử như thế nào. Tại sao Tổng thống Trump ở giai đoạn đầu của đại dịch lại chọn chiến lược coi nhẹ đại dịch? Đúng vậy, chỉ vì ông muốn duy trì một tâm ảnh về chính ông cùng khả năng cầm quyền của ông. Một khi đã phóng tâm ảnh này ra công chúng, ông không chịu thay đổi nó, nhưng đáng lý ông phải chấp nhận thay đổi khi đại dịch không diễn biến như ông chờ đợi. Điều này có khiến ông thất cử? Đúng vậy, con yêu dấu. Nếu không có đại dịch thì Trump đã tái đắc cử. Nhưng vì cách ông phản ứng trước đại dịch, và vì có nhiều người thấy được điều đó, cho nên ông không thắng cử một lần thứ hai.

Ông đã làm gì sau bầu cử? Ông vẫn cố giữ nguyên cái tâm ảnh rằng ông không thua, rằng ông không là một người thua cuộc, rằng người ta đã đánh cắp chiến thắng của ông. Bầu cử đã gian lận, một sự gian lận to lớn, với những lời tố cáo được lặp đi lặp lại, nhưng không thấy bằng chứng nào được đưa ra trước tòa án. Ông phải cố giữ cái tâm ảnh.

Vậy chúng ta có thể mong mỏi những gì trong năm nay? Chúng ta mong thấy trên thế giới có những người, những chính phủ, những người sáng tạo, những người với tỉnh giác cao độ, sẽ sẵn sàng suy ngẫm xem cơn đại dịch, nền kinh tế, phản ứng của chúng ta trước đại dịch, phản ứng của chúng ta đối với kinh tế, tất cả những thứ đó nói gì về chúng ta? Chúng ta cần thay đổi thế nào, chúng ta đã mất quân bình như thế nào, chúng ta đã trở nên thiếu bền vững như thế nào. Để giúp các con trong tiến trình suy ngẫm này, ta sẽ cho các con một hình tư tưởng cho năm tới đây. 

Đây là một hình tư tưởng rất giản dị. Trong năm nay 2021, mặt trời sẽ là một tấm gương phản chiếu. Ta có hỏi ý Helios và Vesta là những chân sư thăng thiên, những sinh thể vũ trụ đứng đầu mặt trời của các con. Các thày đã nghĩ ra một cơ chế vô cùng giản dị có mặt trời làm tấm gương. Khi con tập trung nhìn vào mặt trời, các hình ảnh trong tâm trí con sẽ được phản chiếu lại để con dễ thấy hơn, và con cũng khó lòng bỏ qua hơn. Không chỉ có cá nhân mới dùng được cách này mà cả toàn thể xã hội.

Khi con sử dụng hình tư tưởng này một cách đều đặn, con sẽ khiến cho hiệu quả tăng lên gấp bội. Ta khuyến khích con làm một việc vô cùng đơn giản, không có gì cầu kỳ. Mỗi ngày, con hãy tập trung vào mặt trời – dù là nó có ở trên trời hay không thì hoàn toàn không quan trọng. Nhưng con hãy tập trung vào mặt trời trong tâm con, và nói lên lời xác định này. “Phật Gautama, thày là tấm gương toàn hảo cho địa cầu.” Giản dị, dễ nhớ, và chỉ mất một vài giây. “Phật Gautama, thày là tấm gương toàn hảo cho địa cầu”.    

Nếu con muốn, con có thể hình dung ta đang ngồi trong tư thế hoa sen ngay trên mặt trời, nhưng điều này không mấy cần thiết. Chỉ cần con nói lời xác định ngắn ngủi trên. Tập trung vào mặt trời, con không cần nói lớn, nhưng con có thể nếu con muốn. “Phật Gautama, thày là tấm gương toàn hảo cho địa cầu.” Điều này có thể tác động mạnh mẽ, đồng thời với các bài cầu của con vì ta sẽ hướng dẫn con đọc các bài cầu, và tất nhiên, cả xã hội cũng cần suy ngẫm về toàn bộ tình thế hôm nay và những bài học có thể rút tỉa. Ta đã nói gì ở đầu bài giảng, địa cầu là gì? Là một cuộc trình diễn. Mục đích để làm gì? Để chuyển đổi tâm thức con người. Vậy thì kết quả cao nhất của đại dịch corona và cuộc khủng hoảng kinh tế hôm nay là gì? Là nó chuyển đổi tâm thức con người, nó chuyển đổi sự nhận biết của con người, con người bắt đầu nhìn lại chính mình, nhìn vào xã hội mình và nói: “Đây là những điều mà chúng ta có thể thay đổi. Đây là những điều chúng ta cần thay đổi bởi vì nếu không, mọi thứ sẽ tan rã – khi chúng ta đặt trọng tâm vào của cải, cho phép một tầng lớp thượng lưu nhỏ xíu tiếp tục điều khiển xã hội mà chỉ mang lại lợi ích cho họ trong khi người dân phải trả giá.

Sự thể này không còn bền vững được nữa, không thể kéo dài được nữa. Đây là sự nhận thức có thể bắt đầu đột phá trong năm 2021 nhiều hơn là cho đến nay, rằng có nhu cầu, một nhu cầu tuyệt đối và cấp bách, tạo ra những xã hội quân bình hầu lớp thượng lưu không thể bóc lột người dân được nữa. Nhu cầu này cấp bách hơn rất, rất nhiều cuộc khủng hoảng khí hậu, hay đại dịch, hay kinh tế, hay bất cứ khủng hoảng nào khác. Đây là khủng hoảng thực sự, khủng hoảng duy nhất trên địa cầu như đã kéo dài từ hàng bao thế kỷ. Nhưng bây giờ chúng ta mới đến một mức mà ngày càng có nhiều người sẵn sàng nhìn thấy, ngày càng có nhiều xã hội sẵn sàng làm cái gì đó để giải quyết, nhiều hơn là cho tới nay, và mặc dù cũng có nhiều quốc gia dân chủ đã tiến bộ đáng kể để cải biến xã hội cho bớt độc quyền, nhưng Hoa Kỳ không có trong số đó, và Anh quốc cũng không có trong số đó. Cần nhiều tiến bộ hơn, đặc biệt là trên bình diện toàn cầu.

Và điều này kết thúc những nhận xét mà ta mong muốn đưa ra cho các con ở đây. Ta sẽ rút về, niêm phong các con trong sự bình an tuyệt đối của Phật, và nhường lời cho Mẹ Mary trao cho các con thái cực Omega của bài giảng này. TA LÀ Gautama.       

Trải nghiệm sự nhận biết quả cầu ở các tầng cao của quả vị Ki-tô

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 6/12/2020, nhân Webinar 2020 – Tăng triển Phân biện Ki-tô.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Phật biết gì vể quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô? À, làm thế nào con trở thành Phật chứ? Bằng cách vượt qua giai đoạn phân biện Ki-tô và quả vị Ki-tô. Như chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có giải thích cho con, có một số tầng tâm thức và măc đù trên địa cầu có 144 tầng như thế, trên cõi tâm linh còn có nhiều tầng hơn nữa. Trước tiên con vươn lên tầng quả vị Ki-tô, xong từ đó con có thể vươn lên tầng quả vị Phật. Con không cần phải đạt đến quả vị Phật để thăng thiên nhưng con có thể.

Chúng tôi đã cố trao truyền cho con ở đây một số lời dạy về một số yếu tố ngăn cản con có được sự phân biện Ki-tô. Yếu tố mà ta muốn lưu ý con trong bài này là khi con đạt đến tầng tâm thức 96, con đối mặt với một cuộc khai ngộ nhất định. Chúng tôi có nói là ở tầng 96, con đối diện với một ngã ba đường khi con có thể, hoặc thăng vượt trọng tâm của con vào bản thân con, hoăc rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ khi con ngày càng tập trung vào chính mình. Một trong những yếu tố sẽ quyết định con đi lên hay đi xuống ở tầng đó là vấn đề mà ta muốn chỉ ra cho con thấy ở đây. Đây là một vấn đề đã được các giới tâm lý học hiện đại bàn cãi và thường được gọi là “những vấn đề kiểm soát”.

Kiểm soát và quyền tự quyết

Một lần nữa nếu trở lại với các sa nhân và nhìn vào tình trạng của chúng, chúng tôi đã có trình bày về bầu cõi thứ tư khi có những sinh thể đã tự xưng làm kẻ cai trị tuyệt đối ở một số hành tinh. Con cần điều gì để chiếm địa vị nắm mọi quyền lực mà không ai có thể phản kháng? Hiển nhiên con cần giành lấy quyền kiểm soát trên hành tinh đó và kiểm soát tất cả mọi cư dân đầu thai ở đó. Con tìm cách tạo dựng cho mình một vị thế hay một cảm nhận cao trội