Kết nối với Phật Gautama và trải nghiệm sự trống không là một khái niệm rỗng tuếch

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6//2023, nhân Hội nghị 2023 ở Seoul, Hàn quốc – Nối kết với cái Ta Cao và vị thày tâm linh.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Và như truyền thống trong thời gian qua, thật là một đặc ân và niềm vui cho thày được trao truyền bài truyền đọc sẽ niêm hội nghị này, một hội nghị đã đánh dấu một chiến thắng to lớn từ nhãn quan của các thày là chân sư thăng thiên, vì nó đã tạo được một xung lực đi vào tâm thức tập thể sẽ khởi động những thay đổi sâu xa và giúp cho nhiều người kết nối chặt chẽ hơn với các chân sư thăng thiên cùng cái Ta Cao của họ. Tất nhiên, các thày cũng thấy được là nhiều người trong các con đã sẵn lòng tham gia, sẵn lòng xem xét bản thân mình, dùng các lời dạy để vươn lên cao hơn. Các thày hy vọng là các con đã cảm thấy đáng công sức cùng thời giờ bỏ ra, và các con cũng cảm thấy mãn nguyện như các thày.

Thày muốn nhân cơ hội này trao cho con một số lời dạy về một khái niệm có vẻ không liên quan đến đề tài của hội nghị này là làm thế nào nối kết với cái Ta Cao cùng các vị thày tâm linh của con, nhưng để xem, chúng ta sẽ thấy nó có liên quan hay không. Có một khái niệm đã được biết đến từ thời của Phật, là Śūnyatā hay sự trống không (emptiness). Từ này thực sự có nghĩa là gì? Một lần nữa, các nhà trí thức của đạo Phật hay truyền thống Phật giáo đã nhìn vào từ này, đã nghĩ ra nhiều cách diễn giải khác nhau và không đồng ý được với nhau cách diễn giải đúng đắn là gì. Và ở đây, thày không đang cố cho con cách diễn giải “đúng đắn” vì không có một cách diễn giài đúng đắn duy nhất nào. Luôn luôn sẽ có nhiều trình độ tâm thức khác nhau và vì vậy có nhiều cách hiểu khác nhau về bất kỳ giáo lý tâm linh nào.

Trải nghiệm thực tại đằng sau lời dạy

Nhưng thày sẽ nói là có một sự khác biệt cơ bản giữa việc diễn giải một giáo lý tâm linh và việc trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau một giáo lý được diễn tả bằng lời nói. Và điều con thấy trong mọi truyền thống tâm linh được thế giới biết đến là khi truyền thống này phát triển và thu hút ngày càng nhiều người theo, thì sẽ nẩy sinh một lớp người tự xưng mình là những người diễn giải giáo lý. Xong có một nhóm người ít ỏi hơn cố gắng trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau ngôn từ. Và sau đó có số đông quần chúng đi theo giáo lý, và họ cũng đi theo cách diễn giải do lớp tu sĩ kia đưa ra vì họ hy vọng nó sẽ đem lại cho họ một cuộc đời tốt đẹp hơn trong thế giới hiện tại hay thế giới kế tiếp. Con có thể nhìn thấy mô hình này ở khắp mọi nơi. Con có thể thấy nó suốt chiều dài lịch sử, con có thể thấy nó ngày nay cả với các lời dạy tâm linh hiện đại, và thậm chí trong giáo lý của chân sư thăng thiên cũng có xu hướng này. Nếu con thực sự mong muốn sử dụng một giáo lý tâm linh, hiển nhiên con cần vượt ra khỏi việc diễn giải các ngôn từ và tìm kiếm không chỉ cái hiểu, không chỉ đơn giản cái nắm bắt, mà con cần trải nghiệm thực tại sâu xa hơn đằng sau ngôn từ.

Chúng ta có thể so sánh với một rạp chiếu phim. Hầu hết mọi người ngồi đó nhìn vào màn hình chiếu phim. Họ chỉ đang trải nghiệm bộ phim trên màn hình. Xong có những người cố tìm hiểu xem bộ phim đến từ đâu, và có thể họ sẽ lên tận phòng chiếu, nhìn tận mắt dải phim trong máy chiếu. Nhưng hình ảnh trên dải phim có thật là thực tại sâu xa đằng sau bộ phim? Hay thực tại sâu xa hơn là ánh sáng trắng tinh trong máy chiếu? Hay thực tại sâu xa hơn nữa là dụng ý của nhà đạo diễn bộ phim, hay của nhà biên kịch, hay của các diễn viên?

Dùng giáo lý để thăng vượt mức tâm thức hiện tại

Một lời dạy tâm linh chân truyền đến từ cõi tâm linh hay cõi thăng thiên. Nó đến từ tâm của một sinh thể tâm linh, và nếu con muốn tận dụng lời dạy, con cần sử dụng lời dạy vỏ ngoài như một công cụ mà thôi, một công cụ để bắt liên lạc với sinh thể tâm linh mà lời dạy đã xuất phát từ tâm vị đó. Đây là cách cao nhất để sử dụng một lời dạy tâm linh. Khi con nắm bắt được điều này, con nhận ra là nếu con chỉ đọc chữ rồi cố gắng hiểu hay diễn giải chữ nghĩa bằng tâm thuần trí năng, thì đây không phải là cách dùng cao nhất. Thậm chí còn có thể nói là con đã không dùng giáo lý chút nào, bởi vì đâu là mục đích của một giáo lý tâm linh chứ? Là giúp con thăng vượt mức tâm thức hiện tại của con. Và khi con cứ tìm cách hiểu và diễn giải với mức tâm thức hiện tại thì con sẽ giữ con kẹt lại ở tầng mức này.

Con có thể dùng giáo lý tâm linh để khiến con tưởng là bởi vì con đã có một cách diễn giải trí thức, cao cấp và tinh xảo như thế này, thì con đã đạt được một tầng tâm thức cao hơn. Nhưng con không đạt được một tầng tâm thức cao hơn qua sự diễn giải và hiểu biết thuần trí năng. Con chỉ đạt được bằng cách dời chuyển tâm thức của con. Đây là điều mà tâm đường thẳng không thể nắm bắt. Vì tâm đường thẳng chỉ có thể định ra một chuỗi sự kiện dẫn từ điểm này đến điểm kế tiếp, chứ nó không thể tưởng tượng, không thể thấu suốt được là có một tầng thực tại hoàn toàn khác mà con không thể đặt lên một loại thang điểm đường thẳng như vậy.

Trung đạo

Đó cũng là tại sao nhiều người đã không hiểu được khái niệm Trung đạo. Họ không nắm bắt được ý nghĩa của Trung đạo và những cặp đối cực, mà ngày nay chúng ta gọi là tâm thức nhị nguyên luôn có hai cực đoan. Bên này có đối cực này, bên kia có đối cực ngược lại, và có những người cho rằng Trung đạo nằm đâu đó ở giữa.

Nhiều người đã trí thức hóa các lời dạy được ban truyền qua thày cách đây 2500 năm, và họ cứ nghĩ là việc bước chân trên đường tu, con đường Trung đạo, có nghĩa là tìm được thế quân bằng. Và họ đã cố tìm một thế quân bằng nào đó giữa hai thế đối cực do họ quy định, cho dù quy định này có là gì. Nhưng Trung đạo không phải là chuyện tìm thế quân bằng trên một thang điểm đường thẳng giữa hai đối cực, mà Trung đạo là sự thăng vượt chính thang điểm nhị nguyên đó, thăng vượt cả hai đối cực nhị nguyên, và điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là thăng vượt tâm đường thẳng.

Khái niệm trống không

Trở về với khái niệm trống không. Tâm đường thẳng sẽ lập tức đặt câu hỏi, trống không cái gì? Trống không so sánh với cái gì? Phải có cái gì để có thể so sánh chứ. Điều này cũng phần nào chính đáng, theo nghĩa là một giáo lý tâm linh luôn luôn được trao truyền trong một bối cảnh. Khi thày xuất hiện trong hiện thân vật lý 2500 năm trước đây, thày đã xuất hiện trong một xã hội đặc thù, một nền văn hóa đặc thù là văn hóa Bà la môn Ấn giáo.

Những người Bà la môn đạo Ấn đã đưa ra đủ loại cách diễn giải, đủ loại môn phái, đủ loại tư tưởng khác nhau, cho nên họ đã có đủ loại khái niệm. Giáo lý mà thày đưa ra cách đây 2500 năm được thích ứng với nền văn hóa này – một phần nó dùng lại một số khái niệm, nhưng nó cũng thách thức một số khái niệm khác đã trở nên phổ thông trong truyền thống Ấn giáo. Con không thể thực sự hiểu được khái niệm trống không nếu con không nhìn vào bối cảnh nơi nó được đưa ra. Và khái niệm vô cùng nổi trội trong đạo Ấn là khái niệm về Atman, hay Ngã, là Ngã tối thượng. Và đã có nguyên một nền văn hóa được xây dựng chung quanh khái niệm này mà ít người thời nay hiểu được thật sự.

Để cho con một tóm lược ngắn gọn về cách họ nhìn Atman, có thể nói đó là ý tưởng cho rằng ở cõi trên cao chỉ có một Ngã độc nhất này, Atman, và đó là một Ngã vĩnh hằng bất biến. Nó không bao giờ có thể thay đổi. Có nghĩa là cho dù con có nghĩ ra bất kỳ khái niệm nào – không nhất thiết từ tầng cấp con người mà cả bất cứ những gì có thể xuất phát từ cõi tâm linh – thì trong Atman đó, trong Ngã đó, có một sự quy định mà chúng ta có thể gọi là một hình ảnh, một khuôn đúc (matrix). Thậm chí điều này có thể so sánh với khái niệm của Plato về các hình thể lý tưởng (ideal forms) ở cõi cao.

Nói cách khác, khái niệm này cho rằng ở cõi cao có một khuôn đúc toàn hảo đã được quy định cho tất cả mọi thứ có thể thị hiện trong thế gian cùng mọi sự có thể xảy ra trong thế giới. Và điều này làm nẩy sinh ý tưởng là từ Atman duy nhất đó, mọi Ngã khác đều được quy định, và mỗi Ngã này thì quy định một biểu hiện đặc trưng. Cho nên đối với trái đất, có một cái Ngã ở cõi cao sẽ quy định khuôn đúc toàn hảo bất biến cho trái đất. Cho mỗi con người, có một cái Ngã ở cõi cao quy định linh hồn này là như thế nào, và mặc dù mọi chuyện trên trái đất có thể trải bày ra để trái đất lẫn con người có thể xa rời Ngã vĩnh hằng đó, nhưng kết cuộc thì mọi thứ cũng sẽ đều quay trở về Ngã đó. Và đây chính là khái niệm mà thày đã bác bỏ.

Khi thày nói đến sự trống không, thày nói là nó trống rỗng theo nghĩa nó không có ngã, nghĩa là nó không được định trước bởi một cái Ngã nào đó ở một một cõi cao mà nó phải quay trở về. Thày Lanto cũng đã trao cho con một bài giảng vô cùng sâu sắc về đề tài này, nhưng thày muốn trình bày thêm vì nhiều người theo đạo Phật ngày nay đã sử dụng tư duy hiện đại – một tư duy đã trở nên đường thẳng hơn nhiều – để diễn giải khái niệm trống không, hay khái niệm vô ngã, theo nghĩa là không những nó không có ngã mà nó còn không có gì hết. Ở đó không có gì hết. Một lần nữa, đây là một điều mà tâm đường thẳng rất ưa làm.

Ngã cố định hay ngã không ngừng thay đổi, không ngừng tự thăng vượt?

Tâm đường thẳng nhìn vào thế gian này thấy mọi thứ đều mang hình tướng, rồi nó nghe nói về khái niệm trống không, xong nó nghe nói là chính đức Phật đã dạy khái niệm này, mà Phật thì là một sinh thể cao cả đã giác ngộ, nhất định các khái niệm mà Phật dạy phải được nể trọng. Thế là tâm đường thẳng nói: “Bây giờ tôi muốn hiểu khái niệm này một cách tối hậu. Thế gian này có hình tướng, vậy trống không phải có nghĩa là vô hình tướng, không có gì ở đó cả.” Và một số người đã diễn giải theo nghĩa là chỉ có Brahman mà thôi, chỉ có sự nhận biết vô biên như một số người thời nay gọi như vậy, và đây là sự trống không. Cho nên, hoặc là có hình tướng như trong thế gian, hoặc là có sự trống không, và họ nghĩ hình tướng đi ra từ trống không, hay nói cách khác, có cái gì đó đi ra từ cái không-có-gì. Nhưng tất nhiên, chuyện không phải là như vậy.

Thày đã không nói trống không nghĩa là không có gì ở đó. Điều thày nói là không có một cái Ngã trường cửu cố định nào ở đó. Thày nói là thế giới không sinh ra từ trống không, và mục đích của thế giới không phải là quay trở về trống không sau một chu kỳ đầu thai dài đằng đẵng. Điều thày đã nói – và điều thày đã có ý nói – là không có một cái ngã cố định nào, nhưng có một cái ngã không ngừng thay đổi, không ngừng tự thăng vượt. Và cái ngã luôn luôn thay đổi này không có mục đích quay trở về cái không-có-gì sau một chu kỳ đầu thai và đau khổ gần như bất tận. Mục đích của nó là thăng lên một tầng cấp cao hơn nơi nó có thể tiếp tục vươn lên cao hơn nữa.

Chúng ta có thể hiểu được gì về cõi tâm linh?

Đó không phải là điều thày đã dạy cách đây 2500 năm vì thày đã quyết định trao truyền một giáo lý tập trung vào các khía cạnh thực tiễn chứ không vào các khía cạnh vũ trụ học, cho nên chủ đích của thày là nâng cao cho tâm thức con người vượt khỏi tâm đường thẳng, vì thày thấy rõ qua những người Bà la môn là tâm đường thẳng sẽ không bao giờ cho con được cái hiểu tối hậu về các khái niệm vũ trụ học. Làm thế nào cuối cùng con sẽ hiểu được cõi tâm linh vận hành ra sao? À, tất nhiên, bằng cách thăng thiên lên cõi tâm linh, vì lúc đó con sẽ kinh nghiệm được cõi tâm linh, con sẽ có thể theo đuổi việc tìm hiểu mọi khiá cạnh, mọi cõi giới của thế giới tâm linh, con có thể đi đây đi đó, đi lên càng ngày càng cao hơn và thám hiểm mọi thứ có thể được thám hiểm.

Con cũng có thể nói: “Nhưng ích lợi gì mà cố hiểu những chuyện đó khi con còn đang đầu thai?” Và đây chính là điều thày đã suy luận 2500 năm về trước khi tâm thức tập thể còn khá thấp. Nhưng thật ra ngày nay có chút ích lợi, vì nhiều người có thể lợi lạc nếu họ nắm được một vài khía cạnh của cõi tâm linh cùng cách vận hành của cõi tâm linh. Chắng chắn con sẽ lợi lạc khi con nắm bắt là ở cõi đó có những sinh thể tâm linh – các chân sư thăng thiên là thày tâm linh của con. Nhưng con cũng lợi lạc khi con nắm bắt là có hành tinh tự nhiên, và nhiều người tâm linh đã từ các hành tinh tự nhiên đó đến hành tinh phi tự nhiên này là trái đất.

Cho nên ngày nay có nhiều ích lợi hơn, nhiều giá trị hơn trong việc tìm hiểu cõi tâm linh, và đây là lý do các thày đang truyền giảng vào ngày hôm nay. Và tất nhiên, con sẽ thấy là ngày nay người ta cũng có cùng xu hướng y như 2500 năm về trước, khi có rất, rất nhiều người tìm cầu hiểu biết cao hơn nhưng lại dùng các loại giáo lý được diễn tả bằng ngôn từ để đạt được hiểu biết đó, xong họ phóng chiếu ra, họ diễn giải ra. Và tất nhiên, thời nay cũng có nhiều giáo lý được “truyền kênh” (channeled), thường thường từ cõi lý trí, cho nên chúng thường hấp dẫn đối với tâm đường thẳng, tâm phân tích, tâm thuần trí năng.

Có những giáo lý tự xưng là vô cùng cao cấp, cao hơn cả giáo lý của chân sư thăng thiên, và có những người tin rằng sách này hay sách nọ là lời dạy tâm linh tối thượng – và chuyện này, tất nhiên, hoàn toàn phải lẽ thôi. Con người cần đến một số trải nghiệm trước khi họ có thể nâng cao khả năng phân biện của mình để thấy được sự khác biệt về rung động giữa một lời dạy đến từ cõi lý trí và một lời dạy đến từ cõi thăng thiên. Đây không phải là một điều tâm đường thẳng thấu suốt được. Nó chỉ biết nhìn vào chữ nghĩa, diễn giải chữ nghĩa, rồi suy ra một diễn giải nào đó để bảo rằng lời dạy này cao siêu hơn lời dạy kia.

Sự trống không của nhận biết thuần khiết

Trở về với “trống không”, đâu là giá trị thực sự của khái niệm này? À, trước tiên hết, khía cạnh alpha là không hề có một ngã trường cửu cố định bất biến nào. Con là một cái ngã, một cái ta. Trong giáo lý ngày nay, các thày đã gọi đó là cái Ta Biết, tức là sự nhận biết thuần khiết. Nhưng một từ khác cho nhận biết thuần khiết có thể là sự trống không. Không có ý niệm bản sắc, không có những ý tưởng, không có những cảm xúc ngụ trong hay được sản xuất bởi các thể – hay các tâm – bản sắc, lý trí, cảm xúc. Con có thể nói là đối với hầu hết mọi người, sự chú ý của họ tập trung vào cảm xúc, ý tưởng hay ý niệm bản sắc của họ. Họ tập trung vào nội dung của tâm thức – nếu có thể nói như vậy – cho nên sẽ có thể ích lợi nếu họ thiền quán về mặt kia của đồng tiền, về khía cạnh alpha của tâm thức, tức là thay vì tập trung vào nội dung của tâm thức thì họ tập trung vào chính tâm thức. Và tâm thức thì trống không, hay có thể trống rỗng mọi nội dung. Và khi cái Ta Biết tự trải nghiệm chính nó như sự nhận biết thuần khiết, đây là một trạng thái trống không. Chỉ có nhận biết mà không có nội dung nào trong bình chứa của tâm thức.

Những tầng hiểu khác nhau về trống không

Tất nhiên con có thể đem nó lên một tầng cao hơn và thấy rằng khi con bước chân trên đường tu, vươn cao hơn tầng 48 và đến gần với tầng 96, thì con đang khắc phục các ngã tiềm thức, trong số này có nhiều ngã dựa trên tâm thức nhị nguyên. Con có thể nói là ở các tầng tâm thức thấp nhất được phép hiện diện trên trái đất, con người bị bao trùm, bị mù quáng, bị đồng hóa với tâm vị kỷ, tâm tách biệt. Khi con vươn đến tầng 96 và vượt ra khỏi bốn thể phàm của con, bình chứa phàm ngã của con trở nên trống rỗng cái tâm vị kỷ đó. Cho nên đây là một hình thức khác của trống không, một tầng cấp khác của trống không, nhưng tất nhiên không có nghĩa là trong tâm con không có gì.

Con vẫn có một ý niệm bản sắc, vẫn có ý tưởng và cảm xúc. Con vẫn hành động, con hồi đáp lại thế giới, con tương tác với thế giới, con tương tác với Hiện diện TA LÀ của con, với các chân sư thăng thiên. Con không trống rỗng mọi thứ, mà con trống rỗng một số thứ nẩy sinh từ một tầng tâm thức nào đó.

Con thấy là trống không có thể hiểu ở những cấp độ khác nhau. Không chỉ có một cách hiểu, một cách nắm bắt duy nhất. Nhưng tất nhiên con có thể đưa khái niệm này xa hơn nữa vì con có thể nói là khi con thăng thiên, nhìn từ nhãn quan cái Ta Biết, có vẻ như con bước vào hình thức tối thượng của trống không. Bởi vì giờ đây cái Ta Biết hoàn toàn nhập một với Hiện diện TA LÀ, nó trở thành chính Hiện diện TA LÀ, và không còn ngôn từ nào có thể mô tả tiến trình này trọn vẹn. Nhưng dẫu sao, con có thể nói là cái Ta Biết bây giờ đã trở nên trống rỗng cái ý niệm bản ngã mà nó đã mang từ khi nó được Hiện diện TA LÀ gửi vào hiện thân. Nhưng tất nhiên, điều này vẫn không có nghĩa là không có gì, mà giờ đây có sự nhận biết viên mãn của Hiện diện TA LÀ. Như các chân sư khác có giải thích, con có khả năng lại gần một điểm trong quả vị Ki-tô nơi con ngày càng trở thành một, càng hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Nhưng cái Ta Biết không thể hoàn toàn hợp nhất với Hiện diện TA LÀ cho đến khi con thăng thiên.

Khái niệm trống rỗng (void) và vô ngã

Để nắm bắt trọn vẹn sự trống không, con cũng cần nắm bắt là khái niệm này có thể bị tha hóa, lạm dụng như thế nào. Và đây là điều đã xảy ra trong một số hình thức xưa hơn của đạo Phật cũng như trong các giáo lý tâm linh hiện đại, thậm chí cả một số truyền thống khác như Advaita Vedanta cùng một số đạo sư hiện đại. Họ nắm lấy khái niệm trống không đó phối hợp với lời dạy của ta rằng nó không có Ngã, rồi họ đã diễn giải theo nghĩa rằng trạng thái phát triển tâm linh tối hậu là trạng thái “vô ngã”, là sự trống không tối hậu. Nhưng tất nhiên đây là một cách diễn giải sai lạc.

Như Lanto vừa giải thích, quả thực một sinh thể đang đầu thai trên địa cầu có thể trải nghiệm một trạng thái có vẻ trống rỗng mọi hình tướng, trống rỗng mọi biểu hiện, trống rỗng mọi ý niệm bản ngã. Nhưng đó không phải là vì có một trạng thái trống không tối hậu nào đó được quy định bởi một sinh thể cao hơn hay bởi Thượng đế. Các thày đã có dạy rằng ở thuở ban đầu có Đấng Sáng tạo, và Đấng Sáng tạo quyết định sáng tạo. Trước hết ngài vẽ một lằn ranh chung quanh chính ngài trong cõi Tất Cả. Ngài rút mọi thứ bên trong lằn ranh đó và tạo ra trống rỗng (void).

Tất nhiên, trống rỗng này có thể được quan niệm như là trạng thái trống không tối hậu. Nhưng con là người đồng sáng tạo, con không thể trải nghiệm sự trống rỗng. Có thể nói là ngay cả Đấng Sáng tạo cũng không trải nghiệm sự trống rỗng. Tại sao? Trải nghiệm là gì chứ? Trải nghiệm là một cái gì có hình tướng. Nếu không có hình tướng thì làm sao có trải nghiệm? Trong trống rỗng không có hình tướng. Vậy làm sao con trải nghiệm được trống rỗng? Khi người ta trải nghiệm điều mà họ tuyên bố là thực tại cao nhất, là nhận biết thuần khiết, là trạng thái nhận biết tối hậu, thì cái đó là gì chứ? Họ đã trải nghiệm gì chứ? Họ đã không trải nghiệm một sự trống rỗng. Họ trải nghiệm một trạng thái đã được các sinh thể trong tâm thức nhị nguyên tạo ra.

Như Lanto giải thích, sa nhân đã chụp lấy một cách tiếp cận là việc tìm cách tâng ngã tách biệt lên một địa vị tối thượng, và một cách tiếp cận khác là việc phủ nhận sự hiện hữu của bất kỳ ngã nào. Và như vậy chúng đã tạo ra trong tâm thức tập thể một con quái vật, một khuôn đúc, một cái ngã có vẻ như trống rỗng. Nhưng như Lanto có giảng, nếu con bảo: “Tôi không có ngã,” hay “tôi đã trải nghiệm vô ngã,” hay “tôi đã trải nghiệm sự trống không”, thì ở đó vẫn có một cái “tôi”, cho nên không có trạng thái vô ngã.

Vậy thì “vô ngã” là gì? Đó là sự phóng chiếu của một hình ảnh. Cũng giống như vậy, đã có một sự phóng chiếu của một hình ảnh về cái không-có-gì, về sự trống không, và mặc dù một số người tuyên bố là mình đã trải nghiệm trống không, nhưng họ đã trải nghiệm hình ảnh của trống không. Nhưng cái này không phải là trống không, bởi vì nó chứa đầy hình ảnh, và hình ảnh thì có một hình tướng mà một sinh thể trên trái đất có thể trải nghiệm. Cho nên đó không phải là trống không.

Khi người ta có một trải nghiệm – và thày không bác bỏ là họ có một trải nghiệm, thày chỉ bác bỏ đó là một trải nghiệm tối hậu của sự trống không – nhưng khi người ta có một trải nghiệm rồi trở về mức nhận biết bình thường của mình, và họ bắt đầu sử dụng ngôn từ để bày tỏ trải nghiệm này, thì họ chỉ đang xây đắp cho tâm ảnh đó, củng cố thêm và có lẽ diễn giải tâm ảnh đó, thế là giờ đây họ sử dụng nó để phóng chiếu ra là họ đã có một trải nghiệm tối hậu. Và điều này có nghĩa gì? À, nếu có ai đó tự cho mình là một vị thày tâm linh và giảng dạy về một trải nghiệm trống không hay “vô ngã” tối hậu, thì các môn đồ của vị đạo sư này sẽ làm gì? Họ sẽ phóng chiếu ra là nhất định vị ấy phải chứng được tâm thức tối thượng vì vị ấy đã có trải nghiệm tối hậu về trống không. Nhưng làm sao trống không có thể là trạng thái tâm thức tối thượng được? Làm sao trống không có thể là thực tại tối hậu được?

Trống không là một khái niệm rỗng tuếch

Tại sao con hiện hữu? Tại sao thế gian hiện hữu? Tại sao lại có một thế giới có khả năng cung cấp trải nghiệm cho con? Tại sao, như nhiều nhà khoa học hiện đại đang hỏi, lại có một cái gì đó thay vì không-có-gì? À, bởi vì luôn luôn đã có một cái gì. Chưa bao giờ mà không có gì hết. Nếu chưa bao giờ có gì thì bây giờ cũng sẽ không có gì, và nếu vậy thì cũng không có con đang ngồi đây mà đặt câu hỏi. Chính sự kiện con hiện hữu cho thấy là không có cái không-có-gì. Có một sự sinh tạo những sinh thể tự nhận biết, và luôn luôn đã có một sự sáng tạo nào đó. Có một mục đích, có một đường hướng trong sự sáng tạo đó, và đường hướng này là tăng triển đến những tầng tâm thức ngày càng cao hơn. Và con không tăng triển đến những tầng tâm thức ngày càng cao hơn qua cái không-có-gì. Cái không-có-gì không thể trở nên ngày càng cao hơn. Cái không-có-gì không thể là tối thượng. Thật ra không thể có gì tối thượng được, bởi vì luôn luôn có thể có những tầng tâm thức cao hơn.

Một lần nữa, tâm đường thẳng sẽ hốt hoảng khi nghe những ý tưởng này. Nhưng trong trực giác, con có thể nắm bắt mục đích của sự sống là sự tăng triển tâm thức. Và ở đây trên trái đất, con có khả năng tăng triển để trở thành một chân sư thăng thiên, tức là cao hơn rất nhiều những gì con người đang có trên trái đất. Nhưng một chân sư thăng thiên có thể tăng triển để đạt tới tâm thức của Đấng Sáng tạo, và Đấng Sáng tạo thì có thể tăng triển đến những tầm mức cao hơn nữa. Nhưng này con, khi con bàn đến các tầm mức vượt khỏi tâm thức Đấng Sáng tạo thì ngôn từ thật vô nghĩa. Con không thể thấu suốt được khi con chưa thăng thiên. Ngay cả khi con thăng thiên rồi, con cũng không thể thấu suốt mà con chỉ có thể hé thấy.

Cho nên sự trống không rỗng tuếch mọi ý nghĩa. Đó là một khái niệm vô nghĩa. Nó không có chỗ đứng trong một giáo lý tâm linh chân truyền. Những ai giảng dạy nó, tuyên bố nó là một trạng thái tối hậu nào đó, không phải là thày tâm linh đích thực. Họ không thẳng hàng với các chân sư thăng thiên. Đơn giản là họ đã gạt qua bên cõi thăng thiên, gạt qua bên cõi tâm linh, gạt qua bên tất cảc các sinh thể ở giữa con người trên địa cầu và Đấng Sáng tạo. Thậm chí họ gạt cả Đấng Sáng tạo qua bên nếu họ dạy rằng sự nhận biết vô biên, hay nhận biết thuần khiết, hay Brahman, là một loại khái niệm không có bất kỳ hình tướng nào. Và do đó họ không giảng dạy một giáo lý chính đáng.

Động lực tích cực đến từ ý muốn tự thăng vượt

Họ không giảng dạy một giáo lý có thể cho con một lẽ sống hay một mục đích, và đó là tại sao nhiều người như vậy không tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống, giống như nhiều tín đồ Ấn giáo vào thời của Phật cũng không tìm được ý nghĩa nào trong cuộc sống.

Bởi vì Ấn giáo giảng dạy về những chu kỳ vũ trụ gần như bất tận kéo dài hàng tỷ năm trời, cho nên tác động trên quần chúng vào thời đó cũng như thời nay cho họ cảm tưởng là họ đã đi ra từ cái không-có-gì, xong họ sống qua một số kiếp đầu thai gần như vô lượng nơi họ phải chịu khổ đau trong mỗi kiếp, để cuối cùng phần thưởng cho tất cả sự phấn đấu, tất cả công sức, tất cả khổ đau đó là họ quay trở về cái không-có-gì và biến mất – thật sự, một loại phần thưởng khiến người ta muốn cố gắng hết sức để đạt tới cái không-có-gì, không phải vậy sao?

Điều này cũng phần nào tương tự như nhiều người đạo Cơ đốc mang động lực chủ yếu muốn lên thiên đàng chỉ vì họ muốn tránh không rơi xuống địa ngục. Con thử nhìn xem có bao nhiêu người Cơ đốc giáo có tầm hiểu nào đó về thiên đàng, về những gì họ có thể làm ở thiên đàng, nhưng họ lại hiểu rõ địa ngục là gì cho nên đây là cái họ muốn né tránh. Chúng ta có thể gọi đó là một loại động lực tiêu cực. Và quan niệm về cái không-có-gì, quan niệm về một chu kỳ đầu thai bất tận sẽ dẫn con trở về cái không-có-gì, cùng lắm cũng chỉ là một động lực tiêu cực hay không là động lực gì hết.

Những gì các thày trao cho con ngày nay – các thày hy vọng như vậy – là một động lực khích lệ hơn, qua đó con được sinh tạo như một người đồng sáng tạo, con có tiềm năng thăng vượt ý niệm bản ngã của con, và con vươn đến những tầng cấp cao hơn và cao hơn nữa nơi con tìm được ý nghĩa sâu sắc hơn trong việc biểu đạt bản thân như một người đồng sáng tạo, không chỉ cùng với Đấng Sáng tạo mà cùng với tất cả mọi sinh thể đồng sáng tạo khác. Thậm chí chúng ta có thể nói là ngay cả trong số các sa nhân đã rơi vào nhị nguyên, thì một số dường như cũng có một động lực. Giấc mơ của chúng là hoàn thiện ngã tách biệt để chứng tỏ là Thượng đế sai lầm và chúng sẽ được phép bước vào cõi tâm linh và trở thành bất tử, hay được giao phó việc cai trị bầu cõi chưa thăng thiên này. Con có thể nói là chúng có động lực, nhưng không phải loại động lực mà con có khi con neo mình vào việc đồng sáng tạo và tự thăng vượt. Bởi vì việc xây đắp cho ngã tách biệt ngày càng tinh xảo hơn không phải là tự thăng vượt. Đây là điểm mà nhiều người không nắm bắt, tâm đường thẳng không nắm bắt, và chắc chắn sa nhân cũng không nắm bắt.

Có một cách để minh họa sự thể này là bảo rằng con có thể quyết định, một nhóm người có thể quyết định xây cất một toà nhà vô cùng tinh xảo, và giống như trong truyền thuyết Tháp Babel, họ quyết định là tòa nhà này sẽ vươn lên cao vút, cao đến tận trời. Họ vẽ đồ án, họ thu thập vật liệu và họ bắt đầu xây tháp, họ xây cao hơn, cao hơn và cao hơn nữa. Họ bỏ ra công sức khổng lồ cho cái tháp này, nhưng chuyện gì cuối cùng sẽ xảy ra? À, có một lực gọi là trọng lực, và sẽ đến một điểm khi bất kỳ cấu trúc nào trên trái đất sẽ đạt tới độ cao tối đa trước khi nó sụp đổ dưới sức nặng của chính nó. Cho dù con có xây nền móng vững chắc đến đâu bên dưới, nhưng khi con ngày càng chồng thêm sức nặng bên trên thì sẽ tới một điểm nền móng không thể chịu nổi trọng lượng ở trên được nữa, và tháp bắt đầu vỡ vụn. Thình lình toàn bộ cấu trúc bắt đầu rung chuyển, lắc lư bên này sang bên kia rồi tất cả đổ ập xuống.

Đây là điều sa nhân đang cố làm. Chúng cố dùng vũ lực để xông lên thiên đàng bằng cách xây dựng một tháp Babel từ vật liệu của ngã tách biệt. Tự thăng vượt là gì chứ? Là làm hoàn toàn khác. Để minh họa một cách thô thiển, con hãy mường tượng là con quyết định chế tạo một chiếc hỏa tiễn có khả năng đưa con lên thiên đàng thay vì xây một toà nhà cao đến chín tầng mây. Việc này, khoa học đã chứng minh là khả dĩ. Nhưng tất nhiên, một cách minh họa tinh tế hơn nữa là bảo rằng con sẽ thăng vượt toàn bộ tầng tâm thức nhị nguyên, là tầng tâm thức không những tùy thuộc vào trọng lực mà cả định luật thứ nhì của nhiệt động học. Con không cần sử dụng sức mạnh để đi lên thiên đàng, mà con tự giải thoát khỏi nhu cầu sử dụng sức mạnh, cho nên con vươn lên các tầng cao hơn một cách tự nhiên.

Bởi vì nói cho cùng, thiên đàng là gì? Thiên đàng có phải là một địa điểm vật lý ở cao trên mặt đất mấy kilomét như người ta vẫn nghĩ vào thời Trung cổ bên Âu châu? Hay là như các thày đã giảng, đó là một chiều kích khác, một tầng tâm thức khác? Cho nên thật ra cách duy nhất để lên thiên đàng là thăng vượt tầng tâm thức hiện thời của con, có nghĩa là thay vì tìm cách hoàn thiện cái ngã, con thăng vượt ngã. Và tại sao đây là cách duy nhất? Bởi vì có một cái Ta ở cõi tâm linh, và con đã đi ra từ cái Ta này, đã đi xuống thế giới vật chất bằng cách khoác vào một số ngã khiến con xa rời trạng thái nguyên thủy của con, đã đưa con xuống thấp hơn và khiến con tưởng mình là kém hơn những gì mình thực là. Bằng cách rũ bỏ những ngã này đã kéo con ra khỏi trạng thái thăng thiên, con sẽ trở về đó một cách tự nhiên. Bây giờ một số các con có thể phản bác với tâm đường thẳng: “Nhưng Gautama, chẳng phải là hồi nãy thày bảo là trên cõi cao không có Ngã hay sao?” Ủa, thày đã nói vậy sao?

Cái Ta không ngừng tự thăng vượt

Các nhà Bà la môn bảo là có một Đại ngã, một ngã trường cửu cố định ở cõi cao. Còn thày thì nói là không có Ngã cố định. Thày không nói là không có Ngã. Có một cái Ngã, và đó chính là cái Ta không ngừng tự thăng vượt chính nó, nói cho cùng là Đấng Sáng tạo đang tự thăng vượt bằng cách sáng tạo. Rồi sau đó là tất cả các tầng cấp sinh thể thăng thiên trong các bầu cõi trước đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra những phần nối dài của mình – những sinh thể đồng sáng tạo mới – xuống tận đến dưới này là các chân sư thăng thiên đang làm việc với bầu cõi chưa thăng thiên của con và cũng đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra Hiện diện TA LÀ của con. Và Hiện diện TA LÀ đã tự thăng vượt bằng cách tạo ra cái Ta Biết. Và cái Ta Biết đã đi xuống thế giới hình tướng xa nhất mà nó có thể trong hiện tại. Và một khi tiến trình này – là tiến trình của tâm Đấng Sáng tạo tự nối dài vào thế giới hình tướng – đã đi xa hết mức trong bầu cõi hiện thời, thì bước tự nhiên lúc đó sẽ là gì?

Là khởi sự hành trình quay trở về, đi lên trở lại, và đây chính là chức năng, mục đích của cái Ta Biết, là tiến trình thăng thiên. Và khi con hoàn tất tiến trình thăng thiên này, con không bước vào cái không-có-gì mà con vẫn tiếp tục đi lên – một hành trình dẫn con trở về đến tận cao chót là tâm thức của Đấng Sáng tạo. Những gì con làm sau đó tùy vào những chọn lựa mà con sẽ lấy ở mức đó, và nói thật ở mức hiện tại của con, con không cần lo lắng về chuyện này. Điều con cần quan tâm là làm thế nào hoàn tất tiến trình thăng thiên để con có thể thăng khỏi trái đất, khỏi hành tinh chưa thăng thiên này. Và một khi con thăng thiên thì con sẽ quyết định con muốn làm gì từ điểm đó.

Kết nối với chân sư thăng thiên qua giáo lý

Cho nên một lần nữa, các thày đã trao cho con nhiều hơn những gì hầu hết các con có thể tiếp nhận trong một buổi – chén của con đã đầy và đang tràn ra ngoài. Nhưng các thày không chỉ cố cho con một điều gì con có thể nắm bắt ở mức nhận biết hiện tại của con. Các thày cũng cố cho con một điều gì mà con có thể đọc lại và nghiên cứu hết lần này sau lần nọ, để khi con nắm lấy một điểm giáo lý đánh động tâm con ở mức hiện thời của con và con thể nhập nó, thì con vươn lên mức kế tiếp, rồi con có thể học lại giáo lý một lần nữa, tìm ra một điểm mới mà con đã bỏ sót lần đầu nhưng bây giờ mới hấp dẫn con, con lại thể nhập và vươn lên mức cao hơn. Và đây chính là cách con tiến bộ trên đường tu.

Những ai cho rằng mình chỉ cần đọc hay nghe bài truyền đọc một lần mà thấu suốt được mọi điều có thể lãnh hội, thì họ đã bỏ lỡ sự kiện là một lời dạy luôn luôn được trao truyền cho nhiều tầng cấp khác nhau. Cho nên con không bao giờ thực sự học xong một lời dạy tâm linh vì nếu con cởi mở, lời dạy tâm linh sẽ làm gì? Nếu con quay trở lại 20 năm nữa và đọc lại bài truyền đọc mà con vừa nghe hay vừa đọc hôm nay, thì con có tiềm năng làm gì? Con có thể nói: “Ồ, tôi đã hiểu bài này cặn kẽ bằng tâm trí thức, vỏ ngoài của tôi rồi.” Nhưng mục đích thực sự của lời dạy là gì chứ? Là kết nối con với vị chân sư thăng thiên đã trao truyền lời dạy đó.

Trong 20 năm nữa thày vẫn sẽ còn đây. Trong 20 năm nữa thày sẽ đã tự thăng vượt cũng như thày tin là con cũng sẽ tự thăng vượt. Và điều này có nghĩa là khi con đọc lại bài truyền đọc này trong 20 năm nữa và hòa điệu với Hiện diện của thày, thày có thể cho con những điều không nằm trong lời dạy thành văn mà vượt khỏi lời dạy thành văn. Và thật sự điều này sẽ tùy con có sẵn lòng đến chừng nào để kết nối và nhận được gì từ thày. Có thể sẽ không phải là ngôn từ. Có lẽ con đã vươn tới mức con với thày có thể hòa nhập theo một cách vượt khỏi ngôn từ. Nhưng giáo lý vỏ ngoài vẫn có thể giúp con hòa điệu tâm con với tâm thày để hai tâm gặp gỡ, và thày cam đoan với con sự gặp gỡ này không phải là trống không, mặc dù nó có thể trống rỗng cái tâm của tự ngã, trống rỗng tâm đường thẳng cùng tất cả những khái niệm và tư tưởng kia đang bay phất phơ quanh địa cầu. Cho nên có thể con sẽ không có khả năng diễn tả sự hòa điệu này bằng lời, nhưng thày cam đoan với con đó không phải là trống không. Bởi vì như thày đã cố giải thích, trống không là một khái niệm rỗng tuếch.      

Với lời này, thật là một niềm vui rất lớn cho thày được niêm hội nghị này, khoá tu này, buổi gặp gỡ này, và một lần nữa thày bày tỏ lòng biết ơn của tất cả các thày đã tham dự. Và kỳ thực ngoài các thày đã ban bài truyền đọc, còn có nhiều chân sư thăng thiên khác cũng đã tham gia. Cho nên tất cả các thày đều hy vọng là mặc dù vị chân sư gần gũi nhất với con đã không giảng dạy, hội nghị này vẫn đã giúp con hòa điệu với vị thày gần nhất với tim con. Vì nói cho cùng, tất cả các thày đều là một, cho nên con có thể dùng bài truyền đọc của bất kỳ chân sư nào để hoà điệu với bất kỳ chân sư nào khác.

Và như vậy, một lời cảm tạ thật lớn của các thày cho các con đã hiện diện ở đây trong cõi vật lý và đã sẵn lòng trải nghiệm Hiện diện của các thày.

Không ngã nào có thể đem con vào trạng thái thăng thiên

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 10/4/2023, nhân Webinar Phuc sinh 2023 – Đem đạo Cơ đốc và chính con xuống khỏi thập tự giá.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Phật có liên quan gì đến thập tự giá và việc đem một ai đó xuống khỏi thập tự giá? À, con không thật tin rằng trước khi Giê-su xuất hiện trên trái đất thì con người đã bị đóng đinh trong tâm họ rồi sao? Các biểu tượng mà các thày đã giải thích trong hội nghị này về ý nghĩa sâu xa hơn của thập tự giá tất nhiên cũng áp dụng cho Giê-su. Các biểu tượng này đã áp dụng kể từ khi con người trên địa cầu bước vào nhị nguyên.

Gautama bước xuống từ thập tự giá

Khi thuở đó ta chuẩn bị sứ vụ của ta trong tư cách là Phật, sứ vụ giáo huấn của ta, nhiều lần ta đã phải gỡ mình xuống khỏi thập tự giá. Ta đã lớn lên trong một môi trường vô cùng bảo bọc nơi cung điện. Ta đã sống trong một số điều kiện vỏ ngoài thật đặc thù, không bao giờ gặp người nào bệnh tật, và ta được hưởng mọi giàu sang cùng thú vui vật chất mà ta có thể mong muốn. Ta đã bị đóng đinh bởi lối sống rất trần tục, thoải mái, sung sướng đó. Ta đã phải gỡ mình xuống khỏi thập tự giá mấy lần trước khi ta thực sự sẵn sàng rời bỏ cung điện này, đi vào rừng để sống như một người khổ hạnh, thiền định, nhịn đói cho đến gần chết. Và khi ta ngồi đó thiền định, tất nhiên là ta xem xét tâm mình và khắc phục được một số ảo tưởng, có nghĩa là một lần nữa ta lại đem mình xuống khỏi một thập tự giá khác, vì như ta đã giải thích, con có thể nói là với mỗi tầng tâm thức trong số 144 tầng, có một ảo tưởng khiến con bị trói chặt vào thập tự giá.

Ta đã đạt tới mức có thể gỡ mình xuống khỏi một thập tự giá vĩ đại, một ảo tưởng vĩ đại, khi ta ngộ ra là lối sống khổ hạnh thật quá cực đoan và vì thế không phải là con đường tối thượng. Đó là khi ta chứng được Trung đạo, nhưng ngay cả khi đó, ta vẫn phải kinh qua một quá trình đã không được thực sự ghi lại trong kinh sách Phật giáo là ta phải hội đủ tư cách để có thể bắt đầu sứ vụ hoằng pháp, và một lần nữa ta lại gỡ mình xuống khỏi một loạt thập tự giá nữa. Nhưng rồi khi ta bắt đầu sứ vụ giảng dạy thì các Phật tử, đại đa số Phật tử, cứ muốn nghĩ là khi đó chắc chắn ta đã là một sinh thể toàn hảo. Nhiều Phật tử muốn nghĩ rằng ta còn toàn hảo ngay từ đầu cơ, nghĩa là ta đã không phải đi qua nguyên một tiến trình. Nhưng điều họ nghĩ thật không có căn cứ nếu họ nhìn kỹ câu chuyện cuộc đời của ta.

Ngay cả sau khi khởi sự giảng dạy, ta vẫn còn những ảo tưởng phải khắc phục, vì lý do giản dị là nếu ta đã vượt qua mọi ảo tưởng thì ta đã không thể cầm giữ một thân thể vật lý. Ta vẫn phải nhìn ra nhiều điều trong bản thân mình, vẫn phải khắc phục những cái ngã tách biệt, vẫn phải gỡ mình xuống khỏi những thập tự giá đó. Điều ta muốn nói giản dị ở đây là ta đã đi qua tiến trình bước xuống khỏi thập tự giá, và vì thế ta đủ tư cách để nói chuyện về đề tài này.

Đồng sáng tạo trong một trạng thái hợp nhất

Các thày có thể trình bày một cách nhìn nào khác về thập tự giá hay không? À như các thày khác có nói, có bốn tầng vật chất, bốn cánh hay bốn đầu trên thập tự giá, bốn điểm của thập tự giá, và vì vậy con bị đóng đinh trong vật chất. Nhưng vật chất là gì? Có thể nói vật chất là hình tướng. Con sống trong một thế giới hình tướng. Con sống trong một thế giới hình tướng không do cá nhân con tạo ra.

Các thày đã giải thích là khi con đi xuống hiện thân lần đầu tiên ở một cõi chưa thăng thiên, con là một người đồng sáng tạo. Con tự xem mình là một sinh thể nối kết, và con thấy mình đang ở trong một môi trường đã được tạo dựng bởi những sinh thể ở một tầng tâm thức cao hơn con. Con đang sử dụng sự nối kết của con để đồng sáng tạo và con cũng biết là con không đang sáng tạo qua uy lực của riêng minh. Cho nên trong hoàn cảnh này khi con chưa bước vào nhị nguyên, con không bị đóng đinh vào vật chất vì con biết con là nhiều hơn hình tướng. Thậm chí con là nhiều hơn cái ngã mà con đã khoác vào trong bầu cõi chưa thăng thiên này.

Ngay khi con đầu thai lần đầu, con đã có bốn thể phàm. Con có một bản sắc thể, một trí thể, một cảm thể và một cơ thể vật lý, và để bắt đầu đồng sáng tạo, con tạo ra một số cấu trúc trong những thể cảm xúc, lý trí và bản sắc đó. Điều này xảy ra khi từ mức Hiện diện TA LÀ của con, con bước xuống qua tầng 144, tầng 143, rồi xuống mãi đến tầng 48 trong bầu cõi của con. Theo một cách nào đó, con khoác vào tất cả những ảo tưởng này, nhưng vì con vẫn xem mình là một sinh thể nối kết cho nên con không bị đóng đinh trong tâm con, và nhờ thế khi con tạo ra một tình huống vật lý nào đó, con không đồng hóa với tạo vật của mình. Cho nên con không bị đồng hóa với tạo vật vật chất mà con đã tạo dựng và con không xem mình đồng nhất với xác thân vật lý của con.

Ảo tưởng vật chất là quan trọng

Chỉ khi con xuống dưới tầng 48 đó và bước vào cõi tách biệt thì con mới bị đóng đinh. Nhưng ta chẳng vừa nói là với mỗi tầng tâm thức, kể cả ở trên tầng 48, đều có một ảo tưởng mà con phải khắc phục và do đó, theo một nghĩa nào đó, con bị đóng đinh vào ảo tưởng này hay sao? Bây giờ có phải ta đang nói ngược lại? Không, vì ta không nói về cùng một hoàn cảnh. Khi con giáng thế lần đầu, con không đi xuống một hành tinh có nhị nguyên. Ngay cả các cư dân nguyên thủy của trái đất cũng đã đầu thai lần đầu khi chưa một ai trên trái đất đã bước vào nhị nguyên. Nhưng khi con đầu thai trên một hành tinh như trái đất nơi tâm thức bị thấm đẫm nhị nguyên, thì con mới có thể nói là con bị đóng đinh vào từng ảo tưởng, và chỉ khi nào con lên đến tầng 144 thì thực sự mới nói được là con đã khắc phục trọn vẹn cái cảm nhận rằng vật chất là quan trọng.

Con không chỉ bị vướng kẹt, hay bị đóng đinh, hay bị ám ảnh về mặt thể xác, cảm xúc hay lý trí, mà con mang cảm nhận các điều kiện vật chất là quan trọng. Không nhất thiết là con đồng hóa với chúng, vì khi con bắt đầu lên cao hơn tầng 96 thì con ngừng không đồng hóa với vật chất nữa nhưng con vẫn nghĩ là trên địa cầu có gì đó quan trọng, có gì đó mà con muốn thấy thay đổi, và trên một hành tinh dày đặc như trái đất thì con duy trì cảm nhận này cho tới chót. Như con thấy thày Giê-su treo thân trên cây thập tự mà vẫn còn chút mong muốn làm gì đó trên trái đất, mong muốn tiếp tục sứ vụ của mình, cho nên thày mới muốn Thượng đế đến cứu thày khỏi thập tự giá để thày có thể tiếp tục sứ vụ của mình. Thày vẫn còn cái cảm nhận là vật chất quan trọng, có gì đó quan trọng trong vật chất.

Mặc dù điều này không được ghi lại trong kinh sách, con cũng có thể nhìn vào sứ vụ giáo huấn của ta. Ta không còn đồng hóa với cơ thể, không còn đồng hóa với vật chất, nhưng ta vẫn còn cảm nhận là trong vật chất có điều gì quan trọng, và đó chính là tại sao ta đã ở lại địa cầu và đã giảng dạy. Ta cảm thấy ta có thể đem lại một cái gì khác biệt. Ta không bảo chuyện này là sai, mà ta chỉ muốn giải thích cho con hiểu là trên một hành tinh dày đặc như trái đất, chỉ khi nào con thăng thiên thì con mới thật sự khắc phục ảo tưởng cuối cùng khiến các điều kiện của thế giới vật chất có vẻ quan trọng.

Sự (không) sẵn lòng buông bỏ hình tướng con đã tạo dựng

Này con, khi con nhìn bức tranh tổng thể và nhìn xa hơn trái đất, con có thể nói là Đấng sáng tạo thế giới hình tướng của con đã tạo ra bầu cõi đầu tiên từ chính bản thể ngài, tạo ra các sinh thể tự nhận biết từ chính bản thể ngài, rồi gửi họ vào bầu cõi để hoạt động trong tư cách làm người đồng sáng tạo với mục đích họ sẽ dần dần tăng triển tâm thức. Bầu cõi thứ nhất thăng thiên, bầu cõi thứ nhì được tạo dựng, nó cũng thăng thiên. Rồi bầu cõi thứ ba rồi thứ tư, và mỗi bầu cõi sau dày đặc hơn bầu cõi trước một chút, cho tới một điểm ở bầu cõi thứ tư khi một số sinh thể từ chối không thăng thiên với bầu cõi của họ, cho nên họ bị rơi xuống, họ sa xuống bầu cõi thứ năm, vân vân. Điều có thể nói về ba bầu cõi đầu là những người đồng sáng tạo nâng bầu cõi họ thăng thiên đã không bao giờ trở nên đồng hóa với hình tướng, có nghĩa là gì? Có nghĩa là, chẳng hạn, cho dù nền văn hóa mà họ tạo dựng trên một hành tinh có tinh xảo tuyệt diệu đến chừng nào thì họ vẫn không bao giờ đồng hóa với hình tướng họ đã tạo dựng.

Chúng ta không chỉ đang nói tới chuyện đồng hóa với thân xác vật lý mà thôi, chúng ta nói đến những sinh thể đã sống trong bầu cõi này suốt một thời gian dài đằng đẵng, đã làm người đồng sáng tạo từ thuở họ mới khởi lên một ý niệm bản ngã vô cùng giới hạn và khả năng đồng sáng tạo cũng vô cùng giới hạn, nhưng lần hồi sau một thời gian rất dài họ đã khuếch trương khả năng đồng sáng tạo này đến mức họ có thể tạo dựng những hình tướng, những hành tinh, những nền văn hóa trên hành tinh vô cùng tinh xảo. Nhưng mặc dù các hình tướng này cực kỳ tinh xảo công phu, họ đã không bao giờ đồng hoá với chúng. Không bao giờ họ bị lạc lối trong hình tướng mà họ tạo ra.

Nhưng bây giờ đến bầu cõi thứ tư, cũng có một số sinh thể đã bỏ ra một thời gian rất dài để khuếch trương khả năng đồng sáng tạo của mình, nhưng khi đến lúc bầu cõi thăng thiên thì họ không sẵn lòng bỏ lại tạo vật của họ. Trong khi các sinh thể từng thăng thiên trong các bầu cõi trước đã đạt tới điểm sẵn lòng buông bỏ những hình tướng tinh xảo mà họ đã tạo ra, thì các sinh thể này ở bầu cõi thứ tư không sẵn sàng bỏ lại. Họ chiêm ngưỡng tạo vật của họ, họ mê say tạo vật của họ, và trong cái tâm đã tạo nên tất cả tạo vật tinh xảo đó, họ không sẵn lòng bỏ nó lại. Nói cách khác, họ đã trở nên đồng hóa với hình tướng họ tạo dựng.

Tất nhiên giáo lý mà các thày đã trao cho con về cái Ta Biết nói rằng cái Ta Biết không bao giờ có thể trở thành hình tướng do nó tạo ra. Nó có thể sáng tạo những hình tướng rất công phu khi nó khuếch trương khả năng đồng sáng tạo, nhưng nó không thể trở thành hình tướng. Tại sao vậy? Con đồng sáng tạo như thế nào chứ? Con đồng sáng tạo bằng cách tạo ra một cái ngã trong cõi bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý, và con đồng sáng tạo xuyên qua ngã này. Ở đây chúng ta không nói về một cái ngã tách biệt. Tuy con tự xem mình là một sinh thể kết nối nhưng con vẫn tạo ra một cái ngã, và điều tài tình ở đây là cái Ta Biết không thay đổi trong nguyên tiến trình nó đi qua. Nó không thay đổi! Chỉ có cái ngã là ngày càng trở nên tinh xảo hơn mà thôi.

Khi bầu cõi của con sẵn sàng thăng thiên, con phải buông bỏ ngã này. Con phải buông bỏ hồn ma. Và đây chính là điều các sinh thể sa ngã không muốn làm vì họ quá mê say với nó, họ quá đồng hóa với ngã do họ tạo ra, họ quá đồng hóa với hình tướng đến nỗi – theo cách diễn tả của Ki-tô hoàn vũ – họ không chịu để mất đời sống của họ vì ta. Họ không chịu đánh mất đời sống của họ để đi theo Ki-tô và bước vào một trạng thái cao hơn của sự sống là sự sống vĩnh hằng. Họ đã được phép kinh qua trải nghiệm mà họ muốn, nhưng hiển nhiên, họ không thể duy trì tạo vật của họ ở bầu cõi thứ tư, cho nên họ đã – cùng với ngã tách biệt mà họ đã tạo dựng – rơi xuống bầu cõi thứ năm. Và ở đây, họ đã có thể sử dụng cái ngã tinh xảo này để khởi sự tạo ra gì đó trong bầu cõi thứ năm, và tất nhiên tạo vật này tiến bộ hơn tất cả mọi thứ các dân cư mới trong bầu cõi này có thể đồng sáng tạo.

Tâm thức sa ngã ảnh hưởng giáo lý tâm linh như thế nào

Những điều trên liên quan thế nào với con là người đang hiện thân trong bầu cõi thứ bảy trên một hành tinh dày đặc chưa thăng thiên có tên là trái đất? À, đó là thế này: toàn bộ mục đích của thế giới hình tướng chỉ đơn giản là cung cấp một môi trường cho các sinh thể tự nhận biết đồng sáng tạo để họ có thể mở rộng khả năng đồng sáng tạo, mở rộng tâm thức của họ. Nhưng trong một bầu cõi chưa thăng thiên, sự mở rộng tâm thức này không xảy ra trong bốn thể phàm, nó cũng không xảy ra ở mức cái Ta Biết, mà nó xảy ra ở mức Hiện diện TA LÀ và căn thể. Và điều này nhằm mục đích là ngay cả nếu con chọn sa ngã, nếu con chọn bị lạc lối trong tạo vật của con, thì Hiện diện TA LÀ vẫn không thể bị đánh mất, và do đó các trải nghiệm của con như một người đồng sáng tạo không bao giờ bị đánh mất.

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là như một đệ tử bước chân trên con đường tâm linh, con đường quả vị Ki-tô, con đường quả vị Phật, con đường dẫn đến thăng thiên, con cần nhận ra là mọi khía cạnh của cuộc sống trên địa cầu đã bị tâm thức sa ngã chi phối, kể cả mọi khía cạnh của tôn giáo lẫn tâm linh. Bất kể lời cả quyết của bất kỳ tôn giáo nào, bất kỳ triết lý tâm linh hay tổ chức tâm linh nào, thì mọi giáo lý tâm linh đều đã bị ảnh hưởng bởi tâm thức sa ngã, theo nghĩa là nếu giáo lý không thích nghi với tâm thức sa ngã một cách nào đó, thì quần chúng sẽ không thể nắm bắt được giáo lý, bởi vì tâm thức sa ngã đã tràn lan quá đỗi, đã trở nên quá thuyết phục khắp địa cầu.

Ngay cả giáo lý của các chân sư thăng thiên cũng phải thích nghi với tâm thức sa ngã, vì nếu không, không ai sẽ có thể nắm bắt được. Đấy là vì sao các thày mới nói đến phương pháp bán hàng của các nhân viên bán xe cũ gọi là “dụ mua hàng hấp dẫn để hướng sang hàng cao cấp”, và các con cần dùng giáo lý này để bước lên một tầng cao hơn nơi con có thể nhận được những giáo lý không bị tâm thức sa ngã ảnh hưởng.

Một cách mà các tôn giáo, chẳng hạn, bị tâm thức sa ngã chi phối là quan niệm cho rằng con có một linh hồn do Thượng đế tạo ra có khả năng bước vào vương quốc thiên đàng. Nhưng như các thày đã giải thích, hồn chỉ vỏn vẹn là những cái ngã hay ngã tách biệt trong bốn thể phàm của con – và cuối cùng cũng gồm cả tự ngã – và tất cả những thứ này sẽ không bao giờ vào được thiên đàng. Hồn không thể hội đủ tư cách để thăng thiên. Chỉ có “người đã đi xuống từ thiên đàng mới có thể lên trở lại thiên đàng” – tức là cái Ta Biết. Đây là một lời dạy có thể làm xốn xang tuyệt đại đa số mọi người trên địa cầu nếu họ có thể thực sự nắm bắt được. Đây là một lời dạy gây xao động và nó đã bị một số đệ tử của các đợt truyền pháp trước bác bỏ. Nhưng lời dạy kia, ý tưởng kia, đến từ đâu? Đâu là gốc gác của ý tưởng cho rằng có một cái gì rõ ràng nằm trong cõi này, nằm trong một cơ thể vật lý nhưng là nhiều hơn một cơ thể vật lý, và cái đó có thể được hoàn thiện một cách nào đó, hay trở nên tinh xảo đến độ nó có thể đi lên thiên đàng hay bước vào cõi tâm linh? Ý tưởng đó đến từ đâu?

Hoàn thiện ngã hay buông bỏ ngã

À, nó đến từ sa nhân bởi vì giấc mơ của sa nhân, ít ra của một số sa nhân từ khi họ sa ngã, là họ có thể cứ tiếp tục xây đắp cái ngã mà họ đã tạo ra nơi bầu cõi khi họ sa ngã, và họ có thể cứ tiếp tục tô điểm cho nó ngày càng tinh xảo hơn cho đến một ngày kia Thượng đế sẽ phải cho nó vào thiên đàng – hay đúng hơn, các chân sư thăng thiên sẽ phải cho nó vào thiên đàng. Đây là giấc mơ cơ bản của ít nhất một số sinh thể sa ngã.

Một số sa nhân khác bị mắc kẹt trong giấc mơ muốn chứng minh là Thượng đế sai lầm, và một trong những cách này là chứng mình Thượng đế đã sai lầm khi ban quyền tự quyết cho mọi người. Nhưng nhiều sa nhân bị kẹt trong giấc mơ là họ có thể tạo ra một cái ngã tinh xảo đến mức nó sẽ nhận được sự sống vĩnh hằng. Nói cách khác, sa nhân sẽ có thể duy trì ngã đó thay vì bị rơi xuống các bầu cõi dày đặc hơn để cuối cùng phải đối mặt với cái chết thứ nhì, nghĩa là họ có thể tránh cái chết thứ nhì bằng cách trở nên tinh xảo đến độ ngã cũng hội đủ điều kiện thăng thiên. Và đây chính là điểm ẩn núp đằng sau tuyệt đại đa số các giáo lý tôn giáo lẫn tâm linh trên hành tinh, và cũng là một điểm rất khó giải thích cho mọi người khi chúng ta còn trong Thời đại Song ngư.

Đối với các đợt truyền pháp của chân sư thăng thiên khởi sự trong Thời đại Song ngư, thật khó giải thích điều đó cho mọi người. Đã có những sự gợi ý nhưng có rất ít người đã nắm được. Một số ít đã nắm được, và một số sẽ hiểu được. Nhưng trong Thời đại Bảo bình, có khả năng rất nhiều người hơn sẽ đạt tới mức nhận thức được. Những người này sẽ tới mức nhận ra là để thăng thiên, con cần phải để cho hồn ma cuối cùng chết đi. Con cần từ bỏ hồn ma cuối, cái yếu tố chót cùng này của ngã tách biệt vì nó sẽ không bao giờ hội đủ tư cách. Nó sẽ không bao giở đủ tư cách để được cứu rỗi, để bước vào thiên đàng, hay niết bàn hay thăng thiên. Cho dù con có gọi cái vượt khỏi bốn tầng vật chất đó là gì, thì cái ngã được tạo ra trong thế giới hình tướng không thể đủ tư cách. Nó không thể bước vào. Đây là chứng ngộ cơ yếu trước khi con hội đủ tư cách thăng thiên.

Điều này không có nghĩa là trước thời hiện đại chưa từng có ai thăng thiên. Tất nhiên là đã có Giê-su, có chính ta, có Mẹ Mary và nhiều người khác nữa. Họ đến từ nhiều truyền thống tôn giáo hay tâm linh, nhiều truyền thống thần bí khác nhau, và họ đã hội đủ tư cách thăng thiên. Nhưng tất cả đều đã làm được vậy bằng cách đạt đến nhận thức rằng đây không phải là chuyện hoàn thiện cái ngã của mình, mà là buông nó ra, thăng vượt nó, để cho nó chết, cho dù cách nhìn hay cách diễn tả của họ là gì. Tất cả đều đã đạt đến chứng ngộ này và điều này cũng đã được truyền dạy qua những lời dạy tôn giáo và tâm linh khác nhau. Con có thể tìm thấy một số dấu vết còn sót lại của lời dạy này. Ngay cả trong tôn giáo hay giáo lý đạo Phật, con cũng có thể tìm thấy nếu con cố tìm. Con có thể tìm thấy một số lời dạy về Biển Luân hồi là cùng một thứ với Niết bàn, và con tới mức ngộ ra là cả hai không có gì khác biệt. Có những lời dạy khác nữa mà rất it người đã nắm bắt được nhưng một số thì đã hiểu.    

Việc các thày đang làm hiện nay trong đợt truyền pháp này là giải thích rõ ràng hơn trước kia, để giúp mọi người dễ dàng nắm bắt hơn rồi khởi sự áp dụng. Hiển nhiên như con có thể nói, đây là sự thách đố cùng cực đối với sa nhân, cơn ác mộng tột độ đối với sa nhân, vì nó thách đố trực tiếp giấc mơ của họ về sự bất tử của ngã tách biệt, sự thường hằng của hình tướng, giấc mơ cho rằng một cái gì được tạo ra trong thế giới hình tướng có khả năng đạt đến thường hằng mà không đi qua tiến trình thăng thiên.

Mục đích của bầu cõi chưa thăng thiên

Và con cũng có thể hỏi giống như một số người đã tự hỏi suốt các thời đại: Tại sao mọi chuyện lại như vậy? Chúng ta có bầu cõi chưa thăng thiên để làm gì? Có hàng tỷ và hàng tỳ và hàng tỷ con người đồng sáng tạo, tất cả đều đang sáng tạo – hoặc một mình, hoặc cùng nhau khi họ nâng cao tâm thức – họ tạo ra những nền văn mình công phu tinh xảo đó trên những hành tinh tuyệt đẹp đó. Rồi sau biết bao thời gian dài đằng đẵng, tất cả những thứ đó họ sẽ phải buông bỏ, họ sẽ phải bỏ lại để chính họ có thể thăng thiên và toàn bầu cõi của họ cũng thăng thiên. Và trong tiến trình thăng thiên này, tất cả những thứ mà họ đã tạo ra sẽ tiêu tan, sẽ bị cuốn mất, sẽ bị xóa bỏ, cho dù con có muốn mô tả như thế nào. Đây là một tiến trình tịch diệt.

Tại sao lại như vậy? Tại sao không có chuyện là trên một số hành tinh, họ có thể tạo ra một cái gì tinh xảo đến độ nó có thể thăng thiên khi bầu cõi thăng thiên? À, các thày đã cho con lời giải thích rồi đó: Quyền tự quyết là cách mọi người tăng triển, mọi sinh thể tăng triển, và quyền tự quyết phải được phép trải bày ra, cho nên luôn luôn có khả năng là có người sẽ từ chối thăng vượt một điều gì đó, muốn bám giữ cái đó, và để tránh cho cái đó trở thành thường hằng thì bầu cõi phải thăng thiên. Nhưng con vẫn có thể nói: “Vâng, chúng con hiểu được là có những hành tinh có người không chịu buông bỏ và vì vậy sẽ sa ngã, thì các hành tinh này có thể bị phân hủy. Nhưng tại sao mọi hành tinh phải bị phân hủy?”

À, bởi vì để thực sự thăng thiên, con phải chứng tỏ sự không dính mắc vào hình tướng, không dính mắc vào cái ngã mà xuyên qua đó con đã tạo ra hình tướng. Và con chỉ làm được vậy bằng cách buông bỏ nó và tin tưởng rằng những trải nghiệm được thu hoạch trong nguyên hành trình của con qua bầu cõi chưa thăng thiên được bảo tồn trong Hiện diện TA LÀ và căn thể của con, và như vậy chúng không bị mất.

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là sau khi một bầu cõi thăng thiên, tất cả mọi trải nghiệm được thu thập trong căn thể của tất cả mọi sinh thể thăng thiên vẫn còn đó. Và sau khi bầu cõi thăng thiên, năng lượng được thanh lọc, có nghĩa là nó không còn dày đặc như ở bầu cõi chưa thăng thiên, và giờ đây việc sáng tạo trong bầu cõi thăng thiên sẽ dễ dàng hơn hẳn. Điều này có nghĩa là tất cả các Hiện diện TA Là đã trở thành chân sư thăng thiên giờ đây có sự chọn lựa. Họ sẽ sáng tạo những gì trong bầu cõi thăng thiên? Họ sẽ đồng sáng tạo những gì trong bầu cõi thăng thiên? Giờ đây họ hoàn toàn tự do quyết định những gì họ sẽ sáng tạo và như thế nào.

Nhưng con thấy không, trước điểm thăng thiên thì con mang cái ngã mà xuyên qua đó con đã sáng tạo một vật gì và nghĩ nó tốt đẹp, tinh xảo. Nhưng con vẫn mang ngã đó. Có nghĩa gì? Có nghĩa là mặc dù con đang khiến cho tạo vật ngày càng tinh xảo hơn, con vẫn làm vậy xuyên qua ngã, qua các thông số của ngã đó. Tạo vật do con đang đồng sáng tạo tùy thuộc và được quy định bởi tạo vật con đã đồng sáng tạo trước đó. Nhưng giờ đây khi con đã thăng thiên và bỏ lại ngã đó, con hoàn toàn tự do đồng sáng tạo bất cứ gì trong bầu cõi thăng thiên. Con có thể rất nhanh chóng tạo lại một cái gì tương tự như cái con đã tạo ra trong bầu cõi chưa thăng thiên nếu đây là điều con quyết định làm. Nhưng trên thực tế, tuyệt đại đa số các sinh thể thăng thiên sẽ muốn sáng tạo một cái gì khác hơn vì giờ đây họ có viễn quan rộng lớn hơn trước rất nhiều.

Tiến trình mở rộng ý niệm bản ngã

Con thấy đó, tất cả đều là một phần của nguyên tiến trình mở rộng ý niệm bản ngã khi một người đồng sáng tạo bắt đầu với một ý niệm bản ngã vô cùng giới hạn rồi lần hồi khuếch trương cho đến khi cuối cùng nó đạt được mức tâm thức trọn vẹn của Đấng Sáng tạo. Nhưng làm thế nào con khuếch trương ý niệm bản ngã? À, qua một tiến trình lần hồi mở rộng ngã, xong con trải qua một số xoay chuyển cách mạng trong ý niệm bản ngã – và một xoay chuyển cách mạng như vậy là khi bầu cõi nơi con đã khởi sự đồng sáng tạo thăng thiên.

Con cũng có những xoay chuyển khác. Lấy ví dụ con thăng thiên trong bầu cõi hiện thời. Trước tiên, con có thể mở rộng ý niệm bản ngã của con trong bầu cõi thứ bảy cho dù bầu cõi này chưa thăng thiên. Nhưng một khi con đã làm vậy – con đã mở rộng đến mức tối đa của con – thì con có thể thăng thiên lên bầu cõi thứ sáu. Rồi ở đó con lại mở rộng thêm nữa và con cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con đạt đến tâm thức của Đấng Sáng tạo. Mỗi bước thăng thiên lên bầu cõi kế tiếp như vậy là một cuộc xoay chuyển cách mạng, và cho dù con đã bước vào các bầu cõi thăng thiên, con vẫn phải từ bỏ ý niệm bản ngã mà con đã mang trong bầu cõi trước.

Đạo Phật là một triết lý thực tiễn

Như con thấy, đây là một tiến trình rất phức tạp. Và tại sao nó lại phức tạp đến vậy? Bởi vì tâm thức của Đấng Sáng tạo vượt khỏi một cách gần như vô hạn những gì con có thể nắm bắt trên địa cầu. Vậy tại sao ta lại đề cập đến chuyện này làm gì? À, con sẽ thấy là 2500 năm trước đây, ta đã có một cách tiếp cận khác hẳn cách tiếp cận mà các thày, các chân sư thăng thiên, đang có ngày nay. Vào thời đó hiển nhiên có nhiều tôn giáo, kể cả đạo Ấn, nói về thế giới thượng thiên cùng các cõi thánh thần và điều này điều nọ. Các giáo lý này đi ngược trở về kinh cổ Veda được ban truyền 10 ngàn năm về trước vào thời tâm thức loài người thấp hơn bây giờ – mặc dù ngày nay vẫn còn những người theo đạo Ấn nghĩ đó là giáo lý cao nhất có thể được ban ra trên địa cầu.

Vậy tình thế như thế nào vào thời ta hiện thân là Phật? Con có những người Bà-la-môn của Ấn giáo, họ hoàn toàn giống như lời mô tả mà Giê-su vừa đưa ra hồi nãy về các thày thông giáo và người Pha-ri-si của Do Thái giáo. Họ đã lấy những lời mà họ xem là chuẩn mực đích thực của kinh Veda, rồi họ đã diễn giải một cách trí thức và càng ngày càng xây dựng những cách diễn giải, những hình tư tưởng tinh xảo hơn mà họ cứ nghĩ là chân lý tuyệt đối.

Và những ai tin họ – các tín đồ Ấn giáo vào thời đó, những người dân bình thường, tuyệt đại đa số dân chúng – không thể thoát ra khỏi vòng ảnh hưởng của những người Bà-la-môn này. Họ không thể nhìn xuyên thấu để nhìn ra đó chỉ là hình tư tưởng, chỉ là ảo tưởng. Họ không có sự nhận biết, khả năng tri thức hay kiến thức về thế giới để nhìn xuyên thấu. Và đó là vì sao ta đã có một cách tiếp cận thật thực tiễn và ta nói: “Đạo Phật không phải là một tôn giáo như đạo Ấn. Đạo Phật không là một tôn giáo nhằm cung cấp kiến thức về các vị thần và cõi thần thánh, vì hầu hết mọi người không thể nắm bắt cõi thần thánh là gì, cho nên họ sẽ bị vướng kẹt trong các học thuyết và cách diễn giải vỏ ngoài đó. Thay vào đó, chúng ta hãy thiết lập một triết lý thực dụng nhằm đưa con người từ nơi họ đang đứng, nâng cao tâm thức của họ, ít nhất giúp họ khắc phục một số ảo tưởng của Maya. Rồi một khi họ đã nâng cao tâm thức thì họ sẽ có khả năng nắm bắt nhiều hơn. Họ sẽ phát triển khả năng trực giác và có thể biết được từ bên trong cái gì là thực, cái gì không thực.”    

Nói cách khác, điều ta đã tránh không làm trong kiếp đầu thai làm Phật là tạo ra một tôn giáo khác nữa tự xưng là cao trội hơn tôn giáo của người Bà-la-môn, vì điều này sẽ khóa chặt ta vào một cuộc chiến với người Bà-la-môn và họ sẽ tấn công ta và hành xử với ta y như họ đã cố hành xử với Giê-su. Đây là một lượng định dựa theo các chân sư thăng thiên đang hướng dẫn địa cầu vào thời đó, nhận định rằng đây là điều con người sẵn sàng làm được, ít ra ở vùng này của thế giới.

Thêm tiết lộ tuần tự

Điều xảy ra trong vòng 500 năm giữa thời của Phật và thời của Giê-su là tâm thức tập thể đã có tiến bộ. Và sự tiến bộ này phần lớn là do nhiều người đã đón nhận đạo Phật, đã chân thành nỗ lực cải hóa tâm thái của mình, nỗ lực khắc phục các ảo tưởng của Maya bằng cách bước chân trên Bát chánh đạo, là con đường ta vừa giải thích trong một bài trước nhằm giúp đỡ con người vượt qua các ảo tưởng. Đến thời của Giê-su, các chân sư thăng thiên đã xác định là các thày có thể dùng một cách tiếp cận khác xuyên qua Giê-su. Giê-su sẽ giảng dạy về Thượng đế, về cõi tâm linh và tiến trình thăng thiên, vì giờ đây đã có nhiều người hơn sẵn sàng chấp nhận tiềm năng thăng thiên một cách ý thức.

Tất nhiên các thày cũng biết là có những hạn chế do tâm thức tập thể dựng lên. Quả là có một tiềm năng rất thực tế là đạo Cơ đốc có thể trở thành cái mà nó đã trở thành sau này, một tôn giáo do sa nhân kiểm soát. Nhưng dẫu sao, đó là một cách tiếp cận mới mẻ khi Giê-su trình bày công khai về đấng Cha, nhưng như con thấy, tương đối Giê-su cũng đã đưa ra ít chi tiết về cõi tâm linh và mọi thứ ở đó. Kỳ thực, Giê-su đã nói về cõi tâm linh ít hơn là kinh Cựu ước, ít hơn rất nhiều những người Bà-la-môn của Ấn giáo. Theo một nghĩa nào đó, Giê-su cũng đã lấy một cách tiếp cận thực dụng.

Rồi những gì xảy ra kể từ thời Giê-su đến nay là, tất nhiên và trên hết do thành quả của lời dạy của Giê-su lẫn của Phật, tâm thức tập thể đã được nâng lên cao hơn. Nhưng rồi sau đó Saint Germain lại quyết định ban truyền phương pháp khoa học, và điều này lại nâng tâm thức lên cao hơn nữa. Nó khiến cho thế giới quan của con người được mở lớn. Nó cho con người một tầm hiểu biết về một số khái niệm tổng quát mà bây giờ các thày đã sử dụng trong khoảng thế kỷ vừa qua để ban truyền thêm nhiều tiết lộ tuần tự qua trung gian một số tổ chức và vị sứ giả khác nhau.

Bây giờ chúng ta đang ở một điểm khi các thày lại cảm thấy tự do hơn giảng dạy về các điều kiện trong cõi tâm linh, nhưng các con sẽ thấy là trọng điểm của các thày vẫn tập trung vào việc cho con thấy làm thế nào con có thể thăng vượt tâm thức của mình. Theo một nghĩa nào đó, các thày đang làm cùng công việc mà các thày đã làm qua tôn giáo hay triết lý của Phật, là trình bày cho mọi người cách nâng cao tâm thức hầu họ có thể biết được từ bên trong cái gì là thực và cái gì không thực, hầu họ không cần lệ thuộc vào một thẩm quyền bên ngoài, thậm chí một giáo lý vỏ ngoài của chân sư thăng thiên, mà ngược lại họ biết được từ bên trong nội tâm. Và tất nhiên, đây là cách duy nhất con có thể tự giải thoát khỏi các ảo tưởng của Maya, các lời dối trá của sa nhân.

Đọc rung động là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá

Nhiều người trong số những Bà-la-môn Ấn giáo kia là sa nhân. Họ có một khả năng đặc biệt làm rối trí và gần như thôi miên những ai chưa thiết lập được mối liên lạc nội tâm với tâm Ki-tô. Nhưng khi con bắt đầu nối được mối liên lạc nội tâm này, con sẽ có thể nhìn xuyên thấu các ảo ảnh của sa nhân. Con có thể làm điều này phần nào qua tâm vỏ ngoài khi con đánh giá là họ không nhất quán, họ không hợp lý, họ không tương hợp với những giáo lý khác mà con xem là đáng tin cậy. Nhưng nói cho cùng, con sẽ bắt đầu làm được điều này giản dị bằng cách đọc sự rung động. Con có thể đạt tới điểm đọc được rung động, con đọc một lời dạy nào đó và chỉ trong vòng một vài câu, con cảm nhận được là rung động không đến từ tâm Ki-tô. Và tất nhiên, đây chính là điểm mà các thày đã cố đưa tất cả các con đến, qua các lời dạy và các dụng cụ về việc khắc phục các ngã, vì chính những cái ngã này ngăn cản con thiết lập sự nối kết với tâm Ki-tô, ngăn cản con sử dụng tâm Ki-tô làm khung tham chiếu để đọc được rung động của bất cứ gì trong thế giới hình tướng.

Theo một nghĩa nào đó, đây là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá: con đọc rung động. Con có thể gọi đó là nhận thức ngoại cảm, là khả năng thấu thị – con muốn gọi là gì cũng được – nhưng khả năng này không gắn liền với giác quan vật lý. Nói cách khác, nhiều người tâm linh mơ ước có thể nhìn thấy hào quang bằng cách mở con mắt thứ ba, nhưng đây vẫn chỉ là sự nối dài của nhãn quan. Nhưng đọc được rung động thì vượt khỏi năm giác quan. Con có thể gọi là giác quan thứ sáu hay thứ bảy hay bất kỳ tên gọi nào khác, nhưng đó là khả năng đọc rung động.

Tại sao người ta có thể đọc được rung động? À, ta đã nói gì cách đây 2500 năm? Tất cả mọi thứ đều là Phật tánh. Điều gì đã được nói về tâm thức Ki-tô? Đó là Ngôi Lời, là Logos, là Đứa con Một, và nếu không có Lời thì không có tạo vật nào được tạo thành. Tất cả trong thế giới hình tướng đều khởi lên từ tâm thức Ki-tô, từ Phật tánh, bất kể tên gọi là gì, và tất cả đều có một rung động nào đó. Tâm thức Ki-tô, Phật tánh, không bao giờ xuống dưới một độ rung nào đó trong dạng thuần khiết của nó khi nó nối kết. Nhưng vì quyền tự quyết phải được phép trải bày, cho nên con có thể hạ thấp độ rung của năng lượng hầu tạo ra ảo tưởng tách biệt cùng ảo tưởng con tách rời khỏi nguồn cội của con. Như các thày có nói, ngay cả độ rung của vật chất trên trái đất đã bị hạ thấp dưới mức ban đầu, và đó là tại sao đã có vẻ hợp lý là con sống trong một thế giới tách biệt, và ngay cả nếu có Thượng đế thì Thượng đế này sẽ có vẻ ở tuốt trên kia nơi thiên đàng.

Phật tánh và các ảo tưởng của Maya

Có một sự khác biệt rõ rệt về rung động giữa những gì là tâm thức thuần khiết của Ki-tô, Phật tánh thuần khiết, và những gì tuy vẫn là Phật tánh nhưng đã bị ảo ảnh của Maya che mờ, khi tâm thức Ki-tô bị che lấp bởi các ảo tưởng của phản-Ki-tô. Nhưng tất nhiên, nó chỉ bị che lấp khi con nhìn hình tướng xuyên qua các ngã tách biệt đã tạo ra hình tướng. Khi đó, con không thể thấy được là mặc dù nó rung động thấp hơn tâm thức Ki-tô thuần khiết, nó vẫn chính là tâm thức Ki-tô. Kỳ thực, đó là một ảo tưởng được tạo dựng từ các rung động thấp hơn. Nó không bao giờ có thể thường hằng, nó không thể trở thành thường hằng, nó không thể nhận được sự sống vĩnh cửu, và do đó, khi con bắt đầu cảm nhận rung động, con có thể lập tức cảm nhận được đâu là rung động thấp và đâu là rung động của Ki-tô hay của Phật tánh.

Và đây là cách tối hậu để tránh khỏi bị lừa bởi sa nhân, bởi ảo tưởng cuả Maya, bởi quỷ dữ của Mara, và đây là cách tối hậu để thoát khỏi thập tự giá. Vì chừng nào con không thấy được là một số rung động không phải là bản tánh thuần khiết mà chỉ là những ảo ảnh tạm thời, thì con sẽ nghĩ những hiện hình đó rất có thể thường tồn và chúng có quyền năng trên con, thậm chí chúng còn quy định được con. Con có thể đồng hóa với chúng, ngay cả con có thể say mê những gì chính con hay một ai khác, một sa nhân, đã tạo ra dưới dạng một cấu trúc tinh xảo. Và nó có vẻ thật tinh xảo từ một tầm nhìn nào đó, nhưng nó không thể trở nên thường tồn vì sự sống vĩnh cửu chỉ có thể đạt được qua Ki-tô, qua sự hợp nhất với Phật tánh, sự khắc phục mọi ảo tưởng rằng con có thể tách rời khỏi Phật tánh, sự khắc phục mọi ảo tưởng rằng hình tướng – bất kỳ hình tướng nào – có thể tách rời khỏi Phật tánh và là gì khác hơn Phật tánh.

Đây là ảo tưởng cơ bản mà các thày đã trình bày qua tâm thức nhị nguyên. Ảo tưởng cơ bản là kìa có Phật tánh, có Ki-tô, và kìa có một cái gì khác hơn. Cái này không phải là Phật tánh, cái này khác với Phật tánh, tách biệt khỏi Phật tánh. Đây là ảo tưởng cơ bản của nhị nguyên rằng thế giới có thể được phân chia làm hai, nhưng sự phân đôi này không thể là thực. Phật tánh không thể bị phân chia. Chỉ trong ảo ảnh của Maya con mới có thể tạo ra dáng vẻ có hai. Cho nên ý tưởng bảo rằng có một thượng đế và có một ác quỷ chỉ là một ảo tưởng, và thượng đế mà con nhìn thấy từ trạng thái tâm thức này không phải là Thượng đế chân thực, không phải là Thượng đế vô hình tướng. Các thày gọi là vô hình tướng vì các thày không thể đặt ra ngôn từ nào cho tâm thức Thượng đế. Thượng đế hoàn toàn vượt khỏi các hình tướng mà con có thể thấy từ một bầu cõi chưa thăng thiên.

Cho con người động lực bước trên đường tu

Thế giới không là hai, nó không bị phân chia, nó là một. Nó luôn luôn là một. Nhưng điều gì có thể thúc đẩy một sinh thể bị kẹt trong ảo tưởng của Maya muốn nỗ lực khắc phục ảo tưởng của Maya? Tại sao ta như đức Phật lại nói về niết bàn? Vì ta phải cống hiến một động cơ cho con người cất bước trên con đường khắc phục tất cả những cái ngã dựa trên ảo tưởng của họ. Hiển nhiên những người này đang đau khổ và họ muốn thoát khổ đau. Nhưng khi con bị kẹt trong tâm thức tạo ra đau khổ, con không thể nhìn ra cách thoát khỏi khổ đau. Con cứ nghĩ là có lẽ con có thể phá hủy các điều kiện gây ra khổ đau. Có lẽ con có thể tạo ra những điều kiện tốt đẹp hơn từ tâm thức tách biệt. Nhưng điều này không thể làm được.

Con không thể thoát khỏi khổ đau nhờ tâm thức tách biệt, nhưng con cũng không thể thực sự nắm bắt thế nào là ở ngoài tâm thức tách biệt. Cho nên các thày trong tư cách là thày tâm linh, phải cho con người một động lực nào đó để họ cất bước trên con đường thoát khỏi tách biệt mà họ có thể nắm được, một động lực hấp dẫn đối với họ khi họ vẫn còn trong tách biệt. Đó là vì sao ta đã đưa ra Diệu đế thứ nhất. Cuộc đời là đau khổ, nhưng cũng có một con đường thoát khổ, và đó là Bát chánh đạo. Nhưng cái gì sẽ thúc đẩy con đây? Phải, ta có thể thúc đẩy con lánh xa khỏi đau khổ, nhưng con sẽ bước vào cái gì? Con sẽ hỏi và có những người đã từng hỏi: “Khi con bước trên Bát chánh đạo, mục tiêu chót cùng là gì? Phần thưởng ở điểm đến sẽ là gì?”

À, đấy chính là vì sao ta đã hình thành khái niệm niết bàn như một giải pháp thay thế cho đau khổ, cho Biển Luân hồi. Không phải là ta có khái niệm này trong tâm, nhưng khi người ta nghe nói về khái niệm này thì họ làm gì? Họ liền phóng chiếu một hình tư tưởng lên niết bàn dựa trên ảo tưởng tách biệt, thế là họ nghĩ mục đích con đường Bát chánh đạo là để đạt tới cái hình ảnh nhị nguyên đó về niết bàn. Đấy là tại sao mới có một lời dạy trong kinh sách đạo Phật nói rằng sẽ tới một điểm con nhận ra là niết bàn và luân hồi chỉ là cùng một thứ trên cơ bản, hay cả hai là cùng một chất liệu vì cả hai đều đi ra từ ảo tưởng tách biệt. Và vì vậy, cả hai đều cần bị tiêu diệt trước khi con tự do, trước khi con giải thoát. Và đây là điểm dối trá của nhiều tôn giáo trên trái đất, kể cả Cơ đốc giáo, Do thái giáo và truyền thống Do thái-Cơ đốc.

Như các thày đã nói, một lần nữa khi con bước vào nhị nguyên, con bắt đầu tạo ra một thượng đế trong hình ảnh của ngã tách biệt và giống như ngã tách biệt, thậm chí giống như sa nhân. Con sử dụng các điều kiện của hình tướng trong một bầu cõi chưa thăng thiên trên một hành tinh chưa thăng thiên để phóng chiếu ra cõi tâm linh là thế nào, cho nên con không thể biết được cõi tâm linh là thế nào. Các thày, các chân sư thăng thiên ở cõi tâm linh, sẽ không bao giờ có thể cho con một lời dạy về một số điều kiện trên cõi tâm linh. Nhưng các thày hoàn toàn không có ý định cho con một tầm nhìn toàn diện vì các thày biết nó không thể được nắm bắt, và thật chẳng ích lợi gì nếu con biết cõi tâm linh như thế nào. Bởi vì, như các thày cũng đã giải thích, con sẽ làm gì khi con bước vào tâm tách biệt đường thẳng? Con tự xem mình là một chủ thể đang tìm hiểu một khách thể từ xa. Và đối với cõi tâm linh, con cũng sẽ làm y như vậy. Khi con ở trong một bầu cõi chưa thăng thiên, khi con chưa thăng thiên, con tìm hiểu cõi tâm linh như một đối tượng tách biệt.

Điều này có thể cần thiết cho con để con có được một cái hiểu nào đó về cơ học của tiến trình thăng thiên, và đó là vì sao các thày trao cho con lời dạy này. Nhưng con phải nhìn nhận là cho dù con nghĩ cái hiểu của con về cõi tâm linh tinh xảo đến đâu đi nữa, thì con không đang ở cõi tâm linh và cái hiểu này sẽ không đưa con lên đó. Con sẽ chỉ lên đó bằng cách buông bò hình tư tưởng đó, những cái ngã tách biệt đó. Rồi khi con ở đó, con sẽ trải nghiệm được cõi tâm linh, ít ra từ mức tâm thức vào lúc con thăng thiên. Con không trải nghiệm một cách trọn vẹn vì như ta nói, có nhiều tầng cấp trải dài cho đến Đấng Sáng tạo.

Một lần nữa, ta đã nói quá nhiều, ta đã cho con thật nhiều điều để con suy ngẫm, nhưng ta biết một số các con sẽ hiểu được, một số sẽ sẵn lòng suy ngẫm, sử dụng lời dạy mà các thày đã trao truyền để con đem mình xuống khỏi thập tự giá của cái hiểu cũ của con về con đường tâm linh. Không một cách mô tả vỏ ngoài nào về đường tu có thể đưa con vào trạng thái thăng thiên. Chỉ bằng cách thăng vượt mọi sự mô tả vỏ ngoài mà con có thể thăng thiên.

Và như vậy, ta sẽ niêm hội nghị này. Các thày biết ơn con đã tham dự, đã sẵn lòng tiếp nhận những lời dạy này và phóng chiếu ra qua hào quang cùng luân xa của con vào tâm thức tập thể, đã sẵn lòng thỉnh gọi qua những bài thỉnh đã có ảnh hưởng sâu xa, trong thời buổi đặc thù này khi quá nhiều tín hữu Cơ đốc giáo chú tâm vào Ki-tô bị đóng đinh thay vì Ki-tô phục sinh.

Với lòng biết ơn sâu xa, ta niêm con trong sự an bình vô biên, vô điều kiện, không thể tả xiết của Phật.

11 | Sinh kế cao hơn là làm việc cho tổng thể

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 8 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Trong bước tiếp theo, chúng ta sẽ nói về khái niệm sinh kế cao hơn. Một lần nữa, xu hướng trong đạo Phật là tập trung vào từ “chánh” [như trong Chánh mạng] cho nên quy định là có những cách kiếm sống chân chính và những cách bất chính. Đối với nhiều Phật tử thuận thành, xu hướng này dẫn đến hậu quả là không có nhiều hình thức sinh nhai được xem là “chánh”, và điều này hạn chế khắt khe các chọn lựa trong việc tìm kế sinh nhai. Không những vậy, nó cũng hạn chế các chọn lựa trong việc hoàn thành Kế hoạch Trọn đời của mình.  

Bây giờ con hãy nhìn hành tinh này. Bước lùi lại và nhìn vào trái đất. Tình trạng con phải đối mặt trên hành tinh này thật vô cùng phức tạp. Khi con nhìn những gì xảy ra trên hành tinh, con thấy rõ là có rất nhiều hỗn loạn nhưng đồng thời cũng có một chiều hướng tiến triển nào đó. Khi con nhìn ngược về các thế kỷ trước, con thấy đã có một tiến bộ rõ rệt: tâm thức con người nâng lên, tính nhân bản cũng nâng lên, các nền dân chủ xuất hiện và mức sống cao hơn cho ngày càng nhiều người hơn. Rõ ràng có sự tiến triển trong xã hội, nhưng điều gì đã thúc đẩy tiến triển này? À, đó là sự kiện một số người đã có khả năng hòa điệu với một mức độ nhận biết vượt khỏi cái chúng ta có thể gọi là sự nhận biết bình thường của con người. 2500 năm về trước, thày đã gọi mức độ nhận biết cao đó là Phật tánh. Tất cả mọi thứ đều có Phật tánh ở bên trong và mỗi con người đều có tiềm năng đạt được mức nhận biết của Phật.

Tiềm năng này mang hai khía cạnh. Một là con vươn lên trên toàn bộ nhân cách vỏ ngoài, nhân cách dựa trên tự ngã, là ý niệm cho rằng con là một sinh thể tách biệt, tách biệt khỏi người khác và thế giới nơi con sống. Cho nên con vươn lên đến tầng tâm thức nơi con trở thành một vị Phật vì con đã chứng tâm thức Phật. Đó là một khía cạnh. Khía cạnh kia như thày đã giải thích là cốt lõi bản thể con, cái Ta Biết, có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm của con ít ra trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, và nhờ vậy bắt liên lạc với Phật tánh là mức nhận biết cao hơn đó. Khi con có khả năng bước ra ngoài, con có thể nhận được một ý tưởng, một sáng kiến về cách cải thiện một điều gì đó trên trái đất.

11.1. Có nhiều chỗ cho sự cải tiến

Con nhìn vào địa cầu, nhìn vào biết bao vấn đề, biết bao xung đột, biết bao hỗn loạn đang có mặt, và con thấy không có một phần nào của cuộc sống hay của xã hội mà không thể được cải thiện. Trong mọi lãnh vực đời sống đều có chỗ cho sự cải tiến. Cải tiến này xảy ra khi có những người tham gia vào lãnh vực đó của cuộc sống và có khả năng bước ra ngoài tình trạng vỏ ngoài, bước ra ngoài chính tâm họ, để nhận được một ý tưởng có thể cải thiện lãnh vực đó từ mức nhận biết cao, từ nhận biết của Phật, từ Phật tánh.

Sinh kế thực sự của con là gì? Khi con là một người tâm linh cởi mở với các giáo lý tâm linh, đâu là sinh kế thực sự của con? Đó là cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống, nâng cao một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Có nghĩa là sẽ quá hời hợt nếu con nhìn vào đủ loại nghề nghiệp kiếm sống rồi bảo: “Ồ các loại nghề này một người tâm linh sẽ không nên làm. Chỉ có một ít nghề nghiệp mà bạn có thể tham gia nếu bạn là người tâm linh.”

Một lần nữa, tất nhiên là chúng ta cần tìm một thế cân bằng tế nhị ở đây. Chắc chắn như một người tâm linh, con không muốn làm nghề buôn ma túy hay buôn người. Phật tánh không hề có mong muốn hoàn thiện việc buôn ma túy hay buôn người, vì các loại hoạt động này cần được bỏ lại đằng sau khi hành tinh hướng lên những mức nhận biết cao hơn. Con có thể nhìn lại lịch sử và nhận thấy nhiều hoạt động đã được bỏ lại, ít ra bởi nhiều người. Các khía cạnh hung bạo hơn đã được nhiều quốc gia bỏ lại đằng sau khi luật mới được ban hành hay xã hội được ổn định và con người nói chung không tìm cách hãm hại lẫn nhau. Rõ ràng đây là điều sẽ xảy ra khi hành tinh ngày càng bước vào một thời đại mang đặc tính nhận biết cao hơn so với quá khứ. Và khi tiến trình này trải bày, có những thứ sẽ được bỏ lại. Con người sẽ đạt tới điểm chúng dần dần biến mất.

Con có thể nhìn nạn buôn ma túy đang tràn lan khắp mọi nơi hôm nay và tự hỏi: “Ủa, cái gì làm động cơ cho nguyên chuyện này?” Không phải là bọn tội phạm đâu mà là sự kiện có một thị trường cho ma túy. Có những người mua ma túy, nhưng tại sao họ lại mua ma túy? À, phần lớn là vì họ tìm sự khuây khỏa khỏi áp lực họ cảm thấy trong cuộc sống thường nhật – vì họ không biết và không bao giờ được dạy làm cách nào đối phó với chính tâm lý của họ, cũng như giải quyết các khía cạnh tâm lý đã khiến họ cảm thấy áp lực, khiến họ đi tìm một sự giải khuây tạm bợ qua ma túy, rượu hay nhiều loại sinh hoạt khác.

Khi tâm thức tập thể được nâng lên và sự nhận biết cũng cao hơn trong quần chúng về cách giải quyết tâm lý cá nhân và giải tỏa áp lực qua cách này, nhu cầu dùng ma túy sẽ giảm bớt cho nên nó sẽ dần dần biến mất. Khi không còn thị trường thì sẽ không còn buôn bán. Một điều tương tự tất nhiên cũng xảy ra với toàn bộ kỹ nghệ sản xuất vũ khí, hay tổ hợp công nghiệp quân sự như người ta thường gọi. Trái với những gì có vẻ xảy ra hiện nay, tới một điểm nào đó chiến tranh sẽ bắt đầu phai tàn, và con người sẽ đơn giản không thể hiểu nổi tại sao chiến tranh lại cần tồn tại. Cho nên nhu cầu phát triển, chế tạo và buôn bán vũ khí cũng sẽ biến mất.

Điều này nghe như một giấc mơ không tưởng, nhưng thật không khó gì mà nhận ra là suốt các thế kỷ đã có một tiến bộ lần hồi và tiến bộ này sẽ chỉ tiếp diễn, thậm chí còn gia tốc khi càng ngày càng có nhiều người bắt đầu giải quyết tâm lý cá nhân của mình và do đó cũng giải quyết các khía cạnh phản chức năng trong tâm thức tập thể. Không thể nào khác được.

11.2. Khi mọi thứ được tâm linh hóa

Vậy đối với con, một người tâm linh, kết luận là gì khi nói đến “chánh mạng” hay đúng hơn, “sinh kế cao hơn”? À, hiển nhiên là có một số hình thức kiếm sống mà con không muốn dự phần. Tuy nhiên, nhiều Phật tử lại suy luận rằng nếu con là một người thực sự tâm linh thì con không được làm kinh doanh. Chắc chắn có một số khía cạnh của thế giới kinh doanh cũng sẽ biến mất, nhưng không có nghĩa là kinh doanh sẽ biến mất. Sẽ vẫn có một thế giới kinh doanh.

Rất có thể là do kinh nghiệm trong các kiếp trước và sự quan tâm đặc biệt của con đến thế giới kinh doanh, con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của mình việc tìm kiếm một vị thế trong thế giới kinh doanh để con nhận được ý tưởng mới về những cách cải thiện thế giới này và đẩy nó đi tới. Liệu sẽ xây dựng lắm không nếu con lấy thái độ vỏ ngoài rất phổ biến trong các Phật tử và nhiều người tâm linh là bảo: “Ồ không được, tôi không thể nào là người tâm linh mà lại đi làm kinh doanh?” Tất nhiên sẽ không xây dựng. Con cần hòa điệu với những gì ở trong Kế hoạch Trọn đời của chính con và theo đuổi cái đó.

Trên cơ bản, con có thể nói là con không thể đơn giản phân chia các loại hoạt động và bảo hình thức sinh sống này là sai, hình thức sinh sống kia là đúng. Điều gì sẽ xảy ra khi trái đất tiến vào thời đại nhận biết cao hơn? Điều sẽ xảy ra là với thời gian, tất cả mọi thứ sẽ được tâm linh hóa. Đâu là ý nghĩa thâm sâu trong câu nói rằng mọi thứ đều là Phật tánh? Ý nghĩa là con không thể quy định một sự phân biệt rõ rệt – mà rất nhiều người tâm linh đã quy định – giữa những việc tâm linh và những việc không tâm linh. Con cần nhận biết sâu sắc hơn và thấy là theo một nghĩa nào đó, tất cả mọi thứ đều có tiềm năng là việc tâm linh, có tiềm năng được xem là việc tâm linh. Một lần nữa, đây là một trong những câu nói đòi hỏi một chút phân biện.

Tất nhiên thật dễ bảo rằng: “Nhưng nếu mọi thứ đều có Phật tánh bên trong thì bạn có thể thấy được Phật tánh trong mọi hoạt động, cho nên bạn có thể là một kẻ buôn ma túy mà vẫn thấy Phật tánh trong việc buôn ma túy.” Khi con đạt đến một trình độ phân biện và nhận biết cao hơn, con hiểu ra là cho dù Phật tánh ở trong tất cả, điều này không có nghĩa mọi biểu hiện diễn ra là cao nhất có thể. Bởi vì Phật tánh là gì? Bảo rằng Phật tánh ở trong tất cả có nghĩa là gì? À, Phật tánh là một mức độ nhận biết. Thày đã có giảng điều gì? Có những sinh thể đã tạo hình tư tưởng từ một mức tâm thức cao hơn và đã phóng chiếu ra hành tinh địa cầu. Sau đó những con người đã được gửi vào hiện thân để khoác lấy không chỉ một cơ thể vật lý mà cả cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể, và họ là những kẻ đồng sáng tạo trên địa cầu.

Ở nguyên thủy, trái đất ở trong một trạng thái thuần khiết hơn hiện nay, và từ trạng thái nguyên thủy này nhân loại đã kéo thấp trái đất xuống trong một thời gian dài. Đó là tại sao ngày nay sự đau khổ là trải nghiệm phổ thông nhất trong cuộc sống và con người bị chìm đắm trong Biển Luân hồi. Tình trạng này đã không do một Thượng đế toàn năng nào tạo ra hay do các sinh thể có nhận biết cao hơn tạo ra. Tại sao các sinh thể nhận biết cao hơn lại tạo ra đau khổ làm gì? Chính con người đã tạo ra các điều kiện hiện thời trên trái đất cùng sự đau khổ, hỗn loạn và điên đảo hiện thời. Họ đã làm thế nào? Như thày đã giải thích, bằng cách hình thành những tâm ảnh trong các thể bản sắc, lý trí và càm xúc rồi phóng chiếu chúng lên năng lượng cơ bản cấu tạo thế giới vật chất nơi họ sống.

11.3. Con người đã tạo ra Biển Luân hồi

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là bất kỳ biểu hiện nào con nhìn thấy trên trái đất đều khởi đầu trong tâm thức. Trên cơ bản, đây là điều thày đã giảng dạy 2500 năm về trước: Tất cả đều là tâm thức, tất cả đều là biểu hiện của tâm thức. Nói cho cùng, đây cũng là ý nghĩa của câu nói “Phật tánh ở trong tất cả”, vì Phật tánh chính là tâm thức, một dạng tâm thức. Đặc điểm của Phật tánh là nó nhận biết tất cả, nó nhận biết được tổng thể. Phật tánh là sự nhận biết về tổng thể.

Khổ đau và điên đảo hiện thời trên trái đất được tạo ra như thế nào? Nó không được tạo ra từ sự nhận biết về tổng thể, mà như thày đã giải thích, nó được tạo ra từ sự nhận biết – hay đúng hơn từ ảo tưởng – rằng con người là những sinh thể tách biệt. Nhưng con đã không được sinh tạo là sinh thể tách biệt. Qua các chọn lựa con đã chọn trong quá khứ, con đã bước vào tâm thức tách biệt này và sử dụng các đối cực nhị nguyên – các cặp nhị đối – để biện mình cho chọn lựa của con, để dựng lên những tâm ảnh về cách vận hành của thế giới, về con người mà con là trong tương quan với thế giới, và con có quyền làm một số chuyện như một sinh thể tách biệt bất chấp hậu quả trên người khác. Hay nói cách khác, đã có một thời điểm khi loài người biến đổi, quên mất mình là những sinh thể nối kết, quên mất lý duyên khởi vốn nhìn mọi chuyện đều ảnh hưởng đến mọi chuyện khác. Họ bước vào trạng thái ảo tưởng cho rằng: “Ừ, tôi là một sinh thể tách biệt và tôi có quyền làm bất cứ gì tôi muốn như một sinh thể tách biệt mà không cần xét đến hậu quả trên tổng thể.”

Đây chính là tâm thức đã tạo ra Biển Luân hồi, tạo ra tình trạng hầu hết mọi người đều kinh nghiệm cuộc sống là đau khổ. Có bảy tỷ người trên hành tinh xem mình là sinh thể tách biệt và vì vậy họ phải tranh đấu chống lại bảy tỷ người còn lại. Đây là Biển Luân hồi. Con có thể nhìn lại một số hoạt động và con có thể nói: “Đúng vậy, các hoạt động này mang Phật tánh bên trong, vì nói cho cùng thì chúng được tạo ra từ tâm Một, từ tâm Phật duy nhất, từ tâm thức duy nhất. Nhưng chúng không được tạo ra với một nhận biết về tổng thể, là điều Phật tánh nhận biết. Chúng được tạo ra từ tách biệt.”

Cho nên con có thể nói là có những hoạt động trên địa cầu hoàn toàn dựa trên nhận biết tách biệt không đếm xỉa gì tới tổng thể, tới người khác, tới hậu quả mà chúng đem lại. Thậm chí chúng cũng không đếm xỉa gì tới chính những người ở trong tâm thái đó, họ bị chi phối như thế nào, họ đang gây ra loại nghiệp quả gì, và những kiếp tới của họ sẽ bị ảnh hưởng ra sao – ngay cả khi họ có thể trốn tránh hậu quả trong kiếp này.

11.4. Nhận biết về tổng thể hay nhận biết về tách biệt

Đó chính là một sự lượng định mà con có thể áp dụng cho mọi hoạt động con người, chắc chắn cho kế sinh nhai. Liệu hoạt động có dựa trên sự nhận biết về tổng thể hay sự nhận biết về tách biệt? Cho nên con có thể thấy có những hoạt động tác hại hơn những hoạt động khác cho sự sống nói chung. Tất nhiên con có thể đi vào thế giới kinh doanh hiện nay chẳng hạn và bảo rằng thế giới kinh doanh ở mọi quốc gia đều bị khống chế bởi một thiểu số thượng tôn quyền lực kẹt cứng trong tâm thức tách biệt. Những người này tin như đinh đóng cột họ là một tầng lớp ưu tú và họ có quyền – một quyền hạn do Thượng đế ban bố hay do luật tiến hóa trao cho họ vì họ là những kẻ mạnh nhất, thích hợp nhất để nắm trùm thế giới kinh doanh – đến độ họ có thể xây dựng những tài sản khổng lồ cho riêng họ, nhiều tiền hơn là họ có thể cần đến, bằng cách lạm dụng sức lao động của người khác. Con có thể thấy vậy và nói: “Đấy, chắc chắn thế giới kinh doanh bị tâm thức tách biệt áp đảo cho nên nếu tôi là một người tâm linh, tôi không nên dự phần vào đó.”

Như thày vừa nói, có một số nghề như buôn ma túy hay sản xuất vũ khí sẽ dần dần biến mất vì chúng chỉ có thể làm hại con người, nhưng thế giới kinh doanh sẽ không biến mất vì trong kinh doanh có những khía cạnh xây dựng. Không có chuyện kinh doanh biến mất khi địa cầu tiến lên cao hơn. Điều sẽ xảy ra là kinh doanh cũng được nâng lên một cấp độ khác hẳn một khi ý niệm tổng thể được nhận thức rõ hơn. Điều này đang bắt đầu xảy ra rồi đó vì có những người đã nhận thức được rồi. Có những người tiêu dùng đã nhận thức được và họ không ủng hộ một số doanh nghiệp, hay thậm chí không mua sản phẩm từ một số quốc gia có nhận biết thấp hơn.

Đây là điều con có thể áp dụng khi con xem xét đâu là sinh kế cao nhất cho con như một người tâm linh. Con không dùng tâm vỏ ngoài mà nói: “Ồ, tôi sẽ không tham gia vào lãnh vực này,” mà con dùng trực giác để hòa điệu với kế hoạch mình đã lập ra trước khi đầu thai, cho nên con nói: “À, đây là sự lượng định tôi sẽ cân nhắc. Đây là một điều quan trọng để tôi xem xét. Nơi đâu là nơi tôi có thể phụng sự để đem lại cải tiến trong lãnh vực này?” Tất nhiên đây không chỉ là vấn đề kinh doanh mà còn có thể là chính trị, là hành chánh, là giáo dục, rất nhiều khía cạnh khác của cuộc sống. Trên cơ bản, những khía cạnh này của cuộc sống không hoàn toàn nguy hại, chúng có chỗ cho sự cải tiến, và chúng sẽ chỉ được cải tiến khi có người dấn thân vào lãnh vực đó.

Con có thể nói là đối với một người tâm linh, việc kiếm tiền không phải là quan tâm hàng đầu, mà quan tâm hàng đầu của con là phụng sự bằng cách cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống và xã hội. Đây là một điểm để cân nhắc. Kế hoạch Trọn đời của con ghi ra những gì?   

11.5. Giấc mơ kiếm tiền dễ dàng

Khái niệm về sinh kế có thể được đưa lên một cấp độ khác nữa. Hầu hết mọi người khi họ nghĩ đến sinh kế đều cho rằng sinh kế có nghĩa là kiếm tiền. Con phải đi làm, phải lập doanh nghiệp vì con phải có đủ tiền sống. Điều này đã khiến cho nhiều người tâm linh có những loại giấc mơ gọi là mưu kế làm giàu chớp nhoáng. Họ hy vọng tìm ra cách kiếm một số tiền kếch sù để họ có đủ tiền sống suốt đời, không phải lo lắng tiền bạc gì nữa hầu có thể tập trung vào việc đeo đuổi tâm linh.

Có rất rất nhiều người tâm linh như thày vừa trình bày, có đặt vào Kế hoạch Trọn đời là mình sẽ tham gia vào một lãnh vực nào đó. Mục đích là để con ở trong lãnh vực này và đem lại một số cải thiện, thậm chí chỉ do sự có mặt của con và một mức tâm thức cao hơn mà con có thể kéo người khác trong lãnh vực đi lên. Kế hoạch Trọn đời của con không có việc làm giàu chớp nhoáng để sau đó con rút lui khỏi xã hội và tập trung vào những đeo đuổi tâm linh mà con nhìn thấy.

Kế hoạch Trọn đời của con là dấn thân vào xã hội và tiếp tục đem lại cải tiến. Đây không phải là trường hợp của mọi người nhưng chắc chắn là của đại đa số. Con có thể buông giấc mơ làm giàu nhanh chóng này đi, giấc mơ tìm thấy một con đường tắt. Việc con buông giấc mơ này thật quan trọng vì mơ ước của lớp thượng tôn quyền lực kinh tế là gì chứ? Chúng mơ ước đúng chuyện đó: một con đường tắt để làm giàu. Nhiều người trong số họ đã tìm ra đường tắt này nhưng chỉ bằng một cách thôi, là lạm dụng người khác, đánh cắp sức lao động của người khác. Đây là cách duy nhất để đi đường tắt.

Nếu con là một người tâm linh và con mơ làm tiền theo cách này thì nó không ăn khớp với sự thăng tiến tâm linh của con. Có những người tâm linh mơ làm vậy đã bỏ ra hàng năm trời hay hàng chục năm trời để đeo đuổi việc này, nghĩ rằng: “Khi nào tôi đủ tiền, tôi sẽ có thể tập trung vào chuyện tìm đạo.” Nhưng điều xây dựng hơn rất nhiều là con làm việc trong một việc làm bình thường, từ từ kiếm đủ tiền rồi nhìn ra là việc mình tham gia vào xã hội là một phần trong bước tăng triển tâm linh của mình, là một phần trong đeo đuổi tâm linh của mình. Đừng nên tách rời các hoạt động tâm linh với các hoạt động thế tục mà bảo: “Ồ, nếu tôi có một việc làm tầm thường thì tôi không thể tâm linh, thật chẳng có gì tâm linh trong đó.” Tất cả mọi thứ đều có thể trở thành một phần của đường tu khi con dùng nó như một phần của đường tu.

11.6. Sinh kế và năng lượng

Bây giờ chúng ta hãy bước thêm một bước cao hơn. Sinh kế là gì? À, hầu hết mọi người sẽ trả lời sinh kế là việc kiếm tiền, nhưng liệu tiền bạc có phải là tài nguyên thực trên trái đất không? Thày đã nói gì chứ? Mọi thứ đều là năng lượng. Tài nghuyên thực của thế giới không phải là tiền bạc mà là năng lượng. Nhưng này con, thày cũng có nói thế giới được sinh tạo là vì có một tầng cõi với nguồn năng lượng bất tận vượt quá vũ trụ vật chất. Một phần năng lượng này chảy xuống, hay được hạ xuống phổ tần số cấu tạo vũ trụ vật chất. Thày đã nói là có một dòng năng lượng liên tục từ ngoài vũ trụ vật chất chảy xuống vũ trụ vật chất.

Sự kiện này có thể được chứng minh bởi khoa học. Khoa học đã phát hiện là vũ trụ không chỉ đang giãn nở mà sự giãn nở của vũ trụ đang gia tốc. Nhưng đấy, mọi thứ đều là năng lượng. Bất kỳ thay đổi nào cũng chỉ có thể xảy ra do năng lượng thúc đẩy. Nếu vũ trụ giãn nở thì phải cần nhiều năng lượng hơn để giãn nở. Môt trạng thái thấp hơn chỉ có thể bước lên một trạng thái cao hơn bằng cách bổ sung thêm năng lượng. Phải có năng lượng làm động cơ cho sự giãn nở. Cho nên nếu vũ trụ đang giãn nở và càng ngày càng giãn nở nhanh hơn, và nếu vũ trụ đã làm vậy từ thuở các nhà khoa học gọi là Big Bang (vụ Nổ Lớn), thì nhất định phải có năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một nguồn bên ngoài, nếu không thì giản nở không thể xảy ra.

Con hãy bước ra ngoài nhìn lên bầu trời đêm, ngắm nhìn tất cả những ngôi sao cùng dải thiên hà và con có thể tự nhủ: “Nguyên cái này không thể nào hiện hữu nếu chỉ có một lượng năng lượng cố định trong vũ trụ. Nó sẽ chẳng bao giờ sinh ra được.” Tài nguyên thực không chỉ là năng lượng mà là năng lượng đi vào vũ trụ vật chất từ một cõi cao hơn. Như thày đã nói, tâm con có tiềm năng trở thành một cửa vào cho năng lượng đó.

Con thử nhìn các nhà tỷ phú mà xem, họ đã gom góp những số tiền vĩ đại và con có thể nghĩ là nếu ai đó có hàng tỷ đô-la, chắc họ phải cảm thấy thật an bình: “Bây giờ tôi có dư tiền để chăm lo bản thân tôi và gia đình tôi cho đến mãn kiếp. Tôi cần thêm tiền nữa để làm gì?” Nhưng đối với hầu hết những người đó, chuyện này không xảy ra. Tiền không bao giờ đủ. Họ luôn luôn muốn nhiều hơn vì nếu như có ai lấy mất thì sao? Cho nên không có chuyện có tiền rồi cảm thấy an bình. Điều sẽ khiến con an bình như một người tâm linh là con có đủ năng lượng. Không theo nghĩa là con có một lượng năng lượng cố định, mà theo nghĩa con đã thiết lập một sự nối kết ý thức với cái ta cao của con, và qua nối kết này năng lượng có thể liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào bốn thể phàm của con. Đây chính là yếu tố sẽ cho con năng lượng sáng tạo, khả năng tạo ra điều gì đó, thị hiện điều gì đó, nhưng nó cũng sẽ khiến con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn, an bình.

11.7. Tự ngã sẽ không bao giờ có đủ

Thày vừa nói điều xảy ra cho hầu hết mọi người là gì? Con đã bước vào cái tâm thức tách biệt đó. Con xem mình là một sinh thể tách biệt. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con đánh mất sự kết nối với cái ta cao của con. Nhiều người đã phóng chiếu hình ảnh là trong quá khứ xa xôi, con người đã sống trong một thiên đàng, thế rồi họ đã làm điều gì đó khiến cho Thượng đế tức giận và ngài đã trục xuất họ ra khỏi thiên đàng. Thượng đế bỏ rơi họ. Đấy, một khi con bước vào tâm thức tách biệt và tạo ra ngã tách biệt đó – nhân cách tự ngã đó, tự ngã đó, tức là một ngã tách biệt tự xem nó là tách biệt – thì con sẽ cảm thấy mình bị bỏ rơi. Con sẽ cảm thấy lẻ loi. Nếu con tin là có một Thượng đế đã ép buộc con vào trạng thái này thì con sẽ cảm thấy là Thượng đế này đã bỏ rơi con, nhưng thực tế không phải vậy.

Sự bỏ rơi diễn ra trong tâm con. Không có bỏ rơi thực sự. Con nối kết với cái ta cao, thật ra con là một biểu hiện của cái ta cao của con. Cái ta, cái Ta Biết, cốt lõi của bản thể con, là một phần nối dài của cái ta cao được gửi vào thế gian này vì cái ta cao không thể bước xuống thế gian một cách trực tiếp. Cái ta cao mong muốn trải nghiệm thế giới này và nó đã gửi cái Ta Biết vào thế giới như một phần nối dài của nó, để trải nghiệm thế giới từ bên trong. Con không bao giờ có thể cắt đứt sự nối kết đó nhưng con có thể che phủ nó bằng các khía cạnh dựa trên tự ngã trong các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Cho nên con cảm thấy bị bỏ rơi, con cảm thấy cô đơn, con cảm thấy thiếu sót và không trọn vẹn. Đó chính là tại sao con cảm thấy nghèo nàn túng thiếu, tại sao con nghĩ con cần đến một cái gì bên ngoài chính mình để lấp đầy khoảng trống, lấp đầy lỗ hổng mà con mang bên trong.

Tự ngã sẽ luôn luôn có một lỗ hổng bên trong nó, nhưng là một lỗ hổng không thể nào lấp đầy. Tự ngã được tạo ra trong thế gian cho nên nó chỉ biết nghĩ là cách duy nhất để khắc phục cảm giác trống trải và nỗi khổ thiếu hụt là đạt được một thứ gì đó từ thế gian. Tiền bạc là một trong những thứ này nhưng còn nhiều thứ khác nữa. Tự ngã không ngừng đuổi theo ngày càng nhiều thứ của thế gian vì nó tưởng là nó sẽ cảm thấy trọn vẹn khi nó có đủ, nhưng điều này không bao giờ xảy ra. Tự ngã sẽ không bao giờ cảm thấy trọn vẹn.

Nhưng cái ta mà con là có thể đạt tới điểm nó cảm thấy trọn vẹn trong thế gian, nhưng chỉ khi nào con không bị mù quáng bởi các ảo tưởng của Maya cấu tạo tự ngã. Con phải loại bỏ các ảo tưởng này một cách có hệ thống khỏi các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con, và một khi con làm vậy, con sẽ thiết lập một sự nối kết ý thức càng ngày càng chặt chẽ với cái ta cao. Con sẽ cảm nhận được dòng chảy năng lượng, là năng lượng dựa trên tình thương liên tục chảy xuống từ cái ta cao vào tâm con. Đây mới là điều khiến con cảm thấy trọn vẹn, viên mãn.

Cho nên cái hiểu đích thực về sinh kế cao hơn là con làm tất cả những gì có thể để tái lập sự kết nối với cái ta cao hầu con đạt tới điểm cảm thấy mình trọn vẹn và viên mãn trong bản thân mình. Nói cách khác, con không cần bất cứ gì từ thế giới này để cảm thấy trọn vẹn. Con vẫn có thể mong muốn có một số thứ, trải nghiệm một số thứ của thế gian, nhưng con không bị điều khiển bởi nhu cầu ám ảnh cưỡng chế muốn đạt được gì đó từ thế gian để lấp đầy lỗ hổng. Vì con đã bước ra ngoài tự ngã cho nên con không trải nghiệm thế gian qua tự ngã, và vì vậy con không cảm thấy lỗ hổng. Thay vào đó, con trải nghiệm sự nối kết với cái ta cao, dòng tình thương chảy xuống từ cái ta cao, và điều này khiến con tràn đầy bên trong. Tất nhiên con vẫn có thể còn một số khía cạnh của tự ngã, một số những cái ngã – nếu có thể gọi như vậy – có mặt trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, và con có thể tạm thời bước vào chúng và bị chúng khống chế. Nhưng con có khả năng lại bước ra ngoài chúng, kết nối lại với cái ta cao và lại trải nghiệm sự trọn vẹn.

11.8. Tăng dòng chảy năng lượng

Rõ ràng là trên đường tu có nhiều bước, cho nên sẽ tới một điểm con bắt đầu có những hé thoáng nối kết với cái ta cao, con bắt đầu có những cái nhiều người gọi là trải nghiệm thần bí. Sau đó con lại trở về nhận biết bình thường của mình, lại bị tô màu bởi tự ngã đang đồng hóa với những cái ngã kia và con lại phản ứng theo chúng. Nhưng một khi con đã trải nghiệm được sự nối kết với cái ta cao, con có thể sử dụng trải nghiệm này để bước ra ngoài sự đồng hóa với nhân cách vỏ ngoài và thiết lập thêm nối kết. Dần dần với thời gian, càng ngày con càng nối kết nhiều hơn và những trường hợp bị ngã vỏ ngoài, nhân cách vỏ ngoài, áp đảo ngày càng hiếm hoi. Con càng nối kết và trọn vẹn lâu hơn, thường xuyên hơn. Đây là ý nghĩa tối hậu của Chánh mạng.

Chánh mạng cũng liên quan đến lượng năng lượng chảy vào tâm con từ cái ta cao, và điều này tùy thuộc vào hai yếu tố. Đầu tiên phải có một sự nối kết rộng mở hơn. Như thày đã giải thích, có nghĩa là con biến hóa năng lượng trong ba thể cao của con đang ngăn chặn sự nối kết, con gỡ bỏ các tin tưởng sai lầm hầu con làm sạch các thể cảm xúc, lý trí, bản sắc. Khi có nhiều khoảng trống hơn thì nhiều năng lượng hơn sẽ chảy xuống.  

Kỳ thực con có thể thỉnh năng lượng chảy vào các thể phàm của con, và con có thể làm vậy qua nhiều kỹ thuật khác nhau, kể cả việc tụng niệm như trong đạo Phật, hay nhiều bài chú, bài thỉnh là kỹ thuật hiện đại hơn được trao cho con người trong thế giới ngày nay. Điều này đòi hỏi con phần nào cởi mở với một cách nhìn mới khi con nhận ra là kỳ thực có nhiều sinh thể hiện hữu nơi tầng cõi vượt khỏi vũ trụ vật chất. Qua việc thỉnh gọi các sinh thể này, con có thể thỉnh những năng lượng đặc thù mà các vị đó biểu tượng.

Trong nhiều giáo lý tâm linh đã có khái niệm là có bảy loại năng lượng chính mà con có thể thỉnh, có khi được gọi là các tia sáng tâm linh. Có những vị chân sư đặc thù đảm nhiệm việc rải truyền các năng lượng này đến trái đất. Khi con thỉnh cầu các chân sư đó, con có thể gia tăng dòng chảy năng lượng xuyên qua bản thể con vào trường năng lượng của con, được thể hiện xuyên qua những điểm mà nhiều giáo lý tâm linh gọi là luân xa (chakra) tức là những trung tâm năng lượng trong năng trường của con.

Qua việc nhận thức sự kiện này, con có thể gia tăng dòng chảy đó, gia tăng lưu lượng. Tuy nhiên có một mặt khác nữa là con cũng hiểu được ý nghĩa truyện ngụ ngôn của Giê-su về ba người đầy tớ. Truyện kể có chủ nhà kia đi xa, ông trao cho ba người những lượng ta-lăng khác nhau. Khi trở về, ông hỏi họ đã làm gì với các ta-lăng. Hai người đã nhân ta-lăng lên gấp bội, còn một người thì chôn ta-lăng dưới đất để khỏi đánh mất. Hai người đã nhân ta-lăng lên được chủ tưởng thưởng. Câu chuyện chỉ ra cho con thấy một nguyên lý chung là khi con lấy năng lượng mà con đã nhận được từ một nguồn cao hơn rồi sử dụng để nâng cao cả tổng thể, để phụng sự những phần khác của sự sống và đem lại sự cải thiện ở đâu đó, thì những gì con đã dùng sẽ được nhân lên. Như thày đã giải thích, cho dù con có làm gì thì con cũng gửi ra ngoài một xung lực năng lượng luân lưu qua bốn tầng của vũ trụ vật chất, nhưng nếu xung lực này dựa trên tình thương, nó sẽ vượt quá vũ trụ vật chất, nó được nhân lên và con sẽ nhận lại nhiều năng lượng hơn so với những gì con đã gửi ra ban đầu.

Điều này có nghĩa là giờ đây đời con trở thành một vòng xoáy ốc hướng thượng, qua đó con dùng năng lượng với một sự nhận biết về tổng thể, con nỗ lực nâng cao một khía cạnh nào đó của tổng thể, với kết quả là con nhận thêm nhiều năng lượng sáng tạo hơn nữa để con lại có thể phụng sự nhiều hơn, và chu kỳ này cứ thế tăng lên suốt đời con. Con có thể nói việc xây dựng vòng xoắn ốc năng lượng tuần tự này là hình thức sinh kế tối hậu. Nó có thể biểu hiện qua nhiều loại hoạt động, nhiều công trình khác nhau trong đời sống, qua đó con dùng năng lượng sáng tạo này cùng nhận biết cao hơn của con, cảm nhận nối kết của con để đem lại cải tiến. Thật rõ ràng là nếu con làm vậy, con sẽ nhận được phần thưởng tương ứng. 

11.9. Làm việc để nâng cao tổng thể

Một lần nữa con thấy có những người tâm linh tìm thấy một giáo lý tâm linh nhưng lại nhìn giáo lý tâm linh qua phin lọc của ngã tách biệt. Trên cơ bản, họ nói: “Làm thế nào tôi có thể dùng giáo lý này để tạo lợi thế cho ngã tách biệt? Chẳng hạn làm thế nào tôi dùng nó để cảm thấy an toàn, yên ổn? Hay làm thế nào tôi dùng nó để cảm thấy mình tốt thiện hơn người khác?” và đó là loại mong muốn của ngã tách biệt. Con đang cố tâng mình lên cao hơn người khác, thậm chí có lẽ còn dìm người khác xuống. À, chuyện này sẽ không giúp con khắc phục ảo tưởng tách biệt, phải không con? Con càng dùng giáo lý tâm linh để khiến con cảm thấy mình đặc biệt so với người khác thì con sẽ càng củng cố cho ngã tách biệt cùng ảo tưởng con là một sinh thể tách biệt.

Đâu là mục đích của giáo lý của Phật và con đường Bát chánh đạo? Đó là để khắc phục ảo tưởng đó. Chỉ bằng cách chất vấn ảo tưởng, tách rời cái Ta Biết ra khỏi ngã vỏ ngoài, thì con mới có thể nối kết với Phật tánh và nhờ vậy bước vào vòng xoắn ốc hướng thượng nơi con dần dần ngừng đồng hóa với ngã vỏ ngoài, và thay vào đó đồng hóa với cái ta cao là sự biểu hiện của Phật tánh. Con trở nên nối kết trước tiên với cái ta cao trong chính con, và xuyên qua nối kết này, con nối kết với mọi người khác, với môi trường, với mọi sự sống. Con bắt đầu hành động dựa trên sự nhận biết về tổng thể và đây chính là Phật tánh.

Đây là sinh kế tối hậu. Con không chú tâm vào tiền bạc, con không chú tâm vào chuyện đánh giá xem hình thức nghề nghiệp nào là ổn thỏa cho một người tâm linh. Mà con chú tâm vào: “Đâu là nơi tôi có thể đem lại sự cải thiện? Đâu là nơi tôi có thể phụng sự tổng thể?” Khi con tập trung vào đó, những đại lộ mới sẽ mở ra mà rất có thể ngày hôm nay con không thể tưởng tượng nổi. Khi con nâng cao nhận biết, con nhìn ra cơ hội mới và con trực nhận đây là hướng đi đúng đắn. Đời con trở thành một vòng xoắn ốc phụng sự cứ lên cao hơn mãi, trong khi con vẫn có đầy đủ phương tiện để chăm sóc cơ thể vật lý của con, gia đình của con lẫn những trách nhiệm khác.

Con không thể chỉ quyết định bằng tâm vỏ ngoài. Qua trực giác con phải hòa điệu với cái ta cao của con, với Kế hoạch Trọn đời của con và luôn luôn nỗ lực vượt xa hơn tâm vỏ ngoài chỉ biết xem nó là một sinh thể tách biệt trong một thế giới có nhiều sinh thể tách biệt khác. Con nỗ lực vượt xa khỏi Biển Luân hồi cho nên con an bình. Đây là Sinh kế Cao hơn.

17 | Con chú tâm vào điều gì?

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị qua mạng Internet mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Chúng ta đang đi đến giai đoạn cuối của Bát Chánh đạo, đây là giai đoạn dồn hết sự chú ý, mà thật sự có lẽ tốt hơn nên gọi là chú tâm. Con chú tâm vào điều gì? Thày đã nói điều vô cùng quan trọng là con cần nhận ra Bát Chánh đạo – tức con đường tâm linh, con đường hướng đến các tầng nhận biết cao hơn – có nhiều giai đoạn.

Con đã tới điểm con tìm thấy một giáo lý tâm linh vỏ ngoài. Con không nhận định mình đang ở mức nào khi con tìm thấy giáo lý này. Qua khắp các thời đại, nhiều người đã đưa ra nhận định: “Đối với tôi, dường như đây là một giáo lý rất vi diệu mà tôi xem là cao siêu, đặc biệt, và điều này phải có nghĩa là tôi là một học trò tâm linh tinh thông”. Điều này không hẳn đúng, và cũng không nhất thiết là sai, nhưng con cần nhận ra một điều, đó là con đang sống trong một thời kỳ mà thông tin dễ dàng lan truyền hơn bao giờ hết.

Nhờ các trang mạng và sách nên mọi người hoàn toàn có thể bắt gặp một giáo lý tâm linh ngay cả khi họ chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý này, hay họ chưa đạt được một mức tâm thức nhất định trong giai đoạn đi từ mức nhận thức thấp hơn lên đến những mức cao hơn. Thày nói điều này không có ý chê trách ai. Thật không có tính xây dựng khi áp đặt nhận định này lên mức tâm thức của con lúc con tìm ra một giáo lý tâm linh. Điều quan trọng con cần nhận ra là khi con tìm thấy con đường tu thì con đang ở một mức tâm thức nào đó, và mức tâm thức này sẽ pha màu và ảnh hưởng đến cách con tiếp cận đường tu. Hay nói cách khác, thật khó lập ra một phương pháp chuẩn mực hay một quy trình chuẩn mực để tất cả mọi người có thể đi theo khi họ tìm ra một giáo lý tâm linh. Mọi người cần khởi sự tại mức tâm thức hiện tại của mình và điều này không thể khác được. Khi tìm ra một giáo lý tâm linh, người ta cần phải đi qua một giai đoạn, có lẽ một giai đoạn khá dài, sử dụng giáo lý tâm linh để củng cố thế giới quan hiện hữu hoặc dùng giáo lý này để xây dựng một thế giới quan mới. Thế giới quan này dựa trên ý niệm tách biệt và mong muốn mình dường như cao trội, hay khiến mình có cảm giác an toàn vì mình hiện đang đi theo giáo lý tâm linh này. 

Cũng có nhiều người cần cảm thấy: “Vì tôi đang theo giáo lý tâm linh này, cho nên thế nào tôi cũng sẽ được cứu rỗi, thế nào tôi cũng sẽ giác ngộ”. Cảm giác này khiến họ dễ đương đầu hơn với các hoàn cảnh sống và đây là điều cần thiết khi còn ở mức thấp trên đường tu. Có những người vẫn cần điều này. Họ không thể làm gì khác ngoài việc dùng những nhu cầu này để tiếp cận con đường tâm linh, và họ cũng cần có những trải nghiệm này trong một thời gian cho đến khi họ mở tâm ra với một tầm nhìn cao hơn về đường tu. Các thày có thể nói rằng một số người khi tìm ra con đường tâm linh cần phải đi qua một giai đoạn trong đó họ dùng giáo lý tâm linh để thật sự xây dựng hay củng cố một thế giới quan sẽ giữ họ trong tách biệt. Điều này không thể tránh được. Một số cuối cùng có thể đạt đến điểm sẵn sàng vượt lên khỏi giai đoạn này, trong khi một số khác vẫn sẽ đứng yên cho đến hết kiếp.

17.1. Bí quyết là thay đổi chính mình

Giai đoạn kế tiếp là gì? À, giai đoạn tiếp theo là con bắt đầu nhận ra con cần thay đổi chính mình. Đó không phải là chuyện thay đổi người khác, hay thay đổi thế giới, hay thay đổi Thượng đế và những gì Thượng đế sẽ làm cho con. Đó là thay đổi chính con. Con bắt đầu nhận ra điều thày đã đề cập trong loạt bài giảng này: Đó là con cần chú tâm thay đổi tâm mình từ bên trong, thay vì trước tiên thay đổi các hoàn cảnh bên ngoài với hy vọng điều này sẽ thay đổi trạng thái tâm con. 

Giờ đây khi con bắt đầu hiểu được điều này là lúc con bước vào giai đoạn mà công việc chính là thật sự kéo mình khỏi lực hút từ tính của tâm thức đại chúng. Mọi thứ đều liên kết với nhau, vì vậy con là một phần của tâm thức nhân loại. Con cũng là một phần của tâm thức đại chúng trong nền văn hoá và chủng tộc nơi con lớn lên. Điều con thấy trong tất cả những nền văn hoá này là có một ý niệm nào đó về sự bình thường. Đây là điều bình thường trong văn hoá của con và có một áp lực từ tâm thức đại chúng khiến con phải tuân theo điều bình thường này. Dĩ nhiên, chuẩn mực cho sự bình thường được quy định dựa trên ảo tưởng tách biệt và tâm thức nhị nguyên. Hầu hết mọi người đều có cảm nhận văn hoá của mình cao trội hơn của người khác, và việc xung đột với các nền văn hoá khác là lẽ thường tình. Để có thể đạt được tiến bộ trên con đường tâm linh, tất nhiên con cần kéo mình ra khỏi tâm thức này.

Giờ đây con bước vào giai đoạn tập trung chính yếu – dồn hết chú tâm – giải phóng mình khỏi lực hút từ tính của tâm thức đại chúng. Như thày đã mô tả, con làm điều này bằng cách chuyển hoá các năng lượng mà tâm thức đại chúng có thể chụp lấy và kéo đi. Con làm điều này bằng cách nhận ra các khuôn nếp phản ứng, các ngã tách biệt của mình, con giải toả các ảo tưởng và để cho ngã chết đi. Tâm thức đại chúng chỉ có thể hút con khi trong bốn thể phàm của con có cái chúng có thể thu hút. Điều này cũng giống như trọng lực vậy, trọng lực chỉ hấp dẫn những thứ có khối lượng. Nếu một vật không có khối lượng thì trọng lực không thể hấp dẫn được. Khi con làm điều này, con càng lúc càng độc lập với tâm thức đại chúng. Con đang nâng chính mình khỏi tâm thức đại chúng để khi những con quỷ của Mara đến và cám dỗ con, chúng không tìm thấy gì trong con để kéo con quay lại khuôn nếp mà con thấy trong văn hoá của con hay ngay cả trong toàn thể nhân loại nói chung. Con không bận tâm đến việc tuân thủ các tiêu chuẩn, con chỉ quan tâm đến việc nâng cao tâm thức của con.

17.2. Bước trên con đường tâm linh như một cá thể

Giờ đây như thày đã nói, một khi con trong lọc các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của mình khỏi những ngã tách biệt này và những năng lượng thấp, thì con bắt đầu kết nối nhiều hơn với cái ta cao của con. Đây là lúc con có thể đạt đến một điểm cơ yếu trên con đường tâm linh, và nhiều người cũng cảm thấy bối rối về điểm này. Có thể con đạt đến điểm con đã giải thoát mình phần lớn hay thậm chí hoàn toàn khỏi sức hút của tâm thức đại chúng, nhưng con làm điều này bằng cách nào? Bằng cách nào con giải thoát mình khỏi tâm thức tập thể? À, con chỉ có thể làm được điều này dựa trên tầng mức nhận thức của con, và khi con khởi sự đường tu thì mức nhận thức này ít nhất cho con cảm giác con là một sinh thể tách biệt. Điều tự nhiên là con người trên trái đất bị chế ngự bởi tâm thức tập thể đến mức họ có rất ít ý thức cá thể. Có thể nói là họ trôi theo dòng nước cuốn của tâm thức đại chúng thay vì tuôn chảy theo cách của riêng mình. 

Để đi trên con đường tâm linh, con cần đi riêng biệt vì hiện nay không có một nền văn hoá nào trên trái đất xem việc tu tập là một chuyện bình thường. Con phải luôn đi ngược lại với quy tắc xã hội và con chỉ có thể làm điều này như một cá nhân riêng biệt. Con thật sự đang làm gì khi trong giai đoạn này con nâng mình lên, giải thoát mình khỏi sức hút của tâm thức đại chúng? À, đó là con đang xây dựng một ý thức cá thể mới của một người tâm linh, nhưng con làm điều này bằng cách nào? À, đó là con xây dựng hay con tạo ra một tập hợp những ngã tách biệt dựa trên việc xem mình là một người tâm linh đang bước chân trên đường tu trong giáo lý tâm linh đặc thù của con. Thày tuyệt đối không ngụ ý điều này có gì sai trái vì con không thể làm gì khác được. Con phải bắt đầu ngay vị trí con đang đứng. Ở giai đoạn đầu, con phải giải thoát mình khỏi tâm thức đại chúng, và con làm điều này bằng việc tạo nên một cái ngã riêng biệt thật mạnh mẽ để nó không bị hút vào những khuôn nếp tập thể trong nền văn hoá của con. Con đang thật sự nắm lấy một giáo lý tâm linh và dùng giáo lý này để xây dựng một tập hợp các ngã tách biệt khiến con có thể cưỡng lại áp lực hay sức hút từ tâm thức tập thể.

Một khi con đã làm được điều này một lúc thì con tới một bước ngoặt quan trọng nhất trên đường tu, vì giờ đây con đối mặt với một chọn lựa cốt yếu. Chọn lựa này là, con sẽ tiếp tục bồi đắp cho ý niệm bản sắc tách biệt này như một sinh thể riêng biệt, hay con sẽ bắt đầu hiểu ra là mặc dù bản sắc riêng biệt này đã hữu ích nhưng nó vẫn không thể đưa con đến những giai đoạn cao hơn của con đường tâm linh. Quả thật, nó không thể đưa con vượt quá một điểm nào đó. Thày đã giải thích mục đích thực của con đường tâm linh là con vượt qua tất cả các ý niệm bản ngã, tất cả những cái ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Do đó, cái ngã giúp con tự do khỏi tâm thức đại chúng được xây dựng trên ý niệm tách biệt – không nhất thiết là nhị nguyên hay thấy mình là kẻ thù của người khác, nhưng nó khiến con tách hẳn ra khỏi người khác và tách khỏi tâm thức đại chúng.

Để có thể đến được các giai đoạn cao hơn của đường tu, con cần bắt đầu nhận ra là ngã này đã hoàn tất mục tiêu của nó, nhưng giờ đây con cần bắt đầu buông bỏ nó. Dĩ nhiên, điều này nghe có vẻ mâu thuẫn – thoạt tiên con dựng lên một cái ngã, sau đó con lại phải lột bỏ nó. Nhưng con hãy hình dung một chiếc hoả tiễn, một chiếc hoả tiễn có lẽ gồm có ba tầng. Có một bình nhiên liệu khổng lồ cùng động cơ nằm ở bên dưới hoả tiễn được dùng để đẩy hoả tiễn lên đến một độ cao nào đó nơi trọng lực trái đất và lực cản không khí giảm bớt. Sau đó bình nhiên liệu đã cạn, và để hoả tiễn có thể bay cao hơn thì nó cần tách khỏi bình nhiên liệu và bộ động cơ đầu tiên, rồi khởi động bộ động cơ thứ nhì để đẩy nó lên mức cao hơn nữa. Ý niệm bản ngã của con cũng tương tự như vậy. Con có một cái ngã và con bồi đắp nó để nó đưa con vượt khỏi sức hút hấp dẫn của tâm thức đại chúng, nhưng sau đó con cần bỏ cái ngã này đi để con lên cao hơn. Có sự khác biệt giữa hoả tiễn và con, đó là con không thể và hiển nhiên con không phải loại bỏ tất cả các ngã cùng một lúc. Con cần loại bỏ chúng lần lượt vì thật sự không chỉ có một cái ngã, mà là một tổ hợp các ngã tách biệt, nên con phải tháo gỡ từng cái một.

Nhiều người suốt các thời đại đã không hiểu thấu quá trình này. Có một số ít đã thấu triệt quá trình này nhưng phần đông thì chưa hiểu được, nên họ quả thật vẫn dính mắc vào ngã này hay dính mắc với bản sắc mà họ đã bồi đắp đến mức họ không thể buông bỏ được. Như thày đã từng mô tả về tự ngã, những người này giờ đây tin rằng đây thật sự là cái ngã sẽ đưa họ lên thiên đàng hay niết bàn, vì vậy họ cần phải tiếp tục bồi đắp, cải tiến và kiện toàn nó cho đến khi cái ngã này có thể bước vào thiên đàng hay cõi tâm linh hay cõi niết bàn hoặc bất cứ gì con có thể gọi. Đây là một ảo tưởng, và là một ảo tưởng mang tiềm năng tác hại khiến nhiều người mắc kẹt, thậm chí trong nhiều kiếp đầu thai. Thày đã cho con các công cụ giúp con nhận ra tại sao đây là một ảo tưởng vì nó dựa trên tách biệt, một ảo tưởng tách biệt.

17.3. Niềm tự hào tâm linh 

Con cũng có thể nhìn vào những phong trào tâm linh mà con đã hoặc đang tham gia, và nhận thấy có những người đã ở trong những phong trào này có lẽ cũng khá lâu, và họ đã tạo nên một niềm tự hào, tự hào về các thành quả tâm linh, về sự hiểu biết giáo lý và công phu tu tập của mình. Họ cảm thấy không những họ cao hơn những người không theo giáo lý mà cao hơn cả những người đang theo học giáo lý nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm như họ. Nếu con bước lùi lại thì con có thể nhìn rõ niềm tự hào tâm linh này chỉ có thể xuất phát từ một cái ngã tách biệt, nhưng một ngã tách biệt không thể đưa con lên đến một mức nhận thức cao hơn. Nó không thể đưa con đến Quả vị Phật, nó không thể đưa con đến niết bàn hay vào thiên đàng. Không cách gì chuyện này có thể xảy ra.

Giờ đây con bắt đầu nhận thấy khi tiến đến mức này, con cần chuyển đổi tâm mình. Con cần đi qua một sự xoay chuyển khác để nhận ra là từ giờ trở đi con đang thật sự xây dựng một loại ngã khác. Con đang xây dựng một cái ngã không dựa vào việc nhìn mình tách biệt khỏi tâm thức đại chúng, mà nhìn mình đang nối kết với cái ta cao của mình. Trong quá trình xây dựng ý niệm bản sắc nối kết này, con dần loại bỏ một số những cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra khi con còn đang nâng mình khỏi tâm thức đại chúng. Đây chỉ là một giai đoạn khác của đường tu, thật sự không có gì bí ẩn ở đây cả, chỉ là điều mà nhiều người không nhận ra.

Điều con cần làm ở đây là con cần bắt đầu sẵn lòng chất vấn cách con tiếp cận con đường tâm linh. Con đã nhìn đường tu như thế nào? Con có thể xác định những thành phần nào đến từ tách biệt hay ngay cả có lẽ đến từ nhị nguyên không? Con có thể bắt đầu thấy những thành phần này thật sự đang giới hạn con, chúng ngăn con có được tự do. Về cơ bản, con có thể nhìn đường tu như một quá trình nhờ đó tâm con càng lúc càng trở nên tự do. Con có thể thấy những ai bị tâm thức đại chúng chế ngự đều không có tự do tâm trí. Ý niệm bản sắc của họ do ý niệm bản sắc tập thể quyết định. Họ thường có xu hướng tư duy theo một kiểu nào đó và hiếm khi đưa ra một ý kiến cá nhân độc lập, vì tâm lý trí của họ đã bị chế ngự bởi tâm đại chúng. Họ thường không thể chọn theo cảm nhận riêng của mình mà lại theo bất kỳ khuôn nếp cảm xúc nào có mặt trong tâm thức tập thể. Nếu một tình huống nào đó xảy ra khiến những người trong nhóm phản ứng lại bằng cơn giận thì họ cũng sẽ phản ứng bằng cơn giận. Thường họ thấy điều này là hoàn toàn tự nhiên, là cách phản ứng duy nhất, vì vậy họ không có tự do tâm trí, họ không có tự do lựa chọn phản ứng với hoàn cảnh, không có tự do lựa chọn hành động, cảm xúc, suy nghĩ hay cả ý niệm bản sắc của mình.

Khi con còn xây dựng một cái ngã đưa con vượt khỏi tâm thức đại chúng thì con càng lúc càng tự do, nhưng chính cái ngã khiến con tự do khỏi tâm thức tập thể giờ đây lại trở thành một giới hạn cho tâm con vì con nghĩ con phải sống bằng cái ngã đó. Con phải sống bằng pháp tu mà con đã chấp nhận khi con còn ở trong một tầng tâm thức thấp hơn, vì vậy con vẫn không đạt được tự do tâm trí. Con tự do hơn lúc con bị tâm thức tập thể chế ngự, nhưng con chỉ tự do khỏi tâm thức tập thể vì con đã tạo ra một ý thức cá thể mạnh mẽ, nhưng nó vẫn là một ý thức cá thể vỏ ngoài và nó vẫn giới hạn tự do tâm trí con.

17.4. Gắn kết với cái ta cao hơn của con 

Bước kế tiếp là con giải phóng mình khỏi ngã này, khỏi tổ hợp những ngã này, trong đó con thấy mình là một sinh thể riêng biệt không kết nối đang cố nâng tâm thức mình so với một đối tượng là tâm thức tập thể. Khi con xây dựng ý thức riêng biệt này thì kỳ thực con đang phản ứng với tâm thức đại chúng, thậm chí con chống cự lại tâm thức này khi con nói: “À, tôi sẽ không cảm xúc, suy nghĩ hay đồng hoá mình với tâm thức đại chúng. Tôi sẽ làm theo cách khác”. Vậy thì con vẫn đang tương quan với tâm thức đại chúng, con giống như một hành tinh quay xung quanh mặt trời của tâm thức đại chúng. Giờ đây con cần gia tốc mình để thay vì quay xung quanh nó, thì hành tinh của con đi vào một quỹ đạo xoắn ốc đưa con vượt khỏi điểm này. Con làm điều này bằng cách nhận ra bước kế tiếp là thay vì gắn kết với tâm thức tập thể thì nay con gắn kết với cái ta cao hơn của con – cái ta này đến từ bên trong con, không phải từ bên ngoài con.

Đây là lúc con đi vào con đường nội tâm, giai đoạn nội tâm của đường tu cũng là lúc con chú tâm vào tâm thức của chính mình – giải quyết các trạng thái tâm thức của mình. Điều này giúp con tăng trưởng và theo một nghĩa nào đó, con có thể tiếp tục làm việc trên tâm lý của mình một thời gian khá lâu, và bằng cách này con có thể đạt được nhiều tiến bộ. Tuy vậy, đến một lúc con cần nhận ra mặc dù con đã nâng tâm thức mình, đã trong lọc tâm thức mình, nhưng bước tiếp theo con vẫn phải thật sự tạo ra một ý niệm bản ngã mới dựa vào việc con là một sinh thể có kết nối, dựa vào trải nghiệm con là một sinh thể có kết nối. 

Giai đoạn đầu là con kết nối với cái ta cao của con và nhận ra rằng ngoài cá tính vỏ ngoài và ý thức riêng biệt tương quan với thế giới này, thì cái ta cao của con cũng có một sắc tính. Thật sự con không thể gọi nó là một cá tính như hầu hết mọi người quan niệm, nhưng cái ta cao của con có những đặc tính cá thể mà con có thể neo trụ vào, và vì vậy con có thể bắt đầu đem đặc tính này vào tâm ý thức và biểu lộ nó qua bản sắc thể, trí thể và cảm thể. Giờ đây con đang trong giai đoạn nối kết với cái ta cao của con thay vì tương quan với tâm thức đại chúng hay với người khác, và con đang biểu đạt một số sắc tính từ cái ta cao của mình.

17.5. Bước vào tâm thức hợp nhất

Giai đoạn tiếp theo là lúc con bắt đầu nhận ra cái ta cao không thuộc thế giới vật chất. Nó cũng không nằm ở bốn tầng, vật lý, tình cảm, lý trí và bản sắc. Cái ta cao của con nằm ngoài thế giới hình tướng mà con đang biết đây. Nó vẫn có hình tướng nhưng nó ở nơi mà người ta gọi là cõi tâm linh. Khi con vượt khỏi thế giới hình tướng này thì tất cả đều là một, tất cả đều là duy nhất, và cái ta cao của con thấy được sự duy nhất này vì nếu không, nó không thể ở trên cõi cao đó. Con không thể bước vào cõi cao đó nếu con không thấy tất cả là một.

Giai đoạn kế tiếp là con đem cái một từ cái ta cao vào nhận biết ý thức. Giờ đây con bắt đầu xây dựng một ý niệm bản sắc không phải dựa trên sự tách biệt với tâm thức đại chúng, không phải dựa trên việc con vẫn là một sinh thể riêng biệt đang tương quan với cái ta cao. Con xây dựng một bản sắc dựa trên việc nhìn chính mình là một con người không những kết nối với cái ta cao mà còn kết nối với người khác và với môi trường vật lý của con. Hay nói cách khác, con bắt đầu vượt qua ý niệm tách biệt. Không nhất thiết đây là ý niệm nhị nguyên mà là ý niệm con tách khỏi người khác, tách khỏi môi trường, vân vân. 

Đây là chánh định. Đây là ý nghĩa sâu sắc và cao hơn của chú tâm hay tập trung. Con không chú tâm vào tâm thức tập thể, con không chú tâm vào chính mình như một sinh thể cá biệt, mà con tập trung vào tổng thể, con chú tâm kết nối, con chú tâm vào hợp nhất và điều này có nghĩa là giờ đây con bắt đầu nhìn cuộc sống theo một cách khác. Thay vì ước đoán: “Làm sao tôi nâng mình lên như một cá nhân?” thì con lượng định: “Làm sao tôi nâng tổng thể lên, làm sao tôi nâng người khác lên? Những người tôi biết quanh tôi, làm sao tôi nâng họ lên? Làm sao tôi giúp họ nâng tâm thức? Làm sao tôi giúp cải thiện một số khía cạnh của cuộc sống? Làm sao tôi góp phần thúc đẩy tiến bộ của nhân loại và thế giới nơi tôi đang sống?”

17.6. Chú tâm nâng cao tổng thể 

Trái đất đã có những tiến bộ đáng kể theo những gì được ghi nhận trong lịch sử. Con có thể thấy những tiến bộ đạt được trong lĩnh vực công nghệ hơn hai thế kỷ qua. Con cũng nhận thấy tiến bộ công nghệ không song hành với tiến bộ tâm thức nhân loại. Đã có vài tiến bộ nhưng vẫn chưa đủ để con người có thể dùng những tiến bộ công nghệ một cách cân bằng. Con thấy được điều này qua sự kiện công nghệ gây ô nhiễm môi trường, thay đổi khí hậu, vân vân. Con cũng thấy vũ khí càng lúc càng có sức mạnh và nguy cơ giết hại nhiều người hơn. Con có thể thấy có sự tiến triển nhưng cần phải tiến xa hơn nữa, đặc biệt cần phải gia tốc tâm thức nhân loại, nâng cao tâm thức tập thể. Bằng cách nào để điều này xảy ra? Bằng cách nào con nâng cao tâm thức tập thể? À, điều này chỉ có thể xảy ra khi từng cá nhân nâng cao tâm thức mình nhờ vậy kéo tất cả lên theo. 

Ngay cả trong giai đoạn con tìm cách nâng mình lên khỏi sức kéo của tâm thức đại chúng, tất nhiên con không hoàn toàn tách khỏi tâm thức này. Tâm thức đại chúng đang kéo con nhưng con cũng đang kéo tâm thức đại chúng. Khi con nâng mức nhận thức của mình lên, con cũng nâng tâm thức đại chúng lên. Chừng nào con còn chú tâm nâng mình lên như một cá nhân thì sức kéo này không mạnh lắm, nhưng ngay lúc con chuyển đổi thấy mình như một sinh thể nối kết thì sức kéo của con đối với tâm thức đại chúng trở nên mãnh liệt hơn rất nhiều. Do đó con tạo ra một tác động lớn hơn hẳn. Con đóng góp nhiều hơn hẳn vào việc nâng cao mọi sự sống bằng cách nâng cao tâm thức tập thể. Có người gọi việc này là giữ cân bằng tâm linh cho hành tinh hay cho xã hội, vì nhờ đó con kéo đại chúng lên cho đến khi mọi người bắt đầu thấy cần phải chuyển đổi một điều gì đấy.

Dân chủ đã ra đời như thế nào? Khi có đủ túc số tới hạn những con người đi qua giai đoạn chuyển đổi tâm thức thì họ bắt đầu bắt gặp các ý tưởng và các lý tưởng đặt nền tảng cho dân chủ. Họ dần dần chấp nhận các ý tưởng này và khi họ nâng cao nhận thức, họ cũng kéo đại chúng lên theo cho đến khi việc này bắt đầu lan ra như những vòng tròn trên mặt nước khi càng lúc càng có nhiều người bắt đầu thấy những sự thật làm nền tảng cho dân chủ sao quá hiển nhiên. Con người có những quyền hạn mà không một thế lực nào trên trái đất có thể tước đi được bởi vì quyền này được trao từ một tầng tâm thức cao hơn. Đây là cách dân chủ đã ra đời, đây là cách tất cả các tiến bộ đã diễn ra bằng việc nâng cao nhận thức đại chúng, trong đó một túc số tới hạn bất ngờ chuyển đổi tâm thức và thấy được điều mà họ không thấy trước đây. Thay vì tranh luận đúng sai, họ chỉ nhận thấy: “Nhưng điều này rõ ràng là vậy. Điều này thật hiển nhiên. Điều này là cách xã hội cần tăng triển”.

Đây là tiềm năng to lớn của con khi con đạt đến tầng cao hơn này của đường tu. Đó là chuyển đổi sự chú tâm. Thay vì chú tâm phát triển cá nhân mình thì con chú tâm nâng cao tổng thể. Đây là cách duy nhất khiến con có khả năng thật sự vượt quá một điểm nhất định trên đường tu. Con không thể đạt quả vị Phật nếu con nhìn mình như một cá thể tách biệt và chỉ quan tâm đến cá nhân mình mà không đoái hoài đến tổng thể. Quả vị Phật chú tâm vào tổng thể, tập trung vào tổng thể chứ không phải chỉ vào một phần nào đó, nhưng tất nhiên, con là một phần của tổng thể và đây là lý do vì sao con có thể kéo cả tổng thể lên.

Con thấy ở đây có một sự khác biệt cốt yếu giữa việc là một phần của tâm thức đại chúng với việc con vẫn là một phần của tổng thể. Hay nói cách khác, ấy là nếu con bị tâm thức đại chúng chế ngự thì con không kéo tâm thức này lên được. Hoặc con không tác động được gì, hoặc kỳ thực con sẽ kéo tâm thức tập thể đi xuống. Chỉ khi con bắt đầu nâng mình lên, nâng tâm cá nhân vượt khỏi mức tâm tập thể thì con mới có thể kéo tâm tập thể lên. Con càng nâng mức nhận biết của mình lên cao, con càng chú tâm vào tổng thể nhiều hơn là vào cái ta cá nhân, thì con càng kéo tâm thức tập thể mạnh hơn và tất nhiên con càng ít bị tâm thức này kéo xuống hơn. Con không bị dính mắc với tâm thức tập thể, nghĩa là con trở nên trong suốt trước tâm thức này.

17.7. Trở nên trong suốt 

Con có thể nói những con quỷ của Mara đang cố kéo con quay lại với tâm thức tập thể và chúng có khả năng làm điều này nếu con có những tin tưởng, có một ngã tách biệt cảm thấy nó phải phản ứng theo một cách nào đó trước cám dỗ của những con quỷ này. Giê-su đã diễn đạt điều này theo một cách hơi khác. Thày nói ông hoàng thế gian đến và không nắm được gì trong con. Hay nói cách khác, có một lực nào đấy, một tâm thức nào đấy trong thế giới này muốn kéo con vào những khuôn nếp cũ để ngăn hành trình tâm linh của con, ngăn con nâng cao tâm thức, vì vậy con cần học cách nhận diện điều này. Con đã vượt qua các ngã tách biệt. Con đã để chúng chết đi. Giờ đây con trở nên trong suốt.

Lực này có thể hướng điều gì đấy vào con – đó có thể là một suy nghĩ, một năng lượng cảm xúc, một xung lực nào đấy ở tầng bản sắc – nhưng khi nó đi vào tâm con thì không có gì trong đấy để nó có thể đánh trúng, khuấy động và tăng cường. Lực này đi xuyên thẳng qua con vì con không dính mắc, con tự do. Giê-su đã diễn đạt điều này trong câu nói: “Chuyện này can hệ gì với con, con cứ bước theo thày”. Hay nói cách khác, con hãy đi theo thày, hãy đi theo nhận biết cao hơn và hãy buông bỏ tất cả những cám dỗ kéo con vào những khuôn nếp phản ứng này.

Có một cách để nâng cao toàn thể là gì? Đó là biểu lộ cho mọi người thấy có một cách phản ứng khác ngoài cách đang thống trị tâm thức đại chúng trong văn hoá của họ. Nếu người thân trong gia đình con có xu hướng phản ứng bằng sự giận dữ trong những tình huống nào đó, và nếu con cho họ thấy con không phản ứng tức giận trong những tình huống như vậy thì có người sẽ hiểu. Họ sẽ hỏi ngay: “Tại sao người này không phản ứng như chúng ta thường làm, hay phản ứng như cách anh ta đã từng làm? Chuyện gì xảy ra vậy? Có khác gì không?” Có người sẽ nắm bắt được điều này. Có lẽ không phải là những người thân nhất trong gia đình con nhưng một số người sẽ nắm bắt được.

17.8. Không có nhân riêng rẽ và quả riêng rẽ 

Giờ đây con bắt đầu chú tâm nâng cao tổng thể, nhưng để nâng cao tổng thể con cần một sự xoay chuyển khác nữa, hoặc tối thiểu để tạo ảnh hưởng lớn nhất, con cần một sự xoay chuyển khác. Con cần suy ngẫm giáo lý về lý duyên khởi. Thày đã đưa ra nhận xét về giáo lý này là khoa học hiện đại có xu hướng muốn tách riêng một hiện tượng đặc trưng rồi tuyên bố: “Đây là một kết quả riêng rẽ và nó phải có một nguyên nhân riêng rẽ”. Ấy, trong thực tế không có những kết quả riêng rẽ và những nguyên nhân riêng rẽ. Tất cả đều phụ thuộc lẫn nhau. Như thày cũng đã đề cập, đây là nền tảng của thuyết hỗn mang trong đó một thay đổi nhỏ ở một nơi có thể đưa đến một thay đổi lớn hơn rất nhiều ở một nơi khác.

Điều con cần suy ngẫm là con đang khởi sự chú tâm nâng cao tổng thể và trong các giai đoạn đầu của quá trình này, con có xu hướng nhìn thế giới và nói: “Đây là vấn đề cần được thay đổi”. Chẳng hạn vấn đế có thể là: Chúng ta cần khắc phục vấn đề chiến tranh và biểu lộ hoà bình thế giới. Con có xu hướng nói: “Đây là một hiện tượng tách biệt, chiến tranh. Chúng ta khắc phục chiến tranh bằng cách nào? À, chúng ta phải xác định nguyên nhân rồi sau đó loại bỏ nguyên nhân”. Đây là cách giải quyết vấn đề phổ biến trong các xã hội hiện đại dựa trên tâm phân tích đường thẳng, thuần trí năng. 

Không phải là con không thể đạt được sự hiểu biết sâu sắc về chiến tranh và nguyên nhân của chiến tranh, nhưng trên hết, con cần nhận ra các nguyên nhân gây ra chiến tranh không thể đứng riêng rẽ. Tại sao vậy? Bởi vì cái gây ra chiến tranh chính là con người. Con có thể nhìn vào những lý do vỏ ngoài như: “Ồ, người ta đang đánh nhau vì dầu lửa, hay họ đánh nhau vì tiền bạc hay vì đất đai”. Nguyên nhân thật sự của chiến tranh nằm trong tâm lý con người và nguyên nhân này đến từ ảo tưởng chúng ta là những sinh thể tách biệt, ảo tưởng là chúng ta có quyền định ra cho mình một chính nghĩa cuồng đại nào đó bị người khác chống đối, và do đó việc chúng ta sát hại những người này là chính đáng. Ảo tưởng tách biệt này là nguyên nhân tâm lý của chiến tranh. Con có thể hỏi: “ Làm sao con có thể thay đổi được điều này? Chúng con có thể làm gì? Chúng con không thể đi vào tâm của mọi người và thay đổi tâm họ.” Điều thày đang cố truyền đạt ở đây là con không thể loại bỏ chiến tranh bằng cách tách rời một nguyên nhân và tìm cách thay đổi nguyên nhân đó. Chiến tranh chỉ có thể được loại bỏ khi tâm thức tập thể được nâng lên tới mức có đủ túc số những người thình lình xoay chuyển tâm thức và rồi họ thốt lên: “Hiển nhiên là chiến tranh không thể chấp nhận được.”

Điều thày đang giải thích ở đây đó là trong những giai đoạn đầu khi con chú tâm nâng cao tổng thể thì con có xu hướng tìm kiếm một hiện tượng tách biệt khiến con cảm thấy con nên làm một điều gì và con muốn nhìn thấy sự thay đổi. Sau đó con tìm cách tách riêng nguyên nhân và giải quyết nguyên nhân này, từ đó con cảm thấy con đã thành tựu được một điều gì đấy. Rất rất nhiều người tâm linh ở mọi thời đại đều làm giống như vậy. Họ tách riêng một hiện tượng trong thế giới và nỗ lực thay đổi nó. Dĩ nhiên nhiều người muốn khắc phục chiến tranh nhưng con thấy đấy, đến nay chưa ai thành công. Nhiều người sau một thời gian cảm thấy thất vọng, chán nản, họ nói: “Các giáo lý tâm linh không đem lại kết quả gì. Rõ ràng những điều tôi đã làm không có chút kết quả gì.” Đó là do con nhìn vào hiện tượng riêng rẽ và nguyên nhân riêng rẽ.

Con có thể xoay chuyển bằng cách con không mong đợi tạo ra những thay đổi đặc trưng bên ngoài. Con tập trung, chú tâm nâng cao nhận thức ở mức cá nhân và mức tập thể. Con đang kéo nhận thức của cả cá nhân và tập thể lên thay vì chỉ thực hiện những thay đổi vật lý đặc thù. Tại sao điều này lại quan trọng? Đó là vì như thày đã giải thích, những gì xảy ra ở tầng vật lý của thế giới này là kết quả của những gì xảy ra ở các tầng tình cảm, lý trí và bản sắc. Con có khả năng thay đổi một điều gì ở tầng vật lý. Con có thể lấy một cái xẻng và bắt đầu đào, và nếu con đào đủ lâu thì con có thể di dời cả một quả núi. Đối với những hiện tượng lớn hơn thế chẳng hạn như chiến tranh thì con không thể vượt qua bằng việc tạo nên những thay đổi vật lý. Cách duy nhất là tạo nên một quân đội hùng mạnh đến mức có khả năng đánh bại quân đội của nước khác, điều này có thể đem lại một nền hoà bình tạm thời, nhưng liệu nó có loại bỏ được chiến tranh không, hay có loại bỏ được nguy cơ chiến tranh khỏi hành tinh này không? À, chừng nào con còn có quân đội và vũ khí thì con chưa khắc phục được chiến tranh.

Thay vì tập trung vào những thay đổi vật lý đặc thù, con có thể chú tâm tạo ảnh hưởng để thay đổi ở các tầng tình cảm, lý trí và bản sắc. Con làm điều này bằng cách nâng cao tâm thức chính mình, bằng cách chứng tỏ cho người khác thấy con có thể phản ứng một cách khác, có lẽ bằng cách lan truyền một giáo lý ở thời điểm thích hợp khi người ta mở tâm ra với giáo lý đó. Với cách này, con không đề ra một mục tiêu mà mình không thể đạt được. Do đó, con tránh được sự thất vọng và chán nản vốn là dụng cụ sắc bén nhất trong bộ dụng cụ của ma quỷ. Con có khả năng bước vào một trạng thái tâm trong đó con thăng vượt các nghi ngờ, sự thất vọng, niềm hy vọng về một số thay đổi mà mắt con có thể nhìn thấy.

Con đã thăng vượt tất cả những thất bại tiềm ẩn này và con đang đi trên đường tu mà con biết sẽ có kết quả vì con biết việc nâng cao tâm thức đem lại kết quả, con biết con đang làm công việc nâng cao toàn thể và điều này sẽ đem lại kết quả. Con chỉ cần tiếp tục làm, tiếp tục nâng cao sự nhận biết của mình, tìm cách nâng cao sự nhận biết của người khác và đây là điều khiến con cảm thấy con đang đóng góp chứ không phải con có nguy cơ thất bại hay thất vọng, vì con không đòi hỏi những thay đổi đặc thù. Tại sao con không nên mong đạt được những thay đổi đặc thù? À, trong vài trường hợp thì điều này cần thiết vì nó nằm trong Sứ vụ Trọn đời của con nhằm tạo ra một thay đổi cụ thể trong một lĩnh vực cụ thể qua việc nhận được một ý tưởng từ một tầng nhận biết cao hơn. Điều thày đang nói đến là tầng mức bao quát mong muốn tạo ra những thay đổi to lớn, chẳng hạn như chấm dứt mọi chiến tranh, điều mà cá nhân con thật sự không thể thực hiện được vì tất cả đều gắn kết với nhau. Chiến tranh là một trải bày của tâm thức tập thể và cách duy nhất để vượt qua hoàn cảnh vật lý này đó là nâng cao tâm thức tập thể.

Để không đề ra một mục tiêu bất khả thi cho chính mình, con tập trung nâng cao tập thể và con biết điều này có thể thực hiện được. Con có thể làm điều gì đó và khi người khác cũng làm những điều tương tự thì đó chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ xây dựng lực kéo để kéo tâm thức đại chúng lên và tạo ra một sự xoay chuyển. Một túc số tới hạn trong quần chúng đã mang lại nền dân chủ cũng như nhiều thay đổi tích cực khác. Có rất rất nhiều người trên trái đất ngày nay, dù họ có thuộc một phong trào hay một giáo lý tâm linh hay là không, cũng đang làm việc để kéo tâm thức tập thể lên, và vì vậy họ đặt nền móng cho những xoay chuyển sẽ đem lại những thay đổi vật lý mà nhờ đó con thấy được sự xoay chuyển xảy ra.

17.9. Chú tâm vào kết nối thay vì tách biệt

Trong Bát Chánh đạo, trong con đường tâm linh, con đi qua nhiều giai đoạn, và ở mỗi giai đoạn con lại chú tâm, tập trung vào những mục tiêu, khía cạnh, phương pháp nhất định. Những giai đoạn con đi qua càng lúc càng cao trong đó con xoay chuyển tâm mình không còn chú tâm xuyên qua các ngã tách biệt, các ngã nhị nguyên nữa, ngược lại tâm con càng lúc càng chú tâm đến sự kết nối thay vì sự tách biệt. Con có thể nói các con quỷ của Mara, ông hoàng của thế gian này, đang liên tục tìm cách cám dỗ con người và có rất nhiều các cám dỗ cá nhân, nhưng bên dưới những cám dỗ này là một cám dỗ toàn thể kéo con vào một trạng thái tâm khiến con nhìn cuộc sống, nhìn thế giới xuyên qua phin lọc tách biệt. Con thấy mình là một sinh thể tách biệt, con thấy người khác là những sinh thể tách biệt.

Điều xảy ra trong quá trình này là khi con chú tâm vào ảo tưởng tách biệt này, khi tâm con chú ý đến ảo tưởng tách biệt này thì con không thể thấy đằng sau những hình tướng riêng rẽ là Phật tánh. Con không thể thấy ngay cả những hình thể có vẻ tách biệt cũng kết nối với nhau ở một tầng sâu hơn. Con không thể thấy đằng sau những hiện tượng và nguyên nhân có vẻ tách biệt là lý duyên khởi. Mục đích thật sự của quỷ Mara là giữ con trong ảo tưởng tách biệt khiến con nghĩ: “À, người này đã làm điều gì đó với tôi mà lẽ ra anh ta không được làm. Vì vậy, anh ta là một người tách biệt, vì nếu không thì anh ta đã không làm vậy với tôi. Nhóm người kia đã làm điều gì đấy với đất nước tôi mà lẽ ra họ không được làm, vì thế họ tách biệt và tôi có thể giết họ mà không ảnh hưởng gì đến tôi. Thế giới thật sự chống lại tôi vì đó là một thế giới tách biệt và tôi tách biệt khỏi thế giới này.”

Có nhiều ảo tưởng như vậy, có hàng triệu ảo tưởng dưới các lớp ngụy trang khác nhau, nhưng tất cả đều nhằm mục đích che mờ cái một và sự nối kết nằm bên dưới, đồng thời khiến con chú tâm vào ảo tưởng tách biệt này. Ngay cả một giáo lý tâm linh cũng có thể được sử dụng cho mục đích này. Con thấy một xu hướng chung trong hầu hết các tôn giáo và các giáo lý tâm linh đó là người ta tạo ra một sự phân biệt rất rõ rệt giữa những người đang theo giáo lý và những người ngoại đạo. 

Người ta có thể nhìn người ngoại đạo theo hai cách. Có thể có những người mà họ nghĩ có tiềm năng cải đạo theo giáo lý của họ, và có những người họ nghĩ sẽ chống đối giáo lý của họ và vì vậy là kẻ thù. Nhiều người mộ đạo nhìn người vô thần hay người theo chủ nghĩa duy vật như kẻ thù, và tất nhiên nhiều người theo chủ nghĩa duy vật nhìn người mộ đạo như kẻ thù. Con có thể dùng một giáo lý tâm linh để củng cố cảm nhận là con tách biệt, vì con đang theo một giáo lý nên con tách mình khỏi những người không theo giáo lý. Khi con làm như vậy, con chỉ mắc kẹt thêm vào ảo tưởng tách biệt, và tất nhiên điều này không đem lại tiến bộ trên đường tu, vì đường tu là khắc phục sự tách biệt như thày đã đề cập nhiều lần trước đây. Thày sẽ nói lại nhiều lần nữa vì đây là một trong những điểm khó nắm bắt nhất và rất nhiều người tu hàng thập kỷ vẫn chưa hiểu được.

Có những Phật tử tu tập giáo lý đạo Phật trong nhiều kiếp sống nhưng vẫn chưa hiểu được điều này. Họ tách ra khỏi những người không cùng hệ phái Phật giáo như họ và dựng nên ý tưởng cho rằng bởi vì họ có khả năng hiểu và đàm luận những giáo lý trí năng rất cao siêu, bởi vì họ đã thực hành tâm linh trong nhiều giờ, đã sống cuộc đời tu sĩ và tận tuỵ cho sự tăng triển, cho nên có nghĩa là họ chắc hẳn đã tăng triển. Họ chắc hẳn đã đạt đến một mức vượt bậc nào đó khiến họ đứng biệt lập khỏi những người chưa áp dụng được giáo lý như họ. Họ chưa xoay chuyển để nhận thấy mục đích thật sự của việc nâng cao tâm thức là để giúp toàn thể, và mục đích thật sự của một giáo lý tâm linh là cho họ quyền năng nâng cao toàn thể thay vì chỉ nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt, hay thậm chí nâng cao nhóm mình lên như một nhóm tách biệt.

Đến điểm con cần nhận ra con đã tìm thấy một giáo lý tâm linh, con đã thực hành giáo lý này và con đã dùng giáo lý để nâng mình lên đến một mức nào đó. Một cách sẽ giúp con đi xa hơn là tránh đi vào ngõ cụt mà nhiều người đã mắc phải khi họ nghĩ cách thay đổi thế giới là cải đạo người khác, bởi vì khi mọi người thay đổi thì chúng ta sẽ có thiên đàng trên trái đất. Trong thực tế, điều quan trọng duy nhất là nâng cao tâm thức, và con đã dùng một giáo lý tâm linh đặc thù để nâng cao tâm thức của con, nhưng điều này không có nghĩa là mọi người khác cũng nên làm vậy hay có thể làm vậy. Họ có thể cần những giáo lý khác, hoặc cần những ý tưởng phổ quát trong bản chất, không theo một môn phái nào, không gạt bỏ một ai nhưng bao gồm tất cả.

Thật vậy, điều cần xảy ra trong thời đại nhận biết cao hơn sắp tới là càng ngày càng có nhiều người tâm linh cần thăng vượt tư duy môn phái, chú tâm cải đạo người khác hay khiến người khác phải đi theo đạo sư của mình. Thay vì vậy, họ neo trụ vào tầng mức vượt ngoài thế giới vật chất, vào tầng nhận biết cao hơn mà từ đó những ý tưởng toàn vũ đang được trao truyền, và chính những ý tưởng toàn vũ này sẽ có ảnh hưởng tối đa lên việc nâng cao tâm thức tập thể. Những ý tưởng toàn vũ này có thể được biểu đạt xuyên qua một giáo lý tâm linh hay một vị thày tâm linh đặc thù, nhưng không nhất thiết phải được biểu đạt trong khuôn khổ đó.

Lấy ví dụ, con hãy nhìn vào các nước Phương tây nơi có nhiều người tập bộ môn yoga. Yoga có nguồn gốc rất lâu đời từ một nền văn hoá rất đặc thù, mặc dù ngay từ đầu yoga có tính phổ quát, nhưng sau đó nó bị đồng hoá với đạo Hindu. Nếu con đi ngược thời gian thì đã có thời để tập luyện bộ môn yoga, con phải là người theo đạo Hindu hoặc con phải sống theo lối sống khổ hạnh, rút lui khỏi thế giới, sống trong một tăng đoàn hay sống trong hang động, ăn uống kham khổ, không sinh hoạt tình dục, không có gia đình và dành hết thời gian chú tâm vào việc thực hành tâm linh rất gian khổ giống như pháp tu khổ hạnh mà đức Phật đã thực hành khi thày rời kinh thành.

17.10. Đạo Phật không được tạo ra như một tôn giáo 

Điều này có nghĩa là yoga thoạt tiên là một phương pháp và triết lý thực hành tâm linh rất cực đoan không thích hợp với lối sống năng động hiện đại khi con có gia đình và việc làm. Nhưng con thấy nhiều người ở thế giới Phương tây vẫn tập được yoga trong khi sống một đời sống năng động. Đó là vì yoga đã trở nên phổ quát. Yoga đã tập trung vào một cách thực hành đặc thù và tách ra khỏi một giáo phái cục bộ hạn hẹp. Giờ đây, một số các con cũng biết đến phong trào thiền chánh niệm (mindfulness) và chắc chắn có sự liên hệ giữa đạo Phật và thiền chánh niệm. Con không cần cải đạo thành Phật tử để thực hành thiền chánh niệm, và tại sao vậy? Vì đạo Phật ban đầu không phải là một tôn giáo. Đó là một loạt các tư tưởng và thực hành phổ quát.

Giê-su đã không truyền bá hay khởi xướng một giáo phái cục bộ tuyên bố chỉ có một con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi. Giê-su đã dạy một loạt các tư tưởng và thực hành bao quát, và đây chính xác là lý do vì sao thày bị xem là mối đe dọa đối với những người có thẩm quyền trong đạo Do thái. Điều gì có thể bao quát hơn là nâng cao tâm thức và thăng vượt những ảo tưởng tách biệt và nhị nguyên đã gây ra mọi xung đột của con người? Do đó, tới một điểm con cần chuyển sự chú tâm khỏi tư tưởng cho rằng chỉ có một giải pháp cho các vấn đề trên thế giới, và giải pháp đó là cải đạo tất cả mọi người sang việc thực hành các triết lý tâm linh đặc thù của con. Thay vì vậy, con chú tâm vào các tư tưởng bao quát, các diễn đạt bao quát có thể giúp cho nhiều người với nhiều gia cảnh khác nhau, đến từ nhiều tầng lớp khác nhau mà không cần đòi hỏi họ phải chuyển sang một tôn giáo hay một phong trào vỏ ngoài.

Hay nói cách khác, đây có phải là những gì tâm tách biệt luôn muốn làm không? Thày đã nói tâm tách biệt muốn tạo ra một cảm giác an toàn, và để làm điều này nó xây dựng một thế giới quan, đồng thời nó đánh giá từng ý tưởng dựa trên: “Điều này có đe dọa thế giới quan của tôi không, hay nó có xác nhận thế giới quan của tôi không?” À, đây là phân biệt, đây là chủ nghĩa bè phái, đây là xu hướng cục bộ. Điều nào xác nhận thế giới quan của tôi thì điều đó là đúng, điều nào chất vấn thế giới quan của tôi thì điều đó sai, xấu xa, tội lỗi. Nhưng đây không phải là Phật tánh. Nó khiến cho con người bị giam chặt trong cái bẫy tách biệt.

Phật tánh là cái một, là sự kết nối, và vì vậy đây là điều con cố gắng đạt được để giúp người khác nhìn vượt quá tách biệt, nhị nguyên, chủ nghĩa độc quyền, sự cuồng tín, để thấy rằng đằng sau tất cả những phân chia giữa người với người là những tư tưởng và giá trị rộng khắp đang kết nối mọi người. Vượt lên trên các tư tưởng phân chia con người có một tập hợp các tư tưởng toàn vũ nối kết và hợp nhất mọi người. Đây là điều sẽ ảnh hưởng lớn nhất trong việc nâng cao tâm thức tập thể trong thời nay, trong chu trình đặc trưng này của tâm thức đại chúng. Những ai có khả năng chú tâm vào điều này sẽ có ảnh hưởng lớn nhất, và những ai chấp vào những tin tưởng môn phái và mong muốn cải đạo người khác theo một tôn giáo vỏ ngoài hay một vị thày vỏ ngoài có thể cảm thấy mình rất tâm linh, thánh thiện hơn người, cao trội hơn người, nhưng họ sẽ không tạo được ảnh hưởng tối đa trong việc nâng cao tâm thức đại chúng.

Mục đích của Phật là gì? Đó là giải thoát con người khỏi ảo tưởng. Ảo tưởng căn bản là gì? Đó là cảm nhận rằng Phật tánh không ở ngay nơi con ở, rằng con tách khỏi Phật tánh. Mục đích của Phật là giúp tất cả các sinh thể tự nhận biết thấy được Phật tánh trong chính họ và trong mọi người.

17.11. Chữ “Phật” ban đầu mang nghĩa trung lập 

Khi thày ban những giáo lý này lúc đầu thì chữ “Phật” không mang ý nghĩa môn phái. Nó không liên quan đến một tôn giáo cụ thể, nó trung lập, nó phổ quát. Đạo Phật ngày này được xem như một tôn giáo riêng biệt, vì vậy chữ “Phật” ngày nay mang ý nghĩa khác với thuở ban đầu. Trong thế giới ngày nay, các thày có thể đưa ra một diễn đạt khác, toàn vũ hơn và trung hoà hơn: “Phật” nghĩa là một nhận thức cao hơn, là có một nhận biết cao hơn. Có một mức nhận biết cao hơn có khả năng kết nối mọi người, có thể hợp nhất mọi người và giúp họ thoát khỏi nhận biết thấp khiến mọi người chống đối lẫn nhau và tạo ra vô số xung đột.

Điều gì tạo ra căng thẳng? Điều gì tạo ra đau khổ trên thế giới? Đó là mức nhận biết thấp hơn khiến con người không thấy được yếu tố hợp nhất và vì vậy họ xem mình là những sinh thể tách biệt. Mục tiêu là gì? Đó là nâng cao tâm thức để mọi người đạt được một tầm nhìn cao hơn, một trạng thái tâm thức cao hơn để thấy được sự hợp nhất vượt lên tất cả những biểu hiện đa dạng nhiều mặt. Họ thấy được dù mọi người trông khác nhau nhưng có gì đấy nối kết tất cả. Giờ đây con chỉ có thể thấy điều này khi con kết nối với một cái gì đấy cao hơn, một tầng mức nhận biết cao hơn trong con. Chỉ lúc đó con mới có thể thấy một tầng mức nhận biết cao hơn nơi người khác. Đây là những tư tưởng toàn vũ thật sự không là độc quyền của đạo Phật hay của bất cứ tôn giáo hay triết lý tâm linh nào khác. Đây là điều con có thể chú tâm vào: cái phổ quát, cái trung hoà, sự kết nối, sự hợp nhất đằng sau sự khác biệt.

Thày biết ơn đã có cơ hội trao truyền bài giảng này. Nhiều người trong số các con đã là đệ tử của các chân sư thăng thiên trong nhiều năm, các con có thể nghĩ: “Nhưng chúng con chưa nghe về điều này trước đây sao? Các chân sư khác chưa giải thích tất cả những điều này trước đây sao?” Lý do là nhân cơ hội đây thày trao truyền những bài giảng này vì mục đích lâu dài của thày là xuất bản một quyển sách đưa ra một cái nhìn mới về đạo Phật thích ứng với thế giới hiện đại và tư duy hiện đại. Đây là phần đầu của quyển sách này. Sách cũng sẽ bao gồm những bài truyền đọc khác mà thày đã ban ra trong những năm qua, và chúng sẽ không được trình bày như là bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Các bài truyền đọc này sẽ được chỉnh lược để biểu đạt một cách phổ quát hơn, và quyển sách sẽ được phát hành và có người sẽ hiểu được.

Thày cám ơn con đã cho thày cơ hội được trình bày bài giảng này và thày có thể đảm bảo hội nghị này đã có một ảnh hưởng to lớn trong việc nâng cao tâm thức đại chúng. Mặc dù các thày không đề cập đến nhưng nó cũng có ảnh hưởng quan trọng đối với tình hình ở Ukraine, tình hình kinh tế và tình hình ở Nga. Việc rất nhiều đệ tử từ Nga và Ukraine sẵn lòng hoà điệu và gia nhập quá trình hướng thượng này là rất quan trọng. Một lần nữa, con không thể đi tìm những kết quả đặc thù hiển thị ở một thời điểm cụ thể, nhưng con có thể yên tâm là con đã kéo tâm thức đại chúng đi lên ở cả Ukraine và Nga, và dĩ nhiên cả phần còn lại của thế giới nơi con đang theo dõi qua làn sóng. Và do đó con đã đưa hành tinh này đi lên mặc dù con không nói được đây là kết quả rõ ràng mà chúng ta đạt được tại hội nghị này.

Thày tin nhiều người trong số các con đang bắt đầu nhận thức được con cần tới một điểm, đó là con không đi tìm một kết quả cụ thể từ một hội nghị hay từ một canh thức. Con không đặt mình vào vị thế có thể đem lại thất vọng và nản chí. Con tham gia vào một quá trình không ngừng nghỉ là nâng cao tâm thức tập thể, và con hài lòng khi biết mình đang nâng cao tâm thức tập thể. Con đang nâng cao toàn bộ lý duyên khởi và điều này sẽ đem lại những ảnh hưởng tích cực giúp thực hiện thời Hoàng kim của Saint Germain.

Thày không niêm hội nghị này vì thày Padmasambhava sẽ tiếp tục, nhưng thày cám ơn con đã cho thày cơ hội trao truyền những giáo lý mới, những lời dạy hiện đại này về triết lý Phật giáo. Vì vậy, thày gửi đến con lòng biết ơn sâu sắc nhất và giờ đây thày niêm con trong niềm vui của Phật! Niềm vui này chỉ đến khi con đang trải nghiệm cái duy nhất. Làm sao có thể có niềm vui nào khác ngoài niềm vui hợp nhất? Chỉ có tách biệt mới tạo ra thất vọng. Thày niêm tại đây, con yêu dấu. 

13 | Nỗ lực cao hơn là ngừng nỗ lực

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị qua mạng Internet mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Chủ đề kế tiếp là tinh tấn hay nỗ lực. Một lần nữa theo truyền thống mọi người quy định có nỗ lực đúng và có nỗ lực sai. Sau đó họ cố né tránh nỗ lực sai và trau dồi và thực hành nỗ lực đúng. Điều này trở nên một chiếc áo tù bó tay trong đó họ hầu như cảm thấy không làm được bất cứ điều gì vì họ quá sợ hãi mình nỗ lực sai rồi tạo nghiệp. Rốt cuộc họ cảm thấy điều duy nhất làm được là hoạt động thể chất tối thiểu và hoặc thiền định hoặc làm những thực tập tâm linh khác trong hầu hết thời gian. Sau đó điều này mang tính cách ám ảnh cưỡng chế và tuy họ cảm thấy họ rất tâm linh nhưng thật ra họ không tiến bộ chút nào trên đường tâm linh. Họ không leo lên các tầng cao hơn. Họ chỉ dậm chân tại chỗ, càng lúc càng trở nên xao động hơn, càng lúc càng lo sợ tất bật để có “nỗ lực đúng” theo như họ quy định.

Lẽ tất nhiên, dựa trên những điều thày đã trao truyền trước đây cho các con, giờ đây ta có thể khá dễ dàng thẩm định các nỗ lực của con một cách khác. Thày đã cố gắng nhiều để giải thích mục tiêu của Bát chánh đạo, mục tiêu của Trung đạo. Đó chính là nâng cao tâm thức và con nâng cao tâm thức bằng cách nào? Bằng một cách duy nhất: giải quyết tâm lý. Điều này sẽ mới lạ và gây sốc cho nhiều người, thậm chí cho nhiều người trong truyền thống Phật giáo. Họ đã đưa họ vào trạng thái tâm nghĩ rằng nỗ lực đúng là làm một số thực tập tâm linh. Họ cho rằng những thực tập tâm linh này có khả năng hầu như thần diệu chuyển hóa tâm thức họ và đưa họ tới gần giác ngộ hơn, hay niết bàn hay bất cứ điều gì mà họ quy định. 

13.1. Khắc phục ảo tưởng không phải là chuyện làm máy móc

Thày có nói có những thực tập tâm linh có giá trị và hiệu quả nhưng chúng mang lại hiệu quả như thế nào? Chúng hiệu quả bằng cách chuyển hóa những năng lượng dựa trên sợ hãi đã tích tụ trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con, thậm chí phần nào trong các tế bào vật lý. Một thực tập tâm linh có thể có tác dụng chuyển hóa năng lượng, nhưng không có thực tập tâm linh nào có thể chuyển hóa trạng thái tâm của con, tin tưởng của con, ảo tưởng của con, bất kể các kỹ thuật này là gì, đến từ đâu, do bất cứ ai quy định hay truyền ra.

Một ảo tưởng là một ảo tưởng. Nó không thật, nhưng ngày nào con còn nghĩ ảo tưởng là thật, ngày nào con chưa nhận biết mình đang có một ảo tưởng, thì con bị giam hãm trong cách nhìn đời xuyên qua phin lọc của ảo tưởng đó. Làm sao con tới điểm chấp nhận ảo tưởng đó? Có con quỷ dữ nào cấy ảo tưởng vào tâm con? Có thể có một sinh thể thấp, một sinh thể với nhận biết thấp phóng chiếu một ảo tưởng nào đó vào tâm con. Thật ra tâm thức tập thể đang phóng chiếu nhiều ảo tưởng vào tâm mọi người. Nhưng con là một sinh thể cá biệt. Con không phải là một sinh thể tách biệt, nhưng con là một sinh thể cá biệt, có nghĩa con có thẩm quyền cho phép cái gì đi vào tâm con, ra khỏi tâm con và xảy ra trong tâm con. Có thể con đã quên mình đã cho phép một ảo tưởng đi vào tâm mình trong một tiền kiếp nhưng cho dù con nhớ hay quên, đã có một thời điểm khi con quyết định chấp nhận một ảo tưởng nào đó là sự thật. 

Giờ đây, sau khi con đã đi vào tâm thức tách biệt, con đã cho phép rất nhiều ảo tưởng xâm nhập tâm con. Chúng tạo nên tấm màn huyễn Maya khiến con đui mù không thấy được thực tại con là một biểu hiện của Phật tánh và tất cả mọi thứ khác cũng là một biểu hiện của Phật tánh bất kể hình tướng vỏ ngoài như thế nào. Không có kỹ thuật tâm linh nào có thể thay đổi trạng thái tâm của con, thay đổi các tin tưởng của con, tự động giải thoát con khỏi các ảo tưởng. Con chỉ có thể thoát khỏi các ảo tưởng khi con thấy một cách ý thức chúng là ảo tưởng và do đó con buông bỏ chúng, vì con thấy chúng là ảo tưởng.

Đây là tình trạng cách đây 2,500 năm, nó vẫn là tình trạng trong khoảng thời gian từ đó tới nay, và nó sẽ vẫn là tình trạng trong tương lai. Tăng trưởng tâm linh tới những tầng tâm thức cao hơn là một tiến trình thấy được các ảo tưởng một cách có ý thức. Một thực tập tâm linh có thể chuyển hóa các năng lượng lưu trữ giả dụ như trong tâm tình cảm của con khiến tâm ý thức của con khó lòng thấy được các ảo tưởng. Không phải là thực tập tâm linh không hữu ích nhưng nó không tự động vì nó không thể lấy quyết định thay con được. Con là Cái Ta Biết, là cốt lõi của bản thể con, con phải lấy quyết định, nhưng con lấy quyết định như thế nào? Bằng cách con ý thức những điều mà ngay bây giờ con chưa ý thức. Bằng cách con moi các ảo tưởng tiềm thức của con lên để con có thể thấy chúng, xem xét chúng và sau đó khi con nhận ra chúng là ảo tưởng, con buông bỏ chúng, con xua duổi chúng.

13.2. Tạo ra các ngã tiềm thức

Các thày có đưa ra nhiều giáo lý dạy rằng ảo tưởng không chỉ là ảo tưởng. Không phải chỉ là con có hiểu biết hư giả. Không phải chỉ là con có tin tưởng mình đang cầm sợi dây khi thật sự đấy là con rắn. Bất cứ điều gì xảy ra trong tâm con đều có ba yếu tố. Đó là năng lượng, một hiểu biết hay tin tưởng nào đó và tâm thức. Khi con nhìn vào một ảo tưởng đặc trưng một cách ý thức và quyết định chấp nhận nó trong tâm mình, thì chuyện gì xảy ra lúc đó? Trước hết, cái Ta Biết, mà con là, giờ đây bắt đầu nhìn thế giới xuyên qua ảo tưởng đó.

Giống như con đang ở trong một căn nhà và căn nhà là các thể vật lý, bản sắc, lý trí và tình cảm của con. Căn nhà có cửa sổ, nhưng khi con chấp nhận một ảo tưởng thì con đặt một mảnh kính có màu trước một cửa sổ, hay ít nhất trước một phần của cửa sổ đó. Bây giờ con nhìn qua cửa sổ đó và những gì con nhìn thấy ở ngoài kia đã bị pha màu bởi mảnh kính nên con sẽ thấy một hình ảnh méo mó. Điều này có nghĩa là giờ đây con thấy thế giới không như nó là, nghĩa là khi năng lượng từ cái ta cao của con chảy xuyên qua nhận biết ý thức của con và qua phin lọc đó, thì nó bị pha màu bởi rung động dựa trên sợ hãi. Ảo tưởng khiến con nhìn đời dựa trên sợ hãi, bởi vì nếu con thấy mọi sự đều là Phật tánh thì đâu cần sợ hãi. Sau khi con đã chấp nhận một tin tưởng hư giả, thì con bắt đầu tha hóa, hạ thấp rung động của năng lượng qua tin tưởng này. Một phần của năng lượng đó được phóng chiếu ra ngoài, một phần khác tích tụ trong ba thể bản sắc, lý trí và tình cảm của con. 

Khi năng lượng tích tụ thì nó tạo lực hút trên nhận biết ý thức của con, nghĩa là con dễ, tỷ dụ, nổi giận hơn. Khi con nhìn thế giới qua phin lọc của ảo tưởng, con quả thực đang thấm đẫm ảo tưởng đó với tâm thức của con. Bởi vì khi con tập trung vào bất cứ gì, thì con cho phép tâm thức của con tuôn chảy vào đó và xuyên qua đó. Giờ đây con có ba yếu tố, con có một tin tưởng không thực tế và huyễn ảo, con có năng lượng tích tụ tạo nên lực hút từ tính và con có sự thấm đẫm ảo tưởng với tâm thức của con. Nghĩa là con đang tạo tác điều mà thày đã gọi là hành uẩn (samskara), là các khuôn nếp mà các thày có thể gọi là “ngã” theo cách diễn đạt hiện đại hơn. Con tạo tác một ngã tách biệt trong tâm bản sắc, lý trí và tình cảm của con, và điều quan trọng là ngã này có một mức tâm thức nào đó. Nó không có sự tự nhận biết của Cái Ta Biết, cho nên ngã này không tạo tác chính nó. Cái Ta Biết có thể tạo tác một ngã nhưng ngã không thể tạo ra chính nó.

Điều này có nghĩa là ngã cũng không thể thay đổi chính nó. Nó có thể tăng triển, theo nghĩa nó có thêm cường độ, nó có lực hút từ tính càng ngày càng mạnh hơn trên tâm ý thức của con nhưng nó không thể thay đổi chính nó. Nếu con tạo ra một ngã dựa trên ảo tưởng là trong một số tình huống nổi giận là một phản ứng chấp nhận được, thì ngã không thể nói: “Ồ đợi chút nhé, nổi giận không đúng với giáo lý tâm linh, cho nên tôi sẽ tự cho phép mình chết đi.” Ngã sẽ không bao giờ làm được điều này. Ngã có cái mà chúng ta có thể gọi là bản năng sinh tồn. Nó có thể càng ngày càng dễ nóng giận hơn, nhưng nó không thể bớt nóng giận, ít nhất là qua nỗ lực của chính nó. Nó có thể bớt nóng giận nếu con ngừng bơm năng lượng nuôi nó và dùng các dụng cụ tâm linh để chuyển hóa năng lượng tích tụ, nhưng ngã không thể tự nó làm điều này.

Thật vậy ngã giống như một chương trình máy tính chỉ có thể làm những gì mà nó được lập trình để làm. Khi nó thêm cường độ, thì lực hút của nó trên Cái Ta Biết của con mạnh hơn. Con bị hút vào ngã đó và chuyện xảy ra qua nhiều kiếp hiện thân là con dần dà tạo ra một tập đoàn các ngã đều dựa trên ảo tưởng tách biệt, và chúng tạo lực hút trên Cái Ta Biết của con khiến nó bị hút vào tấm màn ảo tưởng. Con bị hút vào đằng sau tấm màn ảo tưởng đó và bây giờ con nhìn mọi sự xuyên qua tấm màn ảo tưởng đó. Thậm chí con có thể tới điểm con quên khuấy con đã từng ở bên ngoài tấm màn ảo tưởng. Đấy là cách con quên mình có sự nối kết với cái ta cao hơn của con và con có Phật tính và tiềm năng Phật trong con. Con đồng hóa mình là người phàm, hoặc một kẻ tội đồ, hoặc một kẻ mang nghiệp quả lớn, hoặc một con vượn tiến hóa. Điều này chỉ có thể xảy ra khi con quên mình có sự kết nối với cái gì bên ngoài tâm của con.

13.3. Ngã tách biệt chỉ có thể tạo thêm nghiệp quả

Nếu con muốn thẩm định nỗ lực một cách cao hơn, thì con có thể nói nếu con hoàn toàn đồng hóa với tập đoàn ngã tách biệt và với tự ngã là cái bình chứa các ngã tách biệt đó, thì mọi chuyện con làm, mọi nỗ lực con bỏ ra qua ngã tách biệt sẽ tạo nghiệp quả. Nỗ lực đó sẽ tha hóa năng lượng. Nó sẽ chuyển năng lượng dựa trên tình thương thành năng lượng dựa trên sợ hãi và nó sẽ chỉ buộc con chặt hơn vào ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt. Rõ ràng đây không phải là nỗ lực cao, đây là nỗ lực thấp.

Vậy thì nỗ lực cao là gì? Đó là những hoạt động có tác dụng giải thoát con khỏi sự đồng hóa với các ngã tách biệt và tự ngã. Bây giờ con cần cẩn thận phân biện ở đây. Nhiều người thuộc truyền thống Phật giáo sẽ nói: “Nhưng Phật đã chối bỏ kịch liệt sự hiện hữu của tự ngã tách biệt.” Đúng đấy, nhưng hãy lắng nghe điều đã được nói. Phật chối bỏ sự hiện hữu, sự có thật của tự ngã tách biệt. Tự ngã tách biệt không có thật, nó không hiện hữu trong Phật tánh, trong tâm Phật, nhưng không có nghĩa là nó không có hiện hữu tạm thời và phù du trong tâm con người. Như thày đã giảng, mọi thứ đều là năng lượng. Năng lượng có thể khoác lên bất kỳ hình tướng nào, nhưng nó khoác lên hình tướng xuyên qua tâm thức, khi tâm thức phóng chiếu một tâm ảnh lên năng lượng.

Đây là điều con làm khi hiện thân như một con người. Con đồng sáng tạo bằng cách dùng khả năng của tâm để áp chồng những hình tư tưởng lên trên năng lượng. Khi con làm chuyện này xuyên qua một trong những ảo tưởng tách biệt, thì con tạo một ngã tách biệt, thậm chí con tạo luôn ảo tưởng tổng quan rằng mình là một sinh thể tách biệt. Ngã này, tự ngã này, có một sự hiện hữu tạm bợ. Không có sinh thể cao nào tạo ra nó, nhưng con tạo ra nó và do đó nó hiện hữu trong tâm con. Nó không có một sự hiện hữu khách quan, và nói theo cách diễn đạt của khoa học thì nó có một sự hiện hữu chủ quan, nhưng ngày nào nó còn ở trong tâm con thì năng lượng, ảo tưởng và ý niệm bản ngã còn đó và nó ảnh hưởng được tâm con. Một trong nhiều ý nghĩa của điều này là tự ngã không thể chuyển hóa chính nó. Quả thực có nhiều người đã xây dựng một ngã tách biệt dũng mãnh và họ đồng hóa với nó đến độ họ nghĩ rằng mục đích con đường tâm linh là thay đổi ngã tách biệt này cho tới khi nó đạt được một trạng thái có thể đi vào thiên đàng hay giác ngộ.

Đây là ý nghĩa thật của giáo lý được truyền dạy 2,500 năm trước. Tự ngã không có sự hiện hữu, cho nên nó không thể trở thành Phật, nó không thể đựợc nâng lên cao và đạt bất cứ tính trường tồn hay bất diệt nào. Có những người trong truyền thống Cơ đốc giáo tin rằng nếu họ là người Cơ đốc ngoan đạo và làm tròn mọi yêu cầu của Cơ đốc giáo thì sau khi chết, Giê-su sẽ hiện ra và đem cá thể vỏ ngoài của họ, ý niệm bản ngã tách biệt của họ vào thiên đường.

13.4. Giấc mơ bất khả thi của tự ngã

Đặc tính của thiên đàng, hay cõi tâm linh, hay bất cứ chữ nào con muốn dùng, là gì? Đặc tính ấy là nhận ra mọi sự sống là một, mọi thứ đều liên thông với nhau, tất cả là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau. Như thế làm sao một ngã tách biệt chối bỏ sự liên thông này, chối bỏ cái một, có thể đi vào cái một? Chuyện này không thể xảy ra được, không làm được. Nó giản dị là một giấc mơ bất khả thi, là giấc mơ tối hậu của ngã tách biệt. Tại sao con người nảy ra giấc mơ này? Ấy như thày đã nói, đó là vì khi con đi vào ảo tưởng tách biệt thì con sẽ cảm thấy mình đã mất mát cái gì đó. Con đã mất đi sự nối kết với cái ta cao của con. Con sẽ cảm thấy một nỗi mất mát và con có mong muốn bù đắp mất mát này, dù con không ý thức điều này thực sự nghĩa là gì. Trong con có sự khát khao cái gì đó. Người ta có thể tạm thời phủ lấp khao khát này bằng cách chìm đắm trong các sinh hoạt thế gian, nhưng sẽ tới điểm nỗi khao khát cái gì đó, trên cơ bản là khao khát cái gì đó ở ngoài chính tâm của con, ngoài tâm tách biệt của con, sẽ trồi lên và con không thể chối bỏ nó nữa.

Tự ngã có một dạng nhận biết sơ đẳng. Nó muốn duy trì quyền lực của nó trên tâm con. Khi nỗi khao khát cái gì hơn nữa trồi lên, thì tự ngã biết nó không thể đáp ứng được nhưng nó sẽ cố làm cho con tin rằng con có thể đáp ứng nỗi khao khát đó bằng cách hoàn thiện ngã tách biệt. Tỷ dụ khi con tìm thấy một giáo lý tâm linh nói về nâng cao nhận biết của con, đạt được một trạng thái cao hơn, nhập niết bàn, thiên đàng, cõi hỷ lạc, giác ngộ, thì tự ngã sẽ nói: “Lẽ dĩ nhiên! Tôi ủng hộ mong muốn tự cải thiện của bạn và đạt tới trạng thái cao này. Bạn có thể làm được điều này bằng cách nâng tôi lên tới trạng thái cao này. Tôi có thể trở nên toàn hảo. Tôi có thể trở nên bất tử.” Đây là lời nói dối hoàn toàn, một sự hiểu lầm hoàn toàn. Tự ngã sẽ không bao giờ đi vào thiên đàng, cõi tâm linh, niết bàn. Điều này – không – thể – làm – được.

Một ngã tách biệt không thể tự chuyển hóa thành một cái ta của nhất nguyên. Đây là điều mà nhiều người tâm linh thuộc nhiều truyền thống sẽ phủ nhận, nhưng đây là sự thực. Con đã sinh tạo những ngã này dựa trên ảo tưởng tách biệt. Mỗi ngã là một ảo tưởng đặc thù, nó có một số năng lượng nào đó và nó được thấm đẫm một ý niệm tâm thức thô sơ nào đó, cho nên nó nghĩ rằng nó có một thực tại nào đó, một hiện hữu nào đó.

Giống như triết gia René Descartes đã nói: “Tôi nghĩ, do đó tôi là.” Nói cách khác, sự kiện tôi ý thức phải có nghĩa là tôi hiện hữu và đấy là điều ngã tách biệt nghĩ. Tự ngã nghĩ rằng sự kiện tôi ý thức mình là một sinh thể tách biệt có nghĩa là tôi có một thực tại nào đó, một hiện hữu nào đó như một sinh thể tách biệt. Đây là ảo tưởng mà thày đã cố gắng giảng 2,500 năm trước đây khi thày nói không có tự ngã tách biệt nào có một sự hiện hữu thật. Lẽ tất nhiên thày rất ý thức là ngã tách biệt có một sự hiện hữu tạm thời và toàn bộ mục đích của Bát chánh đạo là giúp con người vượt qua sự đồng hóa với tự ngã này.

13.5. Buông bỏ từng ngã tách biệt một để khắc phục tự ngã

Con có thể làm gì để khắc phục tự ngã? Ấy, tự ngã là cốt lõi của ý niệm bản sắc tách biệt nhưng nó không phải là cái dễ khắc phục nhất. Con có thể thực tiễn hơn. Con bắt đầu bằng cách nhận ra tự ngã giống như cái thùng chứa trong đó có nhiều ngã tách biệt riêng lẻ khác nhau và mỗi ngã dựa trên một ảo tưởng đặc trưng. Con khắc phục từng ngã một và cách dễ nhất để phơi trần ngã là con nhìn vào phản ứng của mình trong những tình huống đặc thù. Tỷ dụ, tại sao con phản ứng với sợ hãi trong một số hoàn cảnh? Tại sao con đáp trả với sự giận dữ hay bực tức? Tại sao trong một số tình huống con nghi ngờ bản thân mình? Tại sao con trở nên hung hãn hay tại sao con tùng phục khi bị tấn công?

Con làm việc với một phản ứng cá biệt của mình. Con nhận ra mình có một ngã tách biệt trong tâm tiềm thức. Một số hoàn cảnh nào đó kích hoạt ngã này hoạt động và khi chuyện này xảy ra thì nó làm chủ phản ứng của con. Con không quyết định phản ứng thế nào với hoàn cảnh đó với tâm ý thức của mình. Giản dị là ngã tách biệt được kích hoạt, nó tiếp quản và điều khiển phản ứng của con. Điều này chỉ cho con thấy là có một ngã tách biệt lẩn trốn sau khuôn nếp này. Bây giờ con có thể đi sâu vào nó. Con đi vào các cảm xúc của mình cho tới khi con đi xuyên suốt chúng và con có thể quán xét và dùng trực giác cho tới khi thấy được tin tưởng đằng sau chúng.

Sẽ tới một điểm khi bỗng nhiên cái Ta Biết bước ra khỏi ngã tách biệt này và con nhìn nó từ bên ngoài. Nhiều người chưa từng nghe về giáo lý tâm linh và chắc chắn chưa nghe giáo lý về các ngã tách biệt, đã trải nghiệm điều này một cách tự phát trong suốt cuộc đời họ. Họ ở trong một tình huống nào đó, thường là một tình huống nghiêm trọng mà họ cảm nhận như một khủng hoảng và đột nhiên họ cảm thấy tâm mình xoay chuyển. Thay vì phản ứng theo như họ vẫn thường làm, bỗng nhiên tâm họ trùng xuống yên lặng. Gần giống như trong một khoảnh khắc vượt thời gian, họ đã bước ra khỏi tình huống đó và bất giác họ thấy nó từ bên ngoài. 

Trong một số trường hợp con có thể có một ý tưởng ý thức như sau: “Tại sao tôi cứ phản ứng cùng kiểu này?” Đây là một ví dụ con tới được điểm cái Ta Biết bước ra ngoài một ngã tách biệt đặc thù và một khi đứng ra ngoài, con có thể thấy được ngã đó. Con có thể thấy ngã này dựa trên ảo tưởng gì. Con có thể thấy ngã hạn chế con như thế nào và hạn chế phản ứng của con, tước đi quyền tự do phản ứng một cách ý thức của con. Đấy là lúc con có thể lấy quyết định: “Tôi không muốn phản ứng kiểu này nữa. Tôi không muốn điều này trong cuộc sống của tôi nữa. Tôi không muốn nhìn đời qua phin lọc này nữa.” Sau đó con làm được gì? Ấy con không cần giải quyết một vấn đề gì, con không cần làm gì đó với ngã này. Một khi con thấy ảo tưởng, con giản dị tiến sang việc buông bỏ ngã, thải ngã ra, cho ngã chết đi.

Con không thể hoàn thiện một ngã tách biệt. Con không thể chuyển hóa nó lên một trạng thái cao hơn. Giản dị con cần cho nó chết đi. Trên cơ bản một ngã tách biệt là một dính mắc và con khắc phục dính mắc như thế nào? Bằng cách buông bỏ nó. Bằng cách buông bỏ bất kỳ ảo tưởng và ham muốn nào đằng sau sự dính mắc. Con nghĩ con phải thành tựu điều gì đó trên thế gian này – trên cơ bản là để khỏa lấp cảm giác con không trọn vẹn. Khi nhận ra điều trên, con có thể buông bỏ nó và hiểu ra con không cần thành tựu bất cứ điều gì trên thế gian để cảm thấy mình trọn vẹn. Con cần buông bỏ ý tưởng con phải làm gì đó trên thế gian này và sau đó một cách tự nhiên con sẽ cảm thấy mình trọn vẹn.

Tại sao lại như vậy? Con hãy nhớ lại điều thày đã nói. Thoạt đầu con cảm nhận mình kết nối với cái ta cao của mình. Con che phủ cảm nhận này bằng một ảo tưởng nhưng trạng thái mặc định là con cảm nhận sự kết nối đó. Khi con buông bỏ ảo tưởng thì con sẽ trở về cảm nhận mình có sự kết nối. Lẽ tất nhiên con có thể mở rộng cảm nhận kết nối, và đó là kết quả tự nhiên khi con tiến bước trên Bát chánh đạo. Trạng thái mặc định của con người là cảm thấy mình kết nối với cái ta cao của mình. Con có thể biết điều này một cách ý thức hơn, con có thể mở rộng sự kết nối hơn, nhưng con không thể hoàn toàn mất đi tiềm năng trở về với sự kết nối này. Theo một nghĩa nào đó, sự kết nối này luôn có đó. Cái ta cao của con luôn ở đó, nó luôn luôn gửi năng lượng tới con. Chỉ là trong tâm con, con đã đi vào một ảo tưởng nên con không ý thức cảm nhận kết nối đó. Đây không phải là chuyện nghĩ rằng con cần hoàn thiện cái ngã tách biệt đang ngăn cản con trải nghiệm sự kết nối và sau đó con sẽ cảm thấy kết nối trở lại. Không đâu, con chỉ cần buông bỏ cái ngã và trở về trạng thái tự nhiên của sự kết nối.

13.6. Tăng triển không có gì bí mật

Điều này nghĩa là gì? Nó có nghĩa là bất kỳ cố gắng nào củng cố cảm nhận tách biệt sẽ không giúp con đi xa hơn trên con đường tu. Bất kỳ cố gắng nào giảm thiểu tấm màn huyễn Maya sẽ tái lập sự kết nối hay mở rộng sự kết nối và đây là điều đưa con tiến xa hơn trên đường tu. Nó nghĩa là bất kỳ cố gắng nào giúp con trở về với kết nối là cố gắng cao. Như thày có giảng, không phải là con chỉ cần có hành động hay nỗ lực vật lý. Một thực tập tâm linh tự nó không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức. Học hỏi một giáo lý tâm linh không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức.

Có rất rất nhiều người, rất nhiều người tâm linh qua các thời đại trong truyền thống Phật giáo và các truyền thống khác tin rằng có một bí quyết đem lại sự tăng triển tâm linh. Họ nghĩ rằng có một giáo lý cao nào đó mà họ có thể tìm được. Nhiều người tin rằng có giáo lý công truyền dành cho đại chúng nhưng có giáo lý bí truyền chỉ dành cho giới ưu tú được tuyển chọn đã đạt tới tầng cao hơn trên con đường tâm linh. Họ nghĩ rằng các giáo lý này được cất giấu đâu đó và họ bỏ ra cả cuộc đời cố đi tìm các giáo lý này vì họ nghĩ rằng một khi tìm ra họ sẽ tự động giác ngộ chỉ giản dị bằng cách đọc giáo lý đó. Làm sao chuyện này xảy ra được? Đúng, một giáo lý tâm linh có thể giúp con thấy một ảo tưởng, nhưng không bảo đảm là đọc một giáo lý đặc trưng sẽ giúp con thấy ra ảo tưởng của con.

Có thể có hai người có cùng ảo tưởng, cùng ngã tách biệt. Họ đọc một giáo lý tâm linh. Một người có thể thấy ra ảo tưởng và buông bỏ nó nhưng người kia không thấy ra ảo tưởng. Tại sao không? Ấy, vấn đề là con có nhận ra tinh túy của con đường tâm linh không? Tinh túy là thấy ra ảo tưởng và buông bỏ ngã tách biệt, hay là bằng cách nào đó nâng cao và hoàn thiện ngã tách biệt? Chúng ta cũng có thể nói vấn đề là con tập trung chú ý nơi nào? Con nhìn ra bên ngoài con hay ở trong con? Con có sẵn lòng nhìn vào chính tâm lý mình, nhìn các ảo tưởng của chính mình, vật lộn với chúng cho tới khi con nhìn xuyên thấu chúng? Hay con nghĩ có cái gì thần diệu ở bên ngoài con có thể làm giùm cho con? Hay đúng hơn, con còn không nghĩ là điều gì đó ở bên ngoài kia sẽ giải quyết tâm lý của con. Con nghĩ vị đạo sư bên ngoài sẽ đem cho con giác ngộ một cách thần diệu nào đó. 

13.7. Những điều một vị đạo sư không làm được cho con

Tại phương Đông có một truyền thống lâu dài về quan hệ giữa vị đạo sư và người đệ tử. Nhiều, rất nhiều người tin rằng và có nhiều vị đạo sư cũng xác nhận, là một vị đạo sư chân chính (và họ hầu hết thuộc nam giới) có khả năng thần diệu nâng đệ tử lên một trạng thái cao, được giác ngộ, được nhập niết bàn, hay bất kỳ con gọi nó là gì. Điều này không thể làm được. Không ai có thể gỡ bỏ quyết định của con hộ con. Con phải sẵn lòng nhìn một cách ý thức những quyết định chấp nhận một ảo tưởng và tạo ra một ngã tách biệt mà con đã lấy trong quá khứ, và con phải muốn lấy quyết định một cách ý thức cho ngã tách biệt này chết đi.

Một vị đạo sư có thể giúp con thấy ngã tách biệt. Vị ấy có thể khiến con phải đối mặt tự ngã của con. Vị ấy có thể hành xử để phơi bày, kích hoạt một trong những khuôn nếp phản ứng mà con có. Vị ấy không thể quyết định hộ con vì quyết định được làm ra trong tâm con và chỉ có thể gỡ bỏ trong chính tâm con. Có thể con không ý thức mình đã lấy quyết định đó nhiều kiếp trước, nhưng con vẫn có thể ý thức mình đã từng lấy quyết định, hậu quả là gì và do đó con buông bỏ nó. Không có cố gắng bên ngoài, sức mạnh bên ngoài hay vị đạo sư bên ngoài, dù mạnh tới đâu chăng nữa có thể làm hộ con. Ngày nào con còn nghĩ con có thể hướng chú ý ra ngoài và cố gắng thay đổi điều gì đó bên ngoài, thì con sẽ dậm chân tại chỗ trên con đường tâm linh. Con sẽ chẳng đi tới đâu. Một lần nữa, con có thể tạo cảm tưởng con đang tiến tới nhưng con thật sự làm gì khi con làm thế? 

Con hãy suy ngẫm những gì thày nói ở đây. Con có một số ngã tách biệt dựa trên ảo tưởng. Chúng giam cầm con trong tấm màn huyễn Maya. Giờ đây, con tìm thấy con đường tâm linh, giáo lý tâm linh. Đấy là một giáo lý tâm linh có giá trị. Nó có tiềm năng giúp con tăng triển khi con dấn thân theo con đường Bát chánh đạo, nhưng nó có sẽ làm vậy chăng? Không thể bảo đảm kết quả bởi vì tinh túy của con đường tu chân chính là con khắc phục được các ngã tách biệt, con phơi bày chúng hiện lên trong ý thức của con và sau đó con thải bỏ các ngã này một cách ý thức. Nếu con không chịu làm điều trên hay con không nắm bắt điều trên, thì con sẽ làm gì thay vào đó? Con sẽ lấy giáo lý tâm linh và con sẽ dùng nó để xây dựng một ngã tách biệt mới. Ngã tách biệt này sẽ dựa trên ảo tưởng là nếu con chăm chỉ học một giáo lý tâm linh, nếu con chăm chỉ thực hành các thực tập tâm linh, thì con sẽ trở nên một học trò càng ngày càng cao cấp khi con chứng minh mình đang làm những điều vỏ ngoài đó. Vì những điều vỏ ngoài đó, con đang tiến bộ trên đường tu. 

Nhiều, rất nhiều người qua các thời đại có thiện ý muốn tiến triển tâm linh nhưng họ không nắm bắt bản chất cốt yếu của đường tu và do đó họ giản dị tạo ra một số ngã tách biệt dựa trên giáo lý tâm linh. Họ đã củng cố tự ngã. Tự ngã tin rằng nó tách biệt và luôn cố gắng có một vị trí cao trội. Một lần nữa, tại sao tự ngã cố gắng đạt điều này? Ấy, tự ngã có đủ nhận biết để biết mình không trọn vẹn. Nó không thật sự hiểu nó không bao giờ có thể vào thiên đàng nhưng nó biết nó không trọn vẹn. Nó biết con cảm thấy con không trọn vẹn và lúc nào nó cũng tìm cách che phủ sự thiếu trọn vẹn này, bù đắp nó. Tự ngã luôn luôn tìm cách được cao trội theo môt cách nào đó vì nó nghĩ, tự ngã nghĩ, nếu nó tinh xảo đủ trên thế gian này, thì bắt buộc nó phải được phép vào cõi cao.  

13.8. Tự ngã được tâm linh hóa

Nhiều, nhiều người khi tin vào một Thượng đế tối cao thì trên cơ bản, họ đã tạo ra một tự ngã nghĩ rằng nếu tôi làm hết mấy chuyện vỏ ngoài đúng theo quy định của tôn giáo, thì đơn giản là Thượng đế phải cho phép tôi vào thiên đường. Thượng đế phải ban cho tôi đời sống bất diệt. Như thể tự ngã đang thương thảo với Thượng đế. Con làm mấy chuyện vỏ ngoài này thì Thượng đế phải cho con vào thiên đàng. Vấn đề là đây toàn là tưởng tượng. Trước tiên, hình ảnh mà tự ngã tạo ra về Thượng đế chẳng dính dáng gì tới thực tại của cõi tâm linh. Ví dụ, con có thể nhìn lại ba tôn giáo độc thần đặt căn bản trên hình ảnh Thượng đế giận dữ trên trời ở trong Cựu Ước kinh và con có thể nói: “Có chăng một Thượng đế như thế trên trời phù hợp với hình ảnh này?” Sự thực là không có thượng đế nào như thế trên trời, nhưng có một sinh thể được tạo ra bởi tâm thức đại chúng và nó có sự hiện hữu tạm bợ ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc của vũ trụ vật chất và tâm thức tập thể. Đây là một thượng đế do con người tạo ra, dựa trên hình ảnh của tự ngã và giống tự ngã. Đây là một thượng đế thiên vị tưởng thưởng những ai làm theo mệnh lệnh của ông nhưng trừng phạt những ai không vâng lời ông. Thượng đế này chỉ có thể là một thượng đế nhị nguyên và do đó ông ấy không thể nào có chút thực tại nào một khi con nắm bắt nhị nguyên và bất nhị là gì.

Tự ngã đang cố làm một điều không thể làm được. Nó cố gắng quy định những tiêu chuẩn thế gian sẽ bảo đảm cho nó vào cõi cao. Tự ngã sinh ra từ ảo tưởng tách biệt. Nó không bao giờ thấu rõ được cái một. Vậy tự ngã đang làm gì? Nó đang quy định những tiêu chuẩn dựa trên ảo tưởng tách biệt, nghĩa là chúng không thật. Sự thật là cái một, sự không thật là tách biệt và phân chia. Con nghĩ, hay tự ngã nghĩ, con có thể rời cái một và đi vào tách biệt và dựa trên ảo tưởng tách biệt con có thể trở về với cái một. Điều này không khả thi. Làm sao điều này có bao giờ khả thi được?

Con có thể thấy nhiều người sùng đạo hay tâm linh tìm được một giáo lý tâm linh hay một tôn giáo. Giờ đây họ tạo ra, hay đúng hơn thường là họ lấy vào điều đã được những thành viên của tôn giáo đó cùng tạo ra, là một cái nhìn phức tạp về những gì họ phải làm và không được làm. Họ xả thân cần cù thực tập như thế, và họ tuyệt đối tin chắc họ tiến bộ và một ngày kia chuyện gì đó sẽ xảy ra. Giê-su sẽ hiện ra trên trời, dẫn người Cơ đốc lên thiên đàng, cuộn thế giới lại như cuộn giấy và xử phạt mọi người khác xuống địa ngục. Phật sẽ hiện ra cho con người, ban cho họ giác ngộ và bỏ mặc người khác. Một giáo lý thần diệu nào đó sẽ hiện ra cho họ và khi họ đọc giáo lý đó, họ sẽ giác ngộ.

Nhiều người có tin tưởng rằng bước chân trên đường tâm linh là một cuộc phiêu lưu vinh quang dẫn họ tới những trạng thái càng ngày càng tinh thông hơn và đem lại cho họ chức vị và sự công nhận càng ngày càng nhiều hơn của thế gian dựa trên tiêu chuẩn do thế gian quy định. Những tiêu chuẩn này do tự ngã quy định và dựa trên tách biệt. Làm sao chúng dẫn tới cái một được? Con đường tâm linh thật sự không vinh quang chút nào. Nó là con đường liên tục nhìn vào chính mình, phản ứng của mình, phơi bày phản ứng trong tâm lý mình và cho chúng chết đi. Vạch trần các ngã tách biệt này và cho chúng chết đi. Đấy chính là ý nghĩa của con đường tâm linh. Ngày nào con còn hiện thân con sẽ còn ngã tách biệt nào đó mà con chưa khám phá ra bởi vì nếu con không có ngã tách biệt, thì con không thể ở lại trong một xác thân vật lý trên một hành tinh dày đặc như trái đất.

13.9. Giác ngộ nghĩa là gì

Có một tin tưởng rất xưa trong các đệ tử tâm linh cho rằng: “Ồ, người này đã giác ngộ, vị đạo sư này đã giác ngộ.” Ấy ở đây có sự thật và cũng có ảo tưởng. Một mặt rõ ràng là có những người đã đạt một tầng nhận biết cao hơn người trung bình. Chắc chắn là với những người hiểu cách vận hành của con đường tâm linh mà thày đã giảng ở đây, các con đều có thể tu tập dần dần tiến tới những tầng tâm thức cao hơn so với khi con bắt đầu, và chắc chắn là những tầng cao hơn người trung bình. Tuy nhiên, nếu con nghĩ giác ngộ có nghĩa là con không có ảo tưởng, không còn ngã tách biệt nữa thì con không có hiểu biết cao.

Có câu truyện về Phật nói rằng thày đạt giác ngộ. Thày nhập Niết bàn và sau đó thày quyết định thay vì ở lại Niết bàn, thày sẽ trở về trái đất và giảng dạy và do đó thày trở về trong trạng thái giác ngộ. Nhiều người phóng chiếu rằng thày, bằng một cách nào đó, là một sinh thể hoàn hảo, thày không còn ảo tưởng, không còn ngã tách biệt nữa. Sự thật là thày đã khắc phục hầu hết các ảo tưởng có thể có được khi là một con người hiện thân. Nhưng thày chưa khắc phục tất cả ảo tưởng vì nếu được vậy thì thày không thể ở lại trong một thân vật lý. Điều này không có nghĩa là thày không đạt được một tầng tâm thức cao hơn người trung bình. Thày có đạt được như vậy. Nghĩa là thày có một sự thẩm định thực tế, hay con có thể nói là thẩm định khiêm tốn về chính mình. Thày không coi mình là một sinh thể hoàn hảo như nhiều môn đồ của thày thời đó nghĩ, và đặc biệt sau này tiếp tục nghĩ. 

Có một hiện tượng trong các phong trào tâm linh mà chúng ta có thể gọi là “hội chứng đạo sư chết”. Một khi vị đạo sư qua đời, người ta bắt đầu phóng chiếu giấc mơ và ảo tưởng lên vị đạo sư như vị thày đặc biệt và hoàn hảo như thế nào. Tại sao họ làm thế? Vì vị đạo sư càng đặc biệt bao nhiêu thì các đệ tử theo thày càng đặc biệt bấy nhiêu. Qua cách này họ xây đắp tự ngã và ảo tưởng cho rằng khi đi theo vị đạo sư hoàn hảo và bởi vì thày quá đỗi hoàn hảo, thày có quyền năng thần diệu biến hóa họ mà không cần họ nhìn vào chính trạng thái nhận biết và tâm lý của họ.

Thày đang nói điều gì ở đây? Thày giản dị đang nói là khi con còn hiện thân trong thân thể vật lý thì con có một số ảo tưởng đặc thù mà con cần khắc phục. Nghĩa là con phải khiêm cung, con phải thực tế và không tuyên bố mình đã đạt được một trạng thái hoàn hảo nào đó. Có những người tuyên bố họ là hiện thân của vị thần nào đó hoặc họ đã đạt được một trạng thái giác ngộ nào đó. Có những người không tự mình tuyên bố điều trên nhưng họ cho phép những người theo họ tin vào điều này mà không cải chỉnh. Đây không phải là cách nhìn cao nhất.

Ngày nào con còn trong thân vật lý, con vẫn còn ít nhất một ảo tưởng phải khắc phục và khi con khắc phục nó thì con không thể ở lại trong thân vật lý. Nó giản dị như thế. Con có thể chế ra đủ loại truyện và ý tưởng về những sinh thể hoàn hảo sống trên dãy núi Himalaya và họ duy trì được thân vật lý vài thế kỷ. Không phải là chuyện này không có một phần sự thật nhưng các sinh thể này không nhìn họ như con nhìn họ trong trạng thái tách biệt. Họ đạt được một tầng nhận biết cao nhưng họ thực tế nhận rằng vẫn còn điều gì đó giữ họ trong thân vật lý và để vĩnh viễn thoát khỏi thân ấy họ phải khắc phục ảo tưởng đó. Họ thực tế trong sự đánh giá chính mình bởi vì con không thể đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn mà không khắc phục sự tách biệt, ý niệm tách biệt. Chỉ trong ý niệm tách biệt mới có người cao trội hơn người khác. Sự tôn thờ một vị thày tâm linh chỉ có thể phát xuất từ ý niệm tách biệt. Nếu vị đạo sư tuyên bố ông cao trội, hoặc nếu ông cho phép người theo ông nâng ông thành người cao trội, thì ông đã không khắc phục được tách biệt. Làm sao ông đã làm chuyện đó được?

13.10. Nỗ lực giả để nâng mình cao hơn người khác

Khi khắc phục hết các ngã tách biệt đó, con đánh giá một cách thực tế con là sự biểu hiện của tâm một và mọi người cũng thế. Ấy, làm sao một sự biểu hiện của tâm một có thể tinh vi hơn, hoàn hảo hơn một biểu hiện khác? Mọi sự đều là Phật Tánh. Mỗi sinh thể có tự nhận biết là một biểu hiện của Phật Tánh. Làm sao trên cơ bản một sinh thể có thể đặc biệt hơn sinh thể khác? Tuyên ngôn Độc lập của Hoa kỳ nói: “Mọi con người được tạo ra bình đẳng.” Ấy, theo một nghĩa nào đó, đây là sự nhìn nhận tất cả là biểu hiện của Phật tánh. Trong Phật tánh không có phán xét giá trị. Chỉ trong màn huyễn maya, trong ảo tưởng tách biệt mới có phán xét giá trị nói rằng môt người đặc biệt hơn người khác.

Chuyện này liên quan gì tới nỗ lực? Ấy, bất kỳ nỗ lực nào tìm cách nâng con lên cao hơn so với người khác không phải là nỗ lực cao. Làm sao có thể được? Khi con tiến cao hơn và thoát khỏi càng ngày càng nhiều hơn ảo tưởng tách biệt, con bắt đầu thấy cái tổng thể và do đó mỗi nỗ lực của con có mục đích nâng cao tổng thể, chớ con không nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt.

Tìm cách nâng mình lên cao như một cá nhân tách biệt phát xuất từ ảo tưởng tách biệt và nó chỉ có thể buộc chặt con vào ảo tưởng đó. Nếu con nâng mình để là một đạo sư hoàn hảo, và con khiến những người theo con tin điều này, mọi nỗ lực con bỏ ra chỉ làm cho con mắc bẫy sâu hơn trong ảo tưởng tách biệt và giữ những người theo con mắc bẫy sâu hơn trong ảo tưởng tách biệt. Nếu con đọc kỹ những ghi chép, thành thực mà nói khá rời rạc và không đầy đủ, về cuộc đời của Phật và con đọc giữa hai hàng chữ, thì con sẽ thấy điều này – thày không dựng mình lên trong vị thế một sinh thể toàn hảo. Giờ đây, con có thể tìm thấy những giáo lý làm điều này nhưng chúng đã được thêm vào sau này vì con người nhìn vào đời sống và giáo lý của Phật qua màn huyễn maya, họ áp chồng tin tưởng tách biệt của họ lên đó, tin tưởng vào sự tách biệt của họ lên đó và do đó họ thần tượng hóa Phật, cho rằng Phật rất là đặc biệt, Phật sinh ra một cách đặc biệt và đo đó Phật là vị đạo sư hoàn hảo duy nhất xuất hiện trên trái đất từ trước tới giờ. Đó là lý do tại sao thày có khả năng thần diệu dẫn họ tới giác ngộ mà không cần họ bỏ ra nỗ lực khó khăn và khó chịu nhìn vào chính tâm lý mình và khắc phục các dính mắc của mình.

Đấy là những ảo tưởng do ngã tách biệt tạo ra. Con không thể khắc phục tách biệt bằng tách biệt. Con không thể tạo ra một ngã tách biệt nắm bắt cái một, trải nghiệm cái một, đi vào cái một. Con không thể lấy một ngã tách biệt và hoàn thiện nó để nó đi vào cái một. Con không thể khắc phục một trạng thái tâm thức, khắc phục một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề.

Một số người sẽ nói thày đang lặp đi lặp lại. Khi con đọc trở lại một số giáo lý nguyên thủy, con sẽ thấy thường có một câu truyện được kể ra để minh họa một điểm nào đó. Sau đó truyện này được kể một lần rồi lần nhì rồi lần ba, trong một số trường hợp còn kể hơn ba lần. Tại sao như thế? Bởi vì hầu hết người nghe không nắm bắt giáo lý lần đầu họ tiếp cận. Con có thân tình cảm, lý trí và bản sắc. Con học một giáo lý, con nắm bắt nó ở tầng cảm xúc, rồi con học nó lại và nắm bắt nó ở tầng lý trí, và con học nó lại và nắm bắt nó ở tầng bản sắc. Nếu con không nắm bắt ở tầng tình cảm thì sao? Con có thể dễ dàng đọc giáo lý và nó không chuyển hóa tâm thức con. Con hiểu giáo lý qua trí năng và con dùng sự hiểu biết trí năng để tạo ra một loại tâm ảnh về giáo lý. Đấy không phải là nắm bắt giáo lý.

Nắm bắt giáo lý thật sự nghĩa là gì? Con ghi nhớ ở đây là thày không nói hiểu biết mà thày nói nắm bắt, thể nhập. Khi con lấy một giáo lý tâm linh đặc trưng và con dùng giáo lý như tấm gương để nhìn chính mình, nhìn phản ứng của chính mình, nhìn chính tâm lý mình, và khi con thấy điều gì đó trong mình, con ý thức về nó và buông bỏ nó, lúc ấy con đã sử dụng giáo lý, lúc ấy con nắm bắt giáo lý. Con đã đưa giáo lý vào hành động.

13.11. Mục đích thật của một giáo lý tâm linh

Thậm chí còn hơn thế, mục đích của một giáo lý vỏ ngoài là gì? Đó là nối kết con với cội nguồn của giáo lý. Con làm sao nối kết với cội nguồn của giáo lý?À không phải là qua tâm tách biệt. Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với bất cứ gì? Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với bất cứ gì vượt quá sự tách biệt? Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với cái một?

Ở đây con thấy Phật. Thày đã đi trên con đường tâm linh nhiều năm. Thày đạt được một tầng nhận biết cao và thày có một chọn lựa. Thày có thể bỏ trái đất lại đằng sau vĩnh viễn và nhập niết bàn. Thày sẽ không mô tả điều gì xảy ra trên niết bàn, nó không liên quan đến cuộc thảo luận này. Thày có chọn lựa bỏ lại trái đất đằng sau. Thay vào đó thày chọn trở lại thân vật lý để giáo huấn. Thày muốn đạt điều gì? Ấy, thày biết là thân vật lý của thày có tuổi thọ giới hạn. Thày biết thời gian thày giảng dạy trực tiếp và tương tác với đệ tử chỉ có thể xảy ra trong một khoảng thời gian nào đó, do đó mục đích của thày là trao truyền một giáo lý có thể tồn tại lâu hơn thân vật lý của thày và giúp những thế hệ tương lai bước trên con đường đạo, chính con đường thày đã đi qua để tới những tầng nhận biết cao hơn.

Có những tầng khác của con đường, như thày đã mô tả, có thể giúp con đi một số bước khác. Cốt lõi của con đường đạo, mụch đích thật của giáo lý là gì? Ấy, thày đã đạt được một tầng nhận biết cao như thế nào? Thày đạt được bằng cách khắc phục cáo ảo tưởng, vứt bỏ chúng từng cái một. Sau khi thày bắt đầu khắc phục những ảo tưởng này, chuyện gì bắt đầu xảy ra?  Chuyện bắt đầu xảy ra là thày kết nối với cái ta cao của thày, với Phật tánh trong thày. Thày kết nối với tâm một và thày không làm thế qua trí năng. Thày không làm thế từ một khoảng cách, thày không làm thế bằng cách tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Thày không làm thế bằng cách dùng tâm tách biệt để tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Không đâu, thày làm thế bằng cách bước ra ngoài tâm tách biệt và trải nghiệm trực tiếp tâm một. Đây là mục đích nội tại thật của một giáo lý – kết nối con với tâm một bên trong con để con không phóng chiếu là tâm một ở ngoài con.

Sự thật đằng sau giáo lý nói rằng mọi sự đều là Phật tánh là gì? Con có Phật tánh trong con. Làm sao con tìm thấy Phật tánh? Làm sao con tìm thấy Phật? Chỉ bằng cách nhìn bên trong con. Tâm tách biệt, tự ngã không thể nắm bắt điều này. Nó sẽ mãi mãi đi tìm ở ngoài nó, bên ngoài chính nó. Con tìm thấy một giáo lý Phật giáo nói về Phật và tâm tách biệt phóng chiếu: “À Phật ở bên ngoài mình. Phật ở kia. Phật ở kia. Phật ở đằng sau tảng đá kia. Phật ở trong hang đá kia trên dãy Himalaya. Phật ở trong kinh điển kia. Phật ở trong pháp tu tập này.” Có một vị thày Phật giáo đưa ra ý tưởng rằng nếu con gặp Phật trên đường thì con cần giết Phật. Tại sao thế? Bởi vì nếu con gặp một người và con nhận diện người đó là Phật, khi làm thế con sẽ cản con thấy Phật tánh trong chính con và điều này sẽ ngưng sự tiến triển của con trên đường đạo. Tốt hơn là con giết người ngoài kia, không phải là giết thân vật lý của họ mà là giết tâm ảnh trong tâm con để con còn có cơ hội khám phá Phật tánh trong chính con.

Làm sao con khám phá được Phật tánh trong chính con? Không qua sự hiểu biết trí năng mà qua một trải nghiệm trực tiếp. Điều gì có thể cho con trải nghiệm này? Ấy, thày đã giảng cốt lõi bản thể con là Cái Ta Biết, cái ta ý thức. Nó tạo ra cái nhân cách vỏ ngoài. Nó tạo ra nội dung trong tâm tình cảm, lý trí và bản sắc nhưng nó không trở thành các nội dung đó. Con tạo ra tự ngã nhưng con không trở thành tự ngã. Con chỉ chui vào tự ngã giống như con mặc vào một áo giáp. Con không thể mất đi khả năng bước ra ngoài tự ngã và tâm vỏ ngoài. Khi con ý thức về khả năng này, khi con trau dồi nó, khi con dùng nó, khi con giảm thiểu lực hút của tâm vỏ ngoài trên tâm ý thức của con, thì con sẽ tới điểm mà con tự nhiên trải nghiệm bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của con và do đó con kết nối với cái gì lớn hơn, cái gì vượt quá ý niệm bản ngã bình thường của con. Đây là trải nghiệm tâm một, trải nghiệm Phật tánh trong con.

Đây là mục đích của bất kỳ giáo lý tâm linh thật nào. Đây là mục đích của Bát chánh đạo.

13.12. Mục đích của các nỗ lực của con

Do đó giờ đây con có thể đánh giá các nỗ lực của mình. Nỗ lực của con nhắm tới mục đích gì? Phải chăng mục đích là nâng con lên một vị thế nào đó, dựa trên những tiêu chuẩn do thế gian quy định? Hay mục đích là con trải nghiệm sự kết nối, trải nghiệm là một với tâm một, với Phật tánh? Thấy Phật tánh trong con thay vì thấy nó ngoài con. Mục đích của Phật khi trở về từ niết bàn để giáo huấn là gì? Phải chăng là để đời đời nâng mình lên cao khiến cho mọi người trên trái đất nói: “Ồ, ngày xửa ngày xưa, có sinh thể kia toàn hảo tuyệt vời đã bước chân trên trái đất. Chúng ta phải tôn thờ ngài, chúng ta phải đi theo ngài và một ngày kia ngài sẽ nâng chúng ta lên chỗ toàn hảo?” Có thật chăng là Phật muốn tự đề cao bản thân, nâng mình lên trên tất cả mọi người khác đời đời kiếp kiếp? Nếu con tin điều này thì con đang ở trong trạng thái tách biệt và con đang phóng chiếu giấc mơ của chính tự ngã của con lên Phật. Thà là con giết Phật này vì làm thế còn có thể giúp con tiến bộ, bởi vì tôn thờ Phật đó dứt khoát không giúp con tiến bộ.

Phật thật sự muốn gì? Phật muốn đưa ra một tấm gương là bất kỳ người nào cũng có thể đạt một tầng nhận biết cao hơn. Như thế khi nhìn vào Phật như một tấm gương, họ có thể nói: “Điều gì một người làm được, mọi người đều có thể làm được.” Nếu Phật có thể đạt được một trạng thái nhận biết cao thì tôi cũng có thể làm được. Làm thế nào Phật đạt được một trạng thái nhận biết cao? Bằng cách tìm lại được Phật tánh trong ngài. Phật nói mọi sự đều là Phật tánh, nghĩa là tôi có Phật tánh trong tôi, nghĩa là tôi có thể tìm lại Phật tánh trong tôi bằng cách theo gương và giáo lý của Phật. Nếu tôi phóng chiếu là Phật tánh chỉ có thể hiện ra trong Phật, thì tôi không thật sự là người theo Phật. Tôi không dùng giáo lý và tấm gương của Phật. Tôi đang tạo một thần tượng và tôn thờ thần tượng đó.

Một lần nữa, nỗ lực của con phải nhắm tới gì? Ấy, mục đích của con trên đường tâm linh phải là trải nghiệm cái một, trải nghiệm nối kết. Bây giờ con hãy quan sát tâm vỏ ngoài của con phản ứng như thế nào. Tâm vỏ ngoài của con sẽ nói: “Ồ, để tạo ra trải nghiệm này, để bảo đảm có trải nghiệm này, hẳn tôi phải nỗ lực một cách đặc biệt nào đó.” Nếu con hiểu những gì thày nói ở đây, con sẽ thấy sự điên rồ của lối tiếp cận này. Không có nỗ lực nào dựa trên ảo tưởng tách biệt bảo đảm trải nghiệm được cái một. Điều con cần làm là không nỗ lực, không cố gắng giỏi hơn, không cố gắng mãnh liệt hơn. Con cần ngưng cố gắng. Con cần ngưng các nỗ lực của ngã tách biệt muốn tạo sự tiến bộ tâm linh.

Giờ đây thày đã nói có những nỗ lực con có thể làm để khắc phục các ảo tưởng nhưng không có nỗ lực nào con có thể làm để trải nghiệm cái một. Để trải nghiệm cái một, con phải ngưng nỗ lực. Con thật sự phải cho tâm con yên lặng nhưng làm sao con làm cho tâm yên lặng? Tâm con sẽ hỏi, tôi phải nỗ lực như thế nào để an tâm mình. Chẳng có nỗ lực nào con có thể làm được để an tâm mình.

13.13. Nỗ lực ngừng tâm lại

Nhiều người, thật nhiều người trong truyền thống Phật giáo đã suy ngẫm kỹ về thiền định và thực tập nhưng họ thấy tâm họ luôn xen vào. Cái tâm khỉ luôn xẹt ra ý tưởng nên họ nghĩ họ phải tìm ra một nỗ lực cao để khiến tâm im bặt. Con càng nỗ lực làm cho tâm im lặng, con càng thật sự dùng tâm nhiều hơn, do đó con càng bị kẹt trong tâm mình hơn. Nghĩ rằng con có thể dùng tâm để làm cho tâm im lặng chỉ trở thành một cái bẫy, một cái bẫy mới. Vậy con làm được gì? Ấy, con có thể tiến bước trên đường tu. Con có thể dùng những giáo lý mà thày cho con ở đây. Khi con khắc phục những ngã tách biệt, sẽ có lúc con tới điểm trải nghiệm một cách tự phát mình đang bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình và nối kết với cái gì vượt lên trên chính tâm mình.

Trải nghiệm cái một không phải là điều gì con có thể tạo ra được. Nó là điều con nhận được. Con có thể xem nó như một món quà, một ân huệ, nhưng con hãy cẩn thật đừng nghĩ là có một lực bên ngoài nào ban nó cho con. Nó chỉ xảy ra một cách tự phát khi con bước trên đường tu. Cho nên con cần kiên nhẫn với chính mình, tiếp tục bước trên đường tu và chờ nó xảy ra. Nói theo một khía cạnh nào đó, con đừng dính mắc nó xảy ra hay không xảy ra, bởi vì nếu con muốn nó xảy ra thì con đang làm gì? Con đang dùng tâm vỏ ngoài để cố gắng cho nó xảy ra, và điều này đẩy nó xa ra khỏi con. Nhiều, nhiều người tâm linh quả thực đã đạt được một tầng cấp trong đó họ đã vứt bỏ nhiều chướng ngại trong tâm họ. Họ có thể trải nghiệm sự kết nối với tâm cao của họ vì các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của họ đã mở rộng đủ. Họ có thể làm được điều này nhưng trong tâm ý thức của họ, họ quá mức chú tâm nỗ lực nên họ đẩy trải nghiệm này xa ra khỏi họ.

Không có nỗ lực nào con có thể áp dụng được. Con chỉ có thể từ bỏ nỗ lực. Con có thể xả bỏ. Con có thể buông bỏ. Buông bỏ sự dính mắc. Nhiều người tâm linh bị dính mắc muốn có những trải nghiệm tột đỉnh này và sự dính mắc ngăn cản tâm họ buông bỏ và do đó đẩy trải nghiệm ra xa. Nhiều người đã làm điều này cả nhiều thập niên, thậm chi cả nhiều kiếp, họ liên tục tập trung mạnh trong tâm thay vì buông bỏ. Hầu hết những người mở tâm với giáo lý này đã có một mức cởi mở nào đó trong tâm. Do đó, con có thể ngay lúc này trải nghiệm sự kết nối nhưng con chỉ trải nghiệm được khi con có thể buông bỏ. Thay vì ở trong trạng thái tâm bình thường của con và thay vì ở trong tâm muốn có một trải nghiệm nào đó, con đi vào trạng thái tâm hoàn toàn trung hòa. Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Nếu con có trải nghiệm, con có trải nghiệm. Nếu không có trải nghiệm, con tiếp tục bước trên đường tu.

Trên đường tu tâm linh con có thể có những nỗ lực giúp con tăng triển. Có những nỗ lực con có thể áp dụng sẽ dần dần đưa con lên những tầng cao hơn và cao hơn. Sẽ tới một tầng trên đường tu khi con cũng cần nghĩ tới chuyện vượt lên trên nỗ lực, và thày không nói là con phải ngừng nỗ lực, nhưng vượt lên trên nỗ lực, con cần vun trồng khả năng không nỗ lực. Con buông bỏ, con phó thác, con xả bỏ để xuôi theo dòng sông sự sống, theo bất kỳ cách nhìn nào của con. Con không nỗ lực. Nỗ lực tối cao là không nỗ lực.

Với điều này, thày niêm con. Đối với thày trao truyền bài giảng dài này hoàn toàn không có nỗ lực. Con có nỗ lực để học bài giảng này chăng? Ấy, con hãy suy ngẫm điều thày nói về buông bỏ, vì con có thể tới điểm học và thể nhập bài giảng mà không cần nỗ lực, và đấy là lúc con đã hiểu thấu trọn vẹn nỗ lực cao.

9 | Hành động cao hơn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Chủ đề tiếp theo của chúng ta đương nhiên là điều mà theo truyền thống được gọi là Chánh nghiệp, nhưng thày sẽ chọn gọi là hành động cao hơn.

Con cần lấy các lời dạy của thày về lời nói cao hơn [Chánh ngữ], về năng lượng và việc sử dụng năng lượng vì các đề tài này cũng liên quan đến hành động. Con có thể hỏi: “Làm thê nào một hành động vật lý với một cơ thể vật lý lại liên quan đến năng lượng?” À như thày đã nói, mọi thứ đều là năng lượng. Mọi việc con làm đều được làm với năng lượng. Thày biết có thể con sẽ dễ tưởng tượng hơn việc gửi ra một xung lực năng lượng xuyên qua cảm thể khi con phóng chiếu một cảm xúc thật mạnh mẽ. Và có thể con sẽ khó tưởng tượng hơn việc gửi ra một xung lực năng lượng bằng cơ thể vật lý.

Vấn đề này tương đối dễ giải quyết khi con nhận ra cơ thể vật lý là thể thấp nhất trong bốn thể phàm của con. Con không thể nào có một hành động vật lý chỉ diễn ra trong cơ thể vật lý ở tầng vật lý mà thôi. Tầng vật lý là sự phóng chiếu của những gì xảy ra ở ba tầng cao hơn. Bất kỳ hành động nào cũng khởi sự ở thể bản sắc của con, đi xuống thể lý trí, đi xuống thể cảm xúc rồi mới được chuyển thành một hành động vật lý. Mỗi khi con hành động vật lý, con gửi ra một xung lực xuyên qua cả bốn thể phàm của con. Hầu hết mọi người không nhận biết điều này. Họ cứ đinh ninh là họ có thể hành động vật lý ở tầng vật lý thôi. Nhiều người cho rằng nếu họ quyết định làm việc gì đó thì họ đang quyết định bằng tâm ý thức, mà họ không biết là họ đang có những khuôn nếp trong cả ba tâm cao hơn, và những khuôn nếp này đã phần lớn định ra ranh giới cho những gì họ có thể quyết định bằng tâm ý thức.

Ngăn chặn một vòng xoáy nghiệp quả không kềm chế

Như thày đã giảng, nhiều người thường hành xử giống như một loại rô-bốt, một loại máy tính với những lập trình, những mô thức mà họ mang nơi cái tâm cao hơn, là tâm tiềm thức của họ. Các chương trình này điều khiển phản ứng của họ, cho nên họ không đang lấy một quyết định vật lý, ý thức, để làm một việc gì. Quyết định được định đoạt bởi các khuôn nếp trong tâm tiềm thức. Đây là một sự kiện mà một lần nữa chúng ta có thể nói nó có vẻ như là nghịch lý. Thày đã có giảng là trên cơ bản, con có thể chọn một trong hai cách tiếp cận trên đường tu tâm linh. Con có thể tìm cách kìm nén một số cảm xúc, một số ý tưởng, một ý niệm bản sắc nào đó, thậm chí cả một số hành động, nhưng điều này sẽ không giúp con nâng cao mức nhận biết của con. Để nâng cao nhận biết, con cần bước vào bên trong, xem xét các khuôn nếp và giải quyết chúng một cách ý thức – giải quyết thay vì phủ nhận và đè nén.

Khi nói đến hành động, có một giai đoạn trên đường tu khi quả thực con cần trau dồi một sức mạnh ý chí ý thức để chặn không cho một xung lực từ tâm tiềm thức, từ ba tầng của tâm con, bị đưa ra biểu hiện thành một hành động vật lý. Ở một tầng tâm thức nào đó, con không hoàn toàn có khả năng giải quyết các khuôn nếp đó, con không thật sự biết cách làm thế nào, có thể con không có sự quyết tâm để giải quyết, hay con không sẵn lòng nhìn vào bên trong tâm mình – nhìn vào cái xà trong mắt mình theo cách diễn tả của Giê-su.

Xuyên qua các thời đại, không chỉ đạo Phật mà nhiều tôn giáo và nhiều truyền thống tâm linh đã lập ra một quy tắc ứng xử, một quy tắc hành động về những gì con làm hay không làm khi con là tín đồ của tôn giáo đó. Chúng ta không thể chỉ đơn giản bác bỏ quy tắc này và bảo nó hoàn toàn sai trái, ngay cả nếu chúng ta dùng những từ “sai” và “đúng” trong bối cảnh này. Thày sẽ không tìm cách bác bỏ nó vì tất nhiên, khi con làm một hành động thì hành động này có thể tạo nghiệp. Như thày có giảng, nghiệp là các xung lực năng lượng đi qua bốn tầng cõi và quay trở về với con. Nếu con cứ liên tục làm những việc tạo ra các dạng nghiệp nghiêm trọng hơn, con có thể phá hoại khả năng nâng cao nhận biết của con. Cho nên ở một giai đoạn nào đó, thật là tự nhiên hoặc cần thiết con dùng sức mạnh của ý chí vỏ ngoài để kỷ luật hành động của mình, bởi vì nếu không, con sẽ phá hoại bước tiến tâm linh của con. Có thể con đang theo học một giáo lý tâm linh, có thể con đang thực hành một số pháp tu, nhưng nếu con không ngừng làm những việc tạo ra các dạng nghiệp nặng nề thì làm thế nào con tăng triển tâm linh được đây? Quả báo thường sẽ ngăn chặn hay cản trở đường phát triển tâm linh của con.

Có một số hành động đã được nhiều tôn giáo quy định suốt các thời đại. Chính thày đây chắc chắn cũng đã định ra một số giới luật cách đây 2500 năm. Một số điều răn được xác định trong Kinh Cựu ước qua những câu “Ngươi chớ…” Những câu này có thể hiệu nghiệm ở một tầng nào đó trong việc ngăn chặn một vòng xoáy nghiệp quả không kềm chế mà nhiều người đã vướng phải suốt nhiều kiếp sống. Đến một lúc nào đó con phải chặn nó lại, và bằng cách chấp nhận một khuôn mẫu lý tưởng về những gì một tín đồ trong tôn giáo của con không làm, thì quả thực con có thể tiến bộ. Nhưng tiến bộ này chỉ có thể đưa con đến một điểm nào đó, vì thật ra nó không khiến cho vòng xoáy nghiệp quả ngừng hẳn. Nó sẽ ngăn không cho nghiệp trở thành vật lý nếu con không có hành động vật lý, và nhờ vậy nó giảm bớt độ khắc nghiệt của vòng xoáy nghiệp quả. Tuy nhiên nếu con vẫn mang cùng những khuôn nếp trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, tất nhiên con vẫn phóng chiếu ra ngoài xuyên qua chúng. Chỉ có điều là nghiệp sẽ bớt nặng, bớt mãnh liệt.

Con đường vỏ ngoài và con đường nội tâm

Vậy con sẽ làm gì khi con vượt quá giai đọan đó? Thành thật mà nói, hầu hết những người cởi mở tâm linh đều nằm trong số này. Thường thường từ rất nhiều kiếp, con đã không tham gia vào chuyện giết người, không dùng ma túy hay rượu chè cùng nhiều loại sinh hoạt như vậy mà thày đã quy định ngay từ thuở đó là không có tính xây dựng trên con đường Bát chánh đạo. Vậy bước kế tiếp từ điểm này là gì? Ấy, đó là trước hết con nhìn nhận là nếu con chỉ quy định một số hành động như vậy thôi thì thật không đủ. Bởi vì tâm vỏ ngoài, tự ngã, vô cùng khéo léo sử dụng một giáo lý tâm linh để ngăn chặn bước tiến của con, để nó lẩn trốn hầu con không thấy nó, con không thấy cần buông bỏ nó, chối từ nó, giải thể nó.

Một trong những cách tự ngã làm là nó tạo ra, như thày đã có đề cập trước đây, khái niệm một con đường vỏ ngoài, một con đường tự động. Con đường này bảo rằng có hành động chân chính và hành động bất chính, có hành động đúng và hành động sai. Nếu con ép mình kiêng cữ những việc sai và nếu con ép mình chỉ làm những việc đúng, thì đảm bảo con sẽ lên được niết bàn. Nếu con cứ nhắm mắt bước theo con đường tự động này thì ở một điểm nào đó trong tương lai, đùng một cái, con sẽ giác ngộ. Con kiêng những việc làm phi tâm linh và con làm những việc làm tâm linh, kể cả các pháp tu do tôn giáo con quy định, và nếu con cứ siêng năng thực hành thì con sẽ tự động tiến bước.

Như thày vừa giảng, bằng cách nhịn không làm những hành động tạo nghiệp và thực hành các pháp tu tâm linh, con có thể tiến bộ nhưng chỉ tới một tầng nào đó. Sẽ đến một điểm con không bước xa hơn tầng này cho tới khi con neo chặt vào con đường nội tâm. Thật không đủ nữa nếu con chỉ kiêng một số hành động và làm một số hành động khác. Con cần làm việc trên tâm lý của con, giải quyết các khuôn nếp, các ảo tưởng, những cái ngã mà con có trong tâm tiềm thức giống như những chương trình điều khiển phản ứng của con. Con không thể đi quá một điểm nào đó cho đến khi con nhận ra và bước chân trên con đường nội tâm này. Điều tự ngã thường làm là nó định ra một con đường vỏ ngoài rồi bảo, bởi vì con đã chuyên cần kiêng cữ việc sai và chỉ làm việc đúng, cho nên con không cần xem xét bản thân mình. Con không cần nhìn vào tâm tiềm thức của con. Con không cần làm bất cứ gì có thể phơi bày chính tôi là tự ngã của con.   

Xuyên qua các thời đại, biết bao nhiêu người – không chỉ người theo đạo Phật mà bất kỳ giáo lý tâm linh nào – đã tin vào chuyện này. Nhiều người thời nay là Phật tử, là người tâm linh, tin vào con đường vỏ ngoài này. Quả là có một giai đoạn con có thể tinh tiến với con đường vỏ ngoài, nhưng sẽ tới một điểm nó sẽ cản trở bước tiến của con vì nó sẽ ngăn con nhìn vào tâm tiềm thức.

Khi các nỗ lực tâm linh cản trở bước tiến

Có những người đã quy định thế nào là hành động bất chính hay chân chính và họ đã rất chăm chỉ sống theo cách định nghĩa đó. Nhưng dần dần họ đã cảm thấy một sự căng thẳng bất an nào đó. Lý do là vì qua trực giác, họ cảm thấy họ không đang thực sự tiến bước với cách tu này. Nhưng tâm vỏ ngoài của họ thì rất gắn bó, và họ gắn bó rất chặt với con đường vỏ ngoài. Họ có nỗi dính mắc nói rằng nếu họ thay đổi cách tiếp cận đường tu thì điều này sẽ chứng tỏ là họ đã đi lầm đường cho đến giờ. Và điều cuối cùng họ mong muốn là bị sai trật về con đường tâm linh họ đang đi.

Cho nên họ mới dính mắc, họ ôm chặt lấy quan điểm của họ, họ bám víu vào cách tiếp cận hiện thời của họ về đường tu. Do cảm giác bất an, giờ đây họ lý luận: “Tôi phải tu tập chăm chỉ hơn nữa. Tôi phải cần mẫn hơn nữa, kiêng cữ việc làm bất chính và chỉ làm những việc chân chính.” Có thể đầu tiên họ sẽ suy luận là họ không thể nào sống tiếp một cuộc đời thế tục, họ phải lánh xa xã hội, rút vào tu viện nơi họ sẽ không bao giờ bị cám dỗ vào những hành động bất chính. Nhưng ngay cả khi họ sống trong tu viện, họ vẫn cảm được sự bất an cho nên giờ đây họ nghĩ: “Tôi phải tu tập nghiêm mật hơn nữa.” Thế là nó biến thành một chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế, tới mức rốt cuộc họ cảm thấy hành động chân chính độc nhất còn lại là pháp tu của họ – dù đó là quỳ lạy trên sàn nhà, quay bánh xe cầu nguyện hay bất cứ gì khác. Càng ngày họ càng bị ám ảnh nhiều hơn đến độ họ cảm thấy đây là tất cả những gì họ có thể làm.

Bấy giờ tâm vỏ ngoài sẽ thì thầm vào tai họ: “Ồ xem kìa, bạn tu tập sao quá thuần thành. Hiếm có ai tu nghiêm mật như bạn. Điều này chứng minh bạn là môt đệ tử cao cấp, cho nên bạn không có nhu cầu nhìn vào tâm tiềm thức, bạn không có nhu cầu soi gương. Đừng để ý đến những loại xung lực kia và tập trung tâm trí vào việc tu tập đúng đắn.” Có những người có thể làm chuyện này nguyên một kiếp sống hay hàng chục năm trời mà không bước lên được một bước nào trên đường tu đích thực.

Trung đạo đích thực

Tất nhiên con sẽ muốn tránh điều đó, và làm thế nào con sẽ tránh được chứ? Một lần nữa, qua con đường Trung đạo, mà thật sự chúng ta có thể gọi là Thượng đạo, con đường cao hơn, hay Việt đạo, con đường siêu việt. Tâm đường thẳng nói chuyện như thế này: “Đây là một đối cực, kia là một đối cực nữa. Giữa hai đối cực có một thang điểm, có nhiều sắc thái khác nhau từ màu đen qua đủ các sắc xám ngày càng nhạt hơn cho đến khi bạn có màu trắng. Khi Phật dạy về Trung đạo, nhất định phải có nghĩa là trung điểm giữa hai đối cực.”

Và người ta lý giải: “Ồ đúng rồi, tôi cần phải nhịn không làm điều sai và tôi cần thực hành pháp tu, nhưng tôi không thể bỏ ra quá nhiều thì giở tu tập đến độ tôi không còn tham gia vào cuộc sống bình thường năng động được nữa. Tôi phải tìm ra một thế cân bằng.” Đây không phải là một cách tiếp cận hoàn toàn vô giá trị, nhưng có một cách hiểu cao hơn. Trung đạo trong nghĩa nguyên thủy, ngay cả trong cách biểu đạt nguyên thủy của nó, không phải là con đường chính giữa. Đó không phải là trung điểm giữa hai đối cực. Đó là con Đường Cao hơn, con Đường Thăng vượt, con Đường Siêu việt. Là con đường vượt khỏi không chỉ hai đối cực mà toàn bộ thang điểm nhị nguyên giữa cả hai, tất cả mọi sắc đậm nhạt giữa cả hai. Cho đến giờ thày đã nói là tâm nhị nguyên quy định hai cực đối lập, nhưng tâm nhị nguyên hoàn toàn có khả năng quy định một vùng xám với những độ xám khác nhau giữa hai cực. Toàn bộ thang điểm này, không chỉ hai đối cực mà cả những sắc thái khác nhau cùng với điểm chính giữa, vẫn do tâm nhị nguyên quy định.

Hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời

Vậy thế nào là con Đường Cao hơn để tiếp cận hành động? À một lần nữa đó là tìm cách gia tăng khả năng trực giác để chạm được phần nào những gì đã được ghi vào Kế hoạch Trọn đời của con. Như thày đã có nói, vào lúc con lập ra Kế hoạch Trọn đời, có thể con đã quyết định là có một trải nghiệm nào đó con có thể có trên trái đất mà con chưa chán chê – như thể con cần trải nghiệm nó cho thỏa thuê tới mức con hoàn toàn chán chê, và nhờ vậy con có thể giải quyết toàn bộ ham muốn này và buông bỏ nó. Con thăng vượt hoạt động đó, ham muốn đó, trải nghiệm đó. Nhưng bây giờ khi con bước vào đầu thai, con đã quên mất. Con tìm thấy một giáo lý tâm linh bảo rằng chính cái sinh hoạt mà con muốn nếm thoả thuê cho tới mức chán ngán, là không tâm linh. Và vì vậy con phải kiêng khem không được làm. Con buộc mình phải nhịn hẳn sinh hoạt đó, và kết quả là gì? Con không đạt được tiến bộ mà con đã trù liệu trong Kế hoạch Trọn đời của con.

Thày đang nói gì ở đây? Thày đang nói là con không thể lập ra một thang điểm vỏ ngoài rồi bảo: “Đây là cách một người tâm linh phải hành động, và kia là những hành động mà một người tâm linh không bao giờ được làm.” Chẳng hạn: “Một người tâm linh phải sống độc thân và kiêng quan hệ tình dục.” Nhiều người tâm linh, đặc biệt trong truyền thống Phật giáo, đã lý luận kiểu đó. Nếu ham muốn trải nghiệm tình dục là dính mắc cuối cùng ngăn cản con nhập niết bàn, thì làm như vậy sẽ cản trở bước tiến của con. Đương nhiên tự ngã có thể dễ dàng dùng điểm này như một cái cớ và nói: “Ồ lời dạy này nghe hay quá. Có nghĩa là tôi có thể làm bất cứ chuyện gì tôi muốn. Có lẽ chăng trải nghiệm này nằm trong Kế hoạch Trọn đời của tôi?” Tất nhiên, làm như vậy chỉ là rơi vào cực đoan ngược lại. Tất cả là vấn đề sử dụng trực giác của con để phát hiện chính xác những gì chính con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của con. Những gì người khác nói hay đặt vào Kế hoạch Trọn đời của họ thật không quan trọng gì. Con cần khám phá chính con đã ghi gì trong Kế hoạch của con và con có thể làm vậy qua trực giác. Một lần nữa, bằng cách dùng những dụng cụ này để nâng cao nhận biết, khắc phục các khuôn nếp và chuyển hóa năng lượng thấp, con sẽ có được một tầm nhìn sáng suốt.  

Kế hoạch Trọn đời của con neo trụ ở đâu? À, nó thật sự neo trụ nơi cái ta cao của con. Kế hoạch Trọn đời của con có thể được xem như một quyển sách hay ít ra một tấm bảng trên kia ở một cõi có năng lượng cao hơn. Cách duy nhất con có thể thấy nó là nhìn từ tâm ý thức xuyên qua các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Nhưng nếu các thể này chất đầy những năng lượng thấp, những ảo tưởng của Maya, thì con sẽ không thể nhìn thấy tấm bảng đó, hay ít ra con không thể đọc được.

Khi con bắt đầu dọn dẹp rác rưởi trong các thể cao hơn, loại bỏ Maya, làm sạch năng lượng, thì một cách tự nhiên con sẽ có thể bắt đầu hé nhìn thấy Kế hoạch Trọn đời. Do đó con có thể bắt đầu nhìn ra thế cân bằng cá nhân của con là gì, những hoạt động nào con nên tham gia mà con đã muốn tham gia để khắc phục chúng và được giải thoát khỏi chúng.

Tất nhiên một khía cạnh khác trong Kế hoạch Trọn đời là con muốn đóng góp vào sự thăng tiến của cuộc sống trên trái đất, của tâm thức tập thể, của hoàn cảnh nhân loại. Một lần nữa, nhiều người tâm linh đã đặt ra chuẩn mực quy định sự đóng góp này phải như thế nào. Thường thường có thể là họ tham gia vào công việc từ thiện hay họ thực hành pháp tu tâm linh của họ vì đây là cách họ có thể thay đổi thế giới. Điều này không hẳn là sai, nhưng liệu có phải là điều chính con đã định ra trong Kế hoạch Trọn đời của con không? Mặc dù con là một người tâm linh, có thể có một đóng góp cụ thể mà con muốn cống hiến trong một lãnh vực thế tục nào đó. Con muốn đưa ra một ý tưởng mới nhằm đề xướng một cải tiến nào đó chẳng hạn trong lãnh vực kinh doanh, giáo dục, chăm sóc sức khỏe hay nhiều thứ khác. Có lẽ con muốn viết một quyển sách đặc biệt để giúp một số người đạt sáng ngộ. Có thể là nhiều thứ khác nhau. Có muôn ngàn chuyện mà con đã có thể quyết định muốn làm nhưng lại không được hầu hết các phong trào tôn giáo hay tâm linh định nghĩa là việc làm tâm linh, chính vì họ đã mang sẵn quy chuẩn kia. Một lần nữa, con có thể bỏ lỡ cơ hội mà con đã đặt vào Kế hoạch Trọn đời của mình, và điều này sẽ không giúp con tăng triển tâm linh cho dù con đã thực hành những pháp tu được thiết kế để giúp con tăng triển tâm linh. Nó sẽ giúp con cảm thấy mình tâm linh hơn, mình tinh tiến hơn, nhưng điều này không phải là tăng triển tâm linh, như thày hy vọng đã giảng rõ rồi.

Làm hay không làm đều không đủ

Có rất nhiều khía cạnh ở đây cần được cân nhắc nhưng không bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Kỳ thực, chính tâm vỏ ngoài đường thẳng mới thường ngăn cản con hòa điệu với Kế hoạch Trọn đời của con qua trực giác. Con cần vô hiệu hóa tâm vỏ ngoài đường thẳng này, nó luôn luôn muốn lập ra chuẩn mực có hai đối cực đúng-sai, nó bảo tất cả những gì con cần làm là làm cái này mà không làm cái kia và như thế con sẽ đạt mục tiêu. Vì lý do gì con sẽ không đạt được mục tiêu bằng cách làm những việc tâm linh và nhịn không làm những việc phi tâm linh?

Thày đã nói mục tiêu là gì? Giác ngộ là gì? Đó là một mức nhận biết cao hơn. Làm thế nào con sẽ đạt được mức nhận biết cao hơn? Chỉ bằng cách, duy chỉ bằng một cách là thăng vượt mức nhận biết hiện tại của con và cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con vươn tới ít nhất những tầng ờ các giai đoạn khởi đầu của giác ngộ. Khi con làm hay nhịn không làm những việc vỏ ngoài, điều này sẽ không tự động chuyển đổi mức nhận biết của con. Trên thực tế, nhiều người tâm linh đã chui vào rồi bị kẹt lại trong một ngõ cụt, và cách duy nhất để họ tiến bước là chất vấn chính cái chuẩn mực về tâm linh và phi tâm linh, trong hành động, trong lời nói, trong ý định, trong toàn bộ cái nhìn của họ về cuộc sống.

Thày có nói là con sống trong một thế giới bất ổn, rằng con không thể nào sống sót về mặt tâm lý, cho nên để sống sót con phải kìm nén một số cảm xúc, một số ý tưởng, một số xung lực ở tầng bản sắc, hầu con tìm được một thế quân bình và một cảm giác liên tục nào đó. Việc kìm nén cần thiết cho sự sống còn ở một tầng nào đó, nhưng kìm nén cũng trở thành cái bẫy chủ chốt – Maya, tấm màn của Maya – sẽ giam giữ con người trong Biển Luân hồi. Do tấm màn ảo tưởng, con người không thấy được là nội dung trong chính tâm họ sản xuất ra trải nghiệm mà họ đang có về cuộc sống. Cho nên cách duy nhất để thay đổi trải nghiệm cuộc sống là thay đổi nội dung trong tâm họ, chứ không phải một cái gì ở ngoài họ ngay cả ở mức hành động.

Con cần lượng định lại các hành động dựa theo ảnh hưởng của chúng trên trình độ tâm thức của con. Rõ ràng có một số hành động sẽ kéo thấp mức tâm thức của con. Và một trong những hành động phổ biến nhất là ma túy, rượu và các chất gây say khác. Tại Ấn Độ đã có một truyền thống khá lâu đời là một số người – thậm chí họ còn tự xưng là swami hay yogi – sử dụng nhiều loại ma túy và cho đây là cách đạt được tiến bộ tâm linh. Nếu có một chất vật lý nào có thể đưa con đến giác ngộ thì tại sao lại có truyền thống hàng ngàn năm trời của các vị thày tâm linh giảng dạy pháp tu khó khăn kia thay vì chỉ cứ giản dị sử dụng chất đó? Đấy, có lẽ là vì các vị thày tâm linh này biết rõ ma túy là một ngõ cụt. Nó cho con một cảm giác, có thể nó khiến con nghĩ vì con có một số trải nghiệm cho nên nhất định con phải là người tâm linh. Nhưng không có gì con có thể làm cho bộ não vật lý sẽ nâng cao mức tâm thức của con. Trái lại nó có thể hạ thấp mức tâm thức của con, hay ít ra ngăn con vươn lên cao hơn vì con bị kẹt lại ở một tầng nhất định.

Nếu con cứ tiếp tục làm vậy thì quả thực nó sẽ kéo thấp mức tâm thức của con xuống, vì sẽ tới một điểm sau khi con dùng ma túy một thời gian, con bắt đầu trực nhận trong nội tâm là con không thể tiếp tục như vậy được nữa, con cần bước tới vì con đang không tăng triển. Như thày vừa nói, điều này gia tăng sự căng thẳng. Bây giờ nếu con phớt lờ cảm giác này và cứ nhất định làm tiếp – hay con tiếp tục ăn cắp, lừa gạt người ta hay bất kỳ thói nào khác – thì chỉ có một chuyện có thể xảy ra. Con sẽ phủ nhận mãnh liệt hơn, và chính việc gia tăng phủ nhận sẽ hạ thấp trạng thái tâm thức của con. Cho nên con bước xuống các bực thang tâm thức khi sự phủ nhận càng ngày càng sâu đậm hơn.

Có những hành động khác cũng có thể đem lại tác động tương tự nhưng lại được nhiều người tâm linh liệt vào loại việc làm tâm linh, thậm chí còn thánh thiện nữa. Ngày nay không còn nhiều thông tin về hoàn cảnh thực tế mà thày đã gặp phải trong tư cách là Phật cách đây nhiều thế kỷ. Thày đã gặp khá nhiều sự chống đối từ các nhà Bà la môn đạo Hindu, họ cho rằng họ có độc quyền giảng dạy tâm linh ở vùng này của nước Ấn. Họ rất coi trọng các loại nghi lễ vỏ ngoài. Ngày nay con cũng thấy rất nhiều lễ hội, có những nghi lễ người ta đi vào đền thờ, được một tu sĩ rưới nước trái cây lên người hay bất cứ việc gì khác, và điều này được cho là sẽ trợ giúp tiến bộ tâm linh. Tất nhiên đó là vì các nhà Bà la môn đã tự đặt minh làm kẻ trung gian giữa quần chúng và cõi tâm linh, hay các vị thần được mô tả trong đạo Hindu. Cũng giống như các chức sắc giáo hội vào thời Giê-su cũng định nghĩa một tôn giáo dạy rằng cách duy nhất để đến với Thượng đế là qua trung gian hội thánh cùng các tu sĩ, thành phần tu sĩ của giáo hội. Giê-su bị kết án tử hình và hành quyết là vì thày đã thách thức quan điểm đó với lời dạy rằng Nước Trời ở ngay trong con.

Trong tinh túy, nói rằng Nước Trời ở ngay trong con cũng giống như nói rằng mọi thứ đều là Phật tánh và mọi người đều có tiềm năng vươn lên quả vị Phật. Đây chính là điều mà các tu sĩ của một tôn giáo có tổ chức không thể chịu nổi. Họ đã dựng lên quan niệm là qua những hành động được tôn giáo vỏ ngoài quy định và việc kiêng khem những loại hành động khác, thì đảm bảo con sẽ được cứu rỗi, con sẽ được lên niết bàn hay bất cứ tên gọi nào khác. Đây là một động lượng vô cùng lâu đời trên trái đất, một động lượng rất mạnh mẽ trong tâm thức tập thể. Rất, rất nhiều người tin như vậy. Tại sao họ tin vào điều đó? Vì nó cho họ một cái cớ để họ không nhìn vào chính tâm họ cùng tâm lý của họ.

Nỗi sợ những gì nằm trong tâm tiềm thức

Tại sao họ không muốn nhìn vào? Vì họ sợ những gì họ có thể tìm thấy trong đó. Điều này con sẽ không hiểu nổi nếu con không hiểu về luân hồi. Con thử nhìn trường hợp đứa bé kia lớn lên tại một trong những nền dân chủ thịnh vượng hiện đại mà xem. Nhìn từ mọi khía cạnh, đứa bé này đã được hưởng một sự nuôi dạy lý tưởng với cả cha lẫn mẹ thương yêu nó, có thày giáo tốt ở trường học, anh chị em cũng tốt bụng. Nói chung nó có những điều kiện tốt nhất mà một người có thể mong muốn, nhưng nó lại mắc phải những chứng bệnh tâm lý trầm trọng đến độ nó không thể hoạt động bình thường trong xã hội. Có vấn đề gì trong cách nuôi dưỡng hay trong gen của nó hay không? Không ai trong gia đình nó có xu hướng mắc bệnh tâm lý cho nên không thể quy cho di truyền được. Trong suốt tuổi ấu thơ nó không bị chấn thương, cho nên cũng không thể quy cho cách nuôi dạy. Làm thế nào con giải thích được tại sao một đứa bé lớn lên trong hoàn cảnh lý tưởng lại mắc phải một chứng bệnh tâm lý ngặt nghèo đến thế? Chỉ có một cách giải thích là trong tiền kiếp, nó đã trải qua chấn thương trầm trọng.

Con hãy nhìn bao nhiêu cuộc chiến đã diễn ra chỉ trong một thế kỷ qua. Bao nhiêu người đã phải chịu cảnh chiến tranh? Bây giờ khi họ tái đầu thai, họ mang chấn thương này trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc. Rất nhiều người trong thế giới ngày nay đã đầu thai lại nhiều lần cho nên họ đã hứng chịu đủ loại chấn thương, nhưng chính họ cũng đã làm nhiều chuyện rất ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình, dựa trên ảo tưởng họ là những sinh thể tách biệt, và những gì họ gây cho người khác sẽ không ảnh hưởng gì đến họ, hay ít ra nếu họ không phải chịu hậu quả vật lý trực tiếp thì hình như họ đã tránh khỏi tội tày trời. Nếu họ không bị bắt thì hình như họ đã thoát được hình phạt. Bây giờ họ hiện thân trong thời đại tân tiến, một trong những biến chuyển to lớn đã xảy ra trong tâm thức tập thể trong mấy thế kỷ qua là rất, rất nhiều người hơn trước bắt đầu lo việc cải sửa tâm lý, như chữa lành tâm lý, đón nhận nhiều loại giáo lý tâm linh, từ yoga qua thiền chánh niệm cho đến đủ loại liệu pháp khác nhau. Cho nên họ đã khởi sự làm việc trên tâm lý của họ.

Có một động lượng đang lớn mạnh trong tâm thức tập thể xem việc tu sửa tâm lý là bình thường, tự nhiên, cần thiết, xây dựng. Trên thế giới có một nhóm người rất đông không chỉ mang theo chấn thương từ tiền kiếp, mà họ cũng mang theo sự nhận biết là họ đã làm những chuyện mà đúng lý họ không nên làm. Và họ không muốn nhìn vào những cái đó. Họ không muốn xem xét tâm lý của họ vì họ sợ họ có thể tìm thấy điều gì trong đó. Họ sợ bị choáng ngợp đến độ không thể hoạt động bình thường được nữa. Những người đó muốn gì? Họ muốn con đường tự động, họ muốn có ai đó hứa hẹn với họ: “Con hãy tuyên bố Giê-su Ki-tô là Chúa, là Đấng Cứu rỗi, thì bảo đảm con sẽ được cứu rỗi,” hay “Bạn hãy gia nhập môn phái Phật giáo này, học tập các giáo lý này, thực hành các pháp tu này thì bảo đảm bạn được cứu rỗi,” hay “Bạn hãy làm bài tập này, quỳ lạy trên sàn, quỳ lạy đủ 10 ngàn lần trong kiếp này thì bảo đảm bạn được nhập niết bàn.” Đó là điều người ta muốn.

Vậy một lần nữa, đâu là cách nhìn cao hơn về hành động? Đó là con nói: “Việc này sẽ tác động đến tâm thức của tôi như thế nào? Không những nó có nâng cao mức tâm thức của tôi hay không, mà khi tôi làm một hành động thì phản ứng của tôi là gì? Phản ứng tâm lý của tôi là gì? Nó khởi lên những gì trong tâm lý tôi? Cái gì đang bị khuấy động?” Rồi con dùng đó như một cơ hội để nhận ra chính vì con là một sinh thể tâm linh, vì con muốn tăng triển tâm linh, cho nên con đã tự đặt mình vào những tình huống sẽ buộc con – nếu có thể nói như vậy – làm một số hành động để khuấy động những điểm chưa giải quyết trong tâm lý của con. Đó là một cơ hội để con nhìn ra một điểm chưa giải quyết, con xử lý nó và nhờ vậy con tinh tiến, con bước lên cao hơn. Thêm một bực nữa trên chiếc cầu thang. Nếu con xem mình là một người tâm linh, con cần thực hiện cuộc xoay chuyển này để con sẵn lòng làm công việc này, con ngộ ra sự cần thiết của công việc này, và con bỏ hẳn giấc mộng kia về con đường tự động. Con cần quan sát phản ứng của con khi con nghe những ý tưởng này và nhìn thấy lực kháng cự trong con đang không muốn xem xét chính mình.

Hành động không thể đưa con vào Niết bàn

Sau đó con có thể đi thêm một bước liên quan đến hành động. Trong giới mộ đạo truyền thống có nhiều người sẽ bảo rằng nếu con làm một số chuyện thì hành động của con sẽ kết án con xuống địa ngục. Nếu con giết một người hay thậm chí nhiều người, con sẽ bị đọa xuống địa ngục. Một lần nữa, đây lại là lối suy nghĩ nhị nguyên. Con đang định ra một đối cực nhị nguyên. Có một thiên đàng, có một địa ngục, và liệu con đi đến nơi này hay nơi kia tùy thuộc vào hành động của con. Một số hành động sẽ đày con xuống địa ngục, một số hành động khác sẽ bảo đảm đưa con lên thiên đàng. Một lần nữa có một động lượng mạnh mẽ trong tâm thức tập thể khiến người ta muốn tin vào chuyện đó, ít ra nếu những người này đã kiêng cữ không làm những việc đưa xuống địa ngục. Thật không có cơ sở thực tế nào trong chuyện này.

Thày không hề phủ nhận là có một tầng cõi vượt khỏi vũ trụ vật chất, vượt cả bốn tầng của vũ trụ vật chất. Thày không phủ nhận là con người có khả năng vươn lên tầng cõi đó để được giải thoát khỏi bánh xe sinh tử – con không phải trở lại hiện thân mà sẽ vĩnh viễn thăng khỏi trái đất. Tầng cõi này có đó, đó là một tiềm năng, nhưng đó không phải là cái những người mộ đạo gọi là thiên đàng. Sự khác biệt giữa cõi con đang sống và cõi cao hơn kia – mà thày không muốn dùng ngôn từ để mô tả – sự khác biệt giữa cõi hiện hữu của con bây giờ trên trái đất và tầng cõi cao hơn là mức độ tâm thức. Không phải các hành động của con sẽ quyết định con có thể thoát khỏi trái đất và vươn lên cõi cao kia nơi không còn xung đột, không còn Biển Luân hồi như trên trái đất. Điều duy nhất sẽ quyết định là mức độ tâm thức của con.

Hãy thử lấy một ví dụ cùng cực, con hãy tự hỏi loại sinh thể nào có thể bước vào cõi cao đó? Hãy thật cụ thể. Giáo hội Công giáo có dạy về thiên đàng và những tín đồ Công giáo ngoan đạo đảm bảo được lên thiên đàng. Con có thực sự hình dung được một người Công giáo trung bình tồn tại ở một cõi cao được cho là thiên giới hay chăng? Thử lấy một vị linh mục Công giáo. Từ một góc nhìn vỏ ngoài về hành động, thật con không thể tìm được ai tốt đẹp hơn một linh mục Công giáo. Nhưng nếu như vị này đã lạm dụng trẻ em thì sao? Ông là một kẻ đạo đức giả vì ông giả vờ là một linh mục và một người của Chúa, nhưng ông lại xâm hại trẻ em. Liệu con có thể nào hình dung một người như vậy được bảo đảm lên thiên đàng ở mức tâm thức đã khiến ông xâm hại trẻ em? Có thể nào không? Có thể tưởng tượng được không? Đối với những ai đã kích hoạt trực giác thì chắc chắn không thể. Con sẽ lập tức nhìn ra là tuyệt đại đa số mọi người trên trái đất không thể lên thiên đàng hay nhập niết bàn với mức tâm thức hiện thời của họ.

Điều này liên quan thế nào với hành động? À, nhiều người rất lo sợ khi họ tin vào luân hồi, là có thể họ đã làm một việc gì đó trong kiếp trước sẽ ngăn họ không lên được thiên đàng hay niết bàn, cho dù họ định nghĩa là gì. Sau đây là sự thật giản dị mà thày đã cố giải thích cách đây 2500 năm nhưng thày sẽ trao cho con dưới một hình thức trực tiếp hơn nữa. Không có hành động nào con có thể làm trên trái đất sẽ đưa con lên thiên đàng, và không có hành động nào con có thể làm trên trái đất sẽ ngăn con khỏi thiên đàng. Tại sao? Vì hành động không phải là yếu tố quyết định con có lên thiên đàng hay không, mà là mức tâm thức của con. Tất nhiên, một hành động tuôn ra từ một mức tâm thức nào đó. Nếu con đã làm một hành động thì nó cho thấy là it ra trong tiền kiếp đó khi con đã hành động như vậy – hay ngay cả trong kiếp này – con đã ở mức tâm thức đó, và mức tâm thức này sẽ giữ con ở ngoài thiên đàng.

Nếu con là một người tâm linh, con không cần sợ xem xét tâm lý của mình. Bởi vì cho dù con đã làm gì đi nữa trong một kiếp trước, con vẫn có thể khắc phục hậu quả của hành động bằng cách thăng vượt mức tâm thức đã tạo ra hành động. Vũ trụ, Thượng đế, hay bất cứ gì con có thể tưởng tượng, không quan tâm đến những hành động con làm trên trái đất. Quan tâm duy nhất là trình độ tâm thức của con. Thật chẳng quan trọng gì nếu trong một tiền kiếp con đã làm gì đó bị quy định là phi tâm linh hay phản tâm linh. Nếu con đã thăng vượt mức tâm thức này, hay nếu con sẵn lòng thăng vượt tâm thức này ngay bây giờ, thì con có thể và con sẽ thoát ra khỏi hành động. Cho nên con sẽ tiến bộ trên đường tâm linh dựa trên những tiến bộ con đạt được trong tâm thức của con. Hành động không phải là yếu tố quyết định mà là mức tâm thức. Và một khi con đã thăng vượt mức tâm thức thì con không cần cảm thấy tội lỗi về những việc con đã làm.

Nghiệp quả vận hành thực sự như thế nào

Con có thể được lợi lạc từ việc thỉnh cầu năng lượng cao để nó biến hóa xung lực năng lượng do hành động tạo ra, là điều mà nhiều người gọi là nghiệp. Con có khả năng chuyển hóa nghiệp quả – nếu con đã giải quyết tâm thức. Cũng có thể nói là khi con làm một hành động, con gửi một xung lực vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, và khi nó đi lên tầng bản sắc, nó được phản chiếu lại cho con, đi vào thể bản sắc của con. Đây là một xung lực năng lượng. Năng lượng làm gì? Nó tạo ra những mô thức giao thoa với năng lượng ở xấp xỉ cùng độ rung. Nếu con chưa thăng vượt tâm thức đã khiến con hành động như vậy, nếu con vẫn còn một số ảo tưởng và niềm tin chưa giải quyết trong thể bản sắc của con, năng lượng nghiệp báo sẽ tương tác với những thứ này, sẽ được tăng cường bởi những thứ này. Có nghĩa là nghiệp báo bây giờ đi xuống thể lý trí dưới một dạng tăng cường. Nếu trong thể lý trí con vẫn còn những khuôn nếp và niềm tin, nó sẽ lại tương tác với chúng và được tăng cường thêm nữa. Rồi nó đi vào thể cảm xúc, và nếu con vẫn còn khuôn nếp cảm xúc chưa giải quyết, nó lại được củng cố thêm, cho nên khi nó băng qua lằn ranh của cõi vật lý, rất có thể nó sẽ thị hiện như một hậu quả dữ dội.

Nhiều người tin vào nghiệp quả tin rằng nếu con đã giết ai đó trong một kiếp trước, quả báo có thể khiến con bị giết hại trong kiếp này. Không có gì con làm có thể ngăn chặn được sự kiện này vì con đã tạo nghiệp và giờ đây nghiệp phải giáng xuống với kết quả là con bị giết. Điều này chỉ đúng nếu con chưa thăng vượt tâm thức. Nếu con đã thăng vượt tâm thức ở tầng bản sắc, nghiệp báo có thể quay trở lại nhưng không có gì để nó tương tác, không có gì để nó gia tăng. Kỳ thực nếu con đã tạo ra những khuôn nếp cao hơn hay đã tự giải phóng khỏi ảo tưởng và thỉnh cầu năng lượng, nghiệp báo có thể suy giảm.

Đến khi nó xuống đến thể lý trí và nếu con đã thăng vượt các khuôn nếp lý trí, cũng lại không có gì tăng cường cho nó và nó suy giảm thêm. Điều tương tự lại xảy ra ở thể cảm xúc, cho nên khi nó xuống đến thể vật lý, có thể nó đã được chuyển hóa toàn diện thành một độ năng lượng cao hơn, hay nó chỉ thị hiện dưới một dạng nhẹ hơn rất nhiều. Thay vì bị giết, có thể con chỉ gây cho mình một thương tích ngoài da.

Như ngành vật lý hiện đại cho thấy, hành động gắn liền với phản ứng. Không có hành động mà không có phản ứng, nhưng cũng không có phản ứng mà không có hành động. Tất cả buộc chặt với nhau trong lý duyên khởi. Con có thể nói: “Tôi đã làm một hành động vật lý. Hành động này tạo ra một phản ứng từ người khác, và phản ứng đã ảnh hưởng đến tôi.” Hay có lẽ nó không ảnh hưởng đến con vì con đã tránh né được, nhưng nó vẫn tạo ra một phản ứng trong bốn tầng của vũ trụ vật chất. Nó cũng tạo ra một phản ứng trong tâm con. Thật ra hành động đi theo một tiến trình trong tâm con. Nếu con bị kẹt trong Maya và các ảo tưởng, trong một trạng thái tâm thức tách biệt, trong tâm nhị nguyên, rất có thể hành động của con đã khởi lên từ các khuôn nếp phản ứng có mặt trong ba tâm cao của con. Cho mỗi hành động đều có một phản ứng, nhưng con có khả năng thăng vượt, biến hóa phản ứng từ tấm gương vũ trụ bằng cách thăng vượt cái tâm thức đã dẫn đến hành động.

Có rất nhiều người tin vào nghiệp quả, tin đó là một sự trừng phạt, nhưng thật sự nghiệp quả không phải là trừng phạt. Đó là một cơ hội. Thày đã nói gì về mục đích cuộc sống? Là để tăng triển nhận biết của con. Làm thế nào con tăng triển nhận biết? Bằng cách nhìn ra điều gì đang cầm giữ con lại ở mức nhận biết hiện thời, khiến con không thể thăng vượt và vươn lên mức cao hơn. Nếu con không nhìn ra thì làm sao con thăng vượt đây? Đôi khi con có thể cố tình nhìn và con thấy, nhưng khi khác con không cố tình nhìn. Thế rồi một tình huống bên ngoài buộc con phải nhìn thấy nó bằng cách tạo ra một phản ứng trong con. Đấy, đó là điều nghiệp quả vốn làm. Luật nghiệp quả bảo rằng con đang làm một hành động. Con giết một người – một sự vi phạm nghiêm trọng đối với quyền tự quyết của họ cũng như quyền được có cơ hội tăng triển. Nếu luật nghiệp quả trải bày tức khắc, con sẽ bị giết ngay lập tức, nhưng điều này có nghĩa là con sẽ đi ra ngoài hiện thân. Nếu con không bị giết ngay lập tức, con sẽ phải sống phần còn lại của kiếp này biết rằng mình đã giết một người.

Và điều này cho con một cơ hội để con xử lý nó trong kiếp sống đó. Trong những kiếp tiếp theo, có thể con không nhớ lại một cách ý thức, nhưng con vẫn mang cái tâm lý, các khuôn nếp trong tâm lý đã khiến con giết người. Con vẫn có cơ hội nhìn ra cái đó, xử lý nó và khắc phục nó. Mấy kiếp sau, xung lực nghiệp quả quay trở lại. Đây không phải là một trừng phạt mà là một cơ hội. Nếu con chưa thăng vượt tâm thức, xung lực nghiệp quả sẽ khuấy động tâm thức đó lên, ngay cả khi không có một tình huống bên ngoài kích động. Có thể con không ở trong một hoàn cảnh bị thúc giục giết người, nhưng xung lực nghiệp quả quay trở về các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con sẽ khuấy động những gì chưa được giải quyết, để con kinh nghiệm nó và được thêm cơ hội xem xét nó trước khi nghiệp quả trở thành vật lý.

Nếu con không sẵn lòng xem xét nó, nghiệp quả sẽ trở thành vật lý, và giờ đây con hứng chịu một hậu quả vật lý mà con không thể phủ nhận. Nhưng trước khi con phải chịu hậu quả vật lý không thể phủ nhận này, con đã có một cơ hội để chuyển hóa trạng thái tâm thức của con. Con chỉ phải chịu hậu quả vật lý nếu con không sử dụng cơ hội. Vậy đâu là trừng phạt chứ? Mọi sự đều là cơ hội. Đây là điều con có thể neo trụ vào và chấp nhận một cách ý thức. Con có thể tự hỏi, con có thể dùng trực giác mà hỏi: “Đâu là cơ hội ở đây? Tôi cần nhìn ra điều gì trong tình huống này? Có điều gì trong tâm lý mà tôi cần giải quyết để thăng vượt hoàn cảnh này, sử dụng hoàn cảnh này như một bàn đạp để vươn lên cao hơn trên con đường Bát chánh đạo?”  

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn cho con về hành động. Thày niêm con trong niềm vui của Phật biết rằng thày đã chọn một hành động cao hơn khi trao truyền lời dạy này.

7 | Lời nói cao hơn cần năng lượng cao hơn

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 7 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Đề tài tiếp theo mà chúng ta cần bàn đến ở đây là khái niệm lời nói cao hơn. Một lần nữa, nhiều Phật tử đã nhìn vào khái niệm này, lấy cách dịch “Chánh ngữ” và tìm cách định nghĩa thế nào là lời nói chân chính và thế nào là lời nói bất chính. Như thày đã có giảng, đây không phải là cách tiếp cận cao nhất. Làm thế nào vươn lên cao hơn?

À, con không thể thấu triệt khái niệm lời nói cao mà không hiểu về năng lượng. Phải công nhận đây là một điều khó giải thích cho con người 2500 năm về trước, nhưng với tiến bộ của khoa học hiện đại, việc này đã dễ dàng hơn. Như đã có đề cập, Albert Einstein đã chứng minh là thực sự thế giới được cấu tạo bằng năng lượng. Có nghĩa gì? Có nghĩa là tất cả mọi thứ con làm đều được làm với năng lượng. Con không thể cảm xúc, con không thể suy nghĩ, con không thể cầm giữ một ý niệm bản sắc, con không thể nói năng và con không thể hành động mà không sử dụng năng lượng. Thày cũng biết là nhiều người nhận thức được là cơ thể của họ cần đến năng lượng, và họ nghĩ họ lấy năng lượng từ thức ăn, có lẽ từ ánh sáng mặt trời, cũng có thể từ việc hít thở không khí, nhưng đây chỉ là khía cạnh vật lý của năng lượng.

Tất nhiên điều đó không liên quan gì lắm đến lời nói, lời nói cao hơn. Để nắm bắt khái niệm lời nói cao, con cần nhận ra năng lượng là một tấm thảm liên tục những rung động. Có những năng lượng cấu tạo cái con gọi là cõi vật chất, nhưng còn nhiều rung động năng lượng khác nữa. Con biết qua khoa học là người ta có cách đo những rung động năng lượng không thể nào phát hiện bằng giác quan vật lý. Có một dạng năng lượng rung động trong phạm vi cái chúng ta có thể gọi là phổ tần số vật lý, nhưng vượt ngoài phạm vi này là một dạng năng lượng rung động trong phổ tần số cảm xúc, rồi có một dạng năng lượng lý trí, và cuối cùng là năng lượng rung động ở tầng bản sắc, tức là tầng cao nhất trong vũ trụ vật chất. Vượt ngoài những cái đó tất nhiên có cõi tâm linh với những rung động còn cao hơn nữa, vượt khỏi khả năng đo đạc của các loại dụng cụ vật lý.

Có thể con chưa biết điều này, nhưng có sự giới hạn trong những gì các dụng cụ làm bằng vật chất có thể đo lường. Cũng ví như một kính hiển vi quang học không thể nhìn thấy hạt nào nhỏ hơn bước sóng của ánh sáng khả kiến (wavelength of visible light), và đó là lý do người ta đã chế tạo loại kính hiển vi điện tử để phát hiện những hạt nhỏ hơn. Tương tự như thế, có thể có những dụng cụ khác được chế tạo để đo rung động cao hơn, và một số dụng cụ như vậy đã được sáng chế, tuy nhiên có một giới hạn trong khả năng đo đạc của những dụng cụ làm từ cõi vật chất. Cho nên con sẽ không thể nào tạo ra một dụng cụ có khả năng chứng minh sự hiện hữu của một cõi tâm linh vượt khỏi cõi vật chất. Đơn giản là không thể. Tuy vậy, những năng lượng này có thật.

7.1. Tâm đường thẳng, tâm trực giác và sự khách quan

Bây giờ con có thể nhìn sang những gì các nhà khoa học đã khám phá khi họ đưa ra thuyết Big Bang (vụ Nổ Lớn). Họ bảo là vào thuở Big Bang thật sự không có vật chất theo cách con hiểu vật chất hôm nay, vì mọi thứ đều là năng lượng bị dồn nén trong một điểm cực nhỏ gọi là điểm dị biệt (singularity). Quan niệm này về điểm dị biệt thật ra là do tâm đường thẳng mà có, và chúng ta cần nói lướt qua về vấn đề này. Thày có nói là tâm đường thẳng nhìn vào một hiện tượng xảy ra trong hiện tại, nó nhìn vào sự phức tạp đang có mặt ngay bây giờ, nhưng nó muốn gỡ nhỏ và bảo rằng sự phức tạp đến từ một trạng thái đơn giản hơn chỉ tuân theo một vài định luật tự nhiên giản dị. Cho nên nếu con cứ tiếp tục đi ngược về các trạng thái thấp hơn hay cơ bản hơn, cuối cùng con sẽ lần đến cuối đường dây nơi con tìm thấy nguyên nhân ban đầu.

Theo khoa học, đây là điểm dị biệt có mặt trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ngay trước Big Bang. Không ai thực sự giải thích được một điểm dị biệt là gì. Không ai thực sự giải thích được làm thế nào toàn bộ năng lượng được tạo ra trong vũ trụ mênh mông bát ngát này có thể dồn nén lại thành một điểm độc nhất. Đây là một thuyết do tâm đường thẳng dựng lên bảo rằng con phải có thể đi ngược trở lại những giai đoạn đơn giản hơn, cơ bản hơn, cho đến khi con chạm được giai đoạn nguyên thủy, nguyên nhân đầu tiên. Cũng giống như bảo rằng ở một thời điểm quá khứ, trong canh súp ban sơ có một tia sét đánh và sinh vật đơn bào đầu tiên xuất hiện. Nhưng đây có thật là cách  hiểu duy nhất không? Đối với tâm đường thẳng thì đây là cách hiểu duy nhất, nhưng đối với tâm không đường thẳng thì sao? Ngày nay càng ngày càng có nhiều người ý thức được trực giác. Càng ngày càng có nhiều người nghiệm ra trực giác chỉ đơn giản là một phương pháp khảo sát thế giới nơi mình đang sống, và trực giác cũng có thể sáng giá và chính đáng như tâm phân tích đường thẳng.

Sở dĩ xã hội hiện đại ngày nay phần nào bị bế tắc về mặt phát triển, gây ra biết bao vấn nạn chẳng hạn với môi trường, là vì các nhà chủ nghĩa duy vật khi họ chiếm lãnh nền khoa học đã muốn bác bỏ vai trò của tâm thức. Họ muốn bác bỏ trực giác vì họ quyết đoán trực giác là chủ quan, không đáng tin cậy, và chỉ có tâm thuần trí, đường thẳng, lô-gíc mới có thể khách quan, đáng tin cậy. Đây là một quyết đoán giả tạo đã gây ra những hậu quả sâu rộng trong xã hội hiện đại cũng như rất nhiều vấn nạn mà con thấy dường như không có giải pháp. Họ không đem lại giải pháp nào với tâm đường thẳng, vì một lần nữa tâm đường thẳng chỉ có thể suy nghĩ trong sự phân biệt so sánh, chỉ có thể nhìn cuộc sống theo cách phân tích tạo ra đối cực nhị nguyên, rồi hàm ý một sự phán xét giá trị. Một khi con rơi vào phán xét giá trị thì con đã khép tâm con lại.   

Ban đầu khoa học đã là một tiến trình khách quan nhằm quan sát những gì có thể được quan sát. Thay vì cho rằng một học thuyết hay một giáo điều có thể mô tả vũ trụ chính xác mặc dù sự quan sát đi ngược lại học thuyết, thì con người đã sẵn lòng nhìn vào những gì thực sự xảy ra. Đây là một nỗ lực nhằm thiết lập một phương thức khách quan để tiếp cận thế giới. Đây là một phương thức chính đáng nhưng vẫn chỉ là một mặt của đồng tiền – đồng tiền những khả năng của tâm. Trực giác cũng là một phương thức để bước ra khỏi sự chủ quan. Khi con có trải nghiệm mà thày đã mô tả, khi cái ta, cái Ta Biết bước ra ngoài các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, đó là một trải nghiệm khách quan. Việc trải nghiệm trực giác có thể có giá trị y như việc sử dụng lô-gíc và phân tích, nhưng các nhà khoa học lại quyết định chỉ có tâm thuần trí mới đáng tin cậy. Họ đã tìm cách loại bỏ trực giác, tuyên bố là nó chủ quan, trong khi tâm thuần trí thì không chủ quan. Tất nhiên đây là một lời tuyên bố giới hạn, vì con làm gì với cả hai loại tâm đó? Cho dù con dùng lô-gíc và lý luận hay con dùng trực giác thì con vẫn đang có một trải nghiệm trực tiếp về một điều gì vượt khỏi mức nhận biết bình thường của con.

Câu hỏi trở thành như sau: Vậy liệu con có sẵn lòng, khi con trở về mức nhận biết bình thường của mình, sử dụng trải nghiệm đó để tra vấn sự nhận biết của mình, tra vấn tâm mình? Hay con sẽ cố diễn giải trải nghiệm xuyên qua mức tâm thức hiện thời của con vì con muốn nó ăn khớp với phin lọc nhận thức, với hộp tư duy mà con đang có? Các nhà khoa học diễn giải các quan sát khoa học nhiều khi không trung lập hay khách quan. Chắc chắn họ không trung lập hay khách quan nếu họ là những nhà chủ nghĩa duy vật tiếp cận khoa học theo ý thức hệ. Họ sẵn có ý về cách họ muốn vũ trụ phải vận hành ra sao, xong họ áp chồng ý này lên quan sát khoa học vì họ nhất định sự quan sát phải ăn khớp với hệ thống tư tưởng của họ.

7.2. Một giải pháp trực nhận cho thuyết Big Bang

Đó là cách họ đã tạo ra thuyết Big Bang. Phải có sự khởi đầu ở đâu đó, và nếu con dùng tâm đường thẳng để đi đến vật nhỏ nhất con có thể tưởng tượng, thì con sẽ đến một cái gì tâm không thể tưởng tượng nhưng tâm có thể dán nhãn và gọi đó là một điểm dị biệt. Có ai biết cái đó là gì không? À, nhưng con hãy thử dùng tâm trực giác và nói: Big Bang – hay đúng hơn, quá trình thị hiện của vũ trụ vật chất – đã không khởi đầu với một điểm dị biệt. Nó đã khởi đầu với một cánh cửa mở ra giữa phổ tần số vật chất và phổ tần số nằm ngay bên trên, một độ rung cao hơn vượt quá phổ tần số vật chất. Không cần thiết là toàn bộ năng lượng của vũ trụ hiện hữu bị dồn nén lại trong một điểm độc nhất, bởi vì chuyện này rõ ràng không thể xảy ra. Điều cần thiết duy nhất là có một cửa mở giữa cõi cao hơn và cõi vật chất để năng lượng tuôn xuống qua cửa mở này.

Bây giờ, tất nhiên vẫn còn khái niệm giả tạo là nếu cửa chỉ mở ra ở đúng một điểm, thì sẽ khó lòng tưởng tượng nguyên vũ trụ rộng lớn này có thể khởi đầu ở một điểm độc nhất. Nếu như không phải vậy thì sao? Nếu như thay vào đó có rất nhiều cửa mở thì sao?Thay vì mọi thứ phải chui qua cái lỗ nhỏ độc nhất đó, nếu như có một lượng năng lượng rất lớn được giảm độ rung từ phổ tần số cao hơn xuống phổ tần số của vũ trụ vật chất thì sao? Nói cách khác, một sự thị hiện đồng bộ, một sự hòa nhập đồng bộ của năng lượng đi vào phổ vật chất, không từ một điểm độc nhất mà từ nhiều điểm.

Nếu vậy thì con không cần đến điểm dị biệt nữa. Bây giờ tất nhiên, tâm đường thẳng sẽ cãi: Chứng minh đi! Và thày sẽ nói: Con hãy dùng trực giác của con thì con sẽ trải nghiệm được sự thật. Làm sao thày diễn tả được đây? Vì tâm con có tiềm năng trở thành một điểm vào, một điểm tiếp nhận năng lượng đến từ cõi cao. Thật ra nếu tâm con không có khả năng này thì con đã không thể có ý thức. Từ ngày chủ nghĩa duy vật lên ngôi, các khoa học gia đã cố loại trừ tâm thức ra khỏi các nghiên cứu khoa học, bảo rằng: “Chúng tôi không cần nghiên cứu tâm thức làm gì vì tâm thức chỉ có thể chủ quan.”

Một nhà khoa học giỏi sẽ biết rõ các dụng cụ mình dùng, sẽ sẵn lòng xem xét những hạn chế của dụng cụ. Các nhà khoa học đã có thể dùng kính hiển vi quang học để quan sát hạt nhỏ nhất họ có thể quan sát nhưng vẫn lớn hơn bước sóng của ánh sáng khả kiến. Nếu họ có cùng tư duy như những nhà duy vật kia thì họ đã có thể quả quyết: “Không có gì nhỏ hơn hạt nhỏ nhất này. Không thể có gì nhỏ hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy qua kính hiển vi quang học này.” Con cần biết hạn chế của dụng cụ con dùng để con biết liệu con có đang quan sát chính xác hay không. À, đâu là dụng cụ cơ bản mà các nhà khoa học sử dụng? Đó là tâm họ. Không những họ dùng tâm họ để xây dựng lý thuyết hầu chế tạo dụng cụ quan sát, mà họ cũng dùng tâm họ để diễn giải các quan sát đó.

7.3. Sự mở rộng nhận biết dẫn đến kiến thức mới

Bây giờ con có thể trở ngược về 2500 năm trước khi thày hiện thân trên trái đất và con người không có nhận thức về bất cứ chuyện gì vượt ngoài khả năng giác quan của họ. Nhiều người không biết là trong cơ thể họ có những bộ phận, Chắc chắn họ không biết đến tế bào, phân tử, nguyên tử, hạ nguyên tử. Họ có thể quan sát năng lượng như ánh sáng mặt trời, nhưng họ thật không có khái niệm về năng lượng. Họ cũng không có khái niệm về rung động, tần số, bước sóng, biên độ. Ngay cả khái niệm về sóng năng lượng họ cũng không có. Họ có thể nhìn thấy sóng trên mặt nước nhưng họ không quan niệm được sóng năng lượng. Không có cách chi giải thích được cho họ. Kỳ thực, không có cách chi các nhà khoa học có thể xây dựng các thuyết hiện thời dựa trên những gì con người hiểu biết vào thời đó.

Điều gì đã xảy từ thuở đó? Nhân loại đã mở rộng nhận biết của mình, không những dựa trên khám phá mới mà cũng nhờ việc hình thành khái niệm mới. Ngày nay con người có nhiều khái niệm hơn hẳn cách đây 2500 năm, và đây là tại sao con người có thể giải thích những chuyện không thể nào giải thích trước đây. Một điều các nhà khoa học không ý thức là cách họ hình thành khái niệm có tác động đến cách họ nhìn toàn bộ vấn đề. Nó tác động đến các lý thuyết mà họ có thể xây dựng, các dụng cụ mà họ nghĩ họ sẽ chế tạo, các đo đạc mà họ nghĩ họ sẽ đo đạc, cũng như cách họ diễn giải các đo đạc đó.

7.4. Cái gọi là lưỡng tính sóng-hạt

Con cũng biết nếu con đã học môn này là trong khoa vật lý lượng tử có một hiện tượng gọi là lưỡng tính sóng-hạt (wave-particle duality). À, hạt là gì chứ? Hạt là một khái niệm đã khởi đầu trong cái tâm sử dụng giác quan để nhìn thế giới, để trải nghiệm thế giới. Mắt con có thể nhìn thấy một quả bóng bi-a, nó có thể nhìn thấy những vật nhỏ hơn rất nhiều xuống đến hạt cát. Cho nên con mang khái niệm về hạt là một hạt khả kiến, rồi khái niệm này được các nhà khoa học dùng tâm đường thẳng nới rộng ra, bảo rằng chắc phải có những hạt càng ngày càng nhỏ hơn cho đến hạt nhỏ nhất có thể. Đây là cái mà người Hy Lạp cổ gọi là nguyên tử, nghĩa là hạt bất khả phân chia. Rồi tới thời điểm các nhà khoa học hiện đại phát hiện cái họ nghĩ là hạt nhỏ nhất không thể phân chia thì họ cũng gọi là nguyên tử. Nhưng sau đó, họ khám phá là nguyên tử thật ra có thể được phân chia và có những hạt nhỏ hơn nữa – thường gọi là hạt hạ nguyên tử với những cái tên khác nhau.

Các thí nghiệm cho thấy là nếu con quan sát hiện tượng hạ nguyên tử này theo một cách nào đó thì nó cư xử như một hạt, nhưng nếu con quan sát theo cách khác, nó sẽ cư xử như một sóng. Cho nên các nhà khoa học nghĩ ra cái tên “lưỡng tính hạt-sóng”, xem như đây là một trong vài bí ẩn còn sót lại trong ngành vật lý hiện đại. Nhưng lưỡng tính hạt-sóng là kết quả của việc lấy một khái niệm vĩ mô (macroscopic) có thể được phát hiện bằng giác quan, rồi phóng chiếu nó lên thế giới vi mô (microscopic) không thể phát hiện bằng giác quan. Nếu con lấy thuyết của Einstein, thuyết này nói rằng mọi vật chất đều thực sự là năng lượng và năng lượng là sóng, thì làm gì có chuyện có hạt nào nhỏ nhất. Kỳ thực ở mức hạ nguyên tử, không hề có hạt nào mà con có thể nhận thức là hạt bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Đây chỉ là một ví dụ cho thấy các khái niệm mà con mang trong tâm ảnh hưởng như thế nào đến cách con nhìn thế giới, đến những kết luận mà con rút tỉa, và do đó đến những trải nghiệm mà con có về thế giới.

7.5. Quan niệm một Thượng đế cá nhân

Có rất rất nhiều người cởi mở với một giáo lý tâm linh nghĩ rằng giáo lý tâm linh có thể cho họ sáng ngộ về cách vận hành của thế giới. Hiển nhiên nhiều giáo lý làm công việc này, nhưng nhiều người cũng hy vọng là giáo lý tâm linh có thể giúp họ thay đổi hoàn cảnh vật lý của họ. Họ tìm kiếm một loại đũa thần được cài đặt trong giáo lý để họ có thể thay đổi hoàn cảnh vật lý. Ví dụ điển hình là người ta dựng lên ý tưởng là ở một cõi cao trên kia có một vị Thượng đế mà họ nghĩ là một ông già ngồi trên ngai trắng vĩ đại, đang nhìn xuống cá nhân họ và đánh giá từng việc họ làm là đúng hay sai theo quy chuẩn tối thượng của ngài.

Nếu con làm theo những gì Thượng đế này bảo là đúng – hay đúng hơn những gì mà một con người, một tu sĩ thuộc nhân gian, một nhà Bà la môn, đã quy định là đúng dưới mắt Thượng đế – thì con sẽ được tưởng thưởng và được lên thiên đàng. Còn nếu con không nghe theo các nhà Bà la môn của tôn giáo con thì con sẽ bị trừng phạt đày xuống địa ngục. Niềm hy vọng ẩn chứa trong thế giới quan này là bằng cách làm những điều được tôn giáo mình quy định, con có thể dụ dỗ vị Thượng đế cá nhân này ban cho con một số ân huệ, lấy đi một số trải nghiệm khó chịu và cho con những gì con mong muốn.

Tất nhiên đây là một niềm tin có từ cổ xưa và nhiều người đã sống bao nhiêu kiếp sống với niềm tin đó. Nhiều người thời nay từng sống với niềm tin này nhiều kiếp đến độ họ phải từ bỏ nó vì họ nhận ra là nó không hiệu nghiệm – ít ra là không có cách nào khiến cho nó hiệu nghiệm mỗi lần. Họ bước vào đầu thai trong thời đại hôm nay với một lòng ngờ vực sâu sắc đối với các tôn giáo truyền thống dạy về một Thượng đế sẽ toại nguyện mọi ước muốn. Lý do là vì họ trải nghiệm là mặc dù niềm tin này cho họ niềm hy vọng, nhưng rốt cuộc đây là một hệ thống tín ngưỡng tước đi quyền năng (disempowering). Bởi vì nếu Thượng đế này không đáp ứng nỗ lực ảnh hưởng ngài làm theo ý muốn của họ, thì họ sẽ chẳng làm gì được. Họ bị kẹt cứng, theo nghĩa đen. Họ bị tước mất quyền năng.

7.6. Một giáo lý tâm linh trao quyền năng

Lý do cách đây 2500 năm thày đã không nói đến một cõi tâm linh hay thần linh là vì thày muốn cho con người một phương pháp, một lời dạy trao quyền năng (empowering) cho con. Thế nào là trao quyền năng? Là con nhận ra sự kiện thày vừa nhắc đến lúc nãy. Tâm con có ý thức là do có một luồng năng lượng từ một cõi cao hơn đi vào tâm con. Năng lượng này đến từ cái ta cao của con – mà chúng ta không cần đào sâu ở đây – nhưng trước tiên nó đi vào tâm bản sắc của con. Ở đây năng lượng được phú cho đặc tính, hay nó khoác lấy hình dạng các hình ảnh con cầm giữ trong tâm bản sắc. Điều này khiến cho năng lượng mang đặc tính, cho nên nó khoác vào một hình tướng nào đó. Con có thể so sánh với một chiếc kính vạn hoa với nhiều lớp hạt màu khác nhau, và khi ánh sáng đi qua lớp hạt màu đầu tiên, nó khoác vào màu sắc đó, rồi cứ vậy nó đi qua các lớp màu tiếp theo.

Trước hết con có tâm bản sắc và ở đây con có ý niệm của con về con người mà con là cùng những gì con có thể làm. Nếu con cảm nhận mình là một sinh thể thụ động không có quyền năng thì đây là đặc tính mà năng lượng sẽ khoác vào khi nó đi vào tâm bản sắc của con. Rồi năng lượng đi qua tâm lý trí nơi con có thể có một số tin tưởng khác gây giới hạn – giới hạn những gì con có thể làm hay không thể làm – và bây giờ năng lượng khoác vào những đặc tính này. Cuối cùng nó đi vào tâm cảm xúc nơi con có thể có một số khuôn nếp xúc cảm như sợ hãi, nghi ngờ hay bất cứ gì khác, và một lần nữa điều này lại phú thêm đặc tính cho năng lượng. Thế rồi năng lượng đi vào tâm ý thức của con, khoác vào bất kỳ tin tưởng nào con có ở mức ý thức.

Con làm gì với tất cả năng lượng này? À, con dùng nó để suy nghĩ, để bày tỏ cảm xúc, con dùng nó để thốt ra lời nói, và con dùng nó để hành động, những hành động vật lý. Đây không phải là tất cả những gì con làm. Tâm con kỳ thực là một máy chiếu tương tự như máy chiếu phim trong rạp xi-nê. Nhưng thay vì chỉ có một cuộn phim độc nhất, nó có tới bốn cuộn phim, một cuộn cho mỗi thể trong số bốn thể phàm của con. Xuyên qua bốn tầng của tâm con, con liên tục chiếu phim vào năng lượng cấu tạo vũ trụ vật chất.

7.7. Tấm gương vũ trụ

Con có thể – và một số các con đã nghe các thày đề cập trước đây – con có thể so sánh vũ trụ vật chất với một tấm gương. Những gì con phóng chiếu ra ngoài bằng tâm con sẽ được tấm gương phản chiếu lại. Có nghĩa gì? À, đây thực sự là ý nghĩa sâu sắc hơn của lời dạy mà thày đã trao truyền 2500 năm trước về lý duyên khởi.

Tất cả mọi thứ trong thế giới vật lý trên hành tinh địa cầu được cấu tạo bằng bốn tầng này: tầng vật lý, tầng cảm xúc, tầng lý trí và tầng bản sắc. Vũ trụ vật chất có bốn tầng và mọi thứ biểu hiện ở tầng vật lý đều là sự phóng chiếu của những hình ảnh nơi ba tầng cao hơn. Tầng vật lý giống như một màn ảnh xi-nê có những hình ảnh được phóng chiếu lên đó xuyên qua máy chiếu. Tuy nhiên, vũ trụ vật lý có sự nối kết với tâm con người. Con người là những sinh thể đồng sáng tạo. Có một số sinh thể tự nhận biết đã tạo ra hành tinh địa cầu từ bên ngoài, nhưng con người là những sinh thể đồng sáng tạo tạo ra hành tinh địa cầu từ bên trong. Con làm việc này xuyên qua tâm con bằng cách cho phép năng lượng chảy qua tâm khoác vào các hình ảnh, các hình tư tưởng trong tâm, và phóng chiếu chúng vào tấm gương vũ trụ, phóng chiếu chúng vào năng lượng cấu tạo bốn tầng. Đây là ý nghĩa sâu xa hơn của lý duyên khởi đã không thể được giải thích 2500 năm về trước, nhưng có thể được giải thích ngày hôm nay ở một mức dễ nắm bắt hơn nhờ hiểu biết hiện thời về năng lượng.

Con thấy đó, con sống trong một hệ thống duyên khởi, một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Đúng là có một hành tinh vật lý có thực – chúng ta có thể tranh luận nó thực đến chừng nào, nhưng ngay bây giờ thì không phải là chuyện thích đáng nhất. Đúng là có một hành tinh vật lý có thực, nhưng hành tinh vật lý này là một phóng chiếu từ ba tầng cao hơn. Nói cách khác như thày đã giảng về Big Bang, thay vì toàn bộ năng lượng cấu tạo vũ trụ hiện thời bị dồn ép vào một điểm dị biệt, đã có một thời điểm khi vũ trụ không thị hiện vì không có năng lượng nào trong phổ rung động vật lý. Tất cả năng lượng đều nằm ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Rồi tới một điểm đã có một sự phóng chiếu đưa năng lượng vào phổ vật lý. Việc này không xảy ra ở một điểm độc nhất mà ở nhiều điểm, và những điểm này quy định một khoảng không gian là không gian nguyên thủy.

Năng lượng đã tiếp tục xối xuống cho tới khi nó bắt đầu kết tụ thành các hạt vật lý, xong các hạt này ngày càng phức tạp hơn, có tổ chức hơn, cho đến khi tất cả mọi thiên hà được hình thành như con thấy được ngày hôm nay – hay đúng hơn, còn nhiều thiên hà hơn nữa mà con chưa thấy được ngày hôm nay do vũ trụ quá vĩ đại. Đây đã là một quá trình xảy ra từ bên ngoài, nhưng về cơ bản, nó cũng xảy ra theo cùng một cách như con đồng sáng tạo, nghĩa là năng lượng được phép chảy qua bốn tầng của tâm cho đến khi nó được đưa vào phổ vật lý.

7.8. Một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau

Vậy ở đây con có một hệ thống phụ thuộc lẫn nhau. Có bốn tầng trong cái chúng ta có thể gọi là vũ trụ vật chất, nhưng ở trong vũ trụ vật chất này có nhiều sinh thể tự nhận biết cá biệt, những con người, mỗi người với tâm cá biệt hiện hữu trong trường năng lượng rộng lớn hơn của cõi vật chất. Con có một tâm ý thức, một tâm cảm xúc, lý trí, bản sắc. Xa hơn, tất cả những tâm con người cá biệt này đều nối kết, hình thành cái chúng ta có thể gọi là tâm tập thể. Khoa học thậm chí đã khám phá là khi một số biến cố xảy ra, có một sự mạch lạc gắn kết trong tâm tập thể, và điều này ảnh hưởng đến các bộ sinh số ngẫu nhiên (random number generator). Thày không đang cố chứng minh một điều gì cho tâm đường thẳng mà chỉ muốn khích động trải nghiệm trực nhận của con.

Mọi thứ con làm đều được làm với năng lượng, nhưng con không là một hòn đảo. Ngay cả trường năng lượng của con cũng không là một hòn đảo vì con hiện hữu trong tổng thể này, một tổng thể duyên khởi. Tại sao nó lại trao quyền năng cho con, ngược lại với tước quyền năng? Bởi vì các tình huống vật lý của con liên kết với các tình huống trong bốn tầng tâm con. Chúng là những phóng chiếu. Phải, hoàn toàn đúng là các tình huống vật lý của con không chỉ là sản phẩm của sự phóng chiếu từ riêng tâm con. Chúng cũng là sản phẩm do tác động liên kết của tâm tập thể và tất nhiên cả sự phóng chiếu nguyên thủy đã tạo ra hành tinh.

Đây không phải là một niềm tin thần diệu vào một Thượng đề toại nguyện mọi ước muốn, có uy lực gạt qua bên quyền tự quyết của tám tỷ con người hầu ban cho con đúng những hoàn cảnh mà con muốn, vì như vậy là tước quyền năng. Nhưng nếu như Thượng đế không làm vậy thì sao, vì trong hầu hết trường hợp ngài sẽ không làm vậy? Với hiểu biết này, con có thể nhìn theo cách trao quyền năng và nói: “Có thể tôi không thể thay đổi từng khía cạnh trong hoàn cảnh vật lý của tôi, nhưng tôi có khả năng thay đổi một số bằng cách thay đổi những gì tôi phóng chiếu qua tâm tôi. Dù có tình huống vật lý tôi không thể thay đổi theo cách này, nhưng chắc chắn tôi có thể thay đổi cách tôi trải nghiệm nó, thay đổi cách tôi phản ứng với nó. Kỳ thực, tôi có thể đạt tới điểm tôi tự do chọn lựa, hoặc chọn một cách phản ứng xây dựng hơn, hoặc chọn không phản ứng gì cả.”

Đây là trao quyền năng. Và mặc dù thày đã không thể giải thích điều này cách đây 2500 năm, đó vẫn là điều thày đã cố giải thích. Chìa khóa để chuyển đổi bất kỳ khía cạnh nào của đời con là khởi sự thay đổi chính tâm con, nâng cao mức tâm thức của con. Đây là tinh túy của Bát chánh đạo. Con đi qua tám giai đoạn hay tám bước, qua đó con lần hồi nâng cao mức tâm thức của mình.

7.9. Lời nói và năng lượng

Vậy tất cả những điều vừa rồi liên quan thế nào với lời nói và lời nói cao hơn? Ấy, lời nói là một cách sử dụng năng lượng. Mỗi khi con mở miệng thốt ra âm thanh, con đang dùng năng lượng. Tuy nhiên, ngay cả khi con im lặng trong tâm bản sắc, lý trí và cảm xúc, thì con vẫn đang phóng chiếu, nhưng những phóng chiếu này không có tác động trực tiếp ở tầng vật lý như khi con hành động vật lý hay khi con phát biểu. Nói cách khác, khi con tạo ra một tác động có thể được quan sát bởi giác quan vật lý, điều này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp hơn ở tầng vật lý so với khi con phóng chiếu từ một trong ba tầng cao.

Giọng nói là một dụng cụ đầy quyền năng có thể được dùng để phú đặc tính cho năng lượng, và con sẽ không bao giờ hiểu được khái niệm Chánh ngữ – hay như thày chọn diễn tả ở đây: lời nói cao – nếu con không hiểu là giọng nói của con chuyên chở và định đoạt tính chất của năng lượng. Năng lượng này sẽ tác động đến người khác, hoàn cảnh vật lý của con lẫn chính con.

Có thể con đã ý thức điều này vì con đã quan sát là nhiều lần con có thể có những cảm xúc mãnh liệt, thì con cảm được trong trường năng lượng của con có một sự xáo trộn. Có thể con không ý thức lắm về trường năng lượng của mình, nhưng con có thể cảm thấy có gì đó đang xảy ra. Nếu con rất tức giận, nó gần như có thể biến thành một hiệu ứng tự tăng cường, một vòng xoáy hướng hạ. Một khi con băng qua một lằn ranh nào đó, con mất hết tự chủ. Thường thường con biểu lộ nỗi giận qua giọng nói của mình và nó cuốn hút con vào một cơn lốc, một vòng xoáy đi xuống có thể rất khó lòng nào thoát khỏi. Có thể con đã quan sát sự giận dữ nơi người khác hay con đã trải nghiệm nơi chính con. Tất nhiên còn có nhiều loại cơn lốc hay vòng xoáy khác có thể khống chế con, và đây chỉ là một ví dụ về cách con sử dụng năng lượng. Con khiến cho năng lượng mang một sắc thái nào đó và nó tác động trực tiếp đến trạng thái tâm con.

Để biểu hiện lời nói cao hơn, con cần ý thức làm thế nào giọng nói của con phú cho năng lượng một đặc tính và phóng chiếu năng lượng. Con cần không làm vậy một cách đường thẳng, lý luận. Luôn luôn có cám dỗ muốn xử lý một cách đường thẳng, và đây là một chuyện khả dĩ. Hiện nay người ta đã có những dụng cụ có thể đo đạc giọng nói con người cùng sự rung động trong giọng nói con người. Con có thể dùng dụng cụ này nếu muốn, hầu lập ra một thang điểm đường thẳng, rõ ràng, có thể phát hiện những loại rung động khác nhau do giọng nói tạo ra. Một số người đã thử nghiệm điều này, chẳng hạn con thấy những nhà khoa học thí nghiệm ảnh hưởng của âm thanh trên đống cát đặt trên một tấm kính hay những loại dụng cụ tương tự. Điểm đáng nói là thay vì giàn dựng việc này theo kiểu phân tích, điều sẽ thực sự hữu ích cho con là con trau dồi khả năng trực nhận những gì đang diễn ra trong chính trường năng lượng của con khi con dùng giọng nói.    

7.10. Âm thanh ảnh hưởng trường năng lượng của con như thế nào

Con cũng biết là nếu ai đó nổi giận la hét với con, điều này tác động đến con. Lý do là vì họ đang phóng chiếu năng lượng mang một rung động đặc thù nào đó vào cảm thể của con. Mọi năng lượng đều có khả năng tương tác với những hình dạng năng lượng khác. Nếu con có một số khuôn nếp đặc thù trong thể cảm xúc và nếu người kia tức giận với con, nó sẽ khuấy động các khuôn nếp này. Chẳng hạn chính con cũng có thể nổi giận theo. Hoặc con có thể xấu hổ hay buồn phiền vì cảm thấy mình có lỗi khi người kia la hét buộc tội mình.

Điều này con có thể sử dụng. Con đã có khả năng này rồi nhưng con có thể tinh luyện và phát triển thêm nữa để con cảm rõ là có những loại lời nói phú cho năng lượng một đặc tính rung động thấp. Về cơ bản có hai loại rung động. Có rung động dựa trên tình thương, có rung động dựa trên sợ hãi. Có rung động cao hơn, có rung động thấp hơn. Con có thể học cách cảm nhận được điều này. Thật đơn giản, con trụ vào tim ngay trung tâm lồng ngực và con tự hỏi: “Tôi cảm thấy năng lượng đang cao hơn hay thấp hơn? Nó có nâng cao năng lượng của tôi chăng? Hay nó kéo thấp năng lượng của tôi xuống?” Con sẽ có thể cảm được là nếu có ai la mắng con thì năng lượng của con bị kéo thấp xuống, Và nếu có ai nói chuyện với con một cách tích cực, thương yêu, thì năng lượng của con được nâng lên.

Đây là những tiêu chí mà hầu hết người tâm linh đều có thể phát triển khá nhanh chóng. Tất nhiên một số đã làm vậy rồi. Con có thể lượng định mình sử dụng lời nói như thế nào và người khác sử dụng lời nói như thế nào. Điều này sẽ cho con một tiêu chí để lượng định: “Liệu đây có phải là loại lời nói tôi muốn tham gia vào không? Liệu tôi có muốn tạo ra những xung lực năng lượng thấp kém phóng về người khác?” Bởi vì dù con có gửi ra những gì, và cho dù con nghĩ con chỉ hướng nó về đúng một người và trong phòng này không có ai khác và không ai khác có thể nghe thấy con, thì bất cứ gì con gửi ra tấm gương vũ trụ vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, cái đó sẽ trở về với con.   

7.11. Nghiệp thật ra là xung lực năng lượng

Đó là một cách để giải thích quan niệm cổ xưa về nghiệp (karma). Nghiệp là khi con dùng bốn thể phàm của con để phóng chiếu một xung lực năng lượng vào bốn tầng của vũ trụ vật chất. Xung lực năng lượng này khởi đầu nơi thể bản sắc của con, đi vào thể lý trí, vào thể cảm xúc, vào thể vật lý rồi được phóng ra ngoài. Trước tiên nó đi vào cõi vật lý, đi lên cõi cảm xúc, rồi cõi lý trí, rồi cõi bản sắc. Ở đây, nếu đó là một năng lượng dựa trên sợ hãi, nó không thể đi xa hơn, nó bị phản chiếu lại bởi cái thày đã gọi là tấm gương vũ trụ, và như vậy nó bắt đầu đập lại chính con, đầu tiên ở thể bản sắc, rồi thể lý trí, rồi thể cảm xúc, rồi thể vật lý. Đây là điều các tôn giáo và triết lý phương Đông gọi là nghiệp. Giản dị đó chỉ là sự phản hồi về chính con của năng lượng mà con đã gửi ra.

Bây giờ nếu như con phú cho năng lượng một rung động cao hơn, một rung động yêu thương thì chuyện gì xảy ra? À, cùng điều đó lại xảy ra. Nó lại đi xuyên qua bốn thể trong tâm con, đi vào bốn tầng của vũ trụ. Khi nó lên đến tầng bản sắc, rung động cao sẽ không bị chặn lại và phản chiếu trở về con. Kỳ thực nó sẽ vượt ra khỏi cõi vật chất, đi vào cõi cao hơn đến cái ta cao của con. Giờ đây con sẽ nhận được nhiều năng lượng hơn với rung động cao từ cái ta cao của con, khiến cho các khả năng sáng tạo của con gia tăng, năng lực tinh thần của con cũng gia tăng. Nó cũng giúp nâng cao tâm thức của con. Nói cách khác, khi con phú cho năng lượng một rung động thấp, năng lượng này được gửi trả lại cho con với rung động thấp. Khi con phú cho nó một rung động cao, nó được gửi trả lại cho con với rung động cao đó, nhưng nhiều hơn và mãnh liệt hơn. “Người nào đã có, sẽ nhận được nhiều hơn.” Đây là ý tưởng về các ta-lăng được nhân lên gấp bội mà Giê-su đã mô tả trong một truyện ngụ ngôn.

Vậy chúng ta cũng có thể hỏi: “Tại sao cuộc sống trên trái đất lại đau khổ? Tại sao lại có Biển Luân hồi?” Đấy, bởi vì trái đất là một hệ thống năng lượng, nhưng hiện nay phần lớn năng lượng trong hệ thống này bị tha hóa bởi một rung động thấp kém dựa trên sợ hãi. Có quá nhiều năng lượng sợ hãi trong hệ thống năng lượng và tâm thức tập thể, đến độ nó thường khiến cho tâm con người bị quá tải và con người bị đau khổ, cảm thấy buồn phiền, bất lực, tuyệt vọng, oán giận và đủ mọi thứ khác. Tất cả những cảm xúc thấp này liên quan đến sự kiện năng lượng trong tâm thức tập thể làm choáng ngợp trường năng lượng cá nhân của mỗi người. Phương thức để thoát khỏi sự thể này là đổ đầy trường năng lượng cá nhân của con với những năng lượng cao, rung động cao, và thanh lọc các rung động thấp khỏi trường năng lượng cá nhân của con.

Con thấy đó, thày có giảng là nếu con gửi ra một xung lực dựa trên sợ hãi, nó sẽ được gửi trả về cho con, nhưng tác dụng sẽ ra sao trên trường năng lượng của con? Tác dụng là sẽ có sự phản ứng lại, sự khuấy động, sự tăng cường các năng lượng thấp vốn có trong năng trường của con. Con trở nên căng thẳng hơn, bực dọc hơn, sợ hãi hơn. Nếu con loại bỏ năng lượng vốn có trong năng trường của con và cũng loại bỏ các khuôn nếp phản ứng đã khiến con tha hóa năng lượng với lòng sợ hãi, thì sẽ chẳng có gì để năng lượng tương tác với. Xong nếu con đổ đầy năng trường của con với rung động cao, thì khi rung động thấp quay trở lại, chúng sẽ được các rung động cao này biến hóa. Một lần nữa, đây lại là một điểm khó giải thích vào thời của Phật nhưng dễ giải thích ngày hôm nay qua các nguyên tắc động học sóng đơn giản.     

Nếu con hướng một sóng năng lượng với một độ rung nào đó vào một sóng năng lượng khác, sẽ có một mô thức giao thoa giữa hai sóng với kết quả là một sóng thứ ba phối hợp cả hai. Nói cách khác, con có một sóng năng lượng ở tần số thấp, nếu con hướng vào đó một sóng khác có tần số cao hơn, con có thể tạo ra một sóng thứ ba cao hơn sóng đầu tiên nhưng thấp hơn sóng thứ nhì. Kết quả chung cuộc là con đã nâng năng lượng thấp vào một trạng thái cao hơn.

Con thử nghĩ nếu con đã mang một khuôn nếp trong mấy kiếp sống và đã tha hóa năng lượng với lòng giận dữ, và năng lượng này có phần được phóng ra ngoài, có phần tích tụ lại trong trường năng lượng của con, thì con có thể thấy khuôn nếp đó không chỉ là một niềm tin – tin rằng con cần đáp trả bằng sự tức giận hay đây là cách đáp trả duy nhất. Một phần của khuôn nếp chính là năng lượng tác động lên cảm xúc của con, và con càng nhiều năng lượng giận dữ trong cảm thể thì con sẽ càng có xu hướng đáp trả, phản ứng lại bằng sự giận dữ trong đủ loại tình huống khác nhau. Nếu con bỏ được năng lượng này đi, con sẽ dễ nhìn ra khuôn nếp phản ứng hơn, nhìn ra tin tưởng đằng sau khuôn nếp và buông bỏ nó, hầu con được tự do và con vươn lên một mức tâm thức cao hơn, một cấp độ cao hơn trên đường tu.       

7.12. Dùng lời nói để chuyển hóa năng lượng

Tại sao thày lại nói tất cả những điều này khi chủ đề là lời nói? À theo truyền thống, các giáo lý đạo Phật hay các phong trào Phật giáo đã dùng nhiều dụng cụ tâm linh khác nhau để nâng cao tâm thức. Người ta đã dùng thiền quán im lặng, nhưng nhiều người cũng đã dùng pháp tụng niệm, đọc Om, đọc các câu chú hay một số âm tiết, và các pháp này cũng đã được sử dụng trong các truyền thống tâm linh hay nền văn hóa khác. Lý do làm vậy là vì con người từ thuở xưa đã biết sâu trong trực giác là việc sử dụng giọng nói của mình là một cách đầy quyền năng để thỉnh năng lượng có tần số cao và hướng nó vào năng lượng có tần số thấp. Nhờ vậy họ chuyển hóa năng lượng và giải phóng khỏi lực kéo trên tâm họ.

Bây giờ con thấy được là có hai khía cạnh khi con mang những dính mắc mà thày đã nói đến khoảng 2500 năm về trước. Một, con có một tin tưởng là một ảo tưởng, và hai, con có một số năng lượng đã được phú cho một đặc tính xuyên qua tin tưởng đó, và năng lượng này lôi kéo tâm ý thức của con. Nếu con đã tích lũy nhiều năng lượng giận dữ, thật không cần nhiều lắm để kích hoạt phản ứng giận dữ của con trong một số tình huống nhất định. Con có thể nhìn thấy những người với thời gian càng ngày càng có xu hướng phản ứng giận dữ, và lý do đơn giản là vì họ càng ngày càng tích tụ nhiều năng lượng giận dữ hơn trong cảm thể của họ, và nó áp đảo tâm ý thức của họ.

Khi con ý thức được điều này, và bằng cách sử dụng những loại dụng cụ thích hợp để thỉnh năng lượng có tần số cao, con có thể tự giải thoát khỏi lực kéo. Và cách mãnh liệt nhất để thỉnh năng lượng có tần số cao là dùng giọng nói của mình. Tất nhiên con có thể dùng các pháp tụng niệm truyền thống trong đạo Phật, nhưng cũng có những phiên bản hiện đại hơn, có khi gọi là bài chú hay bài thỉnh mà con có thể dùng trong mục đích này. Điều con nhận ra ở đây là ý nghĩa nguyên thủy của khái niệm lời nói, lời nói cao hơn, là con học cách dùng giọng nói của mình, quyền năng của giọng nói, để thỉnh và hướng năng lượng hầu năng lượng dựa trên sợ hãi được biến hóa trở lại thành năng lượng dựa trên tình thương. Khi làm vậy, con giải phóng tâm con để nhìn vào các khuôn nếp và bước lên một tầng cao hơn trên đường tu. Đây là điểm then chốt con cần ngộ ra liên quan đến lời nói.

Nhiều người trong các con đã sẵn cảm thấy là khi mình nói chuyện giận dữ hay bài bác thì năng lượng của mình bị kéo thấp xuống. Khi con nói chuyện tử tế yêu thương, năng lượng của con được nâng lên. Một lần nữa, với thời gian, nhiều Phật tử cũng như nhiều người tâm linh khác đã quyết định bằng tâm vỏ ngoài là trong tư cách người tâm linh, họ phải luôn luôn nói chuyện theo một cách nào đó. Họ phải tránh nói năng giận dữ, họ phải tránh nói to, họ phải luôn luôn ăn nói nhỏ nhẹ tử tế, và họ cho rằng như vậy là đủ, nhưng họ đang làm gì chứ? Họ đang dùng sức mạnh để trấn áp một số hình thức phát biểu và nuôi dưỡng một số hình thức khác.

Thày vừa cho con điều gì ở đây? Một giải pháp khác. Con không dùng sức mạnh để kềm chế xu hướng nói năng giận dữ, mà con dùng giọng nói của mình để chuyển hóa năng lượng đang lôi kéo tâm ý thức của con. Xong con dùng khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm, xem xét các khuôn nếp trong tâm cảm xúc, tâm lý trí và tâm bản sắc, và nhờ vậy con phá tan Maya là ảo tưởng đã tạo ra cái khuôn nếp khiến con phản ứng giận dữ. Con tự giải phóng khỏi lòng giận dữ thay vì dồn nén nó xuống. Đây là một khác biệt to lớn, cốt tủy.

Con có thể cho rằng bằng cách kềm chế mọi phát biểu thiếu hài hòa thì con đã chứng tỏ một sự tiến bộ vượt bực trên đường tu tâm linh, nhưng thày thà thấy con loại bỏ chỉ một khuôn nếp còn hơn là con kềm chế cả trăm khuôn nếp. Ít ra một khuôn nếp này sẽ đưa con lên một bước cao hơn, trong khi việc kềm chế sẽ chỉ khiến con cảm thấy mình không cần bước lên bước nào vì con đã là một đệ tử tâm linh cao cấp quá rồi. Một lần nữa, con có khả năng bước lên cao hơn và nhìn mọi chuyện như một cơ hội. Nhiều người tâm linh đã chấp nhận chuẩn mực quy định mình phải nói năng nhỏ nhẹ, không bao giờ được mất hài hòa, không bao giờ được to tiếng, không bao giờ được cáu kỉnh, và nếu làm vậy thì mình cảm thấy vô cùng xấu hổ và hối hận, mình phải tự khiển trách hay khiển trách người khác.

Thực sự tại sao một vị thày tâm linh lại muốn quan tâm đến cách cư xử như vậy? Đúng, nếu đấy là một khuôn nếp cứ lặp đi lặp lại thì nó thật không xây dựng, nhưng thày vừa nói gì chứ? Con có thể nhìn mọi chuyện xảy ra trong đời con như một cơ hội để nhìn ra một điều gì đó trong tâm thức của con và khắc phục cái đó. Nếu con bị mất hài hòa và phát biểu giận dữ, thật chẳng ích gì mà tự khiển trách hay cảm thấy xấu hổ. Con chỉ bước lui lại và nói: “Ồ, đây là một cơ hội để tôi nhìn ra một khuôn nếp tôi đang có trong tâm tiềm thức. Khuôn nếp này là gì? Tôi sẽ bước vào lòng nó. Tôi bước vào lòng năng lượng, tìm ra cái tin tưởng đằng sau nó, gỡ rối nó cho đến khi tôi nhìn thấy nó.” Đây chính là phương thức xây dựng. Đây là cách cao hơn để dùng lời nói, để nhìn vào lời nói, tiếp cận lời nói.

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn trao về chủ đề này. Cho nên thày sẽ niêm con trong lời nói vui mừng của Phật.

1 | Tiến bước trên con đường tâm linh đòi hỏi con sẵn lòng bị xao động

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng Thiên Phật Gautama. Padmasambhava và thày đã bàn bạc với nhau để xem nên trao truyền điều gì cho các con, những học trò trực tiếp của các thày, ngõ hầu giúp các con trong thời điểm cụ thể này. Các thày cũng xem những gì trao truyền có thể giúp được những ai có tinh thần cởi mở đồng thời giúp cho cả hành tinh này nói chung. Hiển nhiên, nhờ có kết nối internet và cùng đọc các bài chú, bài thỉnh nên các con cũng đang giúp cho hành tinh này rất nhiều.

Giờ đây thày có thể nói gì về cuộc sống trên trái đất mà có ý nghĩa cho đại đa số mọi người? À, thày có thể nói cuộc sống khó khăn và đầy thử thách, hay như cách đây 2500 năm, thày nói về Khổ đế – Chân lý đầu tiên của Tứ diệu đế – rằng cuộc sống là đau khổ. Có lẽ hầu hết mọi người trên trái đất đều đồng ý như vậy. Nếu con bước lùi lại và đặt một câu hỏi khác: “Cuộc sống trên trái đất là gì vậy, có gì có thể so sánh với cuộc sống này không?” vậy thì đây là một cách khả dĩ để trả lời những câu hỏi này.

1.1. Cảm giác khi đầu thai 

Con có biết trước đây người ta có những bộ đồ lặn rất lớn, không thấm nước và khá nặng, gồm một cái mũ bảo hiểm to bằng kim loại có những lỗ nhỏ xíu để nhìn ra ngoài. Thày biết hầu hết các con tất nhiên chưa từng mặc bộ đồ lặn này nhưng dẫu sao con cứ hình dung đang mặc một bộ đồ như vậy và cảm thấy khá gò bó. Bộ đồ vừa nặng, lại kềnh càng, ngay đơ, khó chuyển động trong đó. Tất nhiên sau đó người ta dùng một sợi dây cột con vào một vật cố định trên mặt nước và có một cái vòi dùng để bơm không khí vào cái mũ bảo hiểm. Hãy hình dung chuyện gì xảy ra khi con ở dưới nước trong một bộ đồ như vậy. Bộ đồ đã khiến con cảm thấy gò bó, nhưng khi con xuống dưới nước thì áp suất của nước sẽ tác động lên thân thể con qua áp suất đè lên bộ đồ. Con càng xuống sâu thì áp suất nước càng lớn. Khi con ở trên mặt nước, ít nhất con có thể nhìn khá xa qua những lỗ nhỏ trên mũ bảo hiểm nhưng một khi con đã xuống nước, con không thể nhìn quá xa vì còn tuỳ thuộc vào độ trong của nước. Bây giờ con hãy hình dung để có thể xuống sâu hơn con cần phải đeo những vật nặng. Con có thể cần những đôi giày lặn thật nặng, hoặc chì lặn đeo ở thắt lưng để có thể chìm xuống đáy. Đó, tình trạng này giống như khi một sinh thể tâm linh, một sinh thể phi vật chất, còn gọi là hồn hay bất cứ tên gì mà con muốn gọi, bước vào hiện thân vật lý.

Con không chỉ đang mặc một bộ mà đến bốn bộ đồ lặn. Từ một sinh thể tâm linh đi xuống đầu thai, thoạt tiên con đi xuống một thể mà các thày gọi là thể bản sắc là trụ điểm của bản sắc của con. Bản sắc mà giờ đây con có trong kiếp sống này có thể bị ảnh hưởng rất nhiều bởi môi trường con sinh ra, bởi nền văn hoá, bởi cách mọi người nhìn chính mình và bởi cái mà các thày gọi là tâm thức đại chúng. Con đã được nuôi dạy để xác định mình theo một cách nào đấy.

Đến thể tiếp theo, bộ đồ lặn tiếp theo con mặc vào là thể lý trí, là cách con nhìn cuộc sống, cách con nhìn khía cạnh “như thế nào” của cuộc sống, khác với khía cạnh “là gì” khi con nhìn qua thể bản sắc. Thể lý trí là những điều con có khả năng hay không có khả năng thực hiện, con thực hiện bằng cách nào, và nhiều cách vi tế con nhìn cuộc đời cũng như quy định về con người mình, những chọn lựa, những tuỳ chọn của con là gì.

Nhờ trí thể con có khả năng tranh luận đồng tình hay bác bỏ một quan điểm. Con có thể thấy thể lý trí của những người khác nhau có thể suy ra những kết luận rất khác nhau. Thậm chí người ta có thể nhìn vào cùng một ý tưởng, cùng một bằng chứng, nhưng có người đi đến kết luận không có Thượng đế, không có gì bên ngoài vũ trụ vật chất. Nhưng người khác lại kết luận chắc phải có cái gì đấy nằm ngoài vũ trụ vật chất, và tất nhiên còn vô số những câu hỏi khác mà mọi người không thể đi đến thống nhất. Đây là điều diễn ra rất nhiều trong trí thể, nhưng dĩ nhiên mọi thứ bắt đầu ở bản sắc thể vì có người lớn lên đã chấp nhận bản sắc mình là người sùng đạo, trong khi người khác xem mình là kẻ vô thần hay khoác vào rất nhiều các bản sắc khác nữa.

Thể thứ ba con khoác vào tất nhiên là thể tình cảm là trụ điểm của những cảm xúc của con. Một lần nữa tuỳ vào nơi con lớn lên, con đã được nuôi dạy để khoác vào những khuôn nếp quy định cách phản ứng của mọi người trong nền văn hóa của con đối với một số tình huống nhất định. Có người rất thụ động, họ có xu hướng phục tùng kẻ có thẩm quyền, họ không muốn lấy quyết định, họ có cảm giác mình không được quyền đòi hỏi. Có người lại hung hãn hơn, cảm thấy mình có quyền yêu cầu hay ngay cả áp đặt ý muốn lên người khác. Có người lại cảm thấy có quyền nổi giận, có người lại cảm thấy phải đè nén cảm xúc, không được giận dữ hay bộc lộ bất kỳ cảm xúc nào khác. Một lần nữa con thấy có vô số phản ứng.

Và cuối cùng tất nhiên là thể vật lý, đây là thể gò bó nhất trong bốn thể vì nó dày đặc nhất. Con có thể thấy việc một sinh thể phi vật chất đi vào bốn thể này quả thật rất bị gò ép. Con hiện thân bằng cách khoác vào bốn thể này. Dĩ nhiên đạo Phật và nhiều triết lý tâm linh khắp thế giới công nhận sự đầu thai. Con không chỉ đem vào kiếp sống này nền văn hoá nơi con lớn lên mà con còn đem theo các khuôn nếp bản sắc, lý trí, tình cảm từ các kiếp sống trước và giờ đây con có thể nói rằng cơ thể vật lý là một thân thể mới mỗi lần hiện thân, nhưng một số khuôn nếp từ quá khứ sẽ quyết định cơ thể vật lý kiếp này của con, quyết định sự vận hành và ngay cả xu hướng bệnh tật của nó.

Con thấy là khi con bước lùi lại và nhìn cuộc sống, con có thể nhận thấy một khi con ở bên trong bốn thể này, bốn bộ đồ lặn này, và một khi con đã lặn xuống dưới nước tức tâm thức tập thể hay trường năng lượng của trái đất, thì con không thể không cảm thấy bị gò ép. Đơn giản là không thể khác được. Con không thể đầu thai trên trái đất mà không cảm thấy áp lực rất lớn.

1.2. Nguyên nhân thật sự của khổ đau 

Đấy là ý nghĩa sâu sắc của Khổ đế, rằng cuộc sống là khổ đau. Vì vật chất dày đặc, tâm thức đại chúng dày đặc, vì những xung đột liên tục giữa người với người nên cuộc sống trên một hành tinh như trái đất chính là khổ đau. Con không thể thoát khỏi khổ đau bởi vì đây là môi trường con đang sống. Vậy thì con có thể làm gì? À, dĩ nhiên con có thể làm nhiều việc và các thày cũng đã trao truyền nhiều giáo lý nhưng chúng ta hãy tập trung vào Tập đế – Chân lý thứ nhì của Tứ diệu đế. Đau khổ xuất phát từ cái thường được gọi là ham muốn sai lầm. Tuy nhiên, ý nghĩa sâu sắc hơn, hiểu biết cao hơn đó là không có “sai” ngược lại với “đúng”.

Có một kiểu ham muốn đặc thù gây khổ đau và tất nhiên điều này có thể giảng giải ở nhiều mức độ hiểu khác nhau. Ở đây thày không đang tìm cách bác bỏ cách phần lớn Phật tử đã hiểu giáo pháp của Phật trong suốt 2500 năm qua. Thày không cố nói họ đã hiểu sai, nhưng điều con cần thấy đó là không chỉ trong đạo Phật mà trong hầu hết các tôn giáo khác và ngay cả trong các triết lý phi tôn giáo trên hành tinh này, thì con người có xu hướng xác định cái đúng đối lập với cái sai.

Đây lẽ tất nhiên là bản chất của tâm thức nhị nguyên. Có hai đối cực nhưng chúng không phải chỉ đối lập như trắng và đen. Có một sự phán xét giá trị được gán ghép lên hai đối cực này và điều này có nghĩa là người ta thấy một cực đúng và cực còn lại sai. Tương tự như vậy, nhiều Phật tử xuyên suốt mọi thời đại đã nhìn những ham muốn theo cách này và đã nỗ lực quy định bên này là những ham muốn sai mà Phật nói tới và bên kia là những ham muốn đúng mà Phật nói tới. Nhưng cùng lắm đây cũng chỉ là một mức hiểu biết nông cạn.

Người ta cũng có thể nói đây không phải là lời Phật dạy. Đây không phải là điều Phật đã nói 2500 năm trước vì Phật đã trao truyền những giáo lý về “các cặp” trong kinh Pháp cú. Khi con nói đúng và sai, con đã tạo ra một cặp và chính điều này khiến con rơi vào bẫy của tâm thức nhị nguyên. Quả thật chính trạng thái tâm thức nhị nguyên này là nguyên nhân của khổ đau. Giờ đây thày nói rằng con không thể đầu thai trên một hành tinh như trái đất mà không cảm thấy áp lực này, nhưng đó là vì tâm thức đại chúng trên trái đất bị ảnh hưởng rất mạnh bởi nhị nguyên, bởi các cặp, bởi những đối cực nhị nguyên, bởi những phán xét giá trị: tốt xấu, đúng sai, vân vân.

Dĩ nhiên nhiều người trên thế giới ngày nay sẽ không thể nắm bắt được điều đó. Họ sẽ không thể hiểu thấu nhị nguyên. Đây cũng là lý do tại sao các thày tâm linh luôn phải đối mặt với một số giới hạn. Con hãy quay lại hình ảnh một người mặc bộ đồ lặn, các thày muốn nói con người trên trái đất cũng đang mặc bộ đồ lặn nặng trịch như vậy, họ đang bị tất cả mọi thứ trì kéo xuống, vì vậy mà họ đang ở tận dưới đáy. Điều gì đang kéo họ xuống? Ấy, đó là cơ thể vật lý của họ, các khuôn nếp cảm xúc của họ, các tin tưởng lý trí của họ hay những con bò thiêng trong trí thể của họ, và ngay cả ý niệm bản sắc của họ. Những thành phần này nằm trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể là chì lặn của con, chúng kéo con xuống tận đáy đại dương.

1.3. Thách thức đặt ra cho các thày tâm linh 

Giờ đây chúng ta thấy con người trên trái đất, họ đang ở trong bộ đồ bốn thể phàm rất gò bó hiện đang trì kéo họ xuống đáy đại dương. Khả năng có thể nhìn xa thế nào tuỳ vào độ trong của nước nơi họ sống. Nhưng là những vị thày tâm linh, các thày đã giải phóng mình khỏi sức nặng này, giải phóng mình khỏi các bộ đồ lặn, các thày đã lên khỏi mặt nước và hoà mình vào ánh sáng mặt trời trong veo nhờ đó nhìn được rất rất xa, và giờ đây các thày đang cố gắng liên lạc với những người trong bộ đồ lặn nặng trịch còn ở tít dưới đáy biển và không có khả năng nhìn xa hơn mũi mình ba mét.

Khi con bước lùi lại và bằng trí năng bước ra ngoài bộ đồ lặn thì con có thể nhận ra vấn đề. Các thày, những vị thày tâm linh, đang trải nghiệm một thực tại hoàn toàn khác với những gì hầu hết mọi người đang trải nghiệm ở đáy biển. Các thày đang nỗ lực cho mọi người biết có một chọn lựa khác hơn những điều các con đang trải nghiệm. Có một góc nhìn khác, một cách khác để nhìn cuộc sống, và các thày đang cố gắng nói trước tiên là các con nên mong muốn đạt được tầm nhìn rộng lớn hơn này. Các thày cũng muốn nói, mặc dù không thể đạt được một tầm nhìn toàn vẹn như các thày đang không hiện thân, nhưng các con có khả năng tối thiểu đạt được một tầm nhìn rộng lớn hơn khi vẫn đang đầu thai. 

Nhưng có bao nhiêu người có khả năng trụ vững vào đó? Có bao nhiêu người hiểu được có một cách nhìn đời khác với cách họ đã được dạy dỗ trong kiếp này, khác với những điều họ đã khoác vào trong nhiều kiếp trước? Bao nhiêu người có thể nắm bắt được điều này?

Điều đã xảy ra với triết lý Phật giáo và nhiều giáo lý tâm linh của các tôn giáo khác, là tất nhiên các triết lý này được trao truyền từ một tầm nhìn cao hơn, một tầm nhìn rộng hơn so với hầu hết mọi người trên trái đất. Nhưng mọi người không thể nâng tâm thức lên để đạt được tầm nhìn này, và tất nhiên một vị thày tâm linh không mong đợi như vậy. Nếu là một vị thày tâm linh, con mong đợi mọi người sẽ theo con đường tuần tự đi từ mức nhận biết hiện thời, tầm nhìn hiện thời của họ, và rồi từng bước một mở rộng sự nhận biết, mở rộng tầm nhìn và ít ra cũng đến gần hơn với tầm nhìn của vị thày. Tuy vậy, điều không thể tránh xảy ra và đã xảy ra với tất cả các tôn giáo và các triết lý tâm linh, đó là có những người bị thu hút bởi triết lý và vì vậy họ phải (và họ không thể làm được gì khác) tiếp cận triết lý này ở tầng mức nhận thức hiện thời của họ. Có nghĩa không thể tránh việc họ phóng chiếu điều gì đó lên giáo lý tâm linh. Các thày cũng có thể nói vì họ tiếp cận giáo lý từ bên ngoài cho nên để giáo lý tới được tâm ý thức của họ, giáo lý này phải đi qua phin lọc của cảm thể, trí thể và bản sắc thể, thậm chí qua cả thể vật lý và bộ não của họ.

Con có thể nói con đang mặc bốn bộ đồ lặn và ở ngay chính giữa những bộ đồ lặn này là con, tức cốt lõi của bản thể con như một sinh thể tự nhận biết. Nhưng con không thể nhìn thế giới một cách trực tiếp như nó là, con chỉ có thể thấy qua bốn bộ đồ lặn, tức bốn thể phàm tạo thành một phin lọc. Vì thế, một lời dạy tâm linh là một xung lực đến với con từ bên ngoài, và để có thể tới được con như một sinh thể có nhận biết, một sinh thể có khả năng suy nghĩ, khả năng đưa ra quyết định, thì lời dạy này phải đi qua phin lọc của bốn thể, tức bốn tầng của tâm.

1.4. Làm thế nào một giáo lý tâm linh có hiệu quả được?

Tuỳ thuộc những gì có trong bốn thể của con trước khi giáo lý tâm linh tới được con, những thứ này sẽ lọc lựa và pha màu giáo lý. Câu hỏi là: “Làm thế nào một giáo lý tâm linh có hiệu quả được?” À, nó chỉ có thể hiệu quả nếu con, cái ta mà con là, hiểu được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý. Vậy mục đích trao truyền một giáo lý tâm linh là gì? Mục đích là cho con thấy có một cách vượt ngoài tâm con, con thấy con có khả năng vượt khỏi tầm nhìn hiện tại của con, tầng mức nhận thức hiện nay của con, và giáo lý này nhằm cho con một công cụ để con đi muốt chặng đường này, là quá trình vượt khỏi nhận thức hiện nay của con về thế giới, phin lọc nhận thức hiện nay của con, cách nhìn đời hiện nay của con.

Nếu một người không hiểu điều này thì chuyện gì sẽ xảy ra? À, họ sẽ nắm lấy giáo lý rồi áp chồng lên trên giáo lý những gì họ có trong ba thể cao của họ. Họ sẽ chồng lên giáo lý các khuôn nếp cảm xúc, khuôn nếp lý trí và một ý niệm bản sắc nào đó. Một kết quả tiêu biểu của việc này là có nhiều người trên thế giới khao khát cảm thấy cao trội hơn người khác. Họ sẽ thường nắm lấy một giáo lý và dùng bất kỳ lời dạy nào để tạo dựng một lớp phủ lên giáo lý, khiến những ai theo giáo lý này, những ai sống theo đủ bộ các yêu cầu vỏ ngoài này, tuân thủ những quy tắc, công phu tu tập, đều cảm thấy mình cao trội hơn những kẻ không theo giáo lý.

Con thấy trong hầu hết mọi tôn giáo trên trái đất đều có những người cảm thấy họ cao trội hơn kẻ ngoại đạo. Rất rất nhiều Phật tử cảm thấy như vậy. Tất nhiên nhiều người Cơ đốc giáo, người theo Ấn giáo, Hồi giáo, hay bất cứ tôn giáo nào khác đều có cảm nhận như vậy. Và đây chỉ là một thí dụ cho thấy khi con không nắm bắt được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý tâm linh thì con sẽ áp chồng nội dung trong tâm tình cảm, lý trí và bản sắc của chính mình ở tầng tiềm thức lên giáo lý này. Về bản chất, con đang kéo giáo lý vào bộ đồ lặn của mình.

Thày đã nói khi con mặc một trong những bộ đồ lặn này, con cần có một cái vòi bơm không khí vào mũ bảo hiểm nhưng cũng có một sợi dây cột con với mặt nước phía trên. Một giáo lý tâm linh là gì? À, giáo lý là sợi dây. Câu hỏi là con định làm gì với sợi dây đó? Con có thể thấy rất rất nhiều người khắp nơi trên thế giới không hề biết có sợi dây này. Họ đơn giản chỉ lang thang ở đáy biển tìm kiếm một thứ gì đấy với tầm nhìn rất hạn hẹp. Nhưng với những ai đã tìm thấy một giáo lý tâm linh thì họ nhận ra: “Ồ, đây là sợi dây tôi có thể nắm lấy.” Nhưng câu hỏi giờ đây là: Họ có hiểu mục đích của sợi dây không? Họ có nói: “Ô, chắc phải có cái gì ở cuối sợi dây và nếu tôi lần theo nó mà leo lên thì liệu tôi có tìm thấy cái gì đấy ở cuối sợi dây không?”

Và dĩ nhiên đây là mục đích của sợi dây. Con lần theo sợi dây để leo lên, nhưng những ai không hiểu được cách vận hành cơ yếu của một giáo lý tâm linh thì sẽ làm chuyện khác. Họ sẽ kéo sợi dây về phía họ cho đến khi cả sợi dây rơi xuống tới tầng cấp của họ, rồi họ quấn sợi dây xung quanh mình để giờ đây sau khi tiếp cận một giáo lý tâm linh hay một tôn giáo, họ lại càng bị bó chặt hơn trong bộ đồ lặn ban đầu. Sợi dây đáng lẽ dùng để giải thoát họ, nay lại được họ dùng để quấn chặt hơn nữa xung quanh người mình, bởi vì giờ đây tất cả những ý tưởng về một người Phật tử, một tín đồ Hồi giáo hay một tín đồ Cơ đốc giáo cần phải hành xử ra sao, cảm thấy thế nào, nên suy nghĩ kiểu gì hay xác định mình là ai, khiến họ khó nhúc nhích.

1.5. Mong muốn thoát khỏi áp lực 

Đây là hoàn cảnh trên trái đất và điều này đưa chúng ta quay trở lại với những mong muốn đúng đắn. Mong muốn sai lầm gây khổ đau, vì vậy những ai kéo sợi dây về phía mình lý luận rằng nếu họ xác định được những mong muốn nào là đúng và trau dồi những mong muốn này thì chắc chắn họ sẽ thoát khổ. Nhưng việc làm này sẽ không đem lại kết quả. Rất rất nhiều người, không chỉ các Phật tử mà cả những người theo các tôn giáo hay các giáo lý tâm linh khác đã chứng minh điều này không đem lại kết quả, nhưng con không thể giải thích được cho họ khi họ không hiểu được mục đích của một giáo lý là để giúp họ thấy cái mà hiện giờ họ không thể thấy, giúp họ thấy cái vượt ngoài trạng thái tâm hiện nay của họ.

Sự khác nhau giữa người giác ngộ và chưa giác ngộ là gì? Chỉ khác một điều duy nhất đó là trạng thái tâm. Để đi về phía giác ngộ (và Bát chánh đạo được định nghĩa là một quá trình đi về phía giác ngộ), con phải bắt đầu ở tầng mức của mình. Con không thể nhảy một bước vĩ đại, hay ít nhất hầu hết mọi người không thể nhảy một bước vĩ đại. Bát chánh đạo là một quá trình đi dần từng bước có hệ thống giúp mọi người có thể tiến đến giác ngộ. Có nhiều điều cần nói về điều này và thày sẽ trở lại đề tài này sau. Nhưng điều căn bản của Bát chánh đạo đó là có một quá trình dẫn con đi từ nơi này đến nơi kia. 

Nơi kia là gì? Ấy, đó là nơi, như thày đã nói, con giải phóng chính mình khỏi tầm nhìn hạn hẹp hiện nay và đạt được viễn kiến rộng hơn, một trạng thái tâm khác hơn. Hay nói cách khác từ một nhãn quan nào đó, sự khác nhau giữa người chưa giác ngộ và người đã giác ngộ là tầng cấp nhận biết. Rồi con có thể định ra một con đường tuần tự đưa con từ mức nhận biết hiện thời lên đến những mức nhận biết ngày càng cao hơn, cho đến khi con đạt đến trạng thái tự do khỏi hầu hết các giới hạn chung của con người.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể định nghĩa điều gây ra đau khổ là những mong muốn, nhưng đó là loại mong muốn nào? Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn. Hầu hết mọi người đều cảm thấy bị hạn chế vì tất cả đều đang mặc bộ đồ lặn. Mọi người cảm thấy bị cản trở bởi một loạt các giới hạn đối với những gì mình có khả năng hay không có khả năng làm. Họ thường cảm thấy hoàn cảnh bắt buộc họ phải làm nhiều điều.

Ở tầng cấp cơ bản nhất, con phải nuôi sống cơ thể vật lý. Và nếu con không phải là Thái tử Tất đạt đa lớn lên trong cung điện xa hoa được cung cấp mọi thứ cần thiết, thường thường con sẽ phải làm lụng vất vả để nuôi sống cơ thể vật lý, thì ngay ở điểm này nhiều người cảm thấy bị áp lực. Nhưng cũng có nhiều thứ khác mà con người cảm thấy bắt buộc phải làm. Nhiều áp lực đè nặng lên cảm thể. Nhiều khuôn nếp trong tâm lý trí khiến người ta cảm thấy buộc phải đương đầu với những ý tưởng nào đó. Và tất nhiên, nơi bản sắc thể, con bị áp lực phải xem mình thuộc thành phần của nhóm người này hay nhóm người kia. Và có lẽ ngay cả khi con là một thành phần của nhóm này thì cũng có nghĩa con phải chống lại nhóm kia, con phải đánh nhau với họ, tranh đấu với họ. Các thày có thể nói là nhiều người cảm thấy những áp lực này. Vậy họ mong muốn điều gì? Họ khao khát điều gì? À, họ mong muốn rũ bỏ áp lực hay ít nhất tìm cách giảm nhẹ áp lực. Mọi người có rất rất nhiều mong muốn liên quan đến áp lực mà ai ai cũng đều cảm thấy trong hoàn cảnh hiện tại của mình, cho dù áp lực đó là gì tùy theo nơi họ lớn lên.

Con có một số mong muốn như thoát khỏi những giới hạn, giảm bớt các áp lực. Câu hỏi là: “Những mong muốn như vậy có toại nguyện được không?” Và câu trả lời tất nhiên là: có và không. Nhiều người đã giảm bớt được phần nào áp lực đời sống. Chẳng hạn có nhiều người ở một số nơi trên thế giới được đi học, có công ăn việc làm với thu nhập ổn định và đều đặn nên họ không phải lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống. Những nhu cầu này đã được chu toàn. Nhưng như vậy họ có thoát khỏi áp lực không? Họ thoát khỏi một số áp lực nhưng chắc chắn nhiều người vẫn bị đè nặng bởi các áp lực khác.

Nhìn chung con thấy con có thể tự do khỏi một số áp lực nào đó của cuộc sống nhưng vô cùng khó khăn để tự do khỏi tất cả mọi áp lực. Tại sao lại vậy? Ấy, đó là vì con đang tìm kiếm tự do khỏi áp lực nhưng áp lực này ở đâu? Con trải nghiệm áp lực này ở đâu? Con có thể nói: “Tôi đang mặc bộ đồ lặn này ở dưới nước và sức nặng của nước tạo một áp lực lên tôi, chính việc tôi đang đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất cùng với tâm thức tập thể cũng dày đặc thì có một áp lực bên ngoài tác động lên tôi.” Cũng đúng, quả là có một áp lực bên ngoài.

1.6. Cái biết cốt yếu trong một giáo lý tâm linh 

Nhưng cái biết cốt yếu trong một giáo lý tâm lính là sự khác biệt giữa áp lực bên ngoài và việc trải nghiệm áp lực này bên trong. Một lần nữa con người ở mọi thời đại đã không nắm bắt được điều này. Họ đã học một giáo lý tâm linh truyền đạt những ý tưởng này dưới một hình thức nào đó trong khuôn khổ một thời đại và một nền văn hóa khi các ý này được trao truyền. Nhưng họ đã không nắm được sự khác biệt giữa áp lực bên ngoài và việc trải nghiệm áp lực này bên trong. Điều này có nghĩa là gì?

Ấy, con đang cảm nhận áp lực từ thế giới. Giờ đây con tìm thấy một giáo lý tâm linh và một lần nữa đây lại là một trong những tình thế tiến thoái lưỡng nan cho các vị thày tâm linh. Các thày đã vượt lên trên áp lực. Các thày không có cảm giác áp lực. Các thày trải nghiệm tự do và sự hỷ lạc nhiều hơn vì các thày không cảm thấy áp lực này. Các thày thấy các con đang chịu áp lực, nhưng các thày cũng thấy nhiều người bị áp lực đè nặng đến mức họ không thể nghĩ xa được. Các thày cần cho họ động lực để ít ra còn khích lệ họ học giáo lý tâm linh đang được trao truyền cũng như tham gia vào quá trình theo học và áp dụng giáo lý.

Điều gì thúc đẩy những người đang chịu một áp lực rất lớn? Ấy, đó là họ muốn tự do thoát khỏi áp lực. Một giáo lý tâm linh phải ngầm cam kết là con có thể được giải thoát khỏi áp lực. Tất nhiên lời cam kết này đúng sự thật – và đồng thời cũng không thật. Vì nếu con nhìn vào một giáo lý tâm linh và như thày đã nói, con kéo sợi dây xuống rồi con quấn nó quanh mình thì cam kết này không thật vì giáo lý sẽ không giúp con tự do khỏi áp lực. Tại sao vậy? Đó là vì áp lực mà con trải nghiệm không đến từ bên ngoài.

Thày vừa nói gì? Bất kỳ một xung lực nào phóng tới con đều phải đi xuyên qua cảm thể, trí thể và bản sắc thể trước khi chạm được vào con, tức sinh thể có ý thức bên trong bốn bộ đồ lặn. Áp lực cũng giống như vậy. Có một áp lực từ thế giới ngoài kia, từ tâm thức đại chúng. Chúng ta không thể chối bỏ điều này. Thày không hề cố nói là không có áp lực nào lên con. Nhưng việc trải nghiệm áp lực này diễn ra trong tâm con, và vấn đề là con có những khuôn nếp cảm xúc gì, những tư tưởng gì, niềm tin gì và ý niệm bản sắc gì. Những điều này tạo ra trải nghiệm áp lực cho con. Áp lực có đó, nhưng chính việc con trải nghiệm áp lực như thế nào mới tác động đến con.

1.7. Sử dụng một giáo lý tâm linh như thế nào 

Một lần nữa, con đang ở đây, con đang đầu thai trên một hành tinh rất khó khăn. Con tìm ra một giáo lý tâm linh. Vậy làm sao con sử dụng giáo lý này? Giả dụ như mục tiêu của con là giảm bớt phần nào áp lực mà con đang cảm thấy. Và lúc này con nói: “Đây là giáo lý đã hứa là tôi có thể tìm thấy tâm an bình hay giác ngộ hay niết bàn”. Nhưng làm sao điều này xảy ra? Có phải bằng việc tìm ra một giáo lý tâm linh đặc thù rồi quyết định theo học giáo lý thì con có thể loại bỏ những áp lực bên ngoài đang đè nặng lên con? À tất nhiên là không phải vậy. Vì áp lực bên ngoài một phần do độ dày đặc của vật chất, phần còn lại do độ dày đặc của tâm thức đại chúng liên quan đến tất cả mọi người trên hành tinh này.

Làm sao việc con tìm ra và đi theo một giáo lý tâm linh có thể thay đổi được điều kiện bên ngoài này? Làm sao con thay đổi được độ dày đặc của vật chất và tâm thức đại chúng khi con ngồi đâu đó trong một tu viện Phật giáo, chân xếp bằng, tụng niệm hay nghiên cứu kinh điển? Một giáo lý tâm linh trao truyền từ những sinh thể đã tự do khỏi áp lực, khỏi bộ đồ lặn, chưa bao giờ đưa ra những cam kết như vậy. Những ai đã đạt được tự do sẽ không bao giờ cam kết như vậy. Chọn lựa còn lại là gì? Đó là việc đi theo một giáo lý tâm linh sẽ không loại bỏ áp lực nhưng nó sẽ thay đổi cách con trải nghiệm áp lực. Một giáo lý tâm linh không thể làm gì khác. Nó chỉ có thể thay đổi kinh nghiệm bên trong của con, nó không thể thay đổi hoàn cảnh bên ngoài.

Dĩ nhiên đây là lời phát biểu cần được giải thích thêm vì mọi việc đều là sự trải bày của lý duyên khởi mà thày sẽ trình bày sau. Do đó, bằng việc thay đổi tâm thức mình, hoàn cảnh bên ngoài cũng sẽ thay đổi. Nhưng ngay bây giờ chúng ta cần nhận ra là cho dù con có thay đổi tâm thức nhiều thế nào đi nữa, con cũng sẽ không thay đổi được nền tảng cơ bản của vật chất dày đặc và tâm thức đại chúng dày đặc. Con không thể mong thay đổi toàn bộ áp lực này. Nhưng bằng việc đi theo một giáo lý tâm linh, con có thể mong thay đổi cách mà áp lực này ảnh hưởng đến con, cách con trải nghiệm cuộc sống trên trái đất. Và đây là cốt lõi của bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Đây là sự thật của bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Mục tiêu chính của bất kỳ giáo lý tâm linh nào là giúp con nhận diện chì lặn đang trì kéo bộ đồ lặn của con ở những tầng tình cảm, lý trí và bản sắc, giúp con thấy những chì lặn này, đem chúng vào tâm ý thức và nói: “Tôi có muốn tiếp tục kéo lê những thứ này không?” Và nếu con trả lời là không thì con hãy buông bỏ chúng.

1.8. Mong muốn bất khả thi 

Một mong muốn mang tính xây dựng và không mang tính xây dựng là gì? Ấy, mong muốn dựa trên tầng nhận biết hiện tại của con và mong muốn thoát khỏi áp lực là một mong muốn không mang tính xây dựng vì nó trói buộc con vào tầng nhận biết hiện tại. Mong muốn này chống lại sự tăng triển vươn lên những tầng nhận biết cao hơn. Làm sao có thể khác được? Khi có chì lặn trong bộ đồ lặn, trong cái đai của bộ đồ lặn thì chúng sẽ kéo con xuống do tác động của trọng lực. Trọng lực của tâm thức đại chúng sẽ kéo con xuống. Không có cách nào khác, đơn giản đây là vật lý học cơ bản, là định luật cơ bản của tự nhiên. Duy có điều đây là vật lý học nằm ngoài tầng cấp vật chất nhưng bao gồm mọi tầng của thế giới vật chất, tình cảm, lý trí và bản sắc.

Những gì giống nhau sẽ thu hút nhau. Có một trọng lực, và lực này sẽ thu hút mọi thứ con đang có trong tâm tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Không có cách nào khác. Hầu hết mọi người lần đầu tìm thấy một giáo lý tâm linh thì họ mong muốn điều gì? Họ mong muốn thoát khỏi áp lực bằng cách dùng những thành phần sẵn có trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Như vậy, thày đã nói gì? Trải nghiệm áp lực của con được quyết định bởi những gì có trong ba thể của con, ba tầng của tâm con. Chính những thành phần này khiến con trải nghiệm áp lực theo cách con đang trải nghiệm.

Giờ đây con tìm ra một giáo lý tâm linh hứa rằng con có thể thoát khỏi áp lực này. Và con nghĩ chỉ cần học giáo lý vỏ ngoài và thực hành vỏ ngoài là con có thể thoát khỏi áp lực mà không cần làm việc với những thành phần trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Hay nói cách khác, con có thể thoát khỏi trải nghiệm mà không cần làm bất kỳ điều gì với chính những điều kiện đã tạo ra trải nghiệm đó.

Điều này không thể thực hiện được, không bao giờ có thể thực hiện được. Không có đường tắt nào sẽ giúp con thực hiện được. Đó là một mong muốn bất khả thi. Vì vậy từ một viễn quan nào đó, các thày có thể nói đây là một mong muốn sai lầm. Chắc chắn đây là ý thày muốn nói trong lời dạy 2500 năm về trước. Con cần trong lọc các mong muốn để không chờ đợi những kiểu đường tắt giúp thoát khỏi khổ đau, thoát khỏi áp lực nhưng lại không chịu nhìn vào chính mình và tâm mình. Hãy nhìn những điều kiện trong tâm đang tạo ra trải nghiệm áp lực nơi con – đây là cách thực tế duy nhất để nhìn vào một giáo lý tâm linh.

1.9. Nhu cầu duy trì sự liên tục 

Giờ đây điều gì ngăn mọi người nắm bắt điều này hay hiểu ý nghĩa về mong muốn trong Tập đế – Chân lý thứ nhì của Tứ đế? Ấy, đấy là nội dung của Diệt đế – Chân lý thứ ba của Tứ đế gọi là sự dính mắc. Mọi người đều có một nhu cầu thường không được xã hội, hay ngay cả ngành tâm lý hiện đại nhận ra. Các thày có thể gọi đó là nhu cầu an toàn, nhu cầu bình an, nhưng sẽ xây dựng hơn nếu gọi đó là nhu cầu duy trì sự liên tục.

Nhu cầu này phát xuất từ phản ứng của con đối với áp lực, những áp lực bên ngoài. Nếu con nhìn điều này từ một viễn quan nào đó, thì con có thể nói tất cả nhân loại đều có khả năng bị cái gọi là suy sụp tinh thần. Ngày càng có nhiều người đang phải chịu khủng hoảng tinh thần, ngay cả những người trong thế giới hiện đại không gặp khó khăn vật chất. Mọi việc trở nên quá sức, quá tải và họ không thể đương đầu với cuộc sống. Họ không thể sinh hoạt theo một cách được xem là bình thường trong xã hội. Đằng sau điều này là gì? À, điều đằng sau đó là một sự việc rất đơn giản, con sống trên một hành tinh nơi con phải tiếp xúc với một áp lực quá lớn ở thể vật lý, thể tình cảm, thể lý trí, thể bản sắc đến mức không ai có thể đương đầu nổi.

Con không thể sống sót về mặt tinh thần, tâm lý, trước áp lực trên hành tinh này nếu con không tìm ra cách bảo vệ mình trước áp lực. Hay nói cách khác, áp lực quá lớn đến mức không chịu nổi. Vậy tại sao nhiều người vẫn tìm được cách sống tương đối bình thường? Vì họ cũng có khả năng gạt bỏ phần nào áp lực. Đây là điều thày muốn nói khi đề cập đến vài thành phần trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể hoạt động như một phin lọc giữa con và thế giới xung quanh. Nhờ những phin lọc này mà con có thể ngăn chặn, có thể kìm nén những cảm xúc, kìm nén những tư tưởng, kìm nén một số áp lực ở bản sắc của con và nhờ vậy con không bị quá tải nên con mới có thể sinh hoạt được.

Điều thày có thể nói là đại đa số mọi người đã tạo dựng một cảm giác cân bằng cho phép họ có đời sống sinh hoạt bình thường. Tuy nhiên, việc liên tục chịu áp lực khiến luôn luôn có nguy cơ xảy ra điều gì đó phá vỡ thế cân bằng này khiến người ta trở nên quá tải, quá sức. Chính cơ cấu nhằm duy trì trạng thái cân bằng này là lý do khiến người ta dính mắc. Con bị dính mắc vào những khuôn nếp cảm xúc nào đó vì mặc dù con không ý thức được điều này nhưng con vẫn cảm thấy chúng bảo vệ con khỏi những cảm xúc choáng ngợp. Các khuôn nếp lý trí cũng tương tự như vậy. Chẳng hạn có nhiều người sùng đạo rất dính mắc với những khuôn nếp ngăn họ không nghi ngờ tôn giáo của mình. Đây là nguyên nhân của dính mắc.

Thày đã không thể trao truyền giáo lý này cách đây 2500 năm vì tâm thức đại chúng thời đó thấp hơn bây giờ rất nhiều, và rất ít người, hầu như không một ai hiểu được điều này. Nhờ những tiến bộ ở nhiều lĩnh vực trong thế giới hiện đại, trong ngành tâm lý học nhưng không chỉ trong ngành tâm lý học, mà giờ đây thày trao truyền được một giáo lý sâu sắc hơn. Về căn bản, các thày có thể nói để sống sót về mặt tâm lý trên hành tinh này, hầu hết mọi người đều dựng lên những thành luỹ bảo vệ mình khỏi những áp lực quá sức. Nhưng tuyến phòng thủ này cũng ngăn con vượt khỏi mức nhận biết hiện thời của mình. Các thày có thể nói bộ đồ lặn giữ cho con được khô ráo và các chì lặn giữ cho con thẳng đứng. Nhưng chúng cũng giam hãm con trong bộ đồ lặn và khiến con chìm xuống tận đáy biển, vì thế đây là một trong những tương phản, những tình thế khó xử, những bí ẩn về đường tu. Để thay đổi trải nghiệm sống hiện nay của mình, con cần nhìn vào chính những điều vừa bảo vệ con lại vừa giới hạn con, và đây chính là điều mà Bát chánh đạo được thiết lập để giúp đỡ mọi người. Tất nhiên, Bát chánh đạo không phải là phương pháp duy nhất. Có nhiều phương pháp giá trị khác mô tả quá trình này, nhưng nỗ lực của thày ở đây là chia nhỏ tối đa quá trình này ra và khiến nó trở nên phổ quát nhất có thể.

1.10. Hiểu mục đích của Bát chánh đạo

Chúng ta hãy tóm tắt một chút. Khổ đau là do những áp lực con gặp phải. Từ đó con mong muốn thoát khỏi áp lực, muốn vơi đi những áp lực. Những mong muốn này không giải thoát con khỏi áp lực nếu con mong muốn thoát khỏi áp lực nhưng lại không nhìn vào nguyên nhân gây ra áp lực. Nguyên nhân chính là những điều kiện bên trong con, vậy nên những mong muốn này không thể giải thoát con. Khi con dấn thân vào quá trình thật sự của đường tu tâm linh, dù con gọi là Bát chánh đạo hay gì khác, thì nó cũng đòi hỏi con nhìn vào những cơ cấu một đằng sẽ bảo vệ con khỏi bị áp lực làm choáng ngợp, nhưng đằng khác lại giữ con trong áp lực vô hạn định. Con được bảo vệ bởi bộ đồ lặn, nhưng con cũng không bao giờ ra khỏi bộ đồ lặn nếu con không nhìn vào điều gì đang trì kéo con xuống.

Đây là mục đích thật sự của Bát chánh đạo. Đây không phải là giải pháp vỏ ngoài nhằm thay đổi những điều kiện vỏ ngoài để giờ đây không còn những điều kiện gây áp lực hay đau khổ cho con. Bát chánh đạo không thiết kế một quá trình thần thông giúp thay đổi hoàn cảnh bên ngoài. Nó thiết kế một quá trình tuần tự có hệ thống giúp thay đổi những điều kiện bên trong con, từ đó con thay đổi cách trải nghiệm những điều kiện bên ngoài.

Đây là cốt lõi không chỉ của đạo Phật mà của các triết lý tâm linh mang tính xây dựng khác. Những ai nắm được điều này sẽ tiến bộ khi áp dụng Bát chánh đạo hay bất kỳ tên gọi nào để chỉ đường tu. Những ai không nắm được điều này thật ra sẽ chỉ dùng giáo lý tâm linh để trói mình chặt hơn vào tầng mức nhận biết hiện thời của mình. Họ sẽ chỉ củng cố phin lọc nhận thức của mình, và trong quan hệ với mọi người họ cảm thấy mình rất đặc biệt so với những ai không theo giáo lý của mình, mình cao trội vì mình đã đạt đến mức hiểu biết cao hơn, hiểu biết trí năng về giáo lý. Họ cũng đã miên mật thực hành nhiều năm đến mức cảm thấy chắc chắn mình đã gặt hái được vài tiến bộ.

Giờ đây chúng ta cần đặt ra một câu hỏi. Liệu có thể tìm thấy một giáo lý tâm linh có giá trị, rồi theo học và miên mật thực hành những gì giáo lý yêu cầu mà không tiến bộ chăng? Câu trả lời tất nhiên là có thể. Trước hết chúng ta hãy nhìn vào ba thể. Ở cảm thể, con có những khuôn nếp cảm xúc khiến con phản ứng một cách nào đó trong những tình huống nhất định. Đây là chì lặn con có trong cảm thể. Con có đủ loại chì lặn với đủ loại khuôn nếp phản ứng khác nhau. Đâu là cách để con được tự do và đi lên những tầng nhận biết cao hơn? Đó là nhìn vào những chì lặn này, xem xét chúng, xem tại sao con phản ứng theo cách này, đằng sau những phản ứng này là gì, là những tin tưởng gì, rồi con bỏ chúng đi một cách ý thức. Đây là cách con bỏ chì lặn khỏi thắt lưng và thả chúng xuống đáy đại dương. Con nhẹ hơn và do đó con dễ dàng bước thêm một bước trên con đường tu tuần tự.

Các thày cũng có thể nói con đang chìm dưới nước trong bộ đồ lặn nhưng rồi con bắt gặp một cái thang. Con bám vào cái thang, và khi con ném bỏ một chì lặn thì con bước lên được một bực thang. Nhưng nếu con không vứt cái chì lặn đó thì con tha hồ nắm chặt lấy thang mà không bước lên được. Đây thật sự là cách tăng triển – nhìn vào chính mình, nhìn vào những khuôn nếp cảm xúc và buông bỏ chúng. Nhưng thày đã nói gì? Con người chịu quá nhiều áp lực đến mức chức năng tâm lý của họ không thể hoạt động. Họ đã học cách tạo ra một cơ chế đè nén một số cảm xúc. Rất rất nhiều người không chỉ trong đạo Phật mà trong cả những truyền thống tâm linh và tôn giáo khác đã dùng giáo lý tâm linh để củng cố cơ chế đè nén một số cảm xúc.

Trong hầu hết các phong trào tâm linh, con sẽ thấy có những người đi theo những phong trào này từ rất lâu, họ rất chăm chỉ thực hành bất cứ pháp hành nào được quy định, họ toát ra sự điềm tĩnh khi di chuyển. Họ đi chậm rãi, cử động, nói năng theo một cách nào đấy. Dường như cảm xúc của họ luôn luôn được kiểm soát, luôn phải điềm tĩnh. Nhưng trong nhiều trường hợp, đơn giản là họ đã dùng giáo lý để củng cố hoặc dựng lên những cơ chế mới nhằm đè nén cảm xúc, và điều này không đưa đến tăng triển. Con có thể nói: “Nhưng những người này đang kinh nghiệm cuộc sống khác với trước khi họ tìm ra giáo lý, vậy phải chăng họ chưa tiến bộ gì trong việc thay đổi trải nghiệm nội tâm? Thày vừa nói khía cạnh chính của cuộc sống trên trái đất là những trải nghiệm nội tâm, kinh nghiệm cuộc sống. Và những người này rõ ràng đã thay đổi.”

À đúng vậy, nhưng điều thày đang nói ở đây là có hai cách để thay đổi kinh nghiệm sống. Con có thể đè nén hay con có thể làm tan đi. Con có thể đè nén cảm xúc và đạt được một trạng thái tĩnh lặng và an bình nội tâm nào đó, nhưng điều này thật mong manh và có thể dễ dàng bị xáo trộn. Đây là lý do tại sao con thấy trong nhiều truyền thống tôn giáo và tâm linh, người ta cách ly và cô lập mình khỏi thế giới bằng cách sống trong tu viện chẳng hạn, hay trong các cộng đồng hoặc bất kỳ nơi nào khác. Họ có thể duy trì cảm giác an bình nội tâm mong manh vì họ hiếm khi bị môi trường bên ngoài quấy rầy, họ hiếm khi bị thách thức. Điều này không dẫn con đến những bước kế tiếp trên bậc thang, và khi những điều kiện bên ngoài thay đổi thì con có thể dễ dàng bị xáo trộn.

Rất rất nhiều người, không chỉ những người tâm linh mà rất nhiều người khác đã trải qua những năm tháng, bắt đầu với đại dịch, bây giờ là chiến tranh ở Ukraine rồi sau đó là khủng hoảng kinh tế thì trạng thái cân bằng của họ đã bị xáo trộn. Thật dễ hiểu. Thày giản dị đang chỉ ra rằng nếu trạng thái cân bằng của con bị xáo trộn bởi ngoại cảnh thì có nghĩa là có điều gì đấy con chưa giải quyết và điều này xuất phát từ cơ cấu thày đã mô tả. Con có điều gì đấy đang đè nén mà con chưa giải quyết vì con vẫn dính mắc vào việc duy trì trạng thái cân bằng này.

1.11. Con phải sẵn lòng bị xao động

Điều này nghĩa là gì? Rất giản dị, để thật sự hiểu con đường tâm linh là gì, để thật sự neo trụ vào con đường này, con phải sẵn lòng bị xao động. Thày không nói con phải sẵn lòng trải qua sự suy sụp tinh thần hay bị choáng ngợp, vì Bát chánh đạo và những con đường tâm linh khác được thiết lập như một con đường tuần tự. Nó sẽ đưa con lên từng nấc thang mà không khiến con bị quá tải. Nhưng con phải chịu bị xao động một chút và đây chính là điều quan trọng mà rất rất nhiều người không nắm bắt được.

Nếu con nhìn vào đời mình và đường tu của mình, con có thể thấy rất nhiều người khi lần đầu tìm thấy một giáo lý tâm linh đều có khao khát đạt được an bình nội tâm. Đây không phải là một khao khát không chính đáng, nhưng nó lại khiến nhiều người sử dụng giáo lý tâm linh nhằm tạo ra những ranh giới bao quanh tâm mình, họ nghĩ họ có thể đạt được an bình nội tâm bằng cách đè nén cảm xúc thay vì nhìn vào cảm xúc và buông bỏ chúng, cho tiêu tan các khuôn nếp của chúng.

Tại sao con phản ứng tức giận trong một số tình huống? Tức giận là một cảm xúc. Nó là một loại năng lượng nhưng như thày đã giải thích, cảm thể là tầng cấp thấp nhất của tâm con. Trên cảm thể là trí thể và trên cùng là bản sắc thể. Năng lượng chảy vào tâm từ cái ta cao của con. Đầu tiên, năng lượng đi vào bản sắc, đến lý trí, rồi đến cảm xúc. Cảm xúc của con không thể đột ngột xuất hiện trong cảm thể. Nó đến từ những khuôn nếp tư tưởng nào đấy trong trí thể và thậm chí đến từ một ý niệm bản sắc trong bản sắc thể. Chính điều này cho con cảm nhận cân bằng hiện thời.

Một lần nữa, thày không đang cố tìm lỗi ở đây. Con không thể làm gì khác trên một hành tinh như trái đất. Con cần có một ý niệm bản sắc nào đó. Con cần có những khuôn nếp lý trí và cảm xúc nào đó để đối phó với ngoại cảnh. Nhưng để đi đến sáng ngộ hay có thể gọi là một trạng thái tâm thức cao hơn thì con phải sẵn lòng xem xét những khuôn nếp này và nói: “Tại sao tôi lại đáp trả bằng cơn giận?” À đó là vì con có một chờ đợi những gì phải hay không được xảy ra bên ngoài kia. Chờ đợi đó đã không được đáp ứng. Nhưng thật sự không phải vì sự chờ đợi không được đáp ứng mà cơn giận nảy sinh. Đó là vì khi sự chờ đợi không được đáp ứng, trạng thái cân bằng của con bị xáo trộn. Trạng thái cân bằng che đậy một cảm giác bất lực sâu xa và khi cảm giác bất lực bị khuấy động thì con nổi giận. Cơn giận là phản ứng mặc định đối với cảm giác bất lực. Có người trong cơn thịnh nộ sẽ có những hành động mà họ không thường làm và trong vài trường hợp cơn giận giúp họ thay đổi ngoại cảnh. Trong các trường hợp khác, cơn giận chỉ làm tình trạng tồi tệ hơn. Nhưng trong tất cả mọi trường hợp, cơn giận củng cố cho khuôn nếp.

Cách thực sự để thoát khỏi tình trạng này là truy về cảm giác bất lực và sự chờ đợi điều này điều kia phải hay không được xảy ra, con truy từ cảm thể lên trí thể cho đến bản sắc thể. Con có những khuôn nếp nào khiến con cảm thấy bất lực, khiến con cảm thấy điều này điều kia phải hay không được xảy ra? Đây chính là đường tu. Bát chánh đạo là xem xét những khuôn nếp trong tâm con một cách tuần tự và có hệ thống, sau đó đem chúng ra ánh sáng của nhận biết ý thức. Con thấy chúng và nói: “Tôi thấy khuôn nếp này bảo vệ tôi khỏi bị choáng ngợp nhưng tại sao tôi lại có nguy cơ bị choáng ngợp? Đó là vì có một khuôn nếp sâu xa hơn quy định mối quan hệ của tôi với thế giới tôi đang sống như thế nào. Tôi có một chọn lựa ở đây. Tôi có thể tiếp tục đè nén với hy vọng sự đè nén vẫn có tác dụng, nhưng như vậy thì tôi sẽ không bước tiếp lên bậc thang. Tôi không thật sự bước trên Bát chánh đạo cho dù tôi có học giáo lý bao nhiêu và thực hành bao nhiêu đi nữa. Chọn lựa kia là tôi có thể thật sự nhận ra Bát chánh đạo là gì, và tôi xem xét một cách có hệ thống những khuôn nếp của tôi, phản ứng của tôi đối với thế giới.”

Thày từng nói về những người đã đi theo một giáo lý tâm linh từ rất lâu và học cách đè nén cảm xúc để luôn luôn tỏ ra điềm tĩnh, tự chủ, bình an và mọi chuyện trong vòng kiểm soát của họ. Nhưng có nhiều người lại dùng tâm lý trí, trí năng để học giáo lý. Và giờ đây ở tầng lý trí, họ đã củng cố những khuôn nếp cho phép họ duy trì một cảm giác cân bằng. Đây là điều con không chỉ thấy trong các giáo lý tâm linh hay tôn giáo. Quả thật con thấy rất nhiều ví dụ về những người đã dùng tâm lý trí để tạo ra một cảm giác cân bằng. Và điều này dựa vào đâu? Nó dựa vào ý niệm là họ hiểu bằng trí năng, phân tích, lý luận thế giới vận hành ra sao, và họ nghĩ họ nắm bắt được những khuôn mẫu nào đó, những quy luật thiên nhiên nào đó, những nguyên lý nào đó được Thượng đế quy định. Và vì họ hiểu những điều này nên họ nghĩ họ có khả năng kiểm soát thế giới, hay tối thiểu là kiểm soát được ngoại cảnh.

Kết quả là con thấy có rất nhiều người đã tạo ra một ý tưởng về việc thế giới phải vận hành thế nào rồi dùng tâm lý trí tìm cách phóng chiếu ý tưởng này lên vũ trụ. Và họ nghĩ mình có khả năng thu hẹp sự vận hành của vũ trụ trong vài quy tắc đơn giản rồi cảm thấy họ kiểm soát được thế giới. Điều họ làm là dùng giáo lý tâm linh, hay có thể là một ý thức hệ chính trị như chủ nghĩa cộng sản hay ngay cả chủ nghĩa khoa học duy vật để tạo ra một hình tư tưởng về cách vận hành của thế giới. Nhưng thày đã nói mục đích của một giáo lý tâm linh là gì? Đó là nó giải phóng con khỏi trạng thái nhận biết hiện thời. Có nghĩa là giải phóng con khỏi những khuôn nếp trong trí thể của con. Và một lần nữa, những khuôn nếp này bảo vệ con khỏi bị choáng ngợp bởi những nỗi nghi ngờ chẳng hạn.

Nhiều người mộ đạo đã tạo ra những khuôn nếp này và nói: “Ồ, tôi không cần suy nghĩ về điều này. Tôi không cần suy nghĩ về bất kỳ điều gì chất vấn giáo lý tâm linh và tôn giáo của tôi. Điều này không cần thiết vì tất cả đều sai, chúng không thể nào đúng được, vì vậy tôi có thể gạt bỏ chúng mà không cần suy nghĩ.” Điều này cho phép họ duy trì cảm giác cân bằng. Nhưng vấn đề tất nhiên là thế giới lại khá hỗn loạn. Mọi người đều có những tin tưởng khác nhau và có những hệ thống tin tưởng, tôn giáo và ý thức hệ khác nữa. Sẽ luôn luôn có điều gì trong thế giới đe dọa các tin tưởng của con.

1.12. Làm sao thăng vượt tầng tâm thức hiện thời 

Nhiều người cũng đã tạo ra cảm nhận là nếu họ theo học một giáo lý tâm linh, thực tập theo quy định thì đảm bảo là cuối cùng họ sẽ đạt được mục tiêu. Nhiều Phật tử trải qua nhiều thời đại và ngày nay vẫn tin rằng: “Nếu tôi chỉ học những lời Phật dạy, chỉ chú tâm vào Phật pháp và miên mật thực hành theo quy định của giáo phái Phật giáo của mình thì tôi được đảm bảo sẽ giác ngộ hoặc nhập niết bàn. Vì đức Phật là một vị đạo sư tâm linh chân chính và ngài đã hứa nếu tôi tu tập theo Bát chánh đạo thì tôi sẽ giác ngộ. Vì ngài là một vị thày tâm linh chân chính nên lời hứa của ngài phải đúng sự thật.”

Thày đã giải thích thế nào? Các thày đã phải hứa hẹn để hấp dẫn những đệ tử đang ở mức tâm thức hiện thời của họ. Nhưng con không thể chụp lấy lời hứa đó, diễn giải bằng tâm thức hiện thời của mình, nghĩ ra một ý tưởng mình nên tu tập Bát chánh đạo ra sao, rồi tu bằng tâm thức hiện thời của mình và điều này đảm bảo mình sẽ thăng vượt tâm thức hiện thời của mình. Không thể có chuyện như vậy.

Con không thể thăng vượt tâm thức hiện thời bằng việc ở yên tại mức tâm thức này. Làm sao có thể vậy được? Cho dù con có xây dựng những ý tưởng cầu kỳ đến đâu chăng nữa, chúng cũng sẽ không giúp con thăng vượt phin lọc nhận thức trong trí thể. Con phải sẵn lòng bị dao động, nghi ngờ ít nhất một khía cạnh trong cách con nhìn cuộc sống. Con phải sẵn lòng đặt một số câu hỏi nhức nhối và xem xét những gì đằng sau khuôn nếp tư tưởng hiện thời của mình.

Nếu con không chịu làm vậy thì con tiếp tục đè nén tất cả những nghi ngờ và tự thuyết phục là mình đúng, và vì vậy con không thể leo tiếp một nấc thang nữa. Con chỉ dậm chân tại chỗ mà thôi. Con chỉ giữ chặt những tin tưởng của mình mà thôi. Và có lẽ trong suốt kiếp này, con càng lúc càng tin chắc mình đúng vì mọi người quanh con có cùng những khuôn nếp tư duy như nhau, và các con củng cố lẫn nhau rằng mình là kẻ đã hiểu giáo lý của Phật. Nhưng con thấy điều thày giải thích ở đây. Con hiện đang ở một mức nhận biết giới hạn. Phật đã vượt khỏi tất cả những giới hạn của con người trên trái đất. Con sẽ không đạt đến tầng cấp của Phật nếu con không thăng vượt những giới hạn hiện thời một cách hệ thống và tuần tự. Điều này không thể làm được. Không có cách gì làm được.

Điều này dẫn chúng ta đến đâu? Con là một người tâm linh. Con đã học giáo lý tâm linh một thời gian khá dài. Con đã thực hành miên mật đúng theo quy định một thời gian khá dài. Con chẳng đã tiến bộ hay sao? Ấy, đa số đã tiến bộ vì họ sẵn lòng nhìn vào một vài điều, xem xét chúng, buông bỏ chúng. Còn một số thì chưa tiến bộ vì, như thày đã nói, họ đã dùng giáo lý để củng cố những khuôn nếp. Nhiều người đã củng cố ý niệm bản sắc cho rằng mình đặc biệt hơn những ai không theo giáo lý này, những ai không hiểu giáo lý như cách mình hiểu hay những ai chưa chăm chỉ thực hành. Họ củng cố bản sắc mình là người đặc biệt nhưng tất nhiên điều này chỉ làm họ mắc kẹt trong bộ đồ lặn. Có thể họ đã thay đổi trải nghiệm cuộc sống khiến họ thấy mình càng lúc càng đặc biệt, nhưng họ không leo thêm một nấc thang nào nữa.

1.13. Những gì một phong trào tâm linh không thể làm cho con 

Phần lớn các con đều đã đạt tiến bộ. Nhưng con có thể tiến xa hơn khi hiểu những điều thày đã giảng ở đây – đó là quá trình thăng vượt tâm thức đích thực và con luôn cần bị xao động. Như thày đã nói, một số sẽ nhận ra khi lần đầu tìm thấy giáo lý và nghĩ: “A, bây giờ tôi đã tìm ra cái tôi khao khát. Giờ đây tôi đã về nhà. Tôi thật sự thuộc về nơi này, cùng với giáo lý này, cộng đồng này với những người cùng chí hướng này, và khi tôi ở đây, mọi thứ sẽ tốt đẹp. Tôi sẽ đạt được cảm giác an bình nội tại, có nghĩa là tôi có khả năng đương đầu với việc tôi có mặt trên hành tinh này.”

Giờ đây nhiều người trong các con đã cảm thấy đầy nhiệt huyết khi tìm ra giáo lý và phong trào tâm linh đầu tiên của mình. Nhưng rồi có chuyện xảy ra làm xáo trộn và gây thất vọng cho con. Đột nhiên con nhận ra đây không phải là điều con nghĩ. Có người đã bỏ đường tu vì lý do này, có người khác lại tìm ra một hướng để tiếp tục. Nhưng con có hoàn toàn hiểu chăng là không có một giáo lý tâm linh hay phong trào tâm linh nào sẽ tự động cho con điều con muốn? 

Nhiều người tìm được một phong trào tâm linh, rồi bị thất vọng, nhưng sau đó họ lại tìm thấy một phong trào tâm linh khác và họ suy luận: “Đây rồi”. Hoặc họ lý luận: “Chắc phải là cái này vì tôi không thể chịu nổi thất vọng lần nữa, vì vậy tôi sẽ đè nén bất kỳ nỗi nghi ngờ nào đối với phong trào thứ nhì hay thứ ba, hay bất kể là thứ mấy.” Nhưng cách duy nhất để tăng triển thật sự là dùng một giáo lý vỏ ngoài và một phong trào vỏ ngoài để chất vấn cảm giác cân bằng của con. Giờ đây con có thể nói: “Nhưng khi tôi lần đầu tìm được một giáo lý tâm linh, tôi đã mong muốn tìm thấy an bình nội tâm thoát khỏi áp lực của thế giới. Mong muốn này có gì sai không?” À, có đúng và sai. Con có thể nói đây là một mong muốn chính đáng vì sau cùng khi con đạt được giác ngộ hay niết bàn, con sẽ tự do khỏi áp lực của thế giới. Nhưng làm cách nào đạt được tự do này? Có người sẽ nói: “Ấy, tôi sẽ chỉ có tự do sau khi rời thế giới này. Khi tôi không còn đầu thai nữa thì tôi sẽ tìm thấy an bình thật sự.”

Nhưng con thấy đấy, tất cả giáo lý nói về nghiệp quả và luân hồi, cho dù là Phật giáo, Ấn giáo hay những giáo lý hiện đại hơn nói về quá trình thăng thiên, tất cả đều ngụ ý nếu chưa đạt đến một tầng mức nào đó thì con chưa thể thoát khỏi bánh xe luân hồi, con sẽ phải quay lại đầu thai. Trên hết, con có thể nói vấn đề không phải là khi thân xác này chết đi thì con sẽ đạt được an bình. Con sẽ chỉ an bình khỏi áp lực của thế giới này khi con tốt nghiệp khỏi bánh xe luân hồi, hay con thăng thiên và không còn phải quay lại đầu thai nữa.

Tất nhiên, đây là những điều các thày dạy ngày nay. Nhưng đây không phải lời dạy thiết thực khi trao truyền cho đại chúng cách đây 2500 năm. Vì vậy, trọng tâm của Bát chánh đạo thời ấy là giúp mọi người thay đổi trải nghiệm sống khi vẫn còn đang đầu thai. Và tất nhiên đây cũng là viễn quan phù hợp với ngày nay. Điều các thày muốn dạy con là làm thế nào thay đổi trải nghiệm sống để con đạt được an bình nội tâm khi vẫn còn thân vật lý và vẫn phải tiếp xúc với những áp lực bên ngoài. Một phần lý do là nếu con đạt được an bình nội tâm, con sẽ giữ được sự cân bằng tuyệt vời cho toàn bộ hành tinh. Con sẽ giúp kéo tâm thức tập thể đi lên khi con đạt đến mức nhận biết cao hơn khi vẫn hiện thân trong cơ thể vật lý. Đối với nhiều người các con, đây chính là sứ vụ Trọn đời của con – là đạt được cảm giác yên bình cao hơn này khi vẫn còn trong thân vật lý. 

1.14. Kìm nén hay giải quyết 

Giờ đây con thấy rất nhiều người ở khắp các thời kỳ lịch sử đã cách ly khỏi thế giới, sống trong các tu viện để kiểm soát chặt chẽ môi trường bên ngoài. Họ được bảo vệ khỏi những hành động bạo lực xảy ra ở bên ngoài và vì vậy họ sống trong một môi trường được kiểm soát chặt chẽ nơi cảm nhận cân bằng của họ không bị xao động. Nhiều người đã sống cả cuộc đời trong những môi trường như vậy và quả thật đã không tăng triển. Họ đã không bước lên bậc thang. Họ chỉ dùng môi trường và giáo lý vỏ ngoài để củng cố trạng thái cân bằng bằng sự đè nén. Tất nhiên đây không phải là điều thày kêu gọi con làm ngày nay.

Các thày kêu gọi con tìm một lối tu tập giúp con đạt được an bình thật sự, an bình không do đè nén mà do giải quyết. Con đạt được sự an bình này khi con vẫn còn thân vật lý hầu con có thể kéo tâm thức đại chúng đi lên, và con cũng trở thành cánh cửa mở qua đó con nhận được các ý tưởng và xung lực từ một tầng nhận biết cao hơn mà sau đó con có thể biểu đạt ra thế giới. Nếu con có thể làm được xoay chuyển cơ bản này thì toàn bộ cách con tiếp cận cuộc sống có thể thay đổi rất nhanh. Giờ đây con đạt được một tầm nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống.

Con có nhận thấy điều khác biệt cơ bản mà thày đã mô tả ở đây không? Một đằng là cách tiếp cận qua nỗ lực giảm bớt áp lực của đời sống trong thế giới này. Con tìm kiếm một loại an bình nội tâm nào đó cho dù con muốn định nghĩa thế nào. Nhưng cách con đạt bình an là dùng một giáo lý và thực hành tâm linh để đè nén cảm xúc, đè nén tư tưởng, đè nén một ý niệm bản sắc để dựng lên một cảm nhận hư giả là con kiểm soát cảm xúc, con cảm thấy trí năng mình vượt trội, và từ đó chủ yếu cảm thấy mình cao trội hơn những ai không theo giáo lý của mình.

Còn cách tiếp cận kia là con cố đạt được một sự giải quyết. Sự khác biệt trong cách nhìn thế giới là gì? À, khi con tìm cách đè nén một điều gì thì con nhìn thế giới như một mối đe dọa tiềm ẩn. Bất cứ điều gì xảy ra xáo trộn sự cân bằng của con đều là mối đe dọa đối với trạng thái cân bằng và do đó cần phải đè nó xuống. Con cần tìm cách loại bỏ nó thật nhanh để quay về trạng thái cân bằng. Con đã tạo nên những khuôn nếp trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể chỉ để làm chuyện đó là đè nén bất cứ gì làm xáo trộn thế cân bằng này.

Khi con chọn cách thứ nhì này thì con sẵn sàng bị xáo trộn. Và con có thể quả thật xoay chuyển khi nói: “Mục tiêu thật sự của tôi là giải quyết tất cả những khuôn nếp trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể đã trói tôi với trái đất, đã giữ tôi trong bộ đồ lặn, không cho tôi bám lấy sợi dây, leo lên nấc thang để càng lúc càng tự do. Tôi muốn đi theo chánh đạo của đức Phật, đi theo Bát chánh đạo, không phải con đường vỏ ngoài mà là con đường tu nội tâm của Bát chánh đạo.”

Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là khi một điều gì xảy ra bên ngoài làm xáo trộn thế cân bằng của con thì nó không phải là một mối đe doạ. Nó là một cơ hội. Nó là một cơ hội để con nói: “Tại sao điều này khiến tôi xáo trộn? Tôi đang có cảm xúc gì? Đằng sau cảm xúc này là gì? Thay vì chối bỏ cảm xúc và cố kìm nén nó, tôi hãy đi vào nó. Tôi đang thật sự cảm thấy gì? Có gì đằng sau cảm xúc này? Tôi có thể nhận biết tiến trình tư duy gì? Tôi đã có những tin tưởng gì? Tôi đã xây dựng loại thế giới quan nào khiến tôi cảm thấy cân bằng nhưng đồng thời cũng giữ tôi lại ở một tầng cấp nào đó? Tôi quả là không thể nắm bắt được các giáo lý tâm linh tôi đang theo học vì những khuôn nếp lý trí của tôi. Các giáo lý luôn phải rập theo các khuôn nếp lý trí này thay vì lẽ ra phải thách thức chúng. Và rồi khi tôi vượt lên trên những điều này thì ý niệm bản sắc của tôi trong quan hệ với trái đất là gì?”

Lấy ví dụ, con làm điều gì đấy và người ta phản ứng tiêu cực với điều con làm. Cảm xúc đầu tiên là con nổi giận với phản ứng của họ. Khi con đi vào trong cảm xúc, thoạt tiên con cảm nhận một sự bất lực không thay đổi được phản ứng của người kia đối với con, thay đổi cách người kia nhìn con. Nhưng con cũng cảm thấy con phải thay đổi được phản ứng của người kia vì con muốn hoà đồng với mọi người. Con không muốn người kia giận con và con không biết làm cách nào khác, ít nhất thể cảm xúc của con không biết làm thế nào khác hơn là thay đổi cảm xúc của người kia để con không phải cảm thấy mình đã quấy rầy họ. Sau đó, con lên đến cõi lý trí và nhận ra: Tại sao con lại có những tin tưởng này? Có lẽ con có cảm giác mình hiểu quyền tự quyết, con tôn trọng quyền tự quyết của người khác, và con cảm thấy mình phải sống được trên hành tinh này mà không làm phiền ai, không khiến họ nổi giận, không khiến họ kết tội con. Con luôn tìm cách hoà hoãn với người khác, đưa ra lời giải thích cho họ thấy lý do họ không nên giận con, lý do con là người thật sự tốt, vân vân.

Rồi con lên tầng bản sắc và nhận ra có lẽ con có cảm giác mình không thật sự được phép thuộc về nơi đây, trái đất này, con không được phép biểu đạt mình, ít nhất nếu điều này gây phiền toái hay khiêu khích người khác. Con cảm thấy mình phải sống được ở đây mà không quấy rầy người khác. Con luôn tìm cách rút mình khỏi các hoàn cảnh mà con có thể gây phiền phức tới người khác để con duy trì cảm nhận mình có thể ở đây mà không phải liên tục đối mặt với những người bảo con không có quyền ở đây. Có thể còn nhiều khuôn nếp khác nhưng đây là một ví dụ có thể áp dụng với nhiều người tâm linh.

Điều con có thể làm sau đó là bắt đầu nhìn vào những khuôn nếp này và dần dần qua thời gian (và có thể cần một thời gian rất dài) làm việc với chúng, thấy được chúng, dần dần giải quyết chúng cho đến khi con nhận ra con thật sự có quyền có mặt trên trái đất. Con quả thật có quyền đeo đuổi một mức tâm thức cao hơn, một mức nhận biết cao hơn. Con thật sự có quyền biểu lộ mức nhận biết này ngay cả nếu nó có quấy rầy người khác. Con thậm chí có thể nhận thấy điều này chắc chắn sẽ quấy rầy người khác vì đây là điều xảy ra với bất cứ ai nâng cao nhận biết mình vượt khỏi những điều được xem là bình thường trong bất kỳ xã hội nào. Con sẽ làm xáo trộn cảm giác bình thường, cảm giác cân bằng của họ.

Hầu hết mọi người đã tạo ra một cảm giác cân bằng cho rằng họ có quyền là con người mà họ là, và khi điều gì đấy từ bên ngoài khuấy động cảm giác cân bằng này thì họ nổi cơn thịnh nộ. Họ đã quy định một cảm giác bình thường rằng đây là tất cả những gì mà họ có thể là như một con người. Đây là tính cách mà họ cần là. Khi điều bình thường này bị khuấy động, họ lên cơn giận, và con làm gì khi con đang theo con đường tu tâm linh? Con đang dần nâng nhận biết lên vượt khỏi những điều thông thường trong xã hội. Nó sẽ xáo trộn mọi người chăng? Ấy, làm sao lại không xáo trộn được?

1.15. Sẵn lòng xáo trộn người khác 

Đây là điều chưa được ghi chép trong các lời dạy của Phật hay trong các huyền thoại về Phật, đó là thày đã gặp phải rất nhiều kháng cự, chống đối, tức giận lúc bắt đầu truyền đạo. Điều này được ghi chép lại nhiều hơn trong Kinh thánh khi Giê-su gặp phải sự chống đối khi thày bắt đầu giảng đạo. Nhưng ở một mức độ nào đấy, tất cả các vị thày tâm linh đều gặp phải những chống đối này. Vài vị thày đã tìm được cách rút lui, như thày cuối cùng đã rút vào Tăng đoàn. Vì đây là một cách truyền đạo thích đáng, thày rút khỏi thế gian và những ai mở tâm ra với giáo lý sẽ tìm đến thày.

Một cách thích đáng khác, như Giê-su đã nêu gương, là ra ngoài thế gian và làm bối rối nhiều người. Giê-su đã làm gì? Nếu con nhìn vào toàn bộ sứ vụ trong ba năm của Giê-su thì con thấy thày đã làm gì? Thày đã thách thức cảm giác bình thường của mọi người. Thày đã nói: “Có một cái gì hơn là con người con đang là bây giờ.” Và phản ứng của mọi người là gì? Hoàn toàn bác bỏ. Người ta muốn trả tự do cho một tên sát nhân hơn là cho kẻ khuấy động họ vì họ có thể đương đầu với tên sát nhân. Đây là lẽ thường. Có những người giết người khác. Nhưng khi bảo rằng con có thể là nhiều hơn một con người thường thì thật là thái quá. “Chúng tôi sẽ không chịu bị khuấy động vì vậy chúng tôi sẽ giết ai khuấy động chúng tôi.”

Con thấy phần lớn những người tâm linh rất ngần ngại không muốn quấy rầy người khác. Vậy điều gì sẽ giúp cho thời hoàng kim của Saint Germain, thời đại của nhận biết cao hơn thị hiện? Đó là việc có một số người cần biểu lộ là cuộc sống có cái gì hơn nữa, hơn cái mà mọi người xem là bình thường, và con cần làm điều này bằng cách bước ra ngoài kia trong bất kỳ vai trò và khả năng nào. Điều này không có nghĩa con phải làm những gì Giê-su hay Phật đã làm, bị giết hay bị hành hạ, nhưng con sẽ quấy rầy người khác và đồng thời con cần tìm ra một cách để con an bình với việc làm này để hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng con không cần làm vậy khi con khởi sự đường tu. Con có thể dành một khoảng thời gian dài để giải quyết những khuôn nếp này để khi người khác phản ứng lại, con không cảm thấy xao động.

Thày biết rõ đây là một bài giảng dài. Nhưng thày mong thiết lập một nền tảng để thày có thể ban ra những giáo lý sâu sắc hơn về Bát chánh đạo và cách thức giúp con có thể tiến tới cảm nhận thật sự về an bình nội tại không dựa trên đè nén và chối bỏ, nhưng dựa trên việc giải trừ các ngã và một cái nhìn sáng ngộ hơn.

Tới đây, thày cám ơn các con đã chú tâm để thày có thể phóng chiếu ý tưởng này qua tâm và luân xa của con để nó đi vào tâm thức đại chúng, từ đó đi tới những ai sẽ không bao giờ nghe tới người sứ giả này, sẽ không bao giờ nghe tới Chân sư Thăng thiên Phật Gautama hay sẽ không bao giờ chấp nhận các ý này, nhưng ý tưởng này vẫn sẽ có một ảnh hưởng lên tâm thức họ. Họ sẽ đột nhiên thấy điều họ chưa từng thấy trước đây và từ đó sẽ có thể dùng bất kỳ lời dạy tâm linh nào họ tiếp nhận ở một tầng mức cao hơn.

Một lần nữa con nhận thấy mục tiêu của các thày là nâng cao sự nhận biết của mọi người. Mục đích của các thày không phải là đưa họ vào một giáo lý tâm linh đặc thù, nhưng với những ai mở tâm ra với một giáo lý tâm linh có giá trị, các thày mong muốn họ đạt được những tầng cấp ngày càng cao hơn trong việc nắm bắt giáo lý này. Điều này có nghĩa là, con là chất xúc tác giúp củng cố phong trào này, và tất nhiên phong trào này đã diễn ra trong một thời gian rất dài, thậm chí trước cả khi thày truyền đạo cách đây 2500 năm. Đây là một quá trình không ngừng nghỉ từ lúc bầu cõi chưa thăng thiên này được tạo lập, thậm chí từ các bầu cõi trước. Đây là hơi thở-ra và hơi thở-vào của Thượng đế. Là một phần của hơi thở-vào này, ý thức mình là một phần của hơi thở-vào có thể rất hữu ích để con đạt được trạng thái an bình dù con đang sống trong thế giới nhiều xáo trộn, con có mặt ở đây để là một phần của quá trình tiếp diễn vô tận, vượt thời gian, nâng cao mọi sự sống từng bước lên đến những tầng càng lúc càng cao hơn. Điều gì sẽ có thể xáo trộn con nếu không phải đó là một khuôn nếp con chưa giải quyết, một ngã tách biệt con chưa buông bỏ, một dính mắc với ngã tách biệt hay với khuôn nếp đó?

Bằng cách nhận ra điều này, bằng cách làm việc với ngã tách biệt này cho đến khi con tách mình ra khỏi nó và đột nhiên con thấy nó từ bên ngoài, con thấy nó giới hạn con biết chừng nào và con để nó chết đi – đây chính là cách con dần dần đạt được an bình ngày càng nhiều hơn. Không có công thức thần diệu đâu. Con không thể bất thần búng ngón tay mà đạt được an bình nội tại. Nhưng con có thể đi qua sự chuyển hoá này và con đi nhanh hay chậm tùy vào con sẵn lòng tới đâu để nhìn vào những điều gây xáo trộn con. Qua bài giảng này, thày hy vọng thày đã xáo trộn sự an bình lẫn trạng thái cân bằng của con, đổi lại thày trao cho con một cảm nhận an bình sâu sắc hơn. Chắc chắn thày sẽ quay lại và trao truyền những lời dạy uyên thâm hơn, và thậm chí còn xáo trộn con hơn nữa khi con sẵn lòng.

Thày niêm con trong niềm vui của Phật mà Ta Là.

5 | Con không thể lên cao hơn ý định của con

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Ý định cao hơn có nghĩa là gì? Ý định là gì? Thông thường người ta nói: “Tôi có một ý định dựa trên mong muốn có một vật gì, trải nghiệm một điều gì, hoàn thành một điều gì.” Ý định hàm ý quá khứ, hiện tại và tương lai. Nó hàm ý là trong quá khứ con đã hình thành một số mong muốn nào đó, một viễn quan nào đó. Ngay bây giờ, con có ý định là viễn quan này trở thành hiện thực, nhưng con nghĩ nó sẽ xảy ra ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Nhưng ý định cao nhất là gì? Chẳng có cách nhìn nào khác về ý định hay sao?

Thày đã có nói là con sống trong một thế giới khó khăn. Nhiều người có mong muốn tự bảo vệ khỏi thế giới hỗn loạn này. Họ có ý định được bảo vệ khỏi một phần của sự hỗn loạn để không bị quá tải, nhưng cũng có thể họ mong muốn sở hữu một cái gì, thực hiện một việc gì, trải nghiệm một điều gì trong thế gian này. Một lần nữa, tất nhiên là chuyện này không có gì sai trái. Con là con người mà con là ngay bây giờ, và dựa trên con người con là bây giờ, con nhìn vào thế giới, con nhìn vào bản thân, con nhìn vào cuộc đời theo cách nào đó. Dựa trên cái đó, con có một số ý định, một số mong muốn mà con muốn thấy sẽ hiện thực, một số vật mà con muốn có, một số sự việc mà con muốn tránh. Không thể nào khác được.

Khi con cất bước trên con đường Bát chánh đạo, con nhận ra là ý định con có ngay bây giờ không phải là ý định cao nhất có thể. Thật con không cần nhất thiết lên án ý định của con, phán xét nó là sai lầm hay mạnh bạo trấn áp nó, mà con cần nhận ra là cuộc sống trên một hành tinh như địa cầu có hai khía cạnh. Một khía cạnh như thày đã nói, là có một số chuyện con cần làm để sống còn, để giữ cho thân xác vật lý của mình tồn tại. Và khía cạnh kia là con có một mục đích rộng lớn hơn, một mục đích dài hạn hơn, là đạt niết bàn, đạt sự an bình nội tâm, đạt sự giác ngộ, bước chân trên đường tâm linh, nâng cao trình độ nhận biết của mình cho dù con định nghĩa như thế nào.

Con cần bắt đầu suy ngẫm là thực sự con có hai loại ý định khác nhau ở đây. Con có một ý định liên quan đến việc sinh sống trên trái đất, ngụ trong một cơ thể vật lý trên trái đất, và con có một ý định liên quan đến việc vượt xa hơn trái đất, vượt xa hơn cơ thể vật lý. Khi con bắt đầu có sự nhận biết tâm linh, thử thách là làm thế nào quân bình được cả hai. Đây là thử thách muôn đời, là thử thách vượt thời gian mà con người đã đối mặt trong một thời gian rất dài. Làm thế nào con dung hòa được sự kiện con đang ở đây với ý định là mình sẽ không ở đây vĩnh viễn, vô thời hạn? Đây là điểm đòi hỏi con khởi đầu một tiến trình thực sự chất vấn các ý định cùng các mong muốn của mình.

5.1. Sự căng thẳng tinh thần khi quy định thế nào là ý định chân chính

Có nhiều Phật tử đã xem xét khái niệm ý định “chân chính” này [còn được gọi là Chánh tư duy] theo cách nhìn của họ, và một lần nữa họ lại tìm cách quy định một cách thức vỏ ngoài để phân biệt ý định chân chính với ý định bất chính. “Tôi cần tránh, tôi cần ép mình để không có ý định nào sai trái, và thay vào đó tôi sẽ ép mình để có, hay để trau dồi, những ý định chân chính.” Điều này đã khiến cho nhiều, rất nhiều người rơi vào một vòng xoắn ốc phải vận dụng càng ngày càng nhiều áp lực tinh thần để kìm nén các ý định mà họ đã dán nhãn là sai trái, để luôn luôn tỉnh thức, tập trung ý định vào việc cho phép chỉ những ý định được họ dán nhãn là đúng đắn. Điều này có thể trở thành một nỗ lực tinh thần gay gắt, một sự dồn ép căng thẳng mà con có thể chứng kiến không những nơi các Phật tử mà nơi nhiều người tâm linh hay mộ đạo, thậm chí cả nhiều người đang cố sống theo một loại lý tưởng nào đó.  

Đây là lúc chúng ta cần bước lui lại một chút. Chúng ta cần nhìn nhận là đường tu dẫn đến nhận thức cao hơn có nhiều giai đoạn. Có một số giai đoạn và con phải bắt đầu ở một điểm nào đó. Con bắt đầu ở mức con đang đứng khi con tìm thấy giáo lý tâm linh trong kiếp này. Đối với mỗi người thì mức này mỗi khác, tùy theo trình độ phát triển con đã đạt được trong tiền kiếp. Đối với cá nhân con, con đã bước vào kiếp đầu thai này với một mức độ ý định nào đó, một mức độ nhận biết nào đó. Con đạt tới điểm lần đầu tiên con khám phá giáo lý tâm linh, con nhận chân là có một đường tu tâm linh, có một quy trình con có thể đi theo. Vào lúc đó, cách con nhìn sự việc này thể hiện trình độ nhận thức tổng quát của con, và dựa theo đó, con hình thành một số ý định về những gì con muốn gặt hái từ việc bước chân trên đường tâm linh. Một lần nữa, không có gì sai trái ở đây – con đâu làm gì khác được?

Điều con cần nhận ra ở đây là khi con bước chân trên đường tu, khi con nâng cao mức nhận biết, con cần tái xét các ý định đã khiến con đi theo đường tu cùng các ý định về cuộc sống trên trái đất. Con không thể chỉ đơn giản lập ra một cách đánh giá trắng-đen nhị nguyên về thế nào là ý định “đúng”, thế nào là ý định “sai”. Con không thể tự ép buộc mình. Hay đúng hơn, con có thể tự ép buộc mình nhưng làm như vậy sẽ không nâng cao nhận biết của con. Nó sẽ giữ con kẹt lại ở mức này nơi con cảm thấy bởi vì con đã tự ép mình để không có ý định sai mà chỉ có ý định đúng, cho nên con đã đạt đến một giai đoạn cao cấp nào đó trên đường tu, và vì thế con tốt thiện hơn những kẻ đã không làm giống con. Như thày đã giảng rất nhiều lần, đây không phải là tiến bộ thực.

5.2. Một lượng định cao hơn về ý định

Có một giải pháp khác là con không đánh giá các ý định của con dựa trên đúng hay sai. Thày đã giảng về sự tách biệt, về ảo tưởng tách biệt và tâm thức nhị nguyên. Chuyện gì thực sự xảy ra khi con quy định có hai đối cực nhị nguyên là đúng và sai? Con tự đặt mình vào một tâm thái sẵn lòng sử dụng vũ lực. Như thày đã trình bày, hậu quả cùng cực là con sẵn lòng tiêu diệt một nhóm người khác với nhóm của con theo cách con định nghĩa. Là một người tâm linh, con đã vươn lên một mức cao hơn nơi con không còn quá chú tâm vào việc ép buộc người khác nữa. Thật ra hầu hết những người tâm linh đều không sẵn lòng dùng sức mạnh trên người khác, nhưng thường khi con lại sẵn lòng dùng sức mạnh trên chính con. Con có thể rất dễ bước vào tâm thái cảm nhận mình phải vận dụng ý chí, vận dụng chú ý và tập trung của mình để cưỡng ép mình, cưỡng ép tâm mình.

Nhiều người tâm linh cho rằng họ có thể tiến bộ qua việc thiền quán, nhưng thiền quán thường bị xáo trộn bởi cái mà một số Phật tử gọi là tâm khỉ, qua đó ý tưởng cứ chạy tứ tung. Họ đã tạo dựng quan điểm cho rằng họ có thể cưỡng ép tâm họ để nó không suy nghĩ, cưỡng ép tâm để nó không có ý tưởng, và điều này có thể trở thành một nỗi căng thẳng to lớn cho một số người đã tập theo như vậy trong một thời gian dài. Có thể họ nghĩ là họ đã đạt được ít nhiều kết quả, nhưng tất cả đều dựa trên sức mạnh. Giải pháp khác hơn là con tra vấn cách tiếp cận dựa trên sức mạnh này và nhận ra là con không cần dùng đến sức mạnh.

Điều có thể giúp con trong việc này là con hiểu rằng trước khi con đầu thai trong kiếp này, con đã lập ra một Kế hoạch Trọn đời. Con đã lập ra như vậy cùng với các vị cố vấn tâm linh của con tùy theo quá trình cùng mức phát triển cá nhân của con. Con đã nhận được lời khuyên từ những vị thày già dặn hơn, giàu kinh nghiệm hơn, và dựa theo đó con đã lập ra một Kế hoạch Trọn đời. Đa số con người trên trái đất hoặc không có Kế hoạch Trọn đời, hoặc có một Kế hoạch Trọn đời rất đơn giản, nhưng con là một người tâm linh cởi mở với giáo lý tâm linh thì con có một Kế hoạch Trọn đời tỉ mỉ, kỹ lưỡng hơn. Kế hoạch này nhằm mục đích chủ chốt là tăng triển trình độ tâm thức, nâng cao mức nhận biết ngày càng cao hơn. Con đã ngồi xuống với các vị thày tâm linh của con và lượng định: “Con đang ở mức tâm thức nào, đâu là những khuôn nếp, những ảo tưởng mà con có trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc mà con cần khắc phục để có thể tinh tiến, và làm thế nào con có thể tạo thuận lợi nhất cho công việc này trong kiếp đầu thai tới của con?” 

Và đó là cái khung tổng quát để con chọn lựa mình sẽ hiện thân lúc nào, ở nơi đâu và trong hoàn cảnh nào. Hầu hết những người tâm linh đều chọn cha mẹ và gia đình của mình, họ chọn nền văn hóa và quốc gia, vì trong môi trường đó có một điều gì có thể giúp họ khắc phục các ảo tưởng, các dính mắc, các khuôn nếp, các khuôn nếp phản ứng mà họ muốn vượt qua trong kiếp đầu thai này.

Đây là điểm mà con có thể nói là có một yếu tố vũ lực nào đó, vì khi con lập ra Kế hoạch Trọn đời thì con có một tầm nhìn rõ ràng hơn về những gì con cần khắc phục. Tất nhiên, con biết là một khi con lại bước xuống hiện thân thì con sẽ quên mất tầm nhìn này. Đây chính là bản chất của việc khắc phục một điều gì đó. Nếu con biết trước con sẽ phải khắc phục điều gì thì việc khắc phục đâu còn là thử thách gì nữa?

Làm thế nào con sẽ khắc phục trong thực tế? Con có một ảo tưởng. Nếu con biết đó là ảo tưởng thì con đã khắc phục nó rồi. Cách duy nhất để khắc phục là con bước xuống hiện thân với ảo tưởng đó, con quên mất ảo tưởng rồi trong khi con đầu thai con nhìn ra ảo tưởng. Đây là cách con khắc phục nó. Con vẫn mang một sự nhận biết nào đó trước khi đầu thai về những điều con cần khắc phục, và con quyết định tự đặt mình vào một tình huống bắt buộc con phải giải quyết cái khía cạnh cụ thể đó trong tâm lý của con. Hoàn cảnh vỏ ngoài của con, những người mà con cùng đầu thai như cha mẹ và anh chị em con chẳng hạn, tất cả đều mang một số khuôn nếp trong tâm lý của họ sẽ bắt buộc con phải phản ứng lại họ hầu con có dịp nhìn thấy các khuôn nếp nơi chính con. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là con đã tự ép mình phải đương đầu với hoàn cảnh đó, nhưng tất nhiên khi con bước vào đầu thai thì con đã quên mất, và đây chính là tại sao con thường phản ứng mạnh mẽ đến như vậy đối với cha mẹ mình, gia đình mình, hoàn cảnh vỏ ngoài của mình. Thử thách của con là con nối kết lại với cái đó.

5.3. Tâm muốn kềm chế

Con thấy những gì thày vừa nói đó, có một cơ chế trong tâm muốn kềm chế, trấn áp một số chuyện mà nó xem là mối đe dọa. Đó có thể là mối đe dọa bị choáng ngợp, hay phải chất vấn các niềm tin của mình hay là gì đi nữa, nhưng con muốn kềm chế nó. Khi con bước vào kiếp đầu thai, điều này thường có nghĩa là trong những hoàn cảnh khó khăn phải đương đầu với một người khó tính, con muốn đè nén nhu cầu xem xét chính mình. Con muốn trấn áp các cảm xúc, các tin tưởng, kềm chế tình huống con phải đối mặt để nó không làm xáo trộn thế cân bằng của con. Một lần nữa, đây là một điều tự nhiên trong một thời gian, nhưng nếu con là một người tâm linh, Kế hoạch Trọn đời của con có trù liệu là tới một điểm con sẽ tìm ra một giáo lý tâm linh và con được nhắc nhở một cách ý thức là có một con đường để mình bước theo.

Điều có thể đem lại lợi lạc cho con là con nắm lấy lời dạy này ở đây và nói: “Khi tôi lập ra Kế hoạch Trọn đời của tôi, tôi đã muốn ép buộc mình phải nhìn thấy điều gì? Tại sao tôi đã tự đặt mình vào hoàn cảnh này? Tôi muốn phơi bày điểm gì trong tâm lý của tôi?” Bằng cách quyết định ý thức như vậy, con có thể ít nhất khắc phục được phần nào sự kháng cự không muốn nhìn vào tâm lý của mình để tìm ra tại sao mình lại có khuôn nếp phản ứng như vậy đối với một số loại người.

Đây là một phần trong tiến trình con hình thành một ý định cao hơn, qua đó con nhận ra là trong cái “bây giờ và ở đây”, trong tình huống trước mắt con, con có một số khuôn nếp phản ứng đang muốn con kìm hãm việc xem xét tâm lý của con. Con có thể chọn gạt bỏ các khuôn nếp này và quyết định: “Không, tôi sẵn lòng nhìn vào tâm lý của tôi, các khuôn nếp của tôi, để nhìn thấy chúng và khắc phục chúng.” Điều này có nghĩa là giờ đây con đang nối kết với ý định đằng sau Kế hoạch Trọn đời là ý định của chính con. Và khi con nối kết vào đó thì có còn đâu yếu tố vũ lực nào nữa? Con đâu cần ép buộc mình phải xem xét điều gì khi con nối kết lại với ý muốn giải thoát khỏi điều đó? Khi con nhận ra là con muốn được tự do khỏi cái đó, con không đang ép buộc mình phải đương đầu với nó.

5.4. Con là ai?

Khi đó, con có thể bắt đầu chiêm nghiệm là có hai cấp độ ý định. Như thày vừa nói, bây giờ và ở đây, trong tình huống hiện tại, có một phần trong tâm con, tâm phàm của con có thể gọi là tự ngã, đang có một ý định duy trì thế cân bằng của con, không muốn bị xáo trộn, không muốn cảm thấy bị đe dọa. Con muốn kềm chế cảm xúc, kềm chế tư tưởng, kềm chế cách con nhìn chính con. Đây là điều mà phần này của tâm vốn làm. Nó giống như một chương trình máy tính không biết làm gì khác. Đây không phải là ý định cao nhất của con. Ý định cao nhất của con là những gì nằm trong Kế hoạch Trọn đời khi con đã có ý muốn khắc phục một số những khuôn nếp đó, có thể tất cả các khuôn nếp mà con còn sót lại. Một khi con nhận chân điều này thì không có chuyện ép buộc mình phải từ bỏ ý định thấp và chấp nhận ý định cao. Con tái nối kết với ý định cao. Con nhận ra rằng cái ta mà con là, đó là chính con có một ý định cao hơn. Đây mới là ý định của con.

Ý định muốn bưng bít và tránh né một chuyện gì không phải là ý định của con, đó là ý định của tự ngã, của ngã vỏ ngoài. Xong với thời gian, con có thể lần hồi chiêm nghiệm được điều này: Con là ai chứ? Đâu là cái ta đang có một ý định cao hơn cái ta mang ý định thấp?

Đây là điểm con sẽ được lợi lạc khi con tự hỏi một số câu hỏi mà hầu hết mọi người không thể đặt ra. Chẳng hạn, con là ai ngay lúc này, ai đang thu nhận bài giảng này? Đây là một bài giảng tâm linh. Nó có ý định giúp con nâng cao mức nhận biết của con. Ai là cái ta đang thu nhận lời dạy này?

Con cũng có thể hỏi ai là cái ta đang cưỡng lại lời dạy này? Con có thể nhận ra là trong tâm con có một cố gắng nào đó để khiến con cưỡng lại lời dạy. Có một cố gắng moi ra những kiến thức và tin tưởng hiện thời của mình, rồi dựa trên đó đánh giá lời dạy, tìm xem có điểm nào, có lý do hay viện cớ nào để bác bỏ lời dạy. Nhiều người tìm thấy một giáo lý tâm linh rồi phát hiện một chi tiết nhỏ xíu không tán thành với những niềm tin hiện tại của họ, thì họ dùng điểm này để bảo: “Ồ, toàn bộ giáo lý này sai bét.”

Ai là cái ta đang học giáo lý và ai là cái ta đang cố khiến con bác bỏ giáo lý? Nói cách khác, ai là cái ta đang cởi mở và ai là cái ta đang muốn con đóng tâm lại? Cái ta cởi mở là cái ta thực của con, trong khi cái ta cưỡng chống muốn con khép kín tâm con lại là tâm vỏ ngoài, là nhân cách tự ngã muốn con ở lại trong ảo tưởng. Toàn bộ nhân cách tự ngã này dựa trên ảo tưởng. Nó khởi lên từ ảo tưởng nhưng nó muốn con ở lại trong ảo tưởng. Đâu là cái ta mà con là? Ấy, con có thể bắt đầu cố sức tìm hiểu nó một cách trí thức, nhưng thật sự tất cả chỉ là việc trải nghiệm, cho nên con hãy thử làm bài tập đơn giản sau đây.

Một số các con đã biết bài tập này rồi nhưng đối với một số khác thì đây là điều mới lạ. Con hãy nhận biết là con đang ngồi đây thu nhận bài giảng này. Con nhận biết là có thể con đang ngồi trên một chiếc ghế, cho nên con hãy bước ra ngoài chính con bằng tư tưởng, bước ra ngoài tâm con, và con hình dung, con tưởng tượng là con đang đứng sau ghế và đang nhìn thân con ngồi trên ghế. Bây giờ con nhận ra là con đang ngồi trong một căn phòng, nhưng có gì đó bên ngoài căn phòng. Bây giờ bằng tư tưởng, con hãy lùi về thêm nữa cho đến khi con nhìn thấy nguyên căn phòng nơi con ngồi. Con thấy thân con đang ngồi trên chiếc ghế trong căn phòng. Rất có thể căn phòng này thuộc một căn nhà. Con lại lùi thêm, lại hình dung, tưởng tượng toàn bộ căn nhà, căn phòng trong căn nhà, và thân con ngồi trên ghế trong căn phòng. Bây giờ con có thể lùi lại thêm nữa trong khoảng môi trường bên ngoài căn nhà, nhìn căn nhà, căn phòng, chiếc ghế, vân vân. Con có thể lui lại, lui nữa và lui thêm nữa, nhìn thấy toàn bộ trái đất, con nhìn trái đất từ ngoài không gian, nhìn thái dương hệ, nhìn dải thiên hà, và suốt thời gian này từ nhãn quan của con, con vẫn nhìn xuống nơi thân con đang ngồi trên chiếc ghế.

Đây là một bài tập thật đơn giản nhưng một số người sẽ không thể làm được, trong khi một số khác sẽ không bị khó khăn gì hết, ít ra để tưởng tượng và hình dung là mình đang bước lùi lại. Câu hỏi bây giờ là như sau: Ai là cái ta đang lùi lại? Đâu là khả năng mà con có trong tâm con để lùi lại khỏi thân vật lý của con?

5.5. Cái ta là nhiều hơn cơ thể và tâm vỏ ngoài

Tuyệt đại đa số con người trên trái đất bị đồng hóa với cơ thể vật lý của mình đến độ họ không thể tưởng tượng là họ có thể bước ra khỏi cơ thể và đứng nhìn cơ thể. Nếu con có khả năng làm điều này thì có nghĩa là con không đến nỗi đồng hóa với cơ thể mình như hầu hết mọi người. Điều này có nghĩa là có một cái ta không phải là cơ thể, bởi vì nếu không thì làm sao con đã có thể bước ra khỏi nó bằng tư tưởng? Con không phải, như các nhà chủ nghĩa duy vật thường bảo, là một sản phẩm của những quá trình điện hóa (electrochemical) trong bộ não. Là người tâm linh, con đã chấp nhận mình không phải là cơ thể vật lý của mình. Thế thì con cũng có thể chiêm nghiệm rằng con không là thể cảm xúc của con, con không là các tình cảm của con, con không là các ý nghĩ của con, thậm chí con không là cả cái ý niệm bản sắc của con liên hệ với trái đất. Vậy con là ai? Con là gì?

Khi con suy nghiệm điều này, cuối cùng con sẽ nhận ra là giống như con có thể bước ra ngoài thân xác vật lý của mình bằng tư tưởng, thì con cũng có thể bước ra ngoài các cảm xúc của mình, các ý nghĩ của mình cùng ý niệm bản sắc của mình, và con ngộ ra là thực sự mình y như một diễn viên. Con bước vào một rạp hát, con mặc vào một bộ trang phục, con trét vào một lớp phấn son, thậm chí con khoác vào một giọng nói đặc thù, một cách nói năng, một nhân cách đặc thù, và đột nhiên con có thể bước ra sân khấu, diễn xuất như thể con là một người khác hẳn con người mà con vốn là trong đời sống bình thường. Cả bốn thể của con giống như một bộ đồ mà con đã chui vào. Vậy đâu là cái ta của con? Cái ta chính là cốt lõi của bản thể con.    

Thày biết là tâm con đang bị khó khăn, nó đang đánh lộn vì nó muốn làm những gì nó vẫn thường làm. Nó muốn có một sự mô tả, nó muốn có một cái nhãn, một tên gọi, nó muốn nắm một số đặc tính để nó có thể hiểu được cái ta là gì. Con thấy không, khi bàn đến bản sắc thế gian, tâm lý trí, cảm xúc và cơ thể vật lý của con, tất cả những thứ này đều mang những đặc tính có thể được mô tả bằng từ ngữ, bằng những tâm ảnh mà con sử dụng trên trái đất. Nhưng cái ta mà con là, nó vượt khỏi cái đó. Nó là nhiều hơn bốn thể của con, cho nên nó không thể được mô tả qua ngôn từ cùng các tâm ảnh được sử dụng trên trái đất.

Tâm vỏ ngoài của con không thể nào nắm bắt cái ta thực của con, và rất có thể nó đang nổi loạn chống lại ý tưởng này, nó đang cuống cuồng muốn nắm bắt, gắn nhãn, phân loại khái niệm này. Có thể nó đang lập luận rằng thật vô nghĩa mà nói chuyện về một cái gì có thực nhưng lại không mang đặc tính nào khả dĩ được mô tả.

Đâu là mục đích của một giáo lý tâm linh? Là giúp con nâng cao nhận biết, và làm thế nào con sẽ nâng cao nhận biết? Bằng cách thăng vượt mức nhận biết hiện thời của con. Đâu là mức nhận biết hiện thời của con? Đó là nội dung của các thể bẳn sắc, lý trí, cảm xúc của con. Đó là cái cho con một cái ngã vỏ ngoài, một cảm nhận vỏ ngoài rằng con là ai và con liên hệ thế nào với môi trường nơi con sống.

Ngay bây giờ đây, con có một mức nhận biết nào đó, và khi thày cho con khái niệm là có một phần trong bản thể con vượt khỏi mức nhận biết đó, thì tâm con liền muốn dùng mức nhận biết hiện thời này để cố nắm bắt, phân loại, gắn nhãn, mô tả cái phần này của bản thể con. Có những đệ tử tâm linh đã bỏ ra hàng chục năm trời để cố tìm hiểu các khái niệm tâm linh một cách trí thức bằng tâm vỏ ngoài đường thẳng. Thậm chí một số đã cố tìm hiểu khái niệm bảo rằng có một phần của họ vượt khỏi tâm, vượt khỏi tâm vỏ ngoài, nhưng họ không thể hiểu nổi với mức nhận biết hiện tại của họ. Con hãy ngẫm đi, và khi đó nếu con có khả năng buông bỏ cách nhìn cuộc đời hiện thời của mình, con sẽ có thể đạt được cái người ta thường gọi là một trải nghiệm thần bí.

Cái gọi là trải nghiệm thần bí đó thật chẳng thần bí gì cả. Nó dựa trên sự kiện có một cái ta. Chúng ta có thể gọi đó là cái ta ý thức, hay cái Ta Biết, nhưng ở một thời điểm nào đó có một cái ta đã bước vào cơ thể vật lý của con cùng các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Nó đến từ ngoài, nó đã bước vào đó, và nó đang dùng bốn thể này như một cỗ xe để tương tác với môi trường của con trên trái đất. Nó không do các thể này sản xuất ra, mà nó đã khoác vào các thể này. Theo một nghĩa nào đó, thậm chí nó đã chế tạo ra các thể bản sắc, lý trí, cảm xúc trong những kiếp trước. Chính sự kiện nó đã bước vào tâm hiện thời của con cũng có nghĩa là cái ta này có khả năng bước ra ngoài tâm con. Con có thể nói là ngay bây giờ đây, cái ta đang nhận biết chính nó là bốn thể phàm, nhưng cái ta có khả năng bước ra ngoài bốn thể này và ý thức được chính nó vượt hơn bốn thể, vượt hơn tâm. Đây là nền tảng cho mọi sự tăng triển nhận biết.

Nếu con lại dùng tâm đường thẳng thì con có thể ví con đường này như một chiếc cầu thang có nhiều bực riêng rẽ. Ngay bây giờ con đang đứng ở một bực nào đó trên cầu thang. Câu hỏi là làm thế nào con bước lên bước kế tiếp? Ai đang bước lên chứ? À, đó không phải là các thể cảm xúc, lý trí, bản sắc của con. Đó không phải là ý niệm bản ngã hiện thời của con, ý niệm con là ai, ai đang bước lên, bởi vì cái ngã hiện tại này của con bị buộc chặt vào bực thang hiện tại. Vậy cái gì bước lên? Cái Ta bước lên.  

5.6. Tự quan sát là cốt tủy của con đường tâm linh

Điều này xảy ra khi con nhìn vào bản thân, chẳng hạn một khuôn nếp phản ứng. Con thấy mình có xu hướng phản ứng một cách nhất định nào đó trong một số hoàn cảnh. Thay vì cho rằng đây là cách phản ứng duy nhất, con đạt tới điểm tự hỏi: “Tại sao tôi lại phản ứng cách này? Tôi thật không muốn nổi giận khi có ai đó không làm theo ý tôi. Tôi không muốn có trải nghiệm giận dữ này. Nếu tôi nghĩ đây là cách duy nhất thì làm thể nào tôi có thể thoát ra khỏi nó? Vậy tôi hãy nhìn vào nó, nhìn vào cái gì ở đằng sau nó. Tại sao tôi lại cho rằng đây là cách phản ứng duy nhất?”

Xong con có thể nhận ra là người khác không phản ứng cùng cách đó trong những tình huống tương tự. Có những cách phản ứng khác. Thật ra, Phật có nói là luôn luôn có một cách phản ứng khác dựa trên sự không dính mắc. Nói cách khác, con không mang một khuôn nếp khiến con bị dính mắc với một cách phản ứng nhất định. Điều này con có thể ngộ ra, con có thể nhìn ra là có một ảo tưởng khiến con tin rằng đây là cách phản ứng duy nhất. Khi con nhìn xuyên thấu ảo tưởng này, khi con thấy đó là một ảo tưởng đang giới hạn con, đang cầm giữ con lại, thì con sẽ tự động buông nó ra.

Có một câu chuyện quen thuộc được nhiều vị thày tâm linh sử dụng là nếu con đang đứng trong bóng tối, con nắm một vật gì đó và tưởng đó là sợi dây thừng thì có thể con sẽ nắm tiếp. Nhưng nếu người ta bật đèn lên và con thấy đó là một con rắn, thì con không phải nặn óc phân tích phức tạp dài dòng. Con chỉ tự động mở tay ra và buông con rắn. Điều tương tự cũng xảy ra ở đây. Khi con thấy rằng cái con tưởng là cách phản ứng duy nhất hay sự thật chỉ là một ảo tưởng, thì con tự động buông ảo tưởng ra, thế rồi con bước lên bực kế tiếp. Tất nhiên, con sẽ vẫn đem theo các ảo tưởng khác còn sót lại trong ba thể. Nhưng khi con xem xét ảo tưởng kế tiếp và buông nó ra, con lại vươn lên một bước nữa, và đây là cách làm thế nào con lần lần tiến bước trên đường tu. Nhưng công việc này chỉ có cái Ta của con mới làm được, không phải là tâm vì tâm không thể xem xét chính nó.

5.7. Máy tính sẽ không bao giờ có khả năng tự nhận biết

Hiện trong các giới khoa học đang có một phong trào nỗ lực tạo ra thông minh nhân tạo, vì nhiều nhà khoa học trong ngành nghiên cứu hành xử con người, chẳng hạn, đã tìm ra là các phản ứng của con người gần giống như máy tính. Đối với hầu hết mọi người thì nhận xét này không sai. Con đặt người ta vào một tình huống nào đó thì họ sẽ phản ứng y như cách họ đã phản ứng mười lần trước đó trong cùng tình huống này. Lý do là vì như thày đã giải thích, con mang một số khuôn nếp trong tâm tiềm thức của con. Thông thường một khuôn nếp nằm yên như đang ngủ, nhưng khi con gặp một tình huống đặc thù, tình huống sẽ kích hoạt khuôn nếp, sẽ tiếp quản phản ứng của con, thế là bây giờ con phản ứng theo đúng cách đó. Tâm tiềm thức của con có nhiều mặt giống như một chiếc máy tính, nó mang sẵn một số chương trình và khi chương trình được kích hoạt, chúng sẽ điều khiển phản ứng con, con sẽ phản ứng theo một cách nào đó, rồi có thể sau đó con sẽ hối hận hay con lập luận rằng: “Ồ, đó là cách duy nhất mình có thể phản ứng.”       

Điều các nhà nghiên cứu thông minh nhân tạo đã hiểu lầm là đối với một con người, đó không phải là cách duy nhất. Một con người luôn luôn có tiềm năng thay đổi khuôn nếp của mình một cách ý thức và cố tình, và cho dù con đã có thể phản ứng theo một cách hàng trăm lần, con vẫn có thể đột nhiên chọn một cách phản ứng khác trong lần kế tiếp. Một chiếc máy tính sẽ không thể làm được vậy. Tại sao? Vì nó không có sự tự nhận biết. Nó không có một cái ta nhận biết. Cái ta mà thày vừa nói đến là cái ta có khả năng trở nên ý thức về chính nó. Lúc đầu nó trở nên ý thức về chính con, nhưng nó cũng nhận biết nó không phải là ngã vỏ ngoài. Đây là tại sao chính con có tiềm năng – như một con người và mọi con người – thay đổi phản ứng cùng hành động của mình một cách ý thức và cố tình. Con có thể chọn một phản ứng khác so với cách phản ứng trong quá khứ. Trong quá khứ có thể con đã phản ứng theo một chương trình nơi con thực sự không có chọn lựa. Đúng, con đã chọn lựa trong một quá khứ xa xôi khi con tạo ra chương trình, nhưng mỗi khi chương trình kích hoạt thì con không đang chọn lựa ý thức. Đây chính là lý do tại sao một số nhà khoa học đã khám phá là con đã có một phản ứng trong bộ não trước khi con chọn lựa ý thức trong một tình huống đặc thù. Lý do là vì có một chương trình tiềm thức đã chọn lựa trước khi con biết đến chọn lựa đó ở mức ý thức.

Vấn đề rộng lớn hơn ở đây là con mang tiềm năng trở nên tự ý thức, tự nhận biết, không những về các phản ứng của mình mà còn về những mức độ tự nhận biết cao hơn, về con người mà con thực là. Con không là các phản ứng của con, con không là các cảm xúc của con, con không là các ý nghĩ của con, con không là ý niệm bản sắc vỏ ngoài của con. Con là cái mà một số người gọi là một sinh thể tâm linh. Con đến từ ngoài cái môi trường mà con gọi là trái đất. Theo một nghĩa nào đó, Bát chánh đạo – hay bất cứ tên gọi nào cho con đường tâm linh – là một tiến trình càng ngày càng tự nhận biết nhiều hơn. Cái ta mà con là càng ngày càng trở nên ý thức về cái nó là và cái nó không là.

5.8. Không có giác ngộ tức thì

Một lần nữa, tâm vỏ ngoài của con sẽ lại nói: “Vậy tại sao thày không cho con ngay mức tự nhận biết tối thượng đó đi, cái bí ẩn tối hậu về sự tự nhận biết, để con nhảy tất cả những bước này và bước vào cõi Niết bàn ngay bây giờ? Con có thể giác ngộ ngay lập tức.” Con thấy đó, điều này không thể làm được. Không có sự giác ngộ tức thì và lý do thật đơn giản. Cái ta mà con là đã không đến trái đất ban đầu để đạt giác ngộ. Con đến trái đất là để có một số trải nghiệm ở đây có thể tạo thuận lợi cho tiến trình hướng đến giác ngộ của con. Con đã không đến địa cầu chỉ để thoát khỏi nơi đây, mà con đến địa cầu để có một số trải nghiệm. Và để có những trải nghiệm này, cái ta mà con là phải tạo ra những nội dung, trước tiên trong tâm bản sắc, xong trong tâm lý trí, rồi trong tâm cảm xúc của con. Chính những khái niệm này đặt nền tảng cho các trải nghiệm con đã có trên trái đất, với mục đích để con có được loại trải nghiệm con có thể có trên trái đất, cho đến khi con chán chê các loại trải nghiệm này và mong muốn một cái gì hơn nữa. 

Đó là lúc con sẵn sàng cất bước trên đường tu. Cho đến khi đó, con vẫn có loại trải nghiệm mà con có thể có trên trái đất, rằng mình là một sinh thể tách biệt sống trong một thế giới với những sinh thể tách biệt khác, và con đang tranh đấu chống lại các sinh thể này. Con có thể nói bằng tâm ý thức: “Tôi không bao giờ mong muốn chuyện tranh đấu này. Đó không phải là lý do tôi đã đến địa cầu.” Nhưng thật ra đó chính là lý do. Khi con bước lui lại khỏi trải nghiệm hiện thời của mình, con nhận ra đây chính là tại sao con đã đến địa cầu. Con có thể có nhiều lý do khác nhau, nhiều động lực khác nhau, nhiều ý định khác nhau ở bên sau, nhưng đó chính là tại sao con đã đến trái đất – để có loại trải nghiệm mà con có thể có trên trái đất. Sẽ tới một điểm sau rất nhiều kiếp sống nếm mùi loại trải nghiệm này, con sẽ chán chê và bây giờ con muốn cái gì khác hơn. Đó là lúc con mở tâm ra đón nhận con đường tâm linh dưới bất kỳ phiên bản nào con có khả năng nắm bắt.

Mục đích của con đường tâm linh bây giờ là giúp con dần dần trở nên ý thức về những nội dung mà con đã bỏ vào các tâm cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, con lần hồi vứt bỏ chúng đi để càng ngày con càng có ít hơn trong những tâm này. Con trở nên ngày càng tự do hơn. Thực sự giác ngộ là điểm khi trong tâm con không còn nội dung nào nữa dựa trên các ảo tưởng của nhị nguyên và tách biệt. Con đã khắc phục tất cả mọi ảo tưởng rằng con là một sinh thể tách biệt, rằng con có thể sử dụng các đối cực nhị nguyên để biện minh cho mọi việc mình muốn làm như một sinh thể tách biệt. Đó là khi con giác ngộ. Có thể nói là trong khi con bước chân hướng đến giác ngộ, con lấy từng nội dung từ trong tâm và bỏ nó đi, con để nó ra đi, mỗi lần một ảo tưởng, cho đến khi con không còn ảo tưởng nhị nguyên tách biệt nào còn sót lại.

5.9. Con có đánh mất nhân cách của mình?

Tuy nhiên một số người sẽ phản đối chuyện này và cho rằng: “Liệu sẽ có nghĩa là tôi không còn quan điểm, niềm tin hay lý thuyết nào về cuộc sống, không còn khuôn nếp nào trong cảm xúc? Liệu có nghĩa là tôi không còn nhân cách nào, bản sắc nào?” Phải, có nghĩa đúng như vậy. Con không còn nhân cách cùng bản sắc vì những thứ này được định nghĩa trên trái đất dựa trên các ảo tưởng của Maya, các ảo tưởng của tách biệt và nhị nguyên. Con mất đi cái mà hầu hết mọi người xem là nhân cách và bản sắc của họ. Không có nghĩa là con trở thành một con số không, vì con vẫn có một sự cá biệt trong bản thể cao của con mà bây giờ con có thể bắt đầu biểu đạt trên trái đất. Cái con mất đi là cái chúng ta có thể gọi là cá tính, nhân cách và bản sắc nhân gian. Nếu con cởi mở với một giáo lý tâm linh, đây chính là ý định cao hơn mà con đã có trước khi con lập ra Kế hoạch Trọn đời của mình.

Điều này có nghĩa là giờ đây khi con nhìn vào đời mình và các hoạt động của mình, con không phải làm điều mà nhiều Phật tử đã làm, là đánh giá lại xem ý định nào là chân chính, ý định nào là bất chính: “Tôi cần phải ép buộc mình không được có ý định bất chính.” Thay vào đó, con có thể nói: “Trong Kế hoạch Trọn đời của tôi có điều gì nói đến một khía cạnh đặc thù trong đời tôi ngay bây giờ?” Lấy ví dụ con nhận diện trong con mong muốn được nếm một loại trải nghiệm nào đó. Trên trái đất có thể có nhiều loại trải nghiệm khác nhau, nhưng như trong trường hợp nhiều người, con quyết định mình muốn một mối quan hệ riêng tư, một quan hệ tình dục với ai đó. Đây là một loại mong muốn rất phổ biến, ngay cả trong số những người tâm linh.

Có rất rất nhiều sự hiểu lầm về điểm này trong số những người tâm linh, và con vẫn thấy rất nhiều Phật tử tu học giáo lý rồi dùng tâm vỏ ngoài để bảo: “Ồ, bất cứ hoạt động nào không tâm linh đều sai trái cả và tôi phải tránh làm chuyện đó.” Có một điều khác con có thể xem xét ở đây. Giả dụ con đang thảo Kế hoạch Trọn đời của mình, khi đó con có một tầm nhìn rộng lớn hơn bây giờ. Con nhận ra là con vẫn còn mong muốn trải nghiệm một quan hệ riêng tư, ngay cả một quan hệ vật lý. Con quyết định là con sẽ tự đặt mình vào một tình huống nơi con có thể gặp một người và có được loại quan hệ này. Có sai trái gì đâu trong việc trải nghiệm như vậy nếu con đã lượng định là mình cần có trải nghiệm này trong một thời gian để mình có thể chán chê chuyện này? Nhờ vậy con sẽ có thể thoát ra khỏi nó, để sau đó con có thể tập trung vào những trải nghiệm khác mà con muốn cho phần còn lại của kiếp này. Có sai trái gì đâu trong việc này?

Đó là một phần trong Kế hoạch Trọn đời của con sẽ cuối cùng dẫn con lên một mức nhận biết cao hơn. Thay vì ép buộc mình phải kìm nén một trải nghiệm, con bước vào trải nghiệm cho đến khi con chán chê, con chán ngán nó, rồi con có thể lượng định – không nhất thiết là con phải từ bỏ tình huống vỏ ngoài đó, mà con đạt tới điểm mình không còn ham muốn cưỡng chế nào để nếm trải nghiệm đó. Thật chẳng có gì tự thân là phi tâm linh trong hoạt động tình dục, nhưng nếu con dính mắc với nó, nếu đó là một ám ảnh cưỡng chế, thì tất nhiên nó có thể cản trở sự tăng triển lên những tầng nhận biết cao hơn. Nếu con đạt tới điểm khắc phục được sự dính mắc, khắc phục được sự cưỡng chế, khắc phục được ảo tưởng là con cần đến nó để cảm thấy trọn vẹn, thì hoặc con có thể chọn ngừng hẳn hoạt động đó, hoặc tiếp tục một cách khác mà không dính mắc. Trong cả hai trường hợp, nó sẽ tạo thuận lợi cho con tăng triển nhận biết.

Con thấy đó một lần nữa, đâu là ý định cao hơn của con ở đây? Có phải là giải quyết các ảo tưởng, giải quyết Maya trong tâm con? Hay có phải là sử dụng một lời dạy tâm linh để che đậy các ảo tưởng để con, ở mức ý thức, có thể giả vờ như thể con không có ảo tưởng? Con có thể nghĩ: “Ồ, tôi đã hiểu lời dạy tâm linh cao cấp này rồi, tôi đã bỏ ra không biết bao nhiêu thời giờ thực hành các pháp tu này, cho nên tôi đã vượt xa mong muốn này, ý định này.” Nhưng con chỉ giả vờ thôi con. Con đang che phủ mong muốn đó và điều này sẽ không giúp con vươn lên bước kế tiếp của chiếc thang hay của cầu thang.

5.10. Xét lại các ý định của mình

Đây là bước tiếp theo trên con đường Bát chánh đạo, là xét lại các ý định của con. Ý định trên hết của con là cuối cùng con sẽ thoát khỏi trái đất, nhưng con không thể ép mình thoát khỏi trái đất. Nếu con kìm nén một ham muốn nào đó thì con sẽ phải trở lại đầu thai lần nữa để đạt tới điểm con buông được ham muốn một cách ý thức. Nhiều người tâm linh đã ép buộc mình phải sống trong một khung cảnh tu viện nơi họ phải kìm nén ham muốn tình dục của họ. Có thể là họ đã sống được như vậy suốt một kiếp dài, hay ngay cả mấy kiếp, nhưng sẽ tới một điểm họ nhận ra – khi họ ở ngoài hiện thân – là họ đã không tự giải phóng khỏi ham muốn mà chỉ kìm nén ham muốn. Họ sẽ cần trở lại trải nghiệm hoạt động đó cho dù nó là gì, cho đến khi họ có thể buông bỏ ham muốn một cách ý thức và cố tình: “Tôi đã chán chê trải nghiệm này rồi.” Việc này không thể cưỡng ép được, nhưng tiếc thay, rất rất nhiều người đã dùng một giáo lý tâm linh để tạo ra ý tưởng là họ phải tự cưỡng ép. Nếu con thực sự muốn tiến triển tâm linh, ý định của con phải là giải quyết, từ bỏ, buông xả, khắc phục, vượt qua các mối dính mắc của mình, các khuôn nếp, các nội dung trong thể cảm xúc, thể lý trí và thể bản sắc. Đây phải là một ý định bao trùm tất cả, và khi con vươn lên đến mức đó và ý thức được điều đó, con có thể lượng định tất cả mọi ý định khác của con.

Một lần nữa, con phải kiếm sống để nuôi cơ thể, giữ cho nó sống còn. Có thể con có một số bổn phận đối với gia đình và với người khác. Làm thế nào con quân bình được một cuộc sống gia đình bình thường với sự kiện mình là một người tâm linh có nhận thức về giáo lý tâm linh? Con chỉ có thể làm được bằng cách ngộ ra là bất kỳ hoạt động nào – ừm, hầu hết mọi hoạt động trên địa cầu – đều có khả năng tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết của con. Nguyên cái ý tưởng cho rằng con phải từ bỏ cuộc sống trần tục, phải lui vào tu viện để tiến bộ tâm linh không luôn luôn đúng. Có thể có một số người cần làm như vậy trong một hay vài kiếp sống, nhưng chắc chắn không phải là mọi người. Kỳ thực, trong thời buổi con đang sống hôm nay, điều quan trọng hơn so với các thời đại trước là mọi người cần bước trên đường tâm linh bằng cách sống một cuộc đời năng động ngoài xã hội. Đây là điểm sẽ tạo cảm hứng cho nhiều người hơn trước để họ cởi mở với đường tu khi họ thấy là họ không phải từ bỏ đời sống bình thường, rút vào tu viện trên đỉnh núi hầu là người tâm linh.

Bây giờ là một thời đại, một thời điểm có rất nhiều người đã tình nguyện bước vào hiện thân để chứng tỏ là con có khả năng tìm ra một sự quân bình giữa đời sống trần thế và sự tăng triển tâm linh, tăng triển nhận biết. Tuy nhiên, thày cũng nói là điều này quan trọng hơn bao giờ hết do thời buổi, nhưng không có nghĩa là nó không quan trọng trong quá khứ. Con nghĩ tại sao thày đã gọi con đường này là Trung đạo? Một lần nữa, Trung đạo là một cách dịch đáng tiếc về một khái niệm phức tạp hơn. Dẫu vậy, Trung đạo không phải là pháp tu khổ hạnh cực đoan mà thày đã đi theo trong thời non trẻ dại dột, cũng không phải là cuộc sống thế tục hoàn toàn mù quáng mà đa số con người đi theo. Nó thăng vượt cả hai, qua đó con sống một cuộc sống năng động trong xã hội với bổn phận gia đình, nhưng con vẫn bước chân trên con đường tâm linh vì con có ý định sử dụng các hoạt động thế tục của mình để tạo thuận lợi cho mình tăng trưởng nhận biết.

Làm thế nào thực hiện được việc này? À, một phần bằng cách xem xét phản ứng của mình trong các tình huống thế tục, và phần khác bằng cách nhận ra là con có khả năng tạo cảm hứng cho người khác qua tấm gương của con. Điều gì xảy ra khi người ta rút lui khỏi xã hội, trở thành tăng ni và sống trong thiền viện? Họ tránh được nhiều áp lực của đời sống thường nhật khả dĩ kích hoạt các khuôn nếp phản ứng của họ. Họ sống trong một môi trường kiềm chế, và một khi họ đã chấp nhận các ràng buộc của môi trường này, rất có thể không có nhiều thứ sẽ kích hoạt phản ứng của họ. Họ có thể tự đánh lừa là họ không còn các phản ứng này nữa, rằng bằng cách chọn sống trong một hoàn cảnh không kích động khuôn nếp thì họ đã khắc phục khuôn nếp. Nhưng không, tất nhiên là họ chỉ áp chế nó thôi.

5.11. Trung đạo thực sự nghĩa là gì

Toàn bộ khái niệm Trung đạo là con không định nghĩa con đường tâm linh theo hai đối cực nhị nguyên, qua đó hoặc con là một người hoàn toàn trần tục, hoặc con phải rút ra khỏi thế gian để là một người tâm linh. Có một con đường khác cho tình trạng “hoặc cái này hoặc cái kia”, một giải pháp khác cho cái nhìn trắng đen đó. Con có thể tìm ra một cách để là người tâm linh trong khi vẫn năng động trong xã hội. Đây là ý nghĩa sâu xa của ý định cao hơn, và bỗng nhiên tất cả mọi thứ đều hiện ra dưới một sắc thái mới. Con có được một nhãn quan mới về mọi khía cạnh đời con. Bỗng nhiên con có thể bắt đầu xem lại một vấn đề đã là một trong những cản trở lớn nhất cho người tâm linh. Đó là sự phân biệt giữa những gì là hoạt động tâm linh và những gì là hoạt động không tâm linh, hay thậm chí phản tâm linh. Tất nhiên đây là một chủ đề thày sẽ quay trở lại khi trình bày về hành động cao [Chánh nghiệp]. Nhưng dẫu vậy, điều quan trọng khi con xem xét ý định của mình là con cần vượt qua cái nhìn nhị nguyên về con đường tâm linh.

Đâu là một trong những lời dạy nền tảng của đạo Phật? Đó là mọi thứ đều là Phật tánh. Hiển nhiên, con người trên địa cầu không nhìn thấy mọi thứ là Phật tánh. Tại sao họ không thấy được mọi thứ là Phật tánh? Bởi vì tâm họ bị mù quáng bởi tấm màn Maya. Nhưng cái gì cấu tạo tấm màn Maya? Đó là tâm thức nhị nguyên luôn luôn tạo ra hai đối cực nghịch lại với nhau một cách đen trắng. Tâm thức này ngụ ý một sự phán xét giá trị, nó bảo hoạt động này không tâm linh và hoạt động kia thì tâm linh. Nếu tất cả đều là Phật tánh thì có nghĩa lý gì mà nói: “Cái này tâm linh, cái kia không tâm linh?” Sẽ ý nghĩa hơn không nếu con nhận ra mục đích thực của đường tu là khắc phục ảo tưởng? Ảo tưởng là cái che phủ Phật tánh ở bên trong tất cả mọi thứ. Có nghĩa mục đích thực của đường tu không phải là định nghĩa thế này là tâm linh, thế kia là phản tâm linh để rồi phải tránh cái phản tâm linh và chú tâm vào cái tâm linh.

Mục đích thực của con đường tâm linh, của Trung đạo, là ngộ ra mọi hoạt động trên trái đất đều có khả năng tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết của con khi con tiếp cận chúng với ý định thăng tiến nhận biết, nhìn vào bản thân mình, phản ứng của mình, ảo tưởng của mình. Đó là khi hoạt động đó trở nên tâm linh. Bảo rằng một hoạt động là không tâm linh cho nên việc tham gia vào đó – như việc lập gia đình chẳng hạn – sẽ phá hoại bước tiến tâm linh, chỉ đơn giản là một mức độ hiểu biết thấp hơn về đường tu. 

Hiển nhiên là có một số hoạt động sẽ không tạo thuận lợi cho sự tăng triển nhận biết vì chúng càng nhốt con sâu hơn sau tấm màn Maya, nhưng bất kỳ hoạt động nào cũng có thể được sử dụng để giúp con nhìn ra ảo tưởng đằng sau hoạt động. Vì vậy thày không bảo là việc xông ra ngoài kia giết hại người khác sẽ giúp con tăng triển nhận biết, nhưng quả thực việc nhìn ra các ảo tưởng đằng sau việc giết người có khả năng tạo thuận lợi cho con tăng triển nhận biết.

Một lần nữa, tâm nhị nguyên luôn luôn muốn tạo ra sự phân biệt và tách biệt để giàn dựng một thế nhị đối, nhưng đường tu, con đường Bát chánh đạo, là nhìn vượt lên trên tấm màn Maya để nhìn thấy mọi sự là Phật tánh. Phật tánh ở trong mọi thứ, cho nên ý định đích thực là nhìn ra điều này, chứ không phải là nhận diện cái này hay sinh hoạt này là tâm linh và sinh hoạt kia thì không. Điều gì sẽ giúp con thấy được Phật tánh đằng sau tấm màn Maya? Nếu điều đó giúp con thấy được thì làm sao nó không tâm linh cho được? Nếu điều gì buộc chặt con vào các ảo tưởng nhị nguyên, thì cho dù con có dùng giáo lý tâm linh để củng cố cho ảo tưởng, làm sao nó tâm linh cho được?

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn trao trong bài này. Những ngọn sóng chấn động chắc chắn đang được gửi vào tâm thức tập thể, làm khuấy động lũ quỷ của Mara. Chúng đang gầm gừ la hét, chúng đang cố khiến cho mọi người bác bỏ những xung lực này để họ lại tiếp tục tham gia vào cuộc đấu tranh của Biển Luân hồi.   

Nhưng các con cởi mở với những lời dạy này, các con có thể tránh được chuyện đó bằng cách biến lời dạy thành con thuyền Bát nhã, nhưng con sẽ chỉ làm được vậy nếu con luôn nỗ lực vươn lên một cấp độ ý định cao hơn so với ngay bây giờ. Thày đã hoàn thành ý định của thày trong việc ban truyền lời dạy này. Thày hy vọng nó sẽ giúp con hoàn thành ý định của con trong kiếp đầu thai này.  

Hãy tĩnh tâm và xuôi theo Dòng sông sự Sống

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 10/10/2022, nhân dịp Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền Dân chủ.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

“Chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng” [Bài chú 8.06 Gautama, con an bình trọn vẹn].

Khi ta còn hiện thân là Phật nhiều thế kỷ về trước, một phần lớn trong sứ vụ của ta – mà con có thể gọi là trong Tăng đoàn của Phật – là giúp cho các đệ tử tĩnh tâm hầu chấm dứt ý nghĩ lăng xăng. Điều này cần thiết 2500 năm về trước. Thời nay con khó lòng tưởng tượng được thời đó con người sống như thế nào. Con có tưởng tượng nổi không? Đối với những ai trong số các con đủ lớn tuổi để còn nhớ, liệu con có nhớ cuộc sống như thế nào khi chưa có internet? Con có tưởng tượng cuộc sống như thế nào khi chưa có truyền hình? Chưa có máy phát thanh? Con có thể tưởng tượng khi chưa có sách vở và hầu hết mọi người đều không biết đọc?

Ý nghĩ lăng xăng

Chắc chắn đa số con người thời đó đều bận rộn làm lụng thể xác để kiếm sống. Và so với ngày nay, họ chẳng có gì để tiêu khiển hay khích động tinh thần. Con thử nhìn xem thế giới hiện đại có biết bao nhiêu thứ đang níu kéo sự chú ý của con? Có lạ lắm không nếu con không có nhiều ý nghĩ lăng xăng? Thật có quá nhiều thứ đang đòi hỏi sự tập trung của con, đòi hỏi con phản ứng lại và làm gì đó. Nhưng ngay cả thuở trước cũng vậy, thử thách lớn nhất mà ta đã gặp trong cương vị một vị thày tâm linh chính là các ý nghĩ lăng xăng nơi mọi người.

Vậy con hãy tưởng tượng ngày nay với tất cả những thứ kích thích đó, thì liệu việc neo trụ vào Ngọn lửa Hòa bình hầu chấm dứt ý nghĩ lăng xăng sẽ khó khăn đến chừng nào? Việc tĩnh tâm đã luôn luôn là một thách đố, nhưng chưa bao giờ trong lịch sử ghi chép mà thách đố này to lớn như ngày nay. Các thày, các chân sư thăng thiên, biết rất rõ là khi các thày trao cho con bấy nhiêu giáo lý như đã ban truyền, thì không nhất thiết là các thày sẽ giúp con tĩnh lặng các ý nghĩ lăng xăng của con dễ dàng hơn.

Đa số mọi người – và chắc chắn vị sứ giả này có thể chiêm nghiệm điều này nơi bản thân ông – đều trải qua một giai đoạn khi họ lần đầu tiên khám phá đường tu tâm linh, và hẳn giai đoạn này đã phấn khích họ mãnh liệt. Nhiều người trong số các con đã lớn lên trong một cuộc sống thiếu vắng chất liệu tâm linh, nhưng con vẫn biết là có một điều gì đó cần tìm kiếm, một điều gì đó còn thiếu sót, một hiểu biết nào đó mà con hằng khao khát. Khi con tìm ra giáo lý tâm linh thì bấy giờ tâm con được dịp rồ máy. Con muốn học giáo lý, con muốn hiểu giáo lý, con muốn thể nhập giáo lý, con muốn thực hành mọi pháp tu mà giáo lý đưa ra. Và con tập trung hết mình vào đó.

Không cứ là việc này có gì sai trái – đó là một tiến trình mà con cần kinh qua. Nhưng liệu con có thấy là kỳ thực nó tạo ra một mức độ suy nghĩ lăng xăng cao hơn nữa hay không? Nhiều người chú tâm vào giáo lý vỏ ngoài, cách tu tập vỏ ngoài, nét văn hóa vỏ ngoài của tổ chức tâm linh mà họ tham gia. Và họ bị cuốn hút vào đó đến độ gần như không còn lúc nào tâm họ có thể tĩnh lặng, có thể trung hòa, có tai lắng nghe.

Sự phóng chiếu liên tục vào tâm con

Thế rồi tới điểm khi con trụ chặt vào đường tu nội tâm. Bây giờ con nhận ra đường tu không thực sự là chuyện tuân theo pháp tu vỏ ngoài hay học hỏi lời dạy vỏ ngoài, mà là giải quyết tâm lý. Con tập trung vào việc giải quyết tâm lý của con, như nhiều người trong các con và sứ giả này đã làm suốt nhiều năm. Nhưng đây lại là thêm một mức độ ý nghĩ lăng xăng nữa. Bỗng nhiên một ý tưởng nảy ra: “Ồ, có lẽ chăng tôi mang xu hướng này trong tâm lý mình? Tại sao tôi lại phản ứng cách đó trong hoàn cảnh đó? Có điều gì tôi chưa nhìn ra? Có điều gì tôi chưa giải quyết? Ồ, tốt hơn tôi nên nhìn xem, tôi nên tìm xem cái đó là gì, vì chắc chắn tôi không muốn trong tâm mình có vấn đề gì chưa giải quyết.” Cho mỗi tầng trên đường tu đều có nguyên một bộ ý nghĩ lăng xăng. Chúng được phóng chiếu vào tâm con từ các tà lực, các sa nhân, từ tâm thức tập thể và từ những cái ngã tách biệt mà con còn sót. Đây là một sự phóng chiếu liên tục.

Lẽ tự nhiên, con có thể làm gì đó về chuyện này. Các thày có dạy con là con có thể thỉnh gọi Đại thiên thần Michael để thày niêm phong tâm con cùng các luân xa của con. Con có thể thỉnh gọi Astrea để thày cắt đứt cho con thoát khỏi nhiều sợi dây ràng buộc với tà lực.

Nhưng có sự phóng chiếu liên tục những ý nghĩ lăng xăng. Một số vị thày trong đạo Phật gọi đó là “tâm khỉ” không ngừng suy nghĩ. Con bị phóng chiếu liên tục. Con có thể làm gì đây? Có thể nào con tắt nó đi? Con không thể thực sự tắt nó đi. Sa nhân sẽ tiếp tục làm những gì chúng vẫn làm. Tâm thức tập thể sẽ tiếp tục làm những gì nó vẫn làm. Con có thể giải quyết những cái ngã và điều này sẽ giảm bớt các ý nghĩ. Nhưng dù sao con vẫn có một bộ não, một bộ não vật lý. Và bộ não vật lý được thiết kế để suy nghĩ, hay ít ra để chuyên chở suy nghĩ. Nhưng bộ não vật lý cũng có khả năng tạo ra ý nghĩ vì nó có thể tạo ra một số trải nghiệm và cảm thọ khác nhau. Khi con bước chân trên đường tâm linh, não của con sẽ bắt đầu tạo ra những ý nghĩ tâm linh. Và con có thể cảm thấy mình bắt buộc phải suy nghĩ chúng. Sứ giả này đã bước trên đường tu nhiều năm trời trước khi ông ngộ ra là ông thực sự không bắt buộc phải suy nghĩ bất kỳ ý nghĩ nào đi vào trong đầu ông.

Chuỗi tư tưởng cưỡng chế

Con thử xem xét điều này. Có một ý tưởng đột ngột xuất hiện trong đầu con. Nó có thể được phóng chiếu từ đâu đó không liên quan gì tới con. Nhưng tâm con vẫn cảm thấy bị bó buộc phải suy nghĩ về nó. Con cho rằng, và hầu hết mọi người cũng cho rằng, ý nghĩ đó là của mình. Và con thấy bó buộc phải suy nghĩ nó. Có nguyên một tiến trình khi ý tưởng trải bày ra trong tâm con, thế rồi ý tưởng này dẫn đến một sự liên tưởng, và đột nhiên một ý tưởng khác xuất hiện. Và trước khi con biết chuyện gì xảy ra, mấy phút đã trôi qua và con đã nhảy vào đủ loại đề tài vớ vẩn khác dẫn con thật xa khỏi ý tưởng ban đầu. Sứ giả này đã phải mất một thời gian dài trước khi ông chịu nhìn nhận là ông đã có hiện tượng này suốt đời ông. Những chuỗi tư tưởng, những quy trình này chẳng dẫn tới đâu và chẳng chế tạo được gì. Chúng chẳng giải quyết được gì mặc dù đôi khi chúng khoác lấy hình dạng một vấn đề. Nhưng chúng không bao giờ ngừng, không bao giờ giải quyết hay tạo ra bất cứ gì.

Ta không bảo là con không thể có những ý tưởng xây dựng dẫn đến một hành động tạo ra một kết quả. Nhưng rất nhiều khi con chỉ có ý nghĩ chạy loanh quanh luẩn quẩn, nhảy từ đề tài này sang đề tài khác và không sản xuất được gì. Đây là cái ta gọi là ý nghĩ lăng xăng. Nhiều người, hầu hết mọi người, đều cho rằng: “Ồ, chắc đây là ý tưởng của tôi. Tại sao nó lại nảy lên trong đầu tôi nếu nó không phải là ý tưởng của tôi? Và nếu nó là ý tưởng của tôi thì tôi phải suy nghĩ nó, tôi phải đi theo nó, tôi phải chú ý đến nó.” Nhiều người bỏ ra cả đời trong tâm thái này, không ngừng có những ý nghĩ lăng xăng mà họ cảm thấy họ phải suy nghĩ. Ý tưởng dẫn đến liên tưởng, nó tiếp tục như vậy một vài giây, xong nó dẫn đến một ý tưởng khác, và nó nhảy từ cái này sang cái kia rồi cái nọ, chẳng khác gì một con khỉ đu cây. Nó chẳng đi tới đâu, giống như con khỉ cũng chẳng đi tới đâu. Con khỉ nhảy từ cành này sang cành nọ nhưng vẫn ở nguyên trên cây.

Tâm muốn bận rộn

Tới một điểm trên đường tu con cần nhận thức hiện tượng này và tự hỏi: “Tôi có thực sự muốn các ý nghĩ lăng xăng này chiếm trọn tâm tôi? Tôi có muốn cảm thấy bó buộc phải suy nghĩ về chúng và bị cuốn vào các quy trình tư duy đó, những liên tưởng đó, nhảy qua nhảy lại kiểu đó?” Là một học trò tâm linh, con thường vô hiệu hóa nó, vì khi con học tập một giáo lý tâm linh thì con chú tâm vào lời dạy, và nhiều khi không hay biết, con bỗng gạt đi rất nhiều ý nghĩ như thế do con tập trung vào giáo lý. Ý tưởng nhập vào tâm con vì tâm con lẫn bộ nảo được thiết kế để suy nghĩ, cho nên chúng tưởng là chúng phải suy nghĩ hoài hoài. Có một phần trong tâm con, và ngay cả não của con, cảm thấy là nếu nó không đang suy nghĩ thì có gì đó không ổn và nó không đang làm nhiệm vụ của nó. Cũng từa tựa như nếu tim con ngừng đập. Tim ngừng đập quả sẽ là một vấn đề, nhưng tâm mà ngừng suy nghĩ thì thật sự không là vấn đề, thế nhưng tâm lại cho đó là một vấn đề. Nó nghĩ con sẽ chết nếu nó không suy nghĩ.

Con cũng có thể vô hiệu hóa quy trình đó bằng cách đọc chú, đọc thỉnh, vì nó khiến tâm con bận việc. Con thấy đó, tâm con phải bận làm một chuyện gì đó. Nó có thể bận học giáo lý, nó có thể bận đọc thỉnh đọc chú, nó có thể bận làm một công việc thực tiễn, nhưng tâm phải chất chứa một chút nội dung nào đó. Phải có chuyện gì diễn ra trong tâm, vì nếu không thì tâm cảm thấy có vấn đề không ổn. Con sẽ thấy là tâm có khuynh hướng muốn bận rộn. Tâm muốn làm việc. Cách đây khá nhiều năm, sứ giả này phát hiện có một phần trong tâm ông muốn giải quyết những vấn đề. Nó được tạo ra để giải quyết vấn đề. Và nó phải có vấn đề để mà giải quyết. Nếu nó không có vấn đề nào để giải quyết ở bên ngoài thì nó tạo ra vấn đề ở bên trong. Và ông nhận ra là ông có thể bỏ ra cả phần đời còn lại để giải quyết những vấn đề trong tâm do chính tâm ông tạo ra. Nhưng liệu làm vậy sẽ giúp ông đạt được gì chăng trên đường tu hay đường đời?

Làm thế nào con có thể thoát khỏi ý tưởng?

Nếu con quan sát chính mình khi con đang nghe hay đang đọc bài giảng này, chuyện gì xảy ra trong tâm con ngay lúc này? Con đang nhận diện ta là một vị thày tâm linh và một chân sư thăng thiên. Ta đang trao cho con một lời dạy và ta có một mục đích khi làm việc này. Ta muốn giúp con bước chân trên đường tu tâm linh, cho nên con cảm thấy bó buộc phải đặt chú ý vào lời dạy. Và điều gì xảy ra khi con làm vậy? Con có những ý tưởng nảy lên trong tâm. Đó có thể là nhiều loại ý tưởng khác nhau tùy theo từng người, nhưng con có ý nghĩ: “Lời dạy này ý nghĩa là gì? Tôi có thể áp dụng thế nào? Tôi có thể làm gì? Làm thế nào tôi có thể tránh các ý nghĩ lăng xăng đó? Bởi vì đây chính là điều mà hình như Gautama đang ngụ ý tôi phải làm.” Một số các con có thể cảm thấy vô vọng, và một số có thể đang suy nghĩ về cách ngừng hẳn sự suy nghĩ. Làm sao chuyện này có thể được? Và câu hỏi trở thành: Con sẽ làm gì đây?

Nhiều vị thày tâm linh và nhiều đệ tử tâm linh khắp các thời đại đã cố gắng giải quyết vấn đề này theo nhiều cách. Nhiều người, đặc biệt trong truyền thống đạo Phật, đã biết về tâm khỉ. Nhiều người đã tự đặt ra mục tiêu làm cho tâm tĩnh lặng. Họ đã sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau, thiền định, quán chiếu, để làm yên tâm họ. Rất nhiều người thời nay, cả tại Mỹ lẫn khắp các nơi khác, đang tu tập đạo Phật và cố gắng áp dụng các kỹ thuật của đạo Phật. Họ sống trong thế giới Âu Tây nhưng họ cho rằng họ phải có thể làm yên tâm họ, y như người ta có vẻ làm được trong một đạo tràng hay một đoàn tăng trên núi ở phương Đông.

Nhưng nếu các con đang sống trong một thế giới Âu Tây bận rộn, liệu điều này có thực tế lắm không? Với tất cả những thứ đang níu kéo sự chú ý của con, tất cả những chuyện được phóng chiếu vào con, liệu làm yên tâm mình có thực tế lắm không? Ngay cả nếu con có thể bay đến núi Himalaya để sống trong một tu viện, liệu làm yên tâm mình có thực tế lắm không trong một thế giới hiện đại với tâm thức đại chúng bao quanh? Con có thể tự cô lập về mặt địa lý, nhưng đâu là giới hạn của tư tưởng? Thậm chí, liệu tư tưởng có phải tuân thủ giới hạn vận tốc của vũ trụ hay tốc độ của ánh sáng hay không? Không đâu, một ý tưởng không cần bay đến một địa điểm cụ thể để hiện diện tại nơi đó trong vật lý. Nó có mặt ở đó tức thì. Làm thế nào con có thể thoát khỏi các ý nghĩ? Làm thể nào con có thể thoát khỏi tâm thức đại chúng? Chắc chắn là có những cường độ khác nhau, nhưng con không bao giờ có thể thực sự thoát khỏi nó. Và làm thế nào con có thể thoát khỏi chính tâm con khi nó cứ muốn suy nghĩ suốt ngày để cảm thấy nó đang làm nhiệm vụ của nó?

À, xuyên qua các thời đại, một số người đã tìm kiếm nhiều cách khác nhau để cố xử lý cái tâm này. Một số vị thày Phật giáo đã nhìn nhận là chuyện này không thể làm được. Và họ còn đặt vấn đề là liệu việc khiến cho tâm tĩnh lặng có cần thiết hay không.

Con không thể tĩnh tâm bằng cách suy nghĩ về phương cách tĩnh tâm

Điều ta muốn gợi ý, duy chỉ như một cách để xử lý vấn đề này, là con nhìn nhận rằng con là một đệ tử của chân sư thăng thiên và các chân sư đã trao cho con một số dụng cụ. Tất nhiên, con sẽ dùng các dụng cụ này. Con sẽ thỉnh gọi sự bảo vệ tâm linh, thỉnh cầu để mình được cắt ra, thỉnh cầu cho tâm được che chở và niêm phong khỏi tà lực cùng tâm thức đại chúng. Đó là một việc quan trọng và cũng là một việc chính đáng. Nhưng ta cũng sẽ gợi ý là ở giữa tất cả những bài chú, bài thỉnh, ở giữa tất cả việc học tập giáo lý cùng các sinh hoạt thường nhật, con hãy dành ra một chút thời gian để chỉ ngồi đó mà thôi. Con không nỗ lực làm yên tâm con, vì khi con cố làm cho tâm yên tĩnh thì con đang làm gì chứ? Con đang sử dụng tâm để khiến cho tâm tĩnh. Và làm thế nào tâm có thể khiến cho tâm tĩnh ngoại trừ bằng cách suy nghĩ về một cách khiến cho tâm tĩnh? Và khi con suy nghĩ về cách khiến cho tâm tĩnh thì con vẫn đang suy nghĩ đó. Tâm đang làm công việc mà nó nghĩ nó phải làm, cho dù hình như con đang muốn nó tĩnh lặng.

Buông các ý nghĩ

Ta đề nghị con tiếp cận một cách khác hơn. Trước hết, con quyết định là con sẽ dành ra một khoảng thời gian, con vào một phòng yên tĩnh và con có thể bắt đầu đọc chú, đọc thỉnh, nhưng con hãy vào một phòng yên tĩnh. Con không ngồi trong tư thế thiền định, khoanh chân như người ta thường làm. Con nằm trên một chiếc giường hay đi-văng êm ái nơi con có thể thư giãn thân thể, hầu con không có cảm giác nào, không bị khó chịu phải giữ một tư thế nhất định nào. Con chỉ nằm đó, tốt nhất là trong phòng tối, chắc chắn một phòng yên tĩnh. Và sau đó mục tiêu của con là tĩnh tâm, ở trong một trạng thái trung hòa của tâm. Tâm trung hòa (neutral) quan trọng hơn là tâm tĩnh (still) không có ý tưởng. Thay vào đó, con cố gắng, con nỗ lực, con có mục tiêu rằng: “Tôi sẽ trung hòa.”

Điều này có nghĩa là con không đóng chặt để ý tưởng không vào được, mà con không giao tiếp với nó. Con quyết định: “Tôi không ở đây để suy nghĩ về bất cứ chuyện gì, tôi không ở đây để hiểu ra bất cứ điều gì, tôi không ở đây để nhìn thấy bất cứ cái gì. Tôi không ở đây để giải quyết bất cứ vấn đề gì hay đạt được sáng ngộ gì. Tôi chỉ ở đây để không tiếp cận, không tham gia vào các ý nghĩ đang bay đến.” Và như vậy, con nằm đó với mắt nhắm. Con chỉ quan sát tâm. Khi một ý nghĩ bay đến, con nói nhẹ nhàng trong tâm: “Tôi buông [surrender trong tiếng Anh có mấy nghĩa: buông bỏ, từ bỏ, hàng phục, trả lại]. Tôi để cho nó đi.” Con buông ý nghĩ. Thay vì suy nghĩ về nó, đặt chú ý vào nó, cho phép nó liên kết bay ra mọi phía, thì con buông nó, con không nghĩ về nó, con chỉ để cho nó đi. Lúc đầu, việc này có thể khó khăn. Nhưng con càng giải quyết được nhiều ngã tách biệt trong tâm thì sẽ càng dễ dàng hơn. Và con có thể đạt tới điểm khi, ít nhất trong một khoảng thời gian, con có thể tiếp tục nói: “Tôi buông. Tôi cho nó đi. Tôi buông. Tôi buông.” Bất kỳ ý tưởng nào hiện lên, con chỉ buông nó ra. Con không giao tiếp với nó. Rất có thể con sẽ nhận thấy là tâm con bị chuyện này làm khuấy động, nó có thể cuống cuồng hoảng sợ: “Tại sao bạn lại không suy nghĩ những ý tưởng tôi đang gửi cho bạn? Tại sao bạn lại làm ngơ, phớt lờ tôi đi? Bạn không còn ưa tôi nữa sao?” Tất cả những điều đó có thể khởi lên với con. Hoặc có thể con chỉ cảm thấy một sự xao động hay bối rối, vì tâm không biết nó phải làm gì khi con không suy nghĩ các ý tưởng đó. Nhưng con có khả năng cứ tiếp tục như vậy.

Thỉnh thoảng sẽ có một ý tưởng thu hút sự chú ý của con. Con đi theo nó. Và con đi tới chỗ này chỗ nọ, xong thình lình con chợt nhận ra: “Ồ, tôi lại đang suy nghĩ rồi.” Khi đó, con chỉ quay trở lại: “Tôi buông. Tôi buông. Tôi buông.” À, con cần thận trọng ở đây. Con đừng cuồng loạn khi làm chuyện này. Đừng biến nó thành một áp lực. Đừng bị căng thẳng bởi nó. Đừng cảm thấy là con phải có khả năng làm bài tập nói trên và con phải có khả năng buông bỏ các ý nghĩ. Con chỉ việc thực tập một cách thoải mái, càng thư giãn càng tốt. Quả thực những giây phút như thế sẽ giúp con rất nhiều, như các thày đã có đề cập, khi cái Ta Biết của con đứng bên ngoài tâm ý thức và trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết. Nhận biết thuần khiết là gì? À, đó là khi con ý thức mà không có ý nghĩ. Giống như thể con ý thức nhưng không có nội dung chất chứa trong tâm thức.

Sử dụng thần chú

Một số kỹ thuật thiền lấy điều này làm mục tiêu. Một số kỹ thuật thiền sử dụng một câu thần chú không mang ý nghĩa nào, và con chỉ lặp đi lặp lại câu đó. Và khi nào con nhận ra là con đang suy nghĩ, con chỉ quay trở lại với câu thần chú. Theo một nghĩa nào đó, đây chính là điều mà con đang làm ở đây, chỉ có điều câu thần chú của con là: “Tôi buông.” Nếu chuyện này không hiệu quả thì con có thể dùng một câu chú. Ta đề nghị con dùng câu OM, con đọc OM lặng lẽ trong tâm con. Khi con có một ý nghĩ, con chỉ quay trở lại với OM. Con chú tâm vào OM, con lặp lại OM. Nhưng đối với nhiều các con, sẽ hiệu quả hơn nếu con nói: “Tôi buông. Tôi buông ý nghĩ này.”

Ta hoàn toàn không có ý nói rằng đây là một liệu pháp thần kỳ, rằng nó nhất thiết sẽ chấm dứt mọi ý nghĩ lăng xăng. Nhưng nó có thể hữu ích nếu con thực hành. Con không cần phải làm thật lâu, thậm chí con không phải làm mỗi ngày. Chẳng hạn, con có thể thực tập buổi tối khi con nằm trên giường chuẩn bị đi ngủ. Nó có thể sẽ mở tâm con ra một cảm giác an bình – “niềm thanh thản cho Biển động Luân hồi được yên lắng.”

Tâm tĩnh do trung hòa

Thế nào là Biển động Luân hồi? Nhiều người nghĩ đó là thế gian cùng các hoạt động vật lý trong thế gian, nhưng thật ra đó là tâm. Khổ đau xảy ra ở đâu? Trong tâm. Và con khăc phục khổ đau ở đâu? Trong tâm. Nhưng những ai không nắm được lời dạy của Phật sẽ chú tâm vào các thứ vỏ ngoài. Họ nghĩ rằng chính các cảnh huống vỏ ngoài khiến cho tâm trải nghiệm khổ đau. Và do vậy họ nghĩ giải pháp duy nhất là thay đổi cảnh huống vỏ ngoài. Nhưng trong nhiều trường hợp, họ không thể thay đổi cảnh huống vỏ ngoài, một phần là vì người khác không chịu hợp tác, cho nên họ sống trong nỗi bực bội không nguôi tức là Biển Luân hồi.  

Bây giờ là một đệ tử của chân sư thăng thiên, con cũng có thể tạo ra phiên bản riêng của con về Biển Luân hồi, qua đó – như PadmaSambhava có nói – con không ngừng tập trung vào việc giải quyết một vấn đề gì đó trong tâm lý của con, hay thay đổi thế giới, hay đọc bài thỉnh, hay tìm hiểu giáo lý, hay một việc để cải thiện thế giới, quảng bá giáo lý, hay bất kỳ điều gì khác. Con có thể nhìn vị sứ giả này và nói: “Đấy, ông ấy đã đi trên đường tu tâm linh rất nhiều năm trời, ông đã làm sứ giả được gần 20 năm, ông đã có một cuộc sống đầy ý nghĩa và ông được làm việc với các chân sư thăng thiên để ban truyền tất cả những lời dạy kia với sách với trang mạng kia, vân vân.” Nhưng có lẽ con không nhận ra là việc làm này đã khó khăn đến chừng nào. Ông đã có thể làm việc cho tới kiệt sức, ông đã có thể bị căng thẳng đến độ suy sụp tâm thần, ông đã có thể bị choáng ngợp bởi tinh thần trách nhiệm phải chu toàn điều này hay điều nọ. Và chắc chắn đã có những thời kỳ ông phải nếm mùi sự bực tức cao độ khi ông cảm thấy cho dù mình có làm nhiều đến đâu thì vẫn chưa đủ, hay chưa tốt đủ, và mình luôn luôn muốn làm nhiều hơn nữa. Nhưng cuối cùng thì ông đã sống sót, và các con cũng vậy, các thày muốn tất cả các con sống còn. Ông đã sống còn bằng cách xem xét tất cả những gì ta vừa trình bày với con, bằng cách tìm ra một thế quân bình, tìm ra Trung đạo, và không bị bực bội, không quá cuồng nhiệt, không bị ám ảnh cưỡng chế – và thỉnh thoảng, bằng cách tĩnh tâm.

Điều đã giúp cho sứ giả này là ngay từ buổi đầu, ông đã nhận ra là để nhận được thông điệp từ các chân sư thăng thiên, ông phải ở trong một tâm thái trung hòa. Có thể trong Sứ vụ Thiêng liêng của con không hoạch định con sẽ trở thành một sứ giả, nhưng chắc chắn trong Sứ vụ của con có việc tiếp nhận sự hướng dẫn trực tiếp từ các thày thay vì từ một giáo lý vỏ ngoài. Hầu nghe được Hiện diện TA LÀ của con hay một chân sư thăng thiên, con cần ở trong tâm thái trung hòa đó. Con cần dành ra một thời gian để nỗ lực ở trong tâm thái trung hòa đó mà không phấn đấu. Thay vào đó, con đánh gạt tâm con, con khiến cho nó bối rối, để các ý nghĩ lăng xăng không chiếm trọn sự chú ý của con.

Một cách tiếp cận giáo lý cân bằng

Biết bao nhiêu thứ níu kéo tâm con. Biết bao nhiêu thứ. Các thày nhìn nhận là các lời dạy của các thày có thể dễ dàng biến thành một lực níu kéo khác đối với tâm con. Các thày đành nhận lấy rủi ro này, một rủi ro có tính toán. Khi con quan sát diễn biến trong thời gian gần 20 năm qua khi đợt truyền pháp này hoạt động, con sẽ thấy – như các thày đã có đề cập – là giáo lý được ban ra có nhiều cấp độ. Đã có những giáo lý vượt xa hơn giáo lý ban đầu. Con sẽ thấy là một số người đã khám phá ra giáo lý, tham gia được một thời gian rồi bỏ đi làm công việc khác. Lại có một số người đã buộc tội sứ giả này trở thành một sứ giả giả trá. Còn một số khác thì đã tìm được một giáo lý khác để chuyên chú đi theo.

Các thày xác định được là sứ giả này đã sẵn lòng thăng vượt mức tâm thức của ông đến độ các thày có thể ban truyền những cấp độ giáo lý khác nhau đó. Cho nên các thày đã và đang tiếp tục ban truyền giáo lý vì các thày muốn gửi càng nhiều giáo lý càng tốt vào cõi vật lý. Nhưng điều này không có nghĩa là con phải cảm thấy bó buộc luôn luôn theo sát những lời dạy mới nhất. Điều hoàn toàn phải lẽ là con có thể thấy một lời dạy nào đó – ngay cả một lời dạy được ban ra cách đây nhiều năm – hấp dẫn con, có vẻ quan trọng đối với con. Điều hoàn toàn phải lẽ là con tập trung vào lời dạy đó, học hỏi nó, thực hành nó, thể nhập nó, và không để ý đến những lời dạy đang được ban ra.     

Con không cần phải tham dự tất cả mọi hội nghị hay hội thảo trên mạng. Con không cần phải đọc tất cả mọi quyển sách hay mọi bài truyền đọc hay mọi lời giải đáp được đăng tải. Con không cần cảm thấy áp lực phải dự phần vào những giáo huấn đó. Đây quả thực là một sự thay đổi so với các tổ chức trước đây mà trọng tâm được đặt nhiều hơn vào việc đệ tử phải làm cái gì đó suốt ngày, thậm chí phải đọc chú hàng giờ liền để thay đổi thế giới. Nhưng các thày muốn các con được tự do đi vào nội tâm. tập trung vào những giáo lý mà con cảm thấy mình cần tập trung và bỏ qua phần còn lại. Thật hoàn toàn phải lẽ nếu con bỏ ra mấy tháng trời hay mấy năm trời để chú tâm vào một lời dạy cụ thể, rồi khi con cảm thấy mình đã tiến xa đủ với nó thì con có thể quay trở lại và nói: “À các chân sư có vừa dạy thêm gì nữa không?”        

Không có một cách duy nhất để bước chân trên đường tâm linh. Việc đi theo một giáo lý tâm linh không được biến thành một cái áo tù bó tay bó chân như từng xảy ra cho nhiều người, cả đệ tử của chân sư thăng thiên lẫn các đệ tử tâm linh khác, hay tất nhiên như đang xảy ra cho hầu hết mọi người sùng đạo. Nhưng để tránh sự thể này, con cần sẵn sàng nhìn vào tâm lý mình và nhận ra là phản ứng đó đến từ một cái ngã trong tâm. Chân sư MORE có nói: “Hãy nhìn cuộc đời. Mọi thứ xảy ra trong đời đều là một cơ hội để con làm việc trên tâm lý của con.” Vậy con hãy nhìn vào một lời dạy tâm linh, một đường tu tâm linh và một tổ chức tâm linh cũng theo cách tương tự. Tất cả mọi thứ đều là cơ hội để con nhìn ra một điều gì đó chưa giải quyết trong chính tâm con, trong tâm lý của con. Tại sao con phản ứng cách con đang phản ứng?  

Nguyên nhân của trải nghiệm nội tâm nằm ngay trong tâm

Con thử nhìn xem những ai đã rời bỏ giáo lý tâm linh và bây giờ đổ lỗi cho đạo sư hay vị thày hay sứ giả hay chính giáo lý đó. Họ đang làm gì vậy? Họ đang phóng chiếu ra là nguyên nhân trải nghiệm của họ nằm ngoài tâm họ. Trải nghiệm thì xảy ra trong tâm nhưng nguyên nhân thì nằm ngoài tâm. À, nếu thế thì con không thực sự là một học trò tâm linh rồi, vì cốt lõi của con đường tâm linh chính là việc điều ngự tâm con. Và làm sao con có thề điều ngự tâm con nếu con nghĩ nguyên nhân của trải nghiệm nội tâm nằm ngoài tâm? Nếu con nghĩ một vị đạo sư hay một sứ giả nào đó có quyền lực trên trải nghiệm nội tâm của con, thì con bất lực không thể thay đổi được trải nghiện nội tâm. Và nếu con bất lực không thay đổi được trải nghiệm nội tâm thì làm sao con có thể tinh tấn trên đường tu tâm linh khi tinh túy của đường tu tâm linh là việc điều ngự trải nghiệm nội tâm? Khi con tự xưng là một học trò tâm linh mà lại phóng chiếu ra là nguyên nhân trải nghiệm nội tâm của con nằm ngoài tâm con, thì đây chính là một bất nhất nhận thức (cognitive dissonance).

Chờ đợi giáo lý sẽ chứng thực phin lọc nhận thức của mình

Các thày thấy, không cứ trong phong trào này mà chắc chắn trong nhiều phong trào tâm linh, là có một tỷ lệ những người tìm ra một giáo lý tâm linh – một giáo lý tâm linh chính đáng và chân truyền – nhưng họ lại rơi vào phản ứng như vậy. Hoặc họ ở lại trong phản ứng đó vì họ đã từng ở trong đó trước khi tìm ra giáo lý, và họ phóng chiếu ra. Thày Giê-su đã giảng dạy điều gì về tâm thức Phêrô (Peter)? Phêrô công nhận là có điều gì đó đặc biệt nơi Giê-su, nhưng ông không nắm bắt được sự kiện Giê-su đặc biệt là vì Giê-su ở ngoài tâm của Phêrô cho nên có thể cho Phêrô một khung tham chiếu từ ngoài tâm ông. Thay vào đó, Phêrô lại muốn kéo Giê-su vào chính tâm mình và khiến Giê-su phải tuân theo những hình ảnh cùng chờ đợi mà ông có trong tâm.

Hàng ngàn, hàng vạn người, cả ở phương Tây lẫn phương Đông nhưng đặc biệt ở phương Tây, đã tìm ra một giáo lý tâm linh chân chính nhưng họ lại phóng chiếu ra ngoài. Họ nhận diện một điều gì đó trong giáo lý đó, nhưng rồi họ lại bắt đầu phóng chiếu ra để khiến cho vị thày phải tuân theo những chờ đợi của họ. Họ không nắm được là toàn bộ mục đích của con đường tâm linh là thoát khỏi, là thăng vượt, là giải quyết các hạn chế trong chính tâm mình.

Điều kiện vỏ ngoài kích hoạt chứ không gây ra

Khi con nắm được điểm này, con sẽ thấy là không thể nào có một nguyên nhân bên ngoài tạo ra các hiện tượng bên trong tâm con. Không thể nào. Hiện tượng trong tâm là do tâm sản xuất ra. Chúng có thể được kích hoạt, chúng có thể là phản ứng trước một cảnh huống bên ngoài, nhưng cảnh huống bên ngoài không gây ra điều kiện bên trong. Chính tâm mới gây ra điều kiện bên trong qua cách nó phản ứng lại điều kiện bên ngoài. Đây là tinh túy của lời dạy mà ta đã trao cách đây 2500 năm. Con sẽ không tìm thấy lời dạy này trong bất kỳ giáo lý nào được ghi lại. Nó đã không được diễn đạt với ngôn từ đó, nó đã không được diễn đạt rõ ràng như chúng ta có thể ngày nay, vì tâm thức tập thể đã được nâng lên. Nhưng đó chính là điều ta đã cố gắng trao cho đệ tử của ta. Một số đã nắm được nhưng phần đông thì không. Đó cũng là điều mà Giê-su đã cố trao cho đệ tử của thày. Một số đã nắm được nhưng phần đông thì không, và Phêrô nằm trong số người này.

Các thày mong mỏi là những ai trong các con cởi mở với những lời dạy này có thể làm cuộc xoay chuyển đó trong tâm mình, tức là con có thể chấp nhận không có gì bên ngoài tâm con là nguyên nhân cho những gì xảy ra bên trong tâm con. Mọi chuyện xảy ra trong tâm con là kết quả của những điều kiện trong tâm con. Con có thể nghĩ là ta đang mâu thuẫn với những gì ta vừa nói ở trên liên quan đến rất nhiều ý nghĩ được phóng chiếu vào tâm con. Nhưng con thấy đó, ý nghĩ chỉ có thể kích hoạt một khuôn nếp, một cái ngã tách biệt, đã có sẵn trong tâm. Ta đã trình bày về điểm nay 2500 năm trước đây, về hành uẩn (samskara) trong tâm, về các khuôn nếp trong tâm. Bây giờ các thày gọi là ngã tách biệt. Chúng nằm đó tiềm ẩn, im lìm. Khi một cảnh huống bên ngoài xảy đến, một ý nghĩ được phóng chiếu vào tâm con, kích khởi một trong những cái ngã đó hoạt động. Nhưng nếu con cứ tập trung vào cái nguyên do bên ngoài, cái điều kiện bên ngoài, và tưởng đó là nguyên nhân, thì làm thế nào con có thể thay đổi được phản ứng bên trong tâm con? Con không thể đóng chặt không cho các ý tưởng phóng chiếu đi vào tâm con. Là một cá nhân, con không thể thay đổi tâm thức tập thể. Nhưng con có thể thay đổi chính tâm thức của con để không phản ứng lại tâm thức tập thể.

Tĩnh tâm có nghĩa là gì

Và đây là điều có thể xảy ra lần hồi khi con giải quyết các ngã đó, khi con thực hành bài tập này và buông ý nghĩ. Con có thể đạt tới điểm khi không phải là con không có ý nghĩ nào phóng chiếu vào tâm từ ngoài, không phải là con không có bộ não và tâm vỏ ngoài sản xuất ý nghĩ từ trong, mà cái Ta Biết của con, sự nhận biết ý thức của con, không giao tiếp với chúng. Chúng chỉ lướt xuyên qua.

Con hãy nghĩ đến hình ảnh của PadmaSambhava, của người đứng đó, hay người đứng trong phong cảnh bao la đó nhưng không nhìn thấy phong cảnh mà chỉ tập trung vào đám mây đen. Đấy, con có thể nghĩ là có nhiều ý nghĩ đi vào đầu con, nhưng trong thế giới vẫn còn rất, rất nhiều điều kiện mà con không nhận thấy, không chú ý. Con có thể đi bộ trên đường phố, bước qua nhiều người khác nhau nhưng con không để ý đến họ. Hay có lẽ con để ý một hai người nhưng số còn lại thì chỉ lướt xuyên qua. Con có thể đạt tới điểm khi con có đủ loại ý nghĩ đi vào tâm con, nhưng chúng chỉ lướt xuyên qua vì con không chú tâm vào đó. Và đây chính là khi con đã làm yên tâm con. “Chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng” không có nghĩa là ý nghĩ ngừng hẳn, mà có nghĩa là chúng ngưng không tác động tâm ý thức của con, không níu kéo sự chú ý ý thức của con. Đó là cách mà ý nghĩ lăng xăng chấm dứt.

Trải nghiệm Ngọn lửa Hoà bình Hoàn vũ

Thế thì câu điệp khúc mà các con vừa đọc lên nói gì? “Gautama, Lửa Hòa bình Hoàn vũ, chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng”. Con có thể suy ngẫm và hòa điệu với Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ mà ta giữ cho địa cầu, và con cũng có thể sử dụng để tránh tập trung vào các ý nghĩ. Nhưng đây là một điều mà hầu hết mọi người không thể làm được khi mới bắt đầu, và đó là tại sao ta đã cho con các bài tập kia trước. Nhưng chắc chắn một khi con đã đạt được một trình độ không dính mắc nào đó đối với ý tưởng, một khi con đã bỏ ra một thời gian để nói: “Tôi buông, tôi buông, tôi buông,” thì sau đó con có thể quyết định chú tâm vào Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ của ta, hòa điệu vào đó, mở tâm con ra với nó và đơn giản được nó bao bọc chung quanh.

Tuy nhiên con hãy cẩn thận ở đây. Điều gì xảy ra cho tâm con khi ta nói Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ? Điều xảy ra trong tâm sứ giả là ông nghĩ ông phải thấy nó như một ngọn lửa. Phải có một loại lửa nào đó có một hình thù nào đó, và ông phải có thể hòa điệu vào ngọn lửa. Nhưng làm vậy thì đã khiến cho tâm suy nghĩ rồi – con không hòa điệu vào ngọn lửa mà con đang suy nghĩ về chuyện hòa điệu vào ngọn lửa. Và chừng nào con còn nghĩ ngợi về nó, con còn suy nghĩ, con còn nhìn ngọn lửa như một cái gì tách biệt với con, một cái gì ở ngoài kia: “Lửa ở đó, tôi ở đây, tôi phải hòa điệu vào cái ở đó,” thì con không thể làm được. Không thể nào làm được. Con có thể hoặc ở trong ngọn lửa hoặc không ở trong ngọn lửa. Con có thể hoặc ở trong ngọn lửa hoặc suy nghĩ về chuyện ở trong ngọn lửa. Nhưng ở trong đó hay nghĩ tới việc ở trong đó – hai cái này khác nhau. Đó là tại sao con cần một chút thực tập để tới điểm con không thực sự hòa điệu vào ngọn lửa mà con đang trải nghiệm ngọn lửa, con đang ở trong đó, con đang được nó bao trùm.

Trong chương trình canh thức chữa lành tâm lý, con vừa được thày Hiện diện Tình thương ban truyền một bài thực tập, một bài thỉnh cầu, qua đó con hình dung một cái tháp quan sát [xem bài truyền đọc ở đây] và con nhận thấy có một chiếc cầu thang dẫn lên một mặt phẳng và có một vị chân sư đang đứng trên mặt phẳng. Khi sứ giả này bắt đầu làm bài tập đó, ông hình dung trong tâm có một chân sư đứng đó như một hình người đứng trên mặt phẳng, và ông bước chân lền cầu thang rồi ôm lấy chân sư như thể ông ôm một người. Nhưng sau vài ngày, ông nhận ra là kỳ thực, làm vậy sẽ khiến ông bị rối trí, vì ông cho rằng mình phải hình dung tiến trình và điều này kéo chú tâm của ông ra khỏi việc trải nghiệm vị chân sư. Thế rồi ông nhận ra là thay vì hình dung hình một người và chính ông cũng là một hình người đang ôm lấy chân sư, thì ông có thể thay đổi cách hình dung để cảm thấy mình không phải là một hình người đang leo lên cầu thang, mà mình chỉ là một điểm chú ý, mình được bao bọc trong quả cầu là vị chân sư, quả cầu tâm thức, Hiện diện của vị chân sư. Thậm chí ông có thể cảm thấy mình là một cái chấm bên trong quả cầu của chân sư đang nhìn xuyên qua Hiện diện của chân sư, và làm như vậy sẽ cho ông một trải nghiệm mật thiết hơn.

Một điều tương tự cũng xảy ra với Ngọn lửa Hòa bình. Con không ngồi đó như một hình người cố gắng hòa điệu với ngọn lửa ở ngoài kia đang bốc cháy giống như những đám lửa mà con thường thấy. Ngọn lửa ở đây là một quả cầu, và con thì là một cái chấm. Con ở bên trong quả cầu. Con trải nghiệm ngọn lửa, thậm chí con trải nghiệm xuyên thấu qua ngọn lửa. Khi con đã làm nhiều lần và có trớn, con còn có thể nhìn thế giới xuyên qua ngọn lửa. Đây là cách con có thể dùng Ngọn lửa Hòa bình. Và khi con chỉ trải nghiệm Ngọn lửa Hòa bình và chính con cũng ở trong ngọn lửa, chính con là một với ngọn lửa, thì các ý nghĩ lăng xăng sẽ chấm dứt. Nhưng như ta vừa trình bày, ít người làm được điều này ngay từ đầu, và con cần đi qua một số bước.

Một lần nữa đối với một số người, điều này sẽ khó thực hiện. Con đừng quá lo lắng. Đừng cảm thấy là mình phải làm cho được. Ta chỉ cống hiến cách này cho những ai đã sẵn sàng. Nếu con chưa sẵn sàng thì chẳng có vấn đề gì, và cũng không có gì để xấu hổ. Con không đang làm gì sai trái cả. Con hãy tìm một lời dạy hấp dẫn đối với con rồi chú tâm vào đó. Đôi khi như PadmaSambhava có nói, con có thể bị ghiền chuyện giải quyết một vấn đề nào đó trong tâm lý con, gần như thể con nghiện bước chân trên đường tâm linh, và con cảm thấy mình phải có khả năng làm tất cả mọi thứ các thày đưa ra, con phải có thể sử dụng, phải có thể tận dụng, phải có thể hình dung cái này hay cái nọ.

Dùng trực giác để bước trên đường tu

Hãy đứng lui lại. Con không phải làm tất cả mọi thứ. Con không phải tận dụng mọi thứ mà các thày đề nghị ở đây. Con cần tìm ra cái khía cạnh của giáo lý thu hút con ở mức tâm thức hiện thời của con trong số 144 tầng tâm thức. Con không nhất thiết cần biết mình đang đứng ở tầng nào, mà con chỉ đơn giản cảm nhận bằng trực giác rằng lời dạy này hấp dẫn đối với con. Xong con hãy tập trung vào đó chừng nào con cảm thấy mình còn cần đến nó. Sự thể là nhiều người trong các con đã không làm như vậy. Con đã tiếp cận một cách năng động hơn, con tìm ra giáo lý, con hào hứng với giáo lý và con nói: “Ồ, tôi muốn làm mọi thứ. Tôi muốn học hỏi tất cả, đọc hết tất cả. Tôi muốn thực hành tất cả, đọc tất cả các bài thỉnh và điều này điều nọ.” Làm như thế cũng phải lẽ thôi, nhưng đó chỉ là một giai đoạn. Mong thay sẽ tới một giai đoạn khác khi con bắt đầu có nhiều trực giác hơn. Thay vì cố bước trên đường tu với tâm vỏ ngoài, con bắt đầu lắng nghe trực giác của mình. Và thay vì cố làm mọi thứ một lượt, con tập trung vào đúng một thứ mà con cần ngay bây giờ, và con không tiếc nuối, con không có cảm tưởng mình bị bắt buộc, hay cảm giác là mình phải làm nhiều hơn. Con chú tâm vào đúng một chuyện, xong con tận dụng nó chừng nào mà con còn cần đến nó, sau đó con lại tìm đến điều kế tiếp sẽ đưa con lên tầng kế tiếp.

Các thày đã cho con rất nhiều thứ vì các thày biết khi con tìm thấy đường tu lần đầu tiên, con thường chưa có một phương hướng nội tâm mạnh mẽ. Con nói: “Tôi có thể làm gì? Hãy cho tôi một việc gì đó mà tôi có thể làm.” Đó cũng chính là cảm nhận của sứ giả này khi lần đầu tiên ông tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên. Ông vô cùng háo hức – chúng ta có thể gọi là ám ảnh cưỡng chế – khi đọc chú, học hỏi giáo lý, dọn sang Hoa Kỳ, tu học tất cả những khóa tu kia và vân vân. Một lần nữa, ông cần kinh qua giai đoạn đó, nhưng sẽ tới điểm khi ông nhận ra đã tới lúc ông cần tiếp cận một cách khác. Tới lúc ông cần ngưng tập trung vào việc cứu nguy thế giới cho Saint Germain, và thay vào đó, ông tập trung vào việc giải quyết tâm lý của chính mình. Và điểm đó đã tới khi thay vì để cho tâm vỏ ngoài của ông cuống cuồng muốn làm chuyện này chuyện nọ, ông đã bắt đầu lắng nghe trực giác, và nhờ vậy ông đã bắt đầu nhận được nhiều sự hướng dẫn hơn từ các chân sư, cho đến khi ông có khả năng nhận được lời hướng dẫn của Giê-su muốn thực hiện một công việc xuyên qua ông, và tất cả đã dẫn đến việc phụng sự mà ông đã cống hiến.

Bước từng bước một là đủ rồi

Con cũng có thể đi theo cùng mô thức như vậy. Tất nhiên, tất cả các con sẽ không phụng sự giống nhau, nhưng các con vẫn có thể đi theo tiến trình lắng nghe đó, bước đi từng bước một, tập trung vào từng bước một. Con không thể leo nguyên cái cầu thang bằng cách bước tất cả mọi bực thang cùng một lúc. Con có thể toan nhảy hai ba bước một, nhưng làm vậy sẽ khiến con kiệt sức trước khi con leo đến đỉnh. Con hãy vừa lòng với việc bước đi từng bước. Chẳng có gì sai trái nếu con ở tầng tâm thức 48 và chú tâm tìm cách bước lên tầng 49. Con sẽ luôn luôn ở một tầng nào đó cho tới khi con thăng thiên, và thử thách sẽ luôn luôn là bước lên bực kế tiếp. Đường tu là như thế đó.

Tâm đường thẳng muốn làm đủ mọi trò trống. Các ngã tách biệt của con cứ muốn nói: “Ồ, lẽ ra tôi phải tiến bộ hơn thế này. Đáng lý tôi phải ở một tầng cao hơn hiện nay. Tôi không được ở tầng hiện tại của tôi. Tôi phải cao hơn 10 hay 50 tầng. Tôi phải có khả năng làm tất cả mọi thứ các thày chỉ bảo. Tôi phải biết hết giáo lý.” Tất cả những chuyện này chỉ là tâm vỏ ngoài đó thôi, là những ý nghĩ lăng xăng do các ngã tách biệt sản xuất ra, hay là phóng chiếu của tà lực đang cố khiến con kiệt sức và bị cháy trên đường đạo.

Hãy đứng lui lại. Lắng nghe từ bên trong. Khi tâm vỏ ngoài phóng chiếu tới con: “Bạn phải làm cái này hay bạn phải làm cái kia,” con sẽ phản ứng ra sao? “Tôi buông. Tôi buông. Tôi buông làm chuyện này, tôi buông làm chuyện kia. Tôi buông.” Và con cứ tiếp tục buông hoài cho tới khi con đạt tới trạng thái có khả năng lắng nghe từ bên trong. Rồi một ý tưởng sẽ đến với con: “À, tôi sẽ làm điều này, vì nó không đến từ bên ngoài, nó không đến như một bổn phận tôi phải làm điều đó.” Nó chỉ đến như một ý nghĩ về một điều con có thể làm. Không có chút áp lực nào, cho nên con làm theo. Nhưng đây là một thử thách, một thử thách to lớn để có thể hành xử như vậy trong một thế giới hiện đại quá bận rộn, nơi có quá nhiều thứ níu kéo chú ý của con, lôi con về phía này hay phía nọ, nơi có quá nhiều áp lực mình phải làm cho giỏi, phải làm tốt hơn nữa, phải học hành, phải có giáo dục hay nghề nghiệp, phải kiếm nhiều tiền, phải có ngôi nhà thật lớn, tất cả những thứ như vậy, đặc biệt tại Hoa kỳ nơi mọi người đều phải cố sánh kịp với ông A bà B, và không một ai bỏ ra một phút để tự hỏi: “Ủa, thế ông A bà B đang cố sánh kịp với ai đây? Liệu người đó có thật không? Có ai đã gặp ông Nặc danh bao giờ chưa?”

Con nhận ra ở đây là khi lần đầu con tìm thấy một con đường tâm linh, như ta có nói về sứ giả này, ông đã đương đầu với nó như một thách đố. Cũng giống như chuyện chinh phục một ngọn núi vậy. Đó là một nhiệm vụ phải làm cho được, là một sự nghiệp khi ông bước trên đường tu tâm linh. Đó là một cuộc phấn đấu. Ông cảm thấy ông phải đạt được kết quả tốt. Ông phải làm tròn những mong đợi của chính mình cũng như mong đợi của người khác, mong đợi của một vị sứ giả và mong đợi của các chân sư thăng thiên. Có quá nhiều thứ mà ông phải cố xứng đáng và ông háo hức muốn làm tròn. Nhưng rất may, thay vì bị kiệt lực, ông đã tới điểm đứng lui lại và nhận ra nhu cầu tập trung vào tâm lý của mình. Và tất cả các con có thể làm được tương tự.

Đây không phải là một sự nghiệp, không phải là một áp lực, không phải là một chuyện con phải hoàn thành và đạt được. Các thày đã nói gì về những ai sẵn sàng dùng vũ lực? Rằng vũ lực sẽ không đưa con đến đâu trên đường tu tâm linh. Con không thể cưỡng chiếm thiên đàng bằng vũ lực. Con có thể cưỡng chiếm bằng vũ lực một vật mô phỏng thiên đàng, nhưng đó không phải là thiên đàng. Con đừng tự ép mình phải đi trên đường tu. Vũ lực đến từ ngã tách biệt. Hãy nhận diện nó và buông nó ra. Rồi sau đó, làm thế nào con sẽ bước trên đường tu tâm linh khi con không còn tự ép mình chứ? Bằng cách xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Ta cũng biết đây là một khái niệm khó khăn, đặc biệt đối với những ai đã lớn lên trong thế giới Âu tây – xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Nhưng dù sao thì đó vẫn là một điều để con ngẫm nghĩ cùng với các lời dạy mà các thày đã trao và sẽ trao.

Cho phép mình xuôi chảy

Câu kinh thánh nói gì chứ? “Tốt lắm, hỡi người đày tớ trung tín kia. Con đã từng trung tín trong một ít việc. Ta sẽ giao cho con trọng trách của nhiều việc.” Một lần nữa, đây là câu chuyện nhân lên các ta-lăng. Con đã nhân lên các ta-lăng mà các thày đã giao cho con. Con đã tinh tấn. Hãy nhìn nhận điều đó. Đứng lui lại. Hãy nhìn xem con đã tiếp cận con đường tâm linh như thế nào cho tới giờ, rồi hãy quyết định buông bỏ cách đó, và nhìn xem những gì đến với con từ nội tâm. Con có thể nghĩ sứ giả này có một số khả năng hay chứng đạt đặc biệt và đó là lý do ông làm sứ giả. Chắc chắn người ta đã phóng chiếu ý tưởng này trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước đây khi vị sứ giả được xem là vô cùng đặc biệt. Nhưng tại sao sứ giả này lại là sứ giả chứ? Tại sao ông lại trở thành sứ giả? Tại sao ông vẫn là sứ giả 20 năm sau? Bởi vì ông đã sẵn lòng buông xả hết lần này đến lần khác. Ông đã sẵn lòng buông ra bất kỳ dính mắc nào về giáo lý cũng như về việc làm sứ giả. Tới một điểm khi cách duy nhất để tiến bước trên đường tu tâm linh không phải là bằng vũ lực hay bằng nỗ lực, không phải là qua trung gian tâm vỏ ngoài. Cách duy nhất để tiến tới là buông ra, là từ bỏ, là cho phép chính mình xuôi chảy với dòng chảy.

Với những lời này, ta đã cho con những gì ta muốn cho con, và ta chỉ có thể bày tỏ lòng biết ơn của tất cả các chân sư đối với sự tham gia của con trong hội nghị này cũng như việc con sẽ sử dụng các lời dạy. Ta niêm hội nghị này trong ngọn lửa vui mừng của Hòa bình Hoàn vũ của đức Phật mà TA LÀ. Hãy an bình. An bình. Tĩnh lặng.

Làm thế nào loại bỏ đau khổ con người

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2022, nhân dịp Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

Một truyền rải chưa từng có của Ngọn lửa Hòa bình

Hòa bình là một ngọn lửa, một năng lượng, một tâm thức, một sinh thể – một sinh thể vũ trụ mà sự chứng đạt vượt khỏi tầng mức nơi ta đang đứng trong tư cách đức Phật cho trái đất. Sinh thể vũ trụ này đã được từ hóa (magnetized) đến địa cầu bởi các chân sư thăng thiên, bởi các con là đệ tử của chúng tôi và bởi sự xoay chuyển tâm thức vừa xảy ra do hệ quả cuộc xâm lăng nước Ukraine. Biến cố đó đã tạo ra một sự xoay chuyển trong tâm thức tập thể đến độ chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã khẩn khoản sinh thể vũ tru đó từ hóa sự hiện diện của thày trong cõi ê-the bên trên địa cầu và rải xuống một sự phát tỏa chưa từng có của Ngọn lửa Hòa bình.

Hiển nhiên ngọn lửa hòa bình này không có nghĩa là trên địa cầu sẽ tức khắc có hòa bình theo nghĩa hòa bình vật lý. Ý nghĩa thực sự là ngọn lửa sẽ phơi bày ra tất cả mọi năng lượng, mọi tâm thức, mọi sinh thể của phản hoà bình, cho nên có vẻ như ngọn lửa sẽ đem lại cái đối nghịch của hòa bình, nhưng điều này sẽ chỉ kéo dài một thời gian. Chúng tôi đã từng nói là địa cầu không thể cưỡng lại lực kéo hướng thượng của toàn bộ bầu cõi. Và địa cầu cũng không thể cưỡng lại Ngọn lửa Hòa bình Toàn vũ. Cho nên đây là một sự đặc miễn, một cơ hội cho một địa cầu đã được từ hóa bởi bao nhiêu người trên trái đất mong muốn hòa bình. Họ mong muốn một tương lai được hưởng thái bình khỏi tay những kẻ sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực.

Tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực

Thế nào là tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực? Đó là một chất độc tâm linh. Nó có mấy yếu tố. Thật ra nó khởi lên từ tất cả những chất độc kia, từ vô minh cho đến dục vọng, thèm muốn, tham lam, bởi vì tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực không bao giờ thấy đủ. Những người, những sinh thể sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực tạo ra điều gì? Họ tạo ra đau khổ, thường là cho người khác, nhưng họ luôn luôn tạo ra đau khổ cho chính họ. Những kẻ chủ mưu chiến tranh, chẳng hạn, không thể tránh tạo ra trong chính tâm họ và bốn thể phàm của họ một sự nhiễu loạn có thể sẽ nhanh chóng khiến họ không sao chịu đựng nổi. Đó là tại sao con thấy một số nhà lãnh đạo khởi sự chiến tranh đã trở nên điên loạn – trong nghĩa đen – và họ bước vào một tâm trạng hoàn toàn hoang tưởng, xa rời thực tế. Cho nên liệu con có thể nói được là khi một sinh thể bước vào tâm thức mong muốn hay sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực, thì sinh thể đó có còn quyền tự quyết, còn ý chí tự do nữa hay không? Hay chẳng phải là họ đã nộp quyền tự quyết của họ cho những con quái vật tập thể, những quỷ dữ hay sa nhân chỉ muốn gây rối loạn hoặc mưu toan chứng minh Thượng đế sai lầm? Liệu những người như thế có còn ý chí tự do hay không? Họ có một ý chí, nhưng ý chí đó không tự do.

Điều gì xảy ra trong tâm lý những người đi vào tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực? Hiển nhiên, họ cũng bước vào tâm thức nhị nguyên. Có nghĩa là họ có thể dùng tiến trình lý luận nhị nguyên để biện minh cho hành động của mình, nhưng chỉ từ một góc cạnh nào đó thôi. Con thấy đó, sức mạnh hướng thượng của toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên là tâm thức Ki-tô đưa tất cả mọi thứ xích lại ngày càng gần hơn với duy nhất. Chắc chắn, duy nhất là một cái gì khó mường tượng cho những người đầu thai trên một hành tinh với vật chất dày đặc như địa cầu, nhưng dù sao đi nữa, trong vũ trụ có một hướng chuyển động đi lên. Khi con đi vào tâm thức chiếm đoạt bằng vũ lực, con không thể ở trong duy nhất. Bởi vì nếu con ở trong duy nhất, con sẽ nhận ra là nếu con lấy của người khác bằng vũ lực thì con cũng lấy từ chính con, và thử hỏi có ai lại điên rồ đến mức làm chuyện đó?

Trạng thái phi hòa bình và phi tự do

Các sinh thể đó đi ngược lại sức mạnh hướng thượng của vũ trụ và họ không thể nào không cảm thấy điều đó. Thường thường họ không cảm thấy một cách ý thức. Họ không nhận thức được tại sao họ lại có cảm giác đó, nhưng họ cảm được một sự nhiễu loạn. Họ liên tục ở trong tâm trạng phi an bình, bất ổn này. Họ không thể bình an trong tâm. Cuối cùng nó có thể khiến họ điên loạn – cho dù con có định nghĩa từ này như thế nào – nhưng trong trung hạn, họ sẽ rơi vào một tâm trạng hoang tưởng nơi họ không thể nhìn ra hậu quả việc làm của mình. Họ không có khả năng nhìn nhận hậu quả việc làm của họ. Tại sao thế? Bởi vì để có thể sống còn về mặt tâm lý trong trạng thái phi an bình đó, họ phải cố tìm ra trong tâm một cách biện luận hầu bênh vực cho hành động hung hãn bạo ngược của họ, và họ không thể nhìn nhận hậu quả vì hậu quả sẽ vô hiệu hóa cách biện luận đó. Họ bắt buộc phải đi vào tâm trạng hoang tưởng, phủ nhận thực tế, hầu sống còn trong tâm lý.

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là giờ đây họ bước vào tâm trạng cùng cực của phi tự do. Họ có còn tự do nào nữa hay chăng khi họ không thể rút lại những chuyện bạo lực mà họ đã làm, không thể hủy bỏ hay tháo gỡ những hậu quả mà họ đã gây ra cho tha nhân? Và nếu họ nhìn nhận các hậu quả đó, dù chỉ là hậu quả trên nhân dân họ và chính họ, thì họ sẽ phải công nhận là cách biện minh của họ không sao đủ được.

Có nghĩa là trong tâm, họ sẽ phải nhìn nhận là mình sai lầm, nhưng nếu họ đã ở trong trạng thái cùng cực muốn cưỡng chiếm thì họ cũng tự coi mình là cao trội hơn, vì cái cho họ ý muốn nắm quyền lực cao nhất cũng chính là cái khiến họ cưỡng chiếm. Và nếu đã là một sinh thể cao trội hơn thì họ không thể sai lầm – hay đúng hơn, họ không thể chịu đựng nổi là mình sai lầm, và do đó họ cũng không thể nhìn nhận là mình sai lầm. Họ không thể nhìn nhận thực tế của những gì đang xảy ra trên thế giới, và do đó họ hoàn toàn phi tự do.

Họ không thể thay đổi quan điểm, vì khi họ thay đổi quan điểm hay thay đổi cách hành động, họ sẽ phải thừa nhận là hành động nguyên thủy của mình là sai trái và cách biện minh cho hành động đó cũng sai trái. Cho nên họ đã sai lầm, và khi đã là một sinh thể cao trội thì họ không thể chịu đựng mình đã sai lầm, và vì thế họ phải phủ nhận. Trong sự phủ nhận toàn diện đó, họ đánh mất tất cả mọi tự do trong tâm.

Bề ngoài có vẻ như sa nhân có tự do làm bất cứ gì họ muốn mà không phải cân nhắc những hậu quả cho người khác mà một người bình thường sẽ cân nhắc. Có vẻ như họ thường hay trốn tránh được hậu quả việc làm của họ vì họ khiến cho những ai đi theo họ phải gánh dùm nghiệp chướng. Nhưng khi con nhìn sâu vào tâm của sa nhân, con sẽ thấy ở tầm mức của tâm, họ là những sinh thể ít tự do nhất. Họ có vẻ tự do ở tầm mức hành động vật lý, nhưng họ ít tự do nhất ở tầm mức của tâm.

Những lãnh đạo không chịu nổi là mình sai

Từ khá lâu nay chúng tôi đã có đề cập đến các thiên thần sa ngã qua một đợt truyền pháp trước. Trong đợt truyền pháp này, chúng tôi nói đến các sinh thể sa ngã và đưa ra một số lời dạy rất thâm thuý về sa nhân. Lời dạy đó đã đi vào tâm thức tập thể, đã chạm được những ai có tâm cởi mở do họ đã nhìn vào lịch sử và tự hỏi tại sao trên địa cầu lại có loại lãnh tụ như vậy, những người thiếu hẳn lòng trắc ẩn hay quan tâm đến nỗi đau khổ của người khác. Hẳn lời dạy này đã chạm được các con, những học trò trực tiếp của chúng tôi. Các con đã suy ngẫm những ý tưởng đó, đã đọc thỉnh dựa trên những bài truyền đọc của chúng tôi, và tất cả đã tạo ra một động lượng hướng thượng – giờ đây được tăng cường và kết tinh do cuộc xâm lăng nước Ukraine – đến độ hành tinh đã đạt đến một khối lượng tới hạn (critical mass).

Hiện nay đã có một sự xoay chuyển trong tâm thức tập thể khi có nhiều người hơn thấy được, nhận ra được, sự cần thiết phải hiểu biết tại sao ngay cả trong thế giới hiện đại vẫn có những loại lãnh đạo như thế, những lãnh đạo sẵn sàng hành động bạo lực rõ ràng, gây ra biết bao hậu quả khốc liệt cho nhân dân xứ họ cũng như các xứ khác. Hơn thế, họ không sẵn lòng công nhận hậu quả đó để mà thay đổi hành động, thay đổi quan điểm của mình. Họ không có lòng trắc ẩn. Họ xem thường hậu quả mà họ gây ra, tại sao chứ? Như ta vừa nói, vì họ không thể chịu đựng nổi là mình sai lầm, và đây chính là điểm mà nhiều người đã bắt đầu nhìn ra: sự xơ cứng hoàn toàn, sự thiếu vắng khả năng cùng thiện chí để chấp nhận là mình đã sai lầm, hay việc làm của mình đã không tối ưu mà lại còn gây tổn hại cho chính quyền lợi của mình.

Sự xơ cứng của các chế độ độc tài

Điều này dẫn đến sự tỉnh ngộ rằng các nền dân chủ là những xã hội có đủ khả năng cho phép một lãnh đạo sai lầm. Những xã hội đó có đủ khả năng cho phép người ta sai lầm. Người ta có đủ khả năng nhìn nhận là mình đã sai lầm, rồi dựa vào đó, thay đổi cách nhìn và cách làm của mình. Đây là một trong những khác biệt cơ bản giữa một chế độ độc tài và một thể chế dân chủ. Người lãnh đạo trong một chế độ độc tài không thể công nhận là mình sai lầm, người dân không thể công nhận là mình đã sai lầm về lãnh đạo độc tài của mình, và sự thể này tạo ra một sự xơ cứng ở mức cơ bản, có nghĩa là một chế độ độc tài không có khả năng thích ứng với những tình huống thay đổi. Họ phải tiếp tục hành xử y như trước mà cứ chờ đợi kết quả sẽ khác đi, và như con cũng biết Einstein đã từng nói, đó chính là một hình thức điên rồ. Họ rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ sẽ cứ đi xuống mãi cho tới khi một biến cố xảy đến, một biến cố gây sốc đến độ nó sẽ đập tan sự phủ nhận của họ. Có thể biến cố đó là một thảm bại toàn diện như con thấy trong trường hợp Đức quốc xã. Đó có thể là sự phơi bày những dã man khủng khiếp như con thấy với Đức quốc xã và cuộc diệt chủng người đạo Do Thái. Hay đó có thể là hiểm họa một sự sụp đổ kinh tế toàn diện như con thấy trong trường hợp Liên Xô.

Con cũng thấy đôi khi một chế độ độc tài có thể chuyển hướng và bước vào một vòng xoắn ốc hướng thượng. Con đã thấy Đế chế Anh đã phải tự xét mình như thế nào do tấm gương của Gandhi và phong trào bất bạo động, và vì thế họ đã chuyển đổi từ cách cư xử chuyên chế đối với Ấn Độ sang nhận thức là họ không thể tự xưng là một nền dân chủ ở trong nước mà lại hành xử độc tài ở ngoài nước. Con đã thấy nước Đức chuyển đổi từ một quốc gia độc tài dưới Hitler thành một quốc gia dân chủ. Gần đây con thấy nước Đức nhìn nhận là chính sách của họ đối với Nga và Putin là một sai lầm và họ sẵn sàng thay đổi. Con cũng thấy các nước dân chủ khác nhìn nhận là họ đã đánh giá sai về Putin cùng tình hình ở Nga và họ cũng sẵn sàng thay đổi theo đó. Nhưng con cũng thấy một số nước dân chủ chưa sẵn sàng làm chuyện đó.

Uyển chuyển có nghĩa là sống còn

Dù sao đi nữa, điều ta muốn nêu ra ở đây là ta đã từng đầu thai trên trái đất rất nhiều ngàn năm trước khi hiện thân là Phật Gautama. Ta đã không là Phật trong suốt thời gian đó – ta chưa chứng được tâm thức Phật nhưng ta đã đầu thai trong một thời gian rất dài. Ta thăng thiên cách đây 2500 năm và kể từ đó, ta đã là một chân sư thăng thiên trong tâm thức Phật. Ta có một kinh nghiệm rất dài, một cái nhìn vô cùng dài hạn về địa cầu. Điều này có nghĩa là khi nói về xã hội, ta biết cái gì có thể sống còn và cái gì không thể sống còn. Và quả thực, cái duy nhất có thể sống còn là khả năng thích nghi, tính linh hoạt uyển chuyển, sự sẵn lòng thay đổi. Không chỉ thay đổi chiều ngang mà thay đổi chiều dọc, thay đổi trong sự thăng vượt mức tâm thức cũ của mình.

Bất cứ ai có cái nhìn dài hạn như ta đều có thể thấy sự tiến bộ là một đòi hỏi tuyệt đối, không chỉ trên địa cầu mà khắp mọi nơi trong vũ trụ. Thăng vượt trạng thái cũ, tiến lên một trạng thái cao hơn, đó chính là nền tảng để sống còn. Con cũng có thể thấy được điều này khi con nhìn vào lịch sử, nhìn xem những xã hội đã ra đời và biến mất như thế nào. Con có thể nhìn vào các loài động vật và dòng tiến hóa. Tại sao loài khủng long lại tuyệt chủng? Vỉ chúng không thể thích nghi. Thật sự con có thể thấy, đây chính là một định luật tự nhiên. Tất nhiên, đây cũng là một định luật tâm linh nhưng con có thể nhìn hoàn toàn trung hòa và gọi đó là một định luật tự nhiên. Khi xã hội trở nên xơ cứng, thiếu uyển chuyển và từ chối thích ứng, xã hội đó sẽ không thể bền vững trong thời gian. Nó có một thời hạn, một thời điểm hết hạn. Điều gì khiến cho một xã hội trở nên xơ cứng? Khi người ta không thể nhìn nhận, không nhất thiết rằng mình sai lầm, mà người ta không thể nhìn nhận là mình có khả năng làm tốt hơn những gì mình đang làm.

Sự sụp đổ của các nền văn minh và sức kéo hướng thượng của phần còn lại của vũ trụ

Tiến tới cái tốt đẹp hơn là một định luật. Tất nhiên, dựa theo lịch sử ghi chép thì con không nhất thiết thấy được là đã từng có những thời đại trong quá khứ khi toàn bộ hành tinh rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ khiến cho các nền văn minh bị sụp đổ. Một hành tinh như địa cầu hoàn toàn có khả năng rơi vào một vóng xoáy hướng hạ và đi ngược lại định luật tự nhiên của sự tự thăng vượt tuần tự. Nhưng hiển nhiên biến cố đó cũng đã gây ra sự sụp đổ cho các nền văn minh, sự hủy diệt của các nền văn hiến và dân số bị suy giảm xuống một mức rất thấp so với ngày nay. Tình trạng này tất nhiên không thể duy trì mãi, và đã tới một điểm khi không còn nơi nào thấp hơn để đi xuống và vòng xoáy hướng hạ đã chạm đáy.

Thế rồi lực kéo hướng thượng của phần còn lại của vũ trụ bắt đầu vực địa cầu lên trở lại, và lần hồi loài người lại đáp ứng, tạo nên một động lượng đi lên. Có những thế lực hoạt động chống lại một động lượng đi lên như vậy và chúng có thể phần nào thành công dựng lên những đế quốc tạm thời chặn đứng sự tăng trưởng. Và mặc dù đôi khi chúng có thể kéo dài cả ngàn năm nhưng chúng không thể tồn tại mãi mãi.

Và ngay cả nếu con nhìn vào lịch sử được ghi chép, con sẽ thấy tuổi thọ của những đế quốc như vậy rõ ràng ngày càng ngắn ngủi hơn. Đế chế La Mã sống sót được khá lâu. Đế chế Công giáo La Mã sống sót được một thời gian. Đế chế Nga hoàng, các vị vua tại Âu châu, các vương quốc châu Âu, cũng sống sót một thời gian, nhưng con thấy ngày càng ngắn hơn. Rồi con chứng kiến các lãnh tụ với tham vọng chinh phục toàn thế giới, như Napoleon thành công một thời gian nhưng không được bao lâu. Con thấy Hitler cũng thành công một thời gian nhưng rất ngắn ngủi. Con thấy là lãnh đạo càng hành xử bạo ngược bao nhiêu thì tuổi thọ của chế độ càng ngắn ngủi bấy nhiêu. Liên bang Sô viết sống sót được như vậy là vì họ tránh được chiến tranh lạnh trở nên quá nóng. Putin đã kéo dài được như vậy cũng là vì ông đã tránh vượt qua lằn ranh đó. Nhưng bây giờ lằn ranh đã bị vượt qua thì không có đường nào để quay trở lại được nữa.

Một nhận biết mới tại các quốc gia phi dân chủ

Đây là một điểm mà nhiều người có thể nhận biết và nắm bắt được, không những tại các nước dân chủ mà cả các nước phi dân chủ. Có một động lượng đang được vun đắp trong tâm thức tập thể, đó là: Rất, rất nhiều người tại các nước phi dân chủ đã hiểu ra – đột nhiên mà không cần suy nghĩ gì đặc biệt – rằng họ cũng đang mang các nhược điểm nói trên trong quốc gia của họ, trong chính quyền cũ và trong các chế độ độc tài. Họ bắt đầu thấy được là mình đang ở trong một vòng xoắn ốc tự hủy diệt không thể kéo dài lâu hơn. Và nếu xã hội của họ muốn tránh khỏi phần nào bị đổ vỡ thì phải có một sự thay đổi.

Có những người tại Trung quốc thấy được là một cuộc xâm lăng Đài Loan sẽ là một hành động tự sát đối với đảng Cộng sản và thiểu số tự tôn quyền lực Trung quốc. Có những người tại các nước Ả rập thấy được là không thể nào kéo dài tình trạng đạo Hồi chi phối chính quyền đến mức đó. Có những người tại một số nước khác thấy được là âm mưu của một số lãnh đạo nhằm khuynh đảo và phá hoại nền dân chủ, cũng như tự trao cho mình những quyền hạn vi hiến, là không bền vững. Thổ Nhĩ Kỳ là một ví dụ hiển nhiên của tệ trạng này. Đổi tên thôi thật không đủ mà cần đổi cả cách hành xử, có nghĩa là cần đổi người cầm đầu ở trên cùng.

Hẳn là có một động lượng như vậy đang được bồi đắp ở hạ tầng nhưng hầu như chưa được người ta nhìn thấy hay công nhận – một động lượng hướng tới việc nhận thức rằng đau khổ không phải là một điều chắc chắn không thể tránh khỏi. Đau khổ phần lớn do con người tạo ra, và nó được tạo ra bởi những kẻ chiếm đoạt bằng vũ lực, những kẻ biện minh cho bạo lực và nhất định không thừa nhận là mình sai lầm. Chính sự xơ cứng đó, chính sự kháng cự lại nhu cầu phải thích nghi và thay đổi, là nguyên nhân thực sự của hầu hết mọi khổ đau có mặt trên địa cầu. Hay nói cách khác, đó là động lực chủ yếu làm khuấy động biển luân hồi.

Chìa khóa để khắc phục đau khổ con người

Như ta có nói, động lượng hướng thượng đã phần nào do các học trò của chân sư thăng thiên xây dựng lên, phần nào do rất nhiều Phật tử suốt 2500 năm qua đã cố gắng hiện thân những lời dạy mà ta truyền giảng, phần nào do rất nhiều tín hữu Cơ đốc đã cố gắng hiện thân những lời dạy của Giê-su, và phần nào cũng do rất nhiều người tại các nước dân chủ lẫn phi dân chủ đã suy ngẫm về sự khác biệt giữa chế độ độc tài và thể chế dân chủ. Họ đã suy ngẫm: “Tại sao lại có đau khổ con người? Đâu là nguyên nhân? Có thể làm gì được để giảm bớt, thậm chí loại bỏ, đau khổ con người? Có thể nào trừ hẳn mọi đau khổ con người?” Nhiều người đã đặt ra câu hỏi đó. Một số đã kết luận là chuyện đó không thể làm được, vì họ không thấy được làm thế nào. Nhưng một số đã suy ngẫm là chuyện đó phải có cách làm được. Họ có thể trực nhận, hoặc có thể họ biết được từ tiền kiếp, hay trong thời gian giữa hai kiếp đầu thai, rằng có cách giảm bớt, loại bỏ, giải quyết đau khổ con người.

Nói cho cùng, chẳng phải đó là những gì Phật đã nói hay sao? Chẳng phải là những gì Giê-su đã nói? Chẳng phải là những gì nhiều tôn giáo khác và nhiều phong trào tâm linh khác cũng đã nói? Có cách vượt qua đau khổ. Một số sẽ bảo, người ta chỉ thoát được đau khổ sau khi nhắm mắt bỏ lại cõi đời này. Nhưng nhiều người khác, đặc biệt trong thời đại hôm nay, bắt đầu tự hỏi: “Hẳn là phải có cách nào thoát khỏi khổ đau ngay trong thế giới này chứ?” Điều mà nhiều người trong số đó bắt đầu cảm nhận là con người có khả năng thoát khỏi khổ đau không qua một phương thức vỏ ngoài, không bằng cách tạo dựng một xã hội lý tưởng hay không tưởng. Vì nói cho cùng, đau khổ xảy ra ở đâu? Con có thể bảo rằng nếu con ngã ngựa và gẫy chân thì có một cơn đau vật lý khiến con đau khổ. Nhưng đau khổ đó được trải nghiệm ở đâu? Trong tâm con. Khi con được tiêm một mũi thuốc tê để làm dịu cơn đau, liệu thuốc tê có ảnh hưởng gì trên cái chân gẫy của con? Hay là thuốc tê ảnh hưởng đến bộ não cảm nhận cơn đau vật lý?

Nhưng xa hơn cơn đau vật lý, tất nhiên còn có trải nghiệm tâm lý về nỗi đau, và đây chính là đau khổ. Cơn đau, nỗi đau vật lý, ngay cả khi được trải nghiệm bởi bộ não, không thật là đau khổ, bởi vì đau khổ không là cùng một thứ như cơn đau. Cơn đau có thể gây ra hay kích hoạt đau khổ, nhưng tự thân cơn đau không phải là đau khổ. Đau khổ là một trải nghiệm của tâm. Nó có thể bao gồm một số yếu tố nhưng luôn luôn có yếu tố này: “Đúng ra tôi không được cảm thấy cơn đau này. Đúng ra tôi không phải trải nghiệm điều kiện này. Đúng ra những người kia không được hành xử như vậy với tôi.” Luôn luôn trong tâm có một ý niệm rằng chuyện đó đúng lý không được xảy ra. Nhưng bởi vì nó đang xảy ra và con không thể làm cho nó biến mất, cho nên đó là cái gây ra đau khổ.

Nhiều người ít ra đã bắt đầu ngờ ngợ và cảm nhận được là đau khổ diễn ra trong tâm, có nghĩa là mặc dù nó có thể được những yếu tố bên ngoài kích hoạt, nhưng nguyên nhân thực sự của đau khổ phải nằm bên trong. Và điều này có nghĩa là cách duy nhất để loại bỏ đau khổ là làm việc trực tiếp trên tâm mình. Chắc chắn các xã hội dân chủ đã cố gắng tạo ra một môi trường nơi các công dân không phải trải nghiệm rất nhiều điều kiện vỏ ngoài thường hay gây ra đau khổ hay kích hoạt đau khổ. Có nhiều người lớn lên trong một xã hội dân chủ đã sống cả đời mà không phải trải nghiệm những loại tình huống vật lý khắc nghiệt đó. Thế nhưng nhiều người vẫn đau khổ. Họ đau khổ mặc dù họ không có lý do vật lý nào để đau khổ, nhưng họ có một lý do tâm lý gây ra đau khổ.

Các nền dân chủ đã chứng minh là cho dù người dân được cung cấp những điều kiện vật chất lý tưởng, điều này vẫn không loại bỏ được đau khổ. Giờ đây đã rõ ràng là cách duy nhất để loại bỏ đau khổ là phải làm việc trên tâm. Và như con cũng biết, đó chính là điều ta đã nói cách đây 2500 năm. Đó là điều Giê-su đã nói cách đây 2000 năm. Và đó cũng là điều mà Khổng Tử và Lão Tử cùng bao nhiêu vị sứ giả tâm linh khác đã nói rất nhiều lần trong rất nhiều hoàn cảnh khác nhau. Thường người ta đã không lắng nghe các vị đó, bởi vì mặc dù người ta có thể nghe được lời dạy vỏ ngoài nhưng người ta không thể hoàn toàn thể nhập được lời dạy. Nhưng ngày nay chúng ta đã tiến gần hơn đến một thời đại khi càng ngày sẽ càng có nhiều người có khả năng nắm bắt lời dạy, nắm bắt nội dung thực sự của lời dạy, và đó là: Chìa khóa để vượt qua đau khổ nằm trong tâm con người.

Con có thể toan tính tạo dựng một xã hội không tưởng, và con có thể toan tính tạo dựng một xã hội lý tưởng, nhưng con sẽ không bao giờ giảm thiểu được đau khổ. Con thấy được điều gì trong một xã hội dựa trên vũ lực với một chính quyền dựa trên vũ lực? Con thấy đau khổ ở một mức cao trong loại xã hội đó. Người dân trong Liên bang Sô viết rõ ràng đau khổ hơn người dân tại Tây Âu vào thời đó. Người dân ở Nga trước cuộc xâm lược rõ ràng đau khổ hơn người dân tại Tây Âu vào lúc đó. Người dân ở Nga sau cuộc xâm lược rõ ràng đang đau khổ hơn người dân tại Tây Âu.

Con thấy đó, trong một xã hội dựa trên vũ lực, với một chính quyền dựa trên vũ lực, người dân đau khổ hơn. Trong một quốc gia dân chủ, người dân đau khổ ít hơn, nhưng họ vẫn đau khổ. Và đau khổ của họ cũng khác. Họ không đau khổ do hệ quả của những điều kiện vỏ ngoài, nhưng giờ đây càng ngày họ sẽ càng đau khổ do những điều kiện tâm lý. Chúng tôi đã từng giải thích nguyên nhân của sự thể này, rằng những ai đã từng trải qua chấn thương trong tiền kiếp sẽ có xu hướng muốn đầu thai, nếu có thể, trong một quốc gia dân chủ nơi họ có cơ hội tốt hơn để giải quyết tâm lý chấn thương của họ.

Con không thể loại bỏ đau khổ bằng vũ lực

Nhưng dù sao thì điểm ta muốn nói ở đây là con cần tự hỏi, chủ yếu tại các nước dân chủ nhưng cũng ở mọi nước khác: Đâu là mục đích của xã hội chúng ta? Con có thể nhìn vào các chế độ độc tài và thấy được mục đích của độc tài là để cung cấp cho nhà độc tài cùng thiểu số thượng lưu quyền lực đang ủng hộ ông ta tất cả những gì mà họ thèm khát – cảm giác quyền lực, cảm giác mình cao trội, cảm giác mình đặc biệt, cảm giác mình giàu có, cảm giác mình có nhiều đặc quyền, bất kỳ … Nhưng toàn bộ xã hội đó đặt trên nền tảng sự tước đoạt bằng vũ lực mà thiểu số độc tôn quyền lực này đã áp đặt lên dân chúng.

Rõ ràng là khi con có một xã hội dựa trên vũ lực nơi đa số dân chúng gần như làm nô lệ cho một thiểu số thượng lưu, thì dân chúng sẽ phải khổ đau. Sẽ không thiếu gì những điều kiện bên ngoài khiến cho dân chúng khổ đau vì họ sẽ cảm thấy là chuyện đó không phải phép, rằng đúng ra họ phải có một cuộc sống tốt đẹp hơn, đúng ra họ không được bị kềm kẹp đến như vậy, đúng ra họ không được bị chà đạp, vân vân. Nhưng như ta vừa giải thích, thật sự không có ai đau khổ bằng chính nhà độc tài cùng nhóm tay sai của ông ta. Họ mới là những người đau khổ nhiều nhất.

Con có thể nói được như thế này: Một xã hội dựa trên vũ lực không phải là một xã hội có mục đích chấm dứt, hay ngay cả giảm thiểu, đau khổ của con người, và cho dù nó có muốn biết mấy thì nó cũng sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu đó. Con không thể loại trừ đau khổ bằng vũ lực. Vũ lực sẽ chỉ tạo thêm đau khổ. Và tất nhiên, đau khổ cũng tạo thêm vũ lực, bởi vì những người có tư duy đó sẽ nghĩ rằng nếu họ đang đau khổ thì hẳn phải có một nguyên do vỏ ngoài nào đó, và nếu họ dùng vũ lực để tiêu diệt nguyên do đó thì họ sẽ hết đau khổ. Thế nhưng nỗ lực tiêu diệt nguyên do sẽ chỉ gây ra thêm nhiều khổ đau, và như thế họ rơi vào cái vòng xoắn ốc không bao giờ ngừng lại mà sẽ chỉ ngày càng cuồng nhiệt hơn, cho tới khi họ không thể sống còn về mặt tâm lý, thậm chí cả về mặt vật lý.

Con không thể loại bỏ đau khổ qua phúc lợi vật chất

Khi con nhìn vào các nền dân chủ, con có thể nói được điều gì về dân chủ? Con có thể nói đó là những xã hội có mục đích giảm thiểu tối đa đau khổ con người, giảm thiểu tối đa đau khổ của quần chúng nói chung. Thậm chí con có thể nói rằng mục đích cao hơn của một nền dân chủ là loại bỏ đau khổ con người. Nhưng điều chúng tôi đang chỉ ra cho con qua loạt bài giảng này là điều đó không thể nào thực hiện được, bất kể xã hội vỏ ngoài mà con tạo dựng có tốt đẹp đến đâu. Bất kể các điều kiện vật chất có tốt đẹp thế nào, bất kể người dân có tự do chừng nào, bất kể cuộc sống có dễ dàng biết mấy, thì điều đó cũng không loại bỏ được khổ đau bởi vì nguyên nhân đau khổ nằm trong nội tâm. Như chúng tôi đã có nói, bước lô-gíc kế tiếp cho các nền dân chủ tân tiến là cần chú tâm vào sức khỏe tâm lý, phúc lợi tâm lý, thay vì phúc lợi vật chất.

Đây rõ ràng là thêm một bước tiến, một bước lô-gíc và tự nhiên trong tiến trình mà các nền dân chủ hiện đại đi qua – ít ra là các nền dân chủ đã phát triển cao nhất trong tiến trình dân chủ. Một lần nữa, điều này không có nghĩa là họ phải công nhận một giáo lý tâm linh hay sự trợ giúp của các chân sư thăng thiên, nhưng họ thực sự cần khám phá ra một số nguyên lý phổ quát về tâm lý con người rồi đem ra áp dụng.

Con có thể nói giống như các thày cũng đã nói, vấn đề quan trọng thực sự cho dân chủ là con người, chứ không phải là tư tưởng, hay lý thuyết, hay chủ nghĩa. Điều thực sự quan trọng cho dân chủ là quần chúng nói chung, chứ không phải một thiểu số thượng lưu. Và một bước cao hơn trong mục đích của dân chủ chính là giảm thiểu nỗi khổ đau của dân chúng. Hiển nhiên, đây là một điểm mà càng ngày sẽ càng có nhiều người xét đến, nắm bắt, công nhận, rồi họ sẽ nói đến, sẽ viết lách. Là học trò trực tiếp của chúng tôi, các con là một thành phần của tiến trình này khi các con nâng cao tâm thức của mình, khi các con đọc thỉnh đọc chú, khi các con tu học giáo lý, nhưng ngoài các con ra thì còn rất, rất nhiều người khác.

Tạo vòng xoáy hướng thượng cho mọi người

Như chúng tôi có giảng mấy lần trong các đợt truyền pháp trước, học trò của chúng tôi đã có nhu cầu cảm thấy chỉ có mình mình đang cứu nguy địa cầu cho Saint Germain. Nhưng như con đủ trưởng thành để nhận ra, đó chỉ là một cái nhìn ngây thơ. Muốn thay đổi thế giới phải cần đến rất, rất nhiều người. Con có thể là người đi tiên phong, là mũi nhọn của ngọn giáo, nhưng con không thể làm chuyện đó một mình. Thật là ngây thơ mà nghĩ như vậy. Cho nên mấy lần rồi chúng tôi đã yêu cầu các con xoay chuyển, tức là các con không làm những gì con đang làm để nâng mình lên thành người đặc biệt, vì khi con mang tư duy đó thì con sẽ rất dễ dàng mở cửa ra cho chất độc tâm linh của ganh tị và ghen ghét. Chất độc này khiến con làm gì? Con muốn chỉ có mình con thực hiện một điều gì tích cực cho Saint Germain. Con không muốn mọi người ở ngoài kia hoà điệu với tư tưởng của các chân sư rồi đem ra áp dụng vì họ sẽ tước mất công lao của con. Trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên đã có lối tư duy như thế, cũng như trong nhiều phong trào tôn giáo lẫn tâm linh.

Nhiều đạo sư vẫn còn mong muốn nâng cao bản thân mình và họ truyền mong muốn đó cho đệ tử của họ. Chúng tôi yêu cầu các con hãy bước lên một mức trưởng thành cao hơn, buông nó ra để nắm lấy viễn kiến rằng tất cả những ai có tiềm năng hòa điệu với các ý tưởng nói trên, tiềm năng đem vào thực hiện và thay đổi thế giới, sẽ ra tay làm chuyện đó. Họ sẽ đạt được thành công tối đa như trong sứ vụ thiêng liêng của họ. Bởi vì thật sự, con yêu dấu, khi con đạt đến một mức cao hơn của quả vị Ki-tô, con sẽ thấy việc người khác hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của họ hiển nhiên không thể ngăn trở chính sứ vụ thiêng liêng của con. Ngược lại là đằng khác, người khác càng thành công bao nhiêu thì chính con cũng thành công bấy nhiêu, vì con là một phần của tổng thể, và chỉ bằng cách nâng cao tổng thể đó thì con mới nâng cao chính con một cách tối đa. Điều này con sẽ thấy là chuyện đương nhiên một khi con đạt đến một mức nào đó của quả vị Ki-tô. Con hiểu ra cái quan trọng nhất không phải là con như một sinh thể tách biệt. Cái quan trọng nhất là cái ta rộng lớn hơn của tất cả những ai đã bước vào vòng xoáy hướng thượng. Nói cho cùng, đó là toàn bộ nhân loại, vì tất cả mọi người đều có thể được vòng xoáy hướng thượng đó kéo lên, ngay cả khi họ chưa tích cực neo chặt và chưa gia tốc vòng xoáy đó.

Thành công to lớn của hội nghị này

Hội nghị này – và ta không nói điều này để khiến con cảm thấy mình đặc biệt, nhưng con xứng đáng nhận được một sự lượng định thực tiễn – hội nghị này đã có một tác động đáng kể do thời điểm của nó. Do sự xoay chuyển, sự thức tỉnh mà liều thuốc gây sốc của Putin đã kích hoạt, hội nghị này, các bài truyền đọc của chúng tôi, những lời kêu gọi của các con, nỗ lực thể nhập và lắng nghe bài truyền đọc của các con, đã có một tác dụng to lớn hơn rất nhiều so với bình thường.

Con có thể nói: “Nhưng các thày đã có thể, nói chung, ban ra cùng những bài giảng này cách đây sáu tháng.” Các con đã có thể đọc, không cùng những bài thỉnh nhưng những bài thỉnh quyền năng hơn, và chúng ta đã có thể tổ chức một hội nghị về dân chủ và quả vị Ki-tô vào mùa thu [Bắc bán cầu]. Nhưng bởi vì tâm thức tập thể lúc đó ở trong một tình trạng bế tắc cho nên một hội nghị vào thời điểm đó sẽ không thể nào có được tác dụng mà nó có bây giờ. Trong hội nghị này, các con đã tác dụng thật to lớn để định hướng một tâm thức tập thể bị lâm vào rối loạn – một tâm thức tập thể chứa đựng rất nhiều năng lượng nhưng lại thiếu sót một hướng đi. Tuy đã có một đường hướng nào đó vì như chúng tôi có nói, quả thật các quốc gia dân chủ đã phản ứng ở mức độ cao hơn là chúng tôi chờ đợi, nhưng hướng đi vẫn thiếu sót và các con đã cống hiến được một lực đẩy. Lực đẩy này, nếu người ta chịu nắm lấy, có thể sẽ kết tụ thành những viễn quan mới, những đường hướng mới và một niềm quyết tâm mới. Về điểm này, các con xứng đáng được chúng tôi biết ơn.

An bình đến từ thái độ “bất cứ gì xảy ra cũng được”

Có lẽ con đã nhận diện ra chúng tôi là những sinh thể uyển chuyển, linh hoạt tột bậc. Điều này sẽ khiến cho một số hoc trò của chúng tôi ngạc nhiên vì họ tưởng chúng tôi bất biến. Theo một nghĩa nào đó, chúng tôi bình đẳng ở mức tâm thức của mình mặc dù vẫn luôn luôn tự thăng vượt như chúng tôi đã có nói. Nhưng chúng tôi uyển chuyển một cách vô biên trong việc giúp đỡ loài người trên địa cầu. Bất kỳ trong hoàn cảnh nào, bất kỳ chuyển đổi nào trong các điều kiện trên địa cầu, chúng tôi cũng luôn luôn tìm cách tận dụng để khởi xướng tăng triển. Chắc chắn chúng tôi sẽ ưa thích hơn nếu cuộc chiến này đã không xảy ra. Nhưng giờ đây nó đã xảy ra thì chúng tôi không nhìn cuộc chiến với chút tiếc nuối nào. Chúng tôi nói:”Làm thế nào giúp được mọi người tiến tới tử điểm này? Làm thế nào biến nó thành một cái gì tích cực, biến nó thành một cơ hội tăng triển sẽ thực sự đem lại tăng triển, để đưa hành tinh và những xã hội có thiện ý đó xích lại gần hơn với Thời đại Hoàng kim của Saint Germain?”

Tất nhiên đây cũng là một thái độ mà các con là học trò của chúng tôi có thể khoác vào. Vị sứ giả này, như ông có chia sẻ, đã bị chấn động khi cuộc chiến bùng nổ, nhưng ông đã làm việc trên bản thân cùng tâm lý của ông, và ông đã thay đổi thái độ. Một ý tưởng đã giúp cho ông là khi con nhìn vào trái đất ngày nay, con có thể thấy các điều kiện hiện hữu trên hành tinh kém xa những gì sẽ hiện hữu trong Thời đại Hoàng kim của Saint Germain. Chúng tôi đã ban ra nhiều lời dạy về Thời đại Hoàng kim của Saint Germain, đủ để con thấy được là các điều kiện hiện hữu trên điạ cầu ngay bây giờ rất, rất thấp kém so với Thời Hoàng kim, và điều này có nghĩa là những cuộc thay đổi to lớn sẽ cần diễn ra trước khi thời đại đó có thể thực sự bắt đầu thị hiện.

Sứ giả này đã hiểu ra là cho tới giờ, ông đã có thái độ, có tư duy, ông đã hy vọng, đã mong mỏi, đã cầm giữ viễn kiến rằng những thay đổi đó sẽ diễn ra lần hồi và tuần tự, để không có những biến động quá lớn, chẳng hạn như chiến tranh, như bệnh dịch corona, như một sự sụp đổ kinh tế hay những biến cố khác giống như vậy. Ông cứ hy vọng sẽ được thấy cùng một loại tăng trưởng như ông đã chứng kiến gần như suốt đời và hầu hết các con cũng đã chứng kiến gần như suốt đời trong thế giới dân chủ tân tiến – tức là một sự phát triển lần hồi và ổn định không có cú sốc lớn.

Ông hy vọng như vậy. Nhưng khi ông xem xét tư duy đó, ông mới nhận ra: “Nhưng nếu sự thay đổi lớn lao cần thiết đó chỉ diễn ra thật tuần tự, thì chẳng phải là nó sẽ tốn rất nhiều thời gian trước khi thời hoàng kim có thể thị hiện hay sao?” Điều này đã khiến ông xoay chuyển tư duy, và ông nói: “Nếu vậy thì tôi có thể chấp nhận một số biến động to lớn, một số biến cố dữ dội có khả năng xoay chuyển tư duy, hầu chúng ta có thể biểu hiện thời hoàng kim sớm sủa hơn.” Tất cả các con đều có thể làm giống như vậy, không những vì nó sẽ gia tốc sự tăng triển bởi con không mang một viễn kiến khuyến khích sự tăng triển chậm chạp, mà cũng vì chính con có thể đạt được một niềm an bình lớn hơn khi các biến cố đó xảy ra.

Ta hoàn toàn không có ý giảm thiểu nỗi đau khổ của người dân Ukraine. Ta không đang nói rằng nếu con sống tại Ukraine thì con phải giữ được an bình giữa tất cả những gì đang xảy ra. Nhưng có rất nhiều các con, hầu hết các học trò của chân sư đang sống tại các quốc gia hòa bình hơn, các con có thể chọn lấy một trạng thái tâm an bình hơn. Các con chọn lấy thái độ “bất cứ gì xảy ra cũng được” thay vì lòng sợ hãi: “Ồ, chuyện này không được xảy ra, hay chuyện kia không được xảy ra.” Có nghĩa là khi một biến động lớn xảy đến, con sẽ không bị mất an bình. Con sẽ không bước vào trạng thái nhiễu loạn khi con nghĩ, giống như ngay cả sứ giả này trong những ngày đầu của cuộc chiến cũng nghĩ: “Ồ, chuyện này đúng lý không được xảy ra. Làm sao nó đã xảy ra được? Chuyện này không được xảy ra.” Thay vào đó, con bước vào thái độ: “Vậy à, chuyện đó đã xảy ra, làm thế nào chúng ta có thể dùng nó một cách tối ưu? Làm thế nào chúng ta có thể biến nó thành một bước tăng triển?” Làm như vậy sẽ giúp con đối mặt dễ dàng hơn với thời gian còn lại của con trong kiếp hiện thân.

Lời đề nghị của Gautama

Có thể sẽ có những sự xoay chuyển rất mãnh liệt. Chúng tôi không bao giờ nói rằng những cuộc xoay chuyển như vậy sẽ không xảy ra. Nhưng chúng tôi đã cố làm việc để đạt đến một nhịp tăng triển đều đặn hơn không đòi hỏi những cú sốc quá lớn trong Trường đời Cay đắng. Các con là những học trò trực tiếp, các con không ở trong Trường đời Cay đắng, cho nên các con có thể cố gắng đạt được một trạng thái tâm không bị xáo trộn khi người khác phải nhận chịu những cú giáng đó. Tâm này, ta mong muốn con có được. Ta hy vọng hội nghị này đã giúp con xích lại gần hơn với trạng thái an bình đó. Nếu không, ta trao cho con Ngọn lửa An bình Toàn vũ của ta sẽ dẹp yên những ý nghĩ lăng xăng đó. Con hãy đọc bài chú của ta, hay con có thể chỉ đọc đoạn lặp lại, gồm có bốn câu. Con có thể học thuộc lòng đoạn này rất nhanh chóng và con hãy đọc khi cảm thấy nhiễu loạn. Con hãy đọc khi con nằm trên giường vào buổi tối và thấy mình khó ngủ. Con chỉ cần lặp lại đoạn điệp khúc trong bài chú của ta:

Gautama, Lửa Hoà bình Hoàn vũ,
Chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng,
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
Cho Biển động Luân hồi được yên lắng.

Ta giữ viễn kiến cho con là biển luân hồi sẽ được yên lắng trong tâm con. Và như vậy, ta niêm con trong Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ của ta cũng như ngọn lửa biết ơn của tất cả các chân sư thăng thiên mà con đã lắng nghe hay đã cầu thỉnh trong suốt dịp hội nghị tuyệt vời này.

Thử thách của con là giải quyết bí ẩn của quyền tự quyết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 31/12/2021. Đăng ngày 3/1/2022.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Thật là một niềm vui cho tất cả chúng tôi, các chân sư thăng thiên, được dõi nhìn các con, các đệ tử trực tiếp của chúng tôi, trong suốt năm vừa qua. Rất nhiều người trong số các con đã sử dụng giáo lý của chúng tôi và đã có những tiến bộ vượt bực trên đường tu. Thường khi, có thể ta không là người đầu tiên ban lời khen ngợi, nhưng dù sao thì ta muốn ghi nhận bước tinh tấn này – bước đó đã rất đáng kể đối với nhiều người trong số các con đã dùng những lời dạy này.

Khi ta nói tiến bộ tâm linh, tất nhiên là ta muốn nói đến sự tiến bộ trong việc giải quyết tâm lý của con, là tâm lý đang buộc chặt con lại với địa cầu, bởi vì đó chính là mục đích của tiến bộ tâm linh. Trước đây chúng tôi đã có đề cập đến một tình thế oái oăm mà chúng tôi gặp khi làm việc với con người trên trái đất. Thày Giê-su có nói là chúng tôi giống như những nhân viên bán xe cũ, sử dụng kỹ thuật nhử mồi xong đánh tráo. Để khiến con bước qua ngưỡng cửa, chúng tôi phải đưa cho con một lời dạy hấp dẫn đối với con, sau đó chúng tôi hy vọng là con sẽ có thể tiến xa hơn, tự điều chỉnh và nhận diện được mục đich thực sự của đường tu tâm linh.

Tất nhiên khi con nhìn địa cầu trong tổng thể, có một số đáng kể những người tự xem mình là tâm linh nhưng họ vẫn bước đi trên con đường vỏ ngoài, con đường công truyền. Họ nghĩ đó chỉ là chuyện sử dụng một kỹ thuật tâm linh, tìm hiểu một giáo lý tâm linh, học hỏi nó một cách trí thức, đi theo một vị đạo sư, thì một ngày kia họ sẽ tự động đạt đến cái mà họ xem là mục tiêu, cho dù mục tiêu đó là gì. Như chúng tôi đã giải thich rất nhiều lần, tất nhiên chuyện đó không phải vậy. Đó là một ảo tưởng được khởi xướng bởi các sa nhân, các thày giả muốn giam giữ con người kẹt lại trên địa cầu, kẹt lại dưới quyền kiểm soát của chúng.

Điều gì cho phép một thế lực nào đó – cho dù là con người hay những sinh thể phi hiện thân – nắm quyền kiểm soát trên con? Phải, ngoại trừ một nhà độc tài kiểm soát được thân xác của con, thì đó chỉ có thể là một sự kiểm soát tâm lý. Vậy điều gì cho phép một ai đó kiểm soát tâm lý của con? Đó là một cái gì trong chính tâm lý con mà họ có thể sử dụng để kiểm soát con. Ông hoàng của thế gian nắm được trong con một cái gì đó để y sai khiến con. Y có thể bắt con làm những điều y muốn con làm. Y có thể khiến con phản ứng, giống như bọn quỷ của Mara đã mưu toan khiến ta phản ứng lại khi ta sẵn sàng bước vào Niết bàn.

Tại sao con không sẵn sàng bước vào Niết bàn chứ? Vì bọn quỷ của Mara nắm được một phản ứng nơi con mà chúng có thể dùng để kéo con vào vở tuồng, như ta đã giảng dạy hồi năm ngoái. Điều gì lôi kéo và khiến con tập trung vào vở tuông đang được trình diễn trên địa cầu? Có một dính mắc nào đó. Nhiều người trong các con đã nghe nói về “dính mắc”, có người đã nghe nói nhiều năm rồi, nhưng liệu con đã nắm bắt được dính mắc thật sự là gì chăng?  

Thế nào là một dính mắc? Con thử lấy tình cảnh được mô tả trong kinh Tân ước. Có một thanh niên kia đến với Giê-su, nói: “Thưa thày, con thực sự muốn đi theo thày, nhưng trước tiên xin thày cho phép con đi chôn cha con đã.” Giê-su nói với anh ta: “Hãy để cho người chết đi chôn người chết.” Rồi có một tình cảnh khác khi Giê-su bước đến các môn đồ tương lai của thày đang vá lưới đánh cá, và thày nói: “Hãy bỏ lưới lại và đi theo ta.” Chàng thanh niên kia muốn chôn cha mình thì bị dính mắc vào một loại phong tục tập quán. Và nếu các môn đồ kia không chịu rời bỏ lưới cá của họ ngay tức khắc thì đó cũng là vì họ có dính mắc.

Nói cách khác, vị thày tâm linh luôn luôn tìm cách thực hiện điều gì? Đó là giúp con chuyển dời từ tầng tâm thức của con ngay bây giờ để bước lên tầng tâm thức cao hơn một bậc. Cho nên vị thày sẽ luôn luôn đến và nói: “Con hãy bước với ta lên tầng kế tiếp.” Nếu trong con có cái gì đó mà con dính mắc, con sẽ trả lời: “Ồ, con sẽ đi theo thày, nhưng trước tiên con phải làm xong việc này hay việc nọ cái đã.” Con không thể theo thày được, và có thể con sẽ nói: “Nhưng chắc hẳn con sẽ có thể theo thày sau đó.” Tất nhiên là con có thể, chúng tôi không bảo là hoặc có hoặc không – phải ngay bây giờ hay không bao giờ.

Nhưng đằng khác, liệu con có xét xem con có một Sứ vụ Thiêng liêng hay chăng? Liệu con có xét xem trong Sứ vụ Thiêng liêng đó, khi con hoạch định kiếp đầu thai sắp tới của con – tức kiếp này đây – chính con đã có một viễn quan cao hơn. Con đã định ra một muc tiêu, và con thấy được là để đạt mục tiêu mà con định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng, con sẽ phải kinh qua một tiến trình, vì con sẽ phải chuyển từ mức tâm thức sẵn có khi con bước vào hiện thân, để vươn lên mức tâm thức cần thiết cho việc hoàn thành mục tiêu trong Sứ vụ của con.

Con cũng định ra một mốc thời gian, và con nói, lý tưởng nhất con muốn đạt mục tiêu trước khi con mãn kiếp đầu thai này, hoăc ở một thời điểm nhất định nào đó, một độ tuổi nào đó. Cho nên con không có nhiều thì giờ để do dự lần lữa, đi lạc đường hay chui vào ngõ cụt đâu con. Con đã có một thời khóa biểu mà con định ra cho chính mình. Khi vị thày đến với con, thày không đến bởi thày muốn ép uổng gì con. Thày đến là vì trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, con đã muốn thày đến nhắc nhở cho con là đã tới lúc con cần bước đi. Cho nên nếu bấy giờ con nói: “Ồ, xin thày để yên con một lúc, con đang bận đây,” không phải là con đang thất hứa với thày mà con thất hứa với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cho nên đó là tại sao tất cả các con sẽ được ích lợi rất nhiều nếu các con ghi nhớ rằng: “Tôi đã định ra những gì trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi? Tôi đã muốn thực hiện những điều gì trong kiếp này?”  

Khi đó, con có thể nhìn vào bản thân và nói: “Tôi thấy là trong hai ba năm vừa qua, tôi đã trở nên dính mắc với một số quan điểm, một số vấn đề đã chiếm mất quá nhiều sự chú ý của tôi. Thực sự chúng đã hút mất một khối năng lượng đáng kể, cả về lý trí lẫn tình cảm, vì tôi đã nghĩ ngợi quá nhiều về các vấn đề này rồi cứ nghiền đi nghiền lại, duyệt qua đủ loại kịch bản trong tâm trí mình và cố thuyết phục người khác là mình đúng. Tôi mang quan điểm thật dứt khoát về các vấn đề đó.” Nếu con nhận thấy tâm trạng này trong con, con có thể nói: “Liệu chuyện này sẽ giúp hay sẽ ngăn cản Sứ vụ Thiêng liêng của mình? Liệu chuyện này sẽ giúp mình tiến gần hơn đến mục tiêu, hay nó sẽ khiến mình bị kẹt lại một mức tâm thức nào đó? Vậy đây có phải là một dính mắc hay không?”

Và rồi có lẽ con sẽ có một căn bản tốt hơn để quyết định: “Bây giờ đã đến lúc tôi buông nó ra. Bởi vì so với Sứ vụ Thiêng liêng, liệu vấn đề này sẽ quan trọng lắm không, cho dù là nó thế này, thế kia hay thế nọ? Nó quan trọng thế nào? Liệu tôi sẽ nói được với Giê-su: Chuyện đó có là gì đâu đối với con, vì con sẽ bước theo thày.”

Liệu con sẽ nói được với vị thày: “Con sẽ đi theo thày. Con sẽ bỏ lại lưới cá của con. Con sẽ để yên cho những người chết đi chôn người chết. Con sẽ để yên cho những kẻ chết bàn cãi, tranh luận về vấn đề này hay vấn đề nọ. Con sẽ chỉ BUÔNG nó ra và bước chân đi tiếp.”

Đây là điểm khác biệt giữa những người có thể tận dụng một vị thày tâm linh và những người không thể. Đó là điểm khác biệt giữa những ai sẽ đạt được mục tiêu và những ai không đạt được. 

Nếu con so sánh đợt truyền pháp này mà chúng tôi đã ban truyền qua sứ giả này, với đợt trước qua tổ chức Summit Lighthouse, con sẽ thấy là nhiều người trong Summit Lighthouse đã ý thức rõ ràng hơn nhiều rằng cốt yếu của đường tu tâm linh là kỷ luật, là đi theo vị thày, tuân lời đạo sư, nhắm theo một hướng nhất định nào đó. Họ đặt trọng tâm nhiều hơn vào mục tiêu.

Trong đợt truyền pháp này, chúng tôi đã không đặt áp lực nào lên các con. Chúng tôi đã để yên cho con tự ý chọn cách thi hành lời dạy, định ra tốc độ thăng tiến của mình. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là cách tiếp cận này hay hơn cách trước. Chỉ là hai cách tiếp cận khác nhau mà thôi, vì khi con nhìn vào Summit Lighthouse, con sẽ thấy rất nhiều thành viên có mục tiêu rõ ràng, họ rất kỷ luật, rất quyết chí trong tâm vỏ ngoài để dành ra rất nhiều giờ đọc chú mỗi ngày, để thi khảo hạch và nhiều thứ khác. Nhưng họ đã không thực sự tinh tấn nhiều lắm vì họ vẫn còn dính mắc. Họ dính mắc với cách thức làm việc, họ cũng dính mắc với một số quan điểm cứng nhắc, kể cả quan điểm về tầm quan trọng của bản thân họ trong vai trò đệ tử tâm linh đang đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain, hay đang cứu nguy địa cầu cho Saint Germain theo cách nhìn của họ.

Phương pháp mà chúng tôi sử dụng thật không quan trọng mấy, vì không có gì bảo đảm là học viên sẽ đáp ứng. Chuyện này tùy thuộc vào học viên có đáp ứng hay không. Con thấy chẳng hạn, sứ giả này đã không tự xưng mình là đạo sư, ông đã không quy tụ một nhóm tín đồ chung quanh ông và bảo họ rằng: “Phải làm cái này, phải làm cái kia.” Nhưng ông đã làm gương cho con. Ông rất chuyên chú nhắm đến mục tiêu. Khi ông khám phá con đường tâm linh, khi ông tìm ra các giáo lý, ông đã tỏ ra rất chuyên cần. Cách đây rất lâu rồi, ông đã tới điểm là ông quyết định làm việc trực tiếp trên tâm lý của ông. Ông rất kỷ luật, rất sẵn lòng xem xét tâm lý mình, học tập giáo lý cùng sách vở. Ông rất sẵn lòng nắm lấy các giáo lý được ban truyền qua trung gian chính ông và ông không lý luận: “Ồ, lý do tại sao các chân sư truyền giáo lý này xuyên qua tôi là vì tôi đã vượt xong tất cả các khai ngộ đó rồi.” Ông đã không cho phép mình suy luận như thế. Trái lại, ông nắm lấy các lời dạy, soi vào gương và nói: “Những lời này áp dụng cho tôi như thế nào?”

Tất nhiên, tất cả các con đều có cùng tiềm năng như vậy. Chúng tôi không đang tâng ông lên mà thật sự chúng tôi muốn nói: “Điều gì một người làm được thì mọi người cũng làm được.” Liệu con quyết tâm như thế nào để hoàn thành những mục tiêu mà con đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng của con cho kiếp này? Con cảm thấy mình đã hoàn thành được tới đâu? Liệu con có sẵn lòng tự hỏi, hay hỏi một chân sư, hay hỏi một vị Thượng sư? Vào ngày 2 tháng 1 tới đây, các con sẽ tiếp tục khóa canh thức với các Thượng sư, liệu con có sẵn lòng hỏi thày Lanto và sau đó các Thượng sư kia rằng: “Xin thày chỉ cho con thấy con đang ở điểm nào trên đường tu. Liệu con có bị trễ trong Sứ vụ Thiêng liêng hay con đang đồng hành với Sứ vụ? Xin thày chỉ cho con thấy con còn thiếu sót chỗ nào, và dính mắc nào đang kìm hãm con lại?” Với khoá canh thức này, đây là một cơ hội to lớn cho các con trong cương vị một cộng đồng. Nó có thể đem lại sự tăng triển vượt bực cho những ai trong số các con thật chuyên cần.

Như ta vừa nói, sứ giả này đã sẵn lòng thực hành các lời dạy, xem xét tâm lý của mình, không những để giải quyết chấn thương nhập đời vũ trụ khi ông mới đến địa cầu, mà còn để nhận ra một điều mà chúng tôi chưa đề cập nhiều lắm – đó là sự kiện ông đã không đến địa cầu với một tâm lý đã giải quyết xong xuôi hoàn toàn. Khi ông đến địa cầu, ông chưa sẵn sàng thăng thiên. Ông đến địa cầu với một thái độ nào đó, một tư duy nào đó, và như ông đã sẵn lòng nhận ra, tư duy đó đã khiến ông nghĩ mình đến đây là để giúp nâng cao địa cầu, giúp giải thoát người khác.

Kỳ thực, ông đến đây là để tự giải thoát chính ông khỏi tư duy đã cầm chân ông lại trên một hành tinh tự nhiên. Tất nhiên điều này cũng đúng với tất cả các con là avatar. Tại sao chúng ta đã đến địa cầu chứ? Không phải như con nghĩ bởi vì chúng ta là những người xấu ác hay ích kỷ chỉ biết lo lợi cho mình, và do đó chúng ta đã xứng đáng đi xuống một hành tinh như thế này. Không phải vậy đâu con. Chúng ta xuống đây là để giúp nâng cao địa cầu bằng cách có một trạng thái tâm thức cao hơn hầu hết mọi người khác trên trái đất, hầu chúng ta có thể kéo tập thể đi lên. Nhưng chúng ta cũng không đến đây với một mục đích nhất định để đem lại một số thay đổi nhất định và để thay đổi một số người nhất định.

Nói cách khác, trước khi ta đến địa cầu như một avatar, ta đã không có ý định đặc biệt gì để sáng lập một tôn giáo có tên là Phật giáo. Trước khi Giê-su đến địa cầu như một avatar, thày cũng không có ý định đặc biệt trở thành Ki-tô hiện thân cũng như sáng lập một tôn giáo toàn cầu. Ngược lại với các tín đồ của chúng tôi muốn tin là chúng tôi thật đặc biệt, chúng tôi không có gì là đặc biệt so với tất cả mọi avatar khác đã đến địa cầu. Chúng tôi mang cùng tiềm năng y như mọi avatar khác, nhưng tiềm năng này chỉ có thể trải bày ra khi chúng tôi đáp ứng với sự có mặt của mình trên địa cầu, là khi chúng tôi bắt đầu khắc phục phản ứng ban đầu, chấn thương nhập đời và những phản ứng của mình đối với địa cầu, cũng như khắc phục chính cái tâm lý đã đưa chúng tôi tới đây.

Đâu là tầng giáo lý kế tiếp mà chúng tôi muốn trao truyền trong khuôn khổ công việc tiết lộ tuần tự về các avatar? Đó là sự kiện trong cương vị một avatar, con đã nhập thế gian trên một hành tinh tự nhiên, có nghĩa là ở đó không có sa nhân, không có chuyện phần lớn dân cư bị rơi vào nhị nguyên và tách biệt. Có tiềm năng là con sẽ rơi vào tâm thức tách biệt, tương tự như ở địa cầu trước khi nó biến thành một hành tinh phi tự nhiên, nhưng chuyện này không có gì là chắc chắn.

Con khởi sự trên một hành tinh tự nhiên cũng gần giống như chúng tôi đã nói về địa cầu, nghĩa là con khởi sự với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm. Nhưng khác với địa cầu, trên một hành tinh tự nhiên con khởi sự ở tầng tâm thức thấp nhất có mặt trên hành tinh đó (vì chỉ trên hành tinh phi tự nhiên con mới bắt đầu ở tầng 48 và có nhiều tầng khác ở dưới mức này). Trên một hành tinh tự nhiên, con khởi sự ở tầng tâm thức thấp nhất mà hành tinh đó được thiết kế, xong con lần hồi vươn lên cao hơn cho tới tầng cao nhất có mặt trên hành tinh đó.

Tất nhiên, điều xảy ra trên một hành tinh tự nhiên là sẽ có một số dòng sống đi qua tiến trình này nhanh hơn một số dòng sống khác. Một số chuyên cần hơn, họ tận dụng những vị thày mà họ có, nghĩa là họ đạt tới tầng tâm thức cao nhất hiện diện trên hành tinh đó.

Vấn đề đặt ra là khi đó họ sẽ làm gì đây? Bởi vì chẳng có lý do gì mà họ ở lại trên hành tinh đó, ít ra là không quá một thời hạn nào đó. Trong một thời gian, con có thể phụng sự trong một tư cách lãnh đạo, nhưng sẽ tới một điểm con khao khát một việc làm khác hơn. Con biết là con sẽ cần tiến lên bước kế tiếp. Đối với các avatar đã đạt đến mức này, có hai chọn lựa mở ra cho họ. Một là có những hành tinh tự nhiên khác đang ở tâm thức cao hơn hành tinh nơi con đã khởi sự, và con có thể chuyển sang một hành tinh như thế. Và chọn lựa thứ hai là con có thể di đến một hành tinh phi tự nhiên.

Là một sinh thể đã đạt đến tầng tâm thức cao nhất có thể có trên một hành tinh tự nhiên, vì lý do gì con lại muốn chọn đến một hành tinh phi tự nhiên chứ? Điều này tùy thuộc phần lớn vào trình độ tâm thức của con lúc đó. À, ta vừa nói là trên mỗi hành tinh tự nhiên (vì hiển nhiên các con không đều đến từ cùng một hành tinh tự nhiên) thì trên hành tinh đó có một tầng tâm thức cao nhất. Nhưng điều này không nhất thiết là con đã sẵn sàng thăng thiên. Không phải là khi con đi mút tíến trình tăng trưởng trên một hành tinh tự nhiên thì con sẽ tự động sẵn sàng thăng thiên để trở thành chân sư đâu.

Lý do là vì để trở thành chân sư thăng thiên, con phải giải quyết xong toàn bộ bí ẩn của quyền tự quyết. Con cần thực sự thể nhập và hiểu rõ quyền tự quyết là gì và mang ý nghĩa như thế nào. Con cần giải được tại sao đó là một quyết định kỳ tài, một tuyệt tác của Đấng Sáng tạo khi ngài ban quyền tự quyết cho mọi sinh thể tự nhận biết. Sự thật là tất nhiên, đấng Sáng tạo đã không phát minh ra khái niệm đó, và quyền tự quyết đã được sử dụng trong nhiều cuộc sáng thế khác – nhưng không trong mọi cuộc sáng thế, vì đã có một số Đấng Sáng tạo đã thử nghiệm một quyền tự quyết không hoàn toàn tự do, và tất cả các Đấng ấy đều đã học được bài học là việc hạn chế quyền tự quyết không mấy thành công. Thật sự cách duy nhất để sáng thế, để sáng tạo một thế giới hình tướng bền vững là ban cho nó quyền tự quyết toàn diện.

Để thăng thiên từ một bầu cõi phi tự nhiên, con cần giải quyết bí ẩn đó. Một số các con sẽ nói: “Được rồi, tôi sẽ cố làm vậy trên một hành tinh tự nhiên.” Nhưng cũng có một số khác – thành thật mà nói, đó là những người có can đảm bảo rằng: “Tôi không nghĩ tôi hiểu được chuyện này. Tôi không nghĩ tôi hiểu được quyền tự quyết. Tôi không hiểu tại sao Đấng Sáng tạo của chúng ta lại ban cho mọi người quyền tự quyết.” Và số đó trong các con sẽ nhìn về các hành tinh phi tự nhiên và nói: “Khi tôi nhìn một hành tinh phi tự nhiên, tôi thật sự không hiểu nổi tại sao Đấng Sáng tạo lại ban quyền tự quyết cho mọi người. Nhưng tôi muốn nắm bắt lý do tại sao như vậy. Tôi muốn nắm bắt nó và đó là lý do tôi sẵn lòng đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên. Tôi sẵn lòng trải nghiệm trong chính bản thể của mình thực tế của những con người bị kẹt vào nhị nguyên và tôi thì không thể nào thuyết phục họ. Tôi muốn trải nghiệm thực tế của những sinh thể sa ngã bị mắc kẹt trong nhị nguyên đến độ họ không thể được thuyết phục, mà ngược lại họ còn cố bịt miệng tôi hay chứng minh là tôi sai, hoặc thậm chí họ cố cải tạo tôi để tôi cũng rơi vào trạng thái tâm của họ.”

Nói cách khác, có một số sinh thể trên hành tinh tự nhiên sẽ nói: “Tôi thực sự muốn giải quyết vấn đề này và có lẽ cách hay nhất là tôi đi đến một hành tinh phi tự nhiên nơi quan điểm mà tôi đã tạo dựng về cuộc sống và tiến trình sáng tạo, về quyền tự quyết trên hành tinh tự nhiên ấm cúng này của tôi, sẽ bị thách thức. Hay nói cách khác nữa, con nói: “Tôi muốn quan điểm của tôi bị thách thức. Tôi muốn đi đến một chỗ nơi tôi không thể tìm ra lý lẽ nào sẽ thuyết phục được người khác, như tôi vẫn từng quen làm trên một hành tinh tự nhiên.” Khi con là người lãnh đạo, khi con ở một tầng tâm thức cao trên một hành tinh tự nhiên, con quen nghĩ rằng con có khả năng đưa ra một tiến trình suy luận sẽ giúp cho những ai ở một tầng tâm thức thấp hơn thấy được là “con có lý”, và do đó họ sẽ đi theo con, họ sẽ nghe theo lời khuyên nhủ và hướng dẫn của con.

Đó là cách vận hành trên một hành tinh tự nhiên nơi ai nấy đều cởi mở học hỏi điều mới, học hỏi những điều mà họ chưa biết. Nhưng trên hành tinh phi tự nhiên thì không như thế, như chắc chắn các con sẽ đều đồng ý như vậy. Đó là tại sao trong số chúng ta có những người – mà ta không nhất thiết gọi là tinh tấn hơn, hay hăng hái hơn, hay can đảm hơn – nhưng chúng ta đã quyết định: “Chúng tôi muốn tự thách thức mình bằng cách đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên.”

Đối với đệ tử nào đã sẵn sàng cho lời dạy này, điều có thể ích lợi cho con là con bắt đầu một cách rất chậm, rất lần hồi, xét xem con sẽ nhìn vấn đề tự quyết như thế nào, và con sẽ giáp mặt với nó như thế nào. Quan điểm của con về vấn đề đó là gì? Đâu là phản ứng cố hữu, phản ứng tức thì từ ruột gan – nếu có thể gọi như vậy. Khi con chứng kiến tình trạng thảm hại mà con người đã tạo ra trên địa cầu, khi con thấy sa nhân đã lạm dụng quyền tự quyết của chính họ lẫn của người khác như thế nào, phản ứng của con ra sao? Từ đó con có thể bắt đầu xét xem thái độ nào, tin tưởng nào đứng đằng sau phản ứng đó, phản ứng từ ruột gan đó. Con nghĩ gì trong đầu về quyền tự quyết? Sau đó con có thể đi vào tầng bản sắc và khởi sự xem xét: “Tôi tự nhìn mình như thế nào trong cương vị một sinh thể có quyền tự quyết đang tương tác với người khác cũng có quyền tự quyết? Tôi tự nhìn mình thế nào như một sinh thể ít ra đã bắt đầu vươn lên khỏi nhị nguyên, đang tương tác với những người ở trong nhị nguyên và do đó họ không thực sự sử dụng ý chí tự do vì ý chí của họ chưa tự do?”

Rồi con có thể bắt đầu làm sáng tỏ vấn đề này, và như vậy con có thể nhìn ra bài toán về quyền tự quyết mà con chưa giải quyết trên hành tinh tự nhiên. Rồi con có thể bắt đầu nhìn vào địa cầu và thật sự xem xét: “Làm thế nào tôi giải quyết được đây?” Chúng tôi các chân sư đã ban ra nhiều lời dạy có thể hữu ích cho con, và con có thể xem các lời dạy này. Nhưng trong tương lai chúng tôi sẽ ban ra nhiều hơn nữa, vì tất nhiên đây chỉ là bước khởi đầu của một cấp giảng dạy mới.

Cảm giác của con đối với quyền tự quyết như thế nào? Con nghĩ quyền tự quyết vận hành thế nào và nó có thể vận hành cách khác hay không? Con tự xem mình ra sao như một sinh thể có quyền tự quyết trong quan hệ với người khác? Con nghĩ làm thế nào con sẽ thoát ra khỏi hành tinh này – hành tinh điên đảo này như một số chúng ta thường cảm thấy, kể cả chính ta ở một giai đoạn nào đó? Điều gì sẽ giải quyết được vấn đề tự quyết, và con có những dính mắc nào về quyền tự quyết đang níu giữ con ở lại đây? Không phải vì con bị bó buộc ở đây, nhưng vì con không muốn rời nơi đây trước khi con thực hiện được mục đích của con khi đến đây. Con không muốn rời nơi này cho tới khi con giải quyết được bí ẩn đã đem con tới đây, đã khiến con quyết định tới đây.

Điều con có thể khởi sự là có lẽ con bắt đầu xoay chuyển thái độ của con đối với sự hiện diện và trải nghiệm của mình trên địa cầu, kể cả chấn thương nhập đời, kể cả toàn bộ nỗi bực dọc khi con thấy người ta tự gây tổn thương cho họ mà vẫn không muốn ngừng tự gây tổn thương. Họ không muốn biết họ đang làm hại chính họ. Họ không muốn lắng nghe con là người hiểu biết hơn lại có khả năng giúp họ thoát khỏi khổ đau. Họ cứ muốn sống tiếp trong đau khổ, và không những họ phớt lờ con, họ còn tích cực bác bỏ, hạ thấp, chế giễu con, thậm chí tra tấn hay giết hại con để bịt miệng con. Làm sao con đương đầu với sự thể này? Con nhìn chuyện đó như thế nào?

Đấy, điều con có thể làm là làm như sứ giả này. Con có thể nói: “Liệu tôi có là một tên ngu ngốc khi tôi chọn đến hành tinh này hay không? Liệu tôi có đáng chịu tất cả mọi chuyện xảy ra cho tôi? Liệu tôi phải cảm thấy tội lỗi về hành vi của mình trên hành tinh này, vế cách ứng xử của mình?” Hiển nhiên, có lẽ con có thể bắt đầu xoay chuyển tâm trạng đó và nói: “Không, thật ra tôi đã rất tỉnh trí, rất chín chắn, rất mong muốn tăng triển, và đó là tại sao tôi đã quyết định đến đây.” Quyết định đó của con dựa trên mong muốn tăng triển. Con không hề bị bó buộc. Không phải là con không thể tiến xa hơn trên hành tinh tự nhiên nên con đã phải hiện thân trên địa cầu. Không, con ở đây là vì con đã quyết định đây là cơ hội tăng triển tối đa cho con.

Khi đó, con có thể bắt đầu xét đến một điểm khác nữa sẽ giúp con ứng phó với sự có mặt của con trên địa cầu, và điểm đó như sau. Như chúng tôi có nói, khi con đến địa cầu như một avatar, con đi xuống tầng tâm thức thứ 48 để hiện thân. Đương nhiên, với mỗi bước đi xuống từ tầng 144, con khoác vào một ảo tưởng. Ảo tưởng này trở thành cái phin lọc nhận thức sẽ che khuất tầm nhìn của con cũng như ký ức về thời con ở trên một hành tinh tự nhiên. Nhưng điều này không có nghĩa là con không đem theo con một số hành trang.

Không phải là một ký ức rõ mồn một về thời con từng ở trên hành tinh tự nhiên, nhưng con đem theo với con một thái độ nào đó về cuộc sống, một thái độ nào đó về bản thân như một avatar, kể cả khi con ở tầng tâm thức 48. Dĩ nhiên, khi con nâng tâm thức lên thì điều này trở nên càng rõ ràng hơn. Một lần nữa con có thể lấy ví dụ của sứ giả này, và tuy mỗi người mỗi khác, nhiều người trong số các con sẽ nhận ra điều ta nói ở đây. Sứ giả này đã cảm thấy có một số lỗi lầm trên địa cầu mà ông không nên mắc phải. Có một số việc trên địa cầu mà ông không nên làm, một cấp độ nào đó mà ông không nên hạ mình xuống, và ông nên đứng trên một số hỗn tạp mà ông tìm thấy ở đây. Trong suốt kiếp này cũng như những kiếp trước đi ngược trở về kiếp đầu thai đầu tiên của ông, ông đã luôn luôn vô cùng khó tính với bản thân mình.

Nhiều người trong số các con sẽ nhận ra mình cũng như vậy. Con có thể vô cùng dễ tính đối với người khác, nhưng con không tha thứ được chính con, vì con đã đến đây với một thái độ nhất định về cuộc sống dựa trên cách sống trên một hành tinh tự nhiên. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con đã tạo ra một chuẩn mực cho bản thân về cách cư xử, về những gì con phải làm hay không được làm. Và nếu con đi ngược lại chuẩn mực đó, con cảm thấy mình đã làm chuyện tồi tệ nhất có thể có trong toàn thể vũ trụ.

Chúng tôi đã nói gì về sa nhân, rằng chúng đã làm gì cho tan nát mọi chuyện trên trái đất? Phải, chúng đã tạo ra một chuẩn mực và phóng chiếu khiến mọi người phải đánh giá mọi chuyện dựa theo tiêu chuẩn đó. Sự khác biệt ở đây là chuẩn mực do sa nhân tạo ra là một chuẩn mực nhị nguyên phát sinh từ tâm thức nhị nguyên. Là một avatar trên một hành tinh tự nhiên nơi con đã đạt đến mức tâm thức cao nhất ở đó, con không ở trong tình trạng nhị nguyên. Con đã không tạo ra một chuẩn mực dựa trên nhị nguyên.

Nhưng con thấy đó, điều này nghĩa là gì? Giờ đây con đến một hành tinh nơi mọi chuyện bị thấm đẫm, bị ô nhiễm bởi nhị nguyên, vậy mà con lại cho rằng có những chuyện con không được làm trong nhị nguyên, và cũng có những chuyện con phải làm. Con không nhận ra – bởi vì con không thể nhận ra điều này cho tới khi con đạt đến một mức tâm thức và một trình độ phân biện Ki-tô nào đó – rằng con không thể nào thấy sự khác biệt giữa chuẩn mực của con và chuẩn mực của sa nhân.

Con cho rằng nếu con không hành xử theo đúng tiêu chuẩn của con thì con đã làm chuyện gì đó xấu xa, sai trái. Trên một hành tinh tự nhiên, con đã từng có một chuẩn mực để đánh giá cách cư xử của mình, nhưng con không xét đoán theo tiêu chuẩn đúng-sai, con không đánh giá chủ quan bởi vì đó là nhị nguyên. Nhưng bây giờ con ở trên một hành tinh thấm đẫm nhị nguyên, và con bắt đầu áp dụng cách đánh giá chủ quan đúng-sai nhị nguyên đó đối với bản thân con. Đó là tại sao con cảm thấy: “Vì tôi đã hành xử như vậy, liệu tôi có khá hơn bọn sa nhân chút nào không, hay là tôi cũng xấu như sa nhân?”

Tất nhiên, sa nhân sẽ khai thác điểm này một cách không thương tiếc. Đâu là cách thoát ra? Con không thể lật ngược những gì con đã làm. Con không thể thay đổi những gì đã xảy ra trong quá khứ. Điều con có thể làm là nói: “Được rồi, tôi đã làm chuyện đó, nhưng chuyện tôi đã làm, cho dù chỉ mới năm phút trước, cũng không còn đó nữa. Đó không phải là một thực tế đang hiện thực vật lý. Trong hành vi đó, điều ảnh hưởng đến tôi chính là phản ứng của tôi. Vậy thì phản ứng của tôi xuất phát từ đâu – từ sự kiện tôi đã tạo ra những cái ngã tách biệt.”

Như vậy con có thể xem xét những ngã tách biệt này, con có thể dùng các dụng cụ của chúng tôi để giải hóa chúng, nhưng con cần đi xa hơn nữa. Thật sự con cần nói: “Nhưng một số ngã này không phải là ngã tách biệt được tạo ra trên địa cầu. Đó là một thái độ mà tôi đã đem theo tôi từ một hành tinh tự nhiên và tôi cần giải hóa nó. Tôi cần buông nó ra và nói: Tuyệt đối không có nghĩa lý gì mà tôi áp dụng một chuẩn mực từ một hành tinh tự nhiên khi tôi đang đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên. Những gì tôi đã làm trên hành tinh dày đặc hỗn tạp này có quan trọng lắm không? Nếu tôi đã lầm lỗi nơi đây, điều đó có quan trọng hay không? Ngay cả việc đánh giá xem đó là lỗi lầm hay không lỗi lầm, liệu nó có ích gì không? Những hành vi của tôi phát xuất từ một mức tâm thức nào đó với một số ngã tách biệt nào đó. Nếu tôi vượt qua được thì tôi sẽ giải thoát khỏi nó. Nếu tôi sẵn sàng tự giải phóng khỏi nó thì tôi phải được giải thoát khỏi nó.”   

Nói cách khác, điều ta muốn nói là như sau. Tất cả chúng ta đã làm y hệt như con đã làm. Chúng ta đã đến với một chuẩn mực, rồi đã làm gì đó trên địa cầu này mà mình cảm thấy không đúng với chuẩn mực. Chúng ta bị rơi vào vực thẳm, rơi vào hố đen của tự trách, của tủi hờn và tiếc nuối, chúng ta ghét bỏ và oán giận bản thân vì chúng ta đã không toàn hảo, không luôn luôn tự chủ mọi phản ứng của mình.

Gần như là do trên hành tinh tự nhiên chúng ta đã luôn luôn “bình thản, điềm tĩnh và trầm lặng”, cho nên chúng ta cũng chờ đợi là khi bước xuống tình trạng hỗn loạn toàn diện của hành tinh địa cầu, chúng ta cũng sẽ vẫn giữ được thái độ “bình thản, điềm tĩnh và trầm lặng” đó, chúng ta sẽ luôn luôn hoàn toàn tự chủ.

Thế nhưng, con yêu dấu, đó là một chuẩn mực hoàn toàn không thực tế. Chưa từng có ai thực hiện được điều đó. Chưa từng có ai, bất kể trình độ tâm thức, đã làm tròn được một chuẩn mực như vậy. Là Phật, ta đã không làm được. Là Ki-tô, Giê-su đã không làm được. Thày Maitreya cũng đã không làm được – không một ai đã từng hiện thân nơi đây làm được. Chuyện đó không thể làm được – vì con phải đi xuống tầng tâm thức 48 và phản ứng dựa theo mức tâm thức ở tầng 48. Làm sao khác được? Đó chính là cơ chế của việc hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên.

Trên một hành tinh tự nhiên thì con sẽ phản ứng một cách khác. Ở đây, con không thể giữ bình tĩnh, nhưng tại sao con lại cần bình tĩnh? Tại sao con phải bình tĩnh? Tại sao con phải đặt ra tiêu chuẩn đó cho con? Điều ta muốn nói là như thế này. Tất cả chúng ta đều đã làm vậy, chúng ta đều đã rơi xuống vực thẳm của tự trách móc. Chúng ta đều đã phải bò ra khỏi vực thẳm đó từng bước một, bằng cách bám chặt vào cái thang dây mà các chân sư thăng thiên đã hạ xuống cho chúng ta, rồi chúng ta đã trèo lên bằng cả tay lẫn chân, từng bước một. Chúng ta đã leo đến bờ vực thẳm, nhưng cách duy nhất để rời khỏi vực thẳm là nhìn vào chuyện này và nói: “Tại sao tôi lại tự trách mình chứ? Tại sao tôi cảm thấy có lỗi? Tại sao tôi lại giận mình? Tại sao tôi nghĩ mình phải toàn hảo, rằng đáng lẽ mình đã không được phản ứng lại? Tại sao tôi lại nghĩ ngợi kiểu đó? Có thật sự hợp lý hay không, có nghĩa lý gì hay không?”

Thế rồi con đạt tới một điểm, không phải là một quyết định vỏ ngoài với tâm vỏ ngoài, mà con chỉ nhìn thấy nó. Con nhìn thấy cái ngã mà con đã mang trên một hành tinh tự nhiên. Vì trên một hành tinh tự nhiên, làm thế nào con tăng triển, làm thế nào con có thể tăng triển? Trên một hành tinh tự nhiên, con khởi sự ở mức tâm thức thấp nhất trên hành tinh đó. Nghĩa là gì? Đúng vậy, có một số ảo tưởng mà con chưa giải hóa. Bởi vì ngay cả một hành tinh tự nhiên cũng có ảo tưởng, nếu không thì làm thế nào có nhiều tầng tâm thức được? Làm thế nào tăng triển được nếu không có những tầng tâm thức? Con tăng triển như thế nào chứ? Chúng tôi đã dạy con điều gì, làm thế nào con học hỏi được chứ?

Con là một sinh thể đồng sáng tạo, con học hỏi bằng cách đồng sáng tạo. Làm thế nào con đồng sáng tạo? Con tạo ra một tâm ảnh, con phóng chiếu tâm thức và năng lượng qua tâm ảnh đó lên trên vật chất, và nó khoác một hình tướng. Xong con lượng định. Nhưng khi con đồng sáng tạo, con làm gì chứ? Chúng tôi vừa nói là con tạo ra một tâm ảnh, đúng vậy, nhưng kỳ thực con đang tạo ra một cái ngã, con đang tạo ra một ý niệm bảo rằng: “Đây là con người mà tôi là, đây là bản sắc của tôi, đây là trí thể của tôi, đây là cảm thể của tôi và đây là cơ thể vật lý của tôi. Đây là con người mà tôi là.” Và cái đó trở thành một cái ngã mà con đang phóng chiếu qua.

Khi con tiến lên những tầng tâm thức cao hơn, con sẽ để cho một cái ngã chết đi, con tạo ra một cái ngã khác, y hệt như con làm trên địa cầu. Sự khác biệt, tất nhiên, là con không đi vào nhị nguyên, nhưng con vẫn tạo ngã, con vẫn tạo những cái ta. Lần lần khi con vươn lên cao hơn trên một hành tinh tự nhiên, càng ngày con càng tạo ra ý niệm bản ngã tinh xảo hơn. Như chúng tôi đã nói, y như con làm trên điạ cầu giữa tầng 48 với 96. Đây chỉ là một tiến trình tăng trưởng trong tâm thức.

Nhưng làm thế nào con thăng thiên? Phải, con thăng thiên bằng cách khắc phục những cái ngã đó. Đối với những sinh thể đã đạt đến tầng trên cùng ở hành tinh tự nhiên của họ và chuyển sang một hành tinh tự nhiên cao hơn, họ đem theo những cái ngã mà họ đang có, và ngã này trở thành điểm khởi đầu của họ trên hành tinh thứ hai. Lẽ tự nhiên đối với con khi con quyết định đến một hành tinh phi tự nhiên, con cũng đem theo những ngã này, và ở một mức nào đó, chúng trở thành khởi điểm cho thái độ của con đối với bản thân con ở nơi đây, thậm chí cả thái độ của con đối với địa cầu.

Vậy con cần làm gì để thăng thiên? Đối với chúng tôi là những con người đã thăng thiên từ địa cầu, tất cả chúng tôi đã cần làm gì? Chúng tôi đã cần xem xét những ngã đó và buông chúng ra. Chúng dễ buông bỏ hơn vì chúng không xuất phát từ nhị nguyên, chúng không là cùng một loại ảo tưởng. Nhưng mặt khác, con chỉ có thể buông chúng ra khi con nhìn thấy chúng, và trên một hành tinh phi tự nhiên dày đặc như trái đất, con khó nhìn thấy chúng hơn rất nhiều, con khó lòng nhìn ra những cái ngã con đã đem theo từ một hành tinh tự nhiên.

Đó là tại sao trước tiên, con cần giải quyết chấn thương nhập đời và nhiều cái ngã mà con đã tạo ra nơi đây trên địa cầu trước khi con có thể bắt đầu xét đến những gì đã đưa con tới đây. Nhưng trong số các con, có khá nhiều người đã sử dụng giáo lý mà chúng tôi ban ra về avatar, về việc chữa lành các chấn thương tâm linh và nhiều hơn thế, cho nên giờ đây con đã sẵn sàng tiến lên bước kế tiếp và bắt đầu xem xét những cái ngã mình đã đem theo với mình, giải hoá chúng đi, hầu con đạt tới điểm khi con nhìn lại địa cầu và bảo: “Không có gì ở đây có thể níu kéo tôi lại.” Nhưng con cũng có thể nhìn vào toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên và nói: “Thật chẳng có một hành tinh tự nhiên nào khác lôi kéo được tôi nữa. Tôi đã sẵn sàng thăng thiên. Tôi sẵn sàng bỏ lại đằng sau nguyên bầu cõi chưa thăng thiên này.” Đó là cách con trở thành một chân sư thăng thiên.

Với lời này, ta đã trao cho con những gì ta muốn trao trong bài giảng dịp Tân niên này. Chúng tôi sẽ nhìn xem có lời dạy nào khác chúng tôi mong muốn trao truyền về đề tài này trong năm sắp tới hay không. Ta muốn cảm ơn các con đã sử dụng những giáo lý trước đây, vì các con là những người tiên phong đã khai mở tâm thức của tập thể đến mức bài giảng này có thể được ban ra trong cõi vật lý. Một lần nữa, con hãy nhận lòng biết ơn sâu đậm của ta. Lòng biết ơn này sẽ còn tiếp tục vì tất nhiên, bất cứ lời truyền đọc nào mà chúng tôi ban ra cũng chỉ là một trong chuỗi dài những tiết lộ liên tục.

Ta biết, đôi khi một số trong các con có thể có cảm giác – và ngay cả vị sứ giả này cũng có cảm giác rằng: “Bài truyền đọc hôm nay thật đặc biệt, nó ở một tầng cấp cao hơn và tự thân nó gần như trọn vẹn.” Thật tốt lành thay khi con có cảm giác như thế, nhưng tất nhiên, bất kỳ bài truyền đọc nào cũng chỉ là một viên ngọc quý trong một chuỗi ngọc trải dài về tương lai, và hiện không có cách nào nói trước được nó sẽ kéo dài đến bao giờ. Nhưng chắc chắn chúng tôi dự kiến một chuỗi liên tục thật dài sẽ đem lại những hòn ngọc nhận thức cao hơn.

[Hình tư tưởng của Phật được sử dụng trong năm 2022 sẽ là cùng hình tư tưởng về Mặt trời giống như năm ngoái:

  • “Phật Gautama, thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất.”
  • “Saint Germain, thày là tấm gương tuyệt hảo cho nền kinh tế.”
  • “Mẹ Mary, thày là tấm gương tuyệt hảo cho phụ nữ.”]

[Bạn cũng có thể đọc thêm bài vấn đáp do chân sư thăng thiên Saint Germain: “Avatar và những cái ngã được tạo ra trên một hành tinh tự nhiên”]

Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra!

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/10/2021, nhân dịp Webinar 2021 cho Hàn quốc – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Thày Giê-su vừa nói đến sự kiện có quá nhiều tín đồ đạo Cơ đốc không thấy được mối liên hệ nào giữa thày và công nghệ hiện đại. Chắc chắn một điều tương tự cũng có thể nói về rất nhiều Phật tử không thấy mối liên hệ nào giữa sự thị hiện rất “phi công nghệ” của ta cách đây 2500 năm và xã hội phương Tây là xã hội hiện đại với công nghệ rất cao. Nhưng ta đang giữ một trách nhiệm tâm linh cho hành tinh này, là Chủ tể của Thế giới. Vậy chức năng của trách vụ này là gì?

Nạn nghèo đói và ý thức hệ

Hiển nhiên, đó là nâng cao tâm thức loài người, và ta hỗ trợ hoàn toàn mục tiêu xóa nghèo. Và tất nhiên ta biết rõ, như các thày Saint Germain và Giê-su đã có trình bày, để cho điều này xảy ra, để mức sống vật chất của con người được nâng lên, chúng ta cần đến những hình thức công nghệ mới, bởi vì vấn đề này chỉ có một giải pháp công nghệ.

Chắc con cũng nhận thấy khi ta thị hiện 2500 năm về trước, toàn bộ dân số trên địa cầu rất, rất ít so với ngày nay. Do đó hầu hết mọi người vào thời đó, ít ra trong khu vực ta thị hiện, có một mức sống tương đối thoải mái trong một xã hội nông nghiệp. Con có thể thấy trên thế giới đã có những thời kỳ xã hội nông nghiệp khi cuộc sống con người tuy không mấy sung túc, nhưng người ta cũng không đến nỗi chết đói, không đến nỗi phải lo lắng bữa cơm tới của mình sẽ đến từ đâu. Cái giá mà họ phải trả, dĩ nhiên, là họ phải bỏ ra phần lớn thời gian làm lụng để duy trì một mức sống vật chất, một đời sống vật chất nào đó.

Rõ ràng là trong những xã hội này, cách duy nhất để con người có thể tập trung vào việc tu tập tâm linh là rút về một tu viện hay một nơi ẩn cư nơi họ không có nhu cầu phải bỏ ra toàn bộ thời gian lo việc nuôi thân. Đây là một mô thức khá thực tế cho thời đó, nhưng kể từ đó tất nhiên với sự gia tăng dân số mạnh mẽ trên địa cầu, con gặp phải tình trạng một xã hội nông nghiệp không còn khả năng cung ứng mức sống tốt đẹp cho số đông được nữa. Và cũng vậy, xã hội vật chất hay công nghệ cũng không có khả năng cung ứng mức sống đó. Tuy vậy, phải nói là nếu các nguồn tài nguyên sẵn có được phân phối đồng đều hơn, thì nạn nghèo đói, ít ra là trong những dạng cùng cực nhất, chắc chắn có thể được giảm thiểu đáng kể.

Như luôn luôn, vấn đề không chỉ là công nghệ, mà vấn đề là tư duy, là ý thức hệ, và đặc biệt là ý thức hệ đã khoác vào nhiều dạng cụ thể, và tất cả những dạng này đều hỗ trợ cho sự hiện hữu của một giai cấp thượng lưu nhỏ hẹp với một mức sống khác hẳn mức sống của quần chúng rộng lớn. Con có cái mà ta gọi là những ý thức hệ thường tình phổ quát, vượt ra khỏi các dạng hệ tư tưởng đặc thù hơn, sự phân biệt ưu tú đặc thù hơn. Và một trong những ý thức hệ này nằm sâu bên dưới là sự phân chia xã hội thành những phân loại hay giai cấp tách biệt. Đây tất nhiên, phần nào là vấn đề mà ta đã cố giúp xã hội và dân chúng thời đó vượt lên khỏi. Con sẽ thấy là khi ta bước chân trên địa cầu, xã hội thời đó là một xã hội nông nghiệp bị Ấn giáo chi phối, và Ấn giáo chủ trương phân chia con người thành bốn giai cấp thật rõ ràng, và ngay cả ngày nay con vẫn thấy hệ thống giai cấp này được Ấn giáo tiếp nối và duy trì. Đương nhiên, điều ta đã cố làm là thành lập một tôn giáo không chấp nhận, hay không dựa trên một sự phân chia con người như thế.   

Khi con nhìn đạo Phật, con thấy là tất nhiên, tâm thức phân rẽ đã len lỏi vào được trong đó, cho nên mới có sự phân biệt giữa người đạo Phật và người không đạo Phật, người thuộc môn phái này hay biến thể kia của đạo Phật. Một số tự xem mình là cao trội và các môn phái khác là thua kém, vân vân. Và lại có cả những người xem giai cấp tu sĩ đạo Phật phần nào đứng cao hơn quần chúng, nhưng ngay cả quần chúng thì vẫn cao hơn những kẻ chưa sẵn sàng nhận được bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Một lần nữa, con tìm thấy những phân chia như vậy trong xã hội, và đó tất nhiên là điều mà ta đã cố giúp con người vượt qua bằng cách khắc phục tâm thức nhị nguyên.

Vấn đề kiểm soát

Bởi vì dĩ nhiên, chính tâm thức nhị nguyên là nền tảng và cũng là phương pháp mà cách phân chia như thế được tạo ra. Ở đây ta muốn giảng cho con một số điều tiếp nối những gì chúng tôi, các chân sư, đã trao cho con trước đây, nhưng đi xa hơn một chút. Con có thể xem đến một số lời dạy của chúng tôi về sa nhân, là những kẻ đã thực sự đưa hành tinh địa cầu vào vòng xoáy đi xuống khi chúng đem tới đây một cách hiểu cực đoan hơn về nhị nguyên. Chúng tôi có nói là các xã hội trên địa cầu đã rơi vào nhị nguyên trước đây nhưng không đến nỗi những hình thức hung hãn của nhị nguyên, vì đây chính là hình thức mà sa nhân đã đem đến đây. Chúng tôi có nói là các sa nhân hình thành một nhóm thượng lưu quyền lực khi chúng đầu thai, và chúng lập ra nhiều nhóm ở các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc. Chúng tôi cũng có nói là mục đích của chúng là nắm quyền kiểm soát địa cầu, kiểm soát loài người trên địa cầu, trong âm mưu rộng lớn hơn là chứng minh Thượng đế sai lầm.

Điều ta muốn bàn đến ở đây là chủ đề kiềm soát. Có vẻ như trên địa cầu có một số xã hội gần như bị hoàn toàn kiểm soát bởi một thiểu số thượng lưu. Chúng có thể là chế độ độc tài, như các nước cộng sản chẳng hạn, Liên xô dưới Stalin, Đức dưới Hitler, Trung quốc dưới Mao và nhiều ví dụ khác nữa, Bắc Hàn dưới chế độ hiện hữu. Dựa trên đó, con có thể nghĩ sa nhân có khả năng áp đặt một độ kiểm soát rất cao trên các xã hội. Có người cho rằng sa nhân cũng kiểm soát chặt chẽ một số xã hội đã trở thành dân chủ và các xã hội này thực sự là những chế độ độc tài, nhưng thực tế là ngay cả ở một nước nghiêm ngặt như Liên xô, sa nhân cũng không nắm được kiểm soát toàn diện.

Chúng chưa bao giờ toàn quyền kiểm soát được địa cầu, và chúng sẽ không bao giờ làm được chuyện đó, tại sao vậy? Bởi vì sa nhân là nạn nhân của chính tâm lý của chúng. Chúng tôi nói sa nhân đã làm gì? Chúng đã bị rơi vào tâm thức nhị nguyên, chúng đã hoàn toàn bị bao trùm, bị chế ngự, bị đui mù, bị mắc bẫy, bị đồng hóa với tâm thức nhị nguyên. Nhưng điều gì xảy ra trong tâm thức nhị nguyên chứ?

Trong tâm thức đó, con lấy toàn bộ chiều rộng của nhận thức con người, xong con tập trung vào một lãnh vực nhất định và con nâng nó lên vị thế tuyệt đối của một chân lý – như một ý thức hệ cao trội, hay tôn giáo cao trội, hay cái gì gì nữa. Và con dùng cái đó, đưa nó ra làm chuẩn mực để lượng định xem mọi thứ là đúng hay sai, tốt hay xấu. Và con có thể nghĩ, những kẻ đã chiếm đoạt được đặc quyền định nghĩa vấn đề là gì, đã kiểm soát chuẩn mực để đo đạc mọi thứ theo chuẩn mực đó, thì chúng phải kiểm soát được sự suy nghĩ của mọi người.

Tuy nhiên trong nhị nguyên, con không bao giờ có thể kiểm soát được toàn diện, vì lý do giản dị là khi con lấy ra một đơn vị khỏi tổng thể và nâng nó lên vị thế cao trội, con bắt buộc sẽ tạo ra một sự mất cân bằng cơ bản. Chúng tôi đã có nói về định luật thứ hai của nhiệt động học sẽ đưa mọi vật trở về trạng thái năng lượng thấp nhất có thể có, nhưng chúng tôi cũng có thể bảo đó thực sự chỉ là sự minh hoạ của định luật cân bằng của vũ trụ. Không phải là luật cân bằng, hay ngay cả định luật thứ hai của nhiệt động học, cố đưa tất cả vào một trạng thái không phân biệt, mà quy luật vũ trụ được thiết lập để đảm bảo mọi thứ tăng trưởng đến những trạng thái ngày càng cao hơn, nhưng là một sự tăng trưởng bền vững, liên tục và tuần tự.

Điều con làm trong nhị nguyên là con tách rời con ra khỏi sự tăng trưởng vững bền liên tục đó, và con tạo ra một trạng thái mất cân bằng bằng cách con chù trương, thay vì tổng thể được tăng trưởng, con lại muốn sự tăng trưởng cục bộ của một ý thức hệ, một nhóm người hay một tầng lớp thượng lưu mà thôi, và điều này chỉ có thể xảy ra bằng cách tước đi một cái gì đó từ tổng thể. Nói cách khác, một nhóm ít người tước đoạt một cái gì đó từ tổng thể, và chính điều này vi phạm quy luật cân bằng của vũ trụ, vì khi tổng thể mất cân bằng thì quy luật vũ trụ sẽ kéo nó trở về cân bằng.

Luôn luôn sẽ có một đối cực kéo bất kỳ mất cân bằng nào trở về trạng thái cân bằng. Đây là điều mà chúng tôi đã mô tả là một đặc điểm của nhị nguyên, nghĩa là khi con tạo ra một đối cực nhị nguyên, nó cũng đồng thời tạo một đối cực nhị nguyên trái ngược. Đây là điểm mà triết gia Hegel đã mô tả là phép biện chứng, nghĩa là khi một tư tưởng hay một lý thuyết trở thành luận đề tạo ra phản đề, thì sẽ có một cuộc đấu tranh giữa hai lực, dẫn đến kết quả một trạng thái mới gọi là tổng hợp, tuy nhiên chính tổng hợp này lại trở thành luận đề kế tiếp tạo ra một phản đề mới nữa, rồi lại có một cuộc đấu tranh, vân vân và vân vân cho đến vô tận. Hegel tin đó là cách thức người ta đạt được tiến bộ và là cách thức duy nhất. Đấy là sự giới hạn trong cái nhìn của Hegel.

Thật ra đó lá cách thức vận hành trong một trạng thái mất cân bằng, bởi vì khi con có cân bằng, con vẫn tăng trưởng nhưng không có đấu tranh, không có đối lập, không có căng thẳng giữa hai đối cực. Tất cả những gì xảy ra trong một trạng thái cân bằng trên một hành tinh tự nhiên đều nhắm vào việc nâng cao tổng thể. Chỉ khi con tìm cách nâng cao một thành phần của tổng thể qua việc hạ thấp phần còn lại của tổng thể, thì con mới có mất cân bằng, mới có đối lập, mới có đấu tranh biện chứng. Điều mà Hegel và Marx đã làm là nhìn vào một trạng thái mất cân bằng xuất hiện đâu đó trên địa cầu, rồi cố dùng nó để tạo ra một xã hội lý tưởng hơn không còn xung đột mâu thuẫn. Hiển nhiên, chuyện này không bao giờ có thể thực hiện được, vì một dạng mất cân bằng không thể dẫn đến hài hòa và trọn vẹn, mà nó chỉ dẫn đến một dạng mất cân bằng khác mà thôi.

Tại sao ta nói là sa nhân không có quyền kiểm soát? Bởi vì mỗi khi chúng lấy một tư tưởng, một nhóm người hay một tôn giáo và nâng lên vị thế cao trội, chúng cũng tạo ra một đối nghịch. Nghĩa là chúng sẽ không bao giờ có thể đạt đến trạng thái mà chúng mơ ước, tức là một quyền kiểm soát vĩnh viễn mà không gì có thể đe dọa. Luôn luôn sẽ có một sự đối lập, hay đe doạ, cho quyền kiểm soát của chúng. Tất nhiên, điều này chúng không thể nào chịu được, cho nên chúng bắt buộc phải tìm cách tiêu diệt đối lập. Đó là vì sao con thấy tất cả những ý thức hệ loại đó luôn luôn chứa đựng ý tưởng là có phải và trái, có đúng và sai. Có những người theo phe đúng, có những người theo phe sai, và những ai theo phe đúng phải tiêu diệt những ai theo phe sai. Vì thế mới có đấu tranh liên tục. Chuyện này là một đặc điểm không thể thiếu của nhị nguyên.

Không có an bình trong phản ứng  

Nhưng bây giờ con hãy nhìn vào tâm lý của sa nhân. Chuyện gì xảy ra trong tâm lý sa nhân? Như các chân sư khác đã nói, khi con là avatar mới đến địa cầu, con đã phải nhận chịu một chấn thương gọi là chấn thương nhập đời. Còn sa nhân thì sao? Nơi bầu cõi chúng bị sa ngã, khi chúng phải đối mặt với các chân sư thăng thiên, đối mặt với sự thật là có một quyền uy lớn hơn quyền năng của chúng, thì chúng cũng nhận chịu một chấn thương, hay chúng tạo ra chấn thương, như chính con cũng từng làm vậy.

Kể từ đó trở đi, sa nhân đã luôn tìm cách bù đắp cho chấn thương mà cảm giác mất mát đó đã gây ra. Chúng đã mưu toan giành lấy quyền kiểm soát hầu tìm cầu một tâm trạng bình an, không bị phân rẽ, không bị tổn thương và đau đớn bởi chấn thương. Nhưng tất nhiên, điều này chúng không thể làm được vì chúng cố làm qua trung gian tâm thức nhị nguyên, mà nhị nguyên thì bắt buộc phải tạo ra đối nghịch. Luôn luôn phải có một cặp đối nghịch. Vậy có nghĩa là gì?

Có nghĩa là một sa nhân, một sa nhân nào đó, sẽ bắt đầu tìm cách nâng cao, chẳng hạn, một tôn giáo nào đó thành tôn giáo cao trội. Nó sẽ tin là nếu nó có thể tạo ra một tình trạng trên địa cầu nơi ai ai cũng đi theo tôn giáo đó và không có ai thách thức, không có ai chống đối tôn giáo đó, thì hẳn là nó sẽ vô cùng yên trí. Nó sẽ nắm quyền kiểm soát. Và nó sẽ cảm thấy là nó nắm toàn quyền, vì đó là cách duy nhất mà một sa nhân có thể mường tượng sự yên trí. Không hẳn là sa nhân tìm cầu sự yên trí, mà nó tìm kiếm một thế cân bằng nào đó nơi nó có thể cảm thấy mình làm chủ tình hình, và cách duy nhất nó có thể nghĩ ra là nắm quyền lực một cách độc đoán. Nhưng cho dù sa nhân có phấn đấu đến đâu, nó cũng sẽ không bao giờ đạt được trạng thái tâm lý nơi nó cảm thấy nó làm chủ và nắm quyền lực tuyệt đối.

Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là, như chúng tôi đã có nói, tâm lý của một sa nhân thật sự là định nghĩa chính xác nhất về chứng rối loạn đa nhân cách (split personality disorder), chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive disorder). Một sa nhân có vẻ như kiểm soát được tình hình, chẳng hạn như Stalin, nếu nói về sự kiểm soát trong cõi vật lý thì Stalin hoàn toàn kiểm soát Liên xô, vì ông muốn gì thì người ta răm rắp làm theo. Nhưng nhìn vào tâm lý của Stalin, con sẽ thấy ông hoàn toàn không kiểm soát được trạng thái tâm ông, vì ông luôn luôn cảm thấy mình bị đe dọa, luôn luôn sợ hãi, luôn luôn tìm cách triệt hạ mọi tiềm năng đe dọa bằng cách sát hại ngay cả những cộng tác viên thân cận nhất của mình. Mao, Hitler, cũng tương tự như thế. Điều con thấy ở đây là sa nhân bị mắc kẹt trong nhu cầu ám ảnh cưỡng chế đó, luôn tìm cách tạo ra một trạng thái – có thể nói là – yên tâm, hay ít ra không bị đe dọa, nhưng nó lại làm vậy bằng cách tiêu diệt một cái gì khác.

Hiển nhiên, không một sự an bình hay một thế cân bằng nào có thể đạt được qua hủy diệt, nhưng sa nhân sẽ không bao giờ nhìn ra được chuyện đó từ tâm thức nhị nguyên. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói là sa nhân có vẻ như kiểm soát được ngoại cảnh, nhưng trong nội tâm, sa nhân không ngừng phản ứng, và tất nhiên, khi con phản ứng lại những hoàn cảnh vượt quá tầm kiểm soát của mình, làm sao con có thể giữ được kiểm soát? Không thể được. Sa nhân không bao giờ kiểm soát được chính tâm lý của chúng. Chúng luôn luôn phản ứng lại những mối đe dọa, cho dù là thực hay là tưởng tượng.

Khi ta nói “thực”, tất nhiên là ta dùng dấu ngoặc kép, mặc dù con có thể bảo là có một số đe dọa hiện hữu trong cõi vật lý, và có một số đe dọa khác thì do sa nhân bịa đặt ra trong tâm trí. Kỳ thực, khi con trong tư cách là một học trò tâm linh nhận ra điều này, đương nhiên con sẽ nhận ra là tâm lý của sa nhân cũng không khác tâm lý của con người trên cơ bản. Sa nhân chỉ cực đoan hơn mà thôi. Con là một học trò tâm linh, chừng nào con còn mang chấn thương nhập đời, thì con cũng sẽ ở trong tâm trạng phản ứng lại những sự kiện có vẻ vượt khỏi tâm kiểm soát của con, và con cũng làm vậy bằng cách tạo ra một cảm giác cân bằng, an tâm, yên trí nào đó.

An bình nội tâm

Khi con nhận ra điều này, con cũng nhận ra đây là một tâm thức vô cùng xưa cũ trên hành tinh địa cầu, một động lượng đã có từ rất lâu, thậm chí một con quái vật tập thể luôn khiến con người tạo dựng một cảm giác an tâm qua nhiều phương cách. Một phương cách, chẳng hạn, trong cõi vật lý là xây thành lũy kiên cố với tường dày đến độ không một kẻ thù nào có thể đâm thủng, rồi con tích trữ lương thực để cố thủ trong đó thật lâu, chẳng khác gì cách phản ứng sợ hãi của những kẻ gọi là lãnh đạo xã hội thời trung cổ. Hay con cũng có thể dùng nhiều phương cách khác, qua khoa học, qua công nghệ, hay con mua bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ hoặc mọi loại bảo hiểm mà con có thể nghĩ ra, hay con cũng có thể tích trữ nhiều tiền bạc đến độ con tưởng con sẽ có thể tung tiền mà thoát khỏi mọi khó khăn. Nhưng phương cách của con cũng có thể là tôn giáo hay giáo lý tâm linh. Con thấy Giê-su đã nói gì về những tín đồ Cơ đốc tạo dựng một tâm trạng mà họ tưởng là cân bằng do họ tin chắc là họ sẽ được cứu rỗi khi Giê-su tái lâm, và họ tin chắc là họ chỉ cần tiếp tục sống cuộc đời thoải mái và có lẽ đóng góp một chút tiền bạc cho từ thiện.

Con thấy trong Phật giáo có bao nhiêu người, ngay cả những vị tu sĩ trong tu viện, cũng đã tạo ra một trạng thái tương tự như vậy, có vẻ rất cân bằng và yên ổn vì họ cho là mình chỉ cần tiếp tục sống cuộc đời tu hành, tuân thủ mọi yêu cầu tụng niệm, cầu nguyện, tu tập, thiền định, và điều này và điều kia. Nói cách khác, đó là con đường vỏ ngoài, con đường tự động mà qua đó con nghĩ con có thể đắc đạo hay nhập niết bàn mà không cần xem xét đến tâm thức của mình và chuyển đổi tâm thức.

Tất nhiên, như chúng tôi đã nói nhiều lần, có những học trò tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên cũng đã cố làm y chang như thế với giáo lý của chân sư, và hiển nhiên, đó là chuyện khả thi. Chuyện này dễ hơn trong những đợt truyền pháp trước, và nó khó hơn hẳn trong đợt truyền pháp này, vì lần này, lần đầu tiên ít ra là trong lịch sử được ghi chép, chúng tôi đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm để phơi bày ra các cơ chế tâm lý, hầu con chỉ có thể vừa ở lại với giáo lý, vừa xây đắp một cảm giác yên ổn, bằng cách con bỏ qua, hay phủ nhận, một phần đáng kể của giáo lý. Nếu con là người cởi mở, tất nhiên con nhận ra là con không thể là một cánh cửa mở hoàn toàn nếu con dùng giáo lý theo cách đó. Con cần bước vào một trạng thái – và đa số các con đã bước vào rồi – nơi mình sẵn lòng xem xét tâm lý mình một cách liên tục, sẵn lòng giải quyết những gì cần giải quyết, rồi vươn lên cao hơn hầu thực sự trở thành một cánh cửa mở.

Tất nhiên, điều mà con cũng gặt hái được qua cách này là một trạng thái an bình chân thực hơn. Chúng tôi có nói là luôn luôn sẽ có những ảo tưởng mà con cần vượt qua cho tới khi con thăng thiên, nhưng chúng tôi cũng có nói là điều này không có nghĩa là con phải sống hết kiếp này trong một tâm trạng thiếu sót, cảm thấy như mình luôn luôn bất cập, khiếm khuyết, như luôn luôn có điều gì mình chưa làm hay cần phải làm. Điểm mà con cần thực sự đạt đến là sự chấp nhận. Con chấp nhận chính mình như một học trò sẵn lòng bước đi trên đường tu, luôn luôn tìm xem mình có cần nhìn ra điều gì trong tâm mình, trong tâm lý mình. Một khi con vượt qua được điểm đó, là điểm mà chúng tôi gọi là điểm kháng cự không muốn nhìn vào tâm lý mình, thì con sẽ có được một cảm giác an bình nội tâm nào đó, vì không có điều gì trong tâm mà con sợ nhìn vào, không có gì trong tâm lý của con mà con không thể khắc phục, không có gì trong thế gian mà con cần sợ hãi.

Điều kiện ngoại cảnh có mục đích gì

Tại sao con người lại sợ ngoại cảnh? Họ có nhiều lý do. Họ nói, tôi sợ đau ốm, tôi sợ đau đớn, tôi sợ này sợ kia. Phải, điều này có thể thông cảm được. Nhưng dù sao đi nữa, tại sao họ lại sợ một điều kiện bên ngoài chưa thị hiện? Bởi vì họ sợ nó sẽ tác đông đến tâm lý của họ như thế nào. Như chúng tôi đã có trình bày, không phải là điều kiện vỏ ngoài khiến con đau đớn. Nỗi đau hiện hữu trong tâm con. Ngay cả đau đớn thể xác cũng hiện hữu trong tâm con, hay ít nhất nó khơi ra một phản ứng trong tâm con. Đó là điều khiến nó không chịu đựng nổi. Kỳ thực, con luôn luôn lo sợ phản ứng của con đối với một điều kiện bên ngoài thay vì chính điều kiện đó. Nhưng nếu con biết là con có thể khắc phục phản ứng đó bằng cách nhìn vào phản ứng cũng như ngã tách biệt đằng sau nó, thì tại sao con lại cần lo sợ phản ứng? Và nếu con không lo sợ phản ứng thì tại sao con lại cần sợ hãi điều kiện đó?

Thật sự, điều mà một số các con đã bắt đầu sẵn sàng nhìn nhận là con không có lý do gì để sợ hãi bất cứ điều kiện nào trên địa cầu. Phần nào đây cũng là điều mà Giê-su đã chứng tỏ khi thày chấp nhận để mình bị đóng đinh trên thập tự giá. Con có thể nói là nếu việc bị đóng đinh và chịu đựng nỗi đau đớn tạm thời đó đã giúp cho thày đủ tư cách thăng thiên, thì liệu việc trải qua nỗi đau nhất thời đó chẳng bõ lắm hay sao? Con thử nhìn xem Giê-su sau khi thày thăng thiên. Thày có thể nhìn lại những giờ phút đau đớn đó, nhưng chuyện đó còn hề chi nữa? Trong trạng thái thăng thiên, bất cứ gì đã xảy ra trên địa cầu có còn quan trọng gì nữa không?

Chúng tôi đã nói gì về mục đích thực sự của địa cầu, của trải nghiệm của con trên địa cầu? Đó là để nâng cao tâm thức. Một phần công việc nâng cao tâm thức là con phải vượt qua một cái gì đó nơi bản thân con – những cái ngã tách biệt, hay cái gì khác nữa. Và để vượt qua cái đó, con phải nhìn thấy nó. Và để nhìn thấy nó, chuyện gì cần xảy ra? Phải, đôi khi con có thể nhìn thấy nó qua một tiến trinh nội tâm. Nhưng có những thứ mà con không thể nhìn thấy, hoặc ít ra con sẽ nhìn thấy nhanh chóng hơn nếu nó được các điều kiện ngoại cảnh kích hoạt cho hiển lộ ra.

Đâu là mục đích của bất kỳ trải nghiệm nào mà con có thể có trên địa cầu? Đó là để làm hiện rõ ra trong nội tâm của con một số điều kiện đang hạn chế con – đó chính là tại sao con mới có một phản ứng khó chịu – hầu con có thể nhìn thấy điều kiện đó, giải quyết nó và được giải thoát khỏi nó. Và một khi con đã giải thoát khỏi điều kiện đó trong chính con, thì điều kiện bên ngoài hoàn toàn vô can, không dính dáng gì đến con nữa. Nếu con không có phản ứng tiêu cực nào đối với điều kiện, thì nó có quan trọng gì nữa không? Nó không kìm hãm được sự tăng trưởng tâm linh của con.

Một khi con bắt đầu suy ngẫm điều này, con có khả năng đạt đến một điểm khi con xoay chuyển một cách ý thức, và con nói: “Tại sao tôi lại sợ tất cả những điều kiện đó có thể xảy đến? Tại sao tôi lại cần sợ tất cả những điều kiện đó? Bất cứ gì xảy ra cũng sẽ tạo ra phản ứng. Khi tôi nhìn thấy phản ứng, đó là cơ hội cho tôi tìm kiếm những ảo tưởng, những cái ngã tách biệt đã gây ra ảo tưởng, hóa giải những ảo tưởng đó, để cho ngã tách biệt chết đi, và khi đó tôi được tự do. Tại sao tôi lại sợ những chuyện xảy ra cho mình khi thật sự chúng sẽ giúp mình đạt được giải thoát tối hậu và thăng thiên? Tại sao tôi cần phải sợ bất cứ điều kiện nào? Liệu tôi có thể nói, “Chuyện gì xảy ra cũng được! Bất cứ gì xảy ra cũng được!”?

Hết sợ hãi

Một lúc nào đó con hãy thử ngồi xuống trong một khung cảnh yên lắng, nhắm mắt lại, tập trung vào trái tim rồi nói: “Bất cứ gì xảy ra cũng được.” Xong con dõi nhìn xem phản ứng đến từ bên ngoài tim con, đặc biệt từ những luân xa bên dưới, từ cảm thể của con. Con nhìn xem con có phản ứng thế nào. Thử theo dõi phản ứng. Thử nhìn xem con có nhận diện được một ngã tách biệt nào hay không. Nhìn xem cái tin tưởng đứng đằng sau nó. Con đang thực sự sợ hãi điều gì? Tại sao con lại nghĩ, đây là một chuyện khủng khiếp mình cần phải tránh? Cái gì ở trong điều kiện đó mà con thực sự sợ hãi, và con sẽ thấy đó là phản ứng bên trong con, nhưng một phản ứng bên trong thì con có khả năng ảnh hưởng. Con có thể bó tay không làm gì được đối với điều kiện bên ngoài, nhưng con có thể làm gì đó với phản ứng của con. Không phải đây chính là cốt lõi lời dạy của các chân sư hay sao?

Tại sao con thực sự sợ nó? Con có nghĩ là con cần sợ nó? Điều này sẽ lần hồi dẫn con – đồng ý, tất cả các con sẽ cần thời gian để đạt tới đó – nhưng nó sẽ dẫn con đến điểm khi con có thể nói: “Ừ nhỉ, bất cứ gì mà tôi gặp trên địa cầu chỉ là một thử nghiệm. Nó không có gì là thực, theo nghĩa là nó không có quyền năng gì trên tôi để có thể định nghĩa được tôi.” Và khi con có thể nhìn mọi chuyện xảy ra cho mình chỉ là thêm một thử nghiệm trong số muôn vàn thử nghiệm khác, thì con sẽ có khả năng vượt qua nỗi sợ hãi mà biết bao người gán ghép cho tương lai, là nỗi sợ những chuyện có thể xảy ra.

Khi ta hiện thân trên địa cầu, trong sáu năm trời ta đã sống trong rừng, ta đã ngồi đó và bỏ đói thân mình, ta đã đối mặt với đủ loại điều kiện trong thể xác. Qua đó ta đã học được điều này, rằng không một điều kiện nào của thể xác có quyền lực đối với tâm mình trừ khi ta cho nó quyền lực. Qua đó ta đạt được một sự thản nhiên nào đó đối với thân xác mình và những gì có thể xảy ra cho thân xác, và hơn thế nữa, đối với những gì có thể xảy đến cho ta trong cõi vật lý. Trong phần còn lại của cuộc đời phụng sự, chắc chắn là sau khi ta trở về giảng dạy, ta không có sợ hãi nào về tương lai. Con có thể nói: “Nhưng chuyện đó quá dễ, thày đã có một cuộc đời quá dễ dàng.” Đúng, nhưng ta vẫn đang là người đầu thai giữa tâm thức tập thể của loài người, và tâm thức này luôn luôn tác động lên ta y như mọi người khác. Chỉ vì ta không phản ứng lại bọn quỷ của Mara mà ta mới giải thoát ra được mà thôi.

Giải phóng khỏi ngoại cảnh

Cho dù chuyện gì có xảy ra trong điều kiện bên ngoài, con vẫn mang sẵn tiềm năng thoát ra khỏi phản ứng của mình, và do đó, con không thể bị quỷ Mara cám dỗ. Điều gì gây ra phản ứng chứ? Tại sao con lại phản ứng tiêu cực trong một số hoàn cảnh mà không phản ứng tiêu cực trong một số hoàn cảnh khác? Đó là vì trong tâm, con có một cái chuẩn bảo con: “Chuyện này được xảy ra cho tôi, chuyện kia không được xảy ra cho tôi.”

Khi có điều gì xảy ra nằm trong danh mục “những chuyện được xảy ra”, con có một cảm giác tích cực. Con có một phản ứng tích cực. Nhưng khi có điều gì xảy ra nằm trong danh mục “không được xảy ra”, con rơi vào phản ứng tiêu cực, và con cho đó là cách duy nhất để nó diễn ra. Nhưng tại sao đó là cách diễn ra duy nhất? Đó chỉ là cách duy nhất trong tâm thức nhị nguyên mà thôi, nơi con có một cái chuẩn và một phán đoán giá trị. Nhưng khi con giải thoát khỏi nhị nguyên, nó sẽ phai nhạt đi. Tại sao lại có hoàn cảnh tích cực và hoàn cảnh tiêu cực? Tại sao một cái dẫn đến phản ứng hân hoan mất cân bằng, còn cái kia dẫn đến phản ứng tiêu cực cũng mất cân bằng? Tại sao có bất cứ gì mà con cần phải tránh né? Cho dù chuyện gì có xảy ra thì đó là một trải nghiệm, và bất kỳ chuyện gì xảy ra trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng là điều thích hợp để phơi bày ra một điểm nào đó trong tâm lý của con mà con chưa nhìn thấy. Vậy không tích cực lắm hay sao?

Con có thể nói: “Nhưng vẫn có những trải nghiệm trên địa cầu mà con không muốn có.” Điều này có thể hiểu được. Nhưng có một sự khác biệt giữa (1) sợ hãi và muốn tránh né một cái gì đó, và (2) quyết định là mình thật sự không muốn có trải nghiệm đó. Khi con làm điều thứ hai, con sẵn sàng nói: “À, vậy thì tôi cần làm gì để tránh loại trải nghiệm đó? Tôi cần tim xem trong tâm lý mình có điều gì sẽ được đưa ra ánh sáng bởi trải nghiệm đó, rồi tôi cần giải hóa điều kiện tâm lý đó hầu tôi không cần phải trải nghiệm điều kiện bên ngoài.”

Không có trừng phạt ở đây. Không có cưỡng ép, theo nghĩa là mọi chuyện xảy ra là để giải quyết vấn đề tâm lý. Mà nếu con giải quyết được tâm lý thì con không cần phải có biến cố bên ngoài xảy ra cho con. Trừ khi con làm vậy để chịu gánh nặng cho người khác – luôn luôn có ngoại lệ cho mọi quy luật – nhưng đối với đa số các con, nếu con giải quyết được điều kiện tâm lý thì con sẽ không cần trải nghiệm điều kiện bên ngoài. Giản dị như vậy đó.

Dựa trên đó, con thấy được là đối với số đông các con đã thực hành lời dạy này trong một thời gian, việc đạt được trạng thái cân bằng, an bình đó là một điều khả thi và thực tế. Nhưng nó không dựa trên sự phủ nhận. Ta có nói là nhiều Phật tử có được một cảm giác cân bằng, nhiều tín đồ Cơ đốc cũng có được cảm giác cân bằng, nhưng đó là vì họ phủ nhận một điều gì đó trong tâm lý họ. Họ làm ngơ. Họ từ chối nhìn vào, và do đó họ mang ảo giác yên tĩnh mà không thực sự an bình. Nhưng con có khả năng áp dụng các lời dạy của chúng tôi để đạt được trạng thái đó nơi tâm – là khi những chuyện ngoại cảnh không làm phiền con, con không phản ứng, con có thể nhìn quỷ Mara diễn hành trước mặt mình mà không phản ứng. Có nghĩa là khi đó con đạt được tự do tư duy để thực sự tự vấn: “Tôi thực sự muốn những loại trải nghiệm nào cho phần còn lại của kiếp này?” Và nhiều người trong số các con sẽ có khả năng xoay chuyển và nhận ra: “Chính những gì đang xảy ra là những trải nghiệm mà tôi muốn có, bởi vì trải nghiệm này nằm gọn trong tiến trình tăng trưởng của tôi. Đây là mong muốn mà tôi đang có, và bằng cách kinh qua và trải nghiệm nó, tôi có thể tự giải phóng mình khỏi mong muốn đó.”

Nhiều người trong số các con sẽ thấy mình đạt tới điểm này khi mình tự dưng biết rõ là đã đến lúc mình cần thay đổi cuộc sống, cho dù cuộc sống đó là gì trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con. Con có thể thực hiện thay đổi đó và con có thể có một trải nghiệm khác xa những gì con đã sống qua trước đây. Và trải nghiệm này là một phần của tiến trình tăng trưởng của con. Nó cũng có thể là một phần của món quà mà con muốn mang lại qua sứ vụ thiêng liêng của con.

Ngoại cảnh tự nhiên thay đổi

Một số các con có thể sẽ tự hỏi: “Tôi muốn loại trải nghiệm nào? Chẳng hạn tôi muốn trải nghiệm việc bày tỏ một ý tưởng nào đó.” Nhưng để làm điều này, con cần một số thay đổi, rồi con phải thực hiện những thay đổi đó. Ta sẽ không nói chi tiết những thay đổi cần thiết là gì. Chính con, tất nhiên, sẽ nhận thấy khi nào con sẵn sàng thay đổi. Đây không phải là một điều mà con áp đặt bằng tâm vỏ ngoài, mà nó sẽ xảy đến khi nào con đã đạt được trạng thái an bình nội tâm một khi con giải quyết tâm lý mình. Khi đó con sẽ ý thức tự đặt câu hỏi: “Tôi muốn loại trải nghiệm nào trong giai đoạn kế tiếp của đời tôi?”

Rất nhiều các con sẽ nhận thấy là một khi con sáng rõ, một khi con không còn bị phân ly trong tâm nữa, thì hoàn cảnh cuộc sống sẽ tự nhiên ăn khớp vào nhau và con thấy mình sống trong một tình cảnh đổi mới. Đây là tình huống mới được thị hiện một cách không khó nhọc. Nó xuôi chảy với Dòng sông sự Sống khi con không kháng cự lại bất cứ gì. Con không đang tìm cách gò ép cho điều gì xảy ra – có thể nói là con chỉ quan sát nó xảy ra. Con quan sát mọi sự trải bày ra.

Liệu ta có đang bày đặt một ảo mộng gì đó ở đây? Liệu chuyên này chỉ xảy ra cho một số ít người? Không đâu, nó áp dụng cho tất cả những ai sẵn lòng thực hành lời dạy và giải quyết tâm lý của mình. Tại sao nó lại có thể xảy ra? Tại sao khi con thay đổi trạng thái tâm mình thì hoàn cảnh vỏ ngoài cũng có thể thay đổi theo? Đây không phải là hiện tượng mà người ta thường gọi là lấy tâm điều khiển vật chất. Con thấy đó trên thế giới, có cả một phong trào những kẻ cố sức đạt được quyền năng lấy tâm điều khiển vật chất, ép buộc vũ trụ phải ban cho họ những gì họ muốn. Họ muốn ép buộc chì phải biến thành vàng, hoặc thế này thế khác – bất cứ gì mà họ mơ ước. Nhưng đó là sa nhân đang tìm cách sử dụng điều mà các chân sư gọi là ma thuật để thị hiện một số kết quả nào đó.

Điều mà ta đang nói đến ở đây là thị hiện mà không chút cố gắng và cũng không dùng đến sức lực hay quyền lực. Con thấy không, khi tâm lý con đã giải quyết, con không cần phải gò ép gì nữa. Bởi vì con không tìm cách tránh né bất cứ gì. Con không tìm cách cưỡng bách bất cứ gì lên bất cứ ai, hoặc xua đuổi bất cứ gì. Tại sao khi con xoay chuyển trong tâm, thì bên ngoài, các tình huống lại có thể xảy ra như ăn khớp vào với nhau?

Tất cả đều nối kết

Phải, điều đó xảy ra được là do một nguyên lý mà ta đã giảng dạy bao nhiêu năm về trước, đó lý duyên khởi (interdependent originations). Đây là một khái niệm vô cùng thâm sâu. Các chân sư đã có đề cập rồi và đã khuyến khích con nên suy ngẫm, và một lần nữa, ta lại khuyên con nên suy ngẫm và từ từ chiêm nghiệm nguyên lý này. Con cần nhìn nhận là con đã lớn lên trong thế giới hiện đại, là môt thế giới chủ yếu dựa vào, không những một nhân sinh quan dựa trên sức mạnh, một hệ tư tưởng dựa trên sức mạnh, mà cả một hệ tư tưởng dựa trên tách biệt. Ta đã nói gì về tâm thức nhị nguyên? Trong nhị nguyên, con nhìn vào toàn bộ tấm thảm của sự tồn hữu con người, xong con lấy ra một phần, con nâng nó lên, đồng thời con cũng kéo thấp những phần khác xuống. Con tạo ra một sự mất cân bằng. Nhưng trong lý duyên khởi không hề có mất cân bằng, tất cả đều nối kết với nhau.

Nhưng con đã lớn lên và được dạy dỗ cái nhìn cho tằng tất cả mọi thứ đều không nối kết với nhau. Tất cả đều là những thực thể tách biệt. Chúng hiện hữu riêng rẽ. Chúng là những thứ riêng rẽ bị tác động bởi những nguyên nhân riêng rẽ. Khi con nhìn khoa học, khoa học hiện đại, con sẽ thấy khoa học đặt nên tảng trên cái nhìn tách biệt này. Con cho rằng con có thể nhìn vào tấm thảm của vũ trụ và lôi ra một sự kiện nào đó, một điều kiện nào đó, và cô lập nó ra rồi bảo: “Đây là một hiệu ứng biệt lập, và hiệu ứng biệt lập này là do nguyên nhân biệt lập kia. Hiệu ứng này hoàn toàn được gây ra bởi nguyên nhân kia, và nguyên nhân kia là nguyên nhân độc quyền gây ra hiệu ứng này.” Đây là cái nhìn tách biệt mà khoa học phương Tây vẫn tiếp tục cổ võ, cho dù nó đã bị chính khoa học phương Tây – vật lý lượng tử – bác bỏ.

Có lẽ con cần bỏ ra thì giờ để suy ngẫm về điều này và nhận ra cách nhìn về nguyên nhân tách biệt và hệ quả tách biệt chỉ hữu ích cho một giai đoạn nào đó. Đó là một giai đoạn cần thiết khi loài người cần chuyển từ thế giới quan tôn giáo thời trung cổ sang thế giới quan khoa học, lý tính, hiện đại hơn. Không phải là cách nhìn đó sai – nó không sai khi xã hội cần kinh qua giai đoạn đó, nhưng đó chỉ là một giai đoạn, hay ít nhất, đó là một giai đoạn mà xã hội phải đi qua nhưng nó không thể đưa xã hội hay loài người quá một trình độ nào đó.

Là học trò tâm linh, con sẽ muốn suy ngẫm xem làm thế nào con có thể giải thoát tâm con khỏi niềm tin đó. Một lần nữa, con có thể hỏi, tại sao mình lại sợ một tình huống nào đó? Phải chăng là vì con cho rằng có nguyên nhân tách biệt kia sẽ tác động đến con là một sinh thể tách biệt, và con như một sinh thể tách biệt sẽ phản ứng lại nguyên nhân đó? Và con như một sinh thể tách biệt sẽ muôn tránh né nó, muốn tránh né nguyên nhân đó? Nhưng con đang nhìn bản thân như một sinh thể hiện hữu trong một tổng thể rộng lớn hơn. Con biết điều đó. Con đang sinh sống trên một hành tinh với bảy tỷ người khác, với đủ loại điều kiện vật lý khác nhau, có cả những chuyện như thời tiết, và nếu trời mưa và con ra ngoài đường thì con sẽ bị ướt. Con biết là con đang sống trong cái tổng thể đó, nhưng thay vì nhìn vào tổng thể, con lại tập trung vào một số khía cạnh đặc thù của tổng thể, và con xem mình như một sinh thể tách biệt đang hiện hữu trong tổng thể, và con nghĩ đối với sinh thể tách biệt đó, có những chuyện nên xảy ra cho nó và những chuyện khác không được xảy ra cho nó.

Xong con tìm cách làm thị hiện những chuyện nên xảy ra và xua đuổi những chuyện không được xảy ra, dựa theo tiêu chuẩn của con. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói con là một sinh thể cá biệt với quyền tự quyết cá nhân, nhưng con không nhận ra là con hiện hữu trong một tổng thể với bảy tỷ cá nhân khác cũng có quyền tự quyết. Có nghĩa lý gì mà lại cho rằng con có thể tự cô lập khỏi tổng thể đó và không bị tác động bởi những chọn lựa tự quyết của người khác? Nghĩ như vậy có thực tế hay chăng?

Nhiều người nghĩ như vậy. Như ta vừa nói, có những người xây thành lũy với tường thật dày để cố cách ly, tưởng là mình có thể tự cô lập khỏi tổng thể, nhưng tất nhiên họ không thể. Họ có thể tạm thời tạo cảm tưởng là họ có thể, nhưng thực tế là họ không thể. Toàn bộ ý tưởng cho rằng mình có thể cách ly khỏi tổng thể để che chở bản thân khỏi một số điều kiện – và hấp dẫn một số điều kiện khác – là một ảo tưởng. Dù con có ưa hay không ưa, con vẫn là một phần của tấm thảm nhân loại. Điều ta gợi ý cho con ở đây, và cũng là điều xảy ra cho những ai đã vươn lên một mức tâm thức Ki-tô nào đó và đã bắt đầu khoác vào tâm thức Phật, là con có khả năng xoay chuyển cách nhìn của mình về cuộc sống.

Con có thể khởi sự suy ngẫm là có một cách khác để nhìn cụôc sống hơn là nhìn từ quan điểm một cá nhân tách biệt đang cố tránh né một số chuyện và tìm cầu một số chuyện khác. Con có thể nhận ra là với tư cách một cá nhân tách biệt, thật chẳng có nghĩa lý gì khi con muốn cái này và không muốn cái kia. Bởi vì thực tế là mọi thứ đều nối kết với nhau, và rất có thể điều gì con muốn có sẽ khiến cho ai khác không có được, và điều gì con tránh né sẽ khiến cho ai khác không tránh được. Nói cách khác, nếu mọi sự đều là một tổng thể liên kết và con ở trong tổng thể đó, con không thực sự là một thành phần (a part) của tổng thể vì con không hề tách rời (apart) khỏi tổng thể. Mà giản dị, con là một khía cạnh trọn vẹn và không thể thiếu của tổng thể. Thật sự không có nghĩa lý khi nói: “Tôi muốn gì như một cá nhân tách biệt?”

Có một cách nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống, và đó là nhìn cuộc sống từ một cá nhân nối kết, một người nối kết với tổng thể – tức là thật sự sẽ không nghĩa lý gì khi con bảo: “Liệu tôi có thể trở thành tỷ phú bằng cách lấy tiền của người khác hay không?” Con có thể làm vậy như một số người đã từng làm, nhưng kỳ thực con không tách rởi khỏi tổng thể. Khi con tạo ra một sự mất cân bằng thì con sẽ trải nghiệm một sự mất cân bằng nơi chính con. Khi con tạo một sự mất cân bằng tác động lên người khác, con sẽ tạo một sự mất cân bằng tâm lý tác động lên chính con. Con cũng sẽ tạo ra một đối nghịch vật lý có thể sẽ tác động đến con trong tương lai. Vì tác động này có thể bị trì hoãn tới một kiếp sau cho nên con không thể thấy được, nhưng con sẽ trải nghiệm một sự mất cân bằng tâm lý. Chẳng hạn như con thấy đó, tất cả những ai làm giàu do tước đoạt của người khác cũng đều phải chịu những mất cân bằng tâm lý sẽ liên tục gây tổn hại cho họ.

Mục đích là nâng cao tổng thể

Có một cách nhìn cuộc sống khác hẳn cái nhìn tách biệt mà con đã được giáo dục, được lập trình và đã phải tiếp cận suốt nhiều kiếp sống. Con sẽ cần trang bị lại tâm trí để có thể xoay chuyển, nhưng ở đây thày đang chỉ ra cho con những giai đoạn khởi đầu của tiến trình đó. Con có thể bắt đầu suy ngẫm và chuyển dời tâm thức. Con có thể bắt đầu trau dồi nhận thức là con không thực sự ở đây để tự nhấc mình lên, ít ra là không tạo sự mất cân bằng sẽ làm hại đến người khác. Con ở đây để nâng cao tổng thể.

Liệu điều này có ăn khớp với đường tu tâm linh dẫn đến quả vị Ki-tô hay không, vì chúng tôi đã có nói là ở những chặng đầu của đường tu, công việc quan trọng nhất của con là tách mình ra khỏi tâm thức tập thể? Đúng vậy, có vẻ như con cần tự tách ra khỏi một cái gì đó, và theo một ý nghĩa nào đó, con đang tự tách mình ra khỏi tâm thức tập thể. Nhưng tâm thức tập thể là gì? Đó là tâm thức tách biệt. Khi con tách mình ra khỏi tâm thức tách biệt, liệu con đang tách ra khỏi một cái gì đó, lánh xa một cái gì đó, hay con đang bước vào tâm thức hợp nhất, tâm thức nối kết? Con không thể thực sự tách ra khỏi sự tách biệt. Con chỉ có thể đi vào tâm thức vượt khỏi tách biệt, tức là đi vào hợp nhất. Con nhận ra là để nâng cao tổng thể, con cần phải tách mình ra khỏi tâm thức tập thể hầu con có thể nâng cao chính tâm thức cá nhân của mình, và khi con làm vậy, con tạo ra một lực kéo theo cả tập thể đi lên.

Sự khác biệt vi tế nằm ở chỗ một số đệ tử sẽ tìm cách làm vậy với động lực nâng mình lên như một cá nhân tách biệt. Đây là điều chúng tôi từng đề cập là ở tầng thứ 96, con cần tìm ra đáp số cho bí ẩn là con không còn cố nâng mình lên như một cá nhân tách biệt, mà con nhìn ra sự nối kết với tổng thể. Đây là tâm thức Ki-tô, không phải mức cao nhất nhưng chắc chắn là chặng khởi đầu của tâm thức Ki-tô. Khi con xoay chuyển, con nhận ra là tất cả mọi thứ đều tương kết với nhau. Theo một nghĩa, con có thể nói là tâm lý của mọi người trên địa cầu đều nối kết với nhau. Có một vài ngã tách biệt mà mọi người đều có, và có rất rất nhiều ngã tách biệt mà hầu hết mọi người đều có.

Vậy sẽ cần gì để nâng cao nhân loại? Sẽ cần gì để nâng cao tâm thức tập thể? Cần giải quyết những cái ngã tách biệt. Nhưng làm thế nào? Điều này không thể xảy ra trên bình diện tập thể, vì tập thể không có ý thức và mọi người đang bị những cái ngã tập thể phân rẽ. Không có hy vọng nào khơi lên ý thức này, ít ra là trong tương lai gần, vì mọi người đều có ngã tách biệt và đều cần khắc phục nó cái đã. Tuy nhiên, con có thể thấy một số chuyển đổi tập thể đang diễn ra, nhưng những chuyển đổi này khởi lên là do một số cá nhân đã bắt đầu tự xoay chuyển bản thân, và điều này tạo ra động lượng khiến cho nhiều người khác cũng chuyển đổi theo.

Nhân loại được nâng lên là nhờ một số người đã sẵn sàng xem xét và giải quyết ngã tách biệt của riêng mình. Điều này tạo ra một khuôn mẫu, một khung sườn, một đường khai thông cho người đi sau, một động lượng cho tập thể. Nếu có một người nhìn thấu qua một ngã tách biệt nào đó, thì sẽ có một người khác khắc phục ngã tách biệt đó dễ dàng hơn do người kia đã làm được trước đó. Rồi sẽ có một người thứ ba cũng thấy dễ dàng hơn nữa, và nó sẽ lan rộng ra giống như vòng tròn trên mặt nước, cho tới khi tập thể được xoay chuyển, và bỗng nhiên nó gần như trở thành một loại kiến thức phổ thông, hay ít nhất một chuyện đầu môi của nhiều người. Ngay cả chỉ trong một đời người, con đã thấy trong lãnh vực xuất bản sách tự cải tiến, đã xảy ra những chuyển đổi khiến cho một vấn đề nào đó bỗng nhiên trở nên thời trang và được nhiều người nói tới. Chẳng hạn ngay giờ đây, con có thấy đề tài về những kẻ ích kỷ yêu mình quá độ đang trở thành phổ biến hay không? Tất cả đã bắt đầu là do có một vài người sẵn sàng tự cải sửa rồi kéo theo mọi người đi lên.

Không còn kháng cự

Như vậy có nghĩa là bây giờ con có thể trở về với khái niệm ta đề cập ở trên, là có một số điều kiện mà con muốn tránh né, nhưng giờ đây con nói: “Phải, có một điều kiện này mà tôi không muốn xảy ra nhưng nó vẫn xảy ra như thường, vậy có nghĩa là gì?” Có lẽ có nghĩa là: “Cho dù tôi có muốn tránh né với tâm vỏ ngoài, nhưng trong sứ vụ thiêng liêng của tôi, chính tôi đã hứa là mình sẽ tiếp nhận điều kiện đó để nó giúp mình giải quyết cái tâm lý ở đằng sau, và nhờ vậy tôi sẽ nâng cao tổng thể.” Nói cách khác, những gì xảy ra cho con không phải là điều gì nhằm đánh phá con, nó không phải là điều gì mà con cần kháng cự lại. Trái lại, đó là một điều mà con cần ôm lấy và nói: “Tôi có thể học được gì từ chuyện này? Có gì trong bản thân mình mà tôi cần nhìn thấy qua chuyện này? Làm thế nào tôi có thể giúp giải quyết một điều gì đó trong tâm thức tập thể và nhờ đó nâng cao tập thể?”

Một lần nữa, cách suy nhĩ này là một phần của câu “Bất cứ gì xảy ra cũng được”. Khi con nói “Bất cứ gì xảy ra cũng được”, nó không có nghĩa là chỉ có những thứ dễ chịu mới được quyền xảy ra. Mà nó có nghĩa là “bất cứ gì”. “Dù bất cứ gì xảy ra, tôi cũng sẽ gặp gỡ nó với tâm tích cực, tôi sẽ tìm cách tận dụng nó tốt nhất, và tôi sẽ vui mừng vì những gì tôi đã phải chịu đựng đều đã đóng góp nâng cao tổng thể.”

Điều này sẽ xoay chuyển trạng thái tâm con, khiến con không cưỡng chống lại bất cứ gì nữa. Và tất nhiên, con không thể an bình nội tâm khi con còn cưỡng chống hay tìm cách tránh né bất cứ gì. Làm sao an bình được? Và điều này ăn nhập thế nào với đề tài trở thành cánh cửa mở? Thật hiển nhiên là khi con càng giải quyết được tâm lý của con thì con sẽ càng sẵn sàng nói “Bất cứ gì xảy ra cũng được”, và con càng trở thành một cánh cửa mở. Khi còn đầu thai trong cõi vật lý, con luôn luôn gặp thử thách mình bị mù quáng bởi toàn bộ hoàn cảnh mà mình đang trải qua, bởi tâm thức tập thể, bởi chính bốn thể phàm của mình, và con không thấy được rõ ràng trong tâm ý thức những gì con đã thảo ra trong sứ vụ thiêng liêng của con. Con không nhìn thấy sự nối kết rộng lớn với công cuộc nâng cao tổng thể mỗi khi con trải qua một tình huống. Nhưng tư duy mà con có thể trau dồi là không những con sẽ cởi mở đón nhận những ý tưởng tuyệt vời từ cõi tâm linh, mà con cũng sẽ cởi mở để trải nghiệm tất cả những tình huống mà con đã quyết định trong sứ vụ thiêng liêng, là những trải nghiệm mà con muốn kinh qua và đương đầu hầu giúp nâng cao tập thể. Thậm chí có cả những bệnh tật mà con muốn chuốc lấy.

Làm hòa với sự đầu thai trên địa cầu

Điều ta cố trao cho con ở đây là ý tưởng con có khả năng làm hòa với sự đầu thai của con trên địa cầu, cho dù hành tinh này có đày đặc và khó khăn như hiện tại. Điều này không có nghĩa là ta yêu cầu con phủ nhận những điều kiện hiện hữu trên trái đất. Khi con nâng cao tâm thức, con nhìn thấy rõ hơn mọi điều kiện. Nhưng con cũng nhìn những điều kiện đó mà không có phán đoán nào về giá trị, là sự phán đoán của tâm thức nhị nguyên, và đây là điểm mà một số người đã không hiểu. Một số người đã đi qua giai đoạn mà thày Saint Germain đã giải thích rất tỉ mỉ là những giai đoạn khởi đầu trên con đường quả vị Ki-tô, khi con vẫn con suy nghĩ mọi chuyện theo đen và trắng. Con vẫn còn cho rằng cái này đúng, cái kia sai. Nếu cái này đúng thì cái đối nghịch phải sai. Đấy là cách con suy nghĩ ở một giai đoạn nào đó. Đó là khởi đầu của phân biện nhưng đó chưa thực sự là quả vị Ki-tô, vì quả vị Ki-tô là khi con bước lên cao hơn một chút, và con bắt đầu nhìn vượt khỏi mọi phán đoán giá trị. Khi nào con còn ở trong tâm trạng trắng đen này thì con sẽ vẫn phán xét giá trị, con sẽ vẫn cho rằng cái gì sai là xấu, là ác, là cần tránh né, là không có quyền hiện hữu.

Khi con bước lên cao hơn trong tâm thức Ki-tô, con nhận ra là bất cứ gì hiện hữu cũng chỉ là quyền tự quyết của con người đang trải bày ra. Khi con lên cao hơn nữa vào những mức tâm Phật, con bắt đầu bỏ lại toàn bộ ý thức lượng định là một điều gì đó phải hiện hữu hay không được hiện hữu. Khi con nối kết với bản chất nối kết của tổng thể cũng như với quyền tự quyết được trải bày ra, con nhận ra là theo một nghĩa nào đó, từ một quan điểm nào đó, hoàn toàn không có gì mà không được hiện hữu – bởi vì bất cứ gì hiện hữu cũng là sự trải bày của tâm thức con người sống trên địa cầu, và tâm thức này đang trải bày nó ra để làm cho nó lộ diện. Khi con thấy được cách vận hành của bộ máy giả thực tại này, và thấy được loài người đã bước vào nhị nguyên như thế nào, thì bất cứ gì hiện hữu cũng hiện hữu như sự trải bày của một cái gì đó khó nhìn thấy, bây giờ được hiển lộ ra cho con thấy. Nhìn từ góc độ đó, nó phải hiện hữu.

Con thử lấy tất cả những đánh giá mà nhiều người có trên hành trình tu tập, thì con có thể nói tiến trình đi tới quả vị Ki-tô và quả vị Phật là khi con bắt đầu kết nối với tổng thể, cho nên con trải qua một giai đọan khởi lên lòng trắc ẩn đối với tha nhân. Con nhìn thế giới ngày nay, nhìn rất, rất nhiều người mà xem. Có thể họ đi theo hay không theo tôn giáo nào, nhưng con thấy là rất nhiều người – mà chúng ta có thể gọi là người tiến bộ, thiện tâm – được thúc đẩy bởi lòng trắc ẩn. Họ có lòng thương xót đối với nỗi đau khổ của người khác, và với lòng thương xót đó, họ nói: “Ồ, điều kiện tệ hại này không được có mặt ở đây. Người ta phải đau khổ như thế này thì thật là sai trái. Những chứng bệnh này không được hiện hữu, tình trạng nghèo đói này không được hiện hữu, tra tấn, bạo lực, chiến tranh này không được hiện hữu.”

Hiển nhiên, con có thể lấy quan điểm đó và bảo rằng theo nguyên tắc lý tưởng, theo cách vận hành của một hành tinh tự nhiên, thì những chuyện như vậy sẽ không có mặt ở đây nếu địa cầu là một hành tinh tự nhiên. Nhưng một lần nữa, mục đích của chúng ta trên địa cầu là gì chứ? Phải, tối hậu là đưa địa cầu trở về trạng thái một hành tinh tự nhiên, nhưng đó vẫn chưa phải là mục đích thật. Mục đích thật là nâng cao tâm thức. Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, không ngồi đây bảo: “Ồ, địa cầu là một hành tinh đen tối thật, và chúng tôi phải cố gắng hết sức hồi phục địa cầu về vị thế một hành tinh tự nhiên càng sớm càng tốt, bất chấp điều gì xảy ra.”

Không, thật ra chúng tôi nói: “Với tình trạng hiện nay của địa cầu, trong những điều kiện hiện tại, làm thế nào chúng tôi có thể nâng cao tâm thức loài người bằng cách làm hiển lộ cái tâm thức đã tạo ra những điều kiện đó?” Khi con nối kết với điều này, con sẽ tránh bị mắc kẹt trong lòng trắc ẩn, bởi vì kỳ thực, nhiều người thiện tâm và nhạy cảm bị mắc kẹt trong lòng trắc ẩn. Chính sứ giả này cũng từng bị mắc kẹt như vậy trong những năm đầu của kiếp này, ngay cả những năm đầu sau khi ông cất bước trên đường tu, thậm chí sau khi ông tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên. Rất nhiều các con có thể nhận thấy một điều tương tự nơi chính mình. Con cảm thấy một lòng trắc ẩn mãnh liệt đối với sự khổ đau của mọi người đến độ con sẵn sàng sử dụng vũ lực để loại bỏ khổ đau.

Các chân sư thăng thiên cũng muốn xóa bỏ đau khổ của loài người, nhưng tại sao chúng tôi đã không dùng quyền năng lớn lao của mình để xóa bỏ nạn nghèo đói trên trái đất? Phải, bởi vì như vừa nói, mục đích chủ yếu của chúng tôi không phải là xóa bỏ nghèo đói, xóa bỏ cách thể hiện vỏ ngoài của nghèo đói, mà chúng tôi muốn giúp con người thăng vượt cái tâm thức đã làm thị hiẹn tình trạng nghèo đói đó. Chúng tôi muốn dùng nghèo đói để khiến cho tâm thức đó hiển lộ ra hầu mọi người có thể nhìn thấy và giải quyết. Đó là mục đích chúng tôi. Đó là cách chúng tôi làm việc. Nhiều người trong số các con đã không hiểu điều này, nhưng khi con hiểu ra thì con cũng sẽ xem xét và chấp nhận là con không cần khiến cho lòng trắc ẩn của mình trở thành một chứng ám ảnh cưỡng chế, khi con luôn bị thôi thúc phải làm cái gì đó để giảm bớt một dạng đau khổ nào đó, và con không thể an bình cho tới khi điều này xảy ra.

Rất nhiều người thiện tâm mà ta đang nói tới, ngay cả một số đệ tử của chân sư thăng thiên, bị rơi vào trạng thái ám ảnh cưỡng chế này khi họ không thể an bình cho tới khi vấn nạn này hay vấn nạn kia vẫn còn hiện hữu. Sứ giả này đã sống qua một thời kỳ ở tổ chức Summit Lighthouse khi ai nấy đọc bài chú trong những buổi canh thức kéo dài hàng giờ nhằm chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản, ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, hay đem lại một số thay đổi nào khác. Không phải là những công việc đó vô ích và vô giá trị. Nhưng sứ giả này đã nhận ra là mình ở trong một trạng thái tâm thức ám ảnh cưỡng chế, và ông thấy nhiều người khác cũng giống như ông. Con không an bình khi con ở trong trạng thái tâm thức đó.

Chắc chắn chúng tôi mong muốn đệ tử của mình kêu gọi thay đổi một số điều kiện trên thế giới, nhưng có bao giờ chúng tôi bảo các con phải làm vậy trong tâm trạng ám ảnh cưỡng chế đâu? Tại sao chúng tôi lại muốn đệ tử của mình hành động với tâm mất cân bằng trong khi chúng tôi luôn cân bằng? Chúng tôi muốn đệ tử có những gì mà chúng tôi có – tâm cân bằng. Con có thể nói là trong trạng thái thăng thiên, chúng tôi nào cần đến tâm cân bằng vì ở đây không thể có sự mất cân bằng. Nhưng con đang sống trong một môi trường khác, nơi tâm mất cân bằng là chuyện khả dĩ, và có rất, rất nhiều thế lực tác động lên tâm con để lôi kéo con vào những phản ứng mất cân bằng.

Các chân sư cố giúp con đạt được trạng thái tự do khỏi tất cả những thế lực đó, những con quỷ của Mara, hầu con cũng có thể ngồi dưới cây bồ đề mà không mảy may bị quỷ Mara ảnh hưởng, hay bị phiền hà bởi ông hoàng của thế gian tới đòi phần ăn của y. Chúng tôi đã trao cho con những dụng cụ để con đạt được điều đó. Con sẽ cần thời gian, nhưng bằng cách ý thức nhận biết điều đó và đặt nó làm mục tiêu ý thức, con sẽ đạt được nhanh chóng hơn rất nhiều.

Nhiều người trong số các con gần hơn là các con tưởng, nhiều người trong số các con gần hơn là các con tưởng.

Như chúng tôi đã nói: “Hãy hỏi thì con sẽ nhận được”. Con hãy hỏi chân sư gần gũi nhất với con, hãy yêu cầu thày giúp con nhìn ra trong thái độ của con có điều gì đang kéo con ra khỏi bình an. Nhưng cũng đừng quên hỏi vị sứ giả này, vì ông đã đạt được một mức độ bình an rất cao và sẵn lòng làm việc với con để con cũng đạt được như vậy. Một lần nữa, con sẽ cần đến gì để con cũng trở thành cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu? Hãy hỏi và sẵn sàng nhận.

Và một nhận xét chót – ta muốn gửi đến tất cả các con lòng biết ơn sâu xa của các chân sư khi con đã sẵn lòng tham gia vào tiến trình buổi hội thảo này. Rất đông các con đã hòa điệu để cùng nhau đọc bài thỉnh, các con đã thực sự hoàn thành một công việc tuyệt vời để nâng cao tâm thức tập thể. Các con đã vượt quá chỉ tiêu ban đầu của chúng tôi, đã vượt quá mục đích đó, và các con hãy nhận lòng biết ơn của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng là chính các con cũng cảm thấy hội nghị này đã nâng tâm thức mình lên cao hơn cả kỳ vọng ban đầu của mình.

Chắc chắn bây giờ sứ giả này có thể thư giãn, như ông thường làm sau những buổi hội thảo như thế này, và ông kinh ngạc nhìn vào số lượng giáo lý mới mà chúng tôi ban truyền. Đôi khi ông cảm thấy rất nhiều lời dạy đã được đưa ra, và ông tự hỏi, không hiểu làm sao chúng tôi lại có thể đưa ra nhiều thêm nữa như vậy, nhưng ông luôn vui mừng khi được trải nghiệm nhiều bài giáo lý mới và chúng tôi thì luôn luôn sẵn lòng đưa ra nhiều hơn. Chúng tôi hy vọng các con đã có cùng trải nghiệm đó, đã vui mừng được chiêm nghiệm dòng chảy của Tánh linh và sự trải bày của những ý tưởng này. Ta hy vọng một số các con có thể đã cảm thấy là mình vừa nhận được một điều gì đó mà mình không yêu cầu. Nhưng con đã chỉ nhận được những gì con không yêu cầu một cách ý thức, chứ trong tiềm thức, chắc chắn là con đã yêu cầu. Và điều đó, một lần nữa, chúng tôi thật biết ơn. Và như vậy, ta niêm các con, ta niêm hội nghị này trong sự an bình vui mừng của Phật.

Mối quan hệ trực tiếp của con với các chân sư thăng thiên

Bài truyền giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 5/9/2021, nhân Webinar 2021 cho Hoa kỳ – Hướng tới các quan hệ Thời Hoàng kim.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

TA LÀ với an bình. TÀ LÀ trong an bình. TA LÀ sự an bình. Ta truyền giảng từ an bình. Làm sao có thể có vũ lực trong Phật? Điều này thật không thể, vì Phật vượt khỏi vũ lực. Phật không phản vũ lực mà vượt lên trên vũ lực.

Phật biết gì về các mối quan hệ? Chẳng phải là khi ta còn hiện thân, ta đã bỏ lại vợ hiền cùng con thơ, bỏ lại mọi người để ra đi sống trong rừng giữa thú hoang lẫn con người hoang dại? Đúng vậy, nhưng Phật đã làm gì trong cuộc đời sau đó? Chẳng phải là ta đã thiết lập một cộng đồng và quy tụ các đệ tử đến học từ Phật?

Cho nên ít ra Phật cũng biết đôi điều về mối quan hệ giữa thày và đệ tử. Và tất nhiên trong tư cách một chân sư thăng thiên, ta cũng biết đôi điều về mối quan hệ giữa chân sư thăng thiên và những sinh thể chưa thăng thiên trên địa cầu. Chúng ta hãy bàn về mối quan hệ này. Bởi vì như các thày đã có nói, các thày không hẳn mong con tìm thấy một vị đạo sư trong cõi vật lý, mà hơn thế các thày mong muốn con có khả năng nhận được sự hướng dẫn ngay trong nội tâm của con từ các chân sư thăng thiên.

Việc khám phá mối quan hệ tốt nhất với các chân sư thăng thiên sẽ đòi hỏi nơi con những gì? À, trước hết, con cần suy ngẫm rào cản lớn nhất cho một mối quan hệ trực tiếp với chân sư thăng thiên là việc sùng bái thần tượng. Thần tượng hóa là khi con đặt một ai đó lên làm thần tượng, ở một địa vị cao hơn con đến độ nhân vật đó vượt khỏi tầm với của con.

Vị sứ giả này sống ở vùng quê và khi ông lái xe ra thành phố, ông thường đi ngang một cơ sở Phật giáo, một trong vài cơ sở hiện diện trên đất Đan mạch này. Sau nhiều năm lái xe ngang qua đó, một hôm ông quyết định tra cứu trên mạng internet xem cơ sở này như thế nào. Ông ngạc nhiên tìm ra là cái nhìn của họ về Phật rất khác với những gì ông thường nghĩ người Phật tử nhìn Phật. Họ có cái nhìn rất sùng bái về ta. Không những họ nghĩ rằng ta thật đặc biệt ngay từ lúc sinh ra đời mà ta còn đặc biệt trước cả khi sinh ra đời. Ta thuộc về một hạng người hoàn toàn cách biệt khỏi mọi người khác trên địa cầu, và đó là tại sao ta đã có thể là vị thày độc nhất vô nhị này, tại sao Phật giáo là tôn giáo độc nhất vô nhị sẽ dẫn con người đến một cõi cao siêu hơn.

Sứ giả này thấy rõ chính cách nhìn thần tượng hóa này đã ngăn chặn các Phật tử đó có được một mối quan hệ cá nhân với đức Phật đích thực, vì họ chỉ có thể tương tác với thần tượng mà họ đã tạo ra trong tâm họ. Làm sao họ có thể thực sự bước theo lời dạy chân chính của Phật, và lời dạy chân chính của Phật là gì chứ? À, chẳng phải là ta đã dạy mọi thứ đều là Phật tánh hay sao? Tất cả mọi thứ đều mang Phật tánh ở bên trong. Mỗi con người đều có Phật tánh trong bản thân mình, và điều này có nghĩa là mỗi người đều có tiềm năng trở thành Phật.

Nhưng làm thế nào con trở thành Phật đây? Bằng cách học hỏi và nhận linh hứng, bằng cách đi theo tấm gương của Phật cho tới khi con trở thành một với Phật. Nhưng làm sao con có thể trở thành một với Phật nếu con nghĩ Phật ở quá cao trên con đến độ Phật thuộc về một phạm trù hoàn toàn riêng biệt?

Con thấy đó, trên hành tinh này có một truyền thống rất, rất lâu đời sùng bái thần tượng kiểu đó. Tất nhiên, nó do sa nhân tạo dựng. Sa nhân là những kẻ muốn tự đặt mình vào một phạm trù mà trong cơ bản khác hẳn mọi người khác trên địa cầu. Theo một nghĩa nào đó, đúng là chúng khác mọi người vì tâm thức của chúng thấp hơn hẳn mọi người trên trái đất, nhưng điểm này không khiến chúng đặc biệt mà chỉ khác biệt mà thôi. Chắc chắn nó không khiến chúng cao trội hơn, mặc dù chúng tin là chúng có trí tuệ và hiểu biết cao siêu hơn, hay ngay cả trong một số trường hợp, một số khả năng vượt trội do chúng đã có nhiều thời gian hơn để rèn luyện các khả năng này.

Con thấy sự thần tượng hóa này – được tìm thấy trong biết bao tôn giáo – thật ra là điều mà sa nhân mơ ước. Chúng mới là kẻ mơ ước được thờ phượng y như nhiều người thờ phượng Thượng đế vậy. Chúng là những kẻ muốn trở thành thần thánh trên trái đất, thậm chí loại thần thánh ở cõi bản sắc được con người tôn thờ như những kẻ tự thân đã siêu đẳng – một hạng người đặc biệt mà không ai có thể với tới. Điều này khiến chúng cảm thấy chúng thật đặc biệt, trong khi một chân sư thăng thiên thì không hề có mong muốn cảm thấy mình đặc biệt, không có nhu cầu cảm thấy đặc biệt, thậm chí còn không nghĩ tới chuyện đặc biệt hay có gì đặc biệt nhiều hay ít.

Là học trò của chân sư thăng thiên, con có thể quán chiếu những ý tưởng này. Con có thể nhìn vào bất cứ tôn giáo nào mà con đã lớn lên trong kiếp sống này. Con có thể nhìn vào những tôn giáo mà con đã tiếp cận trong tiền kiếp và nhận diện hiện tượng sùng bái đó. Con có thể nhìn ra làm thế nào những tôn giáo gọi là độc thần (monotheistic) tuyên bố Thượng đế của họ mới là cao trội, và đồng thời họ gán cho Thượng đế này một số đặc tính kỳ thực chỉ phản ánh cái tâm lý chưa giài quyết của chính họ. Con người phóng chiếu ra là Thượng đế cũng giống như họ vậy, cho nên đó là một thượng đế nóng giận ở trên trời, đó là thượng đế thù hằn có ý muốn đập tan mọi kẻ thù và đày đọa những ai cả gan chống đối vào nỗi thống khổ triền miên nơi địa ngục.

Rõ ràng một số những điều trên phát xuất từ sa nhân vì chúng là kẻ muốn tiêu diệt hay trừng phạt bất cứ ai chống lại chúng. Con thấy được ở đây, con có thể bắt đầu nhận diện ở đây ảnh hưởng của sa nhân trên các tôn giáo trên địa cầu to lớn đến chừng nào, ngay cả trên nhiều khía cạnh của đạo Phật. Khi con làm vậy thì con có thể khởi sự giải tỏa những ảo tưởng đó khỏi tâm mình. Con còn có khả năng nhận ra là trong những kiếp trước, con đã từng tiếp xúc với hình thức tôn giáo này, với hậu quả là con đã gây dựng một số ngã tách biệt.

Có một thời điểm sứ giả này đã nhận biết là mình mang một cái ngã tách biệt – mà vào thời đó ông chưa gọi là ngã tách biệt – nhưng ông mang trong tâm lý của ông một khía cạnh sợ hãi xúc phạm Thượng đế. Ông sợ mình có thể nói ra hay thậm chí nghĩ ngợi một số chuyện sẽ khiến cho Thượng đế phật lòng. Khi đó ông đã là một đệ tử của chân sư thăng thiên trong một đợt truyền pháp trước, nhưng ông đã bỏ ra một thời gian khá dài vật lộn với ảo tưởng này trước khi ông nhận ra thượng đế đó không thể nào là Thượng đế đích thực. Cái đó bắt buộc phải là một thượng đế giả, vì thực sự, làm thế nào Thượng đế đích thực lại có thể bị xúc phạm bởi bất cứ điều gì trên trái đất?

Thế rồi ông chứng nghiệm được Thượng đế đích thực, Đấng Sáng tạo đích thực vượt khỏi mọi hinh tướng như ông từng mô tả trong một số bài viết của ông. Lý do ông mở tâm ra với sự chứng nghiệm này là vì ông đã vật lộn với hình ảnh Thượng đế đó. Ông đã từng vật lộn với hình ảnh một Thượng đế nóng giận xét đoán, một Thượng đế xa vời ở trên trời muốn được thờ phượng và có khả năng bị con người làm tổn thương. Ông ngộ ra là một sinh thể ở cõi tâm linh không thể nào thực sự bị bất cứ hành vi nào của con người trên trái đất làm cho tổn thương. Làm sao chuyện này có thể hữu lý được khi sinh thể đó vượt khỏi mọi điều trên trái đất? Cho nên ông ngộ ra vị thượng đế có thể bị xúc phạm đó cũng chỉ là sự phóng chiếu của một tâm lý chưa giải quyết, mà nói cho cùng là tâm lý của sa nhân và cũng là tâm lý dễ bị xúc chạm của rất nhiều người trên địa cầu.

Nếu con nhìn sự kiện các tôn giáo độc thần đều bắt nguồn ở vùng Trung Đông, con có thể thấy là ngay cả ngày nay, rất nhiều người ở Trung Đông rất dễ bị xúc chạm. Họ vô cùng nhạy cảm và dễ bị nhục mạ khi có ai đó nói điều gì mà họ cho là không được nói ra. Họ nổi giận, trở nên hằn học và mong muốn trừng phạt những ai làm nhục họ như vậy. Đây là những đặc điểm của một nhóm người đặc thù được chính họ phóng chiếu lên hình ảnh của họ về Thượng đế.

Một khi con nhận ra vấn đề này trong các tôn giáo lớn, con có thể bắt đầu xem xét mối quan hệ của con với các chân sư thăng thiên. Con có thể nhận ra thử thách lớn nhất mà các thày phải đối mặt trong tư cách chân sư thăng thiên là các đệ tử của mình không phải là những tờ giấy trắng tinh khi họ đến với giáo lý. Các con đều đến với một loại gốc tích, một loại hành lý nào đó, các con đã tiếp xúc với một hay nhiều tôn giáo khác nhau, cả trong kiếp này lẫn các kiếp trước. Con đến với một số kỳ vọng và định kiến, con đến với một cái nhìn nhất định về một sinh thể tâm linh là như thế nào và phải như thế nào.

Và nếu con sẵn lòng, con có thể nhận ra là các quan điểm mà con đã khoác vào về Thượng đế cùng các sinh thể tâm linh là sự phản ánh của chính tâm lý chưa giải quyết của con. Con có thể nhận ra hạn chế lớn nhất mà các thày phải đối mặt khi cố giúp con phát triển tâm linh, tất nhiên, là sự phóng chiếu đó đến từ tâm lý chưa giải quyết của con.

Khi con mang một tâm lý chưa giải quyết mà con phóng chiếu lên các thày, và khi một khía cạnh của tâm lý chưa giải quyết đó là con cho rằng các thày toàn hảo và do đó cái nhìn của con về các thày cũng toàn hảo, thì làm thế nào con có thể giải thoát mình khỏi điều này đây? Đó là một thế tiến thoái lưỡng nan. Có hai quan điểm đang khóa sừng chống chọi nhau trong bài toán nan giải này, vì làm thế nào con có thể nhận ra rằng quan điểm của mình về chân sư thăng thiên là giới hạn nếu con nghĩ các thày toàn hảo và cái nhìn của con cũng toàn hảo, hoặc nếu con nghĩ các thày sẽ bị xúc phạm nếu con chất vấn cái nhìn của con về chân sư thăng thiên? Nhiều các con mang cảm nhận vi tế là con không thể chất vấn cái nhìn của mình về chân sư thăng thiên vì con nghĩ đó không phải là một cái nhìn, mà con nghĩ các thày là y như vậy, và con nghĩ các thày sẽ bị xúc phạm nếu con chất vấn cái nhìn của con về các thày.

Một lần nữa, con yêu dấu, các thày đã thăng thiên. Các thày không hề bị xúc phạm bởi bất cứ gì trên trái đất. Không có gì con làm, nói, nghĩ hay cảm thấy có thể xúc chạm được các thày. Điều duy nhất các thày có thể làm nếu con ở trong một tâm thái khiến các thày không thể giúp con ngay lúc này là để yên cho con một mình. Nếu đệ tử của các thày cần nhận thêm nhiều cú giáng từ Trường đời Cay đắng, thì đôi khi các thày phải để yên họ một thời gian cho tới khi họ nhận đủ những cú giáng rồi mở tâm ra để các thày lại có thể giúp được họ trực tiếp hơn.

Nhưng điều này không có nghĩa là các thày bị xúc chạm. Các thày không bị xúc chạm khi bị con từ chối hay làm ngơ. Các thày không thể bị bất cứ gì xúc chạm. Con có thể nghĩ các thày có thể bị như vậy, con có thể phóng chiếu ra là các thày có thể bị như vậy, con có thể cảm thấy là mình đã xúc chạm các chân sư và do đó con không xứng đáng được tiếp xúc với chân sư. Cho nên con chui vào cái hang nhỏ nơi con cảm thấy buồn rầu tủi thân, và con phóng chiếu lên các thày rằng các thày mới là kẻ đang trừng phạt con vì con đã hư đốn chất vấn một tâm ảnh do chính con tạo ra về các thày. Nhưng các thày nhìn thấy rất rõ các tâm ảnh của con. Và làm sao các thày có thể bị xúc phạm khi con chất vấn một hình ảnh không liên quan gì đến bản thể thực của các thày – ngay cả trong trường hợp không thể xảy ra là các thày có thể bị xúc phạm?

Một lần nữa con thấy đó, các thày không thể giận hờn. Điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là như đã nói nhiều lần, các thày ở trong một trạng thái tâm thức khác hẳn trong bản chất so với tâm thức của con người chưa thăng thiên. Ta cũng biết đây là một khái niệm thật trừu tượng, ta biết là con không thể nắm bắt được hoàn toàn khi con vẫn con đầu thai, nhưng ít nhất nhiều người trong số các con có thể bắt đầu hé thấy, bắt đầu có một trải nghiệm nào đó về trạng thái tâm thức của các thày, giống như sứ giả này đã trải nghiệm khi ông nhận bài truyền đọc, hay giống như con có thể trải nghiệm khi con lắng nghe bài truyền đọc hay con thiền quán về các thày trong tim con. Và một khi con có trải nghiệm đó, con có thể đạt đến một chứng nghiệm, và ta sẽ cho con chứng nghiệm này từ bên ngoài, nhưng nó sẽ chỉ thực sự có giá trị đối với con khi nào nó cũng đến từ bên trong.

Chứng nghiệm đó là như sau – mối quan hệ của con với chân sư thăng thiên sẽ không giống như mối quan hệ của con với con người. Hạn chế lớn nhất mà các thày phải đối diện khi thiết lập mối quan hệ trực tiếp với con là sự kiện con chụp lấy cách nhìn của con về quan hệ con người rồi chuyển nó sang các thày. Cho nên ví dụ, nhiều các con có thái độ là nếu con là đệ tử của chân sư thăng thiên, nếu con muốn quan hệ trực tiếp với các thày, thì có một số điều con phải làm hay không được làm, một số điều con phải nói hay không được nói, một số điều con phải cảm thấy hay không được cảm thấy, một số chuyện con phải nghĩ hay không được nghĩ.

Các thày đã chứng kiến, đặc biệt trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước, các đệ tử có thể trở nên gần như cuống cuồng, gần như điên loạn khi cố sức đáp ứng tất cả mọi đòi hỏi mà họ phóng chiếu ra là các thày đang phóng chiếu lên họ. Họ cứ tưởng chính các thày đang phóng chiếu tất cả những yêu cầu đó lên họ. Nhưng những yêu cầu này dựa trên những quan hệ giữa con người bị ảnh hưởng nặng nề bởi tâm thức sa ngã, những cái “phải làm” và những cái “không được làm”, ý thức nghĩa vụ và bổn phận, ý thức mình phải trung thành với người khác, vân vân và vân vân.

Nhưng các thày không mang tâm lý của người phàm, các thày không có tâm lý sa ngã. Tại sao con lại cho rằng các thày phản ứng giống như sa nhân hay cư xử giống như con người? Điều này không hữu lý, không lô-gíc chút nào, và khi con bắt đầu suy ngẫm thì con sẽ có khả năng lần lần thoát mình ra khỏi nó, có nghĩa là ít ra con có thể khởi sự đáp ứng được yêu cầu duy nhất để bắt liên lạc với các thày, đó là một tâm cởi mở, một tâm trung hòa.

Trong tâm con phải có khoảng trống để các thày bước vào, và nếu con cứ mang những cái “phải” và những cái “không được”, những quan điểm cố định, cái nhìn sùng bái thần tượng nói trên, thì đâu là khoảng trống đây? Các thày sẽ không cưỡng ép con, các thày sẽ không hiện ra trong một dạng thị hiện không thể nào chối cãi, ngoại trừ trong một số trường hợp thật hiếm hoi khi việc này nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, là một điều mà con đã quyết định trước khi đầu thai trong kiếp này.

Các thày sẽ không bao giờ vi phạm quyền tự quyết của con người, cho nên các thày sẽ chỉ bắt liên lạc với một sinh thể chưa thăng thiên khi trong tâm con có khoảng trống để các thày bước vào, và điều này không có nghĩa là con phải có một ý định ý thức muốn liên lạc với các thày. Các thày đã chứng kiến nhiều đệ từ tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên rồi họ quyết định: “À, tôi muốn một trải nghiệm trực tiếp, một sự tiếp xúc trực tiếp với các chân sư, tôi muốn nhận được một thông điệp cá nhân từ chân sư,” thế rồi họ nghĩ họ phải làm chuyện này chuyện nọ, phải đọc bài chú, phải cầu nguyện, phải thỉnh gọi các thày. Họ trở nên gần như cuống cuồng, gần như điên loạn làm những chuyện mà họ nghĩ họ cần phải làm để có liên lạc trực tiếp đó.

Nhưng họ đang làm gì chứ? À, họ đang chất đầy tâm họ với tất cả những hoạt động đó, tất cả những ý nghĩ đó, tất cả những lời cầu đó, tất cả những hình dung đó khi họ tưởng tượng việc liên hệ trực tiếp với các thày sẽ tuyệt vời đến chừng nào, khi các thày ban cho họ những khả năng đặc biệt như thế nào, và giờ đây họ trở thành đặc biệt đến làm sao, họ sẽ thực hiện bao điều kỳ diệu mà ai nấy đều ngưỡng mộ, hay bất kỳ mơ tưởng nào mà con người có thể nghĩ đến. Và như vậy, càng ngày họ càng lấp đầy tâm họ với nhiều tiếng ồn ào hơn. Đâu là sự tĩnh lặng, đâu là khoảng trống để các thày bước vào? Cho nên các thày phải lui lại, chờ cho tới khi có lẽ họ sẽ mệt mỏi, sẽ chán ngán tất cả những hoạt động cuồng nhiệt đó, cho tới khi một khoảnh khắc tĩnh lặng hiện ra và đột nhiên mối liên lạc với chân sư thăng thiên xảy đến.

Bây giờ, một thử thách lớn khác mà các thày phải đối diện trong quan hệ với một đệ tử chưa thăng thiên là, tất nhiên, nhiều người chờ đợi việc tiếp xúc với chân sư thăng thiên phải là một trải nghiệm tột đỉnh tuyệt vời, ấn tượng, siêu phàm. Và đúng thế, một số đã có trải nghiệm như vậy, nhưng rất, rất hiếm hoi trải nghiệm đó đến từ chân sư thăng thiên. Họ đã có một cảm giác kịch tính dữ dội như vậy là do, như các thày đã giảng, sự tương phản to lớn giữa trải nghiệm đó và trạng thái tâm thức bình thường của họ. Nhưng thực tế là các thày không hề tìm cách cho con những trải nghiệm ngoạn mục tuyệt vời.

Các thày cố gắng cho con một khung tham chiếu để con thẩm định trạng thái tâm thức hiện thời của con. Các thày cố gắng cho con một sự hướng dẫn có thể giúp con bước lên bước kế tiếp. Cho nên nếu con đang ở tầng tâm thức thứ 60, các thày sẽ cố cho con một xung lực giúp con vươn lên tầng 61. Các thày không tìm cách cho con một loại trải nghiệm tột đỉnh ngoạn mục nào đó mà con có thể có ở những tầng tâm thức cao hơn vì con chưa sẵn sàng nhận lấy, và hầu hết mọi người nếu họ kinh qua trải nghiệm này sẽ cảm thấy choáng ngợp. Sứ giả này đã có được trải nghiệm Thượng đế vô hình tướng vì ông đã sẵn sàng, nhưng ông vẫn tốn nhiều năm trời để suy nghiệm và thể nhập trải nghiệm đó.

Cho nên nói chung, con thường không có trải nghiệm ấn tượng, siêu phàm đó khi tiếp xúc trực tiếp với các thày. Thật ra nhiều người đã nhận được một sự hỗ trợ trực tiếp từ các thày mà không hay biết nó đến từ đâu vì nó có vẻ quá bình thường, nó quá tầm thường đối với họ. Vì vậy con có thể bắt đầu nhìn xem kỳ vọng của con là gì trong việc quan hệ với chân sư. Con có thể bắt đầu xem xét liệu con có mang những kỳ vọng thiếu thực tế đó, những mong muốn trải nghiệm đặc biệt khiến mình cảm thấy mình là đặc biệt, và cũng khiến người khác cảm thấy con là người đặc biệt vì họ đã không có được trải nghiệm đó. Xuyên qua các đợt truyền pháp khác nhau, nhiều đệ tử đã ấp ủ giấc mơ này – là ảo giác mình vĩ đại cao quý khi mơ ước đạt được những khả năng đặc biệt sẽ khiến người ta nể phục, ngưỡng mộ mình. Và không cứ tất cả các đệ tử đó đều là sa nhân mặc dù một số là sa nhân.

Ta đoán con cũng biết là khi một sa nhân đang hiện thân tìm được một giáo lý của chân sư thăng thiên, sa nhân đó chỉ nhìn vào giáo lý cùng các chân sư với ý định: “Làm thế nào cái này có thể giúp tôi ra vẻ là người đặc biệt? Làm thế nào nó khiến tôi cảm thấy đặc biệt? Tôi có thể dùng giáo lý này như thế nào để cất mình lên cao hơn?” Tất nhiên, đó không phải là động lực mà hầu hết các con đều có, nhưng chắc hẳn con có mang một số ngã từ tiền kiếp khi con hứng chịu sự hiếp đáp của sa nhân khiến con tạo ra một số ngã muốn đền bù bằng cách nâng mình lên cao, bằng cách tỏ ra đặc biệt hơn người, hay bằng cách đạt một khả năng nào đó hầu chứng minh sa nhân sai trái. Có thể có những cái ngã đủ loại giống như vậy, và khi con tìm ra giáo lý của chân sư thăng thiên thì những ngã này sẽ muốn dùng giáo lý để thực hiện kỳ vọng của chúng – nhưng tất nhiên đây là một kỳ vọng rỗng tuếch. Cácc thày sẽ không bao giờ cho con cái đó, vì nếu các thày cho con thì chuyện gì xảy ra chứ? Ngã sẽ càng được củng cố, và con sẽ càng đồng hóa nhiều hơn với ngã, khiến con càng khó lòng tách ra khỏi nó và cho nó chết đi.

Cho nên con nhận ra ở đây là các thày, các chân sư thăng thiên, không cảm thấy mình đặc biệt. Tại sao vậy? Con có thể bảo: “Nhưng chẳng phải các chân sư đặc biệt lắm hay sao? Chẳng phải các chân sư ở trong một trạng thái tâm thức cao hơn con người chưa thăng thiên hay sao?” Và đúng thế, các thày có như vậy thật, nhưng vì sao các thày lại ở trong trạng thái tâm thức cao hơn đó chứ? Bởi vì các thày đã thăng vượt nhị nguyên. Cảm nhận mình đặc biệt có thể có mặt ở đâu chứ? Chỉ có thể trong cõi nhị nguyên, vì khi có ai đặc biệt thì điều này ngụ ý một sự so sánh giữa những người đặc biệt và những người không đặc biệt, và đó chính là cốt lõi của nhị nguyên – cái thang điểm đó, sự tương phản đó, sự xét đoán giá trị đó.

Các thày đã thăng vượt cái đó rồi. Thậm chí các thày còn không nghĩ tới chuyện đặc biệt. Các thày không nhìn thấy con là người kém cỏi, thiếu sót hay tội lỗi. Các thày không tìm cách trừng phạt con dù bằng cách nào đi nữa, các thày không tìm cách khiến con cảm thấy xấu hổ. Các thày không tìm cách khiến con phải nhận tội hay khai tội. Các thày chỉ cố giúp con thăng vượt tất cả cái tâm thức phàm phu đó. Cho nên các thày chỉ có một mục đích, một mong muốn thôi là giúp con thăng vượt mức tâm thức hiện thời của con và cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con thăng thiên. Không hề có một mong muốn nào khác.

Ta cũng biết là trong các đợt truyền pháp trước đã có trọng tâm đặt vào việc phụng sự thày Saint Germain và đem lại thời hoàng kim, và ở đây con cũng có thể nói là các thày có đặt một chút trọng tâm vào công việc này. Tất nhiên là các thày mong muốn con phụng sự, nhưng chỉ khi nào đó là một việc con đã quyết định trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Các thày không tìm cách ép buộc con làm vậy. Các thày không tìm cách khiến con cảm thấy là mình bắt buộc phải làm, mình có bổn phận đối với chân sư. Các thày không tìm cách khiến con cảm thấy là con phải làm chuyện này và không được làm bất cứ gì khác, nhất là bất cứ gì thú vị.

Con thấy là trong tôn giáo, trong các giáo lý tâm linh, có một truyền thống rất lâu đời cho rằng thế giới tự thân nó xấu xa, rằng các sinh hoạt thế tục là tội lỗi, rằng chúng khiến con xao lãng mà xa rời việc tăng triển tâm linh, vân vân và vân vân. Và điều này đã tạo ra cái tư duy mà nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên bị lạc vào, kể cả sứ giả này trong những năm đầu. Con nghĩ, bây giờ con đã tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên thì con phải tập trung tất cả chú ý của mình vào chuyện này, con phải chú tâm vào việc phụng sự, dù là qua các bài chú hay một cách nào khác, và con không được làm bất cứ gì khác, bất cứ gì đem lại thú vị cho con. Con phải làm tối thiểu để kiếm kế sinh nhai hay làm tròn bổn phận đối với gia đình, nhưng con không được làm bất cứ gì để tìm niềm vui thú.

Đấy như các thày đã nói, con đã thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng từ một mức tâm thức cao hơn mức hiện tại của con. Nếu con đã quyết định là có một số trải nghiệm con muốn kinh qua vì các thày sẽ giúp con sạch hết lỗi lầm để sẵn sàng bước tới, thì không những đó là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng mà đó còn là một hoạt động vô cùng tâm linh cho con. Chúng sẽ chỉ thúc đẩy chứ không cản trở sự tăng triển tâm linh của con. Cho nên con không thể mang thái độ trắng đen đó mà cho rằng mọi sinh hoạt thế gian đều là phản tâm linh và con phải kềm chế chúng lại. Đặc biệt con không nên có thái độ đó.

Ta nhận thấy là ta đang sử dụng các từ “phải” với “không được”, nhưng dù sao đi nữa, thật sẽ không xây dựng cho con nếu con mang thái độ là các thày đang áp đặt con phải làm gì hay không được làm gì, rằng các thày đang bắt con không được cho phép mình hưởng thụ mà chỉ được sống tối thiểu cuộc đời thế gian, và con không được thực sự hưởng thụ vì như vậy sẽ chứng tỏ con không phải là người tâm linh. Con yêu dấu, con không cần chứng tỏ cho các thày rằng con là người tâm linh, và con không cần chứng tỏ điều đó qua hoạt động vỏ ngoài. Các thày đã chứng kiến những người tìm ra giáo lý chân sư, gia nhập một tổ chức rồi bỏ ra không biết bao nhiêu giờ đọc chú, tham dự hội nghị, tham dự các buổi lễ và tất cả những thứ đó. Họ tuân thủ tất cả những thứ vỏ ngoài đó nhưng họ không vui thú. Không có niềm vui nào trong việc làm đó mà họ chỉ làm do bổn phận.

Đâu là cái tư duy đằng sau cách hành xử như vậy? Đó là điều các thày đã từng đề cập, là sự kiện nhiều người mộ đạo tìm cách mặc cả với Thượng đế. “Chúa ơi, con đang thờ phượng ngài như một tín đồ ngoan đạo. Con đang xưng tội với ngài đây. Con không đang làm gì thú vị cả. Con đang sám hối. Con đang làm đúng tất cả mọi điều quy định, và Chúa ơi, khi nào con làm vậy đủ lâu, khi nào con đã khiến mình bị đau đớn đủ nhiều, thì đương nhiên ngài sẽ phải cho con lên thiên đàng.” Nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã tìm cách mặc cả với các thày: “Khi nào con đọc xong tất cả các bài chú này để cứu nguy thế giới, khi nào con tự chế không làm tất cả những chuyện kia, thì thày phải cho con thăng thiên,” hoặc “thày phải biến con thành một người đặc biệt,” hoặc “thày phải cho con một chứng ngộ gì đó.”

Con yêu dấu, con không thể mặc cả với chân sư thăng thiên. Tại sao con không thể? Trước hết vì như các thày có nói, con không thể dùng vũ lực để xông lên thiên đàng. Nhưng thêm vào đó, vì các thày không muốn thấy con tìm cách dùng vũ lực xông lên thiên đàng, vì các thày biết rõ cách duy nhất để thăng thiên là buông bỏ. Một lý do nữa là muốn mặc cả, phải có điều gì đó mà cả hai bên đều mong muốn. Nhưng trên địa cầu liệu có điều gì mà một chân sư thăng thiên có thể mong muốn hay chăng?

Biết bao nhiêu các con đã bị cái nhìn tôn giáo truyền thống kia ảnh hưởng và cho rằng Thượng đế, đấng Thượng đế tối cao của vũ trụ, cần được thờ phượng bởi những con người trên hành tinh nhỏ bé này, và do đó họ phải đến nhà thờ mỗi chủ nhật, phải quỳ gối và lẩm nhẩm những lời cầu nguyện đã được định sẵn, như thể Thượng đế cần chuyện đó, như thể ngài cần sự chú ý hay năng lượng của con người. À, ai mới là kẻ cần đến chú ý và năng lượng của con người? Sa nhân, tà lực, là những kẻ không có khả năng tự mình nhận được năng lượng từ một nguồn cao hơn.

Các thày đã thăng thiên là vì các thày nhận năng lượng trực tiếp trong bản thể mình từ một nguồn cội cao hơn. Các thày tự đủ. Các thày không cần bất kỳ năng lượng nào từ ngoài mình. Các thày không cần sự chú ý từ ngoài mình. Các thày có cần gì nữa hay muốn gì nữa chăng? Không gì nữa, tuyệt nhiên không có gì nữa. Một khi đã thăng thiên thì không cần gì nữa từ địa cầu. Các thày không cần con chú ý. Các thày không cần ai thờ phượng, cho nên làm sao con có thể mặc cả với các thày đây? Làm sao con có thể cống hiến điều gì để các thày nói: “Ừ há, người này đã cho ta điều ta muốn, cho nên ta sẽ cho người đó thăng thiên?” Làm sao các thày có thể cho con thăng thiên? Làm sao các thày có thể cho phép con thăng thiên? Đây hoàn toàn là sự chọn lựa tự quyết của con dựa trên sự buông bỏ mọi dính mắc với địa cầu.

Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là không có một khối lượng bài chú nào mà con có thể đọc để hội đủ tư cách thăng thiên. Điều này không có nghĩa là con không cần đọc chú để biến hóa năng lượng, nhưng tự thân bài chú không thể đưa con lên cõi thăng thiên, vì trong tâm con cần có một sự giải quyết, là buông bỏ mọi dính mắc, buông bỏ mọi ham muốn và đạt tới điểm con có thể ngoái nhìn lại trái đất mà không còn gì níu kéo con trở xuống đó. Con có thể ngồi dưới cây Bồ đề, con có thể nhìn tất cả ma quỷ của Mara, tất cả mọi thế lực của thế gian này diễn hành trước mắt, và cho dù chúng có làm gì, nói gì, bày ra những gì, cho dù chúng có làm gì với nhau, có làm gì tới con người, thì không có gì ở đây, không có gì trong đó mà con phản ứng lại.

Điều này không thể thực hiện được bằng vũ lực, không thể đạt được bằng bài chú, và không thể làm được bằng học tập. Con chỉ có thể đạt được qua một sự nhận biết nhạy bén giúp con nhìn ra các ảo tưởng và từ bỏ chúng. Đó là sự buông bỏ, buông bỏ, buông bỏ sau khi buông bỏ sau khi buông bỏ. Có lúc nào sự buông bỏ sẽ ngừng lại chăng? Có, sau khi con thăng thiên, nhưng ngay cả khi đó, con vẫn buông bỏ cái ý niệm bản sắc giới hạn như một chân sư thăng thiên để đạt đến một bản sắc cao hơn nữa như một chân sư thăng thiên. Các thày đã có nói là con thăng thiên trong tư cách Ki-tô, nhưng sau khi thăng thiên một thời gian, con có thể đạt đến mức quả vị Phật. Nhưng con chỉ làm được vậy bằng cách buông bỏ ý niệm bản sắc giới hạn để vươn lên một ý niệm bản sắc cao hơn.

Mối quan hệ các thày mong muốn là như thế nào? À, các thày mong muốn một mối quan hệ mà trước hết, con cởi mở để nhận được một điều gì đó từ các thày. Con mở tâm ra để nhận những gì các thày thấy sẽ giúp con vươn lên từ tầng tâm thức hiện thời của con lên tầng kế tiếp. Điều này có nghĩa là nếu con muốn như vậy từ các thày, con cần nhìn vào các kỳ vọng của con. Làm đệ tử của chân sư thăng thiên có nghĩa là gì, và quan hệ với các thày có nghĩa là gì? Con có thể nhận được gì từ các thày? Con muốn điều gì từ các thày? Con chờ đợi những gì? Liệu con chờ đợi như ta đã nói, một loại trải nghiệm siêu phàm nào đó khi con gặp chân sư? Liệu con chờ đợi các thày sẽ hiện ra trước mắt con và trao cho con những chỉ dẫn cụ thể sẽ khiến con cảm thấy mình thật đặc biệt, đặc biệt hơn người khác?

Nếu con có những kỳ vọng như thế thì chúng sẽ chặn nghẽn khả năng của các thày để giao tiếp với con một cách trực tiếp hơn, vì kỳ thực con sẽ làm ngơ hay bác bỏ những điều các thày nói. Con sẽ nghĩ: “Ồ, cái này không thể đến từ chân sư thăng thiên. Nó không đúng với kỳ vọng của tôi về những gì một chân sư thăng thiên phải nói với tôi, cách chân sư phải phát biểu như thế nào và phải hiện ra như thế nào.”

Một lần nữa, ở những mức sơ khởi trên đường tu, nhiều khi các thày sẽ không cho con một sự giao tiếp trực tiếp vì con không cởi mở với nó, cho nên các thày sẽ cố giao tiếp với con qua những người khác. Đó là vì sao nếu vị sứ giả là một con kiến thì con hãy lắng nghe nó, vì con chưa sẵn sàng nghe thấy các thày trực tiếp.

Nhưng vấn đề tệ nhất cho các thày, trở ngại khó khăn nhất cho các thày là loại đệ tử có thành kiến rất cố định về mối quan hệ của họ với các thày phải như thế nào. Trong một số môn phái Phật giáo, đặc biệt là Thiền tông, người ta có khái niệm “nắm chặt, giữ chặt lấy quan điểm của mình.” Đó là vì các vị thày Phật giáo đó nhận thấy nhiều người đến tu tập với quan điểm và niềm tin có sẵn, và họ cứ nắm chặt lấy như thể đó là chuyện sinh tử. Các vị thày đó đã nhận ra là loại học trò này không cởi mở.

Các thày đã nói điều này nhiều lần và ta sẽ nói lại một lần nữa, nếu con thực sự muốn có quan hệ với các thày, con hãy xem xét bản thân mình. Hãy xem xét quan điểm của mình. Liệu con có một số quan điểm thật kiên cố? Những quan điểm mà con bám lấy rất chặt? Mà con cảm thấy nhu cầu phải bênh vực? Mà con cảm thấy phải bác bỏ bất cứ ai chất vấn hay không chia sẻ quan điểm của mình? Liệu con có một ý tưởng rất, rất kiên cố về những gì một chân sư thăng thiên phải nói hay không được nói? Trong trường hợp đó, nếu con sẵn lòng thành thật với chính mình, con sẽ biết là con không cởi mở với một sự tương tác trực tiếp với các chân sư thăng thiên.

Suốt nhiều năm trời với những đợt truyền pháp khác nhau của chân sư thăng thiên, các thày đã chứng kiến một khuôn nếp nhất định cứ diễn đi diễn lại hoài hoài. Chẳng hạn các thày thấy một nhóm học trò – có thể là một nhóm học trò từ một quốc gia nào đó – và dựa trên văn hóa cùng lịch sử của quốc gia này, họ mang sẵn một quan điểm mà họ vô cùng gắn bó. Nó vô cùng quan trọng trong nền văn hóa của họ. Họ giữ chặt ý tưởng là nó phải đúng, do đó vì chân sư là bậc cao siêu chắc chắn phải biết rõ sự thật, cho nên chân sư không bao giờ được nói gì sẽ chất vấn điều họ tin là cái nhìn tối hậu về một sự việc nào đó.

Khi các thày nói ra một điều gì chất vấn niềm tin đó thì các thày từng thấy nguyên nhóm học trò xác quyết: “Ồ, sứ giả này không phải là sứ giả đích thực, bởi vì một chân sư thăng thiên đích thực không thể nào nói ra lời này.” Thế là họ rút ra khỏi giáo lý. Các thày từng thấy những cá nhân cũng hành xử tương tự bởi nhiều lý do khác nhau. Thường là vì trong tâm lý của họ, họ chạm trán với một điều gì mà họ không sẵn sàng xem xét hay từ bỏ, mà các thày thì lại nói ra những lời chất vấn cái đó, cho nên họ phải gạt bỏ lời nói của các thày. Có một số học trò đến với giáo lý của chân sư thăng thiên với một số ngã tách biệt mà họ không sẵn sàng xem xét, không sẵn sàng buông bỏ. Họ đã tạo ra một ngã tách biệt khác bảo rằng: “Tôi không phải từ bỏ điều này.” Họ không phải xem xét nó vì họ nghĩ người ta có thể thăng thiên mà không cần xem xét khía cạnh này của tâm lý mình. Họ tin rằng họ có thể làm những chuyện khác, chẳng hạn như nếu họ thỉnh đủ số lượng lửa tím thì họ sẽ không cần nhìn vào điều này trong tâm lý họ mà vẫn có thể thăng thiên.

Rất nhiều lần các thày đã nói gì? Con không thể thăng thiên với một tâm lý chưa giải quyết. Một chân sư thăng thiên không có tâm lý chưa giải quyết. Con thấy có những người bị phật lòng vì điều này. Đó là những người trong một đợt truyền pháp trước – khi có lời dạy được đưa ra là con có thể thăng thiên sau khi cân bằng 51% nghiệp chướng của mình – đã hiểu lời đó theo nghĩa đen, nghĩa là nếu có ai cân bằng được 51% nghiệp của mình thì người đó có thể thăng thiên, và một khi họ thăng thiên thì họ trở thành một chân sư thăng thiên. Nhưng nếu con biết một số người đã băng qua tấm màn cuộc đời sau khi được sứ giả đợt truyền pháp đó cho biết là họ đã cân bằng 51% nghiệp chướng, thì con sẽ dễ dàng thấy được là họ vẫn còn một số tâm lý chưa giải quyết. Điều mà họ không sẵn lòng xem xét là liệu họ có thể thực sự trở thành chân sư thăng thiên khi họ vẫn còn tâm lý chưa giải quyết? Hiển nhiên là không.

Có thể có ai đó đã cân bằng hơn 51% nghiệp của mình và không phải trở lại đầu thai, nhưng người đó vẫn phải bỏ ra một thời gian trước khi trở thành chân sư thăng thiên, vì trước tiên họ phải giải quyết xong tâm lý cái đã. Như Mẹ Mary có giảng, phần 51% nghiệp chướng là nghiệp con mang với người khác và phần 49% là nghiệp con mang với chính con dưới dạng tâm lý chưa giải quyết, nhưng phần này thì con có thể cân bằng mà không đầu thai. Đối với hầu hết mọi người, nếu họ ở trong hiện thân thì họ sẽ cân bằng nhanh hơn là khi đứng ngoài hiện thân. Nhưng đối với một số người, họ đã chọn làm vậy và do đó họ sẽ tốn một số thời gian.

Có người bám quá chặt vào những điều được nói trong các đợt truyền pháp trước đến độ họ đã chối bỏ khi các thày chất vấn điều đó trong đợt truyền pháp này. Họ chối bỏ sứ giả này. Họ chối bỏ các thày vì các thày không nói những điều mà họ nghĩ các thày phải nói.

Nhiều người khác trong các đợt truyền pháp khác nhau có cùng những dính mắc đó vào một số quan điểm, một số góc nhìn đến độ họ đến với giáo lý cốt yếu là để xác chứng các niềm tin kiên cố của họ. Và khi không nhận được xác chứng thì họ tìm ra một lý cớ nào đó để chối bỏ giáo lý.

Nhiều người bị rơi vào một khuôn nếp đặc trưng là họ tìm thấy một lời dạy, họ chấp nhận sứ giả là vị sứ giả của đợt truyền pháp đó, và họ tin đó là vị sứ giả đích thực nhận được lời truyền đọc từ chân sư thăng thiên. Nhưng rồi xuyên qua sứ giả, các thày chất vấn một trong những quan điểm mà họ không sẵn sàng từ bỏ hay tra vấn.

Thế là họ lý luận: “Ồ hỏng rồi, chuyện gì đã xảy ra cho sứ giả rồi. Khi chúng ta bước vào tổ chức này, chúng ta đã không sai lầm nhận định sứ giả này là vị sứ giả chân chính. Nhưng giờ đây có chuyện gì đã xảy đến và sứ giả này không còn là sứ giả chân chính nữa. Ông ấy hay bà ấy đã bị tước mất trách vụ và hiện đang liên lạc với hàng ngũ thày giả hay những kẻ mạo danh. Cho nên chúng ta phải rời tổ chức và bác bỏ bất cứ lời dạy nào từ một thời điểm nào đó trở đi.” Các thày đã chứng kiến sự kiện này mấy lần trong mấy đợt truyền pháp, mỗi lần đại khái với cùng những lập luận như thế. Và tại sao chứ? Bởi vì đó là cùng cái tâm lý chưa giải quyết nơi đệ tử khiến họ phải bác bỏ sứ giả hầu họ không phải nhìn vào cái đà trong mắt họ.

Đây là một điểm con có thể cảnh giác nơi chính mình, con có thể nhìn xem: “Liệu tôi có một niềm tin nào mà tôi bám chặt đến độ tôi không muốn các chân sư thăng thiên thách đố?” Và nếu con có mang loại niềm tin đó thì con có thể nói: “À, không thể nào chính tôi trong tư cách cái Ta Biết đang bám chặt lấy quan điểm đó, bởi vì cái Ta Biết không thể bám vào bất cứ quan điểm nào trên địa cầu, cho nên đây chỉ có thể là một cái ngã tách biệt. Và nếu tôi muốn tinh tiến, tôi sẽ phải xem xét ngã tách biệt này và đạt tới điểm có thể buông nó ra, buông cho nó chết đi, buông quan điểm đó và ngộ ra là phải có một cách hiểu biết cao hơn. Và tôi muốn hiểu biết cao hơn này thay vì cứ bám giữ cái hiểu biết giới hạn kia.”

Nói cho cùng, điều gì sẽ giúp con hội đủ tư cách để thăng thiên? Phải chăng là bám giữ ý tưởng của mình, ôm chặt lấy ý tưởng, hay là buông nó ra? Chỉ bằng cách buông bỏ thì con mới có thể trở về trạng thái mà cái Ta Biết đã đi xuống thế gian và do đó cũng sẽ thăng lên. Như Giê-su đã diễn tả thật hùng hồn cách đây 2000 năm: “Chỉ duy nhất con người đã đi xuống từ thiên đàng mới có thể thăng trở lại lên thiên đàng.”

Con muốn gì từ một mối quan hệ, từ mối quan hệ của con, mối quan hệ cá nhân của con với các chân sư thăng thiên? Con muốn gì? Không phải cái mà sa nhân muốn hay cái mà sa nhân muốn con muốn. Không phải cái mà người đời muốn hay cái mà họ muốn con muốn. Không phải cái mà tự ngã hay ngã tách biệt của con muốn hay cái mà nó muốn con muốn. Không, con muốn gì chứ? Ở mức tâm thức hiện thời của con, với mức nhận biết hiện thời của con, mức nối kết hay không nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, trải nghiệm hiện thời hay thiếu trải nghiệm của con về sự nhận biết thuần khiết, con muốn gì chứ? Con có muốn bước lên bực thang kế tiếp trên cái thang 144 bực? Nếu con muốn vậy thì cái cơ chế, cơ học của chuyện này thật giản dị. Ngay bây giờ con đang mang một ảo tưởng mà con không thể nhìn thấy. Chỉ bằng cách nhìn ra ảo tưởng đó và đón nhận một tầm nhìn cao hơn – cao hơn một chút thôi – thì con mới có thể vươn lên bước kế tiếp. Con không thể nhảy từ nơi con đang đứng lên thẳng tầng 144. Con phải đi qua tất cả mọi bước, từng bước một.

Con muốn gì chứ? Nếu con muốn sự tăng triển này thì con không thể nắm chặt vào các ý tưởng của mình. Con không thể nắm chặt vào ảo tưởng đã ngăn con vươn lên bước kế tiếp mà đồng thời lại vươn lên được bước kế tiếp. Con không thể ăn hết bánh mà lại vẫn còn bánh. Con không thể có được đức Phật của con mà lại thần tượng hóa đức Phật. Con không thể có được các chân sư thăng thiên của con mà lại phóng chiếu những đặc tính nhân phàm hay sa ngã lên chân sư thăng thiên. Đơn giản là có những thứ không thể đi đôi với nhau.

Các thày thấy có một số đệ tử không tin như vậy. Họ không chấp nhận điều đó, vì họ cả tin vào lời dối gạt của sa nhân rằng họ có thể tìm cách gian lận để lên thiên đàng. Một số sa nhân vẫn tin là chúng có thể tìm ra cách thay đổi quan điểm của Thượng đế vì chúng xem đó là quan điểm của Thượng đế, là sự phán xét của Thượng đế đối với chúng. Chúng nghĩ là ngài đã phán xét chúng, ngài đã cưỡng ép chúng phải sa ngã, và chúng phóng chiếu ra là một sinh thể bên ngoài đã gây chuyện đó cho chúng. Và do đó để quay trở về trạng thái cũ, chúng phải thay đổi sinh thể bên ngoài đó, phải thay đổi quan điểm cùng sự phán xét của sinh thể đó đối với chúng. Và chúng vẫn nghĩ là chúng có thể tìm ra cách làm chuyện này vì chúng vẫn chưa nhìn nhận là chính những chọn lựa của chúng mới khiến chúng sa ngã, và sự thay đổi duy nhất mà chúng cần làm là thay đổi các chọn lựa đó đi, thay đổi cái tâm lý đó đi.

Cho nên chính chúng mới cần thay đổi. Đây là một sự thay đổi nội tâm cần phải xảy ra, và không một nỗ lực gian lận hay khuynh đảo nào sẽ đem chúng lên thiên đàng. Và đối với các con cũng vậy, các đệ tử của chân sư thăng thiên. Con không thể khuynh loát các thày, con không thể đánh lừa các thày, con không thể mặc cả với các thày. Con không thể khiến các thày thương hại con. Tại sao như thế? Vì các thày không muốn con lên thiên đàng trong tư cách một con người – nếu giả dụ điều này có thể xảy ra.

Các thày muốn con trở thành chân sư thăng thiên như các thày đang là, và con chiêm nghiệm sự tự do cùng niềm vui không sao tưởng tượng nổi mà các thày đang cảm thấy, vì nó vượt khỏi mọi cảm giác mà con có được trên địa cầu. Các thày không thể nào truyền đạt được cảm giác này cho con, chắc chắn là không thể qua ngôn từ. Nhưng các thày hy vọng có thể trao cho con một hé thoáng là trên cõi thăng thiên có một điều gì đó mà con mong muốn hơn bất cứ gì trong tâm thức nhân phàm. Và làm thế nào con đạt được chứ? Bằng cách từ bỏ tâm thức nhân phàm. Yêu cầu chỉ có vậy thôi. Các dính mắc đều đến từ tâm thức nhân phàm. Chúng phải được buông bỏ. Con thử nhìn xem con có đang bám giữ cái gì không. Đâu là cách duy nhất để giải thoát khỏi cái đó? Nếu con cứ nắm chặt một cái gì trên địa cầu thì con cũng buộc chặt con vào địa cầu. Đâu là cách duy nhất để được tự do? Có phải đó là thay đổi một cái gì trên địa cầu hay là đơn giản buông tay ra và để cho nó rơi xuống?

Chính sự buông tay này sẽ giải thoát con khỏi dính mắc. Chừng nào con còn nắm chặt ý tưởng của mình, làm sao con có thể thoát khỏi chúng đây? Điều này không thể. Cho dù con có tìm cách thao túng thế giới, thao túng người khác, Thượng đế hay các chân sư thăng thiên đến chừng nào, thì con cũng không thể thoát ra được. Chỉ có một cách mà thôi, và để giúp con tìm đường trở về, các thày cống hiến cho con một mối quan hệ trực tiếp với các thày. Nhưng các thày không thể cưỡng ép con, các thày sẽ không cưỡng ép con. Con mới là người phải đáp ứng các yêu cầu bằng cách tiếp nhận lời dạy của các thày, đem ra áp dụng và buông những gì ngăn cách con với các thày.

Con không thể có một mối quan hệ trực tiếp với các thày xuyên qua tự ngã của con hay các ngã tách biệt, mà chỉ bằng cách vượt khỏi ngã tách biệt và ngộ ra sự nhận biết thuần khiết của con. Nhận biết thuần khiết là một tâm thái trung hòa. Nó không mang đặc tính những quan điểm kiên cố, quan điểm đối cực hay cảm xúc mãnh liệt. Ta là Phật. Ta trụ trong một tâm thái trung hòa so với tâm thái nhị nguyên. Đề mô tả nó đầy đủ, ta có thể dùng những từ khác, nhưng những từ này sẽ ích gì cho con? Ta sẽ mô tả là nó khác biệt với tâm thái của con để con có thể nhìn ra đây thực là cái con muốn. Trong số các con có ai là avatar thì đang mong mỏi trở về với tâm thái tự nhiên hơn mà con từng có trên một hành tinh tự nhiên. Và con có khả năng có được tâm thái này, con có thể có nó ngay trên hành tinh này nhưng chỉ khi nào con buông bỏ những gì đang ngăn cách con khỏi nó.

Với lời này, ta đã trao cho con những gì ta muốn trao trong bài truyền giảng này. Ta có thể nói nhiều hơn nữa, và rất nhiều điều hơn nữa sẽ được ban truyền. Sứ giả này đã nỗ lực tu tập trong một thời gian dài để sẵn sàng nhận được một lời dạy trực tiếp hơn từ ta, nó có thể sẽ được ban truyền trong một tương lai không quá xa. Ta có rất nhiều điều để trao cho con cùng những ai trên địa cầu cởi mở với một lời dạy trực tiếp từ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

Giờ đây ta cũng gửi lời cảm tạ của ta cũng như tất cả các thày đến tất cả các con đã tham dự buổi hội nghị này. Một lần nữa, các thày đã đạt được những gì các thày mong muốn đạt được, các thày đã vượt quá mức tối thiểu mà các thày mong muốn đạt được, qua số người cùng sự sẵn lòng của các con mở tâm ra, buông bỏ định kiến để nhận được lời dạy.

Các thày rất biết ơn điều đó. Một lần nữa, nó đã xoay chuyển tâm thức tập thể, nó đã giải thoát nhiều người là những con người sáng tạo hơn, cởi mở với các ý tưởng mới về quan hệ. Và với thời gian, nó sẽ tỏa rộng giống như những vòng tròn trên mặt nước và thực sự mở ra khả năng càng ngày càng có nhiều người hòa điệu với mối quan hệ của Thời Hoàng kim. Họ có khả năng mở tâm ra để thử nghiệm mối quan hệ này, và trải nghiệm một dạng quan hệ mới hơn và cao hơn không dựa trên vũ lực, mà dựa trên dòng chảy tự do của năng lượng sáng tạo của Thượng đế. Với lời này, ta biết ơn và niêm các con trong sự an bình hoan hỉ của đức Phật mà ta là.

Con đang chú tâm vào điều gì?

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 31/12/2020.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Địa cầu là gì? Địa cầu là gì? Địa cầu, tất nhiên, có thể mô tả bằng nhiều cách, nhưng một cách là coi địa cầu là một cuộc trình diễn như khi con đi xem phim hay xem kịch vậy. Nhiều người thời nay có internet, có truyền hình và phim ảnh, hiếm khi nào đi xem một vở kịch biểu diễn sống, và một số bạn trẻ thì chưa bao giở. Trong số các con nếu đã đi xem kịch nghệ đều biết rằng có những lúc diễn tiến vở kịch thay đổi đột ngột, có biến chuyển bất thần xảy ra trên sân khấu và bỗng nhiên con nghe thấy khắp cử tọa ồ lên một tiếng vì mọi người đều phản ứng đồng loạt với nhau.

Điều này cho con thấy tất cả khán giả đều bị lôi cuốn vào vở kịch đến độ họ quên bẵng mất là chỉ trước đó không lâu, họ đã sửa sọan ở nhà, tắm gội sạch sẽ, cạo râu chải đầu, mặc quần áo, lái xe đến rạp hát, đậu xe bước vào, đưa áo choàng cho người ta giữ, ngồi vào ghế, nhìn quanh xem có ai cũng đang đi xem kịch như mình, và vẫn tiếp tục lo nghĩ đến những công chuyện khác trong ngày. Nhưng khi vở kịch bắt đầu, mặc dù họ biết mọi diễn biến trên sân khấu đều là giả bộ, rằng đó chỉ là một câu chuyện gì đó do một kịch gia nào đó viết ra có thể là hàng trăm năm trước – họ vẫn từ từ bị lôi cuốn vào, rồi họ dồn hết tập trung tâm trí vào buổi trình diễn đến nỗi họ quên mất tất cả mọi chuyện khác. Họ quên hẳn lý do nào đã khiến họ vào đây ngồi, quên hẳn cuộc đời của họ ở ngoài rạp, và bây giờ họ bị cuốn hút vào những gì xảy ra trên sân khấu, và đó là lý do tại sao khi có biến chuyển ly kỳ trong vở kịch, họ đều phản ứng đồng loạt như thể một người.   

Con yêu dấu, đó là địa cầu đấy con. Ở khởi thủy, tất cả các con đều biết mình bước vào nơi đâu, tại sao các con bước vào đây để làm gì, các con biết rõ đây chỉ là cái máy giả thực tại, như ta đã từng gọi là như thế. Nếu con nhìn hành tinh hôm nay, con sẽ thấy là hầu hết mọi người, tuyệt đại đa số mọi người, đều giống như những khán giả kia ngồi trong rạp hát, quên hẳn họ đến từ đâu, quên hẳn là có một thế giới khác ở ngoài rạp hát. Họ quên mất là đang có những sự kiện khác đang xảy ra, rằng điều mà họ theo dõi chỉ là một câu chuyện đang biểu hiện ra trên sân khấu. Họ đã bị cuốn hút vào vở kịch, vào buổi trình diễn. Thay vì xem buổi trình diễn là một cái gì có thể giúp họ thăng tiến trong hiểu biết và chuyển vọt tâm thức mình, thì họ xem đó là sự thực, là thế giới thực, và mọi diễn biến trên sân khấu là những sự cố có thực.

Phải, ta biết là khi ta nói như vậy, và dĩ nhiên là ta cố tình nói vậy, nhiều người trong số các con sẽ có phản ứng. Họ sẽ nói, “Thày bảo con là thế gian không có thật, nhưng hàng triệu người đã bị nhiễm vi-rút corona trong năm vừa qua, nhiều người đã chết, không lẽ tất cả đều không thực hay sao?” Dĩ nhiên là không phải vậy! Khi con trong rạp hát, đó là một sân khấu, và trên sân khấu có người ta. Những người này đều thực. Họ có thể đang mặc trang phục trình diễn và hóa trang, nhưng họ là những người thực đang đóng một vở kịch.

Khi ta bảo những người kia đã quên là nó không thực, ta muốn nói họ đã quên là họ không phải là những con người, mà là sinh thể tâm linh. Các con hiện diện ở đây để trải nghiệm một cuộc trình diễn đang được biểu hiện trên địa cầu. Những gì xảy ra trên hành tinh có thể thực từ một góc cạnh nào đó, nhưng con không là một con người, con là một sinh thể tâm linh, con đang ở đây để có một trải nghiệm hầu chuyển đổi tâm thức mình. Tất cả mọi thứ xảy ra trên địa cầu chỉ là chuyện xoay chuyển tâm thức của con.

Khi Shakespeare ngồi vào bàn viết kịch, ông không có ý muốn giải trí người ta đâu. Ý của ông là xoay chuyển tâm thức người xem. Ông không đang tìm cách khiến cho người ta tin là có một Hoàng tử xứ Đan Mạch tên là Hamlet vì ông thừa biết là không bao giờ có người này. Ông chỉ muốn dẫn cử tọa qua một cốt truyện có khả năng chuyển đổi tâm thức của họ, và trái đất này cũng thế, trái đất chỉ là vậy thôi. Ta biết, điều này nghe có vẻ vô cảm khi nhiều người coi năm 2020 vừa qua là một năm đầy khó khăn.

Đương nhiên là năm qua đã vô cùng khó khăn cho nhiều người – các thày đâu có đui mù. Nhưng có điều, cái gì đây sẽ làm giảm bớt nỗi khó khăn của mọi người? Cái gì sẽ giúp cho mọi người đương đầu dễ dàng hơn? Có phải chỉ là chuyện an ủi và nói với họ là năm rồi quả là một năm tồi tệ? Hay là phải cho họ một góc nhìn khác? Vì các thày là chân sư thăng thiên, vai trò của các thày là gì? Vai trò các thày là cho mọi người một góc nhìn khác, đó là lý do duy nhất mà các thày có mặt trên hành tinh này. Các thày có mặt ở đây là để nhắc nhở mọi người rằng mặc dù các con sinh sống trên hành tinh trái đất, mặc dù các con đều có một xác thân vật lý bị tổn thương do những gì đang xảy ra, nhưng các con không thể bị định nghĩa bởi cõi vật chất, bởi xác thân vật lý, bởi ngoại tâm của con. Con là nhiều hơn tất cả những thứ đó.     

Điều này thực sự có nghĩa là gì? Thực sự có nghĩa là trong bản chất, con là cái mà ta gọi là tính nhân bản cốt yếu, là tiềm năng cho con vượt lên trên những trải nghiệm vỏ ngoài. Đâu là cốt lõi của tiềm năng này? Là cái phần của tâm con mà ta gọi là cái Ta Biết, hoặc con có thể gọi bằng bất kỳ tên nào con muốn, nhưng trong tâm con có một thành phần cho con cái khả năng, cho con quyền năng dừng lại và nói: “Tất cả những ý tưởng quấy phá đó, hãy ngừng lại.”  

  • Tôi sẽ lùi ra khỏi tình trạng ngoại cảnh trên địa cầu.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi tình cảnh của riêng tôi.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi xác thân tôi và mọi điều làm nó tổn thương.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi cảm thể của tôi và mọi rối loạn ở đó.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi trí thể của tôi và mọi ý tưởng về những điều tôi phải nghĩ, phải hiểu, phải biết.

Tôi sẽ lùi ra khỏi bản sắc thể của tôi và mọi xu hướng tự xem mình là một con người do ngoại cảnh định đoạt.

Tôi sẽ lùi ra cho tới khi tôi chiêm nghiệm – tôi kết nối được với cái phần của chính tôi, Hiện diện TA LÀ của tôi, cái ta tâm linh của tôi, là phần biết rõ và chưa bao giờ quên là nó không do trái đất này định đoạt.

Đây là bản chất nhân bản cốt yếu của con, cái thực chất nhân bản mà qua đó con có thể lùi lại một bước, có thể kết nối, có thể chiêm nghiệm rằng:

  • Tôi là nhiều hơn thế này.
  • Tôi là nhiều hơn những gì đang xảy ra trên địa cầu.
  • Tôi là nhiều hơn những gì đang xảy ra trong xác thân tôi.
  • Tôi là nhiều hơn sự rối loạn trong cảm thể của tôi.
  • Tôi là nhiều hơn những ý tưởng trong trí thể của tôi.
  • Tôi là nhiều hơn ý niệm bản sắc vỏ ngoài hay bản sắc làm người của tôi.
  • Ta là.

Và con không cần thêm bất cứ gì sau hai chữ “ta là”. Con có thể chứng nghiệm TA LÀ. Tôi có cái là. Tôi có nhận biết. Tôi có tự nhận biết.

Tự nhận biết có nghĩa là gì? Đối với rất nhiều người, nó có nghĩa là tôi nhận biết rằng tôi hiện hữu trong bản sắc này, rằng tôi có những ý tưởng này đang chạy trong tâm tôi, những cảm xúc mà tôi cảm thấy, thân xác mà tôi đang có, tình huống ngoại cảnh mà tôi đang trải. Đó là sự tự nhận biết của tôi. Tôi là một con người đang đau khổ trên địa cầu, đó là sự tự nhận biết của tôi. Nhưng sự tự nhận biết thực sự, cốt lõi của tự nhận biết, chỉ đơn giản là “ta là”. Tôi ý thức. Tôi nhận biết.    

Triết gia René Descartes nổi tiếng với lời nhận định: “Tôi nghĩ, do đó tôi là.” Nhiều người đã hiểu lầm câu này của ông. Ông chỉ muốn nói là ông đã nhìn vào tất cả mọi thứ mà ông có thể đặt vấn đề hay xem là giả trá, thì chỉ có một điều mà ông không thể chối cãi được, đó là ông có sự suy nghĩ. Nhưng thực sự đây không phải là sự suy nghĩ trong ý nghĩa một sinh hoạt của trí thể. Điều ông ngộ ra là điều duy nhất mà ông không thể chối cãi là sự kiện ông đang ý thức, ông đang nhận biết. Đó là điều duy nhất ông không thể chối cãi. Đó cũng là điều duy nhất mà con có thể nối kết để nhận ra rằng con không chỉ là ngoại vật. Khi con lùi về khỏi ngoại cảnh và chiêm nghiệm con là sự nhận thức, sự hiện diện, sự chiêm nghiệm, sự nhận biết, thì con không còn bị lôi cuốn vào vở kịch đang diễn ra trên sân khấu, sân khấu của thế gian. Con không còn tự đồng hóa với nó nữa. Con không còn bị nó định nghĩa là gì.

Thế nào là một con người? Trong cốt lõi, là cái này đây, là ta là, tôi đang nhận biết, tôi đang nhận biết rằng tôi là cái gì đang là. Trong cốt lõi của nhận biết, không cần thêm bất cứ gì khác, ít ra là không cần thêm bất cứ gì khác của điạ cầu bởi vì con không là tất cả những ngoại vật đó trên địa cầu. Tất nhiên hầu hết mọi người đều không nhận thấy như vậy, họ nghĩ họ là ngoại vật. Nhưng tính nhân bản cốt yếu có nghĩa là con có thể đứng riêng ra và chiêm nghiệm mình là nhiều hơn những ngoại vật, rằng chúng không thể định nghĩa được mình là ai. Khi con chiêm nghiệm điều này, đó là chiêm nghiệm thực. Và con biết là vở tuồng đang diễn ra trên sân khấu không thực được như thế.

Nhưng ngay giây phút con bước ra khỏi kinh nghiệm “ta là” đó và bước vào bản sắc vỏ ngoài của con, vào trí thể, cảm thể cùng xác thể của con, thì lập tức những gì con kinh nghiệm qua bốn thể phàm này sẽ có vẻ là thực đối với con. Chính điều này cho con cảm giác thực tế. Mọi lời dạy của các thày muốn hướng con về đâu? Hướng con về sự chứng nghiệm này đây, rằng có một thực tại vượt khỏi cảm giác thực tế mà con có được qua bốn thể phàm. Có một sự cảm nhận thực tại lớn hơn cảm giác thực tế mà con có được qua bốn thể. Do đó con không bị định hình bởi trải nghiệm của con trong bốn thể. Con tự định mình khi con là cái mà con là, khi con kết nối với cảm nhận “ta là”.  

Đây là điều đã giúp ta vượt qua thử thách khi đương đầu với quỷ Mara. Hẳn con cũng biết câu chuyện được kể lại trong đạo Phật rằng khi ta sẵn sàng nhập Niết bàn, ta đang ngồi thiền dưới cây bồ đề. Tất cả những con quỷ của Mara diễn hành trước mặt ta để lôi kéo ta nhập vào với chúng. Chúng đang diễn một vở tuồng và muốn ta bị cuốn hút vào đó, muốn ta tin rằng vở tuồng có một thực thể nào đó, có quyền lực nào đó trên ta, có quyền lực nào đó trên thế gian, có quyền lực nào đó trên người khác.       

Làm thế nào ta vượt qua được thử thách? Bằng cách nối kết với chứng nghiệm TA LÀ. Khi không có chữ nào đi theo sau hai chữ TA LÀ thì không có gì mà quỷ Mara có thể giao tiếp được. Như Giê-su đã diễn tả: “Không có gì trong ta mà ông hoàng của thế gian có thể nắm lấy.” Cho nên đây là cốt lõi giáo lý của ta. Tất cả mọi điều mà ta đã dạy con chỉ có một mục đích dẫn con đến điểm này mà thôi. Những lời này không chỉ là lý thuyết. Đây không phải là một giáo lý công truyền mà con có thể hiểu được bằng lý trí mà là một điều con phải chiêm nghiệm. Hầu hết các con đã chiêm nghiệm được rồi, một số đã chiêm nghiệm mà không ý thức, nhưng nhiều người trong số các con đã có chiêm nghiệm.  

Một khi con đã chiêm nghiệm được thực tại đó, con có thể sử dụng nó, bồi đắp nó, con có thể dùng các dụng cụ tu tập của các thày nhằm giải quyết những chấn thương sâu xa, đi ngược trở về chấn thương đầu tiên, và ngay cả trước đó nữa khi con là avatar giáng thế từ hành tinh khác. Và con có thể đạt tới một điểm khi bất kể chuyện gì xảy ra trên địa cầu, bất kể việc gì con đang làm, con cũng nhận biết liên tục rằng con là nhiều hơn thế, rằng con đang (phần nào) chứng kiến những gì đang diễn ra thay vì phải đứng ngay giữa cơn bão lốc. Hoặc ít nhất, con cũng nhận biết rõ rằng con có thể, bất cứ lúc nào, dời chuyển vào trong sự nhận biết TA LÀ nơi con không còn hoàn toàn tập trung vào cơn bão nữa.

Con người là gì? Ta đã từng nói: “Theo một nghĩa nào đó, con người là sự chú tâm, là sự nhận biết rằng mình chọn cách mình tập trung. Có thể nói, vượt ngoài tất cả mọi thứ đang xảy ra chung quanh, con là sự tỉnh giác, là sự nhận biết. Một số người nhận biết rất hạn hẹp, một số người khác nhận biết rộng rãi hơn. Một số thì rất chú tâm vào chính mình, trong khi một số khác có sự nhận biết toàn cầu hơn. Nhưng bất kể nhận biết hẹp hay rộng, con là sự nhận biết. Chọn lựa căn bản của con, có thể nói là chọn lựa duy nhất mà con có thể có, là chọn đối tượng cho sự chú tâm của con. Nhiều năm trước, Saint Germain có nói: “Anh đó là nô lệ sự chú tâm của anh ta”, và tất nhiên câu này cũng áp dụng cả cho phái nữ.  

Cho nên vấn đề là như sau: con đang chú tâm vào điều gì? Một lần nữa trong thời buổi này, ta không có ý bảo con phải chú tâm vào điều gì đó. Đã có những thời trước đây, và ngay cả bây giờ trong số học trò của các chân sư, khi người ta hay nghĩ rằng thế giới này không có gì là tâm linh, và do đó con không được chú tâm vào những chuyện trần thế. Con phải rút sự tập trung ra khỏi những chuyện trần tục và đặt trọng tâm vào những chuyện tinh thần. Rất nhiều người ở mọi thời đã làm điều này, họ đã rút lui khỏi thế giới để sống ẩn dật nơi một tu viện, một cái am Phật giáo, một nhà tu Cơ đốc giáo, hay bất cứ một khung cảnh, môi trường nào được tạo ra để họ triệt thoái khỏi thế gian, và khi họ chú tâm học hỏi kinh sách, cầu nguyện và làm lễ và hát và tụng, thì họ nghĩ, “À, tôi thật là tâm linh vì tôi đang tập trung vào những chuyện này.”        

Nhưng con yêu dấu thấy đó, rất nhiều người trong số đó thật ra không khác gì người đời. Người đời có sẵn một ý tưởng nào đó trong đầu về cuộc sống, về họ phải làm gì hay không làm gì, và họ sống theo cái tâm ảnh đó. Những người tâm linh rút khỏi xã hội cũng có một tâm ảnh về cuộc sống mà họ muốn sống, chỉ khác là tâm ảnh của họ không giống người đời. Thành thử một bên, chúng ta có đa số mọi người sống theo một tâm ảnh trần tục, và bên kia một thiểu số sống theo một tâm ảnh mà họ nghĩ là tâm linh. Nhưng con yêu dấu, đó vẫn chỉ là một tâm ảnh và tâm ảnh này sẽ giam giữ họ y như nó giam giữ người trần tục.

Thật không có bao nhiêu người, thời xưa cũng như thời nay, đã đạt được sự tinh tấn khi họ chỉ thay đổi tâm ảnh mà thôi, bởi vì tâm ảnh vẫn còn đó. Nếu con tập trung chú tâm của con đến độ con nghĩ: “Tôi là người thế này, tôi thật là tâm linh vì tôi đang làm tất cả những điều vỏ ngoài này” thì con đang làm gì? Con đang ban thêm sức mạnh cho tâm ảnh. Trong khi đó thì những người sống trong thế gian và tự đồng hóa với thế gian, khi họ trải qua một năm 2020 thật tồi tệ do dịch corona, thì họ làm gì? Họ cũng tăng thêm sức mạnh cho tâm ảnh của họ.     

Khi con chú tâm vào điều gì thì con tạo ra một luồng năng lượng xuyên qua bốn thể phàm của con hướng về tâm ảnh đó. Con củng cố tâm ảnh cho nó mạnh hơn, cả trong tâm con lẫn trong tâm tập thể. Con củng cố cấu trúc mà tâm ảnh này đã tạo ra. Con càng củng cố nó thì năng lượng sẽ hình thành một lực từ trường càng mạnh hơn để thu hút sự chú tâm của con. Con càng đặt chú tâm vào một đề tài nào thì càng có nhiều năng lượng xối vào đó. Càng nhiều năng lượng xối vào thì nó càng thu hút chú tâm của con, và tất cả trở thành một vòng xoáy triền miên, tự nó nuôi nó cho ngày càng lớn mạnh.    

Đó là lý do tại sao người ta đi xem kịch bị cuốn hút vào vở kịch và tưởng đó là thực. Tâm trí họ bị cuốn hút vào vòng xoáy mà chính họ đã tạo dựng, và song song cũng có sự tạo dựng tập thể đến độ nhiều người không thể gỡ mình ra do họ đã cho phép vòng xoáy cuốn tâm trí họ vào. Cũng vậy với nhiều người tự xem mình là tâm linh, họ đã tạo ra một vòng xoáy tuy có khác hầu hết người trần tục, nhưng vẫn kéo tâm trí họ vào một cách mãnh liệt. Giáo lý của ta chủ ý là gì và luôn luôn vẫn là gì? Giáo lý trong đợt truyền pháp này đã nói rõ ràng và rành mạch những gì? Rằng mục tiêu là để giúp con dời chuyển sự chú tâm của con khỏi tâm ảnh và chiêm nghiệm được “ta là”. “Tôi là nhiều hơn những tâm ảnh vỏ ngoài, nhiều hơn tâm ảnh mà tôi có về chính tôi và bốn thể phàm của tôi. Tôi nhiều hơn thế. Cho nên tôi không có nhu cầu bị lôi cuốn vào những gì đang xảy ra trên thế giới.”   

Ta đã có dịp giảng về khái niệm “giữ quân bình tâm linh”. Đã có những lời dạy đề cập đến khái niệm này, về một nhóm người tiến hóa cao độ trên dãy núi Himalaya mà chưa ai được gặp, chưa ai được nghe biết. Một số người đã có nghe về vị thày Babaji chưa thăng thiên, và một số khác nữa. Người ta bảo rằng các vị này cầm giữ quân bình tâm linh cho địa cầu. Giữ quân bình tâm linh nghĩa là gì? Là các vị ấy tập trung chú ý vào “là hơn nữa”. Mình biết mình là “hơn nữa”, và bằng cách duy trì một trạng thái tĩnh lặng toàn hảo, một nội tâm hoàn toàn an bình, mình có thể giữ được sự quân bình vì vẫn hiện thân trong xác thân vật lý. Tuy nhiên, mặc dù ta không muốn giảm bớt công sức phụng sự của những vị đó, điều mà ta mong muốn, và Saint Germain cũng mong muốn cho Thời Hoàng kim, là có thật nhiều người có khả năng giữ được quân bình tâm linh trong khi vẫn tích cực tham gia vào cuộc sống.   

Theo một nghĩa nào đó, việc giữ quăn bình sẽ dễ dàng hơn nếu con ngồi trong hang động và không bao giờ bị quấy rầy, bị thử thách. Và lẽ tự nhiên, sẽ khó giữ quân bình hơn nếu con sống một cuộc đời năng động. Nhưng con yêu dấu, điều sẽ thực sự hiệu quả, sẽ thực sự đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain nhanh chóng hơn, là có thật nhiều người sống bình thường trong cuộc sống hàng ngày, làm lụng những công việc mà họ thường làm, mà vẫn nhận biết rằng đây không phải là con người thực của mình. Nói cách khác, con ngồi trong rạp hát, con quan sát vở tuồng trên sân khấu, và thay vì hoàn toàn chú tâm vào sân khấu, con vẫn nhận biết rằng “tôi là nhiều hơn buổi trình diễn này”. Con tỉnh giác rằng mọi người khác trong rạp đều hoàn toàn bị cuốn hút vào vở kịch, nhưng con vẫn giữ được cái phần tỉnh giác nằm ngoài vở kịch. Con trải nghiệm vở kịch như là một vở kịch, chứ không như một cái gì thực, như hầu hết mọi người khác. Đó là cách con giữ sự quân bình tâm linh, là thái cực Omega cho những ai đang giữ thái cực Alpha khi họ rút lui khỏi xã hội.

Đây chính là điều đã thiếu sót từ hàng ngàn năm nay. Đã có những vị sống ẩn dật và giữ được quân bình tâm linh, nhưng chưa có những vị để cầm giữ thái cực Omega của những người có thể sống trong thế gian, ở trong thế gian nhưng lại không thuộc về thế gian. Điều này sẽ đem lại sự khác biệt lớn lao trong thời đại này, là thời đại mà chúng ta đang bước vào khi ngày càng có nhiều người đạt tới mức có thể nhìn thế giới và nói: “Tôi nhiều hơn thế này. Tôi sẽ không cho phép mình bị cuốn hút vào cái đang cuốn hút người khác. Tôi không cần tham dự vào đó, nó sẽ nuốt hết sự chú ý của tôi, và cuối cùng tôi sẽ chỉ vứt thêm năng lượng mình vào để nuôi cho vòng xoáy kéo mình vào thêm.”   

Trên thực tế, con có thể đạt tới một điểm khi con biến nó thành một quyết định ý thức. “Tôi sẽ không để cho bất kỳ vòng xoáy tập thể nào lôi kéo bốn thể phàm của tôi”. Nhân tiện, đây cũng là một cách để nâng cao sức khỏe thể chất của con, khi con không để cho các vòng xoáy tập thể ảnh hưởng đến xác thể, hay cảm thể, trí thể, bản sắc thể. Con không bị kéo vào. Cho nên con có khả năng đứng ngoài các khuôn nếp phản ứng mà đa số người ta bị cuốn vào. Con có thể ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Con có thể ngồi dưới gốc cây bồ đề, nhìn bọn ma quỷ của Mara diễn hành trước mắt nhưng con không hề tham dự với chúng. Sau khi con để cho chúng làm trò chán chê, con sẽ đặt tay xuống mặt đất và nói: “Vajra, Vajra, Vajra, nay ta xác nhận quyền làm Ki-tô của ta, quyền làm Phật của ta trên địa cầu.”  

Đó là những gì ta mong muốn cho tất cả các con là học trò trực tiếp của các chân sư, để con khỏi bị lôi kéo. Các chân sư hoàn toàn không trách móc gì các con. Các thày hiểu rõ năm qua đã là một năm khó khăn. Các thày biết nhiều vòng xoáy tập thể to khủng khiếp đã được tạo ra ở khắp mọi nơi trên thế giới. Một phần là vì đại dịch corona, phần khác vì nền kinh tế, phần khác nữa vì một số điều kiện chính trị như cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ. Các thày hoàn toàn không muốn con buồn rầu về cách phản ứng của mình nếu chẳng may con đã bị lôi cuốn vào những vòng xoáy đó – đành chịu thôi. Nhưng con có cơ hội bước lùi lại, nối kết với cái TA LÀ, để con nhận ra rằng con là nhiều hơn thế, và có lẽ để con nhìn vào “điều gì trong bốn thể phàm của tôi đã khiến tôi bị cuốn hút”.    

Sau đó nếu con dùng cac dụng cụ tu tập để giải quyết chấn thương, con sẽ thấy là cuối cùng, tất cả đều liên quan đến cái chấn thương nhập đời vũ trụ, và cả những cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra sau trải nghiệm nhập đời này. Con sẽ luôn luôn nhận thấy mỗi lần con bị lôi cuốn vào một phản ứng, thì y rằng sẽ có một cái ngã hiện diện, có khi nhiều hơn là một, nhưng tất cả những ngã này đều không thực. Chúng không thực trong ý nghĩa mà ta vừa mô tả. Chúng nằm trong bốn thể phàm của con – không nghi ngờ gì cả. Chúng có một sự hiện hữu nào đó vì chúng được tạo ra từ năng lượng, chúng dựa trên một tin tưởng nào đó của con và do đó đã trở thành như một sinh thể sống trong lòng bốn thể phàm của con, tương tự như một con thú sống trong nhà con vậy. Nhưng chúng không thực trong ý nghĩa là chúng không phải là con, và con không phải là chúng.

Khi con kết nối với nhận biết TA LÀ, Hiện diện TA LÀ, con có thể nhận ra: “À, đây chỉ là một cái ngã, đây không thực là tôi, tôi không là ngã đó. Hoàn toàn không phải là tôi. Chưa bao giờ nó là tôi. Trước kia tôi tưởng nó là tôi. Nhưng bây giờ tôi thấy nó chỉ là một cái ngã. Tôi thấy nó hạn chế tôi. Tôi thấy nó bắt nguồn từ một tin tưởng nào đó mà bây giờ tôi không chấp nhận nữa.” Và điều này đưa con đến một điểm khi con có, không phải một quyết định vỏ ngoài của ngoại tâm, mà một sự giải tỏa tự phát: “À, tôi sẽ để cho mi chết. Mi không phải là tôi. Tôi để cho mi chết đây.” Đây là điều mà ta mong muốn thấy tất cả các con làm được nếu con chưa làm trong năm 2021 này.  

Con yêu dấu, điều đó sẽ khiến ta vui mừng làm sao. Và nó cũng sẽ khiến con vui mừng. Nó sẽ đem vui mừng cho mọi người chung quanh con, ít ra là đa số, cho dù là một số người sẽ không bằng lòng khi thấy con không gần gũi như trước, và do đó họ không thể ảnh hưởng con được như trước nữa. Nhưng đành thôi, đành thôi. Con không thể tiến bước trên đường dẫn đến quả vị Ki-tô và quả vị Phật mà không làm phật lòng một số người.  

Bây giờ, con yêu dấu, năm 2021 sẽ như thế nào? Nhiều người cho rằng đây sẽ là một năm khó khăn, một phần vì đại dịch sẽ không được giải quyết nhanh chóng như mong muốn. Thành thật mà nói, ta đã mong có thể giải quyết sớm hơn nhưng điều này đòi hỏi nhiều người phải xử sự một cách khác, mà nhiều người thì không chịu thay đổi và đại dịch cứ thế tiếp diễn. Nhưng tất nhiên, thử thách lớn nhất cho năm 2021 là nền kinh tế vì kinh tế đã bị đại dịch làm tổn thương, cho nên đối với rất nhiều người, năm 2021 sẽ là một năm rất khó khăn, không khó khăn bằng 2020 nhưng trên một vài phương diện sẽ khó khăn hơn.

Nhưng tại sao sẽ khó khăn cho mọi người? Bởi vì mọi người tự đồng hóa với vở kịch. Ta vẫn biết là hầu hết không có khả năng tách mình ra khỏi vở kịch, nhưng có một điều ta muốn con ghi nhớ và cầu gọi, là có những người tuy không có nhu cầu biết đến các chân sư và họ cũng chưa từng nghe đến các chân sư, nhưng họ lại cởi mở với ý tưởng đặc biệt này. Ý tưởng đó, ta đã từng giảng dạy cách đây 2500 năm, rằng toàn bộ thế gian là một tổng thể tương kết. Ý tưởng này trong đạo Phật thường có tên là Lý Duyên khởi. Không có sự kiện riêng rẽ nào tự dưng xảy ra mà trái lại mọi sự kiện đều xảy ra do vô số những nguyên nhân, một chuỗi nguyên nhân dài dằng dặc và phức tạp vô cùng – phần nào cũng giống như thuyết hỗn mang mà khoa học đưa ra.  

Và như vậy, nhiều người trong đó có những thành phần cấp tiến, sáng tạo nhất, đã trở nên thực sự cởi mở và nhận ra điều này, với tiềm năng dẫn đến nhiều hệ quả tích cực khi người ta bắt đầu xét lại cách nhìn cố hữu của mình về xã hội. Một điều có thể xảy ra là người ta bắt đầu đặt nghi vấn: “Ơ kìa, cái gì đã gây ra đại dịch corona? Phải chăng chỉ vì đúng một con dơi ở Trung quốc đã tiếp xúc với con người? Hay là vì bất kỳ nguyên nhân đơn lẻ nào khác mà người ta có thể nghĩ tới? Liệu chỉ có một nguyên do duy nhất hay là có nhiều nguyên do sâu xa hơn? Phải chăng một số điều kiện trong xã hội, trong cách chúng ta nhìn xã hội, cũng đã góp phần vào toàn cảnh? Phản ứng của chúng ta đối với đại dịch nói lên điều gì về những điều kiện đó, và như vậy chúng ta có thể xem xét, phân tích, học hỏi và thay đổi điều gì? Chúng ta có thể rút tỉa điều gì tích cực từ đại dịch để giúp đưa xã hội về một hướng tốt đẹp hơn?”

Con yêu dấu, hiển nhiên là rất, rất nhiều điều người ta có thể nêu lên, có thể học hỏi từ khủng hoảng này, và ta không có ý liệt kê ra hết bởi vì có quá nhiều và cũng quá rộng lớn. Nhưng có một điều nổi bật ở đây mà ta muốn đặt trọng tâm là kinh tế. Thật là dễ mà nói rằng: “Ồ, kinh tế có xuống dốc thật nhưng chỉ là do đại dịch. Chỉ vì người ta không thể đi du lịch, ra tiệm mua sắm, đi ăn nhà hàng mà dân chúng bị mất việc, và đó là lý do kinh tế phải đi xuống”.    

Con yêu dấu, kinh tế không chỉ là kinh tế, kinh tế không là một hiện tượng biệt lập. Kinh tế là một thành phần của lý duyên khởi của toàn thể xã hội, của tâm thức tập thể. Tâm thức tập thể chúng ta đang ở đâu? Nếu con nhìn kinh tế từ một góc độ rộng lớn hơn, con thấy gì? Con sẽ thấy như một số kinh tế gia và ký giả đã thấy được, là kẻ giàu, giới thượng lưu, đã không bớt giàu đi trong cơn đại dịch, trong cơn khủng hoảng.

Mặc dù kinh tế có suy thoái nhưng người giàu đã trở nên giàu có hơn. Đầu tư của họ trị giá nhiều hơn, thị trường chứng khoán tăng vọt. Nhưng những ai đã nghèo hơn? Phải, những người tầm thường. Những người bình thường, những người dân hàng ngày phải gánh chịu hậu quả lớn nhất của đại dịch, do bị nhiễm bệnh, do phải trông nom người bị nhiễm bệnh, do phải ở nhà mà thiếu hụt ngân sách, do mất nguồn lợi thu nhập. Đúng vậy, những người bình thường, dân chúng nói chung.  

Con hãy nhìn quanh thế giới. Những nước nào đã bị tác động nặng nhất? Chắc chắn rất nhiều nước nghèo đã bị ảnh hưởng nhiều hơn, nhưng không phải tất cả. Con cũng thấy một nước như Hoa Kỳ có tỷ lệ nhiễm bệnh và tử vong do đại dịch cao hơn. Vậy con hãy tự hỏi: “Tại sao như thế, tại sao lại thấy những những chuyện như thế?” Con sẽ thấy nguyên do nằm bên dưới tất cả là sự chú tâm vào chính mình, chỉ chăm sóc cho chính mình, chỉ quan tâm đến cái tâm ảnh của mình, làm sao cố giữ tâm ảnh đó cho bằng được.   

Con hãy nhìn ở ngay khởi đầu của đại dịch, Trung quốc biết rõ có một loại vi-rút mới đang lan rộng. Nhưng họ giấu giếm thông tin cho ngay cả công dân của họ và đối với thế giới. Có nghĩa là khi người ta biết đến, vi-rút đã lan vượt ra ngoài biên giới của Trung quốc đến độ không thể kiềm chế được nữa. Có thể nào ngăn chặn ngay từ đầu không? “Có, có thể lắm chứ”, nếu giới chức trách Trung quốc kể cả đỉnh cao của lãnh đạo sẵn sàng có những biện pháp cần thiết. Nhưng tại sao họ lại không sẵn sàng có biện pháp cần thiết? Bởi vì họ đang cố, với tất cả sức bình sinh, bám giữ cái tâm ảnh mà họ có về Trung quốc là một quốc gia toàn hảo, một xã hội toàn hảo, một xã hội cộng sản toàn hảo, là xã hội thực sự cộng sản duy nhất còn sót lại? Tại sao vi-rút đã lây lan? Tại vì tâm ảnh của giới lãnh đạo Trung quốc. Hiển nhiên con có thể hỏi thêm: “Tại sao vi-rút lại xuất hiện tại Trung quốc?” Một lần nữa, phần nào là vì lãnh đạo, và phần khác cũng vì người dân Trung quốc, vì cái tâm ảnh mà người dân ôm giữ về một nước Trung quốc vượt trội hơn bất kỳ quốc gia nào khác.

Thế những nước khác thì sao? Họ cũng có một tâm ảnh nào đó về Trung quốc, và họ đã chưa quyết định là họ muốn quan hệ thế nào với Trung quốc, họ muốn làm gì với Trung quốc. Như ta đã có nói, các nước có thể nào thực sự tiếp tục buôn bán với Trung quốc, một nước đàn áp chính dân mình và không tôn trọng lý tưởng dân chủ mà các con mong muốn? Liệu con có thể chấp nhận để cho các tập đoàn ở Tây phương kiếm những số tiền khổng lồ do sản xuất rẻ tiền tại Trung quốc rồi bán lại với lợi nhuận lớn hơn là nếu họ sản xuất tại xứ họ? Liệu con có thể cho phép sự thể này tiếp tục rồi bảo: “Các thày sẽ bỏ qua những vi phạm nhân quyền của Trung quốc, bỏ qua những diễn biến tại Hồng Kông nơi họ đang bóp nghẹt dân chủ. Các thày sẽ không đứng ra hỗ trợ dân chủ vì Trung quốc quá lớn. Các thày thật sự không muốn nhúng tay vào, không muốn có quyết định về Trung quốc”. Không phải đây là lý do vi-rút đã lây lan khắp các nước hay sao? Là vì các nước đã không chịu lấy quyết định họ muốn làm gì với Trung quốc và mối quan hệ với Trung quốc.

Bây giờ con hãy nhìn sang Hoa Kỳ, một trong những nước bị thiệt hại lớn nhất về tỷ lệ nhiễm bệnh COVID-19 cũng như tỷ lệ tử vong. Điều này cho con thấy gì? Nhìn một cách thực tế, con có thể thấy rõ Hoa Kỳ đã đáp ứng kém hơn hẳn những quốc gia có hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng. So với Âu châu, cho dù ở đó cũng có một số nước bị ảnh hưởng nặng nề, nhưng vẫn đỡ hơn Hoa Kỳ. Điều này cho con thấy gì? Đúng vậy, Hoa Kỳ có thể nào tiếp tục là quốc gia giàu mạnh duy nhất trên thế giới không có một hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng? Sự thể này có bền vững không? Và Hoa Kỳ xem mình là quốc gia vĩ đại nhất, là xã hội tốt đẹp nhất thế giới, điều này có bền vững không?     

Con hãy nhìn vào kinh tế và thấy bao người bị mất việc làm. Có bền vững hay chăng một nên kinh tế nơi người giàu đã giàu hơn rất nhiều và sẽ còn giàu hơn nữa? Người giàu tại Hoa Kỳ đã kiếm tiền giữa cơn khủng hoảng này nhiều hơn là họ có thể kiếm được khi không có khủng hoảng. Con có thể chấp nhận một nền kinh tế mất cân bằng đến độ ngày càng đổ thêm nhiều tiền vào túi người giàu mặc dù các nghiên cứu cho thấy sự thể này đã tiếp diễn suốt bốn thập niên qua? Có bền vững không? Liệu điều này có phần nào giải thích tại sao Hoa Kỳ lại bị đại dich đập nặng đến như vậy? Không phải là nguyên hệ thống đã trở thành quá thiên vị cho người giàu hay sao? Có bền vững không?

Nay con hãy nhìn sang nước Nga, là một nước khác nữa cũng rất quyết tâm duy trì một tâm ảnh nào đó. Hóa ra số người bị chết bởi đại dịch lớn hơn rất nhiều các con số tử vong chính thức. Tại sao như vậy? Bởi vì giới lãnh đạo cho tới Putin ở tột đỉnh đều thèm muốn, thèm muốn giữ lấy tâm ảnh về sự vĩ đại của nước Nga, về khả năng kiểm soát và giải quyết mọi vấn đề. Nhưng họ có làm được không? Có thể nào một lãnh tụ nắm hết quyền hành đảm đương được mọi chuyện? Có phải chăng là một hệ thống tập trung quyền lực không thể thực sự là một xã hội bền vững, đặc biệt trong thời đại này?     

Xong hãy trở lại với nước Mỹ và nhìn xem đại dịch đã ảnh hưởng tiến tình bầu cử như thế nào. Tại sao Tổng thống Trump ở giai đoạn đầu của đại dịch lại chọn chiến lược coi nhẹ đại dịch? Đúng vậy, chỉ vì ông muốn duy trì một tâm ảnh về chính ông cùng khả năng cầm quyền của ông. Một khi đã phóng tâm ảnh này ra công chúng, ông không chịu thay đổi nó, nhưng đáng lý ông phải chấp nhận thay đổi khi đại dịch không diễn biến như ông chờ đợi. Điều này có khiến ông thất cử? Đúng vậy, con yêu dấu. Nếu không có đại dịch thì Trump đã tái đắc cử. Nhưng vì cách ông phản ứng trước đại dịch, và vì có nhiều người thấy được điều đó, cho nên ông không thắng cử một lần thứ hai.

Ông đã làm gì sau bầu cử? Ông vẫn cố giữ nguyên cái tâm ảnh rằng ông không thua, rằng ông không là một người thua cuộc, rằng người ta đã đánh cắp chiến thắng của ông. Bầu cử đã gian lận, một sự gian lận to lớn, với những lời tố cáo được lặp đi lặp lại, nhưng không thấy bằng chứng nào được đưa ra trước tòa án. Ông phải cố giữ cái tâm ảnh.

Vậy chúng ta có thể mong mỏi những gì trong năm nay? Chúng ta mong thấy trên thế giới có những người, những chính phủ, những người sáng tạo, những người với tỉnh giác cao độ, sẽ sẵn sàng suy ngẫm xem cơn đại dịch, nền kinh tế, phản ứng của chúng ta trước đại dịch, phản ứng của chúng ta đối với kinh tế, tất cả những thứ đó nói gì về chúng ta? Chúng ta cần thay đổi thế nào, chúng ta đã mất quân bình như thế nào, chúng ta đã trở nên thiếu bền vững như thế nào. Để giúp các con trong tiến trình suy ngẫm này, ta sẽ cho các con một hình tư tưởng cho năm tới đây. 

Đây là một hình tư tưởng rất giản dị. Trong năm nay 2021, mặt trời sẽ là một tấm gương phản chiếu. Ta có hỏi ý Helios và Vesta là những chân sư thăng thiên, những sinh thể vũ trụ đứng đầu mặt trời của các con. Các thày đã nghĩ ra một cơ chế vô cùng giản dị có mặt trời làm tấm gương. Khi con tập trung nhìn vào mặt trời, các hình ảnh trong tâm trí con sẽ được phản chiếu lại để con dễ thấy hơn, và con cũng khó lòng bỏ qua hơn. Không chỉ có cá nhân mới dùng được cách này mà cả toàn thể xã hội.

Khi con sử dụng hình tư tưởng này một cách đều đặn, con sẽ khiến cho hiệu quả tăng lên gấp bội. Ta khuyến khích con làm một việc vô cùng đơn giản, không có gì cầu kỳ. Mỗi ngày, con hãy tập trung vào mặt trời – dù là nó có ở trên trời hay không thì hoàn toàn không quan trọng. Nhưng con hãy tập trung vào mặt trời trong tâm con, và nói lên lời xác định này. “Phật Gautama, thày là tấm gương toàn hảo cho địa cầu.” Giản dị, dễ nhớ, và chỉ mất một vài giây. “Phật Gautama, thày là tấm gương toàn hảo cho địa cầu”.    

Nếu con muốn, con có thể hình dung ta đang ngồi trong tư thế hoa sen ngay trên mặt trời, nhưng điều này không mấy cần thiết. Chỉ cần con nói lời xác định ngắn ngủi trên. Tập trung vào mặt trời, con không cần nói lớn, nhưng con có thể nếu con muốn. “Phật Gautama, thày là tấm gương toàn hảo cho địa cầu.” Điều này có thể tác động mạnh mẽ, đồng thời với các bài cầu của con vì ta sẽ hướng dẫn con đọc các bài cầu, và tất nhiên, cả xã hội cũng cần suy ngẫm về toàn bộ tình thế hôm nay và những bài học có thể rút tỉa. Ta đã nói gì ở đầu bài giảng, địa cầu là gì? Là một cuộc trình diễn. Mục đích để làm gì? Để chuyển đổi tâm thức con người. Vậy thì kết quả cao nhất của đại dịch corona và cuộc khủng hoảng kinh tế hôm nay là gì? Là nó chuyển đổi tâm thức con người, nó chuyển đổi sự nhận biết của con người, con người bắt đầu nhìn lại chính mình, nhìn vào xã hội mình và nói: “Đây là những điều mà chúng ta có thể thay đổi. Đây là những điều chúng ta cần thay đổi bởi vì nếu không, mọi thứ sẽ tan rã – khi chúng ta đặt trọng tâm vào của cải, cho phép một tầng lớp thượng lưu nhỏ xíu tiếp tục điều khiển xã hội mà chỉ mang lại lợi ích cho họ trong khi người dân phải trả giá.

Sự thể này không còn bền vững được nữa, không thể kéo dài được nữa. Đây là sự nhận thức có thể bắt đầu đột phá trong năm 2021 nhiều hơn là cho đến nay, rằng có nhu cầu, một nhu cầu tuyệt đối và cấp bách, tạo ra những xã hội quân bình hầu lớp thượng lưu không thể bóc lột người dân được nữa. Nhu cầu này cấp bách hơn rất, rất nhiều cuộc khủng hoảng khí hậu, hay đại dịch, hay kinh tế, hay bất cứ khủng hoảng nào khác. Đây là khủng hoảng thực sự, khủng hoảng duy nhất trên địa cầu như đã kéo dài từ hàng bao thế kỷ. Nhưng bây giờ chúng ta mới đến một mức mà ngày càng có nhiều người sẵn sàng nhìn thấy, ngày càng có nhiều xã hội sẵn sàng làm cái gì đó để giải quyết, nhiều hơn là cho tới nay, và mặc dù cũng có nhiều quốc gia dân chủ đã tiến bộ đáng kể để cải biến xã hội cho bớt độc quyền, nhưng Hoa Kỳ không có trong số đó, và Anh quốc cũng không có trong số đó. Cần nhiều tiến bộ hơn, đặc biệt là trên bình diện toàn cầu.

Và điều này kết thúc những nhận xét mà ta mong muốn đưa ra cho các con ở đây. Ta sẽ rút về, niêm phong các con trong sự bình an tuyệt đối của Phật, và nhường lời cho Mẹ Mary trao cho các con thái cực Omega của bài giảng này. TA LÀ Gautama.       

Trải nghiệm sự nhận biết quả cầu ở các tầng cao của quả vị Ki-tô

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 6/12/2020, nhân Webinar 2020 – Tăng triển Phân biện Ki-tô.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Phật biết gì vể quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô? À, làm thế nào con trở thành Phật chứ? Bằng cách vượt qua giai đoạn phân biện Ki-tô và quả vị Ki-tô. Như chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có giải thích cho con, có một số tầng tâm thức và măc đù trên địa cầu có 144 tầng như thế, trên cõi tâm linh còn có nhiều tầng hơn nữa. Trước tiên con vươn lên tầng quả vị Ki-tô, xong từ đó con có thể vươn lên tầng quả vị Phật. Con không cần phải đạt đến quả vị Phật để thăng thiên nhưng con có thể.

Chúng tôi đã cố trao truyền cho con ở đây một số lời dạy về một số yếu tố ngăn cản con có được sự phân biện Ki-tô. Yếu tố mà ta muốn lưu ý con trong bài này là khi con đạt đến tầng tâm thức 96, con đối mặt với một cuộc khai ngộ nhất định. Chúng tôi có nói là ở tầng 96, con đối diện với một ngã ba đường khi con có thể, hoặc thăng vượt trọng tâm của con vào bản thân con, hoăc rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ khi con ngày càng tập trung vào chính mình. Một trong những yếu tố sẽ quyết định con đi lên hay đi xuống ở tầng đó là vấn đề mà ta muốn chỉ ra cho con thấy ở đây. Đây là một vấn đề đã được các giới tâm lý học hiện đại bàn cãi và thường được gọi là “những vấn đề kiểm soát”.

Kiểm soát và quyền tự quyết

Một lần nữa nếu trở lại với các sa nhân và nhìn vào tình trạng của chúng, chúng tôi đã có trình bày về bầu cõi thứ tư khi có những sinh thể đã tự xưng làm kẻ cai trị tuyệt đối ở một số hành tinh. Con cần điều gì để chiếm địa vị nắm mọi quyền lực mà không ai có thể phản kháng? Hiển nhiên con cần giành lấy quyền kiểm soát trên hành tinh đó và kiểm soát tất cả mọi cư dân đầu thai ở đó. Con tìm cách tạo dựng cho mình một vị thế hay một cảm nhận cao trội qua sự kiểm soát. Một đằng, con tìm cách tự kiểm soát mình, kiểm soát tâm mình, cho nên con rất tự chủ, kỷ luật và không bao giờ mất cảnh giác, nhưng con cũng tìm cách kiểm soát người khác.

Sau khi các sa nhân bị sa ngã, tất nhiên chúng đã tiếp tục trên cái trớn kiểm soát đó. Một số đã tìm cách kiểm soát toàn bộ vũ trụ, thậm chí kiểm soát cả Thượng đế. Nhưng đương nhiên, chúng không bao giờ có thể đạt được mục tiêu đó vì không có cách chi chúng hiểu được Đấng Sáng tạo đích thực là như thế nào. Tuy vậy con cũng có thể thấy chuyện trớ trêu là có những kẻ lại muốn kiểm soát một vũ trụ nơi định luật tuyệt đối duy nhất là Định luật Tự quyết.

Làm thế nào con có thể kiểm soát thật sự khi quyền tự quyết là định luật tuyệt đối? Làm thế nào con có thể kiểm soát được chọn lựa của mọi người? Tất nhiên như con thấy sau khi sa nhân đến địa cầu, chúng đã mưu toan kiểm soát toàn thể dân chúng bằng rất nhiều cách. Chúng đã làm vậy trên bình diện vật lý bằng cách giết hại hay cầm tù những ai không chấp nhận kiểm soát. Chúng đã làm vậy trên bình diện tình cảm bằng cách cuốn hút con người vào những cơn lốc động cảm nơi họ rơi vào vòng kiểm soát của tác giả cơn lốc, tức là chính các sa nhân. Chúng đã làm vậy ở mức lý trí bằng cách lôi kéo con người tin vào một loạt những hệ thống tín ngưỡng, từ tôn giáo cho đến chủ nghĩa duy vật cùng những ý thức hệ chính trị đủ loại.

Và tất nhiên chúng cũng đã làm vậy ở mức bản sắc bằng cách xui khiến mọi người trên hành tinh chấp nhận rằng mình chỉ là những con người bị muôn vàn giới hạn gò bó – duy có một số ít người thật đặc biệt có khả năng vượt ra ngoài giới hạn đó, vì thế cho nên con phải nhắm mắt đi theo những người có tầm nhận thức cao trội đó. Hiển nhiên, các sa nhân đều mang động lượng kiểm soát người khác, cho nên chúng phóng ý muốn kiểm soát này ra ngoài và chúng sẵn sàng kiểm soát người khác. Không phải tất cả mọi sa nhân đều sẵn sàng giết hại để mà kiểm soát – vì một số sẽ cố làm một cách ít bạo lực hơn – nhưng chúng vẫn phóng chiếu nó ra ngoài.

Con không được lầm lẫn, nhiều sa nhân cũng có một đặc tính mà người ta thường gọi là sự tự chủ. Chúng có thể vô cùng kỷ luật, vô cùng kiên quyết, nhắm thẳng đến mục tiêu, và đó là tại sao chúng thường rất thành công trong chính trường hay thương trường. Chúng khao khát kiểm soát người khác và chúng rất hung hãn khi ra tay vì chúng cảm thấy được quyền làm như vậy. Lẽ tự nhiên, con có thể nói là chúng ở trong một tâm trạng vô cùng bị động, đe dọa, vì chúng luôn luôn nhận ra là việc kiểm soát quần chúng thật là khó khăn, đặc biệt khi phải kiểm soát tất cả mọi người, vì ngay cả trên một hành tinh như địa cầu cũng có xu hướng là thỉnh thoảng sẽ hiện ra một số cá nhân từ chối để cho chúng kiểm soát, từ chối đi theo tâm thức đại chúng, đi theo đường lối của đảng hay mệnh lệnh của giáo hoàng hoặc bất cứ ai khác.

Cho nên mới có những người nổi loạn, và đôi khi kẻ nổi loạn lại chính là những sa nhân khác hình thành một lớp tự tôn quyền lực thay thế, nhằm lật đổ lớp tự tôn quyền lực đang nắm quyền. Nhưng trong rất nhiều trường hợp, những con người từ chối bị kiểm soát đó thực sự là những sinh thể đã đạt đến một trình độ quả vị Ki-tô cao, và do đó họ đứng nổi bật ra hầu chứng tỏ cho mọi người, chứng tỏ cho quần chúng thấy là có cách giải tỏa được vòng kiểm soát.

Một số trong những người đó đã đạt tới mức quả vị Ki-tô tương tự như Giê-su, tức là họ có khả năng đem lại sự phán xử Ki-tô trên một số sa nhân.

Đối với sa nhân, thật là khó lòng duy trì được cảm giác rằng mình luôn luôn nắm kiểm soát. Cho nên nhiều sa nhân đã dựng lên trong tâm một số cấu trúc phức tạp hầu duy trì cảm giác là mình vẫn nắm kiểm soát bất kể sự việc xảy ra bên ngoài có là gì. Chúng có một thế giới quan luôn luôn đặt mình ở trung tâm vũ trụ, và chúng có nhiều cách khác nhau để giải thích tại sao sự việc xảy ra lại không thể kiểm soát, không thể tránh được.

Nhu cầu giải thích mọi sự

Vậy hành tinh địa cầu là gì chứ? Như chúng tôi đã trình bày mấy lần, địa cầu có thể được ví như một bộ máy giả thực tại (reality simulator). Khi con đầu thai trên địa cầu, con bước vào bộ máy giả thực tại đó với khả năng mô phỏng nhiều loại môi trường khác nhau. Một phần trong cách mô phỏng là khi con người, đặc biệt là tâm thức tập thể, đè chồng một số hình ảnh, một số niềm tin, một số thế giới quan lên trên Ánh sáng Mẫu-Vật, rồi qua đó bộ máy giả thực tại sẽ trải bày những thứ đó ra.

Chúng tôi đã có nói là ở ban đầu, hành tinh này đã được sinh tạo trong một trạng thái cao hơn khi không một ai phải đổ mồ hôi lao động để nuôi tấm thân vật lý. Sau cuộc sa ngã vào tâm thức nhị nguyên, giờ đây các con phải làm lụng vật lý để nuôi thân. Cho nên điều con thấy ở đây là hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại, nhưng đồng thời cũng có một cơ chế an toàn khiến cho mọi người khó lòng nghĩ rằng môi trường mô phỏng này là thực tại tuyệt đối bất di bất dịch. Tất nhiên có một vài cách để tạo ra cơ chế an toàn này, trong số đó có định luật thứ hai của nhiệt động học sẽ làm tan vỡ bất cứ gì do nhị nguyên tạo ra. Và một cách khác nữa là sự đa dạng của loài người, khiến cho việc bắt mọi người phải hành xử giống hệt nhau thật khó xảy ra.

Cho nên thỉnh thoảng sẽ có một sinh thể Ki-tô đứng lên thách thức những quy định bảo con người là gì và phải cư xử ra sao. Đấy, con thấy được động cơ là thế đấy: Sa nhân sẽ muốn nắm quyền kiểm soát môi trường của chúng, nhưng trên địa cầu sẽ có một số yếu tố khiến cho một sa nhân gần như không thể nào đạt được kiểm soát tuyệt đối. Điều này có nghĩa là ngay từ lúc sa nhân bị sa ngã, ngay từ lúc chúng đến địa cầu, chúng đã phải đối mặt với thực tế đó, là sự kiện chúng muốn nắm kiểm soát vật lý tuyệt đối trên hành tinh nhưng thực sự chúng không bao giờ có khả năng làm được chuyện đó.

Vậy thì sa nhân sẽ đối phó như thế nào? Cách đối phó của chúng là tạo ra một cách giải thích nào đó trong tâm của chúng. Đó có thể là một sự giải thích ở mức cá nhân mà chúng sẽ không bao giờ chia sẻ với ai. Đó cũng có thể là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một tôn giáo, một lý thuyết khoa học, một lý thuyết chính trị, bất kể. Nói cách khác, sa nhân có một nhu cầu ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive) phải giải thích những gì chúng không thể kiểm soát một cách tuyệt đối trong cõi vật lý. Chúng cố tạo ra một hệ thống nhằm giải thích tại sao có những chuyện xảy ra mà chúng không thể tiên liệu hay mong muốn. Đây quả thực là một động lượng rất lâu đời trên địa cầu, và đã có những con quái vật tập thể khổng lồ được dựng lên để thực hiện chuyện này. Bởi vì lẽ tự nhiên, không chỉ có sa nhân bị tác động mà hầu hết loài người trên địa cầu cũng bị tác động.

Vì như con thấy, người bình thường chứ không cứ sa nhân cũng có vấn đề cần giải thích như vậy. Họ trải nghiệm quá nhiều chuyện trên địa cầu mà họ không muốn xảy ra cho mình, và họ phải giải thích tại sao lại như vậy. Một số người phải tìm cách giải thích vì họ đi theo một lãnh tụ sa ngã hứa hẹn sẽ dẫn họ đến một Xã hội Không tưởng nếu họ cứ đi theo – cho nên họ cần giải thích tại sao có những chuyện xảy ra không đúng như lời hứa, hầu họ có thể tiếp tục cắm đầu đi theo do không chịu tự quyết định cho bản thân mình. Một số người lại tin lời hứa của một tôn giáo và họ cũng có nhu cầu giải thích tại sao tôn giáo đó không thể thực hiện toàn bộ lời hứa. Cho nên con có thể nói chung chung, mọi người trên địa cầu đều có vấn đề giải thích nói trên. Họ cần phải giải thích tại sao có những chuyện xảy ra mà mình không muốn hay không chờ đợi.

Đây chính là nguồn gốc của cơ chế tâm lý mà các nhà tâm lý học đã bắt đầu nhìn ra, và cho tới nay họ gọi đó là “những vấn đề kiểm soát”. Tâm lý học nhận ra là mặc dù một số người có vấn đề kiểm soát lớn hơn người khác, nhưng trên cơ bản, mọi người ở một mức tâm thức nào đó đều có những vấn đề kiểm soát.

Cho nên con thấy gì khi một người tìm ra các giáo lý tâm linh, kể cả giáo lý của chân sư thăng thiên? Đấy, như ta vừa nói, con đã lớn lên trên một hành tinh mang tâm thức muốn kiểm soát, muốn giải thích. Con không phải xấu hổ nếu con mang khuynh hướng này. Tất cả các con đã đều có khuynh hướng này khi con tìm thấy đường tu lần đầu tiên. Điều này có thể đã xảy ra trong một tiền kiếp, nhưng khi lần đầu tiên con khám phá ra đường tu tâm linh thì con đã mang sẵn vấn đề kiểm soát này rồi.  

Dùng giáo lý để kiểm soát

Vậy con sẽ làm gì đây? Phải, con làm điều duy nhất mà con có thể làm. Con tìm cách sử dụng giáo lý tâm linh của con để giải quyết nhu cầu cần giải thích, để giải thích những gì đang diễn ra trên trái đất, tại sao một số chuyện lại xảy ra mà con không chờ đợi, không mong muốn, và tại sao mặc dù những lời hứa hẹn mà giáo lý hay tôn giáo hay lãnh đạo tâm linh của con có thể đã đưa ra, con vẫn không thể tránh khỏi những chuyện mình không muốn. Nói cách khác, con cũng có nhu cầu giải thích tại sao con không thể kiểm soát môi trường và hoàn cảnh của con, và bây giờ con tìm cách sử dụng giáo lý tâm linh của mình để làm chuyện đó.

Điều mà sa nhân thường làm là chúng chỉ định một con dê tế thần, và do dê tế thần không chịu tuân theo chân lý duy nhất và tuyệt đối mà mọi chuyện mới tồi tệ như vậy. Một lần nữa, ví dụ điển hình là Hitler với con dê tế thần là người đạo Do Thái – và vì họ là kẻ mang trách nhiệm gây ra tất cả mọi vấn nạn của nước Đức cho nên họ cần bị diệt chủng để vấn nạn được giải quyết. Đó không phải là lần đầu tiên người ta tạo ra ý tưởng đó để giết người hàng loạt. Lẽ tự nhiên, khi con là một người tâm linh và đã đạt được một trình độ trưởng thành nào đó cho phép con nhận diện một giáo lý của chân sư thăng thiên, thì con cũng đã khắc phục được mong muốn kiểm soát của sa nhân – miễn là con không phải là một sa nhân đã tìm ra giáo lý của chân sư, nhưng ngay cả một sa nhân tìm được giáo lý của chân sư cũng đã khắc phục được xu hướng dùng bạo lực. Con không còn muốn giết hại người khác, con không còn muốn hung hãn vật lý để kiểm soát người khác. Thật ra có thể nói là nhiều người tâm linh, ít ra những người tìm thấy giáo lý của chân sư, đã vượt qua nhu cầu muốn kiểm soát người khác. Nhưng không phải mọi người đều đã vượt qua nhu cầu đó, như con có thể thấy trong các đợt truyền pháp trước của chân sư và ngay cả trong những năm đầu của đợt truyền pháp này. Có một số người có mong muốn kiểm soát người khác – họ không dùng những phương tiện vật lý mà những phương tiện tâm lý.

Điều ta thực sự muốn đề cập ở đây là vấn đề con có ý muốn giải thích tại sao con không thể kiểm soát mọi khía cạnh của đời con. Con tìm cách sử dụng một giáo lý của chân sư thăng thiên để giải thích. Tất nhiên, chúng tôi cho phép chuyện đó vì chúng tôi biết con không thể làm khác được ở những tầng tâm thức giữa 48 với 96. Chúng tôi cũng đã thiết kế khóa giảng về bảy tia sáng để con có thể lần hồi khắc phục mong muốn kiểm soát này và thoát dần ra khỏi vòng kềm toả của ý muốn kiểm soát. Bởi vì như chúng tôi đã có nói nhiều lần, con không thể tìm cách kiểm soát người khác trừ khi chính con bị kiểm soát bởi cái tâm lý ở đằng sau, bởi các tà thể tập thể hay thậm chí bởi cả sa nhân.

Cho nên giờ đây tới điểm con đạt đến tầng 96. Điều đầu tiên con cần khắc phục là mong muốn kiểm soát người khác bằng những phương tiện tâm lý. Nếu con không trực diện với nó, nếu con không chịu nhìn vào những cái ngã đã thúc đẩy con muốn kiểm soát người khác một cách ám ảnh cưỡng chế, thì con sẽ không thể vươn lên cao hơn tầng 96. Và do đó con sẽ phải bước vào vòng xoắn ốc hướng hạ, và con sẽ kiểm soát người khác ngày càng chặt chẽ hơn trong một thời gian.  

Vì vậy, nếu con có thể khắc phục ý muốn kiểm soát này đối với người khác, cho dù bằng những phương tiện tâm lý hay bằng cách sử dụng giáo lý của chân sư, thì con sẽ có thể vươn lên cao hơn tầng 96. Điều này không có nghĩa là con đã khắc phục mọi vấn đề kiểm soát. Trong một thời gian ngay cả trên tầng 96, con sẽ vẫn phải đối phó với nó trong phiên bản vi tế hơn của nó. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là con sẽ phải đối phó với nó tuốt mãi cho tới tầng 144 và điểm thăng thiên. Một lần nữa, con có ý muốn sử dụng giáo lý của chân sư để giải thích mọi sự việc xảy ra trên địa cầu, mọi sự việc xảy ra cho con. Vậy con có thể làm gì để vượt qua nó? Hay là chúng ta cần hỏi: Tại sao con lại cần vượt qua nó? Có gì sai trái khi con dùng giáo lý chân sư để cố giải thích mọi chuyện?

À, cái sai trái là con có một số ngã tách biệt giờ đây đang sử dụng giáo lý của chân sư, và do đó các ngã tách biệt này đang tự xưng là chúng nhận được thẩm quyền từ giáo lý chân sư, có nghĩa là con không được chất vấn chúng. Nhưng chúng tôi có dạy: Nếu con không chất vấn một cái ngã thì làm thế nào con có thể khắc phục được nó, làm thế nào con thăng vượt được nó? Cho nên điều này có nghĩa là nếu con cho phép những ngã đó sử dụng giáo lý kiểu đó, con sẽ bị kẹt lại ở một tầng nào đó.

Để vươn lên cao hơn một mức quả vị Ki-tô nào đó, con phải trực diện với lòng mong muốn kiểm soát qua việc sử dụng giáo lý chân sư để giải thích tất cả mọi khía cạnh trong hoàn cảnh cá nhân của con lẫn trong đời sống. Làm thế nào con có thể bắt đầu đương đầu với nó một khi các chân sư đã chỉ nó ra cho con một cách công khai? Nhiều người trong số các con đã tinh tấn đáng kể mà không thực sự ý thức mình đang làm gì, nhưng các con đã có tinh tấn. Một số các con đã bỏ được một số vấn đề từng khiến con quan tâm cách đây 10, 20, 30 năm về trước. Cho nên chúng ta hãy thử nhìn rộng xem những phương pháp nào thường được sử dụng để giải thích mọi chuyện.

Ý muốn giải thích có nhiều tầng cấp

Ý muốn giải thích một chuyện nào đó có mấy mức độ khác nhau. Nó có một thành phần cảm xúc, là nơi con muốn giải thích ở mức cảm xúc. Đây là nơi con có thể, chẳng hạn, bị ảnh hưởng bởi một lãnh tụ cứng cỏi dựng lên một thế giới quan tự nhận là sẽ giải thích được mọi chuyện. Quần chúng bị lôi cuốn vào đó vì khi họ đi theo lãnh tụ đó, họ nhận được một cảm giác như thể mình có quyền năng, mình nắm quyền kiểm soát. Trong thế giới hiện đại, đặc biệt là ở phương Tây, điều xảy ra khá phổ biến là người ta dùng tâm phân tích, lý luận đường thẳng để giải thích mọi chuyện. Tâm đường thẳng làm gì? Nó nhìn thấy một quan hệ đường thẳng giữa nhân và quả. Tâm đường thẳng tin rằng mọi sự xảy ra trên địa cầu đều có một nguyên nhân, rằng mọi sự con nhìn thấy đều là một hậu quả và có một nguyên nhân đã sản xuất ra hậu quả đó.

Theo một nghĩa nào đó và ở mức chung chung như vậy thì điều đó không sai. Có nguyên nhân và có hậu quả. Không có gì trong vũ trụ vật chất mà không có một nguyên nhân nào đó. Nhưng cái giới hạn của tâm đường thẳng là nó dựa trên phân tích, mà phân tich thì làm gì? Nó lấy một tổng thể, chia tổng thể ra làm nhiều thành phần riêng rẽ, xong nó bảo: “Đây là một hậu quả tách biệt mà bây giờ chúng ta có thể tìm hiểu hiểu riêng rẽ, và hậu quả tách biệt này phải có một nguyên nhân tách biệt đã gây ra hậu quả một cách đường thẳng.” Nói cách khác, một hậu quả nào đó luôn luôn phải đến từ cùng một nguyên nhân và chỉ nguyên nhân đó thôi. Khi một quả táo từ trên cây rơi xuống thì quả táo đó có thể được tìm hiểu như một đơn vị riêng rẽ. Nhất định phải có một nguyên nhân đã khiến nó rơi xuống: đó là trọng lực tác dụng lên quả táo. Cho nên có một hậu quả là quả táo rơi, và có một nguyên nhân là trọng lực. Không một yếu tố nào khác cần được xét tới bởi vì bây giờ chúng ta đã có một cách giải thích gọn ghẽ và đường thẳng về nhân quả. Xong tâm đường thẳng suy luận rằng mặc dù có rất nhiều chuyện hỗn độn xảy ra trên địa cầu, vẫn phải có cách chia chúng ra thành từng thành phần đơn giản và tìm ra một nguyên nhân riêng biệt cho mỗi hậu quả, và như vậy chúng ta sẽ hiểu rõ tại sao mọi sự vận hành.

Con sẽ thấy là xuyên qua mọi thời đại, con người đã tìm cách dựng lên đủ loại hệ thống giải thích. Thuở trước, một số nền văn minh tin rằng mọi hiện tượng trong thiên nhiên đều có một nguyên nhân và nguyên nhân này là một vị thần cai quản hiện tượng đó. Có một thần nông nghiệp, một thần săn bắn, một thần mưa, một thần gió, vân vân. Từ rất xưa, người ta cũng đã dùng khoa chiêm tinh để giải thích rằng chuyển động của tinh tú trên trời hình thành một nguyên nhân gây ra một hậu quả nhất định trên trái đất, cho dù tinh tú ở rất xa.

Nói cho thực tế thì vào thời đó, người ta không hiểu là các vì sao xa đến chừng nào vì họ tưởng bầu trời gần hơn rất nhiều. Ngày nay, người ta biết rõ các vì sao xa đến chừng nào nhưng họ vẫn tin là có một nguyên nhân có thể ảnh hưởng đến cá nhân họ, rồi dựa theo đó họ đặt ra những giới hạn trên những gì họ có thể làm hay không được làm trong đời mình. Con yêu dấu, con không thể biểu hiện tâm Ki-tô nếu con tin là con bị giới hạn bởi lá số tử vi của con và con không có khả năng vươn lên cao hơn lá số. Cho nên con thấy điều ta muốn nói, có đủ loại ví dụ cho thấy là con người cứ đi tìm mối quan hệ quá giản dị như thế giữa nhân và quả.

Tất nhiên, nhiều người đi tìm cái đó vì họ muốn dùng hiểu biết của mình về nhân quả để tiên đoán tương lai. Như chúng tôi đã có nói, nếu con không thể tiên đoán chuyện gì có thể xảy ra thì làm thế nào con có thể kiểm soát nó được? Cho nên để thực sự kiểm soát hiện tại, con cũng cần quan tâm đến những gì có thể xảy ra trong tương lai, và con nghĩ là nếu con biết được tương lai thì con sẽ có thể tiên đoán, và con có thể điều chỉnh để sự thể diễn ra không đến nỗi tồi tệ, hoặc ít ra không vượt ngoài dự đoán của con. Cho nên con mới thấy trong một số thành phần của cộng đồng tâm linh trên thế giới, cộng đồng Thời Mới và ngay cả cộng đồng tôn giáo, người ta đã dùng đủ loại phương thức bói toán để tìm cách biết trước một sự cố. Và thường thường phương thức đó dựa trên hên xui may rủi – lá bài tarot, cầu cơ, lời sấm đủ loại, mổ bụng một con thú để xem nội tạng như thế nào – và người ta tin những cách đó là chỉ dấu cho sự việc sẽ xảy ra trong tương lai.  

Nói cách khác, con có thể thấy được sự thiếu ăn khớp, sự bất nhất về nhận thức. Đây con có một người tìm cách kiểm soát tương lai của mình qua một lời tiên đoán, nhưng phương thức người đó dùng để tiên đoán tương lai lại dựa trên một yếu tố hên xui may rủi, không thể tiên đoán trước trong bản chất. Có lý gì mà lại nghĩ rằng việc bói toán dựa trên may rủi có thể nói trước tương lại một cách chính xác? À, điều con cũng có thể nói được là phương pháp may rủi này cũng chính xác không kém một số phương pháp bói toán khác mà người ta đã tìm ra, trong đó có một số phương pháp tiên đoán khoa học.

Cho nên khi con vượt trên tầng 96 và bắt đầu tu đến những tầng cao hơn đó, sẽ rất hữu ích nếu con xem xét toàn bộ động cơ vừa kể. Con có thể nỗ lực nhìn xem con có mang bất kỳ cái ngã nào không, là những cái ngã dựa trên ý muốn kiểm soát. Con có thể khá dễ dàng học cách nhận diện chúng khi có chuyện bất ngờ xảy đến cho mình và con nhận xét cách phản ứng của con. Liệu con có cảm thấy phiền hà, bực tức khi có chuyện bất ngờ xảy đến? Liệu con có cảm giác đó là chuyện bất công, không phải lẽ? Liệu con có xu hướng tự hỏi tại sao Thượng đế lại cho phép nó xảy ra cho mình, vì con đã làm mọi thứ mà con nghĩ Thượng đế mong muốn, vậy thì tại sao nó vẫn xảy ra cho con? Hay tại sao các chân sư thăng thiên đã không ngăn cản chuyện đó xảy ra cho con?  

Cho nên trong số những người tâm linh, có một giấc mơ cho rằng nếu con tuân thủ và chuyên cần áp dụng một giáo lý tâm linh chân chính, thì con phải có khả năng nắm được quyền kiểm soát trên đời mình để không thể xảy ra bất cứ gì mà con không chờ đợi hay không mong muốn.

Nhưng con hãy nhìn vào cuộc đời của Giê-su. Liệu thày có phải là một kẻ bị ám ảnh bởi khả năng kiểm soát mọi khía cạnh trong đời mình? À, nếu thày là một người như thế thì tại sao thày lại cho phép mình bị đóng đinh trên thập tự giá? Thày có muốn bị đóng đinh hay không? Liệu thày có nghĩ: “Ồ, đây có thể là một kinh nghiệm thú vị được nếm mùi việc đóng đinh trên cây thập tự?” Dĩ nhiên là không. Nhưng thày vẫn cho phép nó xảy ra vì thày tự cho phép mình bước vào một tình huống hoàn toàn hỗn độn và không thể tiên đoán trước, nơi thật sự không một ai có thể biết trước được điều gì sẽ xảy ra. Thực tế của hành tinh địa cầu là hành tinh này hỗn độn, dày đặc đến độ không một ai, và ngay cả một chân sư thăng thiên, cũng không thể nào tiên liệu mọi chuyện trong mọi tình huống.        

Lý duyên khởi

Tại sao như thế chứ? À, điều ta muốn trao cho con ở đây là một sự hiểu biết sâu sắc hơn về một khái niệm mà ta từng giảng dạy 2500 năm về trước. Đó là khái niệm mà trong đạo Phật vẫn được biết tới như là lý duyên khởi – như chúng tôi cũng có đề cập rồi. Điều quan trọng khi con đạt đến những tầng cao hơn tầng 96 là con bắt đầu suy ngẫm về điểm này. Ta không nói là con cần đạt được một hiểu biết sắc sảo về động cơ vận hành của nó, nhưng con cần hiểu khái niệm và ý nghĩa của nó, đặc biệt liên quan đến vấn đề kiểm soát.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có nói là quyền tự quyết là định luật tối thượng, và không một sinh thể nào ở cõi thăng thiên sẽ can thiệp vào quyền tự quyết của con người. Do đó, bất cứ nguyên nhân nào mà con đã kích hoạt, chúng tôi sẽ để yên cho con trải nghiệm hậu quả của nó, trừ khi con thay đổi tâm thức của mình trước khi hậu quả ập vào cõi vật lý. Chúng tôi cũng có nói rằng tất cả mọi thứ đều kết nối với nhau. Mọi sự sống đều là một, toàn bộ vũ trụ là một khối liên kết. Điều này thực sự có nghĩa là gì? Trong bối cảnh những gì ta đang trình bày ở đây, điều này có nghĩa là ảo tưởng của tâm đường thẳng cho rằng nó có thể chia tổng thể ra thành nhiều thành phần tách biệt… đúng là một ảo tưởng.    

Tất nhiên con có thể nhìn vào một tổng thể, chia nó ra thành từng thành phần tách biệt và tìm cách nghiên cứu từng phần nhỏ, nhưng làm như thế con sẽ không giải thích được chuyện gì đang xảy ra, vì tất cả là một tổng thể nối kết. Cho nên ngay lúc con quyết định chú tâm vào một khía cạnh đặc thù của tổng thể và coi đó là một vật tách biệt, thì ngay lúc đó con đã bỏ rơi mọi khả năng hiểu được điều gì xảy ra. Bởi vì khi tất cả là một tổng thể nối kết, thì làm sao có thể có khái niệm một vật tách biệt, làm sao có thể có một vật tách biệt với một nguyên nhân tách biệt? Chuyện đó không thể xảy ra. Và cũng không thực tiễn. Đồng ý, ở một tầng cấp nào đó có thể có một mối quan hệ nhân quả. Chắc chắn nếu trong ly nước con uống có một loại vi khuẩn nhất định thì con sẽ mắc bệnh tả. Nhưng điều này vẫn không thực sự giải thích tại sao vi khuẩn đó lại hiện hữu trên điạ cầu, tại sao có chứng bệnh gọi là bệnh tả hay nhiều chứng bệnh khác, và tại sao hai người uống cùng ly nước mà chỉ có một người mắc bệnh còn người kia thì không. Cho nên con thấy ở đây là con có thể sử dụng tâm phân tích đường thẳng để dựng lên những chuỗi nhân quả sẽ vận hành ở một mức rất cục bộ, nhưng chúng chỉ có thể giải thích một số hiện tượng trong một khoảng rất hạn chế, và vẫn còn một bầu cõi khổng lồ mà chúng không thể giải thích được.  

Vì vậy cũng có thể nói là khi con dùng tâm đường thẳng để tìm kiếm hiện tượng tách biệt, hậu quả tách biệt và nguyên nhân tách biệt, thì con sẽ không bao giờ thành tựu được giấc mơ kiểm soát mọi chuyện. Chẳng phải điều đó đã được khoa học chứng minh hay sao khi khoa học duy vật cố thu nhỏ con người thành một sinh thể cơ học nơi mọi chuyện xảy ra trong tâm chỉ là hậu quả của điều kiện vật lý trong bộ não? Và mặc dù đã cố kiểm soát bộ não, khoa học vẫn không thể kiểm soát được hành vi và tâm lý con người. Mặc dù đã vận dụng công nghệ để kiểm soát thiên nhiên hay khí hậu hay nguyên cả hành tinh nói chung, thì khoa học vẫn không thể kiểm soát được mọi chuyện. Khi con là một học trò tâm linh đạt đến những tầng tâm thức cao hơn đó, điều con có thể làm là con hãy bắt đầu suy ngẫm về lý duyên khởi, suy ngẫm về sự liên kết của mọi thứ trên địa cầu.

Một lần nữa, chúng tôi hiểu là điều này sẽ khiến con thắc mắc. Vì chúng tôi đã có dạy: Có một giai đoạn giữa tầng 48 và 96 khi con nỗ lực nâng mình lên khỏi tâm thức tập thể, và con làm vậy bằng cách xây dựng một bản sắc cá biệt. Cho nên lẽ tự nhiên điều này có nghĩa là con sẽ suy nghĩ theo chiều hướng “tôi có thể làm gì để nâng tâm thức mình lên? Tôi có thể làm gì để đảm đương và cải thiện hoàn cảnh vỏ ngoài của mình?” Ở mức tâm thức đó thì điều này chính đáng. Nhưng khi con bắt đầu tiến xa hơn tầng 96, con đang làm gì chứ? Như chúng tôi đã nói, con đang tháo gỡ cái ngã cá biệt mà con đã tạo dựng. Ngã đó chỉ là một cỗ xe đưa con tới một mức nào đó, và giờ đây nó không thể đưa con lên cao hơn. Nó cần được gỡ bỏ.    

Làm thế nào con gỡ bỏ nó chứ? Con cần gỡ bỏ bằng cách xem xét toàn bộ khái niệm tách biệt, và con khắc phục điều chúng tôi đã có đề cập, là ảo tưởng tách biệt do tâm thức nhị nguyên tạo dựng. Khi con tiến đến những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, càng ngày con càng ngộ ra tính duy nhất nằm bên dưới mọi sự sống. Con nhìn thấy mọi sự sống được nối kết như thế nào, con thấy chính con nối kết với Hiện diện TA LÀ, nối kết với các chân sư thăng thiên cùng mọi người khác, thậm chí nối kết cả với hành tinh, với vật chất. Một khi con bắt đầu trải nghiệm sự nối kết rộng lớn này với tất cả, con cũng bắt đầu trải nghiệm và nhận ra tất cả đều liên kết với nhau – đó là lý duyên khởi. Nói cách khác, không có gì khởi lên mà đứng riêng biệt, không có nguyên nhân nào riêng biệt. Bởi vì không một hiện tượng nào trên địa cầu là một hiện tượng riêng lẻ mà là một phần của tổng thể, và do đó nó cũng bước đồng bộ với tổng thể.

Bây giờ để ta cho con một ví dụ hiển nhiên. Con có thể – ít ra là trước khi có cuộc đại dịch – đến một nơi gọi là phi trường. Con mua vé, bước vào một thiết bị công nghệ gọi là máy bay. Chiếc máy bay cất cánh lên không trung và nó bay rất, rất nhanh so với mặt đất. Con khởi đầu hành trình ở một nơi và chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ, con đã tới một nơi khác ở rất xa. Cho nên con có thể nói là máy bay chuyển động một cách độc lập đối với địa cầu vì nó không bị buộc chặt vào mặt đất. Nó bay trên không trung với tốc độ cao và thậm chí nó có khả năng bay nghịch cả hướng quay của trái đất.  

Do đó nếu con nhìn máy bay từ mặt hành tinh này, con sẽ thấy một chiếc máy bay cao trên trời như một vật tách biệt đang chuyển động độc lập đối với những gì xảy ra trên mặt đất. Nếu con ở trong máy bay, con cũng nghĩ mình đang ngồi trong một vật tách biệt chuyển động độc lập với mặt đất. Nhưng chuyện gì xảy ra nếu con đi vào không gian vũ trụ và nhìn ngược lại trái đất? Con có đem theo một chiếc ống nhòm để theo dõi chiếc máy bay kia. Con có thể nói, đúng vậy, ở một mức rất cục bộ nhỏ bé, nó đang di chuyển độc lập đối với mặt đất, nhưng khi con điều chỉnh ống nhòm để nhìn nguyên hành tinh thì con thấy nó di động trong trọng trường của hành tinh. Và nếu con có thể nhìn cả hành tinh quay trên một quỹ đạo xung quanh mặt trời, con sẽ nhận ra là nó đang đồng hành với hành tinh trên quỹ đạo đó, và nó không hề di chuyển độc lập đối với quỹ đạo đó hay độc lập đối với mặt trời.

Thuyết hỗn mang và sự buông bỏ ý muốn kiểm soát

Trên đây là một ví dụ rất thô thiển về lý duyên khởi. Tất cả là một tổng thể nối kết. Con biết thuyết hỗn mang (chaos theory) cũng nói về sự nối kết của tất cả mọi vật, và từ đó mới có câu nói quen thuộc bảo rằng “cái vỗ của một cánh bướm ở một nơi trên trái đất khởi động nguyên một chuỗi những nguyên nhân liên kết với nhau có khả năng kích hoạt sau đó một trận bão lớn ở một nơi khác trên trái đất.” Mặc dù có lẽ đó không là ví dụ thực tế nhất nhưng đó vẫn là một ví dụ có giá trị, theo nghĩa là địa cầu không phải là một hệ thống cơ học đường thẳng như khoa học đã muốn con tin trước đây do sự thiếu hiểu biết. Với thuyết hỗn mang, một cách hiểu biết sâu sắc hơn đã mở ra, cho thấy là không có nguyên nhân nào là đường thẳng giản đơn, vì mọi thứ đều nối kết với nhau đến độ một hiệu ứng rất nhỏ nơi một điểm trong hệ thống, hay một nguyên nhân nhỏ bé nơi nột phần của hệ thống, có thể đem lại một hậu quả to lớn nơi một phần khác của hệ thống.       

Điều này có ý nghĩa gì cho con trên đường tu đến quả vị Ki-tô? Phải, khi con tiến bước ngày càng cao hơn trong tâm Ki-tô, con sẽ có khả năng nhiều hơn để buông bỏ mong muốn kiểm soát hoàn cảnh cá nhân của mình. Một cách nào đó, con gia tăng khả năng đồng sáng tạo, khả năng điều khiển vật chất và do đó điều khiển một số khía cạnh của hoàn cảnh vỏ ngoài, nhưng điều này cũng có thể trở thành một cái bẫy, một ngõ cụt. Có những người đã thực sự tinh tấn trên đường tu tâm linh, đã khắc phục các dạng vị kỷ thấp kém và vươn lên cao hơn tầng 96. Họ đã bắt đầu chứng được cái mà chúng tôi gọi là khả năng của tâm điều ngự vật chất, như con cũng thấy Giê-su từng thể hiện.

Nhưng có một số người sau đó đã mê mải chuyện này đến độ họ muốn dùng khả năng của tâm điều ngự vật chất đó để kiểm soát mọi khía cạnh trong hoàn cảnh vỏ ngoài của mình hầu không một sự kiện trái ý nào sẽ xảy đến cho mình. Họ phải được đúng những điều kiện mà họ muốn, cho dù đó là một căn nhà đẹp đẽ nơi một vùng xinh đẹp của thế giới với thời tiết luôn luôn tuyệt hảo, hay tiền bạc dồi dào, hay bất kỳ giấc mơ nào khác mà họ từng có ở những mức thấp hơn của đường tu nhưng chưa buông bỏ được. Thế là giờ đây họ có được chút ít khả năng điều ngự thì họ đem ra sử dụng để tạo hoàn cảnh mình từng mơ ước.      

Làm như vậy có thể chính đáng trong một thời gian, nhưng sẽ tới một điểm khi con cần bỏ nó lại đằng sau để có thể biểu hiện các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô mà Giê-su đã chứng tỏ. Giê-su đã không dùng khả năng điều ngự của thày để tạo cho mình một đời sống thoải mái. Đó là vì sao thày đã không bao giờ sở hữu đất đai, không bao giờ xây nhà, không bao giờ thiết lập một cộng đồng biệt lập bao quanh mình nơi thày cùng các môn đồ của thày sẽ được bảo vệ. Trái lại, thày đi lang thang khắp mọi nơi mà không thuộc về bất cứ nơi nào, không sở hữu bất cứ gì, tương tự như chính ta vào thuở ta hiện thân là Phật – mặc dù trong những năm chót ta đã có thiết lập một đạo tràng.   

Cho nên con thấy được là tới một điểm con sẽ nhận biết rõ hơn về lý duyên khởi. Con đang khắc phục những cái ngã muốn con kiểm soát môi trường của mình, kiểm soát cuộc đời của mình, và điều này nghĩa là gì? Nghĩa là càng ngày con càng buông bỏ nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Càng ngày con càng buông bỏ mong muốn kiểm soát, con từ bỏ các kỳ vọng, con từ bỏ ngay cả những ý tưởng, những giấc mơ, những hình ảnh về đời con phải như thế nào trên địa cầu. Tại sao con lại cần làm vậy? À, quả vị Ki-tô là gì chứ? Đó là tiến trình sẽ dẫn con đến thăng thiên. Thăng thiên là gì? Là điểm con buông hết mọi thứ của địa cầu. Con ngoảnh nhìn lại địa cầu. Khi con đứng đó ở tầng 144, con ngoảnh nhìn lại: “Còn gì nữa có thể níu tôi lại ở đó?” Nếu còn thì con sẽ phải quay trở lại và giải quyết nó. Nhưng nếu không còn gì nữa thì con sẽ có thể bước qua cánh cổng vào cõi thăng thiên.

An bình phụng sự

Điều con làm khi con đến gần tới tầng 144, là con buông bỏ những cái mà ta gọi là dính mắc, nhưng con cũng buông bỏ những giấc mơ, những ý tưởng về đời con phải trải ra như thế nào. Nếu đây là kiếp chót của con trên địa cầu, con cần buông hết mọi chờ đợi là đời con phải ra sao hay không được ra sao. Con cần đạt tới điểm nhận ra là những giai đoạn chót trên đường tu của con có thể đòi hỏi con trải nghiệm một số sự việc, phải kinh qua một số tình huống mà con thà muốn tránh ở những tầng thấp hơn. Nhưng con đã tới điểm con có khả năng buông bỏ chúng, kinh qua các trải nghiệm đó trong sự an bình nội tâm. Con không bị bận tâm. Con không đổ lỗi cho Thượng đế. Con không đổ lỗi cho các chân sư thăng thiên. Con không đổ lỗi cho chính con. Con chấp nhận đời con trải ra theo cách như vậy. Con cho phép nó trải ra vì con biết là khi con đạt đến những mức này của quả vị Ki-tô, đời con không còn là câu chuyện về con nữa, nó cũng không là chuyện con muốn gì trong cương vị một sinh thể độc lập. Đời con là chuyện con sẽ phụng sự như thế nào.

Con có thể phụng sự tha nhân như thế nào? Con có thể phụng sự các chân sư thăng thiên như thế nào? Con có thể phụng sự con đường phát triển của hành tinh như thế nào? Đây không phải là điều có thể định nghĩa dễ dàng. Có rất, rất nhiều cách để làm điều đó. Suốt các thời đại đã có rất, rất nhiều người đã phải trải qua trong kiếp đầu thai chót những tình huống dường như vô cùng tủi nhục. Nhưng đó là một phần trong công việc phụng sự rộng lớn hơn mà họ có thể cống hiến. Bởi vì khi sống qua tình huống đó, họ đã kích hoạt một số nguyên nhân, một chuỗi nhân và quả vô cùng phức tạp, phức tạp hơn tất cả những gì tâm vỏ ngoài có thể hiểu được, và chuỗi nhân quả này đã tác động lên tâm thức tập thể.

Điều thật sự xảy ra là ở những mức thấp hơn của đường tu, con sử dụng tâm vỏ ngoài phân tích, đường thẳng, để hiểu mọi chuyện. Cho nên ở những mức đó khi có sự cố bất ngờ xảy đến cho con, lập tức con muốn có một cách giải thích. Như con có thể thấy qua một số câu hỏi được đặt ra trên trang mạng này, người ta muốn giải thích mọi chuyện dù nhỏ nhặt nhất trong đời mình. “Tại sao chuyện đó lại như vậy? Tại sao nó lại xảy ra? Tôi đã có thể làm gì để tránh khỏi nó?” Điều này có thể thông cảm được ở một mức nào đó, nhưng khi con đạt đến các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con cần bắt đầu suy ngẫm về những giới hạn của tâm đường thẳng. Con cần nhận ra là do lý duyên khởi, do sự nối kết của tất cả mọi thứ, cho nên tâm đường thẳng không thể nào hiểu và giải thích được mọi chuyện. Sẽ có những chuyện xảy ra cho con mà không có cách chi giải thích đường thẳng, ít ra là không có cách giải thích nào mà tâm đường thẳng có thể hiểu được.

Cái nhìn quả cầu

Nếu con nhìn thuyết khoa học gọi là thuyết hỗn mang, con sẽ nhận ra là nền khoa học duy vật đã đeo đuổi cùng một mục tiêu như thế hầu giải thích mọi chuyện. Mọi chuyện phải có một nguyên nhân đơn giản, người ta phải có khả năng lập ra một phương trình toán học để giải thích, hay ít ra một cách thử nghiệm khoa học nào đó để mô phỏng nguyên nhân. Trong tinh túy của nó, thuyết hỗn mang đề ra là khoa học – nền khoa học duy vật đường thẳng – sẽ không bao giờ có thể giải thích được mọi chuyện, vì sẽ có những hậu quả không mang nguyên nhân đường thẳng, vì không có nguyên nhân duy nhất nào, mà trái lại trong hệ thống nối kết đó có thể có biết bao nguyên nhân khác nhau, biết bao chuỗi sự cố phức tạp.    

Đó là tại sao thuyết đó mới có tên là thuyết hỗn mang. Bởi vì cho đến khi thuyết hỗn mang ra đời thì hầu hết các nhà khoa học vẫn tin rằng chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ khám phá ra tất cả mọi nguyên nhân cùng mọi phương trình toán học phức tạp, và như vậy mọi chuyện sẽ có thể được tiên đoán. Nhưng thuyết hỗn mang đặt lên câu hỏi là liệu việc tiên đoán như vậy sẽ khả dĩ hay chăng, liệu sẽ có một số sự kiện mà khoa học không thể nào giải thích hay tiên đoán được. Thế là các nhà khoa học chọn một cái tên thật hấp dẫn – “hỗn  mang” – bởi vì suốt nhiều thế kỷ, khoa học đã dựa trên mẫu đồ cơ học xem thế gian như một bô máy khổng lồ, và nếu con biết các điều kiện tiên khởi cùng những định luật vận hành bộ máy, thì con sẽ có thể tiên đoán tất cả mọi chuyện xảy ra trong tương lai. Đó là trật tự, sự trật tự tuyệt đối, và như vậy cái tên “hỗn mang” được chọn ra để chỉ điều ngược lại, rằng thế gian kỳ thực không phải là một hệ thống trật tự mà một hệ thống hỗn loạn.

Nhưng tất nhiên, ý tưởng một hệ thống hỗn loạn phần nào là một cái tên nghịch lý, vì làm thế nào một hệ thống lại có thể hỗn loạn và làm thế nào sự hỗn loạn có thể được hệ thống hóa? Tuy vậy, dĩ nhiên con vẫn có thể tìm kiếm một số xu hướng trong sự hỗn loạn. Khi con đạt đến những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, đây chính là điều con bắt đầu tìm kiếm. Con tìm kiếm một cách hiểu quả cầu hơn (spherical understanding) về sự sống thay vì một cách hiểu đường thẳng. Con nhận ra là có một số giới hạn trong những gì có thể được giải thích. Hay đúng hơn, con nhận ra là một hậu quả đặc trưng nào đó không có một nguyên nhân duy nhất mà một loạt những nguyên nhân vô cùng phức tạp đã dẫn đến hậu quả đó.

Trong một số trường hợp, điều này vượt khỏi khả năng lãnh hội của tâm vỏ ngoài. Con tới mức làm hòa với nó. Con nhận ra là con không phải hiểu mọi chuyện xảy ra trong đời con. Con không phải hiểu tại sao nó lại xảy ra. Thật ra con đạt tới điểm con làm hòa với một số sự kiện mà con không tiên đoán được, hay con không chờ đợi, hay con không nhất thiết mong muốn ở một mức nào đó của đường tu.

Cho nên một lần nữa, điều này có thể hiện ra như một nghịch lý hay một bí ẩn, bởi vì chúng tôi đã khuyến khích con làm gì chứ? Chúng tôi đã khuyến khích con nhìn vào đời mình. Chúng tôi đã dạy rằng bất cứ gì xảy ra trong cõi vật lý đều có một nguyên nhân nơi ba cõi cao hơn. Nghĩa là nếu con phát hiện nguyên nhân trong chính tâm lý của con và giải quyết cái ngã đó, thì con có thể thay đổi các điều kiện vỏ ngoài. Lời dạy này vẫn đúng – không phải là ta đang đặt lại vấn đề. Nhưng nó chỉ đúng cho cái ngã của con, đúng cho tâm con – con có khả năng nắm lấy quyền điều khiển, hay đúng hơn quyền điều ngự trên bốn thể phàm của con, và do đó con có thể kiểm soát màu sắc hay hình dạng của ánh sáng khi ánh sáng đi xuống từ Hiện diện TA LÀ xuyên qua các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc để đi vào cõi vật lý. Chuyện này, con có khả năng điều khiển. Và con có thể được ích lợi khi con áp dụng phương pháp tìm xem cái gì trong tâm lý mình đang thị hiện ra một điều kiện nào đó.

Nhưng con phải nhìn nhận (và con sẽ bắt đầu trải nghiệm điều này khi con đạt đến quả vị Ki-tô) là con nhìn thấy được sự nối kết. Đúng là con vẫn có thể điều ngự, con vẫn có thể hiểu rõ những gì trong ba thể cao đã gây ra một số hiện tượng vật lý trong đời con, và con có thể cải sửa tất cả những thứ ấy. Nhưng con không đang sống như một đơn vị lẻ loi trên hành tinh này nữa, mà con sống như một phần của hệ thống rộng lớn hơn có sự tham gia của nhiều người khác. Do đó khi con vươn lên những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con không tìm cách xây dựng cho mình một cuộc sống thoải mái, mà con tìm cách phục vụ tổng thể. Và đây chính là lúc con cần từ bỏ mong muốn, hay niềm tin, rằng con có thể kiểm soát mọi khía cạnh trong đời con.

Con vẫn biết là con có thể kiểm soát tâm mình cùng bốn thể phàm của mình. Con vẫn có thể tìm cách phát hiện cái ảo tưởng ở tầng tâm thức kế tiếp hầu vươn lên tầng đó. Cho nên con có thể leo đến tầng 144 bất kể những gì xảy ra trong hoàn cảnh vỏ ngoài. Sự tiến bộ trên đường tu của con không tùy thuộc vào các điều kiện vỏ ngoài khi con đạt đến những tầng này. Kỳ thực, nó cũng không tùy thuộc vào các điều kiện vỏ ngoài ở những tầng thấp hơn, nhưng con cứ tưởng là nó tùy thuộc. Vì vậy sẽ tới một điểm khi con nhận ra là con đã nhìn vào tâm lý mình và đã giải quyết một số vấn đề trong tâm lý. Và con có thể thấy là có những điều xảy ra trong đời con không phải là hệ quả của một tâm lý chưa giải quyết, mà là hệ quả của sự kiện con là một phần của hệ thống rộng lớn đó, và chính để con có thể phụng sự tha nhân, để con giúp đỡ một số người, để con phục vụ một nghĩa vụ cao hơn, mà con mới cần kinh qua trải nghiệm đó. Con làm hòa với điều này. Con kinh qua trải nghiệm đó và nó không phiền hà gì con, nó không ngăn cản con tiến bước trên đường tu và tiến tới những tầng cao hơn trực chỉ tầng thứ 144.

Không phải ý con mà ý Cha

Vì vậy có thể nói là ở những tầng thấp hơn của đường tu, có vẻ như con bước trên đường tu để đạt một khả năng điều ngự lớn hơn mà con xem là một khả năng kiểm soát chặt chẽ hơn. Ở giai đoạn đó, đúng là con cần làm vậy, theo nghĩa là con cần nâng mình ra khỏi tâm thức tập thể. Nhưng rồi ở trên tầng 96, con nhận ra cái đó thực sự là gì – đó là một ảo tưởng khi con nghĩ rằng đường tu tâm linh sẽ trao cho con quyền kiểm soát. Đó là một ảo tưởng khi nghĩ rằng việc hiện thân Ki-tô sẽ cho con sự kiểm soát toàn diện trên tình huống vỏ ngoài. Bởi vì để biểu hiện những tầng cao của quả vị Ki-tô, con cần buông mọi mong muốn kiểm soát, cả mong muốn kiểm soát hoàn cảnh vỏ ngoài của mình. Con nói: “Làm thế nào tôi có thể phục vụ sự sống?” Con nói – như Giê-su đã nói khi thày ngồi trong Vườn Gethsemane, dư biết rằng mình sẽ bị bắt giữ vào ngày hôm sau và rất có thể mình còn bị tra tấn và đóng đinh – và Giê-su đã nói: “Lạy Cha, nếu đây là ý Cha, xin hãy lấy chén này khỏi con. Dầu vậy, xin ý Cha được thành, chứ không phải ý con.” Thậm chí, con còn đạt tới điểm không cần phải làm vậy. Thày Giê-su đã làm vậy một phần là để chứng tỏ tiến trình, nhưng khi con tới điểm đã làm hòa với điều này thì con luôn luôn ở trong trạng thái: “Không phải ý con mà ý Cha được thành. Cho dù con có phải kinh qua điều gì để phục vụ một sứ mạng nào đó thì con vẫn sẵn lòng kinh qua. Con không cần biết sứ mạng đó là gì. Con không cần một chân sư thăng thiên hiện ra trước mặt giải thích cặn kẽ cho con với giọng nói oang oang tại sao nó cần xảy ra. Con không cần biết vì con tin tưởng. Con tin tưởng là con đã quy hàng bản thân mình cho một mức phụng sự cao hơn, cho nên bất cứ gì xảy ra cũng nằm trọn trong công việc phụng sự đó. Con không cần biết mọi chuyện. Con không cần dùng tâm vỏ ngoài đường thẳng để hiểu mọi chuyện.”    

Nhưng chính ở điểm này con cũng sẽ bắt đầu nhận được một cái gì vượt khỏi một lời giải thích đường thẳng. Con bắt đầu có trải nghiệm nội tâm. Có thể gọi đó là một trải nghiệm trực giác hay thần bí, nhưng kỳ thực đó là một trải nghiệm quả cầu. Đó là lúc con bắt đầu có cái mà thày Maitreya đã để cập ở cuối bài truyền đọc vừa rồi, là giờ đây con không cần đến một vị sứ giả vỏ ngoài làm trung gian giữa con và các chân sư thăng thiên, vì con đang xây dựng một mối quan hệ nội tâm cá nhân với các chân sư.

Điều chúng tôi trao cho con không phải là một lời giải thích đường thẳng dựa trên dữ kiện. Chúng tôi cho con một cái gì phức tạp hơn rất nhiều. Nhiều hơn cả một khải tượng. Nhiều hơn cả một cảm nhận. Đó là một cái gì con không thể giải thích bằng lời nói. Chúng tôi cho con một trải nghiệm nội tâm giúp con nhìn ra đâu là bước kế tiếp trên đường tu của mình. Con thu hoạch ý thức rằng đây là một phần của tấm thảm sự sống đang trải bày ra một cách vô cùng phức tạp, là lý duyên khởi, là một phần của sứ mạng phụng sự của con. Nó cho con cảm nhận an bình rằng đây chính là điều cần xảy ra cho mình. Cho nên con kinh qua nó mà không bị động tâm như trước đây khi con vẫn còn những vấn đề kiểm soát. Bởi vì vào thời đó, nếu có chuyện gì xảy ra mà con không muốn, con sẽ vô cùng bận tâm, phiền hà, do con phải đối diện với nỗi sợ bị mất kiểm soát. Nhưng ở những mức cao hơn này của quả vị Ki-tô, con đã buông bỏ nỗi sợ đó, con đã để cho cái ngã đó chết đi, là cái ngã mang lòng sợ hãi đó.    

Con không sợ là mình không nắm quyền kiểm soát, vì con đã làm hòa với sự kiện là Thượng đế đang cai quản, các chân sư thăng thiên đang cai quản, Hiện diện TA LÀ của con đang cai quản. Con không cần phải luôn luôn biết điều đó với tâm vỏ ngoài, mà con chỉ cần có ý thức nội tâm là mình đang nối kết. Con nối kết với cái tâm rộng lớn đó là Hiện diện TA LÀ của con, là các chân sư thăng thiên, là tâm Ki-tô. Cho nên con an bình. Con có thể nhìn lại cuộc đời của Phật và thấy ta đã đạt một mức tâm thức cao. Ta đã nhập Niết bàn, và ta đã quyết định trở lại. Xong ta bỏ ra nhiều năm trời giảng dạy, giảng dạy những lời dạy cao cấp và thiết lập đạo tràng. Thế rồi chuyện xảy ra vào cuối tuổi 81 là ta đến thăm một vị cho ta ăn thức gì đó ô nhiễm, khiến xác thân ta từ trần.      

Và con có thể tự hỏi: “Nhưng đức Phật chẳng có khả năng tiên đoán được chuyện đó hay sao, để thày không ăn thức ăn đó và thày không đến thăm nơi đó? Tại sao thày lại cho phép nó xảy ra khi thày đã đạt tới mức chứng đạt như vậy?” Đó, bây giờ con có lời giải thích rồi đó. Điều đó đã cần xảy ra như một phần của việc phụng sự của ta. Tại sao nó cần xảy ra? Con yêu dấu, không có lời giải thích đường thẳng nào mà ta có thể ban cho con qua ngôn từ. Có thể con sẽ trải nghiệm được điều này khi con đạt đến mức đó, khi con có khả năng tiếp nhận cái ma trận (matrix) phức tạp hơn đó. Nhưng tâm đường thẳng thì sẽ không thể hiểu nổi. Cho nên ở những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, phân biện Ki-tô có nghĩa là gì? Nó không có nghĩa là con luôn luôn biết được cái gì đúng, cái gì sai, con luôn luôn có thể giải thích được mọi chuyện, con có kiến thức về mọi chuyện, và tại sao chuyện này đã xảy ra và tại sao nó là như vậy.

Không, nó có nghĩa là con có một tầm nhìn rộng lớn hơn, một sự nhận biết quả cầu không cách chi chuyển thành ngôn từ, hay chuyển thành bất kỳ khái niệm nào khác mà người ta tìm thấy trong tâm đường thẳng. Nhưng con có một sự thấu hiểu vượt khỏi mọi hiểu biết. Con có một viễn quan vượt khỏi mọi viễn kiến. Đó là cái cho con cảm nhận an bình tối hậu mà con có thể có được trên địa cầu – vì con an bình với bất cứ gì xảy ra, bất cứ gì trải bày ra.

Ta cũng biết lời giảng dạy này ở một mức cao hơn tâm thức của hầu hết các con, cho nên con sẽ khó lòng bắc được nhịp cầu với nó. Nhưng lời giảng vẫn được ban ra vì có một số người đã được hưởng lợi rồi đó. Tất cả các con tiếp tục bước tới trên đường tu, sẽ đạt tới điểm được hưởng lợi từ lời dạy này – nó có thể không xảy ra ngày mai hay tuần tới, nhưng đối với rất nhiều người trong số các con, nó có thể xảy ra trong kiếp này. Cho nên giờ đây lời dạy đã được ban ra, nó đã đi vào bát cung vật lý nơi con có thể tìm thấy nó, có thể suy ngẫm về nó, và do đó con có thể vươn lên tới điểm đó, là điểm con không còn cần đến giáo lý vỏ ngoài nữa vì con đã nhận được trực tiếp từ bên trong cái ma trận phức tạp hơn gấp bội, cái ma trận không thể nào ban ra bằng ngôn từ qua một lời dạy vỏ ngoài.

Con nhận thấy là rất, rất nhiều giáo lý tâm linh hay tôn giáo, tư tưởng chính trị, khoa học hay triết lý trên địa cầu được diễn tả qua lời nói. Rất nhiều lời dạy như vậy – kỳ thực, tuyệt đại đa số các lời dạy đó – đều tự xưng là chứa đựng Lời của Thượng đế, rằng Thượng đế đã ban ra lời đó và vì vậy lời đó mô tả thực tại một cách trọn vẹn, chính xác. À, đấy là một ảo tưởng do các sinh thể sa ngã dựng lên trong mong muốn kiểm soát con người. Bởi vì nếu chúng có thể khiến mọi người tin rằng kinh thánh là lời đúng từng chữ của Thượng đế, rằng họ không bao giờ được chất vấn lời đó, hay đúng hơn không bao giờ được chất vấn cách diễn giải mà sa nhân đã đưa ra, thì họ sẽ bị mắc bẫy. Con nhận thấy là đợt truyền pháp hiện nay là một trong những giáo lý hiếm hoi trên địa cầu công khai nói rằng có sự giới hạn trong những gì có thể diễn tả bằng ngôn từ, rằng sẽ tới một điểm khi con phải vượt khỏi ngôn từ để chứng được điều gì đó trực tiếp từ cõi thăng thiên. Đây là thực tế. Đây là một lời dạy trung thực và thẳng thắn nhằm giải thoát con thay vì khiến con kẹt lại ở một mức nào đó, rồi bị lệ thuộc vào một vị đạo sư, một nhà lãnh đạo hay một khuôn mặt thẩm quyền vỏ ngoài nào đó.

Chúng tôi không hề có mong muốn hạn chế con, hay đánh bẫy con, hay ràng buộc con vào một giáo lý vỏ ngoài hay vị sứ giả này. Chính sứ giả này cũng không có mong muốn làm rào chắn giữa con và các chân sư thăng thiên hay ngăn cản bước tiến của con. Đó là tại sao chúng tôi mới có thể trao cho con một lời dạy như thế này. một lời dạy không thể trao cho một người vẫn còn những vấn đề kiểm soát. Nó không thể trao cho một nhóm học trò vẫn bị mắc kẹt, không sẵn sàng nhìn xa hơn những vấn đề kiểm soát đó. Ta không nói ra điều này để khơi lên bất kỳ lòng kiêu hãnh nào, vì khi con đạt tới mức con cởi mở với lời dạy này thì cái đó cũng đã hết là vấn đề. Đây chỉ đơn giản là một lượng định thực tiễn rằng sẽ tới một điểm con cần nhìn nhận rằng bất kỳ giáo lý nào được trao qua ngôn từ chỉ có thể dẫn con đến một tầng nào đó – nếu con nhất định cứ mãi trung thành với một giáo lý thì con sẽ cản trở sự tinh tấn của mình – và con cần đạt tới điểm con thăng vượt ngôn từ, thu hoạch tầm nhìn quả cầu và nắm bắt ma trận của hoàn cảnh của mình như nó được thiết kế để trải bày ra.

Ta không muốn nói là chúng tôi đã trao truyền cho con trong hội nghị này mọi điều có thể được trao truyền về quả vị Ki-tô hay phân biện Ki-tô. Tất nhiên chúng tôi đã đưa ra rất nhiều giáo lý khác về đề tài này, và rất có thể chúng tôi sẽ đưa ra thêm nữa trong tương lai. Nhưng những gì chúng tôi đã đưa ra, chúng tôi cảm thấy đó có thể là hữu ích nhất cho cộng đồng đệ tử. Không chỉ có các con đang theo dõi đợt truyền pháp này mà còn có cả một tập thể học trò rộng lớn hơn, là những người có thể sẽ bước vào tìm giáo lý này trong một tương lai không xa lắm.

Cho nên đây hoàn toàn không phải là giáo lý tối thượng, vì quả vị Ki-tô vốn là một tiến trình tuần tự, và không một giáo lý tối thượng nào có thể được đưa ra. Nhưng đó là lời dạy mà chúng tôi cảm thấy hữu ích nhất dựa trên hiện trạng của lý duyên khởi trên hành tinh này. Cho nên chúng tôi tin tưởng lời dạy, tin tưởng con sẽ dùng lời dạy này để khởi lên cái vỗ cánh của bướm sẽ kích hoạt một chuỗi tác động liên kết mà với thời gian sẽ ảnh hưởng to lớn trên tâm thức tập thể cũng như trên lý duyên khởi đang dẫn dắt sự sống trải bày ra trên hành tinh.

Và với lời này, ta muốn gửi lời cảm tạ của tất cả các chân sư đến các con, vì có biết bao người đã sẵn lòng tham gia hội nghị này, đã đặt hết chú tâm vào đề tài phần nào khó khăn này, và cho phép luân xa của mình được sử dụng để phát sóng thông điệp này vào tâm thức tập thể. Ta đã có thể dùng hình ảnh một chiếc cánh bướm. Nhưng tác dụng của một hội nghị như thế này với bao nhiêu người hòa điệu vào, hiển nhiên lớn hơn gấp bội cái vỗ của một cánh bướm. Ta không mong muốn gán bất kỳ hình ảnh nào lên đó. Hội nghị này tất nhiên đã có một tác dụng to lớn, mà với thời gian sẽ đưa hành tinh này vào một hướng đi cao hơn, một hướng đi quyết định. Cho nên vì lý do đó chúng tôi vô cùng biết ơn. Ta niêm các con và ta niêm hội nghị này trong niềm an bình hoan hỉ và luôn luôn tự thăng vượt của Phật.

Con có quyền không thập toàn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 2/8/2020 trong Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng trong hành động qua sự hòa nhập bảy tia sáng.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Con có thể tự hỏi: Phật dính dáng gì đến chuyện của phụ nữ? Phật dính dáng gì đến chuyện của phụ nữ Tây phương hay phụ nữ đang sống trong các nước dân chủ tân tiến? À, các con yêu dấu, ta không có dính dáng trực tiếp. Nhưng chắc chắn là ta có dính dáng gián tiếp, vì ta có thể cung cấp một tầm nhìn có thể giúp phụ nữ thoát khỏi một yếu tố đang giới hạn họ, đang giam họ trong những khuôn nếp cũ. Các thày đã nói là các sa nhân đã lấy quyết định là: “Chúng ta sẽ khiến phái nam trở thành phái tính cao cấp trên Trái đất, chúng ta sẽ dìm phái nữ xuống để họ phải lệ thuộc phái nam. Qua đó chúng ta sẽ tạo ra một xung đột mà nhân loại sẽ không bao giờ giải quyết được”. Tại sao họ lại làm vậy? Các thày cũng đã giải thích là họ nghĩ phái nam dễ nghe theo tư duy cuồng đại cho rằng có một đại nghĩa cần phải được thực hiện.

Điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là một người đàn ông sẽ dễ nói: “Tôi phải bỏ qua một bên quyền lợi cá nhân của mình, ước muốn của mình, đời sống thường nhật thực tiễn của mình. Tôi phải bước ra biểu tình nơi hàng rào chắn lối hay phải gia nhập quân đội để tranh đấu cho đại nghĩa này. Bất kể chuyện gì xảy ra cho gia đình tôi, tôi phải làm việc này”. Người Mỹ có câu nói: “Một người đàn ông phài làm những gì người đàn ông phải làm”. Phụ nữ không dễ bị tu duy cuồng đại quyến rũ bằng. Phụ nữ không dễ dàng chịu bỏ qua một bên đời sống thường nhật thực tiễn của mình để phục vụ một đại nghĩa. Dĩ nhiên đó là vì phụ nữ là các bà mẹ, và làm sao một bà mẹ đang có con nhỏ lại có thể nói: “Tôi cần phải bỏ con cho nó tự lo liệu lấy và ra đi tham gia cuộc chiến này, vì cuộc chiến này quan trọng hơn con của tôi”.

Điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là các sa nhân đã rất khôn ngoan khi họ chọn phái nam làm phái cao cấp, vì điều này đã tạo ta bao hình thức ngược đãi phụ nữ và xung đột giữa hai phái suốt mấy ngàn năm qua. Nhưng như các thày cũng đã nói: “Trong tâm thức nhị nguyên, việc gì cũng có giá phải trả”. Giá mà sa nhân phải trả khi họ chọn phái nam làm phái cao cấp và dìm phái nữ xuống, là họ không ngờ là họ đã tạo ra tiềm năng giúp nhân loại thoát ra khỏi tâm thức nhị nguyên, ngay cả mối xung đột giữa hai phái. Bởi phụ nữ có tiềm năng nâng chính họ lên, nâng phái nam lên và do đó nâng cả hành tinh vượt lên trên tư duy nhị nguyên. Chắc chắn là đàn ông cũng có thể nhận ra các thiếu xót và mâu thuẫn của tư duy nhị nguyên. Nhưng trên một bình diện rộng lớn, chính phụ nữ là những người có thể nhìn vào các ý tưởng đựơc đề ra trên thế giới và nói: “Ý tưởng này không đúng nếu nó có thể làm hại con của tôi. Dẹp đời sống hàng ngày và việc nuôi con qua một bên để theo đuổi các ý tưởng trừu tương này là điều không phải. Con tôi là sinh thể có thực, có sự sống, trong khi ý tưởng này là một cái gì trừu tượng, không có sự sống. Sự sống phải ở trên các ý tưởng trừu tượng, chết.” Đó là điều có thể giúp phụ nữ khắp thế giới đứng lên giải thoát mình khỏi cuộc đấu tranh cuồng đại đã và đang diễn ra trên hành tinh này và nói: “Hãy để lưỡi cày thắng đao kiếm, hãy quên đi những đại nghĩa cuồng đại và chú tâm vào việc cải thiện đời sống hàng ngày của mọi người trong xã hội.”

Nhiều người trong các nền dân chủ tân tiến đã nhiều phần nâng họ ra khỏi tư duy cuồng đại và các đại nghĩa cuồng đại, Họ không còn thấy là họ phải đi chinh phục thế giới hay làm cảnh sát cho toàn thế giới, và họ không còn thấy các chuyện này quan trọng hơn đời sống thường nhật của công dân nước họ. Nước Hoa Kỳ hiển nhiên là một thí dụ một nước dân chủ đã không làm được bước chuyển tiếp này. Vì vậy Hoa Kỳ vẫn thấy cần duy trì khả năng quân sự lớn nhất toàn cầu để lúc nào cũng sẵn sàng cấp tốc phóng quyền lực đến bất cứ nơi nào trên hành tinh. Do đó, phụ nữ có tiềm năng thúc đẩy cuộc chuyển đổi này. Nhưng điều mà thày muốn cống hiến ở đây là để thúc đẩy cuộc chuyển đổi này, phụ nữ cần vượt qua một khía cạnh của tư duy cuồng đại mà các sa nhân, đàn ông và nhiều nền văn hóa và xã hội đã áp đặt trên phái nữ.

Có nhiều khía cạnh tinh tế của vấn đề này. Có nhiều cách để giải thích vấn đề, nhưng các con hãy cho thày bắt đầu bằng cách đưa ra một lối giải thích. Phụ nữ đã từ rất lâu bị dìm trong nhiều dân tộc. Nhưng chúng ta hãy chú tâm vào tình trạng ở các nước dân chủ tiên tiến nhất. Nếu các con nhớ lại thời kỳ trước khi các nước này trở nên dân chủ, thì lúc đó phụ nữ bị dìm, phải chịu một địa vị xã hội thấp kém so với đàn ông. Các nước này trải qua một cuộc chuyển dời và họ chuyển qua thể chế dân chủ, nhưng trong nhiều thập niên, phụ nữ vẫn không được quyền bầu phiếu, họ bị coi là không có khả năng hiểu chuyện thế giới, tức là, mở ngoặc, đóng ngoặc, hiểu tư duy cuồng đại, và do đó họ không nên có quyền bầu phiếu vì như vậy sẽ gây hỗn loạn. Một điều tương tự xảy ra trong thương trường. Phụ nữ bị ngăn không cho giữ các chức vụ có quyền quyết định. Trong một thời gian rất dài, phụ nữ còn không được đi làm, ngoại trừ ở một số công việc được coi là hợp với phụ nữ. Vậy chuyện gì đã xảy ra khi các nước dân chủ tân tiến này trở nên tân tiến hơn và bắt đầu cho phụ nữ bình quyền và bình cơ hội? Chuyện xảy ra là đã có một khía cạnh rất tinh tế của tư duy cuồng đại khởi ra mà các nền dân chủ tân tiến không nhận ra. Chúng ta hãy lấy thí dụ một người phụ nữ gia nhập thương trường và đạt tới một địa vị thường do đàn ông nắm giữ. Điều gì người ta, trong tiềm thức hay ít ra là không nói ra, chờ đợi nơi người phụ nữ này? Người ta chờ đợi là họ sẽ thất bại, cũng có khi đồng nghiệp nam của họ mong họ thất bại. Điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là người ta chờ đợi người phụ nữ phải chứng tỏ khả năng của mình bằng cách làm việc giởi hơn là những gì một người đàn ông đã làm và có thể làm.

Như vậy việc này đã tạo ra hậu quả gì trong các nước dân chủ tân tiến được coi là tiến bộ và đã cho nam nữ bình quyền? Nó đã tạo ra một tư duy rất tinh tế, và tư duy này đã tạo ra một tà thể quần chúng rất mạnh mẽ, một quái thể quần chúng tìm cách đút những vòi của nó vào từ trường các phụ nữ. Nó là một quái thể, mà chúng ta có thể gọi là quái thể cầu toàn, hay là tà thể cầu toàn. Nó cũng ảnh hưởng nam nhân, nhưng từ sau phong trào giải phóng phụ nữ, nó đã có một ảnh hưởng rất lớn trên ba thể cao – là cảm thể, trí thể và bản sắc thể – của nhiều phụ nữ trong các nước dân chủ tân tiến. Nó đã phóng chiếu tới các phụ nữ khiến họ bị lập trình để tin, nhưng chính họ cũng đã chấp nhận, là họ cần phải thập toàn.  Họ cảm thấy họ cần phải giống như Mary Poppins, tức là phải toàn hảo trên mọi phương diện để có thể được chấp nhận, dù họ đang sống trong những nước dân chủ tân tiến tiến bộ đáng lý phải cho phụ nữ đồng quyền và đồng cơ hội.

Các con có thể thấy là trong các xã hội tân tiến này, phụ nữ đã được bình quyền bề ngoài trên các mặt chính trị, kinh tế, luật pháp, nhưng họ chưa được bình quyền tâm lý. Vì các xã hội này vẫn chấp nhận, có thể là mặc nhiên nhưng vẫn là chấp nhận, là một người đàn ông không giỏi lắm vẫn được quyền giữ chức vụ của mình. Nhưng một phụ nữ thì cần phải gần như toàn hảo trong công việc của mình. Người phụ nữ không thể phạm lỗi như một người đàn ông vì sẽ bị ngược đãi, hay ít ra thì cũng sẽ bị coi là đã không làm tròn bổn phận vì họ là phụ nữ. Nhiều phụ nữ đã chấp nhận điều này, và họ đã tự tạo sự chờ đợi là họ sẽ làm được như vậy, tức là họ sẽ trở thành một siêu nhân. 

Khi con là một phụ nữ trong các nước dân chủ tân tiến và tiến bộ thì người ta chờ đợi con sống ra sao? Con phải là người vợ toàn hảo cho chồng, là người mẹ toàn hảo cho các con, là người nhân viên toàn hảo trong công việc. Con cũng có thể phải là người lo cho cha mẹ toàn hảo, người con gái toàn hảo, và làm sao có ai sống được như vậy? Nếu con lấy bất cứ người đàn ông nào trong các nước dân chủ tân tiến này và đặt họ vào địa vị của đa số phụ nữ, ít nhất là các phụ nữ được coi là thành công, thì các vị đàn ông này sẽ bị xụm về mặt tâm lý vì không chịu nổi áp lực mà các phụ nữ kia phải đương đầu. Đàn ông giản dị là sẽ không đương nổi. Họ sẽ bị khủng hoảng tâm thần, hay họ sẽ cởi bỏ yếm làm bếp và vừa chạy ra khỏi nhà bếp vừa la làng.

Điều mà phụ nữa phải gánh chịu trong các nước dân chủ tân tiến quả thực là vô nhân đạo. Đây là một vi phạm quyền làm người. Theo chuẩn mực mà các sa nhân đã phóng chiếu lên nhân loại, một chuẩn mực nhị nguyên, thì không ai toàn hảo. Chưa một ai đã từng toàn hảo theo chuẩn mực này, kể cả chính các sa nhân, và không một ai sẽ có thể toàn hảo theo chuẩn mực đó. Các thày đã nói điều gì? Mẹ Mary trong bài truyền đọc mở đầu hội nghị đã nói đến hậu quả của lý luận đường thẳng và suy nghĩ nhị nguyên. Điều mà tâm nhị nguyên tạo ra là một chuẩn mực. Nó phóng chiếu ra rằng con người phải sống đúng theo chuẩn mực đó. Nếu các con nhìn vào nhân loại nói chung, không chỉ riêng phụ nữ trong các nước dân chủ tân tiến, thì con thấy là đa số người trên hành tinh đã bị ảnh hưởng. Bất kể con sống trong xã hội nào, lúc nào cũng có một chuẩn mực, một sự phóng chiếu rất mạnh là con phải sống đúng theo chuẩn mực đó.

Vậy đa số con người phản ứng ra sao trước tình trạng này?  Đã có hai phản ứng chính. Nhiều người, đúng hơn là ở đa số các nơi trên thế giới số đông nhìn nhận là họ không thể sống đúng theo chuẩn mực đã được đề ra. Vậy họ phản ứng ra sao? Họ phản ứng theo chuẩn mực, theo nền văn hóa nơi họ sống: họ cảm thấy tội lỗi, họ cảm thấy nhục nhã, họ cảm thấy không xứng đáng, họ cảm thấy bất lực. Nhưng họ khuất phục sự kiện là họ sẽ không bao giờ theo đúng được chuẩn mực. Ngoài ra có một số người, con số tùy quốc gia, sẽ làm một số điều khiến họ cảm thấy là: “Tôi đang làm đúng theo chuẩn mực”.  Làm sao họ nói vậy được? Bằng cách dùng tâm nhị nguyên. Tâm nhị nguyên làm được gì? Nó có khả năng tạo ra một phiên bản riêng của chuẩn mực đã được lọc lựa theo những gì nó muốn. Nói cách khác, khi con đi vào tư duy này, con cho rằng vì con thực thi một số yêu cầu của chuẩn mực giỏi hơn người khác, con đã thực thi tất cả mọi yêu cầu. Nói cách khác, con chối là mình không thực thi tất cả mọi yêu cầu. Không ai có thể thực thi mọi yêu cầu, sẽ không có một ai làm được điều này, nhưng có một số người đã trong tâm chối bỏ là họ không làm theo đúng chuẩn mực. Họ tin rằng vì họ đã thực thi một số yêu cầu, vì họ đã làm được một số điều, vì họ là trường hợp đặc biệt vì lý do này hay lý do khác, nên họ đã làm đúng theo chuẩn mực. Do đó, họ cho rằng họ thật sự toàn hảo trên mọi phương diện, trong khi người khác thì không. Đó là lý do họ nghĩ họ phải lãnh đạo và các người kia phải phục tùng và tuân lời họ.

Nhưng đó chỉ là một chuẩn mực đã được lựa lọc và cá nhân hóa dựa trên sự chối bỏ một số điều, từ chối không thấy một số điều. Chuẩn mực lựa lọc do sa nhân tạo ra, chính sa nhân bị giam trong đó, nhưng họ đã khai thác nó khiến rất nhiều người không phải là sa nhân cũng bị giam trong đó.  Hậu quả của chuẩn mực sa ngã này là gì? Nó tạo ra một thái độ rất phán xét, thích chỉ trích nghiêm khắc. Đây là điều các con có thể quan sát, là có rất nhiều người, đặc biệt là phụ nữ trong các nước dân chủ tân tiến, phải gánh chịu thái độ phán xét nặng nề này. Nếu họ làm một lỗi lầm nhỏ, họ cảm thấy là họ phải hổ thẹn. Nhiều người trong các con là phụ nữ trong các nước dân chủ, nhiều người trong các con không sống trong các nước dân chủ, đều có thể thấy là mình đã lớn lên với chuẩn mực này. Các con được dạy dỗ là phải tự phán xét mình dựa theo chuẩn mực này. Các con được dạy dỗ là phải phản ứng khi người khác phán xét con dựa theo chuẩn mực này.

Các con hãy cho thày lặp lại, vì thày biết là có nhiều người khó chấp nhận và hiểu được điều này. Không một ai có thể làm đúng theo chuẩn mực. Không một ai đã từng làm được, không một ai sẽ làm được. Nếu con chấp nhận được điều thày nói, thì con sẽ nhận ra là chuẩn mực này không thể làm được. Sự toàn hảo không có. Như một con người, một trong những quyền làm người căn bản là quyền không toàn hảo dựa trên bất cứ chuẩn mực nào. Ta có quyền không toàn hảo. Ta không cần phải toàn hảo trên Trái đất. Các con nghĩ coi, có hợp lý chăng là ta sống trên hành tinh lôi thôi và hỗn loạn này mà ta lại phải toàn hảo? Điều này có hợp lý chăng? Khi con suy nghĩ một chút thì sẽ thấy là hoàn toàn không hợp lý. Dĩ nhiên là đa số con người không suy nghĩ về điều này. Họ còn không có khả năng đặt câu hỏi, họ còn không nhận ra là có một chuẩn mực. Khi con bắt đầu nhận ra nó, thì con có thể tự nói với mình: “Không, không, không, sa nhân không thể lừa tôi nữa. Họ sẽ không thể kiến tôi sống phần còn lại cuộc đời tự phán xét mình đựa theo chuẩn mực này. Tôi chán việc này lắm rồi. Tôi sẽ nhìn vào những cái ta đang bị việc này ảnh hưởng, những cái ta và tôi đã tạo ra để phản ứng lại việc này. Tôi sẽ tuần tự loại trừ chúng ta khỏi bốn thể phàm của tôi và để cho chúng chết đi, vì tôi muốn được giải thoát khỏi tính cầu toàn này, khỏi ý niệm phải tự phán xét mình dựa trên chuẩn mực này. Tôi có thể không thoát khỏi bị phán xét bởi người khác, vì họ có quyền tự quyết của họ. Nhưng ít nhất tôi có thể tự giải thoát mình, để khi người khác phán xét tôi, thì ông hoàng thế gian tới nhưng không nắm được gì nơi tôi cả. Chuyện này không ảnh hưởng được tôi. Tôi cho họ quyền tự do tha hồ phán xét tôi, nhưng tôi cũng có quyền tự quyết không để sự phán xét của họ ảnh hưởng tôi và cách tôi sống cuộc đời mình.”

Nhiều phụ nữ đã là người đi tiên phong thách đố chuẩn mực thập toàn này, dù có khi họ không nhận ra hay không làm một cách ý thức. Họ từ chối không sống theo chuẩn mực của cha mẹ họ, những gì cha mẹ họ chờ đợi, xã hội chờ đợi, những tiêu chuẩn của xã hội đã được gán lên họ. Họ từ chối các điều này. Có khi họ làm vậy chỉ giản dị vì họ không thể sống theo chuẩn mực được. Nhưng cũng có phụ nữ hành động một cách có ý thức bằng cách thách đố những chuẩn mực quy định thế nào là phụ nữ trong xã hội họ sống. Vậy, thày là Phật thì thày có thể cống hiến gì cho những phụ nữ sống trong thế giới tân tiến khi họ nhận ra là có chuẩn mực thập toàn đã được gán lên họ? Thày có thể cống hiến khái niệm mà thày đã cống hiến 2,500 trước, tức là khái niệm không dính mắc. Các con cũng có thể nói là Bát Chánh Đạo mà thày đã giảng mấy ngàn năm trước có thể coi là một cách để vượt qua chuẩn mực thập toàn.

Thày biết là có nhiều Phật tử đã bị ảnh hưởng bởi tư duy sa ngã, tư duy nhị nguyên. Họ đã lấy Bát Chánh Đạo và nói rằng: “Bát Chánh Đạo quy định một chuẩn mực thập toàn. Nếu ta theo Bát Chánh Đạo, nếu ta thực hành chánh mạng, chánh ngữ và các chi phần khác, thì ta sẽ là người toàn hảo.” Nhưng Bát Chánh Đạo hoàn toàn không dạy điều này. Bát Chánh Đạo nói lên điều phải. Thày biết là thời nay, nhất là trong nền văn hóa Thiên chúa giáo, phải và trái có nghĩa hoàn toàn khác, có hàm ý hoàn toàn khác 2,500 trước đây.

Chữ chánh được dùng trong chánh nghiệp, chánh mạng không có nghĩa đúng đối ngược với sai. Chuẩn mực thập toàn do sa nhân đề ra nói rằng: “Nếu bạn sống đúng theo chuẩn mực, thì bạn đúng, nếu không thì bạn sai.” Mục đích của thày khi giảng pháp là để giúp con người thoát ra đối đãi, đối cực nhị nguyên.  Do đó thày không dạy cái đúng đối ngược với cái sai. Điều thày dạy là đạt không dính mắc, tức là theo trung đạo, tức là không cố gắng làm đúng đối ngược với sai. Cái con muốn đạt là vượt lên trên cả tâm thức này, đạt không dính mắc đến đúng và sai, đến các đối cực nhị nguyên. Do đó, con làm điều đúng dựa trên một viễn quan cao hơn, viễn quan bất nhị, viễn quan của Phật. Chữ “chánh” có một ý nghĩa khác, một hàm ý khác vào thời đó, bằng không thày đã dùng một chữ khác. Ngay cả chữ “trung đạo” cũng có một hàm ý khác ý nghĩa trong thế giới Tây phương ngày nay. Đó là lý do vì sao có nhiều người Tây phương tưởng họ là Phật tử, nhưng họ không hiểu ra ý nghĩa thực của trung đạo. Trung đạo không phải là ở giữa, là một thỏa hiệp giữa hai cực. Trung đạo là vượt lên trên các cực đối đãi.

Đó là gì các thày đã truyền dạy, không phải chỉ riêng mình thày, mà tất cả các chân sư nữ, và một số các chân sư nam. Các thày đã truyền cho các con các bài giảng về tư duy cuồng đại, về chấn thương nhập đời, về cái ngã gốc, về các ngã tách biệt và làm sao khắc phục được chúng. Nếu các con dùng các bài giảng này và ghi nhớ những gì thày nói ở đây về chuẩn mực thập toàn, thì con sẽ đạt được tiến bộ rất lớn. Các con là đệ tử trực tiếp của các thày có thể đạt tiến bộ rất lớn trong việc giải thoát mình khỏi chuẩn mực đó. Các con có thể thoát khỏi ý niệm phải là một phụ nữ thập toàn, mà là một “chánh” phụ nữ, một phụ nữ không dính mắc. Các con có thể là một phụ nữ tự do, một phụ nữ đã vượt lên trên chuẩn mực xét đoán và tâm thức xét đoán. Các con đã có những dụng cụ tâm linh để làm chuyện này. Khi con áp dụng cho chính mình, sau đó dùng tự do của mình để kêu gọi cho các phụ nữ khác, thì sẽ có một nhóm phụ nữ khác, một tầng lớp phụ nữ khác hiện đang đầu thai có khả năng làm việc này. Sau đó, sẽ có thêm người khác theo sau, và việc này sẽ lan ra như những vòng sóng trên mặt nước. Thực sự là nếu các nước dân chủ tân tiến tự coi là tiên tiến nhìn nhận quyền này – quyền không cần phải toàn hảo – như một nhân quyền thì đó là điều rất lợi ích, nhưng quyền này cần phải được công nhận đặc biệt cho phụ nữ. Phụ nữ đã được bình quyền trên mặt pháp lý và vật lý nhưng họ không được bình quyền trên mặt tâm lý vì họ không được làm những lỗi mà đàn ông vẫn thường được làm. Đã bao lần con nghe câu nói bình dân này: “Ồ, đây chỉ là điều đàn ông vẫn làm, hắn chỉ là một người đàn ông, trai trẻ lúc nào cũng là trai trẻ.”? Nhưng có bao giờ con nghe người ta nói: “Ồ, không sao đâu, vị này là phụ nữ, vị này không sống theo đúng chuẩn mực, nhưng không sao cả, con gái lúc nào cũng là con gái.”? Con không bao giờ nghe người ta nói vậy, vì ý niệm này không có mặt trong xã hội. Hiện nay vẫn còn khuynh hướng phán xét tâm lý phụ nữ. Đã đến lúc điều này phải được mang ra giải quyết, được nói lên, được mang ra anh sáng, để người thẩm quyền giải quyết.

Đương nhiên là đã có phụ nữ nhận ra điều này, sẽ có hơn nhiều phụ nữ nhận ra điều này, và như vậy sẽ tạo ra một lực đẩy. Các con có thể đứng lên và nói: “Phụ nữ phải được quyền tự do không toàn hảo giống như đàn ông, và đàn ông cũng phải được quyền tự do không toàn hảo. Tất cả mọi người phải được quyền tự do bắt đầu ở một mức nào đó và dần dần cải thiện chính mình.” Chuẩn mực thập toàn đã có hậu quả gì? Nó đã tạo ra một con đường giả, giống như những gì trước kia được gọi là tà đạo. Tức là như sau: “Đây là một con đường, có một số yêu cầu, có một số điều mà bạn phải làm. Nếu bạn chịu phục tùng con đường này, theo từng bước và từng giới luật, và khi bạn đỗ kỳ thi khảo hạch cuối cùng, thì bạn trở nên toàn hảo.” Đó là con đường tà đạo mà các sa nhân đã hứa hẹn. Nếu bạn theo đúng từng bước, thì bạn sẽ trở thành một thày cấp 33 trong hội các thày tạc đá, bạn là người thập toàn, bạn đứng trên mọi chỉ trích.

Cũng đã có đệ tử chân sư thăng thiên trong các đợt truyền pháp trước đã tin rằng: “Nếu ta tuân thủ tất cả các yêu cầu của tổ chức này, nếu ta đọc tất cả các bài chú, nếu ta làm Người Giữ Lửa, nếu ta làm Người Hiệp Thông, nếu ta vào ban nhân viên, nếu ta thành một người trưởng ban nhân viên, nếu ta thành thư ký riêng của sứ giả, và vân vân và vân vân, thì ta sẽ trở nên toàn hảo. Lúc đó, ta sẽ hơn tất cả các đệ tử bất toàn mới gia nhập, ta sẽ ở đia vị quyền lực. Ta có quyền, ta còn có bổn phận phải phán xét các người đó và cho họ biết là cọn còn bất toàn, để họ bắt đầu tiến theo con đường mà ta đã đi theo.” Những người đó đã và vẫn tin chắc rằng họ theo con đường của các chân sư thăng thiên, con đường dẫn tới quả vị Ki-tô.

Nhưng những vị đó theo con đường nào? Những vị đó ở trong một tổ chức được các chân sư thăng thiên bảo trợ, họ dùng giáo lý của chân sư thăng thiên để biện hộ cho hành động của họ, nhưng họ đang theo tả đạo hay con đường của sa nhân. Con sẽ không thể vào thiên đường nếu chỉ theo một chuẩn mực thập toàn được quy định trên Trái đất. Nếu các sa nhân có thể quy định một chuẩn mực giúp họ vào thiên đường, thì tại sao họ lại không có ở đó? Thể nào họ cũng muốn vào Thiên đường và làm những chuyện họ muốn làm ở đó? Vậy, nếu các sa nhân không vào được thiên đường bằng cách theo chuẩn mực của họ, thì làm sao con lại nghĩ một đệ tử chân sư thăng thiên lại làm được điều này? Đây là một nhận thức hoàn toàn phi lý, hoàn toàn sai lạc.

Nhưng ở đây thày không muốn chỉ xoáy riêng vào các đệ tử chân sư thăng thiên tuy rằng ai cũng hy vọng họ sẽ dùng giáo lý này để tự giải thoát khỏi tư duy sa ngã và tả đạo. Các con có thể nhìn các tín đồ tôn giáo và các người tâm linh trên thế giới, trong hầu như tất cả mọi tổ chức, kể cả Phật giáo, ít ra là trong nhiều giáo phái của Phật giáo, để thấy rằng họ đi theo cùng một chiều hướng. Họ đã tạo ra một chuẩn mực, nhiều khi bất thành văn, có khi chỉ mặc nhiên, hoặc chỉ được nói ra từng phần đơn lẻ: “Bạn phải làm điều này, bạn phải làm điều kia”. Một áp lực tâm lý được tạo ra là khi bạn là một tín đồ Công giáo, Phật tử, Hồi giáo vân vân tốt, thì bạn phải sống theo chuẩn mực này. Có người tuân theo, và cũng có người không tuân theo. Những người tuân theo cảm thấy là họ đã tự nâng mình lên một địa vị cao và có quyền phán xét người khác: “Đúng là Giê-su đã nói rằng – đừng phán xét nếu con không muốn bị phán xét, nhưng điều này không áp dụng tới chúng ta. Chúng ta là linh mục, là linh mục Công giáo.”

Nhiều tín đồ Công giáo nghĩ gì về các linh mục của họ? Khi họ nói: “À, vị ấy là một người của Thiên chúa” thì họ có ý gì? Ý họ là: “Vị ấy sống đúng theo chuẩn mực do đạo Công giáo quy định, và do đó vị ấy không thể bị chỉ trích. Chúng ta là người thường không có quyền phán xét vị ấy. Chúng ta không nên phán xét vị ấy. Vị ấy là một người của Thiên chúa. Đúng là con tôi có về nhà và nói rằng vị linh mục dẫn nó đi cắm trại và sờ mó nó một cách không thích nghi. Nhưng tôi không nên phán xét vị ấy. Vị ấy là một người của Thiên chúa. Có thể là con tôi chỉ tưởng tượng vậy thôi. Có thể là nếu tôi lờ chuyện này thì nó sẽ biến đi.”

Các con có thể thấy là cái cơ chế, cái chuẩn mực đã dẫn tới thái độ phán xét của những người tự coi là họ đang sống đúng theo chuẩn mực, cũng đã dẫn tới tình trạng bạo hành rộng lớn không những chỉ trong đạo Công giáo, mà trong nhiều tôn giáo khác nữa. Cái chuẩn mực đó là gì nếu không phải là biểu hiện của tư duy cuồng đại, là bản chất của tư duy cuồng đại: “Có người tốt, có người xấu, ta đúng, họ sai, Do đó ta có quyền phán xét họ.”? Đó chính là tư duy cuồng đại, mà ai là những người bị nó ảnh hưởng nhiều nhất? Chính là đàn ông. Có đúng chăng là tất cả linh mục Công giáo đều là đàn ông? Nhiều nhà lãnh đạo các phong trào tâm linh hay tôn giáo, phong trào chính trị, quân đội, vân vân, là đàn ông.

Các con hãy nhìn vào quân đội và thấy là họ có chuẩn mực riêng của họ. Con hãy nhìn binh chủng Thủy quân lục chiến của Hoa Kỳ, họ có một chuẩn mực rất khe khắt quy định thế nào là một người lính Thủy quân lục chiến, và những ai không tuân theo sẽ bị ngược đãi, bị áp lực tâm lý vĩ đại. Vậy, ai có thể giải thoát hành tinh này ra kỏi tư duy phán xét? Có lẽ không phải là đàn ông. Các con yêu dấu, vậy còn lại ai? Đương nhiên là phụ nữ là những người có cơ hội, một cơ hội xuất chúng tại thời điểm lịch sử này, để nhận ra cơ chế này, và bắt đầu giải thoát chính mình và các con mình, và sau đó là chồng mình và xã hội chung quanh của mình.

Thày biết rất rõ là nhiều phụ nữ đã được giáo dục là họ phải tự phán xét mình dựa theo chuẩn mực. Mẹ họ, cha họ đã phán xét họ như vậy. Bây giờ thì họ đã trưởng thành và lập gia đình thì người chồng của họ cũng phần nào phán xét họ. Ta có thể hiểu vì sao một số phụ nữ không chịu được sự căng thẳng này và đối chọi lại chồng họ. Họ muốn tự giải thoát khỏi tình trạng này, và người muốn tự giải thoát có khi phải qua một giai đoạn xa lánh người đang hành hạ mình. Họ cần nhìn nhận là người kia đang hành hạ mình, và như vậy khiến họ khó có liên hệ với người đó. Nhưng nếu phụ nữ có thể dùng bất cứ phương tiện tâm lý nào mà họ tìm ra để tự giải thoát khỏi chuẩn mực, thái độ, tư duy phán xét, thì bước tới của họ là giúp những người đàn ông trong đời họ cùng làm như vậy.

Các con có thể quan sát nhiều xã hội trong đó đàn ông có thái độ rất phán xét đối với phụ nữ, trong đó có tất cả các xã hội dân chủ tân tiến, tuy họ không phán xét nhiều bằng một số thành phần khác, tỷ dụ như đàn ông Hồi giáo. Con có thể nghĩ rằng đàn ông là những người đang có thái độ phán xét. Nhưng nếu con nhìn kỹ thì con sẽ thấy là cả đàn ông lẫn đàn bà đều bị dính vào đó. Như các thày đã nói nhiều lần, con không thể làm gì cho người khác mà không làm cho chính mình trước. Nếu con phán xét phụ nữ, thì có thể con đang hướng tâm phán xét về phụ nữ, nhưng con đã tự phán xét mình trước rồi. Con đã tự nhốt mình vào một cái hộp trong đó con không có chỗ xoay xở. Do đó, nếu một phụ nữ đã tự giải thoát được khỏi con quái thể cầu toàn, thì bước tới họ sẽ giúp giải thoát chồng mình. Họ cũng có thể nhìn vào các con và nói: “Tôi chắc chắn không muốn con tôi lớn lên với cái chuẩn mực bất khả thi và thái độ phán xét này.”

Nếu người phụ nữ giải thoát được chồng mình, thì có thể người chồng đó sẽ giúp giải thoát được các đàn ông khác. Một lần nữa, con thấy là đầu mối xảy ra trong gia đình, đầu mối là một nguời đứng lên tỏ thái độ, và sau đó mọi chuyện lan dần ra. Khi có đủ cá nhân trong xã hội đứng lên tỏ thái độ ở cương vị cá nhân, là một điều thoạt trông không có gì đáng kể, nhưng tiếp theo đó sẽ có một chuyển dời, túc số đã hội đủ và đã có đủ số người để nâng tâm thức đại chúng lên. Đó là khi một chuyển dời sẽ xảy ra, là khi xã hội bắt buộc phải giải quyết vấn đề. Họ phải trực diện sự việc là tuy họ nghĩ họ sống trong một xã hội dân chủ tiến bộ đã trao bình quyền cho phụ nữ, nhưng thực sự họ chưa bắt đầu trao bình quyền cho phụ nữ.

Bởi vì, khi chúng ta còn cái chuẩn mực phán xét này thì làm sao chúng ta trao được tự do cho phụ nữ? Làm sao chúng ta giải phóng được phụ nữ? Làm sao chúng ta giải phóng được đàn ông? Làm sao chúng ta có thể là một xã hội tự do khi vẫn bị giam trong cái chuẩn mực phán xét này? Tự do và phán xét có thể sống chung được chăng? Do đó, họ có thể thấy là họ đã có những bước tiến tới một xã hội tự do, nhưng họ chưa phải là một xã hội tự do thực sự. Bởi vì, tuy họ đã cho quyền tự do pháp lý, chính trị, kinh tế cho người dân, nhưng họ chưa cho người dân quyền tự do tâm lý. Ta chỉ cần vào các bệnh viện tâm thần và các khóa phục hồi để thấy rằng con người không thể hưởng được quyền tự do chính trị và kinh tế nếu không có tự do tâm lý. Mục đích của thày là gì khi thày truyền pháp cách đây 2,500 năm? Thày muốn cho con người tự do tâm lý. Thày Giê-su muốn gì khi thày bước đi trên những con đường bụi bặm ở Palestine 2,000 trước đây? Thày muốn đem lại tự do tâm lý cho con người. Tất cả các vị thày tâm linh chân chính muốn làm gì? Các chân sư thăng thiên muốn làm gì hiện nay? Đương nhiên là đem lại tự do tâm lý. Các thày muốn trao quyền này cho tất cả mọi người, nhưng các thày nhận ra là chưa thể làm được điều này, ít nhất là ở thời điểm này. Các thày có thể cố gắng ban cho những ai đã mở tâm đón nhận, chịu tu tập để đạt được nó, chịu theo một con đường tuần tự dẫn đến giải thoát, giải thoát bốn thể phàm, giải thoát ba thể cao khỏi các mưu mô của sa nhân chỉ có một mục đích là tước đoạt quyền tự do tinh thần của con người. Con có thể nghĩ việc tước đọat quyền tự do chính trị trong một thể chế độc tài nhằm một mục đích vất chất. Không phải vậy đâu. Đằng sau các việc này là sa nhân, và sa nhân chỉ có một mục đích, đó là tước đoạt quyền tư do tâm lý của nhân loại trên Trái đất.

Tất cả mọi việc khác, tất cả mọi chuyện con thấy bên vỏ ngoài chỉ là phương tiện đưa tới cứu cánh này. Chỉ là phương tiện để đạt cứu cánh tước đoạt tự do tâm lý của nhân loại. Rất nhiều người trong các xã hội dân chủ tân tiến đã sẵn sàng nhận ra điều này. Họ đã sẵn sàng nhận ra là có một con đường dẫn tới tự do tâm lý. Và họ đầu thai để khám phá và theo con đường này, và qua đó nâng tâm thức đại chúng lên để kéo xã hội ra khỏi mưu mô tước đọat tự do tâm lý của con người. Các con đã khám phá ra con đường, đã theo con đường và cất tiếng kêu gọi. Các con có thể tạo một xung lực sẽ lan tỏa ra, giải thoát vòng đầu tiên, và vòng sau đó, và vòng sau đó, và vòng sau đó. Con chưa kịp nhận ra thì đã đủ túc số, một chuyển dời xảy ra, và sau đó túc số khác lại hội đủ, một chuyển dời khác lại xảy ra, và cứ như vậy sẽ tiếp tục tăng trưởng giúp xã hội thể hiện các sắc thái càng ngày càng cao của thời Hoàng kim của Saint Germain.

Đúng như các thày đã nói, các con hãy nhìn lại lịch sử, nhận ra các khuynh hướng, tiến trình nâng cao nhận thức. Các con đã thấy gì nơi các nền dân chủ tân tiến? Một khuynh hướng tiến tới tự do, nhưng cũng bắt đầu có bước tiến tới tự do tâm thần, tự do tâm lý. Bây giờ con hãy quay mặt nhìn về tương lai, khuynh hướng này sẽ đi về đâu? Phải chăng là các nền dân chủ tân tiến này sẽ dần dần cho nhiều quyền tự do tâm lý hơn cho người dân xứ họ? Người dân sẽ giành quyền tự do tâm lý, sẽ đòi hỏi quyền này, họ sẽ nâng các người khác lên, và xã hội sẽ phải tới điểm nhìn nhận mục đích cao nhất của một nước dân chủ tự do là tạo ra điều kiện tốt nhất để mỗi người dân giành tự do tâm lý ở mức cá nhân. Điều này tất nhiên sẽ xảy ra. Đây không phải là một lời tiên đoán. Điều này đã được viết trong lịch sử nhân loại, vạch rõ khuynh hướng tương lai.

Mọi phát triển tích cực mà các con thấy trong lịch sử đều đẩy xã hội tới điểm nhìn nhận quyền tự do tâm lý là mục đích tối hậu. Tất cả mọi việc đều chỉ tới hướng đó. Khi các con thấy nó, khi nó hiện ra rõ ràng, thì các con là đệ tử trực tiếp của các thày, các con có thể chuyển dời tâm thức và thấy nó chăng? Các con có thấy tính tất nhiên của nó chăng? Do đó, các con hãy vững tin, hãy can đảm, hãy được khích lệ và nhận ra là mình đang ở hàng đầu của làn sóng. Nếu dùng một lối nói cũ, thì có thể nói đó là làn sóng lịch sử tất yếu. Thật ra thì đây không phải là một tất yếu lịch sử, vì nó xảy ra khi có rất nhiều người đứng lên đáp ứng lực kéo lên của cả vũ trụ. Do đó, đây không phải là một tất yếu lịch sử, mà là một tất yếu do chọn lựa, nhưng quả thật nó là một điều tất yếu. Câu hỏi không phải là “sẽ có xảy ra không” mà là “khi nào sẽ xảy ra”.

Vậy thì các con có thể nào vượt thăng các nghi ngờ, sợ hãi, băn khoăn: “Xã hội đi về đâu? Ta làm việc này có kết quả gì? Sẽ có thời Hoàng kim không?” Các câu hỏi này sẽ mờ nhạt đi khi các con nhìn lại lịch sử, nhận ra các khuynh hướng, phóng các khuynh hướng này tới tương lai, thì các con sẽ thấy là 100 năm, 200 năm nữa sẽ có những phát triển vĩ đại, một chuyển dời vĩ đại của tâm thức đại chúng. Những gì các con đã nhận ra bây giờ, đa số con người, ít nhất là trong các nước phát triển, sẽ nhận ra lúc đó. Điều đó sẽ trở nên đương nhiên với họ, như nó đã là đương nhiên cho con. Không có gì thần bí về các con cả. Các con chỉ trưởng thành hơn, phát triển hơn người trung bình trong xã hội các con một chút.

Đó là lý do vì sao con thấy được một số điều mà họ chưa thấy. Nhưng khi con nâng họ lên, khi họ tự phát triển, họ sẽ thấy những điều mà con đã thấy bây giờ. Vì sao con lại thấy được các điều này? Con có khả năng đặc biệt gì chăng? Không đâu. Con đã đả thông được một số bế tắc trong tâm thức của mình khiến cho điều đó trở nên hiển nhiên. Khi người khác cũng làm như vậy, thì điều này cũng sẽ trở nên hiển nhiên với họ. Không có gì thần bí cả. Khi con ở trong một phòng tối, thì tại sao nó lại tối? Phòng tối vì các cửa sổ bị lấp kín bởi một lớp bụi dày đặc. Khi con đục một lỗ thủng trong lớp bụi này đi thì chuyện gì xảy ra? Ánh sáng sẽ vào căn phòng, và khi có một tia ánh sáng lọt vào căn phòng, thì con nhận ra rằng bên ngoài căn phòng có ánh sáng. Vì nếu không thì làm sao lại có tia sáng lọt vào căn phòng?  Do đó, nếu ta đục thủng một lỗ lớn hơn, thì phải chăng ta sẽ có thêm ánh sáng rọi vào? Và nếu ta rửa sạch cả cửa sổ, phải chăng là ta sẽ có toàn thể ánh sáng tràn vào? Không có gì thần bí cả. Không ai có khả năng gì đặc biệt cà, một người làm được thì mọi người đều làm được. Do đó, con nên nhớ rằng khi con đi con đường của mình, người khác sẽ được nâng lên để làm giống như vậy, và việc đó sẽ lan dần ra, lan dần ra, lan dần ra và thời Hoàng kim sẽ là thực tại thể hiện, có thể không trong kiếp sống này của con, nhưng nó sẽ thành sự thực.

Vậy con có thể nào không được khích lệ chăng? Con hãy buông bỏ mọi sợ hãi, nghi ngờ, băn khoăn, và nhận ra rằng con thuộc một trào lưu đi lên của hành tinh này. Con thuộc về đại đòan chân sư thăng thiên và trào lưu mà các thày đã tạo ra trên Trái đất. Con là phần nối dài của các thày. Các thày biết là sống kiếp đầu thai ở một hành tinh dày đặc như thế này rất khó khăn. Nhưng con có thể nào giữ chặt theo viễn quan của các thày khi các thày nhìn về lịch sử một cách rất thực tế, phóng chiếu tới tương lai, và qua đó, thấy một cách rất rất rất rõ ràng là thời Hoàng kim sẽ tất nhiên xảy ra trên hành tinh này? Sa nhân sẽ không cản được điều này, nhân loại sẽ không cản được điều này. Những ai cản trở nó, những ai chưa thấy nó, họ sẽ không cản được nó vì túc số những người đã chuyển dời đã được hội đủ. Không phải chỉ có các con là những đệ tử trực tiếp của chân sư thăng thiên mà còn nhiều người khác đã chuyển dời tâm thức, và do đó sẽ không có gì ngăn trở thời Hoàng kim được.

Trong hội nghị vừa qua và hội nghị này, các thày đã trao truyền nhiều giáo pháp rất dũng mãnh, rất thâm sâu, cùng dụng cụ để giúp phụ nữ tự giải thoát và làm động lực thay đổi, một thay đổi cần xảy ra bây giờ trên toàn thế giới, nhưng đặc biệt nơi các nền dân chủ tân tiến. Đúng thật là các dụng cụ đã có mặt, giáo pháp đã có mặt. Bất cứ ai dùng các dụng cụ này một cách chân thành sẽ đạt được kết quả, không những cho chính mình, mà họ còn ảnh hưởng xã hội bằng cách giải phóng người khác. Đó là mục đích của các thày. Các thày mong được thấy những gì sẽ xảy ra trên lãnh vực giải phóng phụ nữ trong 10 năm sắp tới. Các thày cảm ơn các con đã tham dự các hội nghị này, đã làm đầu mũi giáo chọc thủng màn ngăn trở của tâm thức đại chúng không muốn thấy giải phóng tâm linh thực sự nơi phụ nữ.

Bây giờ thày niêm các con. Thày niêm hội nghị này trong ánh sáng đức Phật mà TA LÀ. Ánh sáng không thể nói tới, không thể mô tả nhưng toàn thắng, không thể ngăn chặn. Có lẽ chính vì nó không thể mô tả mà không có gì ngăn chặn được nó, vì nó không phân biệt. Nó không phải là một vật và không thể hiểu bằng lý trí đường thẳng, cũng như thày không thể hiểu được bằng lý trí đường thẳng, và pháp của thày cũng không thể hiểu trọn vẹn được bằng lý trí đường thẳng. Lý trí đường thẳng có thể tạo ra một hình tư tưởng của giáo lý Phật. Nhưng hình tư tưởng sẽ không bao giờ giúp con tiếp cận được Phật, và chỉ khi con tiếp cận được Phật thì con mới hiểu được giáo pháp của Phật.

Ta là Phật, ta là Chủ tể Thế gian của Trái dất. Bất cứ ai trên Trái đất đều có thể tiếp cận ta nếu họ chấp nhận vượt thăng không những giáo lý Phật giáo vỏ ngoài, và tất cả giáo lý vỏ ngoài, tất cả chuẩn mực vỏ ngoài. Vì ta không bị giới hạn bởi bất cứ gì trên Trái đất. Do đó, nếu con muốn tiếp cận ta, con cũng không được giới hạn chính mình. Tất cả các con đều có tiềm năng đó, các con có giáo lý, các con có dụng cụ. Các con có gương của sứ giả này, đã tiếp cận ta nhiều lần, và hiện đang tiếp cận ta ngay lúc này vì ông đang cảm thấy Hiện diện không thể mô tả của Phật, Hiện diện quả cầu của Phật. Một số trong các con đang cảm được nó. Tất cả các con đều sẽ cảm được nó. Ta không ngăn các con tiếp cận ta. Tại sao các con lại tự ngăn không cho mình tiếp cận ta?

Hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/12/2019 tại Tallinn, Estonia.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Ta sẽ trở ngược về một câu ta đã nói cách đây 2500 năm vào thời ta còn hiện thân trong một cơ thể vật lý trên địa cầu. Một trong những lời dạy cốt yếu của Phật giáo là mọi thứ đều là Phật tánh. Câu này thật sự nghĩa là gì? Nhiều người đã bị bối rối vì câu này. Nhiều Phật tử chân thành và có thiện chí đã suy đoán về câu này và đưa ra những thuyết cùng những cách diễn giải khác nhau, trong số đó có nhiều điểm có căn cứ phần nào. Ta hoàn toàn không muốn chỉ trích hay thay thế những thuyết đó nhưng ta muốn cho con một cái nhìn dựa trên tâm thức tập thể ngày hôm nay cũng như những giáo lý mà các chân sư thăng thiên đã ban ra cho tới giờ.

Nếu con hiểu mọi thứ đều là Phật tánh, điều này có nghĩa là Phật tánh phải vượt khỏi hình tướng. Con thử nhìn hình tướng trong vũ trụ, nhìn cái ghế này, nhìn tấm thảm kia, nhìn cửa sổ, nhìn cái bàn; liệu con có thể nói cái bàn đó là Phật tánh hay không? Con sẽ không nói như vậy, nhưng con sẽ nói là cái bàn được tạo ra từ Phật tánh. Nói cách khác, nếu con có thể nhìn đằng sau hình tướng, nhìn vượt khỏi hình tướng, thì con sẽ thấy Phật tánh. Điều này khó hiểu cho con người cách đây 2500 năm.

Với trí năng thời nay, việc nắm bắt điều này đã trở nên dễ dàng hơn một chút vì con đã lớn lên và được dạy dỗ khái niệm về cái ghế này, cái bàn này được cấu tạo bằng những đơn vị nhỏ hơn gọi là phân tử, nguyên tử, ngay cả hạt hạ nguyên tử. Cho nên con có thể nói mọi thứ đều là nguyên tử, và do đó cái ghế này cũng là nguyên tử. Tất nhiên, không có nghĩa là các hạt nguyên tử trông giống như cái ghế. Con cũng biết nguyên tử không thể nhìn thấy bằng mắt trần trụi và do đó nguyên tử không có cái mà bình thường con gọi là hình dạng. Chúng không có hình dạng của bàn ghế. Chúng có thể có một hình dạng nào đó như con đã được dạy dỗ suy nghĩ, nhưng đó không phải là cái gì con nhìn thấy được bằng giác quan. Cho nên con có thể nhảy vọt một bước và bảo rằng cái ghế được tạo bằng nguyên tử và nguyên tử được tạo bằng Phật tánh. Nhưng sự khác biệt là ở chỗ Phật tánh không có hình tướng. Nó không có hình tướng nào mà con có thể nhận thức, không có hình tướng nào mà con có thể nhận thức bằng một tâm trí vẫn tập trung vào vũ trụ vật chất này.

Điều con có thể nói là Phật tánh có tiềm năng khoác lấy hình tướng. Nhưng nếu Phật tánh không có hình tướng, tại sao con lại cần đến Phật tánh? Con cần đến nó bởi vì nếu không có một bản thể vô hình tướng có khả năng khoác lấy hình tướng, thì hình tướng được tạo ra như thế nào? Con có thể suy ra điều gì từ những khám phá của khoa học? Con lấy một vật mà mắt con có thể nhìn thấy, một hình dạng hữu hình như một cái ghế và con nhận ra là cái ghế đó không bỗng xuất hiện một cách hoàn toàn bất ngờ trong hình tướng hiện thời của nó, nó không xuất hiện từ tự nhiên hay từ hư vô. Không lúc nào con có thể nói: “À bây giờ không có ghế, à bây giờ có ghế. Đùng một cái, thế là ghế hiện ra.” Đó không phải là cách thức mà vật được tạo ra, con biết chuyện này, con biết cái ghế làm bằng kim loại. Kim loại đó khởi đầu là các loại quặng dưới đất, nó phải được đào lên, phải được nấu chảy, phải được biến thành sắt, và chất sắt này phải được chế tạo thêm nữa để có hình dạng nhất định và trở thành chân ghế. Xong lại cần thêm gỗ cũng được chế tạo và ghép vào. Rồi thêm lớp đệm, thêm lớp vải, tất cả những thứ đó phải được chế tạo để làm cái ghế.

Nhưng tất cả những thứ đó mà con gọi là nguyên liệu cũng không xuất hiện hoàn toàn bất ngờ. Quặng sắt nằm dưới đất được tạo bằng những phân tử sắt, nhưng phân tử được tạo bằng những đơn vị nhỏ hơn gọi là nguyên tử, nguyên tử được tạo bằng hạt hạ nguyên tử, và thậm chí hạt hạ nguyên tử được tạo bằng sóng năng lượng. Cho nên khi con đi vào từng giai đoạn cần thiết để tạo ra một hình tướng, một hình tướng mà mắt thấy được, con bước xuống những tầng cấp ngày càng vi tế hơn. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là con lần hồi tiến tới những hình thức đơn giản hơn. Một cái ghế, hay ngay cả một công trình công phu hơn như toàn bộ tòa nhà này, là một cái gì vô cùng phức tạp. Nhưng phân tử thì ít phức tạp hơn, nguyên tử ít phức tạp hơn nữa, và hạt hạ nguyên tử còn ít hơn nữa. Cho nên con hướng về một trạng thái ngày càng ít phức tạp hơn, một hình tướng ngày càng ít rõ rệt.

Vì thế, thật khó mà nhảy được bước nhảy vọt kia và nói rằng: Phải tới một điểm chúng ta có một chất cơ bản, ít ra là chất cơ bản mà chúng ta có thể nhận thức từ vũ trụ này, và chất cơ bản này không có hình tướng nhưng lại có tiềm năng khoác lấy bất kỳ hình tướng nào. Chất này, chúng ta có thể gọi là Phật tánh. Phật tánh, một cách nào đó, là nhiều hơn thế nữa, nhưng ít ra – để giúp con hình dung hay nhận thức được – chúng ta có thể nói Phật tánh là chất cơ bản mà từ đó mọi hình tướng được nặn ra.

Bây giờ sẽ có người bảo là điều trên không phù hợp với hệ tư tưởng khoa học hiện thời, nhưng đó là vì hệ tư tưởng khoa học hiện thời dựa trên một sự bất nhất nhận thức (cognitive dissonance). Khoa học đã chứng minh là con có thể bước xuống những tầng ngày càng sâu hơn, vượt khỏi những hình thức mà mắt người có thể nhìn thấy. Kết luận hợp lý là phải có một chất cơ bản nào đó mà từ đó tất cả mọi thứ được tạo ra. Vấn đề với khoa học là khoa học bị hệ tư tưởng duy vật chi phối đến độ cho rằng không thể có bất cứ gì ngoài vũ trụ vật chất. Và theo cách nhận thức của các nhà chủ nghĩa duy vật, điều này có nghĩa là không thể có một chất nào mà không có hình tướng, bởi vì cái đó sẽ là hư vô, và như người ta hay nói, không có gì có thể hiện ra từ hư vô. Điều này hoàn toàn đúng, không có gì có thể hiện ra từ hư vô, hay chính xác hơn, không có vật gì có thể hiện ra từ hư vô, mà mọi vật hiện ra từ Phật tánh, tức là chất cơ bản. Ý tưởng một chất cơ bản vô hình tướng nhưng lại là nguồn gốc của mọi hình tướng, hoàn toàn phù hợp với các khám phá của khoa học. Có lẽ nó không phù hợp với hệ tư tưởng duy vật, nhưng chẳng qua hệ tư tưởng duy vật chỉ là một trong nhiều cách diễn giải những khám phá của khoa học. Thậm chí hệ tư tưởng duy vật còn không giải thích được tất cả mọi khám phá của khoa học hiện thời, và qua đó con có thể thấy được sự thiếu sót của nó.

Cho nên có một chất cơ bản gọi là Phật tánh mà từ đó mọi hình tướng được tạo thành. Điều này thật sự nghĩa là gì? À, có một khái niệm mà nhiều người rất gắn bó và xem là vô cùng quan trọng. Đó là khái niệm “thực tại”. Một vật hoặc có thật, hoặc không có thật. Nhưng nếu tất cả mọi thứ mà con nhìn thấy trong vũ trụ vật chất được hình thành từ một chất cơ bản vô hình tướng, thì liệu con có thể nói rằng mọi hình tướng mà con thấy là thực hay không? Chúng không có hiện hữu riêng biệt, chúng không có hiện hữu độc lập. Nếu không có Phật tánh, nếu không có chất cơ bản, thì sẽ không thể có hình tướng. Mỗi hình tướng mà con thấy, cái bàn, cái ghế, mặt trời, các vì sao, tất cả đều được tạo ra từ cùng một chất cơ bản. Chất cơ bản cấu tạo cái ghế này có thể được biến hóa, hay đúng hơn, nó có thể được đem trở lại trạng thái vô hình tướng của nó, rồi được sử dụng để nặn ra một hình tướng hoàn toàn khác như một đóa hoa hay một ngôi sao ở xa tít, đó là vì trong Phật tánh đó, trong sự vô hình tướng cơ bản đó, không có thời gian, không có không gian, không có ý niệm địa phương (locality).

Một khi hình tướng, một khi chất cấu tạo cái ghế này, được đem trở lại trạng thái vô hình tướng, nó có thể tức khắc (tức là vượt thời gian) được sử dụng để hình thành một ngôi sao ở xa hàng triệu năm ánh sáng. Vậy liệu con có thể bảo cái ghế này là thực khi nó không có sự hiện hữu độc lập, tự đủ nào hay không? Nó có một sự hiện hữu lệ thuộc, vì rốt cuộc nó phụ thuộc vào Phật tánh, nhưng tự thân nó không thể hiện hữu. Cái ghế này sẽ có nghĩa là gì nếu không có sàn nhà để đặt ghế trên sàn, hay không có một người để ngồi vào ghế? Liệu ghế có đi vào được hiện thực nếu không có những người nghĩ ra nhu cầu ngồi cao hơn sàn nhà? Cho nên, đúng vậy, không có vật gì có thể hiện ra từ hư vô, nhưng Phật tánh không phải là hư vô.

Cho nên con thấy được là mọi vật, mọi hình tướng, đều có một nguồn gốc lệ thuộc, một nguồn gốc phụ thuộc vào lẫn nhau – một lý duyên khởi. Vật không hiện ra trong hư không, nó không hiện ra từ hư không. Nó được tạo bằng một chất cơ bản, nhưng nó được tạo ra vì một lý do, một mục đích. Ghế đã không thể hiện hữu nếu không có sàn, nếu không có tường, nếu không có mái, nếu không có người, nếu không có tất cả những thứ đó. Nó đã không thể được tạo ra nếu không có một địa cầu với quặng sắt, nếu không có cây cối mọc lên thành gỗ, vân vân… cho nên con thấy là không có gì, không có hình tướng nào, có thể được xem là thực trong ý nghĩa tối hậu. Không một vật nào hiện hữu tự thân nó, hiện hữu một cách độc lập. Mọi thứ đều nối kết. Mọi thứ đều nối kết lẫn nhau. Toàn bộ vũ trụ là một tổng thể nối kết duy nhất, một tổng thể tương kết duy nhất. Thật ra điều này phù hợp với các khám phá của khoa học. Các nhà khoa học đã phát hiện là ý niệm địa phương và tách biệt không hiện hữu. Thực tại sâu xa hơn là tính phi địa phương (non-locality), tính tương kết (interconnectedness). Thực tại mà con nhìn thấy khi con đạt được cái mà ta gọi là “giác ngộ” là một thực tại nơi không có vật gì tách biệt ở bất cứ nơi nào trong vũ trụ. Mọi thứ đều tương kết. Không chỉ có vậy, mà con còn thấy được là không có vật nào là thường hằng.

Khoa học đã cho thấy điều gì mà nhiều tôn giáo đã không chỉ ra? Khoa học cho thấy là có một tiến trình rất dài đã lần hồi hình thành những hình dạng khác nhau. Không có sự sáng tạo tức khắc, mà sự sáng tạo xảy ra lần hồi khi những gì được tạo ra trước – hay đã đi vào hiện hữu trước – trở thành nền tảng cho những gì đi sau vào hiện hữu. Cho nên một lần nữa, nguồn gốc hình thành tương kết có thể đi trở ngược về rất, rất xa. Ta biết là tâm đường thẳng sẽ nói là phải có một điểm khởi đầu tuyệt đối, nhưng chúng ta hãy gác lại chuyện này một bên để xét thấy rằng chúng ta có thể đi trở ngược lại thời gian trong quá trình lần hồi đó, thì một lần nữa, nó chứng minh tính tương kết của tất cả.

Vậy đâu là mục đích của toàn bộ tiến trình duyên khởi đó, là nơi thực tại sâu xa của Phật tánh khoác vào tất cả những hình tướng khác biệt đó? Mục đích là gì? Các nhà duy vật quả quyết là không có mục đích gì hết; tất cả chỉ xảy ra tình cờ. Tình cở là gì chứ? Họ có thể giải thích được tình cờ là gì chăng? Thế nào là tính ngẫu nhiên (randomness)? Hãy định nghĩa đi. Không thể được. Tại sao vậy chứ? Tại vì tính ngẫu nhiên đích thực không có hình tướng, và trong hệ tư tưởng duy vật, chỉ có những gì có hình tướng mới được xem là thực. Bất nhất nhận thức. Họ tuyên bố là họ có một thế giới quan, nhưng thế giới quan nhằm giải thích mọi vật đã có thể ra đời như thế nào thì phải dựa vào một điều gọi là sự tình cờ, sự ngẫu nhiên. Thế giới quan của họ bảo rằng chỉ vật nào có hình tướng mới thực, nhưng tình cờ và ngẫu nhiên không có hình tướng thì làm sao chúng là thực được đây? Và nếu chúng không thực, làm thế nào chúng có thể tạo ra tất cả những hình tướng mà họ bảo là có thực? Bất nhất nhận thức.

Thêm một tầng lớp bất nhất nhận thức nữa: Con là ai mà tuyên bố rằng chỉ có thế giới vật chất là hiện hữu? Con là ai? Con là sinh thể có khả năng tự nhận biết (self-awareness). Lý do duy nhất con có thể bảo một cái gì đó có thực hay không thực là vì con tự nhận biết. Tự nhận biết đến từ đâu? Liệu con có thể giải thích làm thế nào sự tình cờ và ngẫu nhiên sản xuất ra được khả năng tự nhận biết, là khả năng tìm kiếm trật tự ở mọi nơi? Làm thế nào chuyện đó có thể xảy ra? Con có giải thích được không? Nếu con không giải thích được thì có lẽ cách giải thích của con không trọn vẹn, thậm chí cách đó có thể là không thực nữa. Vì vậy, nếu con cởi mở đi tìm một cách giải thích khác, thì đó là như sau.

Tất cả những hình tướng mà con thấy trong thế giới vật chất, vật lý, hữu hình, đã được tạo ra vì một mục đích duy nhất: để đem lại cho các sinh thể tự nhận biết một trải nghiệm nào đó. Các con là con người, các con tự xem mình là dạng sống tiến bộ nhất trên địa cầu. Một lần nữa, bất nhất nhận thức. Con tuyên bố, con nghĩ con là một trong những dạng sống chót hết, nếu không là dạng sống xuất hiện chót hết trên trái đất. Có nghĩa lý gì mà bảo rằng dạng sống tiến bộ nhất đã được tạo ra chót hết? Chẳng hữu lý hơn hay sao là nói rằng tất cả những gì đã được tạo ra, tất cả các hình tướng đã xuất hiện, đều xoay quanh dạng sống tiến bộ nhất hầu mang lại cho các sinh thể tự nhận biết này một trải nghiệm nhất định nào đó? Con thử nhìn một nhà hát, mục đích của nhà hát là gì? Để mang lại cho khán giả một trải nghiệm. Liệu nhà hát có xuất hiện từ một tiến trình ngẫu nhiên? Liệu nhà hát có tự nó xây dựng lên, rồi sau khi xây dựng, tự dưng có khán giả ngẫu nhiên hiện ra? Chẳng hữu lý hơn hay sao là nói rằng ngay từ đầu, nhà hát đã được xây dựng với trọng tâm là khán giả?

Thế giới là gì? Trong thế giới ngày nay, người ta có một khái niệm xuất phát từ công nghệ, hẳn là do khoa học đề xướng, gọi là máy giả thực tại (reality simulator). Con có thể đeo vào một cặp kính, đi vào một căn phòng được xây đặc biệt, và bỗng nhiên con nhìn thấy trước mắt một môi trường nhân tạo. Mục đích làm ra máy giả thực tại là gì? Là đem lại cho người sử dụng máy một trải nghiệm cụ thể.

Con sẽ có thể nói trải nghiệm đó không dựa trên thực tại, và người đó không đang trải nghiệm một thế giới có thực. Nhưng người đó cho đó là thế giới thực, y trải nghiệm như thể đó là thế giới thực, và do đó dưới nhãn quan của y, y đang có một trải nghiệm thực. Và bởi vì y có trải nghiệm đó cho nên y có thể thay đổi tâm thức, xoay chuyển tâm thức của mình – tức là y có một thế giới quan đổi khác. Y có thể cảm thấy mình bị ứ một loại trải nghiệm nào đó và rốt cuộc y quyết định mình đã chán ngán trải nghiệm đó rồi. Bây giờ y muốn một trải nghiệm khác hơn.

Một số người có thể hoài nghi và bảo: “Ồ chuyện này hoàn toàn vô lý, không có gì người đó trải nghiệm là thực cả, vậy điều gì khiến bạn chắc chắn là những gì bạn trải nghiệm trong thế gian là thực?” Liệu có khó khăn lắm hay không để làm bước nhảy và nói: “Những gì tôi trải nghiệm trong máy giả thực tại có vẻ thực khi tôi ngồi trong máy.” Vậy chẳng phải là hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại tinh xảo hơn bất cứ gì mà loài người từng chế tạo ra? Chắc chắn con có thể nói là khi con ở trong bầu cõi địa cầu, ở trong một cơ thể vật lý trên địa cầu, những gì con trải nghiệm qua cơ thể đó và những giác quan đó dường như vô cùng hiện thực, phải không con? Và nếu con là một nhà duy vật, con có thể nói: “Nhưng đâu là ích lợi của một trải nghiệm không thực?” Thật không có gì quan trọng thế giới mà con trải nghiệm trong máy giả thực tại có thực hay không. Điều quan trọng là, trải nghiệm mà con đang có, trải nghiệm nhất thời mà con đang có, ảnh hưởng như thế nào lên tâm thức của con? Trải nghiệm thì nhất thời nhưng tâm thức của con thì cứ tiếp nối, và một trải nghiệm nhất thời có thể tác động lên tâm thức của con, đặt nó vào một con đường mới, tạo cho nó một hướng đi mới, mang lại cho nó một ý niệm mới về bản ngã. Đây chính là công dụng của máy giả thực tại.

Điều duy nhất con cần làm là làm bước nhảy đó và nhận ra địa cầu là một bộ máy giả thực tại. Con có thể nói, bởi vì mọi thứ đều là Phật tánh cho nên mọi thứ cũng có thể trở về trạng thái thuần khiết vô hình tướng của nó rồi chuyển thành một hình tướng khác. Không một hình tướng nào trên trái đất là thực ở mức cùng cực. Các nhà khoa học cũng biết ngay cả trái đất cũng đã không luôn luôn hiện hữu và sẽ không hiện hữu mãi mãi. Cho nên theo một định nghĩa khoa học, chúng ta phải nói là không có gì trên địa cầu là thực. Nhưng điều đó có quan trọng lắm không? Điều quan trọng là đối với mấy tỷ sinh thể tự nhận biết đã bước vào máy giả thực tại có tên là trái đất, thế gian có vẻ thực, và vì nó có vẻ thực cho nên nó đem lại cho họ một trải nghiệm khiến tâm thức của họ, ý niệm bản ngã liên tục của họ, xoay chuyển. Đó là toàn bộ mục đích.

Cho nên chúng ta có thể nói, hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại được thíết kế để đem lại cho các sinh thể tự nhận biết một loại trải nghiệm đặc thù. Đâu là trải nghiệm mà địa cầu đã được thiết kế để cho con? Có hai loại trải nghiệm, hai loại rất khác nhau mà địa cầu được thiết kế để cho con. Một loại là những trải nghiệm “trầm mình”, là khi con có cảm giác mình đang sống trong một thế giới có thực. Trong tâm con hoàn toàn đồng hóa với cơ thể vật lý và con tự xem mình là một sinh thể có thực, sinh sống trong một thế giới có thực, và thế giới này tác động lên cách nhìn của con về chính con. Nói cách khác, con bị thế gian quy định. Đây là trải nghiệm trầm mình – tuyệt đại số loài người trên hành tinh vẫn ở trong loại trải nghiệm này, vẫn ở trong giai đoạn trầm mình. Họ nghĩ thế giới là thực, họ nghĩ trải nghiệm của họ là thực, và không những họ tin chắc mình ở trong một thế giới thực, mà ngay cả nhận thức của họ về thế giới, ý tưởng của họ về loại thế giới mà họ đang sống, cũng là thực.

Điểm độc đáo của chiếc máy giả thực tại của địa cầu là nó có thể chứa bảy tỷ sinh thể tự nhận biết: họ đều sống trong cùng một môi trường – mặc dù môi trường vỏ ngoài chung quanh hành tinh có thể khác, nhưng họ sống trên cùng một hành tinh – vậy mà mỗi người lại có một trải nghiệm chủ quan cá nhân về hành tinh đó. Nói cách khác, đối với rất nhiều người, môi trường vỏ ngoài là giống nhau, nhưng đối với mỗi cá nhân thì trải nghiệm bên trong lại khác nhau. Tại sao như vậy? Bởi vì như ta đã trình bày, toàn bộ mục đích của thế giới hình tướng là để đem lại cho các sinh thể tự nhận biết một trải nghiệm đặc thù. Làm thế nào họ có được trải nghiệm đó? À, họ không có trải nghiệm đó bên ngoài tâm họ đâu. Cho dù các triết gia có nói gì, con không thể trải nghiệm thế giới như thế giới là, bởi vì con trải nghiệm thế giới qua tâm con, và điều này có nghĩa là các đặc tính của tâm con sẽ ảnh hưởng đến cách con nhìn thế giới. Ngay cả khoa vật lý lượng tử cũng đã chứng minh là tâm của nhà khoa học ảnh hưởng những đo đạc mà họ quan sát trong thử nghiệm. Cho nên mỗi con người có một trải nghiệm đặc thù của mình. Mỗi con người tin chắc trải nghiệm của mình là thực.

Nhưng cảm nhận thực tại đó đến từ đâu? Nếu thật là mọi thứ được tạo ra từ một chất cơ bản và không có hình tướng nào là thường hằng hay độc lập, thì không hề có thực tại nào bên ngoài tâm con người. Cho nên cảm nhận thực tại phải đến từ bên trong tâm con người – chứ nó đến từ đâu nữa? Vậy làm thế nào hai người có thể sống trong cùng một môi trường mà lại có trải nghiệm rất khác nhau về môi trường đó, chẳng hạn như một tín đồ sùng đạo Cơ đốc tin chắc thế giới vận hành y như Kinh thánh mô tả, trong khi người thứ hai có thể là một người cũng không kém sùng bái như lại sùng bái chủ nghĩa duy vật, sẽ tin chắc thế giới vận hành y như được mô tả trong thánh kinh duy vật? Đó là vì mỗi người mang trong tâm mình cái mà chúng ta có thể gọi là một bộ phin, lọc lựa ra một số tín hiệu đến với mình qua giác quan. Tâm loại bỏ đi một số tín hiệu, và đối với những tín hiệu được phép đi qua, tâm chồng lên trên đó một hình ảnh. Cho nên đối với tín đồ Cơ đốc, thế giới quan Cơ đốc sẽ có vẻ thực, trong khi đối với người duy vật thì thế giới quan duy vật sẽ có vẻ thực. Trong ý nghĩa tối hậu, cả hai thế giới quan đều không thực. Thậm chí, chuyện tranh luận xem cái nào thực hơn cái nào – cái nào đúng hơn cái nào – cũng không có nghĩa lý. Giản dị, chúng chỉ là những thế giới quan được tạo ra trong máy giả thực tại trên địa cầu, và máy giả thực tại là một cái máy chuyên làm đồ giả. Đó không phải là thực tại, mà chỉ mô phỏng thực tại. Có nghĩa là không một thế giới quan nào có thể được chế tạo trong máy là thực. Nó chỉ có vẻ thực khi con nhìn nó từ một góc cạnh nào đó qua một phin lọc nào đó trong tâm – một bộ phin hay một trạng thái của tâm lọc lựa ra một số tín hiệu hay chồng lên những tín hiệu khác một cách diễn giải nào đó. Khi con không chất vấn phin lọc đó, khi thậm chí con không nhận ra đó lả một phin lọc, thì những gì con trải nghiệm xuyên qua phin lọc sẽ có vẻ rất thực đối với con. Đây là “giai đoạn trầm mình” của máy giả thực tại có tên là địa cầu.

Vậy giai đoạn kia là gì? Là “giai đoạn tỉnh ngộ”. Giờ đây con đang bắt đầu thức tỉnh từ cảm nhận mình sống trong một môi trường thực nơi mọi chuyện mình trải nghiệm đều thực. Nhưng làm thế nào con thức tỉnh khỏi cảm nhận đó chứ? Nó chỉ xảy ra sau khi con sẵn lòng tra vấn thế giới quan, tra vấn phin lọc của con – là phin lọc đã loại bỏ ra một số tín hiệu và áp đặt một cách diễn giải trên những tín hiệu mà nó để cho lọt qua. Khi con khởi sự tra vấn thế giới quan này, đó là lúc con bắt đầu tỉnh ngộ. Con thấy gì trên địa cầu chứ? Con thấy là mọi người đã tạo dựng nhiều thế giới quan khác nhau. Đi trở ngược thời gian, con thấy một số nền văn minh đã hiện hữu trên địa cầu nhưng bị phân rẽ bởi khoảng cách, phân rẽ bởi đại dương. Đã có một nền văn minh Maya với thế giới quan khác hẳn thế giới quan của châu Âu vào cùng thời, nhưng do bị chia cách bởi Đại tây dương, cả hai thế giới quan đều không hay biết gì về nhau. Cho nên một nền văn minh có thể tồn tại nhiều thế kỷ mà thế giới quan không hề bị thách thức. Chuyện này cũng tốt thôi, vì nó hoàn toàn phù hợp với công dụng của bộ máy giả thực tại.

Đã có một thời khi có sự cần thiết là những nền văn minh bị chi phối bởi những thế giới quan cá biệt phải sống tách biệt và không tương tác với nhau để thế giới quan không bị thách thức. Đã có một thời khi con người được hoạch định để sống trong bộ máy giả thực tại gọi là địa cầu và không có gì sẽ thách đố thế giới quan của họ. Suốt một thời gian rất đài, họ được phép có trải nghiệm xuyên qua thế giới quan của họ. Nhưng con thấy đó, tâm con người không bao giờ chịu ngồi yên. Con người là một sinh thể không được sinh tạo trong một trạng thái tĩnh tại, mà đã mang sẵn trong bản chất một niềm khao khát vô cùng sâu sắc muốn tăng trưởng.

Do mong muốn tăng trưởng này mà con người không thể nếm mãi cùng một trải nghiệm một cách vô hạn định. Con người không thể trầm mình mãi mãi trong kinh nghiệm đó mà vẫn cứ bảo: “Ôi sao trải nghiệm này quá tuyệt vời!” Có thật không? Con không thể có trải nghiệm đó mãi mãi. Con không thể ở trong cùng trải nghiệm đó mãi mãi vì sẽ tới lúc con bị chán ngấy. Con muốn cái gì hơn thế. Có một giai đoạn khi con chán chê một loại trải nghiệm và giờ đây con muốn một loại trải nghiệm khác. Con muốn một cái gì khác hơn. Đó là tại sao con thấy có những người từng đầu thai trong một nền văn minh suốt nhiều kiếp lại muốn thay đổi, và họ đầu thai trong một nền văn minh khác để họ nếm một trải nghiệm khác mặc dù họ vẫn ở trên trái đất. Cũng sẽ tới một điểm khi giờ đây con không chỉ muốn một loại trải nghiệm khác trong khả năng mà máy giả thực tại địa cầu có thể cống hiến, mà con muốn nhiều hơn những gì con có thể có được trên địa cầu. Đây là thời điểm khi một dòng sống khởi sự giai đoạn tỉnh ngộ.

Yếu tố nào hướng dẫn loại trải nghiệm mà người ta có? Bao lâu họ cần trải nghiệm như vậy? Phải, đó là quyền tự quyết. Tuy nhiên, điều gì cho con khả năng có loại trải nghiệm mà con có thể có trên địa cầu? Như ta vừa nói, cái ghế không tự dưng hiện ra từ hư vô. Một người không hiện ra từ hư vô. Để có thể chế tạo những loại trải nghiệm có mặt trong máy giả thực tại địa cầu, phải cần có nhiều người. Đó là khi con thấy một nền văn minh xuất hiện, có thể với hàng triệu người, và trải nghiệm mà họ có được sẽ tùy thuộc vào sự có mặt và tương tác của tất cả những con người đó. Điều này tạo ra một sự nối kết nào đó giữa các sinh thể này.

Có thể nói mỗi sinh thể tự nhận biết đã, như các chân sư có giảng, khởi đầu với một ý niệm bản sắc chỉ nhỏ như cái chấm. Nếu con sống một mình trong toàn vũ trụ, con sẽ khó lòng mở rộng ý niệm bản sắc đó – chắc chắn con sẽ cần một thời gian rất dài. Nhưng vì con không một mình, vì có những sinh thể tự nhận biết khác trong thế giới của con, cho nên bằng cách tương tác với các sinh thể này, con sẽ khuếch trương được ý niệm bản ngã của mình nhanh chóng hơn. Do con phần nào bị thách đố, con thấy được nhiều cách khác để nhìn cuộc sống, nhiều cách khác để giải thích thế giới. Đây chính là yếu tố giúp cho máy giả thực tại thực hiện mục đích dễ dàng hơn, tức là khiến cho sự nhận biết của những sinh thể đang ngụ trong máy được tăng triển và ý niệm bản ngã của họ được mở rộng. Cho nên có một điểm khi một nhóm người cần sống chung với nhau dưới hình thức nhóm, nhưng họ vẫn cần sống biệt lập để xây dựng ý niệm bản sắc mà họ đã tạo ra trong nhóm.

Cũng đến một thời điểm khi mong muốn trải nghiệm một cái gì hơn nữa trở thành một nét chủ yếu trong tâm của ít nhất một số người, nhưng làm thế nào chuyện đó xảy ra được đây? Làm thế nào con có thể trải nghiệm một điều gì khác lạ hay một điều gì hơn nữa nếu mọi người đều bị kẹt trong cùng một thế giới quan? Trong một số trường hợp, người ta có thể đặt lại vấn đề thế giới quan của mình, nhưng chuyện này chỉ xảy ra khi người ta bắt đầu chuyển sang giai đoạn tỉnh ngộ – đây chính là thời điểm con bắt đầu tra vấn thế giới quan của mình một cách tự nguyện trong nội tâm. Nhưng rất khó thực hiện sự chuyển đổi này trực tiếp từ giai đoạn trầm mình sang giai đoạn tỉnh ngộ. Đại khái có một bước chuyển tiếp giữa hai giai đoạn đó, là khi một nền văn minh không thể tiếp tục đứng cô lập mãi, và nó tiếp xúc với một nền văn minh khác đã phát triển riêng rẽ suốt một thời gian rất dài. Như con thấy ví dụ nền văn minh Maya đã trải qua hàng bao thế kỷ phát triển tới mức những năm 1500. Nền văn minh châu Âu cũng đã bỏ ra một thời gian rất dài để phát triển cho tới điểm mốc đó. Nhưng giờ đây cả hai gặp gỡ và đây là cơ hội cho cả hai thăng vượt trạng thái cũ. Ta cũng biết một số người sẽ bảo là sự gặp gỡ đó đã đem đến hậu quả thảm khốc cho người Maya khi văn minh của họ bị người Âu châu tiêu diệt tàn bạo. Tuy vậy, đó vẫn là một cơ hội cho cả hai khám phá ra một cách sống khác, một cách nhìn khác về cuộc sống, và đó là một cơ hội tăng triển.

Tất nhiên, con có thể nói là khi hai nền văn minh với thế giới quan khác hẳn nhau bỗng nhiên gặp gỡ, chuyện gì bắt buộc sẽ xảy ra? Cả hai đều đang cảm nhận thế giới quan của mình không chỉ là một thế giới quan mà là thực tại – một thực tại dựa trên một thẩm quyền cao hơn, một chân lý tối hậu nào đó. Do đó sẽ không thể tránh được xung đột, không tránh được va chạm, và ai nấy đều cảm thấy thế giới quan của mình bị đe dọa. Mục đích là gì chứ? Mục đích là khi một nhóm dòng sống, ví dụ mấy tỷ người liên hệ với máy giả thực tại địa cầu, đã phát triển tới một mức nào đó, thì sẽ có một số dòng sống đã phát triển gần hơn tới giai đoạn tỉnh ngộ, trong khi những dòng sống kia vẫn bám vào thế giới quan cũ cùng cảm nhận về thực tại mà thế giới quan này cung cấp, cho nên họ từ chối đặt lại vấn đề. Nếu những người bám víu này cứ được để yên, có thể họ sẽ ở lại trong máy một thời gian rất, rất dài. Thật sự, họ có thể bị kẹt cứng trong thế giới quan đó. Chính vì mọi người, mọi dòng sống sinh sống trong một bộ máy giả thực tại được nối kết với nhau mà mới có sự kiện một số sẽ kéo theo những người khác đi lên, và điều này phù hợp với định luật tự quyết.

Hơn thế nữa, khi con sống trong một nền văn minh biệt lập với một thế giới quan nhất định, con có thể có một trải nghiệm nào đó, nhưng chuyện gì xảy ra khi hai nền văn minh đụng độ? Phải chăng đó cũng chỉ là một trải nghiệm khác hơn, một loại trải nghiệm khác mà con có thể có trong máy giả thực tại? Đầu tiên, con trải nghiệm là chỉ có một thế giới quan, tức là thế giới quan của nền văn minh của con. Sau đó con trải nghiệm là có những thế giới quan khác nữa – và quả thật là có rất nhiều thế giới quan khác hẳn nhau. Tất cả đều quả quyết là mình thực, là mình dựa trên một thẩm quyền cao hơn. Chuyện gì xảy ra khi người ta nhìn ra điều này? Đúng vậy, một số sẽ cố bám vào niềm tin rằng chỉ có thế giới quan của mình mới là đích thực và họ phải ép buộc người khác tuân theo. Nhưng có những dòng sống khác sẽ bắt đầu nghĩ: “Nếu từng nấy thế giới quan khác nhau đều quả quyết là mình thực, thì lôgíc cho thấy tất cả đều không thể thực cùng một lúc. Tất cả không thể đều thực khi chúng khác nhau đến như vậy, thậm chí còn đối chọi lẫn nhau.” Đây là lúc sinh thể khởi đầu giai đoạn thức tỉnh. Y bắt đầu chất vấn một cách ý thức những thế giới quan khác nhau, rồi y đạt tới điểm y bắt đầu tự vấn: “Tại sao con người tạo ra những thế giới quan đó? Tại sao chúng ta cần tới thế giới quan?” Y bắt đầu đặt vấn đề: “Có phải tất cả mọi thế giới quan trên địa cầu đều hạn chế, có phải chúng không mô tả toàn bộ cách vận hành của thế gian? Có chăng một thế giới quan nào cao hơn chưa được thị hiện trên địa cầu?”  

Sau đó sẽ đến một giai đọan cao hơn khi con bắt đầu hỏi: “Nếu như không có thế giới quan nào là thực một cách tối hậu thì sao? Nếu như chuyện bàn cãi xem thế giới quan nào là thực, là tối hậu, cũng là vô nghĩa? Nếu như tôi chỉ cần ngừng cảm thấy mình bị đe dọa bởi các loại thế giới quan khác biệt? Nếu như tôi nhìn nhận và nhận ra là một thế giới quan chỉ có một công dụng mà thôi, và công dụng này không phải để quy định thực tại là gì, không phải để mô tả cách vận hành tối hậu của thế gian là gì? Mà công dụng duy nhất của một thế giới quan là để đem lại cho một nhóm người một trải nghiệm nào đó? Vậy tại sao tôi phải lo ngại người khác có thế giới quan khác với tôi? Tại sao tôi lại không nghĩ: Mình hãy tập trung vào thế giới quan của mình cũng như trải nghiệm mình có được qua thế giới quan đó? Mình hãy vui hưởng trải nghiệm đó, trầm mình vào trải nghiệm đó, nếm mùi trài nghiệm đó cho tới khi mình chán chê, và khi mình chán chê, đâu là những chọn lựa mở ra cho mình? Phải, khi đó mình sẽ đi tìm một thế giới quan khác sẽ cho mình một trải nghiệm khác. Chuyện này không có gì sai trái.”

Con có thể xoay chuyển như vậy chỉ trong một kiếp đầu thai, nhưng nếu không, chắc chắn con có thể xoay chuyển thế giới quan từ kiếp này sang kiếp khác. Cuối cùng có thể con sẽ đạt tới một điểm khi con nhận ra nếu địa cầu thật sự là một bộ máy giả thực tại, thì nếu như có gì ở ngoài bộ máy đó thì sao? Nếu như có một thế giới khác ở ngoài máy giả thực tại thì sao? Khi con bước vào căn phòng được xây đặc biệt trên địa cầu để chiếu lên môi trường giả tưởng, con biết là bên ngoài vẫn có một thế giới mà con gọi là thế giới thực tại. Nếu như tất cả những gì mà con đã coi là thực chỉ là một cái máy giả thực tại lớn hơn? Nếu như có một cái gì đó bên ngoài bộ máy đó? Và nếu cái đó là thực hơn, có thể đó chính là thực tại bên ngoài bộ máy? Nói cách khác, những gì mà các chân sư gọi là hành tinh tự nhiên – là những hành tinh đã bước vào vòng xoáy hướng thượng luôn luôn tự thăng vượt – có thể được xem là thế giới thực, trong khi các hành tinh phi tự nhiên là máy giả thực tại. Con cũng có thể nói, toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên là một loại máy giả thực tại, và chỉ cõi thăng thiên mới là thế giới thực, cho dù con muốn nhìn như thế nào.

Tuy nhiên, con cũng có một chọn lựa là đạt tới điểm con nhận ra: “Tôi đã chán chê máy giả thực tại trên địa cầu, tôi đã chán chê những loại trải nghiệm mà tôi có thể có trong máy này rồi. Nếu như tôi “tốt nghiệp” thì sao? Nếu như tôi có thể vĩnh viễn bước ra khỏi bộ máy này thay vì cứ đầu thai lại hoài hoài?” À, làm thế nào con làm được chuyện này? Con yêu dấu, con phải nhận ra là mỗi thế giới quan – bất kỳ thế giới quan nào mà con có thể có bên trong máy giả thực tại tên là địa cầu – cuối cùng cũng không thực. Mỗi thế giới quan như vậy được cung cấp, hay được tạo ra, được sản sinh ra, để tạo điều kiện cho một loại trải nghiệm nhất định nào đó.

Giờ đây con có thể nhìn địa cầu và nói: “Thế còn tất cả những xung đột và cuộc chiến thì sao? Mục đích là để làm gì?” Địa cầu là một loại máy giả thực tại đặc biệt. Con thử nghĩ xem, các sinh thể tự nhận biết được sinh tạo với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm rồi được ban cho quyền tự quyết để khuếch trương ý niệm bản sắc đó. Khi con mang một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm, làm thế nào con có thể nhận ra là mọi thứ đều liên kết với nhau? Làm thế nào con có thể nhận ra lý duyên khởi mà ta vừa nói đến? Đó, con hiện ra như một sinh thể tự nhận biết, con tự trải nghiệm như một sinh thể riêng biệt, khác biệt mọi sinh thể khác. Con sống trong một môi trường và con cũng khác biệt môi trường đó. Vậy làm thế nào con bắt đầu xây dựng một ý niệm bản sắc? Con phải bắt đầu bằng cách tự xem mình là một sinh thể tách biệt. Đây chính là điều mà một máy giả thực tại như địa cầu được thiết kế để giúp con làm. Nó chỉ được thiết kế để cho con một loại trải nghiệm đặc biệt là trải nghiệm của một sinh thể tách biệt.

Các chân sư có nói là có những hành tinh tự nhiên, và trên hành tinh tự nhiên, con cũng khởi đầu với một ý niệm bản sắc nhỏ như chấm. Con tự xem mình phần nào như là một sinh thể tách biệt, nhưng con nhận ra bản sắc con là nhiều hơn cái bản sắc nhỏ như chấm đó. Đó là tại sao trên các hành tinh tự nhiên, con không có những xung đột giữa các sinh thể tự nhận biết với nhau. Trên địa cầu, con có xung đột vì như các chân sư đã giải thích, một hệ quả cùng cực của quyền tự quyết được ban cho con là con phải có khả năng thám hiểm tất cả mọi cõi lựa chọn mà con có thể. Điều này có nghĩa là con phải có khả năng trải nghiệm trạng thái của một sinh thể hoàn toàn tách biệt có thể làm bất cứ gì mình muốn bất kể hậu quả cho các sinh thể tách biệt khác. Con có thể làm bất cứ gì con muốn và tin tưởng là mình sẽ tránh được hậu quả của việc mình làm.

Hành tinh địa cầu cho con trải nghiệm đó khi con không có cảm giác là mình kết nối với cái ta cao hơn của mình. Con không có cảm giác kết nối nào với những sinh thể khác. Con phủ nhận sự kiện hành động của con gây hậu quả cho người khác, hoặc hậu quả đó quan trọng đối với họ, và nó sẽ tác động lên chính con. Trên một hành tinh tự nhiên nơi các sinh thể nhận biết mọi thứ đều nối kết, họ biết mọi chuyện mình làm sẽ ảnh hưởng đến tổng thể. Trên địa cầu, con có thể có trải nghiệm mình không liên quan gì đến tổng thể, mình là một sinh thể tách biệt sinh sống giữa những sinh thể tách biệt khác, cho nên mặc dù con thấy được hành động của mình gây ra hậu quả vật lý, nó vẫn không gây ra bất kỳ hậu quả nào xa hơn, và nó không có tác động đến tổng thể.

Vấn đề là một khi người ta bước vào cảm nhận tách biệt này, họ có một cảm nhận mạnh mẽ về thực tại rằng: “Chuyện này thực. Chúng ta thực sự là những sinh thể tách biệt. Chúng ta đang sống thực sự trong một thế giới tách biệt. Chúng ta là những sinh thể cao trội trên địa cầu. Chúng ta quan trọng hơn mọi người khác. Tôn giáo chúng ta là tôn giáo chân chính duy nhất và do đó điều cần thiết và chính đáng là chúng ta giết hết những ai không theo tôn giáo chúng ta.” Đây là một trải nghiệm mà con có thể có trong máy giả thực tại trên địa cầu và nó nằm trong toàn bộ phạm vi của quyền tự quyết. Nhưng điều gì xảy ra khi người ta bị mắc kẹt trong loại trải nghiệm đó? Đúng vậy, có một cơ chế an toàn là mặc dù họ trải nghiệm mình là sinh thể tách biệt nhưng kỳ thực họ không tách biệt chút nào, vì họ luôn tương kết với tất cả mọi sinh thể khác ở trong cùng bộ máy giả thực tại, và do đó khi có một số người tỉnh ngộ, điều này sẽ kéo mọi người khác lên theo.

Đó là tại sao con đã thấy trong nhân loại, trong xã hội loài người, có một chiều hướng tiến hóa. Nhiều công nghệ mới đã được khởi xướng cho phép những nền văn minh biệt lập bắt đầu tương tác với nhau, và con thấy được thế giới đã trở nên ngày càng nối kết như thế nào, và mạng lưới internet là giai đoạn mới nhất của chiều hướng này. Bây giờ con thấy các thế giới quan của loài người sẽ bắt đầu chạm trán với nhau nhiều hơn, và đó là vì tập thể loài người đã bước vào khởi đầu của giai đọan tỉnh ngộ. Có mốt số người vẫn còn bám chặt vào tâm thức tách biệt, nhưng chuyện này hoàn toàn phù hợp với định luật tự quyết khi trong máy giả thực tại có những người bị những thế giới quan khác thách đố hầu họ có cơ hội chất vấn thế giới quan của họ.

Con sẽ có thể nói: “Nhưng rất nhiều người không đang nắm lấy cơ hội đó”. Điều này tất nhiên cũng đúng cho kiếp sống này, hay có lẽ cho nhiều kiếp sống, nhưng dù sao đi nữa trong giai đoạn mà địa cầu đang trải qua, hay nhân loại đang trải qua, thì cách cấu trúc của địa cầu khiến con không thể sống trên hành tinh này mà không nhận thức được những thế giới quan khác đang có mặt và không bị thách đố trong thế giới quan của mình. Sẽ tới một điểm, sẽ tới một thời điểm cho hầu hết mọi người khi họ sẽ cởi mở hơn để chất vấn thế giới quan của mình. Điều này sẽ xảy ra đặc biệt là vì con sẽ không mãi mãi đầu thai với cùng một thế giới quan. Nhiều người khi tái đầu thai sẽ chuyển sang một nền văn minh khác hay một thế giới quan khác, cho nên mọi người sẽ đều có cơ hội chất vấn thế giới quan của mình. Sự kiện này nằm trọn trong phạm vi của quyền tự quyết bởi vì mọi người trên địa cầu đều nối kết, cho nên khi một số bắt đầu thức tỉnh, điều hoàn toàn tự nhiên là họ sẽ kéo theo số còn lại, sẽ thách đố số còn lại cũng phải đặt lại vấn đề thế giới quan của mình.

Dựa vào đó, chúng ta có thể nói: “Liệu điều này có đem lại ý nghĩa gì cho nỗ lực khiến người khác chất vấn thế giới quan của họ hay không?” Con nhìn xem khi tín đồ các tôn giáo tin chắc là mình nắm chân lý đích thực duy nhất, hay khi người cộng sản tin chắc là họ có hệ thống chính trị chân chính duy nhất, hay người duy vật tin chắc là họ nắm thế giới quan đúng đắn duy nhất, rồi họ trở thành những nhà truyền giáo ráo riết đi cải đạo người khác, liệu điều đó có đem lại ý nghĩa gì hay không? Tất nhiên là nó đem lại ý nghĩa vì đó là thêm một trải nghiệm mà con có thể có. Trong nguyên tầm trải nghiệm mà máy giả thực tại địa cầu cống hiến, con có thể cảm nhận: “Tôi có thế giới quan cao nhất cho nên tôi cần đi cải đạo mọi người”. Và con mang cảm nhận đó suốt mấy kiếp sống cho tới khi con chán chê và con bước lên một tầm nhìn cao hơn. Bây giờ thì con có thể tập trung trải nghiệm thế giới quan mà con đã chọn, nhưng cuối cùng thì con sẽ bước lên và bắt đầu tra vấn mọi thế giới quan hiện hành trên trái đất để tìm cái gì cao hơn.

Đây là lúc cuộc xoay chuyển có thể xảy ra trong tâm con, vì bước kế tiếp trong nhận biết cao hơn là khi con nhận ra địa cầu là một bộ máy giả thực tại. Nó đúng là thế đó. Nhưng điều con nhìn thấy trong máy giả thực tại địa cầu là con nhìn thấy máy, con nhìn thấy căn phòng con đã bước vào, nhưng máy không chạy được một mình. Bên ngoài căn phòng có nhân viên điều khiển máy, và những vị điều khiển máy giả thực tại trên địa cầu là những sinh thể đã từng, phần lớn, ở trong máy đó và gọi là đã tốt nghiệp. Họ đã chán ngán những trải nghiệm trong máy và họ đã bước ra ngoài, nhưng thay vì bỏ đi luôn, họ đã hiến thân mình để giúp những ai vẫn còn trong bộ máy.

Cho nên ở một mức nào đó, sự chọn lựa mở ra cho con là con nhìn vào thật nhiều những thế giới quan có mặt trên trái đất và nhận ra là chúng đều được tạo ra trong máy giả thực tại. Có lẽ một số trong số đó đã nhận được sự đóng góp từ bên ngoài bộ máy, nhưng sau đó người đời đã sử dụng khả năng tâm thức cố hữu của họ mà phóng chiếu lên các xung lực đến từ ngoài, rồi dựng lên một thế giới quan mới, và thế giới quan này thì được tạo ra bên trong bộ máy. Cho nên một khi con ngộ ra được điều này, con có thể nói: “À, nếu như tôi có thể nhận được trực tiếp từ những vị điều khiển máy ở ngoài thì sao?” Khi đệ tử sẵn sàng, vị thày sẽ xuất hiện. Đó là tại sao suốt bao nhiêu thời đại, một số người đã sẵn sàng tiếp nhận từ ngoài bộ máy giả thực tại và họ đã nhận được.

Khi ta, Phật Gautama, bước chân trên trái đất trong một cơ thể vật lý 2500 năm về trước, có phải ta đã tự mình nghĩ ra giáo lý đạo Phật hay chăng? Liệu ta là một sinh thể vẫn sống trong máy giả thực tại mà lại đưa ra được giáo lý đó? Không đâu. Ta nhận ra sự giới hạn của những thế giới quan mà ta tiếp cận thời đó, và ta đã mở tâm ra để với lên điều gì đó nằm vượt ngoài bộ máy. Và ta đã nhận được, và điều đó đã trở thành giáo lý đạo Phật. Giáo lý này được ban truyền từ bên ngoài bộ máy, và tất nhiên kể từ thời đó, đã có những người không trực tiếp liên lạc với các vị điều khiển máy bên ngoài đã sử dụng thế giới quan cố hữu của họ để đè chồng lên những ý tưởng tạo ra giáo lý mà ngày nay con gọi là đạo Phật. Một số người đã giữ được một độ thuần khiết nào đó của lời dạy ban đầu. Một số khác đã áp đặt một cách diễn giải rất khác với lời dạy ban đầu. Nhưng rất, rất ít người đã dùng lời dạy ban đầu của Phật giáo để nối kết với các vị điều khiển ở ngoài bộ máy.

Khi Giê-su bước chân trên trái đất 2000 năm về trước, thày cũng đã đạt đến mức tâm thức chất vấn mọi thế giới quan mà thày nhìn thấy trên địa cầu. Thày cũng ngộ ra là rất nhiều thế giới quan được tạo dựng hoàn toàn bên trong máy giả thực tại. Chúng dựa trên trải nghiệm của những người bên trong bộ máy. Họ lấy những trải nghiệm đó và đè chồng lên thế giới quan. Điều này cũng tốt thôi vì nó đem lại cho họ một trải nghiệm, và cảm giác trải nghiệm đó là thực. Vấn đề là, nếu thế giới quan do các điều kiện hiện hành trong máy tạo ra không thể giúp con bước ra ngoài bộ máy, thì nó sẽ giữ chặt con lại ở trong đó.

Cho nên Giê-su đạt tới điểm khi thày sẵn lòng nhìn ra điều đó. Và thày đã nhìn ra. Thày ngộ được sự giới hạn của những thế giới quan đó. Thày sẵn sàng chất vấn chúng. Thày sẵn sàng đạt tới điểm nói rằng: “Có thể nào tự mình ta không thể làm được gì? Hay có điều gì đó mà Cha ở bên ngoài ta con thể cho ta, một viễn quan khác hơn là những gì ta có thể nhận được từ bên trong thế gian này?” Và Giê-su với tay ra, và như định luật nói rõ, khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày phải xuất hiện, và Giê-su được ban cho một lời dạy từ bên ngoài bộ máy. Người đời đã làm gì với lời dạy đó chứ? Phải, như Giê-su vừa nói trong bài giảng của thày hôm nay, người đời đã hoàn toàn bóp méo nó đi.

Điều mà thày gọi là “tâm thức Sa-tăng” là cái mà ta gọi là “tâm thức hiện hữu bên trong máy giả thực tại”. Tâm thức đó có khả năng nhận thức một cái gì đó bên ngoài bộ máy, nhưng một khi nó bắt được liên lạc với bên ngoài, nó lại muốn buộc cho sáng ngộ đó phải ép mình vào trong thế giới quan đã được tạo ra trong máy. Nói cách khác, thay vì sử dụng sự tiếp xúc đó với bên ngoài để thăng vượt máy giả thực tại, nó lại sử dụng để củng cố và xác nhận chính cái thế giới quan đã giam nó trong máy.

Có người sẽ bào: “Nhưng đó có chẳng phải là một trải nghiệm khác mà người ta có thể có, khi người ta cảm thấy thế giới quan của mình được xác nhận bởi một thẩm quyền tối thượng, dù họ gọi đó là Thượng đế hay một cái tên nào khác?” Tất nhiên đó là một loại trải nghiệm khác, nhưng một lần nữa, vì mọi sinh thể ở trong bộ máy được nối kết với nhau, điều hoàn toàn bình thường là một số người sẽ với lên một trải nghiệm cao hơn và đem xuống được một điều gì đó có thể thách đố thế giới quan hiện hữu. Dựa vào đó con có thể nói: “Có một số thế giới quan trên địa cầu bảo là có điều gì đó không ổn với tạo vật của Thượng đế và đó là lý do chúng ta chứng kiến bao nhiêu cảnh khốn cùng, bao nhiêu đau khổ và xung đột trên địa cầu.” Nhưng nếu dựa vào viễn quan mà ta vừa trao cho con, không có gì đã đi trật đường.

Địa cầu là một máy giả thực tại được thiết kế để đem lại cho các sinh thể ở bên trong một loạt những trải nghiệm khác nhau. Họ có quyền tự quyết chọn lựa loại trải nghiệm nào họ muốn. Theo một nghĩa nào đó, họ không chọn lựa giữa những trải nghiệm đã từng có, mà họ phần nào có tự do ấn định trải nghiệm của họ, và điều này họ vẫn làm khi họ tạo ra tất cả những thế giới quan đó đụng độ với nhau. Không có gì đã bị trật đường. Vấn đề duy nhất là: “Liệu cá nhân con đã đủ chán chê những trải nghiệm con đang nhìn thấy trên địa cầu hay chưa?” Nếu con đã đủ chán thì con có thể làm hai chuyện. Con có thể tìm cách bắt liên lạc với những vị điều khiển máy bên ngoài bộ máy, và đem xuống một xung lực sẽ giúp con định ra một thế giới quan khác hơn sẽ mang lại cho con một trải nghiệm mà chưa ai trên địa cầu từng nếm mùi. Chuyện này hoàn toàn chính đáng. Nhưng chọn lựa kia là con nhận ra là con đã chán ngán tất cả mọi loại trải nghiệm – là loại trải nghiệm mà con có thể có trên trái đất, loại trải nghiệm mà con có thể có như một sinh thể tách biệt. Con muốn bước lên cao hơn và đi vào nhận thức sâu xa là mặc dù con đã khởi sự như một sinh thể nhỏ như cái chấm, giờ đây con đã khuếch trương ý niệm bản sắc của mình đến mức con ngộ ra là con không phải là một sinh thể tách biệt, mà con là thành phần của một tổng thể tương kết. Thay vì trải nghiệm những gì con có thể trải nghiệm như một sinh thể tách biệt, con muốn có trải nghiệm mình nối kết.

Cho nên khi con đạt đến điểm này, đó là lúc con có thể khởi sự giai đoạn chót của tiến trình tỉnh ngộ có thể dẫn con tới điểm vĩnh viễn bước ra khỏi bộ máy giả thực tại của địa cầu, mà hiển nhiên các chân sư gọi là thăng thiên. Liệu có tên gọi nào khác hay không? Tất nhiên là có, nhưng các chân sư đang trao cho con một lời dạy mà các thày không bảo là lời dạy tối hậu, mà là một lời dạy được thiết kế đặc biệt để giúp cho những ai sẵn lòng bước ra khỏi bộ máy càng nhanh càng tốt. Đối với nhiều người, việc này có thể thực hiện được trong một kiếp người, vì con đã làm xong nhiều chuyện trong các kiếp trước rồi. Cho nên đó là mục đích duy nhất. Các thày không có mục đích cho con chân lý tối thượng vì một lý do vô cùng giản dị. Mục đích giáo lý của chân sư không phải là cho con thêm một loại trải nghiệm để con có thể nếm mùi trong máy giả thực tại địa cầu. Mục đích giáo lý của chân sư là để giúp con vĩnh viễn rởi khỏi máy giả thực tại.

Liệu có những giáo lý nào khác có thể giúp con rời khỏi máy giả thực tại hay chăng? Chắc chắn là có. Đạo Phật là một giáo lý đã giúp được một số người. Đạo Cơ đốc trong dạng thuần khiết cũng đã giúp được một số người. Ngay cả đạo Hồi cũng đã giúp được một số người khi họ đi theo con đường thần bí. Có những giáo lý khác cũng đã giúp được con người. Nhưng những gì các chân sư thăng thiên ban truyền ngày hôm nay được dựa trên tâm thức tập thể của ngày hôm nay. Do đó nó đã được hoạch định cho những ai đã đạt tới những mức độ tỉnh thức cao hơn và đã sẵn sàng bước những bước cuối cùng. Đó là điều mà ta muốn trao cho con trong bài giảng này. Đối với một số người, đây chỉ là chuyện tầm phào. Một số người khác sẽ đọc bài này và bảo là chuyện ngớ ngẩn, vô nghĩa lý. Một số khác sẽ đọc và bảo bài này không thể nào là của đức Phật. Một số khác sẽ đọc và bảo bài này không thể nào của các chân sư thăng thiên. Hãy mặc cho họ có trải nghiệm đó. Điều quan trọng là bài này là gì đối với con?

Con đi theo những lời dạy đánh động được nội tâm của con, những lời dạy mà con biết có thể giúp con bước ra khỏi máy giả thực tại, và khi con thật sự rời khỏi bộ máy đó, chắc chắn ta sẽ ở đó để đón chào con, cùng với Giê-su, Saint Germain, chân sư More, Mẹ Mary và nhiều vị chân sư thăng thiên khác nữa. Thật ra, các thày có thể sẽ đứng xếp hàng để đón chào con. Nhưng một lần nữa, vì các thày ngụ trong tâm duy nhất cho nên chuyện đó cũng hoàn toàn tốt thôi.  

Với lời đó, con yêu dấu, ta biết ơn con đã cho phép ta đưa ra lời dạy vừa rồi, bài giảng vừa rồi. Lời dạy đó đã không thể trao cho bất cứ ai, mà chỉ cho những người đã mở tâm mình ra để có khả năng và lòng mong muốn tiếp nhận được. Và con thấy đó, luôn luôn có lý duyên khởi đang vận hành. Chúng tôi là các chân sư thăng thiên không thể truyền rải một điều gì đó trên địa cầu “từ hư vô”. Chúng tôi phải cần đến một ai đó bên trong máy giả thực tại nâng cao tâm thức mình đến mức có khả năng nhận được. Và vì thế ta vô cùng biết ơn. Như vậy, ta niêm ấn buổi hội nghị này trong Ngọn lửa Biết ơn của Phật.  

19 | Một câu hỏi về thời gian

Câu hỏi: Xin các chân sư trao cho chúng con một lời dạy sâu xa hơn về sự không hiện hữu của thời gian và về thực tại tâm linh. Chúng con biết là một số sự việc diễn ra theo trình tự thời gian, chẳng hạn như việc đổ đầy một bầu cõi tân lập với ánh sáng. Nếu thời gian không hiện hữu và mọi sự đều xảy ra cùng một lúc, làm thế nào chúng con có thể gắn liền việc này với ý chí tự quyết, vì ý chí tự quyết có cơ hội bước theo hướng hoàn thành con đường quả vị Ki-tô hoặc theo hướng ngược lại? Từ nhãn quan thế tục của chúng con, việc đó xảy ra ở một thời điểm cụ thể. Các sinh thể ở cõi tâm linh cảm nhận thời gian trôi qua trên trái đất như thế nào?

Trả lời của Phật Gautama: Con yêu dấu, thày chính là người đã nói: “Thời gian không có,” và tất nhiên câu này là một công án. Chắc chắn thời gian hiện hữu ở một mức độ nào đó. Chắc chắn thế gian mang tính chất đường thẳng ở một mức độ nào đó. Có một sự trải bày tuần tự từ giai đoạn trước sang giai đoạn sau. Con có thể nói là toàn bộ thế giới quan mà các thày đã trao cho con là sự kiện Đấng Sáng tạo đã khởi sự sáng tạo qua việc tạo ra một khoảng trống, xong ngài tạo ra một tiến trình cho các sinh thể đồng sáng tạo lấp đầy khoảng trống này – và đây là một tiến trình hoàn toàn đường thẳng. Từ nhãn quan này, con có thể nói là con có thể xem thời gian như một trình tự tiến hành từ một giai đoạn sang giai đoạn kế tiếp, qua đó một giai đoạn tạo ra một biểu hiện đặc thù sẽ đặt nền tảng cho sự phát triển tiếp theo của các biểu hiện trong giai đoạn kế tiếp. Nếu con nhìn thời gian theo cách này thì chắc chắn thời gian hiện hữu. Điều thày muốn con và mọi người nói chung quán chiếu qua câu “Thời gian không có” là sự kiện thời gian không nhất thiết phải giống hệt cách nhìn hiện thời của con bằng tâm thức gọi là “bình thường” trên trái đất. Không như cách nhận thức bình thường của con, thời gian không hẳn là đường thẳng, khắc sâu vào đá, không thể tránh khỏi hay không thể thay đổi.

Một khía cạnh của vấn đề này là toàn bộ giáo lý các thày đã trao cho con về cách làm thế nào con loại bỏ các ngã tách biệt và nhờ vậy chữa lành bốn thể phàm của con. Chúng ta có thể nói là ở một thời điểm trong quá khứ xa xôi con đã trải qua một chấn thương nhập đời, và thời điểm này không còn nữa, thời điểm này đã đi qua. Bây giờ con đang ở một thời điểm khác nhưng con vẫn mang chấn thương nhập đời này theo con. Con vẫn bị nó tác động vì các khoảnh khắc sau đó, các khoảnh khắc đến sau chấn thương nhập đời, đã bị chấn thương nhập đời đưa vào một hướng đi nhất định. Mọi chuyện xảy ra sau đó được xây dựng trên nền tảng chấn thương nhập đời.

Nếu con không thể thay đổi thời gian, nếu con không thể thay đổi quá khứ, nếu con không có một cỗ máy vượt thời gian – mà qua đó con có thể đi trở ngược quá khứ để giải quyết chấn thương nhập đời – thì làm thế nào con sẽ giải thoát khỏi chấn thương được đây? Con thấy là ngay khoảnh khắc Đấng Sáng tạo ban quyền tự quyết cho các sinh thể đồng sáng tạo, phải có một sự trải bày diễn ra một cách đường thẳng, mà con gọi là thời gian, để các sinh thể này sử dụng quyền tự quyết của họ. Như vậy họ mới thấy được là khi họ phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì sau đó một thời gian Ánh sáng Mẫu-vật sẽ trình diễn nó ra thành những hoàn cảnh vật lý. Những hoàn cảnh vật lý này không chỉ biến mất sau một tích tắc mà chúng có thể tồn tại trong một khoảng mà con gọi là thời gian.

Để sử dụng quyền tự quyết, phải có thời gian hiện hữu để một số biểu hiện được duy trì. Tuy nhiên để đảm bảo quyền tự quyết không trở thành một hệ thống tự hạn chế – tức một hệ thống nơi con lần lần càng tạo thêm hậu quả cho chính mình, rồi với thời gian con mang các hậu quả này theo con cho tới mức chúng trở nên khắc nghiệt đến độ chẳng bao lâu con không còn chọn lựa nào nữa, con không còn quyền tự quyết nữa – để tránh kịch bản này xảy ra, thời gian không thể chỉ đi theo một hướng độc nhất. Phải có cách nào đó để con quay lại thay đổi quá khứ. Cách đây hai triệu năm có thể đã có một tình huống vật lý nơi con phải chạm mặt với chấn thương nhập đời, nhưng khía cạnh tích cực của thời gian là thời gian đã trôi qua. Và tình huống vật lý này không còn nữa.

Đây là một ân huệ, vì ngược với những gì các tác giả khoa học viễn tưởng muốn con tin, con không thể chế tạo một cỗ máy vật lý có khả năng quay trở lại một tình huống xảy ra hai triệu năm trước để con du hành về đó trong cõi vật lý và thay đổi vật lý. Chuyện này không thể làm được, không bao giờ có thể làm được. Nhưng điều con có thể làm được là tạo ra một cỗ máy vượt thời gian trong chính tâm con. Kỳ thực trong bài tập mà Mẹ Mary dẫn con đi qua bảy khu vườn trở về rạp hát nơi chấn thương nhập đời của con đã diễn ra, Mẹ đã trao cho con một cỗ máy như vậy để con có thể quay về khung cảnh khi tình huống đó vẫn tồn tại. Tình huống không còn tồn tại trong cõi vật lý nhưng nó còn tồn tại trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. [Xem bài tập này trong sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]

Con có thể quay trở về đó trong cỗ máy vượt thời gian xuyên qua các thể này, làm tan biến những vết tích còn sót lại ở đó, những khuôn đúc, những giới hạn, những cái ngã, bất kể con muốn gọi là gì cũng được. Con làm nó tan biến đi, thế là con thay đổi quá khứ cho dù thời gian đã trôi qua. Con đã thay đổi quá khứ của con. Qua việc loại bỏ ngã gốc của mình, con không còn là cùng con người mà con đã từng là, khi chính ý niệm bản sắc của con, cách con tư duy về cuộc sống và cách con cảm nhận cuộc sống bị ngã gốc đó pha màu. Con đã trở thành một sinh thể mới trong Ki-tô. Đây ít nhất là một tầng cấp cho thấy tại sao thày bảo rằng thời gian không có. Thời gian không phải là một lượng gì cố định.

Bây giờ nói về quyền tự quyết, luôn luôn đã có bàn cãi về đề tài này trong số những người tâm linh lẫn các triết gia. Chẳng hạn những ai theo tôn giáo sẽ nói: “Nếu Thượng đế là đấng toàn tri thì ngay từ khởi thủy ngài đã phải biết rõ kết cuộc. Thượng đế phải biết kết quả chung cuộc của vũ trụ sẽ ra sao trước khi ngài khởi đầu tiến trình sinh tạo vũ trụ. Và nếu Thượng đế biết hết mọi chuyện sẽ xảy ra thì làm sao con người có quyền tự quyết được?”

Và câu trả lời là như sau: đó là một cái nhìn sai lạc về Thượng đế, một hình ảnh sai lạc về Thượng đế mà sa nhân đã cốt ý đưa ra nhằm gây bối rối theo kiểu này. Thượng đế không toàn tri theo nghĩa ngài biết chính xác tất cả mọi chuyện sẽ diễn bày. Ngài biết một số sự việc tổng quát nhưng ngài không biết rõ mọi chi tiết. Kỳ thực ngài đã nói, Đấng Sáng tạo đã nói: “Ta ban quyền tự quyết cho các con. Ta ban cho các con khả năng làm cho ta ngạc nhiên.” Cho nên từ một quan điểm truyền thống, Thượng đế không toàn tri.

Thậm chí con có thể thấy các nhà duy vật bảo rằng mọi chuyện đều được quy định bởi các định luật tự nhiên. Có một hình ảnh cố hữu cho rằng thế giới giống như một chiếc đồng hồ vĩ đại, và nếu con biết tất cả các điều kiện ban đầu khi thế giới khởi sự, thì bằng cách biết rõ mọi định luật tự nhiên con có thể tiên đoán chính xác thế giới sẽ như thế nào ở bất kỳ thời điểm nào trong tương lai. Con có thể đoán trước được tương lai nếu con biết rõ các điều kiện nguyên thủy cùng các định luật tự nhiên. Cách nhìn này cũng hoàn toàn sai lạc vì quan điểm duy vật không ngó gì đến quyền tự quyết, nó bỏ qua thực tế rằng vũ trụ vật lý chỉ là hệ quả của những gì xảy ra trong ba thể cao hơn. Sự biểu hiện vật lý chỉ là sản phẩm của những gì xảy ra ở mức tâm thức. Như các thày đã nói, tâm thức có trước, biểu hiện vật lý có sau. Cho nên đơn giản những quan điểm như trên đều sai lạc. Con quả là quyền tự quyết.

Con sắp sửa làm gì đây trong một phút nữa: Thượng đế không làm sao biết được, Thượng đế không quy định được, Thượng đế không giới hạn được, và các định luật tự nhiên cũng không giới hạn được. Con có thể nhìn một người nào đó, nhìn vào trạng thái tâm lý của họ, nhìn vào các ngã tách biệt mà họ đang mang, và con có thể tiên đoán với một độ chính xác rất cao là họ sắp sửa làm gì trong một phút nữa. Tuy nhiên với thời gian, con không thể biết được liệu họ sẽ quyết định thay đổi hay không. Ngay cả những người hoàn toàn không biết đến các chân sư thăng thiên, họ vẫn có thể lấy quyết định: “Tôi đã chán chê loại trải nghiệm này rồi. Tại sao tôi cứ làm đi làm lại cùng một chuyện này mãi mãi? Tôi chọn lựa thay đổi. Tôi sẽ ngừng làm chuyện đó.”

Suốt chiều dài lịch sử, con người đã có những chọn lựa như vậy và chính điều này đã đem lại tiến bộ cho bản thân họ cũng như cho nền văn minh của họ. Một khi con hiểu rõ ngã tách biệt, con có thể loại bỏ chúng, con có thể để cho chúng chết đi, và sau đó với mỗi cái ngã chết đi như vậy, con sẽ có thêm quyền tự quyết. Quả là con có quyền tự quyết nhưng con chỉ có thể chọn các chọn lựa mà con nhìn thấy. Các chọn lựa mà con nhìn thấy ngay bây giờ tùy thuộc vào toàn bộ bốn thể phàm của con, vào các ngã tách biệt, vào sự pha màu mà con đang mang. Một số những ngã tách biệt này sẽ che chắn nhiều tùy chọn khỏi mắt con, cho nên con chỉ không thể thấy chúng, và nếu con không thấy chúng là chọn lựa thì con không thể nắm lấy chọn lựa đó. Nói cho cùng, quyền tự quyết và sự nhận biết gắn liền rất chặt chẽ với nhau. Con có thể nói là con luôn luôn có quyền tự quyết chọn lựa các tùy chọn mà con thấy được ở mức tâm thức hiện thời của con. Ý chí tự do của con chỉ tự do như những gì con có thể nhìn thấy.

Hẳn nhiên quyền tự quyết là một thực tế, và bất kỳ triết lý nào, hệ tư tưởng nào mà bác bỏ quyền tự quyết hay tìm cách giới hạn quyền tự quyết qua một yếu tố nào đó mà con không có khả năng chủ động, bất kỳ hệ thống nào như vậy đều xuất phát từ tâm trí của sa nhân. Các thày không bảo là tất cả những ai đề xướng những loại hệ thống như vậy đều là sa nhân, nhưng ý tưởng nguyên thủy đã khởi lên từ tâm  trí sa nhân. Mục đích chủ yếu của chúng không phải là giới hạn dân số loài người mà giới hạn các chọn lựa mà quần chúng có thể lấy, hay đúng hơn, mà mỗi cá nhân có thể lấy. Chúng muốn hạn chế quyền tự quyết của con.

Tất cả đều nối kết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 21/9/2019 tại Kyiv, Ukraine.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Thật là một niềm vui rất lớn cho ta được niêm hội nghị chân sư thăng thiên này tại quốc gia Ukraine. Và ta cũng rất vui nói với các con là các con đã vượt quá tiềm năng cao nhất mà chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã dự đoán cho hội nghị này. Các con đã làm được như vậy là do đã sẵn sàng đến với nhau, và mặc dù những khác biệt về ngôn ngữ, quốc gia hay văn hóa, các con đã đạt được một mức độ kết hợp cao hơn là chúng tôi có thể dự đoán. Điều này đã mở ra khả năng cho chúng tôi truyền rải nhiều ánh sáng hơn những gì có thể.

Bởi vì điều gì định đoạt lượng ánh sáng mà chúng tôi truyền rải tại một hội nghị? Phần lớn, đó là khả năng của luân xa các tham dự viên – kể cả những tham dự viên nối kết qua mạng lưới internet – để tỏa rạng, phát sóng ánh sáng vào tâm thức tập thể. Nếu chúng tôi ban ra nhiều ánh sáng hơn là luân xa các con có khả năng tiếp nhận thì sẽ quá nhiều cho các con, và nếu ánh sáng không thể tỏa ra thì không chắc nó sẽ thực hiện được mục đích của nó. Qua sự kiện các con vừa nhận được những bài truyền đọc với uy lực rất lớn, các con có thể biết là mình đã sẵn lòng đến với nhau trong hợp nhất – là sự hợp nhất đạt được khi không chỉ luân xa của từng cá nhân được chúng tôi sử dụng, mà các con đã hình thành một tâm và một tim kết hợp rộng lớn hơn, khiến luân xa mọi người được phối hợp lại, được đồng bộ với nhau để nhân lên gấp nhiều lần những gì chúng tôi truyền rải.

Ta không bảo là mọi hội nghị đều như vậy, hay các con phải bắt đầu đánh giá xem hội nghị nào mà không nhận được bài truyền đọc đầy uy lực thì tham dự viên đã không kết đoàn. Có những hội nghị mang những mục tiêu khác. Có những bài truyền đọc mà mục đích chủ yếu là để giảng dạy giáo lý. Và do đó, vì phần nào chúng ta đang ở một khu vực mang tâm thức tập thể rất dày đặc nên mới có nhu cầu phóng ra một lực thúc đẩy thật mạnh mẽ hầu đâm thủng, phá vỡ một số khuôn đúc trong tâm tập thể.

Trong hội nghị này, chúng tôi đã gợi ý một số khái niệm mà chúng tôi chưa đề cập trước đây. Con đã nghe chúng tôi trình bày về một khái niệm – lý duyên khởi – có lẽ xa lạ đối với đa số các con nhưng lại khá phổ biến trong một số giới đạo Phật. Tất nhiên đó là một cách gọi hơi hoa mĩ vì con có thể diễn tả một cách khác: Tất cả mọi thứ đều nối kết với nhau. Khái niệm này mang nhiều hệ quả mà chúng tôi sẽ có dịp trình bày chi tiết hơn trong thời gian tới. Thật ra chúng tôi cũng đã có đề cập bằng những từ ngữ và ý tưởng khác rồi, nhưng như con cũng biết, chúng tôi thường trở lại một đề tài đã bàn đến trước đây để đưa nó lên một tầng cao hơn, bởi vì tiến trình truyền pháp có một số chu kỳ, và tiến trình tăng trưởng của con cũng có một số chu kỳ nhất định. Cho nên thỉnh thoảng, chúng tôi sẽ giảng lại về một đề tài đã được giảng trước đó để đem lại một cái gì mới và đưa nó lên một tầm nhìn cao hơn.

Khi bảo rằng tất cả mọi thứ đều nối kết thì câu này có nghĩa là gì? Có nghĩa là ảo tưởng, hay ấn tượng do giác quan của con tạo ra là một ảo tưởng. Con nhìn qua giác quan của con, và với tâm vỏ ngoài giới hạn giác quan, con thấy mọi thứ đều tách biệt. Con có thể bảo rằng cái loa bên này tách biệt với cái loa bên kia, rằng mặt trời tách biệt với mặt trăng, địa cầu tách biệt với sao Thủy hay sao Kim. Một người bên Nga tách biệt với một người bên Mỹ, vân vân.

Thế giới chú tâm vào sự khác biệt, chú tâm vào những vật tách biệt. Đây là một ảo tưởng mà con có thể bắt đầu rèn luyện tâm trí để con nhìn vượt qua. Và con có thể làm điều này một cách cao hơn hầu hết mọi người đã làm được trước đây nhờ con được học rất nhiều giáo lý mà chúng tôi đã ban ra. Trước tiên là giáo lý về bốn tầng của vũ trụ vật chất. Nó cho thấy là dải tần số vật chất, quang phổ vật lý, cũng giống như phần nổi của một tảng băng hiển lộ trên mặt nước, trong khi phần còn lại thì không thấy được bởi nó ẩn dưới mặt nước.

Cũng vậy, ba thể cao của phàm ngã con không thấy được. Nhưng như con cũng biết, nếu 90% băng đá bên dưới chuyển động thì chẳng phải là phần nổi bên trên cũng sẽ chuyển động theo hay không? Cho nên nếu bên dưới có dòng nước ngầm di chuyển về hướng Nam, thì dù cho bên trên có một ngọn gió thật mạnh thổi về hướng Bắc, phần nổi của tảng đá vẫn sẽ trôi ngược gió về hướng Nam.

Và như vậy nếu trong ba thể cao của con có sự chuyển động về một hướng nào đó, thì có thể tâm ý thức của con sẽ rất khó lòng đi ngược về hướng kia. Con sẽ đi theo những ngọn sóng ngầm trong tiềm thức. Và đó là tại sao con có tiềm năng nắm quyền chủ động đời mình bằng cách giải tỏa những năng lượng đó, giải quyết tâm lý và buông bỏ những cái ngã, vân vân. Nhưng con cũng có thể rèn luyện tâm trí để con cảm nhận sự nối kết sâu hơn bên dưới cho dù con không nhất thiết nhìn thấy được.

Điều này sẽ đem lại rất nhiều ích lợi cho đường tu của con. Sơ khởi ta sẽ đưa ra một ví dụ. Sứ giả này đang dang hai bàn tay ra khá xa. Nếu giả dụ con lấy một tấm vải che phần dưới cơ thể của ông thì con có thể thấy hai bàn tay này tách biệt với nhau. Bây giờ hai bàn tay bắt đầu chuyển động nhịp nhàng với nhau và chúng gặp nhau ở giữa – con có thể nghĩ chúng là hai vật tách biệt đang di động nhịp nhàng. Nhưng tất nhiên vì không có tấm vải nào đang che cơ thể của ông, cho nên con thấy rõ chúng thuộc về, chúng gắn liền với cùng một cơ thể. Và do đó, thật không có gì lạ lắm khi cơ thể này có thể làm cho chúng chuyển động.

Nhưng bây giờ con hãy tưởng tượng hai vật có vẻ tách biệt đối với giác quan của con. Nếu một vật di chuyển về hướng này và vật kia di chuyển về hướng kia, con sẽ có thể nghĩ rằng có hai nguyên nhân khác nhau đang làm chúng chuyển động. Và con có thể nghĩ, như khoa học đã nghĩ như vậy từ mấy thế kỷ qua, rằng thế giới được tạo thành bởi những vật tách biệt, những vật không nối kết với nhau, không trao đổi tín hiệu với nhau. Và do đó nếu chúng di chuyển về hướng khác nhau, nhất định là phải có những nguyên nhân khác nhau khiến chúng chuyển động. Nhưng thật là không phải vậy. Không có vật nào tách biệt cả. Và cũng không có nguyên nhân nào tách biệt. Không có hậu quả tách biệt lẫn nguyên nhân tách biệt.

Điều gì có thể giải thích chuyện này? Làm thế nào con hình dung được đây? Một lần nữa, con hãy lấy ví dụ hai bàn tay của sứ giả này đang chuyển động nhịp nhàng với nhau trước khi chúng chụm lại. Dựa trên giác quan, con có thể bảo là có hai bàn tay đang hiện hữu trong thời gian và không gian. Chúng đang di chuyển một cách liên tục với nhau trước khi gặp gỡ. Nhưng như chúng tôi đã gợi ý trước đây, điều xảy ra không thực là vậy. Bởi vì quang phổ vật lý giống như hình ảnh trên một màn hình chiếu phim. Những chuyển động mà con thấy trên màn hình không liên tục vì chúng do cuộn phim tạo ra, và cuộn phim thì có nhiều tấm ảnh tách rời được ánh sáng chiếu xuyên qua. Chính các tấm ảnh này chuyển động, nhưng chúng chuyển động nhanh đến độ con không thấy có một tấm ảnh đang thay thế một tấm khác. Nhưng dĩ nhiên con cũng biết, trong phim cũ thời xưa quay chậm hơn, con có thể nhận thấy hình bị nhảy giật giật, khiến người ta đi đứng trong phim cũng giật giật như thế – và nhờ vậy con dễ nhận ra đó là những tấm ảnh cố định riêng rẽ đang được trình chiếu ở một tốc độ khiến con có cảm giác chúng là phim xi-nê.

Khi con biết mọi chuyện xảy ra trong cõi vật lý là kết quả của những nguyên nhân trong ba cõi cao hơn, con sẽ bắt đầu thấy được là không có hai bàn tay đang chuyển động cùng với nhau trong một động tác liên tục. Nếu con có thể chiếu chậm lại, con sẽ thấy: đây, có một tấm ảnh đang được trình chiếu ngay bây giờ bởi những gì đang xảy ra trong ba cõi tình cảm, lý trí và bản sắc, tức là sự tương tác giữa những năng lượng và khuôn đúc trong ba cõi đó. Nếu con hình dung được và chiếu cho thật chậm, con sẽ có thể nói: đây, có một tấm ảnh nữa đang được tạo ra bởi tương tác trong ba cõi cao. Và đây, lại thêm một tấm ảnh nữa. Và đúng vậy, đối với con hai bàn tay có vẻ như xích lại gần với nhau. Nhưng câu hỏi đặt ra là: liệu có phải là cùng hai bàn tay đó hay không? Có phải là cùng hai bàn tay đang chuyển động từ tấm ảnh này sang tấm ảnh kia rồi sang tấm ảnh nọ? Hay phải chăng nó giống như những tấm ảnh riêng rẽ trên một cuộn phim đang quay và được chiếu lên màn hình, hết tấm này sau tấm kia?

Nói cách khác, thực tế là cho dù con thấy cái đó như một vật liên tục và một sự chuyển động liên tục, thật ra nó giống như một chuỗi ảnh được chiếu lên màn hình, nhưng nó nhanh đến độ các giác quan vỏ ngoài của con, tâm vỏ ngoài của con không thể nắm bắt được.

Tại sao chuyện này lại quan trọng? Vì nhiều lý do. Nhưng sơ khởi, vì con hiểu ra là nếu con thực sự muốn thay đổi cõi vật lý thì con sẽ cần thay đổi nguyên nhân, con cần làm việc trên nguyên nhân thay vì trên kết quả. Đây là điều chúng tôi đã dạy con làm bằng cách làm sạch bốn thể phàm của con. Và khi thời điểm thích hợp, chúng tôi sẽ dạy con nhiều hơn, không những về cách làm sạch bốn thể phàm mà vượt ra ngoài năng trường của con để bắt đầu làm sạch một số khuôn đúc, hình ảnh, năng lượng cùng mô thức sóng đang ảnh hưởng đến hoàn cảnh vỏ ngoài của con. Nhưng điều này chúng tôi chưa thể trao cho con cho đến khi chúng tôi dạy con về cách khắc phục ngã gốc (primal self). Bởi vì nếu không, có thể con sẽ bị rất nhiều ngã tách biệt xúi giục con lạm dụng lời dạy đó để đạt quyền năng thay đổi hoàn cảnh vật lý cho dù con sẽ xen vào quyền tự quyết của người khác.

Nhưng điều con hiểu ra khi con suy ngẫm về lời dạy trên là sự kiện con đã bị lập trình để nghĩ rằng một khi một nguyên nhân đã được kích hoạt thì không gì sẽ có thể lật ngược lại được. Không gì có thể thay đổi nó được. Sứ giả này đã lớn lên với một người ông rất ham thích săn bắn và súng ống, nhưng ông cũng rất quan tâm đến an toàn. Phương châm của ông là: “Đừng bao giờ quên, một khi viên đạn đã rời khỏi nòng súng thì không một thế lực nào trên địa cầu sẽ có thể quay nó ngược trở lại.” Đây là điều mà khi lớn lên con đã được dạy dỗ để suy nghĩ. Một khi một nguyên nhân được kích hoạt thì không một thế lực nào trên địa cầu có thể quay nó trở ngược lại. Một khi trận tuyết lở đã khởi động thì không gì có thể ngăn nó đổ xuống sườn núi.

Nhưng làm thế nào Ki-tô đã làm yên được cơn bão chứ? Ki-tô đã làm được vì tâm của thày không rơi vào cái ảo tưởng thường tình cho rằng cơn bão là một hiện tượng liên tục được tạo ra bởi một nguyên nhân nào đó, và một khi nó đã được khởi động thì nó bắt buộc phải tiếp diễn cho đến khi kiệt sức. Giê-su nhận ra là rất nhiều lần trong mỗi giây, thế giới vật lý lại được tái tạo, được trình chiếu lại một lần nữa. Giữa hai lần trình chiếu riêng rẽ đó có một khoảng thời gian – một khoảnh khắc rất, rất ngắn, nhưng không phải là không có. Có một khoảnh khắc im lặng. Và nếu con có thể uốn cong tâm mình hay kéo tâm cho khỏi tập trung vào sự kiện, và nếu thay vào đó con tập trung vào sự im lặng giữa hai lần trình chiếu, thì con có thể thay đổi hình chiếu ở cõi vật lý. Hay đúng hơn, con thay đổi ở các cõi cao hơn và sau đó cõi vật lý cũng thay đổi theo.

Tuy thời nay không phải là một thời con cần sản xuất ra loại hiện tượng mà Giê-su đã làm 2000 năm về trước, nhưng con có thể dùng lời dạy này để thị hiện những hoàn cảnh vỏ ngoài tốt đẹp hơn cho mình, kể cả việc chữa lành xác thân vật lý. Nếu con suy ngẫm về lời dạy, con sẽ nhận ra là trong thế gian này không có hiện tượng nào là liên tục, mà chỉ có những hình ảnh riêng rời được phóng chiếu, và ở giữa thì có im lặng. Im lặng đó, mặc dù có vẻ ngắn ngủi hơn cả một khoảnh khắc, thật ra vượt khỏi thời gian. Điều này có nghĩa là khi con tu luyện tâm trí, con có khả năng dùng khoảnh khắc im lặng đó để thay đổi các khuôn đúc trong cõi bản sắc, lý trí và tình cảm và khiến cho sự thị hiện vật lý cũng thay đổi theo.

Ta tuyệt nhiên không bảo là lúc đầu con sẽ cần làm được chuyện này trong tích tắc. Nhưng với thời gian, con sẽ lần hồi chấp nhận những hình ảnh khác hơn về hoàn cảnh đời sống của con có thể thay đổi ra sao, về những gì con có thể thị hiện trong đời, những gì con có thể thu hút về phía con – và con làm chuyện đó trước hết trong thể bản sắc, xong trong thể lý trí, xong trong thể tình cảm. Với thời gian, có thể những hoàn cảnh tốt hơn đó sẽ thị hiện. Con có thể cho rằng chuyện này thật là khó tin, nhưng hãy để ta hỏi con câu này. Con có cảm thấy con đã từng trải nghiệm là mình đã cải thiện hoàn cảnh đời sống của mình hay không? Nếu có thì con chỉ có thể làm vậy một cách mà thôi, và cách đó là cách ta vừa mô tả. Có điều là con đã không ý thức, và vì vậy con không thể thực hiện một cách đều đặn, chắc chắn. Nhưng đó chính là cách con có thể luyện tập để thực hiện.

Con thấy đó, sự kiện một hình ảnh được chiếu ra nhiều lần mỗi giây trên màn hình của thế giới vật chất có nghĩa là ngay khi nó được thay đổi trên màn hình của ba thể cao, thì cùng lúc đó sự thị hiện vật lý cũng thay đổi. Và bởi vì rõ ràng ba cõi cao là một dạng năng lượng cao hơn – một dạng năng lượng ít vật lý hơn và do đó cũng lỏng hơn dạng vật lý – cho nên thật là hữu lý để con chấp nhận chúng dễ thay đổi hơn. Chúng linh hoạt hơn, mềm lỏng hơn, không cứng đặc như đá. Vả lại, ngay cả cái cứng đặc như đá cũng không tồn tại được hoài hoài, và đó là tại sao nó có khả năng được thay đổi khi hình ảnh do ánh sáng rọi xuyên qua thay đổi.

Chuyện này nghe có vẻ như là phép thần tiên, nhưng không đâu con. Chẳng có gì là thần tiên trong đó. Nhưng trên thực tế, đó không phải là một lời dạy có thể được nắm bắt hay thực hiện bởi một người mới cất bước trên đường tu. Nó đòi hỏi một sự trưởng thành nào đó. Nó đòi hỏi kinh nghiệm. Nhưng nhiều người trong số các con đã sẵn sàng để ít ra bắt đầu suy ngẫm, trước hết bằng cách nhận ra là không có gì là không thể thay đổi. Và thêm vào đó, con cũng cần được cảnh báo là tất cả mọi thứ đều nối kết với nhau.

Điều này có nghĩa là nếu con muốn thay đổi hoàn cảnh đời con, đó sẽ không chỉ là chuyện nhìn vào ba thể cao của mình. Chắc chắn con cần bắt đầu ở đó. Con cần bắt đầu thanh lọc năng lượng ở đó, chữa lành tâm lý của mình và vứt bỏ đi những cái ngã tách biệt. Nhưng ngay cả khi con đạt đến một mức tâm thức cao như Giê-su hay như chính ta đã đạt được, thì điều này không có nghĩa là con chỉ cần búng tay là sẽ thay đổi được tuyệt đối bất kỳ hoàn cảnh vật lý nào. Bởi vì có những hoàn cảnh mà con không muốn thay đổi do chúng sẽ áp đặt lên quyền tự quyết của người khác. Và đó là tại sao chúng tôi đã cho con tất cả những lời dạy kia về nhu cầu thanh lọc tâm thức cho sạch ngã tách biệt, hầu con không sử dụng hiểu biết này để đoạt một số ưu thế cho cá nhân mình, khiến con quên mất tổng thể rộng lớn hay thậm chí làm hại cả người khác.

Để áp dụng lời dạy này cho đúng đắn, con cần có phần nào cái mà chúng tôi gọi là sự nhận biết Ki-tô, tính nhân bản cơ yếu, cảm nhận nối kết với mọi người, để con nhận ra là có những điều con sẽ không làm. Có những điều mà con sẽ không thay đổi, bởi vì người khác có quyền trình chiếu ra những chọn lựa mà họ đã chọn. Nói cách khác và để cho con một ví dụ hiển nhiên, nếu con có con cái thì con có thể muốn tránh cho con mình những biến cố đau lòng. Nhưng nếu đứa con đã kết đọng biến cố đó qua chính tâm thức của nó thì nó sẽ cần trải nghiệm hậu quả của biến cố đó để mà tăng triển. Nếu con tránh cho nó không bị đau lòng và do đó cản trở sự tăng triển của nó, thì đây không phải là một cách dùng giáo lý và hiểu biết cao lắm.

Trước khi con có thể thực sự dùng được lời dạy này, con sẽ cần đạt được một trình độ buông bỏ, lãnh đạm nào đó, một sự không dính mắc nào đó, và con không còn ý thức cá nhân trong cuộc sống nữa.

Ta cũng biết những gì ta đưa ra ở đây chỉ là một thoáng hé mở về một giáo lý rộng lớn hơn. Nhưng vì con đã thực hiện những gì con đã thực hiện nơi đây, cho nên ta quyết định cho con thêm một chút quà đặc biệt mặc dù nó không nhất thiết nằm trong chương trình hội nghị này. Nhưng bây giờ thì lời dạy này đã được đặt vào cõi vật lý, và đối với những ai trong số các con đã sẵn sàng thì các con hãy suy ngẫm về lời dạy. Chắc chắn với thời gian, chúng tôi sẽ còn ban ra nhiều lời dạy nữa khi thấy thời điểm cũng như cộng đồng đệ tử đã sẵn sàng.

Và như vậy, thật là một niềm vui rất lớn cho ta được niêm hội nghị này, niêm các con ngồi đây lẫn các tham dự viên trên mạng internet. Ta niêm ánh sáng đã được rải truyền đến những quốc gia từng là thành viên của Liên bang Sô viết, để các quốc gia này bước lên cao hơn và để những ai sẵn sàng tự do tìm được tự do. Tất nhiên, có thể có một số người ở đâu đó vẫn muốn tiếp tục đau khổ, và bởi vì chúng tôi tôn trọng quyền tự quyết cho nên chúng tôi cũng sẽ tôn trọng quyền muốn đau khổ, quyền tự do đau khổ của mọi người. Nhưng chắc chắn con cũng thấy được, quyền tự do đau khổ không nằm trong ngọn lửa tự do của Saint Germain và do đó nó không đến từ các chân sư thăng thiên, nó không phải là một ngọn lửa tâm linh. Chính sự vắng mặt này của ngọn lửa mới tạo ra đau khổ.

Đau khổ không có thực chất. Ngọn lửa thì có thực chất – mặc dù đó không phải là một chất vật lý – vì đó là một ngọn lửa tâm linh. Nhưng đau khổ, oán giận, mọi loại hận thù, mọi loại năng lượng xuất phát từ sợ hãi đó, thực sự không có thực chất của một chất trường tồn. Đó là tại sao những gì có vẻ mang chất vật lý có thể được thay đổi bởi một năng lượng cao hơn. Nó có thể được thay đổi chính vì mặc dù nó có vẻ có chất liệu, nó có vẻ là vật chất rắn đặc hay là năng lượng cảm xúc dày đặc, nhưng nó chỉ hiện ra như vậy khi được nhận thức qua phin lọc những cái ngã vỏ ngoài, qua tâm vỏ ngoài. Khi con nhìn vượt khỏi nó, con sẽ thấy là nó không hề có chất liệu liên tục. Nó chỉ là một ảo ảnh được trình chiếu trên màn hình. Và ở giữa các hình ảnh được trình chiếu thì màn hình vẫn trắng tinh. Và như con cũng biết trên một màn hình trắng tinh, bất cứ hình ảnh nào cũng có thể được trình chiếu. Khi con nhìn thấy màu trắng tinh ở giữa các hình ảnh, con biết là bất cứ lúc nào, hay đúng hơn ngay lúc sau đó, một hình ảnh mới có thể được trình chiếu. Điều này không nhất thiết có nghĩa là con có thể thay đổi toàn bộ hoàn cảnh trong một tích tắc – bởi vì một phần của giáo lý duyên khởi là có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng một tình huống có vẻ giản dị – nhưng bằng cách thay đổi các yếu tố này lần hồi, con có khả năng thay đổi hoàn cảnh một cách đáng kể.

Như con có thể thấy, ta hân hoan ban cho con lời dạy này đến độ gần như ta không thể ngừng nói. Nhưng bây giờ ta sẽ niêm hội nghị này trong tim vui mừng và ta trao cho con niềm vui đó. Niềm vui của ta tràn đầy. Và ta mong niềm vui của con cũng tràn đầy.

Gautama TA LÀ.

16 | Con không là nô lệ của thời gian

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 2/12/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Điều thày muốn trình bày trong bài giảng này là một số chủ đề có vẻ không liên quan nhưng thật sự có liên quan với nhau. Hãy cho thày bắt đầu với một điều tuyệt đối cần thiết trên con đường quả vị Ki-tô, con đường quả vị Phật, là con hiểu rằng cái ngã mà con đã có khi con tìm thấy giáo lý lần đầu và thức tỉnh với sự hiện hữu của một đường tu tâm linh, ngã này không thể đưa con đến quả vị Ki-tô hay quả vị Phật.

Các con vừa đọc bài thỉnh về ngã gốc qua đó con học được là ngã gốc phải chết đi thì con mới tái sinh vào một ngã mới [từ quyển sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. Tất nhiên đây là một tiến trình hoàn toàn có giá trị, nhưng con không nên đặt mình vào tâm thái nghĩ rằng ngay cả nếu con cảm thấy ngã gốc đã chết, thì ngã mới mà con tái sinh vào đó là cái ngã con sẽ đem theo con cho tới khi thăng thiên. Chắc chắn con đừng rơi vào ảo tưởng cho rằng đây là cái ngã sẽ thăng thiên.

16.1. Thăng thiên sau khi cân bằng toàn bộ nghiệp quả

Trong đợt truyền pháp này, các thày đã cho con một số lời dạy về tiến trình thăng thiên và cái có thể gọi là “tâm lý của sự thăng thiên” cao hơn hẳn những gì các thày đã trao truyền trong mọi đợt truyền pháp trước đây. Không có nghĩa là các giáo lý trước không có giá trị hay không thể đưa hành giả đến điểm thăng thiên. Có một số người trong tiền kiếp đã gần điểm thăng thiên đến độ các giáo lý trước đã có thể dẫn họ đi những bước chót đến mức sẵn sàng thăng thiên, nhưng loại người như vậy không nhiều lắm. Con cũng biết là trong đợt truyền pháp trước có dạy là con có thể thăng thiên sau khi chỉ cân bằng 51% nghiệp quả của mình. Thày sẽ nói là có rất rất ít người đã có thể dùng giáo lý trước để cân bằng được 100% nghiệp quả (cũng có nghĩa là giải quyết xong tâm lý mình) và nhờ vậy thăng thiên khỏi địa cầu. Có thể nói là họ “sạch bong”, sạch không còn bất kỳ chướng ngại nào và ngay lập tức họ trở thành một chân sư thăng thiên.

Tuy nhiên, với giáo lý các thày trao truyền ngày nay đi sâu hơn hẳn vào tâm lý con người, mục đích của các thày là giúp cho một nhóm đông đảo hơn có thể cân bằng nghiệp quả, giải quyết tâm lý của mình rồi có được một ít thời gian trong trạng thái này trước khi họ rời bỏ thân xác vật lý và thăng thiên khỏi hành tinh. Con cần nhìn nhận việc tiết lộ tuần tự là một tiến trình tuần tự. Điều này hiển nhiên mang nhiều hệ quả, nhưng một hệ quả là một số điều giảng dạy trước đây tuy đúng đắn vẫn chưa đầy đủ và chỉ là một cái nhìn giới hạn, một cái nhìn đơn giản hóa về chủ đề.

Quá nhiều người trong các đợt truyền pháp trước đã không đặt câu hỏi: “Nếu một chân sư thăng thiên là một sinh thể đã cân bằng mọi nghiệp quả thì liệu một người thăng thiên – gọi tạm như vậy – đã cân bằng 51% nghiệp quả có trở thành một chân sư thăng thiên sau khi ‘thăng thiên’ hay không?” Người ta cũng đã không hỏi: “Nếu một người đã cân bằng 51% nghiệp quả và do đó không phải trở lại đầu thai vật lý, liệu vị này đã thực sư thăng thiên và trở thành chân sư thăng thiên hay không?” Câu trả lời hiển nhiên là “Không!” Làm sao con có thể trở thành một chân sư thăng thiên nếu còn vẫn còn nghiệp chưa cân bằng và tâm lý chưa giải quyết từ trái đất? Nếu việc này xảy ra thì thật không lô-gíc, con yêu dấu. Cho nên các con, ít ra một số các con, cần nhìn nhận đó là một lời dạy được giản dị hóa chứ không phải là tầm hiểu trọn vẹn về đề tài này. Lẽ tự nhiên, con yêu dấu, con cần giải quyết xong xuôi mọi chuyện con cần giải quyết trên địa cầu trước khi con có thể thăng thiên và trở thành một chân sư thăng thiên. Như Mẹ Mary có giải thích, tất nhiên cũng có một số người chỉ còn sót lại nghiệp quả đối với chính mình, có nghĩa là nói chung, những gì còn sót lại chỉ là tâm lý chưa giải quyết mà họ có thể giải quyết ngoài hiện thân vật lý.

Vậy tại sao lại có sự đặc miễn chỉ cần cân bằng 51% nghiệp quả? Chính là vì có quá ít người thăng thiên. Với độ dày đặc của tâm thức tập thể, thật quá khó thăng thiên với 100% nghiệp quả đã cân bằng và tâm lý đã giải quyết. Để đẩy nhanh tiến trình nâng cao tâm thức tập thể, một sự đặc miễn đã được ban ra là nếu có ai cân bằng được – giải quyết được – 51% thì người đó không phải trở lại hiện thân vật lý. Họ có thể gia nhập một chương trình đặc biệt ở cõi ê-the nơi họ nhận được sự trợ giúp để giải quyết bất cứ gì còn sót lại. Làm như vậy sẽ dẫn họ đến điểm thăng thiên trọn vẹn nhanh chóng hơn so với tiến trình tái đầu thai trong một cơ thể vật lý, rồi lớn lên cho đến tuổi trưởng thành để có thể đón nhận đường tu tâm linh và bước chân một cách ý thức hơn. Điều này đã gia tốc tiến trình khi một số người đã có thể giải quyết bất cứ gì vẫn chưa giải quyết, rồi thăng thiên nhanh chóng hơn thay vì phải trở lại đầu thai.

Loài người đã bước vào một chu kỳ mới và các thày có chủ ý giúp đỡ một nhóm đông đảo hơn nhiều đi qua tiến trình giải quyết trọn vẹn tâm lý của mình trong khi còn đang hiện thân. Việc này nhắm trước hết vào các avatar, nhưng giáo lý cũng hoàn toàn có giá trị và hữu ích cho những cư dân nguyên thủy của địa cầu đã đạt được một mức tăng triển tâm linh nào đó. Nó cũng hữu ích cho những ai tuy không đúng nghĩa là avatar nhưng có thể đã đến từ một số hành tinh khác đã thăng thiên và họ đã không thể thăng cùng với hành tinh của họ hay cùng với các dòng sống còn lại của hành tinh họ.

16.2. Tinh túy của đường tu là để cho ngã chết

Tất nhiên đây là thách thức mà các thày đã đặt trước mặt con. Con cần nhận ra ở đây là khi con kinh qua một giai đoạn nhất định, chẳng hạn khi con phát hiện ngã gốc như một avatar và con để cho ngã này chết đi, con được tái sinh vào một ý niệm bản ngã mới. Chắc chắn có những cái ngã con đã tạo ra sau khi con tạo ra ngã gốc. Con vẫn có một cái nhìn nào đó về bản thân, một cái nhìn nào đó về trái đất, có nghĩa là khi con tạo ra một ngã mới sau khi khắc phục ngã gốc thì ngã mới này không nhất thiết là cao nhất. Hay nói đúng hơn, ngã này không phải là cao nhất có thể. Khi con bước lên cao hơn và cao hơn nữa trong tâm thức, sẽ có một số điểm nơi con cần đứng lui lại, xem xét ý niệm bản ngã của mình lúc đó và một lần nữa để nó chết đi hầu con có thể lại tái sinh. Con có thể tái sinh trong Ki-tô, con có thể tái sinh trong Phật. Có lẽ con đang bắt đầu nhận ra là tinh túy của đường tu tâm linh là thấy mình có một ý niệm bản ngã giới hạn và mình để cho nó chết đi.

Cho tới giờ các thày đã đề cập đến một số ngã đặc thù là những cái ngã phản ứng được tạo ra để ứng phó với một tình huống đặc thù trên trái đất. Chẳng hạn như khi con tìm thấy con đường tâm linh, con tìm thấy một giáo lý của chân sư thăng thiên – và con bắt đầu học hỏi, bắt đầu thực hành, và có lẽ con gia nhập một tổ chức mang một số nét văn hóa tổ chức – thì kỳ thực con đang tạo dựng một ngã mới. Điều này con không bao giờ ngừng làm, không những trong kiếp này mà cả trong tiền kiếp. Con tạo dựng một số ngã, nói đúng ra không để phản ứng lại một hoàn cảnh chấn thương đặc thù. Kỳ thực con tạo dựng những cái ngã để đáp ứng với cái hiểu và cái biết mà con đang có. Con đang vươn lên một tầm nhận biết cao hơn và con tạo ra một ngã mới dựa trên tầm nhận biết cao hơn này. Khi con lên đến những tầng cao của đường tu, con cần trở nên ý thức về quá trình này, vì suốt một thời gian dài, quá trình xảy ra trong tiềm thức và con không biết là mình đang tạo ra một ngã mới.

Đến một điểm con cần ý thức quá trình này, con cần nhìn thấy: “Tôi đã kinh qua những gì từ khi tôi nhận biết ý thức về đường tu? Trải nghiệm của tôi là gì, sáng ngộ nào tôi đã thu hoạch?” Nói chung con nhìn lại đường tu của con cho tới điểm này và con có thể thấy: “Tôi đã kinh qua những gì, tôi đã chấp nhận những niềm tin nào dựa trên giáo lý tôi đã đi theo, tôi đã tham gia những tổ chức nào? Và kết quả là tôi đã tạo ra những loại ngã nào?” Như Quan Âm có nói, một số người bước vào giáo lý với mong muốn cảm thấy cao trội, và có thể họ sẽ không bao giờ buông được cái ngã cao trội họ đã tạo dựng do là đệ tử của chân sư thăng thiên. Tuy vậy, đa số các con không có vấn đề này nhưng các con đã có tạo dựng những cái ngã khác.

Một lần nữa, không có sự chê trách nào ở đây. Một phần tự nhiên trên hành trình phát triển là con tạo dựng những ngã mới này dựa trên nhận biết và mong muốn của con, những gì con muốn biểu đạt, những gì con muốn trải nghiệm, những gì con muốn thực hiện ở đây trên trái đất. Tất cả các thày cũng từng làm y như vậy. Thày chỉ muốn con nhận biết là nhiều các con đã tới điểm sẵn sàng trở nên ý thức về tiến trình này. Con hãy nhìn vào bản thân và xét xem cho tới giờ con đã tạo dựng loại ngã nào, và liệu ngã này có dựa trên một tầm nhìn hạn hẹp, một cái hiểu hạn hẹp. Khi con làm vậy, một số các con sẽ nhận ra là mình có một cái ngã được tạo dựng trên cơ sở một tầm nhìn nhất định về đường tu, một tầm nhìn nhất định về bản thân từ nhiều năm trước. Nhưng bây giờ trong một phần tâm con, con đã đạt được một cái hiểu cao hơn, một cái nhìn cao hơn, những sáng ngộ cao hơn, một góc độ cao hơn. Cho nên con cần dần dần nhìn thấy là cái ngã con đã tạo ra ở một giai đoạn trước trên đường tu không còn giúp con tăng triển nữa. Thật ra nó còn giới hạn sự tăng triển của con theo một cách nào đó, nó đang cầm chân con lại vì cái nhìn của con đã lỗi thời, đặc biệt về các khả năng của con.

16.3. Những cái ngã giới hạn khả năng của con

Các thày đã từng giảng bằng nhiều cách về việc con cần kinh qua giai đoạn khắc phục sự thúc giục muốn làm một việc gì đó trên trái đất. Tất nhiên việc kinh qua giai đoạn này hoàn toàn cần thiết, nhưng một khi con đã đi muốt giai đoạn này thì con nhận ra mục đích thực sự của con ở đây là để là chính mình, để biểu đạt chính mình. Biểu đạt chính mình có nghĩa là con cho phép Hiện diện TA LÀ của con biểu đạt chính nó xuyên qua con, vì con ngộ ra khi con là chính mình thì cũng có nghĩa con ở trong một trạng thái hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Vậy con có thể được lợi lạc nếu con nhận ra là ngay từ thuở chấn thương nhập đời, con đã tạo dựng một số ngã mang một cái nhìn nhất định về những gì con có thể làm trên trái đất, những gì con được phép làm trên trái đất, những gì con phải làm trên trái đất, và những ngã này có thể đã được củng cố hay điều chỉnh cho tinh vi hơn khi con tìm thấy con đường tâm linh.

Các thày đã có nói là khi con phát hiện một con đường tâm linh, con xem mình là một đệ tử tâm linh. Các thày cũng nói là có một giai đoạn phát triển rất dài khi đường tu tâm linh là một khái niệm hữu ích, xây dựng. Nhưng nếu trong thời gian hiện thân còn lại của con, con vẫn tiếp tục xem mình là một đệ tử thì sẽ tới một điểm nó không còn xây dựng nữa, bởi vì khái niệm đường tu ngụ ý: “Tôi ở một tầng cấp nào đó. Có một tầng cấp cao hơn tôi có thể leo lên nhưng tôi chưa lên đến đó.” Chẳng hạn con có thể nói: “Tôi đang ở tầng tâm thức thứ 88, có tất cả 144 tầng và tôi chưa ở tầng 144.” Tự thân câu nói này không thành vấn đề vì hiển nhiên con sẽ cần thời gian để lên đến tầng 144 và một số các con sẽ không lên đến đó cho tới khi con gần sẵn sàng rời bỏ hành tinh. Nhưng dù sao thì giữa tầng 88 với 144, có một số giai đoạn mà các thày đã đặt tên, chẳng hạn là quả vị Ki-tô. Có thể có một điểm khi con mang trong tâm một hình ảnh mình là một đệ tử đang tiến về hướng quả vị Ki-tô nhưng mình vẫn chưa đến đó. Nếu con mãi mãi bám giữ ý niệm bản ngã này thì làm thế nào con trở thành Ki-tô đang hiện thân được?

Nhưng này con yêu dấu, lại có nhiều ví dụ đệ tử của chân sư thăng thiên đã nghe nói về con đường quả vị Ki-tô và quyết định với tâm vỏ ngoài và tham vọng vỏ ngoài: “Phải, tôi đã là Ki-tô Hằng sống rồi đó.” Thế là họ xông ra ngoài, cho rằng họ phải làm những gì họ phải làm: phán xử sa nhân, đánh thức người khác, phóng tia sáng xanh vào người khác hay bất cứ gì khác. Thày không nói đến những chuyện như vậy mà thày nói đến thời điểm khi con đã tận dụng các dụng cụ mà các thày cho con, con đã chân thành nỗ lực khắc phục ngã gốc cùng nhiều ngã khác, cho nên con đã đạt đến một mức nào đó nhưng con vẫn cứ bám giữ một ý niệm bản ngã được tạo ra ở một mức thấp hơn. Ở mức trước đây, việc đặt quả vị Ki-tô làm mục tiêu là một điều chính đáng khi con chưa đến đó. Giờ đây con đã đạt đến một mức nào đó, ví dụ tầng 110. Có một cấp độ quả vị Ki-tô tương ứng với tầng này. Có một cấp độ quả vị Ki-tô tương ứng với mỗi tầng tâm thức từ 97 trở lên – mặc dù chúng ta có thể nói là sẽ tới điểm các cấp độ quả vị Ki-tô dần dần hoà quyện vào các cấp độ quả vị Phật. Nếu con đến tầng 110 mà vẫn còn giữ hình ảnh mình đã tạo ra ở tầng 95 thì hình ảnh này đang cầm chân con lại.

16.4. Công nhận quả vị Ki-tô của mình

Sẽ tới điểm con cần nhìn nhận, như sứ giả này ở một thời điểm đã sẵn sàng nhìn nhận là ông đã đạt được một cấp độ quả vị Ki-tô nào đó. Điều này không có nghĩa là ông rơi vào hoang tưởng cho rằng mình đã đến mức tối thượng, nhưng ông đã đạt được một mức nào đó và ông cần phải thực tế và công nhận điều này. Sự thể cũng giống như vậy đối với nhiều các con. Thật ra con đã đạt được một mức nào đó trên đường tâm linh nhưng con chưa dám thừa nhận vì con vẫn giữ ý niệm bản ngã con đã tạo ra ở mấy cấp thấp hơn điểm hiện thời của con.

Đúng, tất nhiên là luôn luôn có rủi ro con có thể làm vậy quá sớm khi con chưa hẳn sẵn sàng, nhưng chúng ta cần chấp nhận rủi ro này vì trên thực tế, chuyện xảy ra thường hơn là con không thừa nhận tiến bộ của mình. Điều thày muốn nói ở đây – một lần nữa để khai triển những gì Quan Âm đã giảng – là một số người xây dựng một ý niệm bản ngã vào thời điểm họ khám phá giáo lý lần đầu xong họ cứ nghĩ là họ phải đem nó theo mình. Đây là một ảo tưởng toàn diện và cũng rất nguy hiểm. Không có ai đã từng thăng thiên mà lại thăng thiên với cái ngã họ đã có ở khởi đầu kiếp đầu thai chót hay khi họ tìm thấy đường tu. Không có ai đã từng thăng thiên với ý niệm bản ngã của họ khi họ đạt đến tầng 144, vì hành động cuối cùng trước khi thăng thiên chính là để cho ngã chót cùng này chết đi và khắc phục ảo tưởng chót cùng này.

Tiến trình thăng thiên thật ra là tiến trình để cho hết ngã này tới ngã khác chết đi và sẵn lòng tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn. Để cho một cái ngã chết đi, con phải sẵn lòng chất vấn cái mà chúng ta có thể gọi là ảo tưởng, thậm chí cả sự nhận biết mà ngã dùng làm cơ sở. Con có thể nói là ở tầng 88, con đã thu hoạch một sáng ngộ mà con không có ở tầng 87. Đó là một sáng ngộ có giá trị, chỉ có điều đó không phải là sáng ngộ cuối cùng. Nếu con xây dựng một ý niệm bản ngã dựa trên sáng ngộ này, con không thể thực sự bảo rằng sáng ngộ này là một ảo tưởng, nhưng nếu con nghĩ đó là một sáng ngộ tối hậu nào đó, hay một cái ngã tối hậu mà con đã tạo dựng, thì chắc chắn đây là một ảo tưởng. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói mỗi lần con bước lên tầng tâm thức kế tiếp, có một cái ngã chết đi và một ngã khác sinh ra, nhưng con không nhất thiết phải ý thức điều này ở mỗi bước. Nhưng đúng là có những thời điểm con cần đứng lui lại và nhìn vào ý niệm bản ngã của mình. Và một trong những thời điểm này là khi con bắt đầu nhìn nhận là con đã đạt được, con đã chứng được một cấp độ nào đó của quả vị Ki-tô. Hiển nhiên cái ngã con có trước đó dựa trên ý tưởng rằng quả vị Ki-tô vẫn nằm đâu đó trong tương lai ở một mức cao hơn, cho nên ngã này phải chết đi. Và để ngã này chết đi, con phải thấy nó, thấy sự giới hạn của nó.

Giống như trường hợp Quan Âm đã giảng, nếu có ai đã xây dựng cảm nhận là mình cao trội, có thể họ sẽ rất khó lòng chất vấn cái ngã họ có. Đây là tại sao, tiếc thay, các thày chứng kiến một số đệ tử của chân sư thăng thiên bị kẹt cứng trong một ý niệm bản ngã nhất định và đơn giản không thể bước tới cho đến hết kiếp đó. Các thày rất muốn nhìn thấy điều này không xảy ra cho bất cứ ai đã nghe nói hay tìm thấy giáo lý. Có bảo đảm được không? Tất nhiên là không, nhưng ít nhất các thày đã nói ra rất rõ. Giáo lý đã được ban ra và các thày phải trao tự do cho giáo lý, phải trao tự do cho mọi người sử dụng giáo lý theo ý họ.

16.5. Hiện tượng “tiểu đạo sư”

Bây giờ có một chủ đề khác mà thày muốn đề cập ở đây là toàn bộ khái niệm về thời gian. Hôm qua thày đã đưa ra một số nhận xét về thời gian [Xem chương chót trong sách này] nhưng thày muốn nói thêm một chút về chủ đề này. Con có thể lấy nhiều góc nhìn khác nhau về một đề tài như thời gian. Con có thể mô tả nhiều cách khác nhau. Điều thày sẽ trao con ở đây chỉ là một cách thôi, không phải là cách tuyệt đối, chót cùng hay duy nhất.

Thời gian là gì? Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói thời gian không có sự hiện hữu khách quan. Nếu con lấy quyển sách Những kiếp sống của tôi, có rất rất nhiều yếu tố quan trọng trong sách này nhưng từ góc độ thày đang trình bày ở đây, yếu tố quan trọng nhất được đưa ra ở ngay phần giới thiệu, viết rằng: “Mọi người trên trái đất đều đang có một trải nghiệm chủ quan. Tất cả mọi vấn đề trên trái đất đều được gây ra bởi một số người muốn nới rộng trải nghiệm chủ quan của họ để nó trở thành có vẻ phổ quát do sự kiện người khác chấp nhận trải nghiệm chủ quan của họ thay vì chính trải nghiệm chủ quan của mình.”

Đây là điều con thấy lặp đi lặp lại suốt chiều dài lịch sử, rõ ràng và điển hình nhất trong các tôn giáo khi có ai đó đi theo một tôn giáo xong khởi xướng một cuộc thánh chiến để cải đạo mọi người khác, hay trong trường hợp cùng cực, sát hại những người không chịu cải đạo. Con cũng thấy một điều tương tự xảy ra trong số đệ tử của chân sư thăng thiên. Thày không chỉ đang nói đến mong muốn cải đạo người khác để người ta đi theo giáo lý chân sư, mà thày muốn nói đến sự kiện đôi khi các thày chứng kiến đệ tử của mình sử dụng một yếu tố trong giáo lý mà họ xem là rất quan trọng – mà họ xem là đã giúp họ hay có ý nghĩa đối với họ – rồi họ nắm lấy cái này và muốn người khác phải chấp nhận quan điểm này.

Một lần có một đệ tử của chân sư thăng thiên đã gọi đó là hội chứng “tiểu đạo sư”, qua đó người ta có xu hướng – sau khi đã theo học giáo lý được một thời gian – tạo ra một đẳng cấp nào đó hay có thể một bè phái nơi họ cảm thấy mình là đệ tử cao cấp, và họ tự xưng là một loại “tiểu đạo sư” với ý định tập hợp các đệ tử khác thành một đoàn môn đệ sẽ đi theo cách diễn giải và cái nhìn đặc thù của họ về giáo lý.

Thày không chê trách ai ở đây. Thật không thể tránh được chuyện này xảy ra trong bất kỳ phong trào tâm linh hay tôn giáo nào. Điều tự nhiên là một số đệ tử tinh tiến hơn bắt đầu chỉ dạy cho các đệ tử khác. Nhưng điều thày nói đến ở đây là nhiều người như vậy bước vào tâm thái chẳng khác gì cái tâm thái mà con thấy nơi mọi phong trào tôn giáo khi họ tìm cách cải đạo người khác. Con cũng gặp tâm thái này nơi các nhà khoa học duy vật tìm cách cải tạo người khác theo mình. Con chui vào tâm thái này khi con tự thuyết phục là cách mình nhìn giáo lý, nhìn cuộc sống, nhìn Thượng đế, nhìn khoa học hay bất kể gì khác là cách tối hậu hay cách đúng đắn duy nhất, cho nên nếu người khác chấp nhận đi theo quan điểm của mình thì sẽ tốt biết mấy cho họ. Này con, với tất cả những lời dạy mà các thày đã trao cho con, con phải có thể – và tất cả các con sẽ có thể nếu các con sẵn lòng – bước lui lại để nhận ra là cho dù con ở tầng tâm thức nào, thậm chí cả tầng 144, con vẫn đang có một trải nghiệm không tuyệt đối. Trải nghiệm của con không phải là phổ quát theo nghĩa là nó phải áp dụng cho mọi người.

Cho dù con ở tầng 144, thật không chính đáng nếu con cố khiến người khác phải sống đời họ dựa trên trải nghiệm của con. Trong phần giới thiệu sách cũng có nói là con có thể đạt tới điểm con không còn một trải nghiệm chủ quan theo nghĩa thấp, nhưng con vẫn đang có một trải nghiệm cá nhân, và lý do khá giản dị. Ở các tầng tâm thức thấp hơn, con trải nghiệm cuộc sống xuyên qua ngã vỏ ngoài và ngã này là một tập hợp tất cả ngã tách biệt kia. Ở các tầng thấp đó, con không có sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Khi con bước lên cao hơn, con lột bỏ một số ngã vỏ ngoài này. Trải nghiệm của con ngày càng ít chủ quan hơn, ít bị pha màu hơn bởi các ngã tách biệt, bởi tâm thức tách biệt, bởi tâm thức nhị nguyên. Con ngày càng trở nên hòa điệu hơn với Hiện diện TA LÀ, nhưng Hiện diện TA LÀ của con không phải là một sinh thể phổ quát toàn vũ, đó là một sinh thể cá biệt.

Hiện diện TA LÀ trải nghiệm hoàn cảnh trên địa cầu xuyên qua cá thể đó. Hiện diện TA LÀ của con có một trải nghiệm về trái đất khác với Hiện diện TA LÀ của một người khác, và điều này hoàn toàn chính đáng, hoàn toàn ổn thỏa. Điều thày nói ở đây là thế này: Tới một điểm trên đường tu con sẽ cần xoay chuyển và nhìn nhận là người khác không nhằm mục đích có được cùng trải nghiệm như con đang có. Họ nhằm có trải nghiệm riêng của họ. Điều này không có nghĩa là con không thể nói chuyện với họ, tìm cách giúp họ hay tạo cảm hứng cho họ hay bất cứ gì khác, mà có nghĩa là tới một điểm con sẽ bước cao hơn và tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết, qua đó con không còn tìm cách áp đặt trải nghiệm cá nhân của mình lên người khác.

Cũng không có nghĩa là con cần, theo thành ngữ quen thuộc, “câm miệng lại” và không nói năng gì với người khác mà trái lại, thay vì cố thay đổi cách họ trải nghiệm cuộc đời, con chia sẻ trải nghiệm của con. Có một sự khác biệt – thày cũng biết là có khi điều này có vẻ không khác biệt gì hết hay sự khác biệt quá vi tế – nhưng có một sự khác biệt cơ bản giữa việc áp đặt trải nghiệm của mình lên người khác và việc chia sẻ trải nghiệm. Cách thứ nhất mang một yếu tố ép buộc, còn cách thứ hai thì không. Đây là một thử thách, một sự khảo hạch mà con cần vượt qua, và con có khả năng vượt qua với các giáo lý con đã có trong tay.

16.6. Không phải ai ai cũng muốn thoát khổ

Đến một điểm con sẽ chỉ đơn giản lột bỏ cái ngã đang cho con lòng ham muốn đó vì đó là một cái ngã phản ứng với các điều kiện trên trái đất. Các thày có nói, ví dụ con thấy con người đau khổ. Trước khi con đến đây như một avatar, con đã đoán chừng, con đã chờ đợi là nếu con chỉ cho mọi người cách khắc phục đau khổ thì họ sẽ đón nhận lời con và cố gắng thoát khổ. Lý do là vì con, như một avatar và dựa trên trải nghiệm của con, sẵn lòng khắc phục các giới hạn cùng niềm đau khổ của mình. Nếu có ai chỉ cho con cách nào thoát khỏi khổ đau, con sẽ sẵn lòng làm theo và con chờ đợi mọi người cũng giống như con. Một lần nữa, điều này dựa trên trải nghiệm của con. Việc chờ đợi người khác sẽ muốn thoát khổ là chuyện lô-gíc trên một hành tinh tự nhiên nhưng không áp dụng được trên một hành tinh phi tự nhiên.

Tại sao một số người trên địa cầu đau khổ? Tại vì họ chưa chán chê trải nghiệm khổ đau. Khi con bảo họ không được đau khổ và làm thế nào họ có thể chấm dứt đau khổ, họ không thấy nó can hệ đến họ. Đó là chính con đang cố gắng thúc ép trải nghiệm chủ quan của con (rằng họ không được khổ đau) lên họ. Tới một điểm con cần làm việc trên ngã này để nhìn thấy nó. Con buông nó ra, con từ bỏ mong muốn khiến người khác sống theo cách nhìn của con. Một khi con đã buông bỏ ngã này, con có thể bước lui lại một chút và nhận ra là bất cứ khi nào con cảm thấy một sự bó buộc nào đó trong cách mình quan hệ với người khác, bất cứ khi nào con cảm thấy một sự căng thẳng, thì đó là vì có một cái ngã. Ngã này khởi nguồn từ chính thái độ, chính lòng ham muốn thúc ép kinh nghiệm chủ quan của mình lên người khác để khiến họ phải sống cuộc đời của họ dựa theo trải nghiệm chủ quan của con, thay vì đơn giản chấp nhận rằng trải nghiệm chủ quan của con hoàn toàn có giá trị với con, nhưng trải nghiệm chủ quan của họ cũng hoàn toàn có giá trị với họ cho dù trải nghiệm này có là gì ở giai đoạn hiện thời của họ.

Thật ra không bao giờ cần thiết hay chính đáng để con bảo: “Trải nghiệm chủ quan của tôi sẽ tốt hơn cho người khác. Sẽ tốt hơn nếu họ có trải nghiệm của tôi, hay ít ra nếu họ sống đời họ theo trải nghiệm của tôi chứ không theo trải nghiệm của họ.” Việc một người có trải nghiệm chủ quan của một người khác không bao giờ là tốt hơn. Điều luôn luôn tốt hơn cho họ là họ có trải nghiệm chủ quan mà chính họ đang có, vì đây là cách duy nhất họ có thể tăng triển.

16.7. Thời gian là một trải nghiệm chủ quan

Hồi nãy thày đang bắt đầu nói về thời gian thì có vẻ như thày đã chệch sang đề tài ngã tách biệt và vấn đề con áp đặt trải nghiệm chủ quan của con lên người khác, nhưng thày đã nói gì chứ? Thày nói rằng thời gian là một trải nghiệm chủ quan, đó là sản phẩm của một trải nghiệm chủ quan. Thời gian, trong cách nhìn của con người trên trái đất, không phải là một hiện thực khách quan. Nó hoàn toàn là một trải nghiệm chủ quan, tất nhiên được tạo ra một cách tập thể suốt một thời gian rất dài. Con người đã bỏ ra rất nhiều năng lượng của lý trí-cảm xúc-bản sắc để tạo ra cái nhìn hiện thời về thời gian, và cái nhìn này có thể được xem như một ngã tách biệt có mặt trong tâm thức tập thể. Con người nghĩ rằng thời gian rất đường thẳng, rằng họ không thể thay đổi thời gian. Con không thể đi trở ngược thời gian, con không thể thay đổi quá khứ. Như các thày đã giảng, sa nhân muốn con tin là con không thể thoát ra khỏi các lỗi lầm con đã phạm phải trong quá khứ.

Có một trải nghiệm về thời gian đã trở nên rất phổ thông trên địa cầu và tại sao như thế? Thật sự là vì sa nhân đã muốn đem trải nghiệm chủ quan của chúng về thời gian rồi xuất khẩu nó, phóng chiếu nó lên mọi người trên trái đất, và phần lớn chúng đã thành công trong việc này. Đó là tại sao thật ra các phim ảnh, sách báo thách thức quan niệm của con người về thời gian phần nào chính đáng. Mặc dù con không thể chế tạo một cỗ máy vật lý để du hành thời gian như trong phim kể truyện người ta chế được cỗ máy vật lý để trở ngược về quá khứ, nhưng phần nào loại phim như vậy vẫn giúp thách thức cái nhìn rất cứng nhắc về thời gian mà người ta thường có.

Bây giờ câu hỏi là như sau. Phải, đúng là có một cái nhìn tập thể về thời gian nhưng con là một đệ tử tâm linh trưởng thành. Con đã tu tập rất nhiều, con đã phần lớn tách mình ra khỏi tâm thức tập thể. Đến một điểm con cần xem xét: “Đâu là cái nhìn chủ quan của tôi về thời gian, cái nhìn cá nhân của tôi về thời gian?” Hiển nhiên ở một mức cá nhân, con thấy là con đã làm một việc trong quá khứ và việc này đã tạo ra một số hậu quả mà con đem vào cái con xem là tương lai. Con mang quan điểm là hoàn cảnh hiện thời của con bị ảnh hưởng bởi quá khứ của con ở một mức độ nào đó. Thậm chí con có cả những giáo lý tâm linh sẽ củng cố cho quan điểm này, theo nghĩa là con đã tạo nghiệp trong tiền kiếp và nghiệp này đang tác động đến hoàn cảnh hiện thời của con. Rất nhiều người cảm thấy nếu có gì xảy ra cho họ: “Ồ, chắc hẳn đây là kết quả nghiệp chướng của tôi.”

16.8. Một cái nhìn cao hơn về nghiệp quả

Trong nhiều trường hợp, con yêu dấu, những gì xảy ra cho một đệ tử tâm linh không phải là kết quả nghiệp chướng cá nhân của con. Đó là kết quả của sự kiện con đang hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên rất dày đặc, rất hỗn tạp. Có rất nhiều chuyện có thể xảy ra do người khác gây ra, do hành động hay trạng thái tâm thức của họ gây ra, hay do một nghiệp chướng tập thể gây ra nhưng không phải do nghiệp chướng cá nhân của riêng con. Đó là tại sao như thày đã nói, có thể tới một điểm con sẽ lợi lạc nếu con bước lui lại và xem xét cái nhìn về bản thân mà con đã tạo ra dựa trên giáo lý tâm linh, ngay cả dựa trên giáo lý về nghiệp quả. Có thể con đã xây dựng cái nhìn: “Phải, tôi mang nghiệp từ tiền kiếp. Nếu có điều gì tệ hại xảy ra cho tôi, đó là do nghiệp này và tôi cần đọc thỉnh đọc chú hay tập yoga hay bất cứ gì khác hầu chuyển hóa nghiệp quả cho nó không còn nữa.” Nếu như con đã bước trên đường tu được khá lâu và đã thực sự thỉnh cầu đủ lửa tím để hoán chuyển toàn bộ năng lượng cấu tạo nghiệp chướng của con thì điều gì xảy ra? Có nghĩa chăng là con đã cân bằng nghiệp quả của con? À, con đã chuyển hóa năng lượng. Đó là một khiá cạnh của nghiệp quả, nhưng các chân sư kia đã dạy con điều gì về những hình ảnh con còn cầm giữ từ quá khứ?

Nếu con mang hình ảnh về bản thân là con chưa cân bằng hết nghiệp quả thì thật ra con vẫn chưa thoát khỏi nghiệp quả của con. Có lẽ vẫn có một cái ngã thực sự không muốn nhìn nhận là con không còn nghiệp nữa, vì ngã này lo sợ nếu có gì xấu xảy ra cho con, làm sao con sẽ giải thích được ngoại trừ đó là kết quả của nghiệp chướng? Con có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng và tự hỏi tại sao Thượng đế lại để cho chuyện xấu kia xảy ra cho mình nếu con không có nghiêp quả. Con cho rằng lý do chuyện xấu xảy ra cho con là vì con đang bị trừng phạt về những việc xấu con đã làm trong quá khứ. Nhiều người suy nghĩ như vậy.

Nhưng con yêu dấu, dựa trên giáo lý các thày đã cho con, con có thể bước lên một bực và nhận ra là nhiều các con thật ra đã hoàn tất quá trình mà nhiều phong trào tâm linh, ngay cả các phiên bản về nghiệp ở Đông phương, đã mô tả là sự cân bằng nghiệp quả. Nếu có điều tệ hại xảy ra cho con, đó không phải là kết quả của nghiệp chướng cá nhân, không phải là kết quả một lầm lỗi con đã phạm phải, mà là sự kiện con sống trên một hành tinh phi tự nhiên rất dày đặc, rất hỗn tạp. Như các chân sư khác đã nói, con không thể nào tiên đoán chắc chắn và chính xác các sự việc xảy ra. Con hãy dùng câu chuyện ẩn dụ về sự khác biệt giữa viên đạn từ cây súng trường và chùm đạn bắn ra từ súng shotgun. Con không thể đoán trước đường bay của một hạt nhỏ trong nguyên chùm đạn từ lúc nó được bắn ra cho đến lúc nó chạm mục tiêu. Không thể nào tiên đoán được vì quá nhiều hạt nhỏ đang chạm vào nhau, giao với nhau và biến đổi nhau và vì thế chúng cũng đổi đường bay.

16.9. Vũ trụ không phải là một cỗ máy

Điều tương tự cũng xảy ra trong hiện tại. Con không thể bảo là một người đã cân bằng nghiệp quả cho nên không có gì tệ hại được phép xảy ra cho họ. Vì con vẫn đang sống trong một cơ thể vật lý trong một môi trường nhất định, có một mô thức sóng năng lượng vô cùng phức tạp được tạo ra bởi người khác và được duy trì bởi người khác. Không có cách nào, ngay cả đối với một chân sư thăng thiên, để tiên đoán chính xác biến cố nào sẽ xảy đến trong phần đời còn lại của con. Mọi sự quá hỗn loạn, quá bất ngờ đến độ nhiều nhà khoa học phải gọi đó là những “biến số ẩn giấu”. Đối với một chân sư thăng thiên, các biến số này không ẩn giấu. Chỉ có điều, con yêu dấu, vũ trụ không phải là một chiếc đồng hồ, nó không phải là một cỗ máy. Có thể có một hoàn cảnh mà các thày là chân sư thăng thiên có thể nhìn thấy tất cả mọi yếu tố góp phần vào đó, nhưng các thày vẫn không biết được chính xác một người sẽ chọn làm gì. Tất nhiên các thày có thể thấy được xác suất họ sắp sửa chọn làm cùng một việc mà họ đã chọn làm suốt 50 kiếp vừa qua, nhưng các thày không thể biết chắc và do đó không thể tiên đoán chính xác phần còn lại của kiếp này sẽ mang hình dạng ra sao. Nó tùy thuộc vào chọn lựa của con cũng như chọn lựa của nhiều người khác, nó tùy thuộc vào cách tất cả mô thức sóng năng lượng vô cùng phức tạp này sẽ tương tác như thế nào, giao thoa như thế nào với nhau.

Thật không có cách nào mà bảo được trên một hành tinh như trái đất là nếu con không còn nghiệp quả thì không có gì xấu xa có thể xảy đến cho con trong phần còn lại của kiếp này. Chuyện này đơn giản không thể có. Cho nên con cần buông bỏ ngã này. Con cần chấp nhận: “Tôi đã cân bằng nghiệp quả của tôi,” xong con cũng cần chấp nhận: “Vì tôi đang sống trên một hành tinh như trái đất cho nên có thể một chuyện gì đó sẽ xảy ra cho tôi mà không phải là nghiệp của tôi. Nhưng tôi sẽ không trách Thượng đế, tôi sẽ không tự trách mình, tôi sẽ không trách ai hết. Tôi sẽ chấp nhận nó như nó là, sử dụng nó tốt nhất và bước đi tiếp.”

Điều này đòi hỏi một sự xoay chuyển, và đây cũng là một phần của sự chấp nhận mình là một sinh thể Ki-tô. Con yêu dấu, khi Giê-su khởi sự kiếp đầu thai chót của thày, thày có mang một ý niệm bản ngã nào đó. Xong thày đã tuần tự bồi đắp và tinh chế ý niệm bản ngã này, cho nên khi thày bắt đầu sứ vụ công chúng, thày đã làm vậy với một ý niệm bản ngã nào đó. Dựa trên bản ngã này, thày đã có một số chờ đợi như khi thày bảo là không có gì thật sự tệ hại có thể xảy ra cho mình. Và nếu có thì Thượng đế sẽ gửi thiên thần xuống làm phép lạ để giải cứu thày khỏi sa nhân. Giê-su đã giải thích đây chính là cái ngã mà thày đã phải cho phép chết đi khi thày treo thân trên thập tự giá.

Con không phải chờ cho đến khi con mãn thời gian hiện thân này để buông bỏ những ngã đó. Con có thể khởi sự làm vậy ngay bây giờ. Con có thể tới điểm thực sự chấp nhận là con đã đạt được một cấp độ quả vị Ki-tô nào đó, và nếu có việc gì “xấu xa” xảy ra cho con thì rất có thể đây là một phần con đường quả vị Ki-tô của con khi con phải kinh qua trải nghiệm đó, phải chứng tỏ một cách ứng xử cao hơn và không dính mắc. Con phải chứng tỏ làm thế nào con có thể ứng phó với trải nghiệm này mà không còn ngã gốc hay những cái ngã con đã khắc phục.

16.10. Thời gian có và cũng không có

Vậy thời gian là gì? Tại sao thày đã nói là thời gian không có? À, là vì thời gian không có một sự hiện hữu khách quan nào, ít ra theo cách nhìn của mọi người. Bây giờ để minh họa cho điểm này, hãy để thày trình bày một điểm thày đã gợi ý trước đây. Theo truyền thống, hình học nói rằng có ba chiều kích trong không gian: chiều dài, chiều rộng, chiều cao. Con có hệ thống tọa độ truyền thống với ba trục và con bàn về một thế giới ba chiều nơi con có thể di chuyển. Con có thể đi bộ ở lầu này, đi tới và đi lui, nhưng con cũng có thể đi lên lầu trên nếu có một lầu trên, hay con có thể đi xuống lầu dưới. Con có thể di chuyển trong cả ba chiều.

Bây giờ cũng theo truyền thống, các nhà khoa học bảo rằng thời gian là chiều thứ tư, nhưng họ cũng nói thời gian hoàn toàn đường thẳng cho nên con không thể đi ngược thời gian. Tất nhiên con không thể nhảy về phía trước bước vào tương lai. Thực tế là từ nhãn quan thăng thiên, các thày nhìn thời gian cũng giống như các chiều kích kia tức là một chiều kích không đường thẳng. Con có thể đi tới hay đi lui trong thời gian. Con hãy tưởng tượng con đang đứng trong một quảng trường rộng lớn, một mặt phẳng rộng lớn, và con bắt đầu bước tới theo một hướng. Bây giờ con tưởng tượng có ai đến nói với con: “Bạn sẽ không bao giờ đi lùi lại được, bạn chỉ có thể bước tiếp theo cùng một hướng.” Phải, đó là điều đã xảy ra cho thời gian. Tất nhiên con cần hiểu điều này thấu đáo. Ví dụ con đến một thành phố. Có một quảng trường ngay trung tâm thành phố. Con đang đứng giữa quảng trường rồi bắt đầu bước tới theo một hướng, giả sử con bước một trăm mét. Con quẹo ở góc phố và quang cảnh con vừa thấy hồi nãy bây giờ không còn nữa, nó khác đi rồi. Con đã di chuyển vị trí của con trong không gian cho nên con có một tầm nhìn khác, một quang cảnh khác so với khi con cất bước. Con đứng ở nơi con đang đứng trong không gian.

Con có thể đi trở về điểm khởi đầu nhưng con không thể trở về đó chỉ bằng một bước nhảy. Con phải đi một số bước để về đó. Con cũng có thể di chuyển về một phía khác nhưng một lần nữa, con không thể nhảy xa đằng trước. Con phải đi từng bước một. Chúng ta có thể nói là ở bất kỳ điểm nào trong không gian, con đều có một tầm nhìn nhất định, một quang cảnh nhất định, thậm chí một ý niệm bản ngã nhất định. Có một cái ngã, một ý niệm bản ngã dựa trên điểm con đang đứng ngay bây giờ và những gì con có thể nhìn thấy. Về cơ bản, hiện tượng này cũng xảy ra y như vậy trong thời gian – thời gian cũng y như vậy trên cơ bản. Ở bất cứ thời điểm nào con cũng đứng ở một vị trí nhất định trên một dòng thời gian – nếu có thể gọi như vậy – nhưng thật sự đó là một điểm trong không gian của thời gian, một điểm trong chiều kích thời gian. Bất cứ lúc nào con cũng ở một vị trí đặc thù và ngay lúc đó con có một ý niệm bản ngã đặc thù.

Bây giờ sự khác biệt trong chiều kích thời gian là như sau: Giả sử con khởi đầu nơi quảng trường đó ở trung tâm thành phố. Con có một chiếc máy ảnh có khả năng chụp hình chính xác những gì mắt con thấy đằng trước khi đầu con hướng về một hướng. Con đứng đó, con chụp hình. Con bước đi một bước, con lại chụp hình và tấm hình cho thấy nhãn quan của con đã thay đổi như thế nào. Tất nhiên quang cảnh sẽ không khác lắm, tuy nhiên với mỗi bước đi nếu con cứ tiếp tục chụp hình thì sau khi con đi được một trăm mét chẳng hạn và đã quẹo quanh góc phố, hình chụp đã thay đổi khá nhiều. Bây giờ giả sử con mang theo con tất cả những hình chụp này, để cái nhìn của con về nơi con đang đứng trong không gian bị tác động bởi tất cả những cái nhìn trước đây mà con đã có trong không gian.

Trong cốt yếu, đây chính là điều con làm trong chiều kích thời gian. Đã có một thời điểm khi con hình thành một cái ngã, chẳng hạn ngã gốc. Từ đó trở đi, con đã mang ngã này theo con và ngã này đã thiết lập một khuôn khổ quy định cách con nhìn cuộc sống trên trái đất, cách con nhìn bản thân con trên trái đất. Thay vì chụp một tấm ảnh mới cho mỗi lúc, cho mỗi bước, con đã không ngừng bồi đắp thêm cho tấm ảnh cũ. Và điều này quyết định cách con nhìn chính con và cuộc đời trong giây phút bây giờ, có nghĩa là trên cơ bản, con đã đem theo con một cái gì đó từ quá khứ, và con yêu dấu, chính cái này là ý nghĩa của thời gian đối với con.

16.11. Cỗ máy du hành thời gian của riêng con

Thời gian chủ quan của riêng con chính là các hình ảnh được tạo ra trong quá khứ mà con vẫn mang theo con. Đây là tại sao từ một nhãn quan thăng thiên, các thày thấy được thời gian chỉ là một chiều kích khác và mình có khả năng di chuyển trong chiều kích này. Con có thể học cách di chuyển trong chiều kích này. Như Chân sư MORE có nói, các thày đã cho con một cỗ xe vượt thời gian với giáo lý của các thày. Các thày đã cho con khả năng đi trở ngược và nối kết lại chẳng hạn với hình ảnh mà con đã tạo ra trong chấn thương nhập đời hay bất kỳ hình ảnh nào con tạo ra trong một kiếp trước. Con có thể nhận biết hình ảnh đó, thấy rõ nó đã tạo ra một ngã tách biệt, và con để cho ngã chết đi mà không cố giải quyết hoàn cảnh con đã không thể giải quyết vào lúc đó. Con không thay đổi gì hết trong cõi vật lý. Con chỉ đơn giản để cho ngã chết đi, và trong tiến trình chót cùng, con nhận ra có một hình ảnh do ngã này cầm giữ và con tẩy xóa hình ảnh này đi, con tẩy xóa ký ức này đi.

Đấy là một cỗ máy vượt thời gian. Đấy là du hành trong thời gian. Tất nhiên khi con đạt đến các tầng nhận biết cao hơn cùng các tầng quả vị Ki-tô cao hơn nữa, con sẽ bắt đầu thoáng nhìn thấy một số hoàn cảnh tương lai. Nhiều các con đã có cái nhìn hé thoáng về một hoàn cảnh, hay con gặp những hoàn cảnh mà con có cảm tưởng mình đã gặp rồi trong quá khứ. Đột nhiên con nhận ra là con ở trong một tình huống vật lý mà con đã nhìn thấy trước đây trong giấc mơ hay trong khải tượng. Đây là một ví dụ làm thế nào con cũng có thể du hành vào tương lai. Có một số trường hợp việc nhìn thấy trước tương lai sẽ hữu ích và thích hợp đối với một sinh thể Ki-tô, tuy nhiên đây là một khả năng con cần sử dụng thận trọng. Thật không có lý do chính đáng nào khiến con muốn biết tất cả mọi sự sẽ xảy ra cho con trong thời gian hiện thân còn lại của con, vì như các thày có nói, làm thế nào con tăng triển từ một tầng tâm thức lên tầng cao hơn? Con tăng triển bằng cách đáp ứng các tình huống dựa trên mức tâm thức hiện thời của con nhưng con vẫn sử dụng tình huống này để với lên một tầm nhìn cao hơn – đó chính là cách con tăng trưởng.

16.12. Sống trong hiện tại khi hiện tại là một khoảng thời gian

Có một lý do khác nữa khiến con phải thận trọng khi dùng khả năng này. Giả sử con đang có một viễn quan về những gì sẽ xảy ra trong mười năm nữa, một tình huống sẽ xảy ra mười năm nữa. Con có thể lấy ví dụ của Giê-su có khải tượng là mình sẽ bị đóng đinh ở thành Jerusalem. Liệu khải tượng này về tương lai có được tạc vào đá hay không? Các thày chẳng đã nói với con là quá khứ không được tạc vào đá và con có thể đi trở ngược để thay đổi nó hay sao? Vậy làm sao tương lai có thể tạc được vào đá? Giữa thời điểm bây giờ và mười năm nữa, con sẽ kinh qua rất nhiều trải nghiệm, rất nhiều bước. Chính con sẽ lấy nhiều quyết định và người khác cũng sẽ lấy nhiều quyết định. Mặc dù con có thể di chuyển trong chiều kich thời gian và hé thấy tương lai, nhưng con không thể biết được điều này sẽ trở thành hiện thực. Đó là tại sao việc nhìn thấy tương lai rồi tin tuyệt đối nó sẽ xảy đến là một điều phần nào phản xây dựng, thậm chí còn nguy hiểm là đằng khác. Rất có thể con sẽ có những quyết định và người khác cũng có những quyết định sẽ chuyển đổi phương trình, chuyển đổi sự tương tác vô cùng phức tạp giữa các sóng năng lượng, khiến cho những gì con hé thấy không trở thành hiện thực. Nói cách khác, nếu con nhìn thấy tương lai thì nó sẽ chỉ xảy ra nếu không có gì thay đổi.

Nhưng trên một hành tinh phi tự nhiên, con có thể đoan chắc là có gì đó sẽ thay đổi, cho nên tấm hình chụp về tương lai mà con đang có rất có thể sẽ không còn chính xác nữa trong vòng mười giây. Vậy tại sao con lại cần đến nó? Tại sao con lại muốn có nó? Thật sự khi con càng bước lên cao hơn trên đường tu, con sẽ càng bớt quan tâm đến tương lai, con càng ít mong muốn biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai. Nhiều người đạt đến một cấp độ quả vị Ki-tô hay quả vị Phật nào đó không còn quan tâm đến quá khứ, không còn quan tâm đến tương lai. Họ chú tâm vào hoàn cảnh ngay trước mặt, không cứ là giây phút hiện tại như một khoảnh khắc trong thời gian, mà vào hoàn cảnh hiện thời của họ và hoàn cảnh này có thể kéo dài một khoảng thời gian. Chẳng hạn nếu con cố đạt một mục tiêu như xây một căn nhà chẳng hạn, con không thể xây nhà trong giây phút hiện tại. Con không thể xây nhà nếu con sống trong hiện tại và chỉ chú tâm vào khoảnh khắc hiện tại. Tất nhiên con không bàn đến quá khứ xa xôi hay tương lai xa xôi. Con quyết định: “Tôi sẽ khởi sự tiến trình dẫn tôi đến việc xây căn nhà này.” Rồi có thể con sẽ tốn một năm để xây căn nhà. Nhưng bây giờ con đã kinh qua tiến trình này được ba tháng và con vẫn có thể nhìn trở ngược thời gian và bảo: “Đây là cách tôi đã hoạch định ba tháng trước đây.” Con vận hành trong một khoảng thời gian kéo dài một năm để xây căn nhà.

Đó là tại sao thày nói là con không nhất thiết, như một sinh thể tiên tiến, sống trong hiện tại và hiện tại này là một khoảnh khắc. Con có một khoảng thời gian để làm việc nhưng con không bị gánh nặng của những sự việc xảy ra hai triệu năm trước hay trong kiếp trước hay trong tuổi thơ ấu. Con không vẫn đổ lỗi cho cha mẹ đã nuôi con như thế nào khi con còn nhỏ. Con không quan tâm đến những gì sẽ xảy đến trong mười năm nữa. Con ngộ ra một điều, con ngộ ra tinh túy của những gì các thày đã dạy con. Con không ở đây để hoàn thành một mục tiêu vật lý đặc thù nào. Mục đích đời con không phải là xây căn nhà kia. Mục đích của việc xây nhà là để cho con một trải nghiệm. Thật chẳng có gì quan trọng nếu con xây căn nhà rồi hai năm sau có trận động đất phá sập hoàn toàn, vì con vẫn đã có được trải nghiệm xây dựng căn nhà. Nếu căn nhà bị động đất phá hủy thì con lại có thêm chính trải nghiệm này.

Con có thấy không, con yêu dấu, sẽ tới một điểm con đã khắc phục những cái ngã muốn kiểm soát mọi khía cạnh của đời con và do đó cũng muốn có khả năng kiểm soát tương lai. Có một cái ngã rất rất quan tâm đến chuyện kiểm soát tương lai vì ngã này đã được thiết kế, được lập trình để đảm bảo là con không bao giờ gặp lại trải nghiệm đau đớn con đã gặp trong quá khứ. Cho nên ngã này muốn kiểm soát tương lai để con có thể tự bảo vệ khỏi mọi chuyện xấu xa xảy đến cho mình. Một khi con buông bỏ nó cùng những cái ngã khác, con thấy rõ là con đang ở trên một hành tinh phi tự nhiên. Thật chẳng nghĩa lý gì trên một hành tinh phi tự nhiên mà lại cố sống cùng loại đời sống mà con đã quen sống trên một hành tinh tự nhiên. Trên hành tinh tự nhiên, con có thể xây một căn nhà và nó sẽ ở đó vĩnh viễn. Không có rủi ro động đất, hỏa hoạn, bão lụt hay bất cứ chuyện gì có tiềm năng phá hủy nhà con, nhưng trên hành tinh phi tự nhiên sẽ không như vậy. Cho nên con vẫn có thể quyết định: “Tôi muốn có trải nghiệm xây nhà ở đây trên trái đất,” nhưng khi đó, con sẽ mở tâm để nhận ra là trong trường hợp căn nhà bị phá hủy – và tất nhiên thày không bảo là căn nhà sẽ bị phá huỷ – thì đây chỉ là thêm một loại trải nghiệm con có thể có trên địa cầu. Do đó con có thể nói: “Ồ, quả là bổ ích khi tôi trải nghiệm chính mình trong hoàn cảnh này khi căn nhà của tôi bị phá tan tành.” Đây chỉ là một trải nghiệm khác, một cơ hội khác để con là chính con bất kể điều kiện gì trên trái đất.

16.13. Tự do trải nghiệm cuộc sống

Con thấy đó, con yêu dấu, tới một điểm con sẽ bắt đầu xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Xuôi chảy với Dòng sông sự Sống không có nghĩa là không có gì xấu xa xảy ra cho con – con không thể bị đau ốm, con không thể bị tan nát nhà cửa, con không thể bị mất tiền bạc, con không thể thế này, không thể thế kia – mà thật ra nó có nghĩa là con sẽ không có một trải nghiệm tồi tệ nào, bởi vì cho dù điều gì xảy ra, con cũng không trải nghiệm nó xuyên qua cái ngã tách biệt phải xét đoán mọi thứ là tốt hay xấu. Đấy là khi con tự do xuôi chảy với Dòng sông sự Sống do con không có định kiến nào về những gì phải hay không được xảy ra. Con hãy lấy ví dụ tình cảnh của Giê-su khi thày bảo các tông đồ là thày sẽ đi Jerusalem, sẽ gặp khổ nạn, sẽ bị trấn áp và đóng đinh. Peter nói với thày: “Xin ngài tránh xa, chuyện này sẽ không xảy ra đâu.” Tại sao Peter lại nói như vậy? Vì ông có một ngã tách biệt với một cái nhìn rất đặc biệt, một cái nhìn tôn thờ thần tượng về những gì phải xảy ra hay không được xảy ra cho Ki-tô Hằng sống. Đây là một cái nhìn hoàn toàn chủ quan mà Peter đang cố phóng chiếu lên Giê-su, và vì Giê-su ở một mức quả vị Ki-tô cao hơn Peter nên thày đã từ chối tuân theo hình ảnh chủ quan của Peter. Để giúp Peter bứt ra khỏi hình ảnh chủ quan này, thày mới nói: “Lùi ra sau ta, Satan.”

Theo một nghĩa nào đó, con có thể mô tả tâm thức Satan là khi con phóng chiếu một hình ảnh chủ quan lên người khác và muốn họ chối bỏ trải nghiệm chủ quan của riêng họ để hoặc họ có trải nghiệm của con – mà tất nhiên họ không thể thực sự có được – hoặc ít ra họ sống cuộc đời họ dựa trên trải nghiệm chủ quan của con. Đến một điểm con sẽ khắc phục cái ngã cứ muốn đánh giá từng trải nghiệm, từng sự việc xảy ra cho mình theo thang điểm tốt hay xấu, đúng hay sai, được hay không được xảy ra. Con không còn sợ hãi những gì không được xảy ra. Con sẵn lòng xuôi chảy với bất kỳ tình huống nào xảy đến mà con nhận ra là không thể tránh được.

Bây giờ nếu con nhìn lại một tổ chức của chân sư thăng thiên trước kia, con có một vị sứ giả và trong tổ chức hầu hết mọi người đều xem bà đã đạt được một tầng tâm thức rất cao. Nhiều người đã hành xử đối với bà y như Peter đã hành xử đối với Giê-su. Họ phóng chiếu một cái nhìn lên bà về những gì phải hay không được xảy ra. Thế rồi chuyện gì đã xảy ra? Bà lâm trọng bệnh và nhiều người đâm ra bối rối, xốn xang, tức giận về điều xảy ra. Họ đã có một cái nhìn là bà phải hướng dẫn họ cho hết phần còn lại của đời họ, phải giúp họ bước trên đường tu mà không phải nhận trách nhiệm về bản thân vì họ chỉ cần đi theo chân đạo sư.

Thế rồi khi bà không còn khả năng làm công việc này nữa, họ nổi cơn phẫn nộ và vô cùng xét đoán. Một số còn viện cớ này để bác bỏ cả đường tu, họ từ chối bước đi tiếp trên đường tu, họ quay trở về lối sống ăn chơi, lối sống hưởng thụ, và họ lại làm tất cả những thứ họ đã nhịn không làm suốt một thời gian dài. Con yêu dấu, tại sao lại có chuyện như vậy? À, là vì như các thày đã gợi ý trước đây, có quá nhiều đệ tử không sẵn lòng chuyển bước đi tiếp. Cho nên đây là một cách để bắt buộc họ phải đương đầu với một điều trong tâm họ mà họ đã không sẵn lòng đương đầu cho tới nay.

16.14. Để cho thời gian co sụp

Để quay lại điểm đầu, trải nghiệm chủ quan của con về thời gian dựa trên bất kỳ ngã nào con đã tạo ra trong quá khứ mà con vẫn mang theo con, vì chúng đang ảnh hưởng đến cách con nhìn bản thân và cuộc sống trong giây phút hiện tại. Chúng cũng ảnh hưởng đến những gì con nghĩ về tương lai. Nếu con nhìn thấy tương lai của mình ngay bây giờ, đó sẽ là một tương lai dựa trên các ngã tách biệt con đang có ngay bây giờ và cách chúng ảnh hưởng tương lai của con. Khi con bắt đầu vứt bỏ các ngã này đi thì ngay lúc đó con thay đổi phương trình tương lai của con. Con cũng đang thay đổi quá khứ của con. Theo một nghĩa nào đó, con đang triệt tiêu, con đang tẩy xóa, con đang xóa sạch quá khứ của con.

Các thày đã có nói là con không thể nào thăng thiên trong quá khứ. Con cũng không thể thăng thiên trong tương lai. Con chỉ có thể thăng thiên trong hiện tại. Điều gì xảy ra khi con ở tầng 144 và như các thày đã giảng, con đứng đó và chỉ cần một bước nữa thì con sẽ bước vào cõi thăng thiên? À, ngay lúc đó con cần nhìn lại trái đất, con cần nhìn xem có bất cứ gì níu kéo con trở về đó hay không. Cái có thể níu kéo con trở về đó là bất cứ dính mắc nào con có, bất cứ ngã nào, bất cứ gì từ quá khứ mà con cảm thấy chưa được giải quyết. Đó chính là quá khứ của con đang kéo con về. Đằng khác nếu con có bất cứ gì trên trái đất mà con chưa làm, chưa hoàn tất, bất cứ gì mà con muốn làm, muốn trải nghiệm, thì cái đó là tương lai của con đang kéo con về trái đất.

Con thấy đó, để có thể thăng thiên, con phải đạt tới điểm không còn quá khứ nào trên địa cầu vì không có gì chưa giải quyết mà con kéo lê theo con. Đồng thời, con không có tương lai nào trên địa cầu vì con không có viễn kiến muốn làm bất cứ gì trên địa cầu. Khi, nếu có thể gọi như vậy, dòng thời gian của sự có mặt của con trên trái đất co sụp lại – sự co sụp của một hàm sóng, theo từ được dùng trong vật lý lượng tử – và khi thời gian không còn kéo dài được nữa, tức là không có quá khứ, không có tương lai và thời gian co sụp lại thành một khoảnh khắc độc nhất, thì đó chính là khoảnh khắc con thăng thiên. Đây mới thực sự là ý nghĩa tối hậu của câu nói: “Thời gian không có, thời gian không còn nữa.”

16.15. Làm hòa với việc mình ở đây

Làm thế nào con có thể dùng các lời dạy này để làm hòa với việc mình ở đây trên địa cầu? À, tự thân các lời dạy này có thể giúp con xoay chuyển tầm nhìn của con. Để thày lấy ví dụ một trải nghiệm mà sứ giả này đã có khi ông còn nhỏ và ông kinh qua một trải nghiệm rời khỏi thân xác (out-of-body experience). Ông đã bước ra ngoài cơ thể của ông, đi vào một đường hầm rồi một vùng ánh sáng, sau đó ông trở lại trong cơ thể. Ông nhận ra là mặc dù trải nghiệm này vô cùng thâm sâu, ông không có nhu cầu lặp lại. Trải nghiệm này đã chứng tỏ cho ông – không phải về mặt lý thuyết mà ở một mức độ trải nghiệm – là có gì đó vượt khỏi thế giới vật chất, và cái đó giúp ông ngộ ra là mình sẽ không mãi mãi ở lại trong thế giới vật chất. Cho nên ông đã từ bỏ nhu cầu cố gắng có thêm trải nghiệm tâm linh, và kể từ đó ông đã không làm bất cứ gì để có trải nghiệm tâm linh. Có một số trải nghiệm tâm linh đã xảy ra tự phát nhưng ông chưa bao giờ nỗ lực hay cưỡng ép để có trải nghiệm như vậy. Con có thể làm giống như thế.    

Con có thể xoay chuyển và ngộ ra là sau khi con thăng thiên, thời gian mà con chứng kiến trên địa cầu sẽ không áp dụng cho con nữa. Theo nghĩa đen, con có cái người ta gọi là sự vĩnh hằng, nhưng đó không thật là vĩnh hằng bởi vì ở cõi thăng thiên luôn luôn có sự tiến bộ. Con có một khoảng thời gian dài gần như vô lượng so với khoảng thời gian con có trên trái đất. Ngay cả khi con nhìn vào chiều dài hai triệu năm con đã sống trên trái đất, thời gian con có ở cõi thăng thiên dài hơn vậy một cách bất tận.

Con có tiềm năng làm cuộc xoay chuyển là nói: “Tại sao tôi lại vội rời bỏ nơi đây đến như vậy? Có lẽ chăng tôi muốn trải nghiệm cảm giác ở cõi thăng thiên là như thế nào?” Phải, nhưng nếu con có nguyên một vĩnh hằng để trải nghiệm cõi thăng thiên và con chỉ có một thời gian giới hạn trên địa cầu, tại sao con lại vội vã lánh xa địa cầu để trải nghiệm những gì con sẽ dư thì giờ trải nghiệm? Tại sao con không làm hòa với việc mình ở đây trên trái đất, biết rằng mình sẽ chỉ ở lại ngắn ngủi, và sau đó con nói: “À, vì tôi chỉ có một thời gian hạn chế trên địa cầu, tại sao tôi không tận dụng tốt nhất thời gian tôi có? Tại sao tôi không tìm kiếm những trải nghiệm tốt đẹp nhất mà tôi có thể có trong thời gian sót lại trên địa cầu, thay vì cứ luôn cảm thấy như thể mình bị chậm trễ và phải rởi khỏi nơi đây cho bằng được?”

Con yêu dấu, các thày đã nói điều này trước đây rồi. Có những chân sư đã thăng thiên (và họ đã cần thăng thiên trong một thời hạn nào đó) nhưng họ đã nhìn lại địa cầu từ cõi thăng thiên và nghĩ: “À, ước gì tôi đã thong thả, ước gì tôi đã có nhận biết để vui hưởng cuộc sống trên địa cầu trọn vẹn hơn, vui hưởng các trải nghiệm tôi có thể có, vui hưởng mình là chính mình trong các hoàn cảnh mình sống qua trong cõi vật lý.” Thày hy vọng một số các con sẽ được cảm hứng từ sự kiện này để sử dụng cuộc sống tối đa hầu con không nghĩ như thế sau khi thăng thiên.

Thày cũng có thể nói là con càng an bình với việc mình ở địa cầu thì con sẽ càng tận dụng được trải nghiệm của mình, càng tác động mạnh mẽ đến tâm thức tập thể, càng kéo tâm thức tập thể đi lên. Đương nhiên con sẽ kéo tâm thức tập thể đi lên khi con thăng thiên, nhưng thày có thể cam đoan với con là sức kéo của con sẽ mãnh liệt hơn gấp bội khi con vẫn còn điểm trụ neo của một cơ thể vật lý trong bát cung vật lý, song song với một mức nhận biết cao hơn khi con đón nhận trọn vẹn việc mình ở đây, mình an bình, mình vui hưởng cuộc sống ở đây trên địa cầu.

Con yêu dấu, như chính thày đây sau khi chứng ngộ dưới cây Bồ đề và vượt qua thử thách của quỷ Mara, thày cũng đã đạt tới điểm có thể vui hưởng trọn vẹn việc mình ở đây trên trái đất. Cám dỗ của Mara là gì? Đó là thày phản ứng lại chúng, khiến thày không thể an bình trọn vẹn, không thể là chính mình trọn vẹn, không thể vui hưởng trọn vẹn mình là chính mình trên trái đất do tất cả các điều kiện đó. Trong những năm chót của thày khi thày giảng dạy, thày đã có một cảm nhận liên tục là mình vui hưởng sự trải nghiệm các tình huống trải bày ra trước mắt mình trong cõi vật lý, vui hưởng việc tương tác với các đệ tử, nhìn thấy đệ tử tăng triển hay không tăng triển cho dù trường hợp của họ là gì. Thày không có chủ đích. Thày không có tiếc nuối. Thày không có một ý định nào về những gì phải xảy ra. Thày chỉ vui hưởng là bản thân mình trong bất kỳ hoàn cảnh nào thày chứng kiến trong cõi vật lý. Con yêu dấu, đó là một niềm vui rất lớn. Và điều này cũng có nghĩa là tất nhiên, thày không có hối tiếc nào về quá khứ.

16.16. Không tiếc quá khứ, không sợ tương lai

Chủ đề chót mà thày muốn đề cập – và thày biết thày đã lạm dụng sự kiên nhẫn của con rồi đó – nhưng con thấy không, mục đích đưa ra bài truyền đọc dài dòng này là để dạy con về tính kiên nhẫn. Thày không thể làm vậy một cách lý thuyết. Con phải trải nghiệm. Liệu con có đang vui hưởng trải nghiệm mà con đang có, trải nghiệm chính con đang lắng nghe bài truyền đọc của Phật? Con có vui hưởng trải nghiệm này không? [cử tọa: “Có.”] À, riêng thày chắc chắn đang vui hưởng trải nghiệm trao truyền bài giảng này cho con.

Chủ đề chót của thày. Quá nhiều đệ tử tìm thấy một giáo lý của chân sư thăng thiên rồi nghĩ: “Ồ, tại sao tôi đã không tìm thấy giáo lý này sớm hơn? Tôi đã lãng phí bao nhiêu thời giờ. Tôi đã đến tuổi này rồi, tôi chỉ còn bấy nhiêu năm nữa thôi. Tại sao tôi đã không tìm ra giáo lý sớm hơn?” Xong họ nói: “Bây giờ tìm thấy giáo lý rồi, tôi cần tận dụng mỗi giây phút trong ngày để đọc chú và theo đuổi tăng triển tối đa.” Nói chung, họ quên không vui hưởng hiện tại, vui hưởng trải nghiệm của mình. Con yêu dấu, điều này liên quan đến một chủ đề rộng lớn hơn nhiều, là khi con bắt đầu suy nghĩ trong viễn quan dài hạn của một người avatar rằng có lẽ con đã ở đây hai triệu năm rồi. Con đã kinh qua đủ mọi trải nghiệm, làm thế nào con có thể tránh chuyện hối tiếc quá khứ? Làm thế nào con có thể tránh chạm đến chấn thương nhập đời và không hối hận việc này đã xảy ra, hối hận cách phản ứng của con, hay những gì con đã làm nhiều kiếp trước đây và những gì con đã làm trong kiếp này, vân vân và vân vân? À, chìa khóa cho vấn đề này các thày đã trao con rồi đó, cụ thể là con biết rõ dù chuyện gì đã xảy ra trong quá khứ, con vẫn có khả năng tẩy xóa nó đi.

Như các thày đã giảng, không có biến cố khách quan nào còn hiện hữu trong một khoảng không gian vật lý nào của quá khứ. Bát cung vật lý đã bước tới rồi. Tất cả còn sót lại là những gì nằm trong tâm thức của con, và con có sự hiểu biết, con có các dụng cụ để tẩy xóa nó đi. Nếu con biết con có khả năng tẩy xóa bất cứ gì đã xảy ra trong quá khứ, tại sao con lại phải hối tiếc về quá khứ? À, chính con thì không hối tiếc mà có một ngã tách biệt đang có những hối tiếc này. Chính con có thể nhìn ra ngã tách biệt đó, buông nó ra và nói: “Mi đã ảnh hưởng ta đủ lâu rồi. Thế là xong. Mi đã ra đi.”

Đây là lúc con có thể bắt đầu vui hưởng cuộc sống vì giờ đây con đạt tới điểm nhận ra là nếu quá khứ không tác động đến con nữa thì tại sao con lại cần lo sợ về tương lai? Tại sao con cần lo sợ mình có thể lầm lỗi trong tương lai?

Một số các con đã đạt đến một mức nào đó trên đường tu tâm linh khi con cảm thấy mình đã vứt bỏ được một số điều đau buồn từ quá khứ, nhưng vẫn còn một nỗi sợ hãi những gì có thể xảy ra trong tương lai. “Nếu như tôi phạm lỗi lầm thì sao? Nếu như tôi làm một việc gì mà tôi không nên làm?” Con biết không, con yêu dấu, bất cứ gì con có thể làm trong tương lai cũng chỉ là thêm một chọn lựa khác. Với trạng thái tâm thức của con hôm nay đã cao hơn, có rất ít xác suất chọn lựa của con hôm nay sẽ trầm trọng như trong quá khứ. Nếu các chọn lựa quá khứ trầm trọng đến vậy mà còn có thể tẩy xóa được – như con đã trải nghiệm – thì chắc chắn bất cứ gì xảy ra trong tương lai cũng có thể được tẩy xóa. Vậy tại sao con phải lo sợ về tương lai?

Nếu con không có hối tiếc nào về quá khứ thì mặt bên kia của đồng tiền là con cũng không có nỗi sợ nào về tương lai. Đây là lúc con có thể bắt đầu vui hưởng giây phút hiện tại, như thày vừa nói, trong khoảng thời gian mà con đang hoạt động. Khoảng thời gian này không phải là một khoảng cố định. Nó uyển chuyển tùy theo con đang làm gì. Như thày đã giảng, nếu con chú tâm xây một căn nhà, con sẽ cần đến một khoảng thời gian để hoàn tất căn nhà trong cõi vật lý. Nếu con chú tâm vào việc đánh răng thì tất nhiên con sẽ không cần đến nguyên một năm, vân vân. Con có cái nhìn rất linh hoạt uyển chuyển này về thời gian, nó đi vào rồi nó đi ra và nó thay đổi trong những tình huống khác nhau.

16.17. Đừng trở thành kẻ nô lệ của thời gian

Đó cũng là một khía cạnh trong việc đạt tới điểm con không là kẻ nô lệ của thời gian. Thời gian không sai khiến được trải nghiệm của con trên địa cầu. Con có thể nói là hầu hết mọi người đều là nô lệ của thời gian. Thời gian là ông chủ của họ. Con có thấy biết bao người luôn nhìn đồng hồ không, vì họ phải có mặt ở một nơi nhất định vào một thời điểm nhất định. Con đạt tới điểm con chỉ xuôi chảy với Dòng sông sự Sống.

Tất nhiên là thời gian hiện hữu. Có một phạm vi thời gian nào đó. Con nhìn về tương lai. Hay con nghĩ trở ngược về một thời quá khứ khi con đã quyết định thực hiện một ý định nào đó, vân vân. Nhưng con không bị thời gian sai khiến. Thời gian không là chủ nhân của con. Con không là kẻ nô lệ. Thời gian chỉ là một công cụ.

Chẳng khác gì khi con di chuyển trong không gian. Nếu con di chuyển trong không gian và thấy mình ở một nơi mình không muốn, con chỉ việc di chuyển đến một vị trí khác trong không gian, và thời gian cũng giống như vậy. Con tẩy xóa một chuyện gì đó từ quá khứ. Con di chuyển đến một vị trí khác. Thật không thành vấn đề cho con. Con không bị nó sai khiến.

Một lần nữa, đây là một niềm vui lớn cho thày được trải nghiệm chính mình đang tương tác với các con. Thày đã tương tác với mỗi người và từng người trong số các con như con đã cho phép thày làm như vậy suốt bài truyền đọc này. Thày có thể lại làm vậy nữa khi con nghe lại hay khi con đọc bài giảng. Có lẽ con đã không để ý điều này nhưng con có thể dần dần để ý thấy trong tương lai. Con có thể đạt tới điểm trải nghiệm: “Làm thế nào tôi thực sự trải nghiệm chính mình trong Hiện diện của Phật Gautama?” Con có thể có cùng trải nghiệm này với bất kỳ vị chân sư thăng thiên nào khác gần gũi nhất với tim con. Con yêu dấu, đó là ý nghĩ chót mà các thày mong muốn cho con trong đơn vị, trong khóa giảng này mà các thày vừa trao cho con về cách làm thế nào con khởi sự với ngã gốc rồi khắc phục được nó để con có thể an bình với việc mình ở đây trên trái đất.

Các thày vô cùng biết ơn các con đã sẵn lòng tổ chức và tham gia vào các buổi hội nghị dẫn đến hội nghị hôm nay. Hiển nhiên các thày rất mong chờ những gì các thày sẽ có thể trao cho con trong tương lai. Các thày có rất rất nhiều lời dạy khác mà thày sẽ không tiết lộ bây giờ vì một phần của toàn bộ trải nghiệm là con trải nghiệm giáo lý mà không có lời báo trước hay kỳ vọng nào cả. Con sẽ dễ trải nghiệm hơn với tâm trẻ thơ không phóng chiếu bất kỳ phin lọc nào lên đó. Và như vậy, lời dạy sẽ có tác động tối đa trên con. Và như vậy các thày gửi lòng biết ơn sâu xa nhất đến các con.

Tại sao tiết lộ tuần tự?

Bài truyền đọc của Phật Gautama qua Kim Michaels ngày 24/6/2018 nhân buổi hội thảo tại Kazahstan. Đây chỉ là một trích đoạn. Phần còn lại của bài truyền đọc này, cùng với một bài thỉnh dựa trên bài truyền đọc, có thể được tìm thấy trong cuốn sách “Fulfilling you highest spiritual potential”.

Phật TA LÀ. Gautama là danh tính mà ta đã dùng khi làm việc với cuộc tiến hóa của địa cầu. Một số các chân sư khác vừa cho các con một tầm nhìn về những đợt truyền pháp trước của chân sư cũng như về kết quả đạt được. Ta muốn khai triển tầm nhìn này, quay trở lại thời điểm khi ta hiện thân trong xác thân vật lý và giảng dạy trong cõi vật lý cách đây 2500 năm.

Thần tượng hóa đức Phật

Truyện kể rằng sau khi ta đi theo con đường tu khổ hạnh và ngộ ra những giới hạn của đường tu này, ta đã chứng ngộ Bát chánh đạo, hay con đường của Phật, và nhập niết bàn. Ta giác ngộ. Rất, rất nhiều Phật tử cho đến tận ngày nay sau bao nhiêu thế kỷ vẫn nhìn sự kiện trên với một hình thức thần tượng hóa. Họ cho rằng hoặc ta là đấng duy nhất có khả năng giác ngộ, hoặc ta là bậc chứng đạt tối thượng, hoặc nữa, ta đã đạt đến trạng thái giác ngộ tối hậu tuyệt đối.      

Nói cách khác, họ nghĩ là sự giác ngộ ta đạt được 2500 năm trước là trạng thái tuyệt đối, cao nhất sẽ không bao giờ vượt qua được. Tuy nhiên, khi con xem xét thực tế mà các chân sư đã giảng dạy về 144 tầng tâm thức, thì con có thể tự đặt câu hỏi này: Khi ta giác ngộ cách đây 2500 năm và đạt đến tầng tâm thức thứ 144, liệu tầng 144 thời đó có cùng là tầng 144 thời nay hay không? Nếu con trả lời, “Phải, đó là cùng một trình độ tâm thức” thì kết quả sẽ là gì? Kết quả là hành tinh này đã không hề tiến bước trong suốt 2500 năm qua. Nghĩa là giáo lý mà ta giảng dạy cách đây 2500 năm đã không đưa tâm thức nhân loại lên cao một mảy may nào và do đó đã thất bại trong mục đích. Nhưng kỳ thực, tầng 144 ngày hôm nay cao hơn tầng 144 thời 2500 năm trước rất nhiều, cũng như nó cao hơn cách đây 2000 năm khi Giê-su chứng đạt, thậm chí cao hơn cả cách đây 100 năm khi các chân sư MORE (El Morya) và Kuthumi giác ngộ ở mức này, và ta có thể đưa ra nhiều ví dụ khác.

Tâm thức được nâng lên như thế nào?

Vậy thì điều gì nâng cao tâm thức? Trước hết như khía cạnh Omega, tâm thức tập thể được nâng lên. Điều này xảy ra khi trên địa cầu có đủ một túc số những cá nhân đã nâng được tâm thức mình, họ kéo theo số 80% hay 90% còn lại và do đó mức dưới cùng cũng được nâng theo. Có thể có những thời điểm khi một sự chuyển vọt xảy ra trong tỉnh giác tập thể và con người quyết định không thể chấp nhận một số biểu hiện nào đó được nữa. Kết quả là tầng tâm thức dưới cùng của nhân loại được nâng lên và những sinh thể ở tầng tâm thức đó sẽ không được phép đầu thai nữa.  

Nhưng tầng tâm thức cao nhất thì sao, cái gì nâng nó lên? Để điều này xảy ra, phải có một người lên đến tầng 144 của thời đó, rồi phát huy cao hơn nữa trong thời gian họ còn tại thế và chưa thăng thiên. Trong một nghĩa nào đó, đây là điều mà ta đã làm cách đây 2500 năm, tuy rằng ta đã nhập niết bàn ở mức thứ 144 của thời đó. Khi ta trở lại xã hội trong sứ vụ giáo huấn, ta đã không trở lại với một tâm thức đã đạt đến tuyệt đối. Ta vẫn còn tinh tấn, vẫn phát huy và tự thăng vượt trong suốt những năm tháng giảng dạy. Và ta đã nâng tầng 144 lên một mức cao hơn. Giê-su, tất nhiên, cũng đã làm một điều tương tự, và mọi chân sư khác cũng vậy, và đó là cách thức tâm thức cao nhất được nâng lên. Một số trong các con cũng có tiềm năng đóng góp vào tiến trình này, nghĩa là con đạt tầng 144 trước khi con sẵn sàng rời xác thân và sử dụng thời gian đầu thai của mình để giúp nâng tầng này lên cao hơn.    

Vậy như con thấy, toàn bộ quan niệm cho rằng một giáo lý có thể là tuyệt đối, hay một trạng thái tâm thức có thể là tuyệt đối, hoàn toàn là ảo tưởng. Ảo tưởng đó tất nhiên là Maya, là một hình chiếu của các sinh thể sa ngã. Vì chúng không thể thăng vượt nên chúng cũng không muốn ai khác thăng vượt. Chúng nghĩ ra đủ mọi cách gian xảo để khiến cho mọi người tin là mình không thể thăng vượt được. Chúng muốn con nghĩ rằng ta đã đạt được một trạng thái tâm thức tối hậu tuyệt đối, rằng ta là một ngoại lệ và không ai khác có thể chứng đạt cao hơn. Chúng cũng muốn con tin rằng Giê-su đã đạt tới một trình độ mà không ai có thể sánh kịp.

Trong suốt 2500 năm qua, thật sự chỉ có tương đối ít người sử dụng được giáo lý đạo Phật để đạt tới tầng tâm thức thứ 144 rồi lên cao hơn nữa. Một số các vị đó được biết đến trong truyền thống Phật giáo, nhưng cũng có những vị khác không được biết đến do họ không có sứ vụ ngoài quần chúng. Chắc chắn khi ta nhìn lại, Phật giáo đã có đóng góp vào bước tiến của tâm thức tập thể và nâng cao các tầng tâm thức.

Mỗi giáo lý thích hợp cho một tầng tâm thức

Một khi con hiểu được tâm thức ngày nay cao hơn 2500 năm trước (tức là nguyên cái thang tâm thức đã dời chuyển lên cao hơn), thì con cũng thấy được giáo lý thời đó đã được giảng dạy cho những người ở một tâm thức thấp hơn trình độ trung bình của thời nay. Điều này phần nào cho thấy sự cần thiết của một tiến trình tiết lộ tuần tự, nghĩa là ở bất kỳ thời điểm nào, giáo lý chỉ có thể giảng dạy cho trình độ tâm thức hiện diện nơi những con người thời đó. Nhưng giáo lý không nhất thiết chỉ nhắm vào những mức trung bình hay mức thấp nhất của nhân loại, bởi vì cũng có một số giáo lý được truyền dạy cho những hành giả trong số 10% trên cùng.

Dù sao thì con luôn luôn cần nhìn nhận là khi một giáo lý đặc thù được đem ra truyền dạy, giáo lý đó phần lớn phải phù hợp với trình độ tâm thức trên hành tinh vào thời điểm đó. Nếu lời dạy này đem lại kết quả thì tâm thức sẽ chuyển vọt. Và khi ấy, chuyện gì sẽ xảy ra? Điều lý tưởng có thể xảy ra là có một số người nhận được lời dạy và đem ra thực hành để đạt tầng thứ 144. Lúc đó họ sẽ trở thành những công cụ của tiến hóa để đem lại một giáo lý mới, đem lại một khía cạnh mới của giáo lý cũ, hay một cách diễn giải mới cho giáo lý cũ. Và như vậy họ có thể đem lại một giáo lý phù hợp với mức tâm thức cao hơn vừa đạt được nhờ giáo lý cũ. Hiển nhiên điều này có nghĩa là trong lý tưởng, tiến trình tiết lộ tuần tự không bao giờ được dừng lại. Và trên một khía cạnh nào đó, điều này cũng thật đáng buồn – nếu chúng ta có thể dùng từ này – nếu những người theo giáo lý cũ tự khép kín lại đối với mọi điều mới mẻ, trở thành những kẻ giáo điều, và cũng trở thành những nhân tố làm cho giáo lý bị mất đi hiệu quả. Quả thực họ đã không cho phép giáo lý thăng vượt lên.      

25 | Sẵn sàng nhận giáo lý

Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 24 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật. Gautama là danh hiệu ta dùng khi làm việc với các dòng tiến hóa trên trái đất. Một số chân sư thăng thiên đã cho con tầm nhìn ngược trở về các đợt truyền pháp trước kia của các chân sư thăng thiên và nhìn kết quả của những lần ấy. Thày muốn mở rộng tầm nhìn thêm, trở về thời gian thày còn hiện thân và truyền pháp ở cõi vật lý cách đây 2,500 năm.

25.1. Tôn sùng Phật

Kinh điển nói là sau khi thày tu tập theo con đường khổ hạnh và nhận ra những hạn chế của nó, thày khám phá bát chánh đạo hay con đường đạo của Phật, và thày đạt niết bàn, thày giác ngộ. Nhiều, nhiều Phật tử, ngay cả bây giờ sau nhiều thế kỷ nhìn các điều này với tâm sùng bái. Hoặc họ cho rằng thày là sinh thể duy nhất đạt giác ngộ từ xưa tới nay, hoặc thày là sinh thể cao nhất hoặc thày đạt được một trạng thái giác ngộ tối hậu, tuyệt đối.

Nói cách khác, họ nghĩ trạng thái giác ngộ mà thày đạt được cách đây 2,500 năm là một trạng thái tuyệt đối, cao nhất có thể đạt được và không bao giờ vượt qua được. Tuy thế, nếu con xét đến hiện thực mà các thày truyền dạy cho các con về 144 tầng tâm tức, thì con có thể tự đặt câu hỏi: Khi thày đạt giác ngộ cách đây 2,500 năm, thì lúc đó thày đạt tới tầng tâm thức 144. Tầng tâm thức 144 cách đây 2,500 năm có giống y hệt tầng tâm thức 144 ngày nay chăng? Giờ đây, nếu câu trả lời là: “Đúng, giống y hệt nhau,” thì hệ quả là gì? À, hệ quả là hành tinh đã không tiến bộ gì cả trong 2,500 năm vừa qua. Hệ quả là giáo lý mà thày đã trao truyền 2,500 năm trước đây đã không nâng tâm thức của hành tinh lên và do đó đã không đạt được mục đích. Sự thực là tầng 144 ngày nay cao hơn rất nhiều tầng 144 vào 2,500 năm trước, hay 2,000 năm trước khi Giê-su đạt tầng đó, hay ngay cả khoảng 100 năm trước khi chân sư MORE và Kuthumi đạt được tầng này, và sẽ tiếp tục như thế.

25.2. Tâm thức được nâng lên như thế nào

Vậy thì điều gì nâng tầng tâm thức đó lên? À, trước tiên thì tâm thức tập thể được nâng lên và đây là khía cạnh omega. Chuyện này xảy ra khi đủ túc số tới hạn các cá nhân đã nâng cao tâm thức của họ và kéo theo 80% hay 90% thành phần thấp nhất và do đó tầng tâm thức thấp nhất được nâng lên. Cũng có thể có lúc tâm thức tập thể xoay chuyển và con người quyết định là họ không còn nhấp nhận một sự biểu hiện nào đó nữa. Hệ quả là tầng tâm thức thấp nhất được nâng lên và những người ở tầng tâm thức thấp nhất cũ không được phép hiện thân nữa.

Tuy nhiên điều gì nâng tầng tâm thức cao nhất lên? Ấy, một ai đó phải đạt được tầng 144 của thời của họ và sau đó tiến lên cao hơn trước khi thăng thiên. Đó là điều thày đã làm 2,500 năm trước đây, dù rằng thày nhập niết bàn ở tầng 144 của thời đó. Khi thày trở lại để làm sứ vụ giáo hóa, thày không trở lại với trạng thái tâm thức tuyệt đối. Trong những năm thày giáo hóa, thày vẫn tiếp tục tăng trưởng, tiến triển và thăng vượt chính mình. Thày nâng tầng 144 lên một mức cao hơn. Lẽ tất nhiên, Giê-su cũng làm như thế, các chân sư khác cũng làm như thế và đó là cách tầng 144 được nâng lên. Một số các con có tiềm năng góp phần vào tiến trình đạt tới tầng 144 trước khi con sẵn sàng rời thân vật lý, do đó vẫn tiếp tục tiến cao hơn khi còn hiện thân và nhờ vậy con giúp nâng tầng này lên.

Con thấy chăng là toàn bộ khái niệm cho rằng một giáo lý có thể tuyệt đối, một trạng thái tâm thức có thể tuyệt đối, hoàn toàn là một ảo tưởng, nó là màn huyễn của Maya, lẽ tất nhiên nó là phóng chiếu của sa nhân. Họ không thể thăng vượt chính họ và vì vậy họ không muốn ai khác thăng vượt chính mình. Họ đã chế ra đủ loại mánh khóe tinh xảo để khiến con người nghĩ rằng điều này bất khả thi. Họ muốn con nghĩ rằng thày đã đạt được một trạng thái tâm thức tối hậu, tuyệt đối, thày là một trường hợp ngoại lệ, không ai có thể tiến xa hơn thày. Họ cũng muốn con nghĩ rằng Giê-su đạt được một tầng tâm thức không ai làm theo được.

Trong 2,500 năm qua, quả thực đã có một số tương đối nhỏ cá nhân đã dùng giáo lý Phật giáo để cũng đạt tới tầng 144 và vượt quá tầng này. Một số người được biết tới trong truyền thống Phật giáo, một số người khác không được biết tới vì họ không có sứ vụ công cộng. Điều chắc chắn là khi thày nhìn trở về quá khứ, Phật giáo đã đóng góp vào sự tiến triển của tâm thức tập thể và nâng cao các tầng tâm thức.

25.3. Mỗi giáo lý đều nhắm tới một tầng tâm thức

Như vậy, khi con nhận ra là tâm thức ngày nay cao hơn tâm thức cách đây 2,500 năm (toàn bộ 144 tầng tâm thức đã dời lên cao hơn ngày trước) thì con cũng có thể thấy là giáo lý được trao truyền rất lâu trước đây thực sự đã được trao truyền cho một tầng tâm thức thấp hơn là tầng tâm thức trung bình ngày nay. Lẽ tất nhiên điều này phần nào cho thấy nhu cầu tiết lộ tuần tự. Điều này cũng cho thấy là bất cứ giáo lý được trao truyền ở một thời điểm nào cũng chỉ có thể được trao truyền cho một tầng tâm thức lúc đó. Điều này không có nghĩa là giáo lý được trao truyền cho tầng tâm thức trung bình hay tầng tâm thức thấp nhất, vì có một số giáo lý nhắm tới những người ở tầng 10% cao nhất.

Tuy nhiên, con luôn cần nhận ra rằng khi một giáo lý đặc trưng được trao truyền, chính yếu nó được trao truyền dựa trên tầng mức tâm thức của hành tinh vào thời điểm đó. Nếu giáo lý thành công, thì tâm thức sẽ xoay chuyển. Lý tưởng thì chuyện gì sẽ xảy ra sau đó? À, trong hoàn cảnh lý tưởng thì có một số người hấp thu giáo lý đó, dùng giáo lý để đạt tầng tâm thức 144. Sau đó họ trở thành dụng cụ để đem lại một giáo lý mới, hay đem lại một khía cạnh mới của giáo lý cũ, một cách diễn giải mới về giáo lý cũ. Do đó, họ có thể đem lại một giáo lý thích ứng với tầng tâm thức mới đã được đạt tới nhờ giáo lý cũ. Lẽ tất nhiên, điều này cũng có nghĩa là trong hoàn cảnh lý tưởng, tiến trình tiết lộ tuần tự không bao giờ ngưng. Điều này cũng có nghĩa là một điều đáng buồn (nếu chúng ta muốn dùng từ ngữ này) là khi các môn đồ của một giáo lý trở nên giáo điều, đóng tâm lại với bất cứ điều gì mới và do đó họ trở nên công cụ quả thực phá hủy hiệu lực của giáo lý. Họ không cho phép giáo lý thăng vượt.

Khi thày truyền pháp 2,500 năm trước đây, con thấy (nếu con đọc một số kinh điển) là thày kể một câu truyện hay một giai thoại. Sau đó cũng giai thoại này, dùng cùng lời lẽ, được nhắc lại ba lần. À, điều này cần thiết vì sự dày đặc của tâm thức vào thời điểm đó và cũng vì thời đó không có văn bản ghi lại. Lúc đó chỉ có truyền thống truyền khẩu và thay vì con người có một văn bản để đọc nhiều lần thì họ nghe ba lần và nhờ vậy nắm bắt rõ hơn. Điều này dẫn tới một đề tài mà thày muốn đề cập là đề tài lặp đi lặp lại.

25.4. Các chân sư có lặp đi lặp lại không?

Các thày có bao giờ lặp đi lặp lại khi trao truyền các bài truyền giảng chăng? Một số các con sẽ nói ngay tức khắc: “Có, các thày thường nói về cùng đề tài, các thày thường trao truyền một giáo lý gần như y hệt giáo lý đã được dạy trước đó.”

Ấy, con yêu dấu, vậy các thày lặp đi lặp lại không? Hay các thày luôn luôn trao truyền một giáo lý dựa trên tâm thức lúc đó và tâm thức người đón nhận – những người mà các thày nhắm tới. Khi con nhìn trái đất, thì con thấy sự chuyển động không ngừng của khuôn đúc rất rất phức tạp của tâm thức đại chúng, cũng như là của tâm thức cá nhân của tất cả những người ở trên một tầng tâm thức nào đó – tầng thứ 48. Những người ở dưới tầng này thường không chuyển động hay họ chuyển động theo tâm thức đại chúng vì họ bị tâm thức đại chúng chế ngự.

Khi con đi lên trên tầng 48, con bắt đầu giành lại được cá tính của con và điều này có nghĩa là con luôn luôn di động. Nếu con có thể nhìn một hình ảnh biểu trưng cho trái đất ở tầng tâm thức, thì con sẽ thấy một mô hình vô cùng phức tạp những dòng sóng năng lượng và hình ảnh. Để minh họa điều này (thày nhấn mạnh đây là một minh họa, không hoàn toàn sát sự thật và chính xác), ta có thể nói là tâm thức tập thể trên trái đất trông giống mô hình rất tinh vi của những sóng năng lượng đang rung động để tạo thành một số hình ảnh. Giống như con người có thể có hình ảnh trong tâm họ, tâm tập thể cũng có thể có hình ảnh. Nó giống như mấy tấm hình chụp mà từ xa trông như một tấm hình nhưng khi lại gần thì con thấy là hình lớn được tạo thành từ nhiều hình chụp nhỏ riêng rẽ. Ta cũng có thể so sánh nó với khái niệm ảnh ba chiều (hologram), duy có điều là tất cả những hình nhỏ tạo nên tổng thể không giống nhau vì những nhóm người khác nhau và những cá nhân khác nhau có những hình ảnh khác nhau, ít nhất là khác nhau một chút, ở trong tâm họ. Đây là một tấm hình vô cùng phức tạp. Giờ đây, nếu con thấy được nó, con sẽ thấy là nó không bao giờ đứng yên, nó luôn luôn di động. Nói cách khác, đây là một tiến trình. Có lúc đi lên, có lúc đi xuống, nhưng không bao giờ đứng yên.

Sẽ không bao giờ có trường hợp con có thể chụp một bức hình của tâm thức tập thể và hai giờ đồng hồ sau con chụp lại và có cùng một tấm hình. Con có thể chụp tấm hình với khoảng thời gian ngắn nhất và tốc độ màn trập ngắn nhất mà máy hình của con có thể làm được, giả dụ như một phần 5,000 của một giây. Ngay sau đó con chụp lại và hai tấm hình sẽ không giống nhau. Mọi chuyện di động nhanh đến độ đó. Khi các thày trao truyền một bài truyền đọc, nó dựa trên phương trình rất phức tạp đang hiện hữu trong tâm thức tập thể của toàn thể, nhưng đặc biệt hơn là trong tâm thức tập thể của nhóm người mà các thày đang hướng dẫn.

Giờ đây, những người nghe bài giảng hay đọc bài giảng, nếu họ thực hiện tiềm năng cao nhất của bài giảng thì họ dùng bài giảng để xoay chuyển tâm thức của họ. Điều này có nghĩa là một khi họ cho phép tâm xoay chuyển, thì phương trình của tâm thức đại chúng lẫn tâm thức nhóm và tâm thức cá nhân đều xoay chuyển. À, lẽ tất nhiên, ngày nay ta có công nghệ cho phép con thu âm bài truyền đọc và in nó ra. Con có thể đọc bài truyền đọc lần đầu tiên, con có thể hấp thu nó ở mức cao nhất mà con có thể có ở tầng tâm thức hiện hành của con. Con có thể trải nghiệm sự xoay chuyển và lúc đó phương trình tâm thức của con đã xoay chuyển. Sau đó, con có thể trở lại, đọc bài truyền đọc lần thứ nhì, và dù các từ ngữ vẫn y hệt như trước, nhưng trải nghiệm của con khi đọc lần thứ nhì không giống trước vì tâm con đã xoay chuyển khi đọc lần đầu. Có nghĩa là lần thứ nhì này con có thể hấp thu điều gì đó mà con không hấp thu lần đầu.

Thày không nói là lần đầu tiên con đọc một bài truyền đọc, thì con cần rút tỉa được hết mọi thứ theo khả năng của mình. Thày chỉ muốn nói là con cần cho phép bài truyền đọc xoay chuyển tâm thức của con, để con có một trải nghiệm xoay chuyển. Nếu con làm vậy, con có thể đọc trở lại cùng bài truyền đọc đó (năm phút sau đó hay năm tháng sau đó) và con sẽ không có cùng trải nghiệm. Có nghĩa là con có thể xoay chuyển tâm thức lần thứ nhì, nắm bắt nhiều hơn từ bài truyền đọc và có nghĩa là lần thứ ba con cũng có một trải nghiệm khác và tiếp tục như thế. Điều này có thể tiếp tục xảy ra trong một thời gian dài cho nhiều người trong các con. Điều này có nghĩa là khi con tới điểm con đọc một bài truyền đọc và con không cảm thấy xoay chuyển thì có thể có hai nguyên do. Một là con đã rút tỉa được hết những gì con có thể lấy được từ bài truyền đọc đó vào lúc này và do đó con cần học cái gì khác để tiếp tục xoay chuyển tâm thức. Nguyên do thứ hai là con đã đóng tâm lại vì con cảm thấy là con đã biết điều mà bài truyền đọc đang cố nói.

Giờ đây, ta lấy trường hợp con không nghe lại cùng một bài truyền đọc nhưng con nghe các thày trao truyền một bài truyền đọc khác nói về cùng một số khái niệm. Một lần nữa câu hỏi là: Con có xoay chuyển tâm thức khi nghe bài truyền đọc đầu tiên trong đó các thày đề cập đến chủ đề đó? Nếu con có xoay chuyển, thì con có thể nghe bài truyền đọc thứ nhì và sẽ rút tỉa được điều gì mà con không rút tỉa được khi nghe bài đầu. Do đó, con thực sự không cảm thấy là các thày đang lặp đi lặp lại.

25.5. Sự phức tạp của các bài truyền đọc

Con nhận ra rằng trong buổi hội nghị này, những người trong các con thực sự muốn mở tâm với các thông điệp mà các thày trao truyền, với năng lượng mà các thày tỏa xuống, thì các con đã xoay chuyển tâm thức nhiều vô cùng. Điều này có nghĩa là nếu con quay trở lại và nghe lại bài truyền đọc đầu tiên của thày Quan Âm, thì con sẽ rút tỉa được nhiều hơn từ bài này so với lần con nghe trực tiếp. Đó là vì bài truyền đọc kích động tiến trình xoay chuyển dẫn con tới tình trạng hiện hành.

Giờ đây một lần nữa, các thày thực sự không bao giờ lặp đi lặp lại cho dù các thày dùng từ ngữ rất tương tự và nói về cùng các khái niệm. Trong một số trường hợp, đó là vì các thày quả thực đang nói chuyện với một cử tọa khác một chút. Có thể nói là một số điều mà các thày đã nói trong hội nghị này đã được nói ra vì các thày ở một vị trí địa dư đặc thù và đang nói với những người sống trong khu vực này, là vùng Á châu nới rộng.

Giáo lý các thày không bị giới hạn bởi vị trí địa dư. Có một số yếu tố trong các bài truyền đọc được trao truyền trong hội nghị này thích nghi cho riêng vị trí địa dư này. Một số yếu tố khác thích ứng với sự kiện là ngay cả trong khoảng thời gian tương đối ngắn từ khi giáo lý về ngã gốc được trao truyền ở Estonia, đã có sự xoay chuyển, không những trong tâm thức tập thể mà cũng có trong tâm thức của nhóm đệ tử. Những đệ tử đã thu nhập những bài truyền đọc này và áp dụng chúng, đã góp phần lớn tạo nên sự xoay chuyển đó.

Điều mà các thày trao truyền bây giờ dựa trên phương trình rất phức tạp đang có mặt bây giờ và ở đây. Lẽ tất nhiên các con không trải nghiệm nó vì sẽ bị choáng ngợp. Các thày thực sự trải nghiệm nó khi các thày lên kế hoạch trao truyền một bài truyền đọc. Đó là lý do tại sao thày giản dị cho con biết để con biết các thày làm việc như thế nào, tại sao đôi khi các thày nói về cùng các khái niệm nhưng từ những góc độ khác. Con hầu như có thể nói là tuy các từ ngữ giống nhau, nhưng khuôn đúc, hình học trên các cõi cao hơn (cõi tình cảm, lý trí và bản sắc) có thể rất khác. Điều này có nghĩa là từ tầm nhìn của các thày, các thày thấy rõ ràng những khác biệt và các thày cũng thấy là đôi khi từ ngữ chủ yếu là chén thánh để các thày rót những khuôn đúc hình học vào ba thể cao hơn.

25.6. Lạm dụng một giáo lý tâm linh

Giờ đây, chúng ta lấy giáo lý này và nhìn trở về khoảng thời gian 2,500 năm từ khi thày giảng Kinh Pháp Cú và Bát Chánh Đạo. Điều đạt được, lẽ tất nhiên, là có sự xoay chuyển tâm thức nhưng sự xoay chuyển này không đạt được tiềm năng cao nhất – tại sao vậy?  À, lý do chính là lúc nào cũng có một nhóm đệ tử có khuynh hướng dùng giáo lý với tâm đường thẳng, phân tích. Họ muốn phân tích giáo lý, đặt giáo lý vào một bối cảnh đường thẳng hay dòng thời gian. Họ đã làm điều mà các chân sư khác đã nói tới trong hội nghị này: họ dùng giáo lý để xác chứng và củng cố các ngã tách biệt mà họ đã tạo ra do chấn thương nhập đời.

Các avatars luôn luôn muốn hiểu, và đây là một mong muốn lành mạnh và chính đáng. Điều con cần nhận ra là mong muốn này có thể bị pha màu và thậm chí bị phá hoại bởi các ngã tách biệt này. Một số ngã có nhu cầu kiểm soát để chúng có thể tin là bây giờ chúng đã tìm thấy một giáo lý tuyệt đối giải thích sự vận hành của vũ trụ, đây có thể là pháp Phật hay Cơ đốc giáo, Hồi giáo, thuyết Cộng sản, thuyết duy vật hay bất cứ gì khác.

Sau đó họ sẽ dùng giáo lý trước để xây dựng ý niệm giáo lý này tuyệt đối. Lẽ tất nhiên, tâm đường thẳng và phân tích yêu thích điều này. Do đó, không những họ phá hoại sự tiến triển của chính họ, nhưng (ta có thể nói như vậy) khi những đệ tử này trở thành giáo sĩ đoàn của một tôn giáo, thì họ có thể phá hoại sự tiến triển của toàn bộ phong trào bằng cách cản trở sự thăng vượt của giáo lý. Đây là điều con đã thấy xảy ra với nhiều tôn giáo và đó là lý do vì sao con thấy thày thách thức các thày Bà la môn của Ấn giáo. Con cũng thấy Giê-su thách thức các thày Thông giáo và Pha-ri-si của Do thái giáo.

Mục đích của thày là chỉ cho các con, những đệ tử chân sư thăng thiên, là đây chỉ là khuynh hướng của một số ngã tách biệt, hoặc muốn đặt mọi chuyện trong một bối cảnh tuyệt đối, hoặc muốn an toàn, hoặc muốn có cảm giác là mình quan trọng hay đã đạt được thành quả nào đó. Bất cứ điều gì ngã vỏ ngoài cần, nó có thể dùng tâm đường thẳng. Kết quả là bắt đầu từ thời điểm 2,500 năm trước (lẽ tất nhiên từ cả trước đó từ thời Ấn độ giáo và suốt tận các tổ chức chân sư thăng thiên), các thày đã thấy một tỷ lệ đệ tử có tâm thức này: họ mở tâm với giáo lý nhưng họ tiếp cận giáo lý bằng tâm vỏ ngoài, phân tích, tâm rất đường thẳng tất nhiên bị pha màu bởi các ngã. Tâm đường thẳng rất nhạy cảm với sự lặp đi lặp lại vì tâm đường thẳng, tất nhiên, mang tính chất đường thẳng vì nó có một dòng thời gian. Nó luôn luôn so sánh hiện tại với quá khứ và trong một số trường hợp phóng chiếu tới tương lai.

Khi tâm đường thẳng gặp một giáo lý tâm linh, thì nó rút tỉa từ đó những gì nó rút tỉa được, chủ yếu là một hiểu biết vỏ ngoài, trí năng, thuận lý, lý luận. Nó dùng hiểu biết này để phân tích giáo lý, phân rẽ nó thành nhiều thành phần và nói: “Được rồi, phần này đi vào danh mục này trong kho dữ liệu của tôi, phần kia đi vào danh mục kia.” Lúc đó, khi người đệ tử nghe một giáo lý khác nói về những khái niệm tương tự, tâm đường thẳng sẽ nói: “Ồ, tôi không cần cất ý niệm này vào danh mục vì tôi đã có nó trong kho dữ liệu rồi, đây là một sự lặp lại.” Nó lờ khái niệm đó, nó không nhận ra điểm vi tế là khái niệm này được giảng một cách khác. Tâm đường thẳng không thể nhận ra bất cứ điểm gì mới mẻ khi nghe lại.

Đó là lý do vì sao con có những đệ tử trong mọi tổ chức chân sư thăng thiên, trong mọi tôn giáo và triết lý thần bí khác mà các thày đã trao truyền (lẽ tất nhiên trong cả những giáo lý mà các thày không trao truyền, nhưng do sa nhân và đoàn chưởng giáo giả chế ra). Các thày đã thấy các đệ tử đó đi vào trạng thái tâm cho phép họ tới điểm cảm thấy: “Giờ đây, tôi nắm được căn bản của giáo lý.” Kể từ đó, trên cơ bản họ ngưng tiến triển. Hoặc nếu có điều mới lạ hiện ra mà họ chưa có trong kho dữ liệu thì họ sắp xếp nó vào một danh mục. Người đệ tử sẽ tới điểm cảm thấy: “Tôi đã hiểu được khuôn đúc tổng thể của giáo lý.” Kể từ điểm đó, họ nghĩ là tất cả mọi điều khác được giảng sau đó chỉ là chi tiết phải phù hợp vào khuôn đúc tổng thể đó.

25.7. Sơ tâm

Tuy nhiên, con yêu dấu, khi con cho phép mình tạo ra khuôn đúc đó trong tâm (là bây giờ con đã nắm được căn bản của giáo lý), thì điều con nắm được dựa trên tầng tâm thức hiện hành của con. Nó không là – nó không là – hiểu biết và trải nghiệm cao nhất. Quả thật, sự khác biệt giữa các đệ tử đến với một giáo lý, sau đó ngưng tiến triển và dậm chân tại chỗ và các đệ tử vẫn tiếp tục tiến triển là các đệ tử loại thứ hai không dính mắc vào chuyện nắm bắt tổng thể giáo lý. Họ quả thực sẵn sàng tiếp cận giáo lý với cái tâm mà Giê-su gọi là tâm trẻ thơ hay người Phật tử gọi là Sơ tâm (tâm của người bắt đầu), cái tâm nhìn mọi sự như mới.

Thoảng hoặc, con cho phép mình bỏ qua bên cái mà con nghĩ là sự nắm bắt cơ bản hay nắm bắt tối hậu giáo lý. Con cho phép mình vào trạng thái tâm trung hòa và con đọc và nghe giáo lý như mới. Lúc ấy con sẽ nhận được một điều gì ngay cả từ một giáo lý mà con đã đọc trước kia nhưng chưa nhận được điều đó. Đó là lúc giáo lý, ngay cả khi con đã đọc nó nhiều lần, có thể tạo sự xoay chuyển tâm con. Nói cách khác, sự lặp lại (mà một số đệ tử nhận thấy) ở trong tâm chân sư thăng thiên hay trong tâm người đệ tử?

Thày góp ý với con là câu trả lời thật sự không quan trọng. Vì điều quan trọng là sự tiến triển hay không tiến triển của con không nằm trong tâm các chân sư thăng thiên – nó nằm trong tâm của con. Điều này nghĩa là gì? Nó có nghĩa là, như các chân sư khác đã gợi ý, khi con khắc phục được ngã gốc và các ngã tách biệt khác phát xuất từ nó, thì con thật sự có thể thăng vượt tâm đường thẳng, phân tích. Con không còn nhu cầu phải kiểm soát hết mọi thứ, phải có nắm bắt căn bản về vũ trụ. Lúc ấy con có thể tiếp cận giáo lý với một mức độ tự do cao hơn trước kia nhiều vì con không bị pha màu bởi các ngã tách biệt này.

25.8. Các ngã tách biệt sợ giáo lý mới

Trên cơ bản, tất cả các con có thể thấy là ở một số điểm trên con đường tu, con đã nhận được một giáo lý mới khuấy động điều gì đó trong con, kích động điều gì đó trong con. Thí dụ, khi Giê-su giảng về tự ngã, thì một số đệ tử bị kích động bởi các bài giảng này. Thậm chí có một số đệ tử sợ phải đọc bài giảng kế tiếp về tự ngã vì tự ngã của họ lo sợ bài giảng sẽ phơi bày khía cạnh đó của tự ngã.

Con sẽ luôn luôn có khuynh hướng là ngã tách biệt cảm thấy nó đang kiểm soát con và đường tu của con, và nó sợ một giáo lý mới có thể đe dọa cảm giác nó đang làm chủ tình hình. Nếu con nhận ra điều này trong con, thì con chỉ cần dùng các dụng cụ mà các thày đã trao truyền để bước lui lại và nhận ra đây chỉ là một ngã tách biệt đang cảm thấy như vậy. Đây không phải là con vì con không thể bị đe dọa bởi bất cứ điều gì có thể giúp con vượt thăng chính mình. Cái Ta Biết, khi nó ý thức bản thể thực của nó, không thể bị đe dọa bởi bất cứ giáo lý nào.

25.9. Từ kết quả tới tiến trình

Khi con đã khắc phục được ngã gốc và các ngã khác, thì con có thể tiến tới điểm con có tiềm năng xoay chuyển. Các chân sư khác đã đặt nền móng, đã nói về điều này và thày không có gì nhiều hơn để nói thêm ngoại trừ chỉ cho con thấy sự xoay chuyển là con chuyển từ chú tâm vào kết quả sang chú tâm vào tiến trình. Các thày đã trao cho các con giáo lý là con bắt đầu (đa số các con) như những avatars trên các hành tinh tự nhiên. Con bắt đầu với một ý niệm bản ngã giới hạn. Con đã mở rộng nó bằng cách thử nghiệm khả năng đồng-sáng tạo của con. Nhiều người trong các con đã xây dựng một động lượng mạnh mẽ hình dung một hoàn cảnh hay hình thể nào đó trong cõi vật lý và sau đó thị hiện hình thể đó.

Quả thực con đã xây dựng một động lượng mạnh mẽ khiến vật chất tuân theo những hình ảnh và khuôn đúc trong tâm con. Con đã tu tập để đạt được tâm làm chủ vật chất. Khi con nhìn xuống trái đất và thấy sự đau khổ, thì con nghĩ: “Tôi muốn xuống dưới đó và thị hiện một kết quả tích cực để giải thoát con người khỏi khổ đau.” Các chân sư khác đã nói là động cơ nguyên thủy đưa con xuống đây không phải là động cơ cao nhất. Để thực sự có tự do thăng thiên, con cần xét lại động cơ của con dựa trên tâm thức cao hơn mà con có bây giờ. Qua đó, con buông bỏ động cơ lúc trước và các niềm tin đằng sau nó. Như một avatar thì niềm tin chính mà con cần buông bỏ để thăng thiên là gì? À, đó là con cần xoay chuyển từ chú tâm vào thành quả sang chú tâm vào tiến trình.

Các thày có nói với con là trên cõi thăng thiên có sự phát triển không ngừng, và con có thể tiến triển đến tận tâm thức Đấng Sáng tạo. Các thày có nói là không ai trên trái đất sẽ đạt được trạng thái giác ngộ tối hậu mà sau đó không thể tiến triển nữa. Con hãy tự hỏi: “Đấng Sáng tạo đã tạo ra cái gì? Phải chăng là một kết quả, một kết quả cố định, hay một tiến trình kéo dài mãi mãi, mãi mãi?” Lẽ tất nhiên câu trả lời là Đấng Sáng tạo không chú tâm vào việc tạo một kết quả mà chú tâm vào tiến trình. Đấng Sáng tạo đã tạo ra vũ trụ để tạo thuận lợi cho tiến trình này. “Tiến trình nào?,” con có thể hỏi. Tiến trình tự thăng vượt, mà các thày đã gọi là Dòng sông sự Sống.

Tâm đường thẳng sẽ hỏi: “Ấy, nhưng sự thăng vượt hàm ý có sự chuyển động từ một giai đoạn lên giai đoạn kế tiếp. Nếu tôi cứ tiếp tục hết đoạn đường phía trước, thì sẽ phải tới một điểm tối hậu của sự thăng vượt nơi tôi đạt đến tầng tối hậu và không thể thăng vượt nữa. Nếu tôi phóng chiếu ngược về sau, phải có một điểm mà trước đó không có thăng vượt vì thăng vượt khởi sự ở đó lần đầu tiên.” Con yêu dấu, đây là giới hạn chính của tâm đường thẳng. Dòng sông sự Sống không có khởi đầu và không có kết thúc. Tâm đường thẳng sẽ không bao giờ nắm được điều này. Các ngã tách biệt mà con đã tạo ra trên trái đất sẽ không bao giờ nắm được điều này. Cái Ta Biết có thể nắm điều này. Nó không thể hiểu, con không thể hiểu là không có khởi đầu, không có kết thúc nhưng con có thể trải nghiệm, con có thể trải nghiệm dòng chảy và sự liên tục của dòng chảy.

25.10. Làm sao các avatars có thể ngăn chặn sự thăng thiên của mình

Con có tiềm năng dùng các giáo lý và dụng cụ để xoay chuyển, và sự xoay chuyển này là chuyển từ chú tâm vào kết quả sang chú tâm vào tiến trình. Tại sao điều này lại quan trọng nhiều như vậy? Bởi vì, con yêu dấu, các thày đã nói gì về sự thăng thiên? Con tới điểm con đứng trước cánh cổng dẫn vào cõi thăng thiên. Nếu con bước qua thì con thăng thiên, nhưng để có thể bước qua, con phải quay đầu nhìn lại trái đất để xem có điều gì thu hút con trở lại không.

Chuyện gì xảy ra nếu con xuống trái đất như một avatar với viễn quan muốn đạt một kết quả nào đó nhưng con vẫn chưa đạt được kết quả đó? À, như vậy làm sao con thăng thiên được? Câu trả lời đơn giản là: Con không thể! Điều này có nghĩa là con có thể tới điểm là trong mọi diện khác con đã hội đủ điều kiện thăng thiên. Nhưng trong lãnh vực đặc biệt này con chưa hội đủ điều kiện vì con chưa chịu thua, con chưa buông bỏ, con chưa bỏ đi sự dính mắc muốn đạt kết quả đó trên trái đất.

Điều này cũng có nghĩa là con đang cho phép sự thăng thiên của con tùy thuộc vào chọn lựa của người khác trên trái đất, khi họ ở trong trạng thái tâm thức thấp hơn con rất nhiều. Hiển nhiên, lý do tại sao con không tạo được kết quả mong muốn trên trái đất là vì những người khác không muốn thay đổi. Điều này có nghĩa là trong vị thế một avatar, con nay có thể rơi vào tâm thức sa ngã và bước ra tìm cách ép uổng người khác phải thay đổi, nhưng lẽ tất nhiên, làm điều này sẽ không cho phép con thăng thiên.

Con cũng có thể đi vào trạng thái không biết phải làm gì. Con như đang lơ lửng trong trống không, con đang di động thì bị khựng lại, như người ta nói. Con quả thật có thể ngồi yên một thời gian (thậm chí trong nhiều kiếp sống) không biết làm sao giải quyết bài toán bí ẩn là có điều gì trên trái đất mà con không thể để dở dang được.

Con thấy chăng ở đây câu hỏi trọng yếu cho người avatar? Con nghĩ rằng (hay ít nhất con có khuynh hướng nghĩ như vậy cho tới khi con khắc phục được các ngã gốc) điều duy nhất đưa con tới trái đất là để làm dịu nỗi đau khổ ở đây và đem lại một thay đổi tích cực. Con cảm thấy nếu con không tạo được sự thay đổi đó, thì có thể là con đã lầm lẫn khi tới đây, có thể là con đã lãng phí thời giờ, có thể là con không thể rời nơi đây, hay bất cứ điều gì khác. Con bất an, con không toại nguyện. Cách duy nhất để con thăng thiên như một avatar, không phải là con thành tựu viễn kiến ban đầu khi xuống đây, nhưng là con thăng vượt nó, con tiêu tán nó, con vứt nó đi, con buông bỏ nó, con không dính mắc với nó, con cho cái ngã chết đi và con nói: “Nó có đáng gì đâu đối với con? Con sẽ đi theo thày – Giê-su, Phật, Saint Germain, thày MORE,” hay bất cứ ai mà con xem là vị thày riêng của con. 

Bằng cách dùng các giáo lý về ngã gốc, con có thể tới điểm giải quyết vấn đề. Người sứ giả này đã trải nghiệm điều này sau nhiều tháng làm việc với các giáo lý này. Trong ông có sự xoay chuyển và bỗng nhiên ông nhận ra, ông trải nghiệm, ông hoàn toàn chấp nhận: “Tôi không phải làm gì hết trên trái đất.”

Điều này không có nghĩa là con thăng thiên ngay tức khắc. Con có thể tiếp tục hiện thân, con có thể sống một cuộc đời năng động. Thậm chí, con có thể, từ một nhãn quan vỏ ngoài, làm nhiều chuyện nhưng con không hành động qua sự pha màu của ngã gốc và các ngã khác nữa. Các ngã này cảm thấy con phải làm điều gì đó, con phải thành tựu điều gì đó, việc con tới trái đất phải đáng công sức mình. Việc con tới trái đất đã đáng công sức con vì con đã xoay chuyển tâm thức và như các thày khác đã nói, đây chính là mục đích cao hơn. Khi con làm hòa với điều này, đấy là lúc con đã đạt được một phần của quả vị Phật, nếu ta có thể nói quả vị Phật có nhiều mức độ.

25.11. Là Phật hành động

Lúc đó, con có thể là Phật hành động trên trái đất nhưng điều này không thể xảy ra cho tới khi con khắc phục điều mà ta có thể gọi là sự dính mắc gốc đó. Thày mong muốn có thể trao truyền giáo lý này 2,500 năm trước đây nhưng không làm được lúc ấy vì phương trình của khuôn đúc trong tâm thức tập thể chưa sẵn sàng. Bây giờ thì nó đã sẵn sàng. Lẽ tất nhiên, dù các thày nhấn mạnh nhiều đến các giáo lý này tại hội nghị này và hội nghị trước, không có nghĩa là tất cả mọi người đã sẵn sàng nhận các giáo lý này.

Con có thể nhìn đoàn đệ tử theo học giáo lý được trao truyền qua người sứ giả này và các giáo lý chân sư thăng thiên khác, và không phải tất cả đệ tử đều sẵn sàng nhận giáo lý về ngã gốc. Họ chưa áp dụng hết các giáo lý trước bởi vì, như các chân sư khác đã nói, các thày đã cẩn thận xây dựng để tới mức có thể trao truyền các giáo lý này. Con cần có giáo lý về tự ngã. Con cần có giáo lý về nhị nguyên và tư duy cuồng đại. Con cần có giáo lý về 144 tầng tâm thức. Con cần có khái niệm về xoay chuyển lên cao hơn, khắc phục các phàm linh nội tại và tự ngã tách biệt và do đó xoay chuyển từ một tầng tâm thức lên tầng trên.       

25.12. Mơ mộng một giáo lý cao hơn

Một lần nữa, sẽ có những đệ tử sẽ dùng tâm vỏ ngoài để quyết định: “Chúng tôi cần những giáo lý này và cần chúng ngay bây giờ.” Nhưng họ có thể chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý vì họ chưa dùng đủ các giáo lý mà họ đã có rồi, họ chưa xoay chuyển tâm thức đủ. Nói chung, con có thể nói là điều mà các thày thấy (khi nhìn lại khoảng thời gian 2,500 năm qua và xa hơn nữa) là lúc nào cũng có một số đệ tử không nắm bắt được cơ chế căn bản mà thày mô tả ở đây: Là con cần lấy một giáo lý và cho phép nó xoay chuyển tâm thức của con.

Chỉ khi nào con làm xong điều đó thì con mới sẵn sàng nhận giáo lý cao hơn. Sẽ luôn luôn có một nhóm đệ tử rơi vào trạng thái tâm cảm thấy chút ít bực bội vì họ biết trong nội tâm là họ đã không tiến triển tới mức có thể đạt được với giáo lý mà họ đã có. Thay vì chịu nhìn vào chính mình và nhận ra lý do vì sao họ không tiến triển, thì họ đổ lỗi rằng lý do họ không tiến triển là vì có một giáo lý cao hơn mà họ chưa được nhận. Phải chi họ có được giáo lý cao hơn đó, thì sau đó họ sẽ sáng ngộ, họ sẽ tiến bộ. Đây là một vòng xoáy bất tận.

Các thày đã thấy một số người đến với một giáo lý chân chính, đón nhận giáo lý này, đạt tiến bộ nhưng sau đó dậm chân tại chỗ, không muốn tiến xa hơn vì họ không muốn xoay chuyển để đi vào con đường tu nội tâm và nhìn chính mình. Họ ngưng trệ và họ đứng tại chỗ. Đôi khi họ trở nên bực bội, cảm thấy mình là nạn nhân, hay trách cứ người khác về chuyện họ không có giáo lý. Thậm chí họ trách cứ vị đạo sư đã không thăng tiến đủ vì đây là lý do vì sao họ không thăng tiến được. Hoặc họ chỉ trích giáo lý, chỉ trích những người khác. Hoặc, như các chân sư khác đã nói, họ cảm thấy vì họ đã học giáo lý từ lâu, nên chắc chắn họ đã đạt tới một tầng cao. Do đó, họ cảm thấy có quyền phê phán và dùng tia màu xanh để tấn công những người mới tới học.

Tất cả những tình huống này có thể xảy ra nhưng con yêu dấu, con thấy chăng, sự thật là như sau. Nếu con đổ lỗi cho người thày, giáo lý, người khác, điều kiện vật lý, chiêm tinh, sa nhân, thời tiết hay cái này cái nọ – khi con còn chỉ tay đổ lỗi cho cái gì ở bên ngoài, nghĩ rằng sự tiến bộ của con tùy thuộc vào điều kiện bên ngoài, thì con chưa hoàn toàn đi theo con đường tu nội tâm. Nếu con chưa hết lòng theo con đường tu nội tâm, thì con chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý về ngã gốc – con chưa sẵn sàng nhận các giáo lý này. Con hãy đoan chắc là con đã nắm bắt ý nghĩa của con đường tu nội tâm, hết lòng đi theo nó, sẵn sàng nhận trách nhiệm về đời mình và nhìn vào tâm mình trước khi con nhận các giáo lý này.

Lẽ tất nhiên, các thày trao truyền các giáo lý này vì quả thực có một số đông đệ tử đã theo học các giáo lý và áp dụng chúng một thời gian, và họ sẵn sàng. Cho nên, các thày rất hân hoan, các thày rất, rất biết ơn là các con đã nâng mình lên tới điểm có thể nhận các giáo lý này và đồng thời là dụng cụ để lan tỏa các xung lực này vào tâm thức đại chúng.

Khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày xuất hiện – nghĩa là khi đệ tử chưa sẵn sàng thì vị thày không thể xuất hiện. Niềm vui lớn nhất của chân sư thăng thiên là gì? Là có thể xuất hiện và trao truyền giáo lý. Niềm biết ơn lớn nhất mà các thày có là gì?  Đó là khi các đệ tử đã làm cho họ sẵn sàng, cho phép các thày xuất hiện với một giáo lý mới. Các con yêu dấu, thày có lòng biết ơn sâu xa với các con vì các con đã làm như vậy. Các thày biết ơn các con vì có hội nghị này. Tất cả các con, những người tổ chức hội nghị cho đến những người tham dự, các thày biết ơn tất cả các con. Trong ngọn lửa Biết ơn này, lòng biết ơn của tâm Phật, thày niêm các con và thày niêm hội nghị này trong tình yêu của tim thày.

19 | Rút không gian khỏi một số điều kiện mất quân bình

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 21/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Một vị Phật có thể thêm gì cho cuộc thảo luận về Sứ vụ Thiêng liêng? Có thể có một vài đệ tử của chân sư thăng thiên mang trong Sứ vụ của mình tiềm năng biểu hiện ít nhất một mức độ nào đó của quả vị Phật trong kiếp này. Tuy nhiên, nhiều người đã sẵn sàng biểu hiện quả vị Phật từ các kiếp trước sẽ không cần đến một lời dạy vỏ ngoài, họ sẽ không đi tìm một giáo lý vỏ ngoài hay một vị thày vỏ ngoài. Dẫu sao, thày sẽ vẫn trao cho con một vài ý nghĩ về sự khác biệt giữa quả vị Phật và quả vị Ki-tô.

19.1. Hơi thở ra và hơi thở vào

Mặc dù cách đây không lâu các thày đã có đề cập ở một mức độ nào đó, điều thày muốn trình bày ở đây là quả vị Ki-tô là một hoạt động hướng ngoại hơn. Quả vị Phật là một hoạt động hướng nội hơn. Con có thể nói quả vị Ki-tô là hơi thở ra và quả vị Phật là hơi thở vào. Khi con đến hành tinh này trong tư cách avatar, con ở giai đoạn quả vị Ki-tô. Theo một nghĩa nào đó, con thở ra chính bản thân con để hiện thân trên trái đất.

Nhiều các con hiện đang ở trong giai đoạn hướng nội. Theo một nghĩa nào đó, tất cả các con đều ở trong giai đoạn hướng nội khi con lại hít vào chính bản thân mình cho thoát khỏi đủ loại vướng mắc với thế gian này. Đúng là một số các con, như đã nói, có thể chọn ở lại trong đầu thai hầu đóng góp cho Thời đại Hoàng kim của Saint Germain. Tuy vậy, để đạt tới điểm có khả năng hoàn thành tiềm năng đó, con đang đi qua giai đoạn thở vào, con đang rút mình ra khỏi các vướng mắc vào các hoàn cảnh nghiệp tạo, lựa bỏ ra những điều đang khiến con xao lãng Sứ vụ Thiêng liêng của mình, và trước tiên hết, giải quyết chấn thương nhập đời của con để ở trong một tâm thái trung hòa.

Chúng ta có thể nói, theo một nghĩa nào đó, rằng quả vị Phật và quả vị Ki-tô có thể đơn giản được xem là những cấp độ khác nhau của cùng một quá trình tiến hóa. Như các thày đã giảng nhiều lần, con không cần phải toàn hảo để biểu hiện quả vị Ki-tô. Toàn hảo nghĩa là gì? Theo một nghĩa nào đó, nó có nghĩa là con không cần phải giải quyết hoàn toàn tâm lý của con, kể cả chấn thương nhập đời, để bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô. Điều các thày đã bày tỏ là con không nên sợ biểu lộ quả vị Ki-tô, và con cần khởi sự làm vậy mà không nghĩ mình đã đạt đến một giai đoạn tối hậu nào đó. Tất nhiên cũng thế, quả vị Phật – bất kể những gì đã được tôn giáo đạo Phật phóng chiếu ra – cũng không phải là giai đoạn tối hậu. Các thày đã nói, không có gì xảy ra trên trái đất là tối hậu. Ngay cả cõi thăng thiên cũng mang tính liên tục không ngừng, thì làm sao bất cứ gì có thể là tối hậu được? Làm sao sự giác ngộ có thể tối hậu? Làm sao niết bàn có thể là một trạng thái bất biến?

Sẽ tới một điểm khi con đã giải quyết một phần rất lớn của tâm lý mình, kể cả chấn thương nhập đời cùng các ngã tách biệt của con. Con sẽ có thể gọi đó là các giai đoạn cao hơn của quả vị Ki-tô, vì khi đó trong bốn thể phàm của con có rất ít lực kháng cự lại ánh sáng đang tuôn chảy xuyên qua con. Đây cũng là điểm khi con – một số các con, không phải tất cả, vì nhiều người trong các con vẫn muốn năng động trong xã hội – con bắt đầu dời chuyển nhiều hơn vào tâm thức Phật, sự nhận biết của Phật.

19.2. Phật năng động như thế nào

Không phải là Phật không thể năng động trong xã hội. Có lẽ Phật tìm ra một cách khác để năng động trong xã hội. Đây là một điều rất vi tế, rất cá nhân. Con có thể nhìn thấy sự khác biệt trong cuộc đời của Giê-su khi thày hướng ngoại, thày bước ra ngoài, thày gặp mọi người, nhiều khi còn đối đầu với những người đó, trong khi chính Phật đây thì lại thiết lập một đạo tràng và để mọi người đến với Phật. Phần nào, đây là sự khác biệt giữa hai cách tiếp cận.

Theo một nghĩa nào đó, Ki-tô bước ra ngoài cũng giống như khía cạnh hướng ngoại của Thượng đế Cha, giai đoạn lan ra. Còn Phật thì giống như Mẹ, giai đọan hướng nội, co lại. Hơi thở ra và hơi thở vào.

Một số các con sẽ đến một điểm khi con bắt đầu ngộ ra là những gì con làm bên ngoài không còn thật sự quan trọng nữa. Điều này không có nghĩa là con phải rút lui ra khỏi cuộc sống năng động ngoài xã hội, thiết lập một đạo tràng hay sống ở nơi hẻo lánh. Con vẫn có thể sống một “cuộc đời bình thường”, có gia đình, có công ăn việc làm, có một sự nghiệp nào đó, nhưng con làm vậy một cách khác.

Con ngộ ra là các hoạt động vỏ ngoài đó không quy định được con. Chúng không thu hút toàn bộ sự chú ý của con. Nhiều khi trong giai đoạn quả vị Ki-tô, con vô cùng tập trung vào công việc mình đang làm và toàn bộ chú ý của con bị lôi kéo vào đó. Như thể con mê mải trong hoạt động. Khi con đạt đến quả vị Phật, gần như có thể nói là con tham gia vào hoạt động nhưng có một phần trong tâm con không bị hấp thu vào đó.

19.3. Tôi đang ở tầng tâm thức nào?

Vậy thì làm thế nào con đến được giai đoạn đó? Về điểm này, thày muốn khai triển thêm những gì Mẹ Mary vừa giảng về nhu cầu làm hòa với việc mình hiện thân, làm hòa với cõi Mẹ, làm hòa với quyền tự quyết, làm hòa với trình độ tâm thức hiện thời của mình. Có thể sẽ tới một điểm con không còn nghĩ tới chuyện: “Tôi đang ở tầng tâm thức nào đây?”

Con biết đây là một quá trình không ngưng nghỉ. Con biết con đang làm hết sức để nâng cao tâm thức mình. Con không quan tâm đến chuyện con đang đứng nơi đâu trên thang điểm. Con cố gắng mà không cố gắng. Con không đang vật lộn. Thậm chí con không có cả mục tiêu. Con không ở trong một tâm thái so sánh.

Con đang, như các thày đã diễn tả bằng ngôn từ, xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Con đang xuôi chảy với cuộc sống. Con không có cả một mục tiêu rõ rệt để cố hướng tới. Con không có cả một tầm nhìn sáng tỏ về một Sứ vụ Thiêng liêng dường như đang chỉ ra cho con những bước đi mà con phải bước để đạt tới một mục tiêu nhất định. Con gần như chảy theo cuộc sống, và cho dù tình huống nào có ngóc đầu lên, con cũng không quyết định bằng tâm vỏ ngoài là mình sẽ làm gì. Con chỉ trực nhận rồi con làm theo.

19.4. An bình trong mọi hoàn cảnh

Để thực sự đến được giai đoạn này, con phải thực hiện một trong những cuộc xoay chuyển cách mạng đó, là con an bình với bất kỳ hoàn cảnh nào mình gặp. Có một giai đoạn của quả vị Phật khi con có khả năng thị hiện những hoàn cảnh vỏ ngoài mà con mong muốn. Nhưng để đến được giai đoạn đó, con phải kinh qua một giai đoạn tạm thời, là con nhìn nhận con sẽ không bước qua một tình huống cho tới khi con có thể ở trong tình huống mà không bị dính mắc và nhờ vậy được an bình. Con đã làm hòa với tình huống.

Một khi con giải quyết chấn thương nhập đời và chấp nhận quyền tự quyết, con sẽ có thể làm hòa với bất kỳ hoàn cảnh nào. Con không có vết thương cá nhân nào mà con đang cố bênh vực hay đền bù. Cho nên con có thể để cho mọi người tự do đi vào bất cứ tâm thức nào mà họ đi vào, và họ tự do trải bày ra bất cứ gì họ đang trải bày. Điều này không có nghĩa là nếu người ta hành xử một cách mất quân bình và không chịu thay đổi thì con phải ở lại trong hoàn cảnh đó. Nhưng con cũng không chạy trốn khỏi hoàn cảnh để che chở các vết thương riêng của con.

Con có thể tới điểm con tự nhủ: “Liệu tôi có thể ở trong hoàn cảnh này mà vẫn an bình?” Có, con có thể. Con nhận ra là con có thể. Con đã đạt đến một mức độ toàn vẹn, không dính mắc, nơi con có thể an bình trong hoàn cảnh đó cho dù người khác không an bình. Một khi con đến được chứng ngộ này, con có thể đi bước kế tiếp và tự hỏi: “À, nhưng sự kiện tôi có thể an bình trong tình huống này có nghĩa chăng là tôi muốn ở lại trong tình huống?” Rồi con có thể chọn bước ra khỏi tình huống. Việc này có thể làm phiền người xung quanh vì rất có thể con sẽ không đưa ra được một lý do mà họ có thể hiểu, lý do tại sao con lại bước ra khỏi tình huống đó. Con chỉ đơn giản bước ra.

19.5. Vấn đề giải thích

Con yêu dấu, điều gì đã cầm chân nhiều người không đạt được cái mà các thày gọi là sự không dính mắc của Phật? Đó là họ cảm thấy họ cần phải thực hiện hay phải sống đúng theo một tấn tuồng nào đó, một truyện kể nào đó trong tâm họ. Các thày đã có giảng về những tấn tuồng cuồng đại. Nhiều người trong số các con vẫn còn mang cái ngã tách biệt đã dựng lên một hình ảnh về con người tâm linh mà con phải là. Một phần trong đó là con có một ngã tách biệt cảm thấy cho dù con có làm gì hay chọn làm gì, thì con phải có khả năng đưa ra một lời giải thích tại sao con làm vậy – đặc biệt một lời giải thích phải hữu lý đối với ngã tách biệt đó, có lẽ đối với người khác và thậm chí đối với cả sa nhân.

Nói cách khác, con có một vấn đề giải thích. Con có một cái ngã cảm thấy con phải có thể tự biện hộ, con phải có thể giải thích động lực của con, lý do con làm việc con đang làm. Điều này dính liền với ý tưởng một tấn tuồng cuồng đại hay một cốt truyện mà qua đó như một người tâm linh, con làm một số chuyện và không làm một số chuyện khác. Và con làm những gì con đang làm vì một lý do đặc thù chứ không phải một lý do nào khác. Chắc chắn con không thể làm bất cứ gì mà không có khả năng giải thích lý do tại sao con làm.

Nhiều người không thể bước vào sự không dính mắc của Phật vì ngay trong tâm họ có một câu chuyện phải trải bày ra, họ mang tấn tuồng cuồng đại đó, họ mang cái nhìn đó về một người tâm linh. Họ cảm thấy phải luôn luôn sống trọn với câu chuyện đó, và nếu không làm vậy được thì họ phải có thể giải thích tại sao. Ngay cả khi họ có những quyết định nằm trọn trong hình ảnh của họ thì họ vẫn phải có thể giải thích tại sao họ làm vậy.

Các thày đã nói về điều gì? Về việc con làm cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, nhưng Hiện diện TA LÀ ngụ ở cõi tâm linh. Hiện diện TA LÀ có thể có một động lực để biểu đạt một điều gì đó xuyên qua con. Liệu động lực này có thể biểu đạt qua ngôn từ, đặc biệt những ngôn từ mà một mức tâm thức thấp hơn có thể hiểu được? Các thày đã nói đến việc biểu lộ cá thể Thiêng liêng của con. Cá thể này nằm vượt ngoài thế gian này. Con có nhất thiết đưa ra được một lời giải thích hợp lý, thường tình, dựa trên thực tế và nhân quả về lý do tại sao con biểu đạt một điều gì đó hay không?

19.6. Cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống

Con yêu dấu, có những đệ tử tâm linh, đặc biệt trong thế giới Tây phương, đã tiến bộ đáng kể. Những đệ tử này đã sẵn sàng biểu hiện một tầng mức nào đó của quả vị Phật nhưng họ vẫn chưa khắc phục được ngã tách biệt đó. Nếu con đã lắng nghe những gì các thày nói thì điều các thày thực sự muốn nói là con thử để ý xem có hai tiến trình diễn ra song song trên đường tu tâm linh của con. Có một tiến trình mà các thày đã giải thích, cụ thể là con mang trong bốn thể phàm của con một số vết thương hay chấn thương. Điều này đã tạo ra các phàm linh nội tại, các ngã tách biệt và ngay cả ngã gốc – vẫn chỉ là một ngã tách biệt trong số nhiều ngã khác – và những thứ này nằm trong bốn thể phàm của con. Để hóa giải chúng và được tự do, con phải thực hiện một khía cạnh gần như máy móc là thỉnh cầu năng lượng sẽ biến hóa năng lượng cấu tạo chúng. Con cũng phải làm công việc ý thức là đi sâu vào chúng, nhìn ra niềm tin hay ảo tưởng làm nền tảng cho chúng, rồi một cách ý thức, con chọn một thực tại cao hơn.

Bây giờ điều các thày đang nói là cho dù con đã làm những công việc đó, có thể vẫn còn một cái ngã tách biệt được tạo ra, chẳng hạn, trong khi con bị chi phối bởi chấn thương nhập đời cùng ngã gốc của con. Ngã tách biệt này giờ đây có một cái nhìn về thế nào là con người mà con phải là, thế nào là một người tâm linh mang chấn thương nhập đời đó. Cho dù con đã giải quyết chấn thương nhập đời, con cũng cần giải quyết cái ngã tách biệt đang cầm giữ hình ảnh cho rằng con phải là người như thế nào.

Con cũng có thể diễn tả điểm này một cách khác, cụ thể là có một tiến trình giải quyết tất cả những thứ kia – có thể nói là các chấn thương, vết thương, ngã tách biệt, phàm linh nội tại giống như những thỏi nam châm đang thu hút nhận thức của cái Ta Biết, đang thu hút sự nhận biết cho nó đồng hóa với chúng. Đây là những cái gì rất đặc thù, cá biệt. Nhưng vượt ngoài những thứ đó ra còn có cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống. Suốt thời gian dài con từng đầu thai, rất có thể là ở một tầng cấp nào đó, con đã mang những vết thương, chấn thương, ngã tách biệt đó. Nhưng có một tầng cấp khác nơi con đã tạo dựng một cách nhìn tổng thể về cuộc sống trên địa cầu và cách con nhìn chính mình trong quan hệ với cuộc sống trên địa cầu.

Đó là một cái ngã tách biệt, nhưng có lẽ sẽ hữu ích nếu con nghĩ bao quát hơn và thấy đó là cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống. Nhiều người trong các con, đặc biệt nếu con đã lớn lên trong thế giới Tây phương, mang một tư duy rất đường thẳng cho rằng luôn luôn có nhân và có quả. Đối với con, điều này có nghĩa là mỗi khi con làm việc gì thì đó là quả. Vi vậy con phải có một lý do mà con có thể giải thích cho người khác, đặc biệt những ai bị tác động bởi việc làm của con. Con cũng phải có một lý do mà con có thể giải thích cho chính mình, kể cả tâm vỏ ngoài, thậm chí các ngã tách biệt của con. Nếu con không thể giải thích thì nhất định sẽ có một ngã tách biệt nào đó, có lẽ mấy cái ngã tách biệt, sẽ chất vấn việc con đang làm, có lẽ còn buộc tội con đã làm gì sai trái.

Cũng có thể có những người khác và tất nhiên là sa nhân cũng đang truyền bá trong tâm thức tập thể cách nhận thức chung chung là con luôn luôn phải có một lý do, và lý do này phải thỏa đáng theo một tiêu chuẩn nhất định. Nếu con là người Công giáo thì có những điều người ta chờ đợi con phải làm. Nếu con không làm hay làm cách khác, con phải có khả năng giải thích – và nếu thế, may ra con vẫn được phép làm vậy. Chắc chắn nếu con làm điều gì không thể chấp nhận và con không thể giải thích, thì con sẽ bị lên án. Điều tương tự cũng xảy ra trong hầu hết mọi môi trường khác trên địa cầu, ngay cả các tổ chức tâm linh và Thời Mới, thậm chí – như các thày đã đề cập – các tổ chức của chân sư thăng thiên trong quá khứ đã có một xu hướng phán xét lẫn nhau vô cùng mạnh mẽ.

Điều thày muốn nói là sẽ tới một điểm khi con bắt đầu bước vào quả vị Phật, con có thể được lợi lạc nếu con xem xét quá trình này, xem xét cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống. Sau đó con sẽ có thể nói: “À, có một khái niệm là khi tôi làm việc gì, tôi phải có một lý do mà tôi có thể giải thích, nhưng tại sao tôi phải làm vậy chứ? Tại sao tôi phải tự biện hộ? Tôi là một sinh thể độc lập với quyền tự quyết y như mọi người. Tôi gần như hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của người khác. Chẳng phải là tôi cũng phải hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của tôi hay sao, và như vậy tôi có thể nói là tôi không có bổn phận giải thích tại sao tôi làm? Thậm chí tôi không cần giải thích cả cho chính mình. Nếu tôi hành động theo sự thôi thúc từ Hiện diện TA LÀ của tôi, tại sao tôi phải biện minh và giải thích để tâm đường thẳng có thể nhét nó vào hệ thống tin tưởng mà nó đã bị nhồi sọ trong kiếp này lẫn nhiều kiếp trước? Tôi chẳng có thể nhìn vào tâm này hay sao, xem nó là một ngã tách biệt, và hơn thế, còn xem nó là một cái nhìn tổng thể về cuộc sống mà tôi đã bước vào?” Rồi con nói: “Tôi không muốn tuân theo thế giới quan này, hệ thống tin tưởng này nữa. Tôi không muốn đóng vai trong tấn tuồng cuồng đại này nữa. Tôi không muốn kéo dài truyện kể cá nhân về con người mà tôi phải là trong vũ trụ vật chất này nữa. Tôi sẵn sàng đập tan hàng rào và bước vượt ra ngoài.”

19.7. Cầm giữ không gian trên địa cầu

Đây là những giai đoạn cao nhất của quả vị Ki-tô. Đây là những giai đoạn của quả vị Phật, những giai đoạn sơ khởi. Những ai trong số các con cần đi qua giai đoạn này trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình có thể dùng lời dạy này để nhanh chóng bước qua tiến trình đó. Khi con tới điểm sẵn sàng làm một việc mà con không thể giải thích, không thể biện hộ theo một cách để người khác có thể hiểu và chấp nhận, hay để tâm vỏ ngoài của con có thể hiểu và chấp nhận, thì con sẽ trải nghiệm một tầng cấp tự do mới. Điều này không nhất thiết có nghĩa là con sẽ làm một số chuyện ngông cuồng vỏ ngoài, mà có nghĩa là ở bên trong, con sẽ cảm nhận một tự do mới. Điều này có thể dẫn con đến một giai đoạn khi con suy nghiệm ý nghĩa thực sự của việc là Phật trong hiện thân, hay việc đạt đến một mức độ tâm thức Phật khi con còn đầu thai. Về điểm này, thày sẽ giảng thêm. Mặc dù thày vẫn biết chỉ có một số ít người sẵn sàng nắm bắt được, thày cảm thấy việc truyền rải lời dạy này trong bát cung vật lý là quan trọng.

Người ta bảo rằng đức Phật cầm giữ không gian cho địa cầu. Trách vụ của thày trong Đại đoàn Thăng thiên là Chủ tể Thế gian (Lord of the World) nơi thày ngồi như đức Phật và cầm giữ không gian. Thật khó lòng diễn tả bằng ngôn từ nhưng con có thể nói thế này: Trong Ánh sáng Mẫu-Vật và ngay trong chính không gian, có sẵn một cơ chế khiến cho một số biểu hiện có thể rất nhanh chóng tạo thành một vòng xoắn ốc hướng hạ tự nó tăng cường, và chẳng hạn đối với một hành tinh, xoắn ốc này có thể khiến cho hành tinh tự hủy diệt.

Về cơ bản, ở đây chúng ta có thể nói là nếu không có gì giảm bớt hiện tượng trên thì những hành tinh nơi sa nhân đã đầu thai sẽ rất nhanh chóng tự hủy diệt. Các hành tinh này sẽ rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ và đơn giản sẽ bị năng lượng làm nổ tung. Điều xảy ra trong quá trình này không hoàn toàn giống như quá trình lỗ đen (black hole) nhưng con có thể dùng lỗ đen để minh họa. Con cũng biết là trong một lỗ đen khi con vượt quá một chân trời nhất định, các định luật tự nhiên sẽ ngưng hoạt động. Nói cách khác, nếu một hành tinh bị suy thoái đến mức đó, không gian sẽ co lại và hành tinh sẽ sụp vào bên trong. Vậy Phật làm gì? Phật ngồi đó nơi cõi thăng thiên, cầm giữ sự quân bình tâm linh và ngăn chặn không cho không gian – là không gian trong đó địa cầu có thể tồn tại – bị co lại và sụp xuống để biến thành một điểm dị biệt (singularity).

Chúng ta có thể giải thích điều này cách khác. Mặc dù mọi thứ đều được tạo bằng Ánh sáng Mẫu-Vật (mỗi cấu trúc mà con thấy trên địa cầu đều được tạo bằng Ánh sáng Mẫu-Vật) nhưng không một cấu trúc nào có thể hình thành trừ khi có một khoảng trống để nó hình thành trong đó. Trước khi một hành tinh được các Elohim tạo dựng, trước hết không gian phải được khoanh tròn cái đã, rồi sau đó Ánh sáng Mẫu-Vật mới có thể tạo ra các cấu trúc sẽ lấp đầy khoảng không gian đó. Đức Phật cầm giữ không gian. Các Elohim tạo ra địa cầu, rồi các sinh thể cứ thế mà hiện thân và tùy ý sử dụng địa cầu.     

Ở một thời điểm đã có quyết định là trái đất sẽ là một hành tinh nơi sa nhân được phép đầu thai, cho nên lúc bấy giờ cần đến một sinh thể với tâm thức Phật có khả năng cầm giữ không gian cho trái đất hầu trái đất không bị co sụp lại. Tất nhiên, vị Phật đó không phải là thày vì khi đó thày chưa thăng thiên, nhưng hiện nay đây là trách vụ thày đang đảm nhiệm. Thuở đó có một vị Phật khác cầm giữ không gian, cũng như đã có nhiều vị Phật khác kể từ đó đến nay.

Sẽ tới một điểm khi con đạt được một tầng mức nào đó của quả vị Phật thì con sẽ không chỉ bắt đầu hiểu được khái niệm này một cách trí thức, mà con sẽ bắt đầu trải nghiệm thực tại này bên trong bản thân con. Sau đó con sẽ ngộ ra là khi con đạt đến một mức tâm thức Phật trong khi mình còn đầu thai vật lý, con có khả năng hình thành một dòng chảy hình số 8 với thày, với đức Phật mà thày là. Con thấy đó, trong tư cách là Phật, thày nguyện cầm giữ không gian cho trái đất để tất cả chúng sinh đầu thai trên trái đất có thể làm bất cứ gì họ muốn với quyền tự quyết của họ mà không khiến cho trái đất sụp đổ.

Hiển nhiên, con là một trong những sinh thể đang đầu thai trên trái đất, cho nên con có thể nhận ra một điều sâu xa ở đây. Tại sao trên địa cầu lại có chiến tranh? À, trong nhãn quan rộng lớn, chính thày đang cầm giữ không gian cho phép sa nhân gây chiến. Có phải chỉ sa nhân mới quyết định có chiến tranh trên trái đất? Không, không đâu con. Trên trái đất có chiến tranh là vì loài người đầu thai đang cho phép trong tâm họ, trong bốn thể phàm của họ và trong tâm thức tập thể, có một khoảng không gian nơi chiến tranh có thể hiện hữu.

Nói cách khác, thày đang cho phép không gian tồn tại trong ý nghĩa rộng lớn, nhưng thật ra những gì được biểu hiện trong cõi vật lý đòi hỏi phải có những người đầu thai cung cấp khoảng không gian trong tâm họ để chuyện này xảy ra. Sự kiện thày cầm giữ không gian không có nghĩa là phải có chiến tranh trên địa cầu. Cho nên chiến tranh chỉ có mặt khi những người đang đầu thai cho phép nó xảy ra. Điều con có thể khởi sự làm (khi con đạt đến những tầng đó của tâm thức Phật) là nhìn nhận rằng bởi vì con đang đầu thai vật lý, bởi vì con đã đạt đến mức độ không dính mắc giúp con không còn tìm cách trải bày ra một câu chuyện cá nhân hay một tấn tuồng cuồng đại, cho nên con đang ở trong một trạng thái tâm thức không dính mắc, không ràng buộc. Và vì con không bị ràng buộc cho nên con có sự tùy chọn để quyết định rút lại không gian khỏi một số biểu hiện nhị nguyên.

Thày không khuyên con bắt đầu ngay với chiến tranh vì đó là một vấn đề to lớn, nhưng thày đề nghị con hãy tìm một biểu hiện nào hấp dẫn đối với cá nhân con. Xong con hãy trước hết suy ngẫm điều đó, con rút lại không gian khỏi biểu hiện đó trong bốn thể phàm của con, nhưng sau đó con có thể bắt đầu mở rộng tầm hoạt động, con lần hồi đạt tới điểm con rút không gian khỏi tâm thức tập thể.  

19.8. Một vị Phật có thể làm được bao nhiêu

Thày sẽ nói với con là chỉ một người với tâm thức Phật cũng có khả năng rút không gian khỏi một biểu hiện nào đó – không phải chiến tranh, bởi vì nó sẽ đòi hỏi nhiều người hơn với tâm thức Phật. Nhưng trong các lãnh vực khác không mang động lượng mạnh mẽ, quả thật con có thể rút lại không gian. Chẳng hạn, rất có thể sẽ chỉ cần một người với đủ trình độ quả vị Phật để rút không gian khỏi tệ nạn ấu dâm, có nghĩa là không một kẻ ấu dâm nào sẽ có thể đầu thai trên địa cầu sau thời hạn đó.

Tuy nhiên có một số lãnh vực nơi một vị Phật duy nhất không thể thay đổi tình thế, nhưng bằng cách rút lại không gian, con sẽ tạo dễ dàng cho đủ số người đi đến quyết định: “Chúng tôi không còn muốn biểu hiện này trong xã hội chúng tôi hay trên hành tinh chúng tôi nữa.” Và khi chúng ta ngày càng bước sâu hơn vào Thời đại Hoàng kim, thì nhận thức toàn cầu sẽ ngày càng nâng lên – và con đã bắt đầu thấy sự tăng trưởng này rồi đó, nhưng nó sẽ còn tăng trưởng hơn nữa. Rồi sẽ tới điểm khi loài người nhận ra là những gì chúng ta cho phép biểu hiện trên hành tinh là thẩm quyền quyết định của chúng ta. Đó là lúc một vị Phật đang hiện thân có khả năng rút không gian khỏi một biểu hiện nào đó, và việc này sẽ tạo rất nhiều dễ dãi cho một túc số tới hạn những con người tiến tới quyết định vỏ ngoài: “Chúng ta muốn hành tinh này không còn bóng dáng tệ nạn nô lệ, buôn người, lạm dụng ma túy, hay thao túng nền kinh tế, tất cả những biểu hiện đó.” Và cuối cùng, có thể động lượng sẽ mãnh liệt đến độ sẽ có đủ số người quyết định là chúng ta muốn hành tinh không còn bóng dáng chiến tranh nữa. Điều này có thể xảy ra. Nó sẽ xảy ra.  

Con thấy đó, con yêu dấu, đây là một số lời dạy cho một số các con. Nhiều người trong các con sẽ có thể bỏ nó qua một bên. Nhưng thày đề nghị con đừng bỏ qua cái ý tưởng là tuy con có thể giải quyết ngã gốc cùng các ngã tách biệt khác của con, nhưng vẫn còn thiếu một cái gì, đó là sự xoay chuyển trong thái độ toàn diện của con, trong cách con nhìn chính mình.

19.9. Những người không tiến bước

Nếu con nhìn vào các phong trào tâm linh, con sẽ thấy trong nhiều trường hợp có những người đã tham gia một phong trào, đã đi theo một giáo lý và ngay cả đã áp dụng giáo lý và tu tập một số kỹ thuật suốt nhiều thập niên. Họ có tầm hiểu biết to lớn về đường tu tâm linh, một tầm hiểu biết trí thức và đường thẳng. Thậm chí họ còn có thể dựng lên một nhân cách vỏ ngoài biết “đi đứng đúng điệu, nói năng đúng điệu” và hành xử như một người tâm linh. Vì vậy họ có thể tỏ ra rất tâm linh, hài hòa, cân bằng và tự chủ. Nếu con nhìn với con mắt nội tâm, con sẽ thấy tất cả chỉ là vỏ ngoài. Họ đã không thật sự thay đổi cái nhìn tổng thể về cuộc sống và về chính họ. Thật sự có thể nói là nếu nghĩ theo cách 144 tầng tâm thức, có những người có thể đã theo giáo lý của chân sư thăng thiên hàng 30 năm trời nhưng họ chỉ vươn lên được từ tầng 60 đến tầng 68 chẳng hạn, trong khi họ có tiềm năng vươn lên cao hơn rất nhiều trong thời gian đó. Tại sao họ không lên cao hơn được? Đó là vì cái nhìn tổng thể của họ về bản thân đã không chuyển đổi. Họ đã không sẵn lòng bước qua cuộc xoay chuyển cách mạng đó.

Như thày có nói, có một số người đã không tiến bộ cho dù họ đã làm tất cả những thứ vỏ ngoài. Cũng có một số người khác đã làm tất cả những thứ vỏ ngoài, và một cách nào đó, họ đã chứng đạt một mức tâm thức nào đó, nhưng họ đã không xoay chuyển cái nhìn tổng thể về cuộc sống cho tới mức chấp nhận được là họ đã tiến bộ. Như sứ giả này một số năm về trước đạt tới điểm ông nhận ra là một phần tự ngã của ông muốn cảm thấy mình là một đệ tử tâm linh cao cấp, nó muốn tự hào về chuyện này. Ông nhận ra là để tránh cảm thấy tự hào, ông không dám thừa nhận là mình đã tiến bộ. Ông phải kinh qua một quá trình tự nhủ rằng: “Tôi có tin là các giáo lý tâm linh hiệu nghiệm hay không? À, nếu tôi tin giáo lý hiệu nghiệm và nếu tôi đã áp dụng giáo lý từng nấy năm trời thì tôi đã phải có tiến bộ. Vì nếu giáo lý hiệu nghiệm thì tôi phải tiến bộ. Và nếu tôi không tiến bộ, tại sao tôi cứ mất công áp dụng giáo lý làm gì? Và nếu tôi không tin giáo lý hiệu nghiệm, tại sao tôi lại mất công áp dụng giáo lý? Nếu tôi tin giáo lý hiệu nghiệm và tôi đã áp dụng giáo lý, thì bắt buộc tôi đã phải có tiến bộ. Nhìn nhận điều này có gì sai trái đâu?”

19.10. Chấp nhận con có thể là một công cụ

Ông trải qua một cuộc xoay chuyển khi ông thừa nhận là ông đã có một số tiến bộ, và đó chính là tại sao ông đã có thể đồng ý khi Giê-su đến gần ông và nói: “Con có sẵn lòng làm điều này cho thày không?” Ông đã có thể chấp thuận: “Thưa vâng, có lẽ quả thật con có thể là một công cụ.” Điều này cũng áp dụng cho con. Nhiều người trong các con đã tu tập, đã tiến bộ, nhưng vẫn còn một sự xoay chuyển mà con chưa trải qua cho nên con không thể nhận công việc đó.

Có những đệ tử. mặc dù đã học giáo lý và dường như cũng đã tu tập, vẫn chưa thực sự xoay chuyển tâm thức ở bên trong. Điều họ đã làm vỏ ngoài là họ đã tạo dựng cái nhân cách cho rằng họ là người tâm linh, cho nên họ tưởng là họ đã chứng đạt nhiều hơn thực tế. Song con có một số đệ tử đã kinh qua những bước tiến nội tâm nhưng họ lại có một nhân cách vỏ ngoài không cho phép họ nhìn ra điều đó, cho nên họ không công nhận bước tiến của họ.

Tất nhiên, đa số các con đều thuộc loại đệ tử đã có tiến bộ, con đã tu tập nhưng con chỉ đơn giản không dám nhìn nhận chuyện này. Con đã không dám đứng lui lại để thấy có một loại ngã tách biệt ngăn cản con nhận ra mình đang đứng ở đâu trên đường tu và tiềm năng của con là gì ở mức hiện tại của mình.

Điều này áp dụng cho hầu hết các con. Con có thể được lợi lạc nếu con suy ngẫm điểm này và sẵn lòng xoay chuyển và nhìn nhận: “Tôi là một đệ tử đã tiến khá xa trên đường tu. Tôi đã phần nào trưởng thành. Tôi có một số chứng đạt tâm linh cho nên tôi có khả năng làm cánh cửa mở. Tôi có khả năng phụng sự. Tôi có khả năng vun bồi sự hòa điệu với các chân sư thăng thiên. Tôi biết được bước kế tiếp của tôi trong Sứ vụ Thiêng liêng. Tôi thực sự có khả năng làm gì đó trên địa cầu, không phải vì tôi là tác nhân mà vì tôi có thể đồng sáng tạo với Hiện diện TA LÀ của tôi và cống hiến một cái gì chính đáng, có giá trị, đáng trân trọng, xây dựng và tốt đẹp.”

Bao nhiêu người trong các con đã dám nhìn nhận điều này nơi bản thân mình? Con yêu dấu, Thánh linh, Hiện diện TA LÀ của con, các chân sư thăng thiên, tôn trọng quyền tự quyết của con. Nếu con cứ nhất định bám giữ một cái nhìn hạn chế về chính mình, tất nhiên các thày sẽ không áp đặt lên con và buộc con làm cánh cửa mở. Các thày không thể đạp cửa cho nó mở ra, mà chỉ có con mới có thể mở cửa. Nhiều các con có khả năng làm cuộc xoay chuyển này rất nhanh chóng, con chỉ cần cả gan chấp nhận là mình đang ở một mức của đường tu – thật không quan trọng đó là mức nào – nơi con có thể là cánh cửa mở một phần nào đó. Thế thì con hãy dám đảm nhận điều này, hãy dám biểu lộ nó. Con hãy bình an với nó. Bình an với bất kỳ phản ứng nào mà con có thể nhận từ môi trường chung quanh.

Con yêu dấu, đây là bài giảng mà thày đã muốn đem lại. Thày cũng muốn cảm ơn con đã có mặt ở đây. Thày bày tỏ lòng biết ơn đối với những ai sẽ học hỏi những lời dạy này, áp dụng lời dạy, áp dụng các dụng cụ và như vậy bắt đầu nắm bắt được các khía cạnh cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của mình và cả gan đem ra thực hiện. Với lòng biết ơn của Phật, thày niêm con và thày cũng niêm hội nghị này. Bình an của thày sẽ luôn luôn ở bên con – bất cứ khi nào con muốn!

25 | Cảm thấy thoải mái với việc mình ở trên trái đất

Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 3 tháng 12 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama, và trong niềm vui của Phật, thày là. Nhiều người có lẽ không gắn liền Phật với niềm vui vì họ có hình ảnh Phật nghiêm trang, ngồi yên, có vẻ cách biệt khỏi trần thế và những người trong thế gian. Lẽ dĩ nhiên, con yêu dấu, nếu thày thật sự cách biệt khỏi con người thế gian, thì tại sao thày lại rời Niết bàn để giáo hóa họ? Nếu thày thật sự cách biệt, thì liệu thày có phát nguyện nâng cao ngọn lửa của Phật và giữ không gian cho trái đất? Chắc chắn là không, và do đó thày không cách biệt nhưng thày cũng không dính mắc. Trung đạo phải được tìm ra, không nhất thiết giữa hai đối cực mà vượt lên trên chúng.

Trung đạo là một điểm quân bình rất khó tìm trên một hành tinh dày đặc và tăm tối như trái đất. Chắc chắn là những người trong các con đã đến đây như một avatar đã phải đối mặt với thách thức này. Tất cả chúng ta, là những người đã đến đây như avatar, đều đã phải đối mặt với thách thức làm sao ở trong đời nhưng không thuộc vào đời. Lẽ dĩ nhiên, tất cả chúng ta đều đã trải qua một giai đoạn trầm mình vào thế gian, đồng hóa mình với thế gian, và tại sao chúng ta đã làm vậy? Chúng ta đã làm vậy như sự tiếp nối của mong muốn đã đem chúng ta tới đây. Chúng ta đã tới đây để đem lại một thay đổi tích cực và giúp trái đất vượt lên trên một số biểu hiện mà chúng ta thấy rõ là không tự nhiên và không thể hiện hữu trên một hành tinh tự nhiên.

25.1. Mong muốn có quyền năng siêu nhiên

Đó là mục đích đã đem chúng ta tới đây, và chúng ta đã đi vào một khuôn nếp phản ứng khi chúng ta tới đây và thấy là thiện tâm của mình bị bác bỏ và chê bai. Nhiều khi chúng ta lại càng thêm thiết tha, càng thêm dính mắc, muốn làm một việc mà các tà lực, các sa nhân, và các cư dân trái đất – các cư dân nguyên thủy của trái đất – không thể phớt lờ hay chối bỏ. Con thấy chăng, con yêu dấu, là nhiều người trong chúng ta, khi bị chấn thương nhập đời nguyên thủy và bị sa nhân và cư dân trái đất phớt lờ hay chê bai, đã tạo ra mong muốn có khả năng, ngay cả khả năng siêu nhiên, tạo ra một biểu hiện mà họ không thể phớt lờ, không thể chối bỏ.

Con thấy là ngay bây giờ vẫn có nhiều người tâm linh mong muốn thấy một biểu hiện không thể chối cãi chứng tỏ giá trị của cái nhìn tâm linh về đời sống, là đời sống có một khía cạnh tâm linh. Nhiều người mong muốn có được thần nhãn hay quyền năng siêu nhiên khác khiến họ làm được một chuyện mà con người không thể phớt lờ, chối bỏ, hay giải thích bẻ quẹo. Nhiều tín đồ tôn giáo cũng có mong muốn tương tự, như nói được ngoại ngữ lạ hay có khả năng chữa lành (bất kể điều này nghĩa là gì), hoặc Ki-tô trở lại trần thế như một biểu hiện không thể chối cãi trên không trung, khiến không ai có thể chối cãi là chuyện này đã xảy ra.

25.2. Nghi ngờ sự hiện hữu của Thượng đế

Qua các thời đại, nhiều người đã hỏi: “Tại sao Thượng đế không chứng minh là ngài hiện hữu, tại sao ngài không lấy đi sự tà ác và tăm tối khỏi trái đất?” Khi họ thấy là bóng tối tiếp tục tồn tại và Thượng đế dường như không có đó hay có vẻ cách biệt, thì họ bắt đầu nghi ngờ là một Thượng đế. Lẽ dĩ nhiên, đó là lúc sa nhân cảm thấy họ đã thực sự hoàn tất thành quả lớn nhất – khi họ khiến được một avatar nghi ngờ sự hiện hữu của Thượng đế. Quả thực, đây là điểm thấp nhất mà con có thể rơi xuống khi con là một avatar đã tới đây với nhận biết có cái một trong mọi sự sống, và mong muốn nâng mọi sự sống lên. Bây giờ thì con tới điểm nghi ngờ có một đấng tối cao, có một mục đích cao và con có mục đích khi tới đây.

Đó chính là điều sa nhân muốn đạt được. Họ muốn chúng ta rơi vào trạng thái đó, mà tất cả chúng ta đều đã rơi vào, như nhiều vị huynh đệ tôn quý của thày đã nói. Con yêu dấu, chính thày quả thực cũng đã rơi vào trạng thái đó. Thày đã rơi xuống một điểm thấp đến độ những ai có quan niệm tôn thờ Phật sẽ từ chối không chấp nhận. Họ sẽ nói là đây không phải là đức Phật thật đang nói là đức Phật đã rơi xuống trạng thái thấp như vậy, vì đức Phật chắc chắn đã sinh ra toàn hảo. Thày đã không sinh ra toàn hảo, trong kiếp đầu thai cuối hay trong bất cứ các kiếp trước. Con yêu dấu, thày đã phạm những lỗi lầm mà nhiều người trong các con đã phạm.

25.3. Nếu con có quyền năng siêu nhiên thì sao?

Thày cũng đã có mong muốn có được quyền năng sẽ thức tỉnh con người và khiến họ không thể chối bỏ khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Thày đã phải vượt qua mong muốn này trong kiếp đầu thai cuối của thày. Quả thực là khai ngộ cuối cùng mà thày phải đối mặt, khi thày bị Ma vương cám dỗ, đã là ý muốn dùng khả năng của tâm, mà thày đã đạt được, để phản ứng lại các cám dỗ của Ma vương. Khi đó thày đã đạt được một tầng tâm thức của quả vị Phật, nên thày quả thực có một số khả năng mà thày có thể dùng để phản ứng lại các cám dỗ của Ma vương. Nhưng con yêu dấu, thày lại làm vậy để làm gì? Thày đạt được kết quả gì? Nếu thày chứng minh các khả năng của thày, thì thày sẽ đạt được kết quả gì trong công việc giúp sự sống tiến triển?

Con cần tự mình ngẫm nghĩ điều này nếu con nhận ra là con có mong muốn có quyền năng siêu nhiên. Con cần xem xét con sẽ đạt được gì nếu con có quyền năng mà đôi khi con mơ tưởng mình có. Nếu con sử dụng quyền năng đó, thì con sẽ thực sự đạt được kết quả gì?   

Đầu tiên hết con cần nhận ra là sẽ có một số sinh thể, một số người, sẽ chối bỏ tức khắc là biểu hiện đã xảy ra, dù rằng họ đã thấy nó với chính mắt họ. Có những người đã thấy Giê-su đi trên nước và uống rượu mà trước đó Giê-su đã biến ra từ nước, và họ không tin những điều đó. Họ không tin những chuyện mà giác quan của chính họ đã trải nghiệm. Sau khi hiện tượng xảy ra, thì tâm lý trí, phân tích của họ bắt đầu nghi ngờ là chuyện đó đã thực sự xảy ra. Họ bắt đầu nghi ngờ là các hiện tượng đó là chỉ dấu Giê-su đã đạt được sự điều ngự tâm linh. Họ nghĩ rằng có sự gì gian trá bên trong. Họ nghĩ đó là những gian trá của ác quỷ và do đó Giê-su không phải là một vị thày tâm linh thật, thày không phải là đấng Cứu thế vân vân và vân vân. Lẽ dĩ nhiên, sa nhân lập tức tìm cách chống lại những chứng minh quyền năng cao của Giê-su bằng cách khiến con người tin rằng tà lực và ác quỷ đã đánh lừa họ, hay là chúng đã nhập vào Giê-su để thực hiện những trò bịp bợm đó.

Nếu con chuyển sang thời hiện đại, thì các nhà duy vật sẽ tức khắc nghi ngờ là những hiện tượng đó đã xảy ra. Nhiều nhà duy vật sẽ nói là tuy nhiều người đã thấy các biểu hiện bên ngoài đó, nhưng đó chỉ giản dị là tâm họ và tâm tập thể đã đánh lừa họ để họ nghĩ là họ đã thấy những hiện tượng đó, nhưng sự thực thì chúng không có thật. Nếu con suy ngẫm chuyện này, thì con nhận ra là không có bất cứ điều gì mà tâm vỏ ngoài (tâm xác thịt, tâm con người, tâm lý trí, phân tích, đường thẳng) không thể nghi ngờ.

Thực tế là, con yêu dấu, con không bao giờ có thể chứng minh bất cứ điều gì trên một hành tinh có vật chất dày đặc, có tâm thức dày đặc như trái đất. Tại sao vậy? Bởi vì chức năng cốt yếu của một hành tinh có vật chất dày đặc là cho con người một trải nghiệm trầm mình trong đó họ có thể trải nghiệm họ là một sinh thể tách biệt.

25.4. Mục đích của các hành tinh có vật chất dày đặc

Để có được trải nghiệm đó, con không thể có khung tham chiếu mà con có trên một hành tinh tự nhiên, là nơi con cảm thấy sự kết nối với một cái gì lớn hơn là ý niệm bản ngã hiện thời của con, con cảm thấy cái một trong mọi sự sống. Đây không phải là một hiểu biết bằng trí năng mà con có trên một hành tinh tự nhiên. Đây là một trải nghiệm, một trải nghiệm nội tại – mà ngày nay con gọi là “trực nhận” – nhưng trên một hành tinh tự nhiên nó được coi như một trải nghiệm tự nhiên. Nó tự nhiên như khi con mở mắt và thấy mặt trời.

Con không thể có khả năng này nếu con muốn có trải nghiệm trầm mình. Những người trong giai đoạn trầm mình không có ý niệm cái một trong mọi sự sống. Đó chính là lý do vì sao họ không có khung tham chiếu giúp họ có được cảm nhận không thể chối cãi là cuộc sống có cái gì cao hơn những gì họ trải nghiệm qua cái ngã tách biệt. Họ không thể thấy điều mà con thấy khi con thức tỉnh và nhận ra khía cạnh tâm linh của đời sống. Con yêu dấu, không có gì con có thể nói, không có gì con có thể làm, có thể giúp những người đang trong giai đoạn trầm mình trải nghiệm một thực tại cao hơn, như con đã trải nghiệm và nhiều người trong các con coi là đương nhiên, vì các con đã có trải nghiệm này từ quá lâu nên nó có vẻ đương nhiên với con.

Nhiều người trong các con đã có cảm nhận nội tại rằng mình nối kết với một cái gì lớn hơn trong suốt kiếp sống này. Ngay cả khi các con còn thơ ấu, con không thể hiểu vì sao người khác không có cảm nhận đó. Khi con lớn lên, con đã có khi tự hỏi làm sao con có thể nói người khác biết về khía cạnh tâm linh của cuộc sống vì nó quá hiển nhiên với con, nhưng người khác không thấu hiểu được. Họ không thấy điều này hiển nhiên, họ cảm thấy bị đe dọa và họ bác bỏ nó.

Ấy, con yêu dấu, con hiểu chăng là những người đang trong giai đoạn trầm mình bắt buộc phải bác bỏ tầm nhìn cao hơn của con. Vì nếu không họ không thể tiếp tục trầm mình, tiếp tục tự đồng hóa với trái đất và cái ngã vỏ ngoài. Lẽ tự nhiên, chúng ta biết là có nhiều người không tự nguyện ở trong giai đoạn trầm mình. Họ đã bị sa nhân lừa dối, họ đã bị sa nhân thao túng để chấp nhận những khuôn nếp phản ứng giữ họ trong trạng thái trầm mình.

Nếu con tưởng tượng một kịch bản lý tưởng, thì con có thể nói là tất cả những cư dân nguyên thủy của trái đất hiện đang đầu thai đáng lẽ đều đã thăng thiên. Tuy nhiên, vì có luật tự quyết, thì một kịch bản lý tưởng chỉ là một ước tính vì quyền tự quyết phải được phép tự trải bày. Con có thể nói là khi một hành tinh được tạo ra, khi một số dòng sống đầu thai lần đầu trên hành tinh đó, thì có thể có một kịch bản lý tưởng ước tính họ có thể tăng triển như thế nào. Vì có luật tự quyết, nên kịch bản lý tưởng không là thực tế nhất định, và do đó các chân sự thăng thiên sẽ không cho rằng mọi chuyện đã hoàn toàn thất bại nếu kịch bản lý tưởng không được hoàn thành. 

25.5. Chứng minh có chọn lựa khác

Các thày cho phép con người đi lạc vào những nẻo mà họ cần đi vào. Lẽ dĩ nhiên, tình trạng cũng có thể tới chỗ ta có thể nói là sa nhân đã khiến con người đi vào các khuôn nếp phản ứng đó. Con người không có cách cư xử nào khác khuôn nếp phản ứng, do đó ta có thể nói điều chính đáng là các avatar tới đầu thai ở đây để chứng minh là có chọn lựa khác. Con yêu dấu, mục đích của các thày khi trao truyền giáo lý (kể cả trong quyển sách mới) về việc các avatar tới đầu thai trên trái đất, là để nói với các con là các con không đến đây để thực hiện một thay đổi đặc thù trên hành tinh này. Con tới đây chỉ để chứng minh có chọn lựa khác.

Điều này có nghĩa là con cần cho phép những người chưa sẵn sàng hay chưa chịu bước ra khỏi giai đoạn trầm mình, chối bỏ con và bác bỏ những gì con nói. Thày muốn thêm vào những gì Giê-su đã nói, và nói ở đây là khi con xuống đây và gánh chịu chấn thương nhập đời nguyên thủy và tạo ra cái ngã gốc (cái ngã tách biệt đầu tiên mà con tạo ra) (primal self), thì nhiều người trong các con không hoàn toàn nắm vững thực tế của luật tự quyết. Con lúc đó không hoàn toàn chấp nhận là vai trò của con chỉ là nêu tấm ngương mà không thực hiện một thay đổi đặc thù. Con đã tạo ra ngã gốc vì con mong muốn thực hiện một thay đổi nào đó, và điều này đã khiến con mong muốn có được quyền năng đặc biệt thể hiện một biểu hiện đặc biệt mà con người không thể phớt lờ hay bác bỏ. Để hoàn toàn buông bỏ ngã gốc, để thấy là nó không thật, con cần nhận ra là vì có luật tự quyết, con đã có một mong muốn quá quắt, trái luật. Con có mong muốn ép buộc con người thức tỉnh vì như vậy tốt cho họ.

25.6. Làm gì và làm cách nào

Con yêu dấu, sa nhân có gì? Họ có mong muốn ép buộc con người không thức tỉnh vì đây là điều tốt cho họ, tốt cho sa nhân. Điều con cần nhận ra ở đây là, lẽ tự nhiên, trong cương vị một avatar con không nên có mong muốn ép buộc con người thức tỉnh vì như vậy tốt cho họ. Đó là lý do vì sao con tiến thêm bước nữa và nhìn vào ngã gốc mà con đã tạo ra và có mong muốn áp đặt một thay đổi nào đó trên trái đất, ép buộc con người thay đổi bằng cách nào đó, ép buộc họ thức tỉnh. Con cần nhận ra là dù mong muốn này phát sinh từ thiện tâm, nhưng nó cũng phát sinh từ một điều mà các thày đã giảng trước đây: đó là nhiều người hiểu cần làm gì, nhưng họ không có một cái nhìn thực tế là làm cách nào. Con đã tới đây với hiểu biết đúng đắn là trái đất cần thay đổi và con người nên rốt cuộc thức tỉnh. Nhưng con có một hiểu biết không thực tế về cách thực hiện chuyện này, kể cả nghĩ rằng vì sa nhân đã dùng bạo lực để ru ngủ con người, thì con được quyền dùng một bạo lực nhẹ hơn để thức tỉnh họ.

25.7. Một mong muốn vị tha để thỏa mãn cái ngã

Giờ đây, con cần tiến thêm bước nữa và xem xét cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra và nhận ra là tuy ngã tách biệt tin chắc là nó chỉ muốn thức tỉnh con người vì như vậy tốt cho họ, nhưng sự thực là ngã tách biệt muốn thức tỉnh con người vì như vậy tốt cho con, tốt cho . Nói cách khác, mong muốn thức tỉnh con người, sau khi con đã tạo ra ngã tách biệt, thực sự là để con cảm thấy con đã hoàn thành những gì con muốn hoàn thành khi tới trái đất này, nhưng con vẫn chưa hoàn thành được.

Con có thấy chăng là ngã tách biệt tin chắc là nó làm thế vì như vậy tốt cho mọi người, nhưng thực ra đó là vì như vậy tốt cho con, để con thực hiện được mục đích mà con đã tự định ra? Khi con còn nhìn đời qua ngã tách biệt, ngã gốc, thì con sẽ tiếp tục nghĩ là con muốn thức tỉnh con người vì như vậy tốt cho họ, nhưng đó là vì như vậy “tốt” cho con, vì con được cảm thấy thoải mái với việc mình đã tới trái đất.

Lẽ dĩ nhiên, điều này dễ hiểu, ta cũng có thể nói là “tự nhiên”, là khi con tới trái đất và gánh chịu chấn thương nguyên thủy, thì con bị chấn động rất mạnh và không thoải mái với việc mình ở đây, con không thoải mái với việc mình đã đến đây. Do dó, điều tự nhiên là con mong muốn tới được điểm con cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây, với việc mình đã đến đây. Con nghĩ rằng, khi con còn ngã tách biệt đó, cách duy nhất để con cảm thấy thoải mái với việc mình đã đến đây là thực hiện mục đích mà con đã định ra khi tới đây.

Điều được nói trong quyển sách mới, một cách vừa gián tiếp vừa tiềm ẩn, là con cần tới điểm nhận ra là hiểu biết, nhận biết mà con có khi con tới đây không phải là nhận biết cao nhất. Chắc chắn là lúc đó, con ở trạng thái tâm thức cao hơn đa số cư dân trái đất, nhưng con không có hiểu biết cao nhất về luật tự quyết và cách nó vận hành. Khi con còn nắm chặt viễn quan nguyên thủy đó, mục đích nguyên thủy đó, thì con không thể cảm thấy thoải mái với việc mình đã đến đây cho tới khi mục đích đó được hoàn thành. Vì bây giờ con nhận ra là mục đích đó không bao giờ hoàn thành được vì có luật tự quyết, thì có nghĩa là khi con còn nắm chặt mong muốn đó, thì con không thể nào cảm thấy thoải mái với việc mình ở trên trái đất.

Thay đổi mà các thày muốn trình bày cho con, mà con cần phải thực hiện, là con cần để cho cái ngã đó chết đi. Khi đó, con tới điểm chấp nhận, như Giê-su đã giảng một cách rất hùng hồn, là con tới đây để là người con là, để tỏa chiếu ánh sáng của con, để cho con người một tấm gương, một khung tham chiếu. Khi con xoay chuyển tầm nhìn, như tất cả các thày đã làm (hay ít ra là hầu hết các thày, trừ những người đã tạo ra một ngã gốc khác), thì con sẽ trút bỏ được gánh nặng cảm thấy không thoải mái với việc mình ở đây, cảm thấy nếu thay đổi này hay thay đổi kia xảy ra thì con sẽ cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây. Con cũng có thể trút bỏ hết gánh nặng trách cứ mình đã tới đây, cảm thấy: “Tôi đã quá ngu dốt khi tôi tình nguyện xuống một hành tinh như thế này”. Các cảm nhận này sẽ tan biến đi khi con trải qua tiến trình tuần tự cho tới khi con tới điểm con có thể rũ bỏ chúng. Lúc đó, con yêu dấu, con có thể cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây bằng cách giản dị là gì con là.

25.8. Cảm thấy thoải mái là người con là

Con yêu dấu, con thấy chăng là khi con tạo ra cái ngã muốn làm điều gì trên trái đất, thì con không thể là người con là. Đó không phải là người con là. Qua cái ngã đó, cho dù ngã đó cảm thấy nó đã hoàn thành mục đích của nó, con vẫn không thể nào cảm thấy thoải mái với chính mình hay với việc con ở đây. Con chỉ có thể cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây khi con cảm thấy thoải mái với chính mình, và cảm giác này chỉ có thể tới từ bên trong. Nó không thể tùy thuộc bất cứ thành quả bên ngoài nào, bất cứ kết quả bên ngoài nào mà con có thể thực hiện trên hành tinh này hay bất cứ hành tinh nào khác. Ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, con không thể cảm thấy một cách tối hậu thoải mái với chính mình qua những thành quả bên ngoài của mình. Con phải phát triển cảm nhận từ bên trong cảm thấy thoải mái với chính mình giản dị dựa trên con là ai.

Điều này cho thấy gì về những người trong chúng ta đã chọn lựa là avatar? Nó cho thấy là chúng ta đã chọn tới một hành tinh thấp hơn vì chúng ta chưa hoàn toàn phát triển cảm nhận quý trọng mình là ai từ bên trong chính mình. Chúng ta vẫn còn nghĩ là phẩm giá của mình, cảm nhận thoải mái với chính mình, dính liền với các thành tựu, thành quả của mình. Đó là lý do vì sao chúng ta quyết định cho mình một mục đích khác, đặt mình vào một chu kỳ khác, và lần này đặt cho mình một mục đích khó hơn là đạt được điều không thể đạt được trên một hành tinh tự nhiên, đó là đem lại thay đổi trên một hành tinh không tự nhiên.

Thách đố mà chúng ta đối mặt để có thể thăng thiên là tới điểm hoàn toàn buông bỏ mong muốn cảm thấy thấy thoải mái với chính mình trên căn bản những thành tựu và thành quả của mình, trên căn bản những gì mình đã làm. Con cần tới điểm cảm thấy thoải mái với chính mình trên căn bản mình là ai, mình là , Sinh thể mà con là.

25.9. Khai ngộ sử dụng quyền năng siêu nhiên

Đây là khai ngộ mà thày giáp mặt khi ngồi dưới cội Bồ đề và bị Ma vương thử thách. Thày có thể dùng quyền năng siêu nhiên để làm điều gì, khiến ác ma chấn động và khâm phục. Thày bị cám dỗ trong một giây lát. và đã tới “gần kề” quyết định sử dụng quyền năng đó. Nhưng thày đã có thể tự kiềm chế, giữ tâm không dính mắc, và dùng thủ ấn chạm đất (động tác chạm đất với các ngón tay của một bàn tay) để chạm mặt đất và kêu lên: “Vajra (Kim cương)!” Thày có quyền ở đây mà không làm gì, và chỉ (mà không phải là chỉ) bằng cách là. Con cũng có thể tới điểm đó khi con buông bỏ mong muốn làm bất cứ điều gì trên trái đất.

Điều này không có nghĩa là con sẽ ngồi dưới một gốc cây phần còn lại của cuộc đời và không làm gì cả. Con rất có thể có một cuộc đời tích cực. Con cũng có thể, như Giê-su có nói, có một cuộc đời “bình thường” và biểu hiện bản thể cao của con qua cuộc đời thoạt trông bình thường đó. Con cũng có thể làm một số chuyện tạo được thành quả trong thế gian và cải thiện điều kiện sống trên trái đất, nhưng con không làm từ cái ngã tách biệt lúc nào cũng cảm thấy thiếu thốn, bất toại nguyện. Con chỉ là gì con là và để ánh sáng của Dòng sông sự Sống tuôn chảy xuyên qua con. Con để ánh sáng làm công việc của nó thay vì con làm với tâm vỏ ngoài cảm thấy phải làm việc này, hay cảm thấy chính mình đã hoàn thành việc này. Con nhận ra với Giê-su: “Tự ta, ta không làm được điều gì cả.”

Các con yêu dấu, các thày rất hân hoan được trao truyền các giáo lý này ở hội nghị này, sẽ giúp vị sứ giả hoàn thành một quyển sách là khía cạnh Omega của quyển sách mới. Các con có một số dụng cụ và giáo lý giúp con thiết lập một thủ tục từng bước tháo gỡ những dính mắc mà các avatar thường có. Điều này có nghĩa là con có thể dần dần tới điểm con ngồi yên, giáp mặt Ma vương, chế ngự cám dỗ hành động xuyên qua cái ngã tách biệt muốn làm, muốn người khác khâm phục, muốn ép buộc. Thay vào đó, con có thể trụ vào bên trong, chạm đất và tuyên bố quyền ở đây trong trạng thái tâm là thuần khiết, khác với “mong muốn làm” của tâm thức nhị nguyên.

Dù một số trong các con chưa trải qua tiến trình này và chưa hoàn toàn tới điểm này, nhưng thày muốn các con làm thực tập này với thày. Con hãy giơ bàn tay phải ra, chĩa xuống phía dưới, thày biết là các con không thể chạm mặt đất vì đang ngồi trên ghế, nhưng con hãy tưởng tượng, hình dung là ngón tay con chạm mặt đất. Sau đó, chúng ta cùng nhau nói: “Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra,” và một lần cuối: “Vajra.” 

Như vậy, mọi chuyện đã tác thành và thày niêm phong con, niêm phong hội nghị này trong tình thương và niệm vui của Phật, mà TA LÀ.

18 | Liệu pháp tâm linh để khắc phục nỗi giận

Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Thày tới đây để trao truyền cho các con một bài giảng sẽ bổ túc bài giảng của Sanat Kumara với một số khía cạnh. Nhiều người tâm linh khắp thế giới, nhiều tín đồ tôn giáo khắp thế giới, nhiều học trò chân sư thăng thiên khắp thế giới đã tạo ra một loại cơ cấu trong tâm lý kiềm giữ họ trên đường tu.

18.1. Không tránh được chuyện phản ứng với trái đất

Các thày đã nói nhiều lần là khi con xuống đầu thai trên một hành tinh giống như trái đất, không tránh được chuyện con sẽ bị lôi cuốn vào một khuôn nếp phản ứng. Con yêu dấu, cũng không tránh được chuyện con sẽ có những cảm xúc khi con gặp một số hoàn cảnh mà con không né tránh được trên trái đất, như bạo lực, chiến tranh và nhiều hình thái khác của đấu tranh và hà hiếp.

Giản dị là con hầu như không thể tránh nổi giận hay oán trách những gì con trải nghiệm trên hành tinh này. Con có thể có nhận biết rất vi tế, rất trực nhận, mà con thường không hình thành ra lời, một nhận biết cuộc sống phải như thế nào. Điều này dựa trên ý niệm của con về cuộc sống trên một hành tinh tự nhiên. Trên một hành tinh tự nhiên, nổi giận và oán trách là những cảm xúc không tự nhiên. Trên một hành tinh không tự nhiên như trái đất, nói một cách khá thẳng thắn thì nổi giận và oán trách là “tự nhiên.” Làm sao con có thể hiện thân trên một hành tinh như thế này mà không cảm thấy phần nào nổi giận hay oán trách những chuyện đang xảy ra ở đây?

Tuy nhiên, dựa trên ý niệm vi tế của một số trong các con đã tới đây với sứ vụ giải cứu (ý niệm là cuộc sống phải như thế nào trên một hành tinh tự nhiên), con thường có ý niệm là con không được nổi giận hay oán trách. Các sa nhân đã khôn khéo củng cố ý niệm này trong nhiều phong trào tôn giáo và tâm linh. Nhiều người tâm linh, kể cả nhiều đệ tử chân sư thăng thiên, có ý niệm là một người tâm linh, một đệ tử chân sư thăng thiên không bao giờ được nổi giận hay oán trách. Con yêu dấu, quyết định chấp nhận với tâm lý trí của mình ý tưởng là người đệ tử chân sư thăng thiên không được nổi giận sẽ không giải quyết được nỗi giận đã có trong thể tình cảm của con và đã tồn đọng ở đó trong nhiều kiếp sống.

Do đó thày tới đây để trao cho con một dụng cụ và một số giáo lý giúp con giải quyết vấn đề này. Trước tiên, con cần nhận ra con tới đây, con yêu dấu, để trầm mình vào tâm thức của trái đất này. Nếu chính con không trầm mình thì làm sao con làm gương cho những người đã sống sẵn trên hành tinh này, làm sao con có thể kéo họ lên khỏi tâm thức tập thể? Con thấy chăng, con yêu dấu, là những dòng sống đã ở đây lâu hơn con nhiều coi nóng giận và oán trách là điều quá tự nhiên và không thể tránh đến độ họ không thấy được trạng thái nào khác? Để con có thể phụng sự như một tấm gương, con cần phải đi vào một khuôn nếp phản ứng, con cần phải cảm thấy nóng giận và oán trách và sau đó con cần vượt lên trên chúng. Lúc ấy, con phụng sự như một tấm gương. Con không thể giúp những người này nếu con không trải nghiệm những gì họ trải nghiệm.

18.2. Kéo tâm thức tập thể lên cao

Giờ đây, con yêu dấu, các thày đã nói nhiều, nhiều lần về chuyện kéo tâm thức tập thể lên cao hơn. Làm sao con làm được điều này? Ấy, con chỉ làm được nếu con là một phần của tâm thức tập thể. Điều này hoàn toàn hợp lý phải không? Trừ khi con đi vào và trầm mình trong tâm thức tập thể, phản ứng như mọi người trên trái đất phản ứng, con không tạo được mối dây thắt chặt mình với tâm thức tập thể để có thể kéo nó lên cao một khi con bắt đầu giai đoạn tỉnh thức và bắt đầu nâng mình lên khỏi tầng tập thể.

Nếu con chưa bao giờ nối kết với tâm thức tập thể, nếu con chưa bao giờ là một phần của nó, con sẽ chỉ là người khách lạ trên trái đất. Có thể là con đã tới đây, có thể là con tránh không đi vào khuôn nếp phản ứng, có thể con mãi mãi giữ mình thanh khiết, và có thể là con nâng tâm thức của con lên tới tầng thăng thiên, nhưng làm sao cuộc sống của con thành một tấm gương được, làm sao cuộc sống của con có thể nâng tâm thức tập thể lên được?

Con thấy chăng, đây chính là điều họ đã làm đối với Giê-su và một phần lớn đối với thày, họ đã mô tả hai thày là những người rất đặc biệt ngay từ khi sinh ra, đến độ hai thày không bao giờ thật sự là một phần của tâm thức tập thể. Như thế, họ đã tìm cách bác bỏ việc hai thày là tấm gương, nhưng họ còn tìm cách lan truyền ảo tưởng là hai thày không thể nào kéo tâm thức tập thể lên cao vì hai thày chưa bao giờ là một phần của nó. Ấy, hai thày thực sự một phần của tâm thức tập thể, con yêu dấu. Hai thày đã đi vào nhị nguyên, hai thày đã phản ứng, hai thày đã ở trong một trạng thái tâm thức thấp trong nhiều kiếp sống. Sau đó, hai thày tỉnh thức chính mình và hai thày nâng mình lên các tầng cao hơn và đó là lý do tại sao hai thày đã có thể kéo tâm thức tập thể lên cao.

18.3. Dòng chảy năng lượng trong bốn thể phàm của con

Bây giờ, có thể nói điều bí mật mà thày muốn trao cho con ở đây là một số các con (đặc biệt là khi con đạt tới các tầng cao hơn và con hòa điệu được nhiều hơn, có nhiều trải nghiệm trực giác hơn) có một ý niệm (và có thể là con chưa bao giờ hình thành nó ra lời nhưng nhiều người trong các con vẫn có ý niệm đó) là trên một hành tinh tự nhiên có dòng chảy tự nhiên của năng lượng xuyên qua bốn thể phàm của con. Nói cách khác, năng lượng từ Hiện diện TA LÀ của con tuôn vào thể bản sắc, rồi vào thể lý trí, rồi vào thể tình cảm và sau đó đi tới thể vật lý.

Con yêu dấu, trên một hành tinh tự nhiên con không bao giờ trải nghiệm dòng chảy ngược lại, con không bao giờ trải nghiệm có điều gì đó ảnh hưởng con ở tầng vật lý từ đó tạo ra một đáp ứng hay phản ứng nơi thể tình cảm, rồi phản ứng này ảnh hưởng tư tưởng của con và ngay cả ý niệm bản sắc của con. Nhiều người trong các con có ý niệm là con phải có dòng chảy từ trên xuống dưới và điều này có nghĩa là con phải làm chủ bốn thể phàm của mình. Thể bản sắc phải làm chủ thể lý trí, thể lý trí phải làm chủ thể tình cảm và thể tình cảm phải làm chủ hành động của con.

Lẽ dĩ nhiên, khi con tới trái đất, sa nhân đã rất thiện nghệ trong chuyện bắt con phải chịu chấn thương nguyên thủy đó, cú sốc nguyên thủy đó, khốc liệt đến độ, gây sốc đến độ con không sao tránh khỏi chuyện có phản ứng cảm xúc. Phản ứng cảm xúc mạnh đến độ nó đi lên thể lý trí, ảnh hưởng những niềm tin của con về cuộc sống trên hành tinh này. Thậm chí nó đi vào thể bản sắc của con và ảnh hưởng tầm nhìn của con về quan hệ giữa con với hành tinh này, điều gì con có thể làm và không thể làm trên hành tinh này, điều gì con được phép làm và không được phép làm trên hành tinh này. Điều con trải nghiệm sau chấn thương nguyên thủy là một dòng chảy ngược chiều qua bốn thể phàm của con. Tầng vật lý bắt đầu ảnh hưởng cảm xúc của con, cảm xúc ảnh hưởng suy nghĩ của con, suy nghĩ ảnh hưởng ý niệm bản sắc của con – thay vì theo hướng ngược lại.

18.4. Đè nén nỗi giận

Khi con tìm thấy con đường tâm linh, con yêu dấu, con thường tới điểm mà (dựa trên những giáo lý vỏ ngoài hay trực giác của con hay cả hai thứ gom lại) con có cảm nhận là con phải làm chủ bốn thể phàm của con. Do đó, con phải có thể quyết định: “Một đệ tử chân sư thăng thiên lý tưởng là một người không bao giờ nổi giận và do đó tôi không bao giờ được nổi giận.” Sau đó, khi con thấy thể tình cảm của con phản ứng không đúng ý con, con không biết phải làm gì. Rất nhiều tín đồ tôn giáo, hay người tâm linh và đệ tử chân sư thăng thiên, đã tạo ra một lập trình trong thể lý trí được thiết kế để đè nén những cảm xúc mà họ dán nhãn là “không muốn có.”

Bây giờ thì con có, như chúng ta đã đề cập tới trước đây, một lập trình phản ứng nào đó trong thể tình cảm khiến con phản ứng với sự giận dữ trong một số tình huống. Nhưng vì con quá sức muốn là một đệ tử chân sư thăng thiên tốt, con không dám nhìn nhận điều đang xảy ra. Ngay lập tức, con tìm cách khởi động lập trình trong thể lý trí, ngay cả đôi khi một lập trình trong thể bản sắc, để đè nén cảm xúc nóng giận. Điều này có nghĩa là có một số người làm vậy giỏi đến độ họ còn không nhận ra được một cách ý thức là họ cảm thấy nóng giận khi nó xảy ra.

Lẽ dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là nỗi giận không hiện hữu trong thể tình cảm. Có nhiều người (và con có thể tìm thấy những người đó trong tất cả các phong trào tôn giáo, tất cả các phong trào tâm linh và trong tất cả các phong trào chân sư thăng thiên) trên bề mặt trông có vẻ hoàn toàn tự chủ và rất hài hòa. Họ thường nói với giọng điềm đạm, chậm rãi, có thể là một cách hơi kẻ cả như họ đang nói với trẻ con. Con có thể cảm thấy được (nếu con hòa điệu với họ) là bên dưới họ có sự căng thẳng. Trong trường hợp một số những người này, nếu con thấy được hào quang của họ, con sẽ thấy giống như một núi lửa đang phun ra trong thể tình cảm của họ và chất macma nóng bỏng là năng lượng giận dữ của họ lúc nào cũng chực tuôn tràn ra khỏi bờ của miệng núi lửa.

Một cách nào đó, họ kiềm giữ được cơn giận trong hầu hết tình huống, nhưng trong một số hoàn cảnh họ không kiềm giữ được và cơn giận có thể trào ra và họ có thể biểu lộ cơn giận đó với những người mà họ xem là dưới họ theo thứ bậc mà họ đã thiết lập. Hoặc là họ có thể tới điểm họ cảm thấy quá giận vị đạo sư, vì vị đạo sư bỏ họ đi (như đã xảy ra trong một tổ chức trước mà con biết) nên họ công khai biểu lộ cơn giận.

Bây giờ thày muốn con nhận ra (vì con đang trở thành người đệ tử chân sư thăng thiên trưởng thành hơn) là con không khắc phục được nỗi giận bằng cách đè nén nó. Con không khắc phục được bất cứ điều gì bằng cách đè nén nó. Con cần nhận ra có một thời điểm (một lần nữa một giai đoạn trên đường tu) khi đè nén nỗi giận là điều xây dựng vì nó ngăn cản con không liên tục rơi vào các khuôn nếp phản ứng cứ càng ngày càng tạo thêm năng lượng giận dữ, hay càng ngày càng củng cố thêm khuôn nếp cho phép mình phản ứng một cách giận dữ.

Trong một thời gian, đè nén cơn giận với một lập trình trong thể lý trí của con là điều cần thiết và xây dựng. Nhưng cũng sẽ tới một điểm mà nó không còn xây dựng nữa. Nếu con không thay đổi, con sẽ đi vào chỗ bế tắc vì con không thể giải thoát mình khỏi năng lượng tình cảm. Con đang kéo lê nó theo con. Ngày nào con còn giận dữ, thì con không thể đi vào tâm trạng mà các thày đã đề cập: chấp nhận con ở đây, bình an với chuyện con ở đây, cảm thấy thoải mái là con ở đây.

18.5. Một bài tập để vượt lên trên nỗi giận

Con cần tới điểm nhận ra con đã đầu thai trên một hành tinh cực kỳ khó khăn. Nó rất không tự nhiên, nhưng chính vì nó quá sức không tự nhiên, nên điều “tự nhiên” là con cảm thấy một nỗi giận và oán trách nào đó về chuyện con ở đây, chuyện con phải trải nghiệm những gì con đã trải nghiệm và không từ bỏ được nơi này khi con đã cảm thấy quá chán ngán. Như Sanat Kumara đã nói, con phải chịu quy luật ở đây và con phải bước trên con đường tu ở đây.

Thày cần con làm bài tập nhỏ này nếu con muốn vượt qua trở ngại này. Thày cần con nhận ra là con cần khám phá xem con có còn chất chứa nỗi giận hay oán trách nào trong thể tình cảm của con không. Để biết được điều này, thày đề nghị con làm bài tập sau đây.

Con đi tới chỗ nào con biết không ai nghe được con. Nếu không phải là trong nhà của con thì con cứ đi nơi khác: vào trong thiên nhiên, hay lái xe đi tới chỗ nào đó nếu con có xe. Con hãy tìm một chỗ mà không ai nghe được con, dù con hét to tới đâu chăng nữa. Sau đó, thày muốn con hòa điệu vào tâm mình và tưởng tượng con đang nhìn hành tinh này từ ngoài không gian. Sau đó, thày muốn con cho phép tâm mình đi vào một trong những biểu hiện xốn xang nhất mà con thấy được trên hành tinh này. Điều gì làm cho con xốn xang nhất, làm cho con thật sự cảm thấy nó không được có mặt ở đây? Sau đó, thày muốn con nhận ra là vì con có cảm xúc mạnh mẽ về vấn đề này, nên rất có thể con đã trải nghiệm nó trong nhiều kiếp sống và con không thể tránh cảm thấy giận dữ.

Bây giờ thày muốn con tưởng tượng con đang nói chuyện thẳng với sa nhân hay những người hiện thân đã thị hiện vấn đề này. Sau đó thày muốn con cảm thấy được tự do nói bất cứ điều gì con muốn nói với họ và nói với họ bất cứ cảm xúc nào mà con có: giận dữ, oán trách, sợ hãi – bất cứ cảm xúc nào hiện lên trong con khi con nghĩ tới vấn đề này. Thày không quan tâm là con hét to bao nhiêu, thày không quan tâm con cần biểu lộ bao nhiêu ý tưởng và tình cảm. Thày cho con tự do để biểu lộ chúng vì thày muốn con hòa điệu vào cái gì đang ẩn náu trong thể tình cảm của con. Thày không nhất thiết bảo con làm điều này trong suốt mấy giờ đồng hồ. Đây không phải là liệu pháp gào thét ban sơ (primal scream therapy), nhưng mục đích là để con chạm vào điều mà con chưa thấy ra hay chưa thấy rõ trong thể tình cảm của con.

Một khi con đã nhìn nhận nỗi giận này, thì con cũng cần nhìn nhận là con đã tiến lên một tầng nào đó trên con đường tâm linh. Do đó, con có thể chuyển đổi tâm thức và thấy đây là một phản ứng hoàn toàn tự nhiên, con yêu dấu. Không có gì sai trái với nó, không có gì không tâm linh về nó. Không ai trong chúng ta có thể hiện thân trên trái đất mà không phản ứng một cách giận dữ, thày cũng thế – không phải ở trong kiếp cuối cùng của thày như là Phật, nhưng chắc chắn thày có nổi giận trong các kiếp trước đó. Con hãy nhìn Giê-su biểu lộ sự giận dữ đối với những người đổi tiền.

Con nhận ra là con đã tiến lên một tầng cao hơn trên con đường tu. Do đó, con không cần lên án mình vì con nổi giận hay vì bất cứ cảm xúc nào khác. Con chỉ cần nhận ra con có cảm xúc đó và bây giờ đã tới lúc con vượt lên trên nó.

Con có thể dùng những dụng cụ mà các thày đã trao cho các con, các bài chú để cầu thỉnh ánh sáng, con có thể dùng các bài thỉnh các thày đã trao cho các con. Trước tiên hết, thày muốn con đọc các bài chú bảo vệ mình, đọc bài thỉnh nào con cảm thấy muốn đọc, và khi con về nhà thì con hãy tìm một nơi con có thể ngồi yên lặng và con hãy dành thời gian yên tĩnh cho mình. Sau đó, một lần nữa con hãy tiếp xúc với nỗi giận của con và làm một điều mà nhiều người trong các con chưa từng làm trước đây.

Con thấy chăng, nhiều người tâm linh dựng lên một bộ mặt họ phải như thế nào ở bên ngoài. Do đó, họ không thấy được những gì ẩn náu dưới cái biết bề mặt. Một số người còn nghĩ rằng các chân sư thăng thiên không thấy nó, nhưng lẽ dĩ nhiên, đây là một niềm tin khá ngây ngô. Con cần tới điểm nhận ra rằng các thày đã thấy những gì ẩn náu trong tiềm thức của con. Con không cần hổ thẹn khi chính con nhìn thấy nó vì con nghĩ rằng nếu con thấy nó, thì bỗng nhiên các thày thấy nó và sau đó các thày sẽ lên án con.

Đối với các thày, bí mật đã lộ ra rồi. Con không thể giấu các thày bất cứ điều gì, con yêu dấu. Như Saint Germain đã nói về xã hội giám sát, con hãy tới điểm mà con giản dị chấp nhận: “Tôi không có nhu cầu che giấu bất cứ điều gì với các chân sư thăng thiên và do đó tôi không có nhu cầu che giấu bất cứ điều gì với chính mình. Vì tôi biết các chân sư sẽ không lên án tôi, nên tôi không cần lên án chính mình. Cho nên bây giờ tôi có thể bước một bước mà hầu hết mọi người sợ không dám làm, đó là tôi nối kết với nỗi giận, và thay vì không muốn nhìn nó, trốn chạy xa khỏi nó, che lấp nó đi, thì tôi có thể nhìn nhận nó có mặt và tôi có thể đi thẳng vào trong nó.”

18.6. Đối mặt với nỗi giận của con

Con từng nghe câu nói là cách duy nhất để khắc phục nỗi sợ là đối mặt với nỗi sợ. Con không thể làm điều này ở các tầng thấp trên đường tu vì con có thể chìm đắm trong cơn giận, con có thể bị choáng ngợp bởi nó vì con có thể còn đồng hóa mình quá nhiều với nó. Các con nào ở tầng cao hơn, sẵn sàng đón nhận lời dạy này, thì các con có thể làm được.

Con có thể bước vào cơn giận và trải nghiệm đứng giữa vũng nước xoáy của cơn giận. Sau đó, con có thể nối kết một cách ý thức với điều mà các thày gọi là nhân tính cơ bản của con. Nó thật sự là sự liên tục của bản thể con, là phần của bản thể của con vượt lên trên mọi thứ trên trái đất và không thể bị quy định bởi bất cứ điều gì trên trái đất. Nhân tính cơ bản này đã giúp cho một số người trong các trại tập trung duy trì phần nào ý niệm nhân bản của họ giúp họ tồn tại về mặt tâm lý và ngay cả có một cuộc sống tích cực sau đó. Con có thể nhận ra là bên trên nỗi giận là nhân tính cơ bản của con. Nó không bị thay đổi bởi nỗi giận và do đó con có thể nhìn vào cơn giận và nhận ra: “Đây không phải là tôi. Nó còn không phải là nỗi giận của tôi, nó là phản ứng của tự ngã của tôi.” Một lần nữa, phản ứng của con là chuyện tự nhiên, nhưng bây giờ con thấy là con đã tiến lên một ý niệm bản sắc cao hơn trong đó con không cần phản ứng như vậy nữa. Con thật sự có thể “buông bỏ” nó.

18.7. Thiết lập dòng chảy năng lượng tự nhiên

Con yêu dấu, thày đã nói là trên hành tinh trái đất, dòng chảy năng lượng có thể đi ngược chiều qua bốn thể phàm. Sa nhân có thể ép con vào những tình huống vật chất tạo phản ứng tình cảm đi ngược lên tầng bản sắc. Những phản ứng này đã không ảnh hưởng cái Ta Biết của con. Khi con nối kết với nhân tính cơ bản, với nhận biết thuần khiết, với ý niệm bản sắc như cái chấm, thì con có thể giải hóa nó. Một khi con giải hóa nó, thì sự xâm nhập của sa nhân vào bốn thể phàm của con bị tan biến.

Họ không còn có thể ép con phản ứng ở tầng vật lý từ đó đi ngược lên ba thể cao. Con vẫn có thể gặp những cảnh huống hay vẫn có thể phải đối đầu với một số điều kiện ảnh hưởng người khác, nhưng con có thể né tránh dòng chảy năng lượng đi ngược lên (khi con chứng kiến chuyện xảy ra trên trái đất hay trải nghiệm nó), dòng chảy này đi lên thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Thay vào đó, con có thể tái lập dòng chảy tự nhiên qua đó con làm chủ thể bản sắc, con làm chủ thể lý trí, con làm chủ thể tình cảm.

Bất kể điều gì xảy ra ở tầng vật lý, con có thể quyết định một cách ý thức sẽ phản ứng ra sao. Đây là quả vị Phật, đây cũng là những tầng cao của quả vị Ki-tô. Ở các tầng thấp của quả vị Ki-tô, con chưa làm được chuyện này. Khi con lên cao hơn, con cần tới điểm con sẵn sàng nhìn nhận những cảm xúc con có và con sẵn sàng xem xét với tâm trung hòa bất cứ cảm xúc nào trong thể tình cảm. Sau đó con cần khắc phục chúng và bỏ chúng lại đằng sau vì chỉ lúc đó con mới tránh không bị dòng năng lượng chảy ngược. Con có thể tái lập lại dòng chảy năng lượng tự nhiên cho phép con chọn một cách ý thức phản ứng của mình trước bất cứ điều kiện hay hoàn cảnh vật lý nào. 

Điều này có nghĩa là con có thể một cách ý thức chọn phản ứng với tình thương, ngay cả trong những hoàn cảnh mà hầu hết mọi người khác phản ứng với sợ hãi. Đây là cách con hoàn thành mục tiêu cao nhất của con khi con xuống đây, đây là cách con làm gương, đây là cách con kéo tâm thức tập thể lên. Dù con đã kéo mình lên khỏi tâm thức tập thể, con vẫn còn một cảm nhận nào đó, một ký ức nào đó, một sự kết nối nào đó với nó. Đây không phải là loại kết nối áp đảo con mà là loại kết nối cho phép con kéo tâm thức tập thể lên. Có thể nói, con là sợi thớ trong tấm thảm và khi con kéo mình lên, con kéo toàn thể tấm thảm lên theo.

Con yêu dấu, đây là tầm nhìn cao của việc áp dụng giáo lý của Sanat Kumara và của các thày khác để con tới được điểm con biết tại sao con ở đây và con biết con đang hoàn thành lý do vì sao con ở đây. Con bình an với chuyện con ở đây, con chấp nhận con đang đầu thai trên hành tinh này ở thời điểm này. Do đó, con cảm thấy thoải mái với chính mình nhưng hơn thế nữa, con cảm điều mà Phật cảm về Phật. Cảm nhận này vượt lên trên ngôn từ, vượt lên trên an bình, vượt lên trên sự tốt lành, vượt lên trên tình thương. Đây là một cảm nhận không cần mô tả thành lời, nhưng con có thể có cảm nhận này. Khi con có nó, con sẽ hiểu tại sao nó vượt lên trên ngôn từ.

Con yêu dấu, thày cũng gửi lòng biết ơn tới rất đông các con đã tới dự hội nghị này và sẵn sàng nâng cao tâm thức mình. Do đó, thày như là một vị Phật mà thày là, được hân hạnh và hân hoan niêm tất cả các con, từng cá nhân các con một, và thày niêm hội nghị này trong trái tim và sự an bình của Phật mà thày là. TA LÀ Gautama.

Giải tỏa bí ẩn của con đường quả vị Phật

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 6 tháng 5 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Phật, tên ta là Gautama. Thày muốn nhân cơ hội này trình bày một số đề tài có vẻ không nói tới Hàn Quốc. Tuy không nói gì về Hàn Quốc, thày vẫn nói điều gì đó về Hàn Quốc cho những ai có thể hiểu được.

Nếu con tìm hiểu bài giảng tuyệt vời của Giê-su về Con đường Quả vị Ki-tô, con sẽ thấy, con yêu dấu, là có một số giai đoạn trên con đường này. Đặc biệt là khi con tới gần và vượt qua tầng 96, con sẽ phải đối mặt một số thách đố, con phải đối phó với chúng để có thể tiến lên cao hơn tới tầng 144. Chúng ta có thể xem những thách thức này giống như một số nghịch lý, một số bí ẩn, mà con phải giải quyết trước khi con có thể vươn cao lên tới một tầng cao hơn của đường tu. Có một số bí ẩn như thế, nhưng thày sẽ không đi vào tất cả mà chỉ bình luận một số.

10.1 Thấy mâu thuẫn hay nhìn vượt quá chúng

Bây giờ, con thấy chăng con yêu dấu, khi các thày là chân sư thăng thiên tiếp cận với nhân loại chưa thăng thiên để trao truyền một giáo lý, các thày đối mặt một khó khăn đặc thù mà ít người đang hiện thân hiểu được. Sự thực là khi con là một chân sư thăng thiên, con đã thăng vượt tâm đường thẳng, nhị nguyên và phân tích. Do đó, con có một sự nhận biết quả cầu hơn; con không nhìn mọi sự qua phin lọc của hai cực, của cực đoan, của phê phán giá trị và một thang giá trị. Con không có cái tâm đường thẳng so sánh lời này với lời kia và có thể nó thấy có mâu thuẫn vì hai câu có vẻ như không nói cùng một chuyện.

Lẽ dĩ nhiên các thày biết là trên thực tế những người chưa thăng thiên ở trong trạng thái tâm dễ nhìn thấy mâu thuẫn vì họ tìm cách giải thích mọi chuyện với tâm đường thẳng. Họ nghĩ phải hiểu lời này theo nghĩa đen, phải hiểu lời kia theo nghĩa đen; và khi con lấy nghĩa đen của hai lời nói thì chúng có vẻ mâu thuẫn. Giờ đây con yêu dấu, có nhiều học viên tâm linh đã bắt đầu học hỏi giáo lý tâm linh hay cũng như vậy, học hỏi giáo lý của các tôn giáo, và họ thấy, theo nhận thức của họ, là có những mâu thuẫn. Nhiều người trong thế giới Tây phương đã dùng những điều có vẻ mâu thuẫn trong kinh sách tôn giáo để lý luận theo khoa học hay chủ nghĩa duy vật là mọi tôn giáo đều là chuyện giả dựng và không nói lên điều gì thực sự hợp lý.

Lẽ dĩ nhiên đây là hậu quả cùng cực khi sử dụng tâm đường thẳng. Ngay cả nhiều người mộ đạo hay tâm linh cũng tìm thấy mâu thuẫn, thường là giữa hai giáo lý tâm linh khác nhau. Điều này khiến họ nghĩ là họ phải suy luận rằng một trong hai cái là đúng và cái kia là sai. Còn có cả những người bắt đầu thấy mâu thuẫn ở trong một giáo lý tâm linh và điều này làm họ hoang mang, và ngay cả bỏ con đường tu. Mục đích của thày ở đây là đưa ra một số nhận xét có thể giúp con vượt quá giai đoạn này, vì quả thực đây là một giai đoạn trên đường tu. Có thể nói là con đã vươn lên trên tâm đường thẳng nhưng con chưa đột phá một cách ý thức và chưa giải thoát tâm ý thức của mình khỏi lối suy nghĩ đường thẳng. Con chưa thấy được một cách ý thức những giới hạn của lối suy nghĩ đường thẳng và do đó con vẫn bị xáo trộn bởi những điều trông có vẻ mâu thuẫn kia.

Nhìn một cách rất tổng quát, con yêu dấu, thì thày có thể nói với con rằng, lẽ dĩ nhiên, có thể có một số trường hợp có một số lời dạy mâu thuẫn. Các thày, khi trao truyền giáo lý qua một sứ giả chưa thăng thiên, không thể bảo đảm là không có một số sai sót len lỏi vào và có thể có một ít mâu thuẫn ở chỗ này chỗ kia. Khi con tới một mức chín chắn hơn trên con đường tu, thì con sẽ không để một sai sót hay một mâu thuẫn khiến con bác bỏ phần còn lại vẫn có giá trị của giáo lý. Tuy thế, trong đại đa số trường hợp, điều có vẻ là mâu thuẫn chỉ có vẻ mâu thuẫn vì nó được nhìn qua phin lọc của tâm đường thẳng. Khi con thấy một mâu thuẫn, phản ứng xây dựng hơn là con nói: “Tôi cần nâng tâm thức mình lên để tôi có thể có một cái nhìn cao hơn về vấn đề. Chắc phải có điều gì đó tôi chưa thấy, chưa hiểu. Khi tôi thấy nó rồi, nó sẽ giải quyết điều mà hiện giờ trông có vẻ mâu thuẫn.” Sau đó, con mở tâm ra đón nhận sự hướng dẫn trực tiếp và trực giác từ các chân sư thăng thiên, từ Hiện diện TA LÀ của con, từ cái Ta Ki-tô của con để giải tỏa bí ẩn. Hoặc con học hỏi thêm giáo lý vì con nhận ra rằng có thể có những phần giáo lý khác có thể giúp con giải tỏa bí ẩn.

10.2. Hiểu lầm về không dính mắc

Một ví dụ mà nhiều người coi là mâu thuẫn là sứ vụ của chính Phật. 2500 năm trước đây, thày giảng là mục tiêu giáo lý của thày là cho các con một con đường tu giúp các con vượt lên trên trạng thái tâm thức bình thường bằng cách đạt được sự hoàn toàn không dính mắc. Tuy thế, con yêu dấu, nếu cá nhân thày đã đạt được sự hoàn toàn không dính mắc, thì tại sao thày lại bỏ công đi giáo hóa?

Nói cách khác, nhiều người hiểu khái niệm không dính mắc có nghĩa là không quan tâm tới chuyện gì xảy ra trên trái đất. Hó lý luận rằng nếu Phật thật sự không dính mắc, thì Phật không quan tâm đến chuyện xảy ra cho người khác và nếu thế thì đâu cần bỏ công đi vào thế gian và giảng dạy một giáo lý có thể giúp họ thoát khổ? Tại sao Phật không chỉ giản dị không dính mắc và tiến lên các tầng cao hơn, và để con người khám phá những điều mà Phật đã khám phá và nhờ vậy tự giải thoát nếu có thể. Nếu họ không tự giải thoát được, thì Phật cứ để họ tiếp tục đi theo bánh xe của luân hồi và đau khổ cho tới khi họ chán ngán và tự thức tỉnh.

Con thấy chăng, con yêu dấu, không dính mắc không đồng nghĩa với không quan tâm. Tuy nhiên nó không phải là sự quan tâm của người phàm. Nó không dựa trên sợ hãi. Nó không muốn ép buộc người khác hay áp lực thế gian phải thay đổi. Không dính mắc không có nghĩa là con chọn không làm gì hết. Nó có nghĩa là con có thể chọn làm gì đó để giúp người khác, hay con có thể chọn làm chuyện khác. Nếu con chọn giúp người khác, thì con không hành động như người phàm phu muốn thấy một kết quả đặc thù. Thực ra, con không giảng dạy để đạt một mục tiêu đặc thù nào cả, con không tìm cách đạt một kết quả đặc thù từ sự giảng dạy của con. Con giảng dạy vì con muốn chia sẻ điều con đã khám phá, con muốn chia sẻ cái con là. Do đó, con không tìm cách ép buộc người khác; con cống hiến họ một trạng thái tâm thức khác với trạng thái tâm thức đang thịnh hành trên trái đất.

Một số người có thể coi sự phân biệt ở trên quá vi tế, hay có thể còn vô lý nữa. Thày công nhận điều này. Thày không thể giúp con giải tỏa những nghịch lý này nếu con chưa tới trình độ sẵn sàng làm điều mà thày vừa mô tả và nâng cao tâm thức của mình. Nếu con lúc nào cũng phóng chiếu là vấn đề “ở ngoài kia”, vấn đề ở trong giáo lý hay ở vị thày, thì con không thể giải tỏa các nghịch lý này. Lúc ấy con phải đi vào Trường đời Cay đắng và nhận đủ lượng cay đắng cho tới khi con sẵn sàng nói: “Có thể tôi mới là người phải thay đổi, có thể sự ngăn trở nằm ngay trong tâm thức của tôi thay vì là lỗi của vị thày, của giáo lý, của người khác hay của thế gian?”

10.3. Thấy được hạn chế của tâm đường thẳng

Một số các con biết câu truyện về cuộc đời của thày là sau khi thày đắc quả vị Phật, sau khi thày nhập Niết bàn và dự tính ra khỏi Niết bàn để đi giáo hóa, thì thày phải đối mặt sự chống đối của toàn bộ lực của thế gian này, nói rằng chuyện đi giáo hóa của thày thật vô ích. Trạng thái tâm thức mà thày đạt được quá khác, trong nền tảng, trạng thái tâm thức của mọi người, nên họ không thể hiểu giáo lý của thày. Nói cách khác, sự giáo hóa của thày sẽ không đem lại thay đổi nào.

Câu trả lời của thày là: “Sẽ có một số người hiểu.” Trong 2500 năm qua, một số đã hiểu nhưng chỉ có một số ít. Tuy nhiên, chúng ta đang ở một thời điểm mà nhiều người hơn đã sẵn sàng hiểu và đây là lý do vì sao bây giờ thày xuất hiện như một chân sư thăng thiên, như một trong nhiều chân sư thăng thiên khác và cố gắng trao truyền cho các con một giáo lý thích ứng với thời hiện đại.

Một lần nữa, trước khi thày quyết định làm việc này, thày phải đối mặt với lực đó và nó không phải là một sinh thể có ý thức. Lý do giản dị là, khi thày, như một chân sư thăng thiên, muốn xét xem thày làm được gì cho nhân loại chưa thăng thiên, thì thày cần hòa điệu với trình độ tâm thức hiện thời của nhân loại. Lúc đó, thày phải đối diện với sự khác biệt giữa tâm thức đại chúng và tâm thức của chính thày và có lúc thày cảm thấy như không thể nào bắc được nhịp cầu qua khoảng cách đó. Do đó, thày phải đối phó với sự việc này, thày phải tìm một cách giải quyết trong tâm mình. Thày nhìn xem con người đang ở đâu trong tâm thức và thày tìm cách giúp họ vượt lên trên mức đó và hòa điệu với một khía cạnh nào đó của Hiện diện của thày, Bản thể của thày.

Bài truyền đọc này là một biểu hiện của việc làm này, các bài truyền đọc khác của thày và của tất cả các chân sư thăng thiên cũng vậy. Điều thày muốn làm ở đây là giúp con thấy được các hạn chế của tâm đường thẳng vì tâm đường thẳng, duy lý, phân tích quả thực chiếm ưu thế trong thế giới ngày nay nhiều hơn 2500 năm trước đây.

10.4. Khi giác ngộ ngăn cản giác ngộ

Thày muốn cho con một ví dụ khác. Một khái niệm mà thày trao truyền cho thế gian hồi đó là bát chánh đạo có thể đưa con tới một trạng thái tâm thức cao mà thày gọi là giác ngộ. Thời đó, thày cố gắng giảng cho mọi người làm sao đạt được giác ngộ, và tránh đừng để khái niệm giác ngộ ngăn chận sự giác ngộ của mình. Rất ít người đã hiểu được điều này và đặc biệt là trong thời hiện đại này cũng rất ít người hiểu được, chính là vì ảnh hưởng của tâm đường thẳng.

Con thấy chăng, con yêu dấu, các thày đã trao truyền cho các con khái niệm con đường tâm linh. Các thày đã nói về 144 tầng tâm thức, nói là con có thể bắt đầu một cách ý thức con đường tu ở tầng 48 và con có thể phác họa hành trình của mình để tiến lên đến tầng 96. Con có thể đi theo một số bước hợp lý giúp con dần dần nâng cao tâm thức theo một tiến trình đường thẳng. Các thày cũng có nói là con có thể đi quá tầng 96 và một lần nữa con đi qua một số bước cho tới khi con tới tầng 144. Cách này lẽ dĩ nhiên là một tiến trình đường thẳng, nhưng con đường tâm linh hay tiến trình đạt giác ngộ không nhất thiết phải mô tả theo cách đường thẳng. Ta có thể mô tả nó theo cách quả cầu. Điều giản dị là những gì các thày trao truyền trong thời đại này thích ứng với sự kiện là các con suy nghĩ theo lối đường thẳng. Lẽ dĩ nhiên các thày đã thích nghi giáo lý, thiết kế chúng theo một cách để giúp các con dần dần thoát khỏi sự mù lòa của tâm đường thẳng và vượt lên trên nó bằng cách dám đi theo trực giác, vì trực giác không theo đường thẳng.

Thày vẫn muốn đưa ra ở đây một số ý về khái niệm giác ngộ. Để có thể hiểu nó trọn vẹn, chúng ta cần bước lui về một chút. Thày cố trao truyền giáo lý này 2500 năm trước, nhưng trao truyền nó vào thời ấy quả thực khó khăn hơn. Con có thể nói điều trớ trêu là nó khó khăn hơn vì con người thời đó không suy nghĩ theo đường thẳng giống như con người thời nay.

Con yêu dấu, không phải là thời trước tốt hơn, hay người thời trước đón nhận giáo lý tâm linh hơn người thời nay. Thày cũng không muốn nói ở đây là sự phát triển của tâm đường thẳng đã là một thoái hóa. Nó chỉ là một thoái hóa khi nó được dùng một cách cùng cực. Sự phát triển của tâm đường thẳng trong dạng cao của nó quả thực được thiết kế bởi các chân sư thăng thiên. Nó là một bước tiến hợp lý sau lối suy nghĩ thần thoại, thần thông của con người trước thời hiện đại. Chính là vì con có tâm đường thẳng hơn mà các thày có thể trao truyền một cách nhìn mới về giác ngộ và tại sao khái niệm của con về giác ngộ có thể ngăn chận sự giác ngộ của con.

10.5. Những hạn chế của sự hiểu biết

Các con có, trong tư duy hiện đại, khái niệm về sự hiểu biết (understanding) một điều gì. Con có ý niệm là có một mức hiểu biết thấp khi con chưa có đủ kiến thức và tầm nhìn thấu suốt (insight). Sau đó, con có thể đi theo một tiến trình thu thập càng ngày càng nhiều hiểu biết và tầm nhìn thấu suốt cho tới khi con thấy được điều mà trước đó con không thấy được khi con chưa có đủ kiến thức cao. Điều này giúp các thày dễ trình bày hơn một con đường tu hợp lý, theo đó các thày có thể khiến hành giả trụ vào lòng mong muốn tiến triển của họ. Các thày có thể trao truyền cho họ một tiến trình rất tuần tự, đi từng bước để tăng triển kiến thức và sự hiểu biết của họ về khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Tuy thế con cũng có thể hiểu được ở đây, ngay cả với tâm đường thẳng, là hiểu biết có nhiều tầng mức. Điều này dễ nhìn thấy.

Một vài trăm năm trước đây, ngay cả các nhà khoa học cũng chỉ có một hiểu biết giản dị và sơ khai về vũ trụ vật chất so với ngày nay. Ngày hôm nay, họ có một hiểu biết tinh xảo hơn, chi tiết hơn, sâu sắc hơn. Ở đây có sự tiến bộ, nhưng con có thể chuyển đổi cách hiểu của tâm đường thẳng và thấy rằng tăng triển kiến thức không phải chỉ bằng một cách hay chỉ ở trong một hệ thống.

Con yêu dấu, ta có để đưa ra ví dụ giản dị của khái niệm nguyên tử. Tất cả vật chất được tạo ra từ nguyên tử và ngay cả nguyên tử cũng được tạo ra từ những phần nhỏ hơn, gọi là hạt cơ bản. Thày vừa trình bày kiến thức này cho con bằng ngôn từ rất giản dị nhưng các nhà khoa học đã mất mấy thế kỷ để khai triển kiến thức này. Ngay đây, thày vừa trình bày kiến thức này cho con bằng một ngôn ngữ là Anh ngữ, nhưng con cũng có thể trình bày kiến thức này bằng tiếng Hàn, tiếng Tàu hay tiếng Pháp hay bất kỳ ngôn ngữ nào khác. Đó là cùng kiến thức đó nhưng được phát biểu với những từ ngữ khác.

Con cũng có thể thấy với tâm đường thẳng là khoa học nói chung tìm cách mô tả sự vận hành của vũ trụ vật chất, nhưng không phải chỉ có một ngành khoa học. Thí dụ, con có ngành vật lý học và con ngành hóa học. Khi con dùng cái nhìn của vật lý học về cách vận hành của vật chất, thì con mô tả cách vận hành này theo một cách. Khi con dùng cái nhìn của hóa học, thì con lại mô tả một cách khác.

Không phải là hai cách nhìn loại trừ nhau hay không tương hợp. Chúng là những cách khác nhau để mô tả cùng một hiện tượng. Sau đó, con có thể nhìn rộng hơn và thấy điều mà con gọi là sự sống trên trái đất hơn khía cạnh vật chất vật lý. Cũng có cái mà con gọi là sự sống sinh học được mô tả bởi khoa sinh vật học. Sinh vật học không tương phản với vật lý học hay hóa học. Nó có thể xem xét những hiện tượng hơi khác một chút nhưng điểm chính là nó mô tả sự sống một cách khác. Rồi con có thể tiến xa hơn nữa và thấy là có nhiều khoa vật lý đã tìm cách diễn tả những khám phá của họ bằng ngôn ngữ toán học. Bây giờ thì con thấy có ngôn ngữ thường ngày mà con người sử dụng để giao tiếp trong đời sống hàng ngày của họ, và có ngôn ngữ toán học mà các nhà khoa học dùng để mô tả một số hiện tượng vượt quá những gì con người chạm trán trong đời sống bình thường.

Thực sự con không thể nói là ngôn ngữ toán học tương phản với ngôn ngữ hàng ngày. Đây là hai cách khác nhau để mô tả, trong nhiều trường hợp, cùng một hiện tượng. Lẽ dĩ nhiên, toán học có thể mô tả một số hiện tượng hay mô tả chúng chính xác hơn ngôn ngữ hàng ngày. Mặt khác, con yêu dấu, ngôn ngữ hàng ngày rất hữu ích cho nhiều ứng dụng thực tế. Một ví dụ ngớ ngẩn, con yêu dấu, là con hãy thử vào một tiệm McDonald’s và gọi mua một cái bánh thịt hambua (hamburger) bằng cách dùng một công thức toán và ai biết con sẽ nhận được món hàng gì. Con thấy ở đây là với tâm đường thẳng mà con người có ngày nay, con có thể thấy được là những ngành khác nhau của khoa học là những cách song song để mô tả cùng một hiện tượng.

Con cũng có cả khái niệm, đã được một số người khai triển dựa trên những khám phá của khoa học, là có những thực tại song song, những vũ trụ song song, những chiều kích song song có thể hiện hữu lồng trong nhau. Con bây giờ có ngành vật lý học tiến bộ nhất gọi là học thuyết dây (string theory), nói về những sợi dây li ti rung động hiện hữu trong 11 chiều kích. Con bắt đầu thấy là ngay cả tâm đường thẳng cũng có thể dùng để mở rộng sự hiểu biết của con người về các khái niệm tâm linh khi con nhận ra là một giáo lý tâm linh (không nhất thiết là một tôn giáo giáo điều nhưng là một giáo lý tâm linh toàn vũ hơn) chỉ giản dị là một ngôn ngữ. Nó không chỉ là một ngôn ngữ với ngôn từ mà là một ngôn ngữ với khái niệm. Khi khoa học mô tả một hiện tượng như một sợi dây rung động và khi một giáo lý tâm linh mô tả nó như một sinh thể cơ bản, thì đây không phải là hai lối mô tả tương phản nhau mà là những lối mô tả song song của cùng một hiện tượng. Có thể khoa học không chấp nhận điều này nhưng những ai cởi mở với giáo lý tâm linh có thể thấy là có nhiều cách mô tả cùng một hiện tượng. Một số cách khiến con chú tâm vào một số khía cạnh của hiện tượng và những cách khác khiến con chú tâm đến những khía cạnh khác.

10.6. Giác ngộ không phải là một khái niệm

Thày đã bắt dầu bài giảng dài dòng này bằng cách nói rằng thày sẽ giải thích vì sao trao truyền khái niệm về giác ngộ có thể ngăn chận sự giác ngộ của con. Bây giờ chúng ta cần dùng các nhận xét của thày để đi tới được điểm nhận ra rằng khi khoa vật lý học mô tả vật chất một cách và khoa hóa học mô tả một cách khác và giáo lý tâm linh mô tả một cách thứ ba, thì cả ba lối giảng dạy này, con yêu dấu, có cùng chung một điểm là chúng cho con một khái niệm mà tâm con có thể dùng để tạo ra một hình ảnh nội tâm về hiện tượng. Con không thể nào thấy được hạt nguyên tử với mắt vật lý cho nên khi con đọc lời mô tả hạt nguyên tử của vật lý học, lời mô tả này không cho con một trải nghiệm trực tiếp về hạt nguyên tử. Nó giúp con tạo ra một hình tư tưởng về hạt nguyên tử. Bây giờ, hình tư tưởng này có thể hữu dụng vì nó cho con cảm giác là con hiểu hiện tượng. Nó cũng có thể hữu dụng trên mặt thực tiễn vì nó có thể cho phép con làm một số việc trong đời sống hàng ngày.

Tại sao thế giới hiện đại đã tạo ra được một nếp sống vật lý thoải mái tiện nghi hơn khiến con người ngày nay làm được một số điều thường nhật mà con người một ngàn năm trước không thể mơ tưởng được? Đó là vì khi tâm đường thẳng phát triển và khi tư duy khoa học đem lại cho con người một sự hiểu biết nào đó về thế giới, thì con đã có thể giải quyết những vấn đề mà con người năm trăm năm hay một ngàn năm trước không giải quyết được với sự hiểu biết của họ lúc đó. Điều này đã hữu dụng vì con người đã làm được một số chuyện trong thế giới thực tiễn và nhờ vậy họ đã tạo được một mức sống cao hơn cho đại đa số.

Đó chính là lý do vì sao Saint Germain đã bảo trợ rất nhiều công nghệ dựa trên kiến thức khoa học. Nó đã giúp con người tạo được một nếp sống thoải mái tiện nghi hơn để tâm họ được tự do theo đuổi phần tâm linh của đời sống thay vì toàn bộ năng lực bị cuốn hút trong chuyện kiếm sống. Con yêu dấu, đây rõ ràng là một sứ tiến bộ nhưng mọi chuyện trong vũ trụ vật chất đều có cái giá phải trả (ít ra là khi rất đông người còn bị mắc bẫy trong ý niệm tách biệt, trong tâm thức nhị nguyên). Như người ta thường nói, cái gì cũng có mặt trái. Mặt trái là con người quá dính mắc vào khái niệm khoa học nên không thấy được là khái niệm mô tả hiện tượng không phải là hiện tượng. Đây là một giới hạn rất quan trọng. Nhiều người trong thế giới hiện đại đã đánh mất ý niệm (mà ít nhất một ít người có thời trước) rằng tâm có những khả năng vượt quá khía cạnh đường thẳng và phân tích của tâm. Các thày đã giảng là tâm thức luôn luôn đi trước sự biểu hiện vật lý. Mỗi hiện tượng vật lý hiện hữu trong thế giới vật chất đều có một khuôn đúc tâm thức hiện hữu trong các cõi bản sắc, lý trí và tình cảm. Tâm vỏ ngoài của con, giác quan vật lý của con, phần của tâm dính chặt vào giác quan vật lý chỉ kinh nghiệm được hiện tượng vật chất, mà không trải nghiệm được tâm thức đằng sau nó.

Có những khía cạnh khác của tâm có tiềm năng trải nghiệm tâm thức đằng sau bất cứ hiện tượng vật lý nào. Khi con trải nghiệm tâm thức đó, con có được một trải nghiệm trực tiếp về toàn bộ hiện tượng. Nhưng con yêu dấu, điều này không có nghĩa là con không cần hiểu biết đường thẳng nữa. Để có thể sống trong đời sống thường nhật thực tiễn, con cần hiểu biết đường thẳng. Như một đệ tử tâm linh, con cần nhận ra là khi các thày, những chân sư thăng thiên, trao truyền một khái niệm về một hiện tượng tâm linh nào đó, thì tâm đường thẳng của con sẽ tức khắc tạo ra một hình tư tưởng trong nội tâm về hiện tượng đó.

Đây là điều mà Giê-su mô tả một cách khác trong bài truyền đọc của thày về quả vị Ki-tô khi thày nói là khi con ở tầng tâm thức 48, con hình thành một khái niệm về quả vị Ki-tô nhưng nó không thể nào là quả vị Ki-tô trọn vẹn. Do đó, con không thể nào vươn lên các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô nếu con không sẵn sàng vượt lên trên khái niệm hiện nay của con về quả vị Ki-tô và trải nghiệm một thực tế cao hơn. Thày Giê-su cũng nói là khi con đi quá tầng 96, con không còn quan tâm dùng tâm đường thẳng để hiểu nữa mà chú tâm hơn vào việc trải nghiệm. Tiến trình giác ngộ cũng đúng như vậy.

Khi thày trao truyền khái niệm giác ngộ, thày cố gắng diễn tả điều này và biết là có ít người hiểu được. Con thấy chăng, con yêu dấu, khái niệm giác ngộ chỉ là thế: nó chỉ là một khái niệm. Đối với tất cả những người ở trạng thái tâm thức thấp, thì nó chỉ có thể là một khái niệm. Họ hình thành một hình tư tưởng về giác ngộ, họ muốn thành lập một số tiêu chuẩn vỏ ngoài. Họ muốn thiết lập một con đường tu máy móc nói rằng: “Nếu tôi đi theo những bước này và làm hết mọi chuyện y như mô tả, thì rốt cuộc tôi phải tự động được giác ngộ. Khi tôi giác ngộ, khi một người giác ngộ, người đó có đặc tính này và đặc tính kia. Người đó cư xử như thế này, không cư xử như thế kia, người đó nói như thế này, không nói như thế kia.” Tâm đường thẳng muốn làm như vậy.

Con yêu dấu, như vậy thì tâm đường thẳng không hữu dụng trên con đường tu chăng? Lẽ dĩ nhiên không đúng. Như Giê-su cũng đã mô tả, ở một điểm nào đó con cần đi theo một con đường tu rất đường thẳng, rất hợp lý. Tâm đường thẳng có thể rất, rất là hữu ích vì nó giúp con người nhận ra rằng cuộc sống có một khía cạnh tâm linh, và họ thấy một con đường tu đường thẳng có một số giai đoạn, một số sáng ngộ càng ngày càng cao hơn, giúp cho họ dần dần nâng cao tâm thức. Con đường tu đường thẳng quả thực nâng cao tâm thức của con, nhưng một con đường tu đường thẳng đi lên từng bước chỉ có thể đưa con tới một mức nào đó. Nó có thể dẫn con quá tầng 96 nhưng con yêu dấu, con hãy cẩn thận lắng nghe.

Các thày có nói là có 144 tầng tâm thức do đó, điều hợp lý là khi con tới tầng tâm thức 139, thì con cần bước thêm một bước để lên tầng 140. Sau đó con bước thêm bước nữa và con ở tầng 141 và cứ tiếp tục như thế. Con thấy chăng, con yêu dấu, tính chất đường thẳng chặt chẽ mà con thấy ở giữa tầng 48 và 96 càng ngày càng bớt quan trọng khi con đi quá tầng 96.

Có thể nói là khái niệm con đường tu bớt quan trọng đối với con. Con không còn chăm chú lượng định: “Tôi đang ở tầng nào đây? Tôi phải trải qua sáng ngộ nào để lên tầng kế tiếp, người ở tầng đó có những đặc tính gì?” Con giản dị không còn quan tâm con đang ở đâu bởi vì bây giờ, thay vì chú tâm vào từng bước đơn lẻ, con chú tâm vào tiến trình. Ta có thể nói là, thay vì chú tâm vào hình ảnh tĩnh của dòng sông, thì con chú tâm vào sự chuyển động của dòng sông, vào chính tiến trình.

Điều thày muốn nói là khi con còn mang trong tâm khái niệm về một con đường tu sẽ dẫn con từng bước một tới niết bàn hay giác ngộ, thì con sẽ không bao giờ đạt mục đích này. Thoạt nghe có vẻ mâu thuẫn khi thày nói là để đạt giác ngộ, con phải đi theo một con đường tu tuần tự nhưng khi con còn khái niệm của con đường tu đó, thì con không thể đạt giác ngộ. Con yêu dấu, lý do là vì giác ngộ không phải là một hiện tượng đường thẳng, nó không phải là một hiện tượng vật lý, nó còn không phải là một trạng thái tâm thức. Không thể nói là khi con ở tầng 143 con chưa giác ngộ, nhưng tới tầng 144 thì con đã giác ngộ. Thật ra có một tầng thấp hơn ở một tầng nào đó trên tầng 96, thì con đạt một trạng thái có thể gọi là giác ngộ vì lúc này con hiểu được là điều quan trọng duy nhất là con giải thoát tâm mình khỏi mọi khái niệm dựa trên các điều kiện của thế gian. Đó cũng là lúc con nhận ra rằng khái niệm về giác ngộ của con chỉ là thế: chỉ là một khái niệm, không phải là một trải nghiệm. Do đó, con có thể xoay chuyển tâm để thay vì cố gắng hoàn thành các tiêu chuẩn được định ra bởi khái niệm giác ngộ của con, thì con thoát khỏi hình ảnh, thoát khỏi khái niệm. Do đó, con trải nghiệm điều thày gọi là giác ngộ, là một cách nhìn khác khi tâm của con không đồng hóa với chính khái niệm của nó về hiện tượng vật chất.

Có một số hiện tượng trong thế giới vật chất không chỉ do tâm của con tạo ra. Như các thày có nói trước đây, mọi hiện tượng vật chất được tạo ra bởi một tâm, lúc khởi đầu bởi tâm của các Elohim. Từ khi nhân loại bắt đầu đầu thai trên hành tinh, thì nhân loại đã đồng sáng tạo một số hiện tượng hiện hữu ngày nay. Khi con còn ở các tầng tâm thức thấp, thì con không trải nghiệm thế giới vật chất như nó là, con trải nghiệm nó qua các khái niệm của tâm, các khái niệm mà con đã tạo ra trong tâm mình. Tâm của con, tâm cá nhân của con không tạo ra các hiện tượng vật chất, nhưng nó đã tạo ra các hình tư tưởng của con, các khái niệm của con về các hiện tượng này; chúng là gì, chúng vận hành ra sao, con làm gì được với chúng, con không làm gì được với chúng.

Nói cách khác, tâm của con quy định cách con nhìn khả năng hạn chế tâm con của thế giới vật chất. Con hiểu chăng, con yêu dấu? Có một số hiện tượng vật chất, nhưng điều hạn chế con không phải là hiện tượng vật chất mà là các hình ảnh, các khái niệm trong tâm con. Con đường đạt được điều mà các thày gọi là tâm làm chủ vật chất là giải thoát tâm con khỏi khái niệm, do tâm tạo ra, đã giới hạn sự trải nghiệm vật chất trực tiếp của con.

Trạng thái giác ngộ không phải là một trạng thái toàn hảo. Nó còn không phải là trạng thái cuối cùng. Con có thể có trạng thái mà thày, như là Phật, đã gọi là giác ngộ mà vẫn chưa ở tầng 144, vẫn còn phải đi qua những tầng giác ngộ nữa trước khi thăng thiên. Có thể nói là tầng giác ngộ thấp nhất là khi con ngừng đồng hóa mình với những hình ảnh và khái niệm mà chính tâm con đã tạo ra. Con nhận ra rằng mọi thứ con có trong tâm con liên quan tới thế giới vật chất (và cũng vậy, đại đa số những thứ con có trong tâm con liên quan tới thế giới tâm linh) chỉ là những khái niệm do tâm tạo ra. Bằng cách không dính mắc vào các khái niệm này, không dính mắc vào các hình ảnh này, không đồng hóa mình với các hình ảnh này, con có thể giải thoát tâm con khỏi những hạn chế do các hình ảnh này quy định.

10.7. Tâm làm chủ vật chất

Nhiều người trong các con đã chấp nhận những hình ảnh rất vi tế là tâm con không thể thay đổi vật chất. Ngày nào con còn tin vào, còn đồng hóa mình với, còn dính mắc vào các hình ảnh này, thì tâm con không thể nào thay đổi vật chất. Khi con giải thoát tâm con khỏi các hình ảnh này, thì tâm con có thể bắt đầu thay đổi vật chất. Khi ấy, tâm con bắt đầu nhận ra là các hiện tượng vật lý là biểu hiện của các khuôn đúc của tâm thức ở ba tầng cao. Tâm con quả thực khả năng ảnh hưởng các khuôn đúc tâm thức này.

Như vậy, tâm con không bị mắc kẹt trong hiện tượng và không bị mắc kẹt trong những hình ảnh của con về hiện tượng. Điều này khế hợp với điều thày nói lúc bắt đầu vì con có thể nhìn vào những sự mâu thuẫn hay có vẻ mâu thuẫn ngay trong những giáo lý mà các thày đã trao truyền trong hai ngày hội nghị này. Ví dụ, con có tất các bài truyền đọc của các chân sư chỉ cho con thấy đây là một vấn đề cá biệt nào đó trong xã hội mà con cần đọc lên trong các bài thỉnh, để cầu thỉnh ánh sáng của các chân sư thăng thiên và như thế các chân sư có thể can thiệp và đem lại thay đổi trong xã hội. Mặt khác, con có bài truyền đọc của thày trong hội nghị vừa qua nói rằng con hãy chú tâm vào hiện tại và trân quý hiện tại, đừng lúc nào cũng quan tâm đến quá khứ và vị lai. Con có thể nói: “Ủa, phải chăng là có một sự mâu thuẫn ở đây?” Con thấy chăng, con yêu dấu, muốn giải tỏa điều có vẻ nghịch lý này, thì con cần nhận ra sự khác biệt giữa cái nhìn dựa trên sợ hãi và nhị nguyên của con người và cái nhìn dựa trên tình thương và bất nhị của các chân sư thăng thiên.

Thật đúng, con yêu dấu, là các chân sư thăng thiên muốn thấy một sự thay đổi đường thẳng và tuần tự sẽ cải thiện điều kiện sống của con người trên trái đất. Tuy nhiên điều này không xung khắc với tâm thức của Phật. Thày rời niết bàn để giáo hóa con người vì thày cũng mong muốn thấy một sự cải thiện đường thẳng và tuần tự trong điều kiện sống trên trái đất. Điều khác biệt là các thày không dính mắc vào những thay đổi đặc thù ở một thời điểm đặc thù. Các thày, như đã nói trước đây, không chú tâm vào một thay đổi đặc thù vì mục đích toàn bộ của các thày là nâng cao tâm thức của các người anh chị em chưa thăng thiên, để các con có thể bắt đầu ý thức hơn về tiến trình đồng-sáng tạo.

Con thấy chăng, con yêu dấu, thày không bảo con đừng quan tâm đến những gì xảy ra trong tương lai. Thày không bảo con lờ đi chuyện quá khứ. Con cần ý thức những gì đã xảy ra trong quá khứ để hiểu những cơ chế đã tạo ra một số vấn đề, và các vấn đề này đã tạo ra một số giới hạn trong xã hội. Con cần nhận ra tâm thức bên dưới để con có thể giải thoát mình khỏi nó và giúp người khác tự giải thoát khỏi nó.

Khi thày bảo các con hãy chú tâm hơn vào hiện tại, thì thày không nói là con phải ép buộc tâm con lờ quá khứ, lờ vị lai. Thày bảo các con khắc phục những vết thương mà con có trong quá khứ để khắc phục sự dính mắc của con vào quá khứ, để quá khứ không thể lôi kéo con vào những khuôn nếp phản ứng quả thực sẽ ngăn chận con 1) thưởng thức giây phút hiện tại và 2) được tự do lấy một quyết định sẽ thay đổi hướng đi của cuộc đời mình trong tương lai.

Thày cũng bảo con giải tỏa tâm lý của mình để không bị vướng kẹt trong khuôn nếp lúc nào cũng tìm cách trốn chạy giây phút hiện tại, để đi vào một tương lai tưởng tượng nào đó nơi đó con nghĩ mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn. Nói cách khác, thày bảo con đừng cố gắng hướng tới tương lai mà trốn chạy việc giải quyết các vấn đề tâm lý của mình, đó chính là lý do vì sao rất nhiều người bị mắc kẹt trong những mơ tưởng về một tương lai tốt đẹp hơn. Thày bảo con hãy thực sự giải thoát mình khỏi sự trốn chạy vào mơ tưởng về một tương lai tốt đẹp hơn, và thay vào đó, con chú tâm vào chuyện giải tỏa tâm lý của mình để con có thể chú tâm vào hiện tại. Chỉ trong hiện tại con mới lấy được những quyết định ý thức thực sự giúp con, cho con quyền lực để đồng-sáng tạo một tương lai tốt hơn.

10.8. Đạt được tự do tâm trí khỏi quá khứ

Nếu con xem bài giảng cuối của thày, thì con thấy là thày đưa ra ví dụ là khi con mắc kẹt trong một khuôn nếp phản ứng, thì con có cảm tưởng là cuộc đời của con chỉ có một hướng đi. Rất nhiều người bị mắc kẹt trong những khuôn nếp khiến họ cảm thấy bị hoàn cảnh bên ngoài giam chặt trong một cái hộp, và họ chỉ còn một chọn lựa duy nhất trong hoàn cảnh hiện tại của họ. Chọn lựa của họ sẽ có một hậu quả không thể tránh, và nó đem tới một hoàn cảnh khác cho họ một lần nữa cảm tưởng chỉ có một chọn lựa mà thôi. Điều này tạo ra một hậu quả khác và đây là điều được gọi là Biển Luân hồi hay bánh xe trầm luân bởi vì con lúc nào cũng có cảm tưởng là chỉ làm được một điều. Con không có chọn lựa nào khác, con không có tự do chọn lựa. Bất cứ con làm gì cũng đều tạo ra hậu quả là cuộc đời của con thêm căng thẳng, thêm đau khổ và cho con cảm tưởng mình bị giam chặt hơn nữa trong cái hộp. Đây là lý do vì sao, như một số các nữ chân sư đã nói, nhiều người trong văn hóa Á châu (do sự quy định rõ ràng về vai trò của người nam và người nữ) cảm thấy là khi đám cưới xong và niềm vui hưng phấn lúc đầu đã tan, thì họ cảm thấy cuộc đời bị khóa lại như bánh xe lăn trên con đường rày và họ chỉ có một chọn lựa duy nhất là lăn trên con đường rày. Cảm giác này khiến họ căng thẳng và đau khổ nhưng họ không nhìn ra lối thoát. Trong bài giảng cuối, thày không nói là con chú tâm vào hiện tại như một cách để chạy trốn, nhưng con cần giải quyết những khuôn nếp của quá khứ và thăng vượt lòng mong ngóng một tương lai tốt đẹp hơn, để con được tự do trong tâm lý và thấy rằng không bao giờ có hoàn cảnh nào mà con chỉ có một chọn lựa. Lúc nào con cũng có chọn lựa nhìn vào các khuôn nếp phản ứng của mình và thay đổi cách con phản ứng với hoàn cảnh. Một khi con thay đổi phản ứng của mình, khắc phục sự dính mắc, thì con sẽ có thể thấy được là ít nhất con có hai chọn lựa. Có thể là con không có chọn lựa vô hạn nhưng con có được thêm một chọn lựa khác ngoài chọn lựa mà trước kia con xem là duy nhất. Khi con chọn chọn lựa mới này, thì con vẫn tạo ra hậu quả nhưng chúng sẽ không nghiêm trọng hay giới hạn con như trước đó.

Điều này có nghĩa là trong hoàn cảnh mới của con, con lại có thể xem xét phản ứng của mình. Khi con khắc phục một khuôn nếp phản ứng, thì con sẽ thấy mình có ba chọn lựa trong hoàn cảnh mới. Khi con chọn chọn lựa cao nhất trong số đó, thì con sẽ đưa mình vào một hoàn cảnh trong đó con có thêm chọn lựa với hậu quả bớt nghiêm trọng hơn. Đó là cách con dần dần đạt được tự do và lúc ấy, như thày đã nói trong bài giảng trước, con thấy mình đang đứng giữa một cánh đồng mở rộng và con có thể chọn bất cứ hướng đi nào.

10.9. Mọi chuyện đều là dáng vẻ

Điều này, con yêu dấu, là mức tự do tâm trí mà con đạt được trên tầng 96. Nó vẫn chưa phải là giác ngộ, tuy rằng khi con đạt được mức tự do tâm trí này, thì chuyển đổi lên trạng trái giác ngộ dễ hơn hẳn. Khi con đạt được tự do trong tâm, thì điều gì tạo nên tự do đó? Đó là vì con ngưng đồng hóa mình với những hình tư tưởng mà chính tâm con đã tạo ra cho rằng thế giới như thế này và thế giới hạn chế con ra sao. giúp con dễ chuyển hóa tâm để tới điểm nhận ra (như thày đã cố gắng giải thích rất nhiều năm về trước) rằng mọi chuyện trên thế gian chỉ là một hiện tượng. Nó là một dáng vẻ (appearance), nó không phải là thực tại bị đóng cứng trong đá hay trong nguyên tử.

Mọi sự đều là sản phẩm của một khuôn đúc trong tâm thức. Đó là điều thày cố giải thích rất nhiều năm về trước nhưng cảm thấy khó giải thích vì con người lúc đó còn chưa có khái niệm về tâm thức hay về các thực tại song song hay về các ngôn ngữ khác nhau mà thày đã giảng trong bài này. Khi con nhận ra rằng mọi chuyện đều là hiện tượng, đều là một dáng vẻ có thể thay đổi được (khi con hòa điệu vào tâm thức đằng sau hiện tượng và làm việc để thay đổi các khuôn đúc trong cõi tình cảm, lý trí và bản sắc), thì con sẽ đạt được một cái nhìn hoàn toàn mới về cuộc sống. Con cũng có thể đạt được một cái nhìn hoàn toàn mới về những gì các thày đã giảng.

Con yêu dấu, các thày đã nói gì với con lần trước? Saint Germain đã nói gì về khuynh hướng nhìn cuộc đời rất nghiêm nghị trong văn hóa Á châu? Saint Germain có nói là con sẽ không tạo ra Thời đại Hoàng kim bằng cách làm việc cực nhọc hơn mà bằng cách chơi nhiều hơn. Đồng-sáng tạo là một hành động vui chơi, không phải là một hành động xem cuộc đời nghiêm nghị đến độ con muốn kiểm soát mọi khía cạnh của cuộc đời.

10.10. Thái độ quá nghiêm nghị đối với giáo lý

Trong những tổ chức chân sư thăng thiên trước đây, các thày thấy học viên có khuynh hướng rõ ràng dùng giáo lý để bỗng nhiên nhìn cuộc đời, con đường tâm linh và chính họ một cách rất nghiêm nghị. Họ bỗng nhiên nhận ra là có một tiềm năng tạo ra một thời đại tốt đẹp hơn nhiều trên thế giới. Trong một tổ chức trước đây (khi họ vẫn còn bị mắc kẹt trong suy nghĩ nhị nguyên), thì họ nghĩ rằng mục tiêu của một đệ tử chân sư thăng thiên là ngăn ngừa một tai họa lớn lao nào đó, tỷ dụ như chiến tranh nguyên tử. Họ rất chú tâm vào sự nghiêm trọng của tai họa này và chỉ có họ mới ngăn ngừa được nó. Do đó họ phải xem trách vụ này như một việc cực kỳ nghiêm trọng và họ phải đọc chú suốt ngày và phải cư xử đúng theo một bộ quy luật rất nghiêm ngặt.

Con yêu dấu, khuynh hướng này đi xa tới điểm họ mất hết niềm vui trong cuộc đời và con có thể chắc chắn là họ hạnh phúc và yêu đời hơn rất nhiều trước khi họ đi theo học giáo lý các chân sư thăng thiên. Nhiều người trong họ có người thân thấy được điều này và cố gắng nói cho họ biết, nhưng họ còn không chịu lắng nghe vì họ coi “việc cứu thế gian cho Saint Germain” là chuyện cực kỳ nghiêm trọng.

Con yêu dấu, lẽ dĩ nhiên, các thày không muốn thấy các con lặp lại những khuôn nếp này và đó là lý do vì sao các thày cố cho các con một viễn quan cao hơn (có thể là con phải đọc giữa các dòng chữ, nhưng thày đã cố gắng nói khá thẳng trong bài giảng này). Điều thày muốn con thấy là con có thể chuyển đổi tâm để nhận ra rằng, lẽ đương nhiên, các thày chân sư thăng thiên muốn con đọc cầu thỉnh, các thày muốn con nâng cao tâm thức của mình và các thày quả thực thấy con là chìa khóa để cải thiện đời sống trong xã hội. Con có thể đọc bài thỉnh để cho các thày thẩm quyền gỡ đi một số các lực tà ác và năng lực đen tối, sẽ giúp người khác thức tỉnh và đón nhận các ý mới này.

Các con quả thực quan trọng đối với các thày, nhưng con yêu dấu, chính vì các con quan trọng đối với các thày, nên các thày không muốn các con bị đè nặng hay bị căng thẳng về chuyện này. Các thày muốn các con chuyển đổi tâm mình để nhận rằng đây không phải là một trách nhiệm hay một bổn phận mà các thày đặt lên con. Đây là một phần của Sứ vụ thiêng liêng mà con đã chọn trước khi đầu thai, và các thày không muốn con xem việc này nghiêm trọng đến độ chẳng còn chỗ cho chút niềm vui nào. Các thày muốn con xem đây là một hành động vui chơi. Chuyển đổi không khó lắm đâu, dù là nó cần một tiến trình, một phần là vì con cần đối phó với tư duy tập thể trong phần thế giới nơi con sống, là nơi mà mọi người xem mọi thứ đều cực kỳ nghiêm trọng.

Các thày muốn con nhận ra ở đây, con yêu dấu, là con có thể thực hiện sự chuyển đổi này bằng cách không dính mắc vào việc tạo nên kết quả đặc thù trong xã hội của con. Dĩ nhiên, các thày đã phác họa một số mục tiêu mà các thày muốn thấy được thay đổi tại Hàn Quốc. Lẽ dĩ nhiên, các thày có muốn thế. Ai lại không muốn thấy những mục tiêu này, những tiến bộ này được thực hiện? Các thày không dính mắc vào việc muốn những tiến bộ này được thành hình theo một cách đặc thù nào đó, ở một thời điểm đặc thù nào đó, qua những người đặc thù nào đó. Các thày lúc nào cũng tôn trọng quyền tự quyết. Nói cách khác, các thày không muốn áp đặt điều này lên người dân Hàn Quốc. Như các thày đã nói rất nhiều lần, các thày muốn giải thoát họ để họ có thể tự nhiên bừng tỉnh và bỗng nhiên thấy rằng hiển nhiên đấy là bước kế tiếp và đấy là điều họ thực sự mong muốn.

Sự chuyển đổi mà các thày muốn con làm trong tâm là nhận ra vai trò của con là thỉnh cầu để cho phép các thày nhập cuộc và làm công việc của các thày. Khi con thỉnh cầu xong, con không cần dính mắc vào những gì xảy ra trong xã hội, vào những gì người khác làm. Con để họ tự do bởi vì các thày để họ tự do. Các thày không tìm cách ép buộc ai hết. Các thày cũng giải thoát con và muốn con tự giải thoát mình và nhận ra rằng công việc con làm không phải là một gánh nặng khiến con căng thẳng và ngăn chận con làm tròn những bổn phận hàng ngày trong đời sống hay cản trở con vui hưởng cuộc sống hàng ngày của mình.

Các thày kêu gọi con luôn luôn tìm sự vui hưởng trong phụng sự và đời sống hàng ngày. Đây thật sự là bát chánh đạo mà thày cố giảng cho mọi người cách đây 2500 năm nhưng nhiều người không hiểu vì đối với họ giác ngộ hay con đường tu trở thành một bổn phận khác, một mục tiêu đeo đuổi khác. Nó trở thành một nguồn căng thẳng bởi vì họ cảm thấy họ không đủ khả năng làm tròn công việc, hoặc họ cảm thấy họ rất xa mục đích, hoặc họ cảm thấy họ phải cố gắng thêm rất nhiều, hoặc họ cảm thấy vì họ đã cố gắng rất nhiều rồi nên họ rõ ràng cao hơn mọi người khác và họ trở nên kiêu mạn.

10.11. Cái bẫy trên mỗi giai đoạn của đường tu

Điều thày nói với con ở đây có thể được diễn tả một cách rất giản dị, đó là con đường tâm linh có những giai đoạn và các tà lực không muốn con tiến từ giai đoạn này lên giai đoạn tới. Ở mỗi giai đoạn, họ đã đặt ra cho con một cái bẫy. Họ muốn con rơi vào bẫy này và đứng yên ở tầng đó. Do đó, các thày giản dị cho con khái niệm là con đường tâm linh có thể xem như một trò chơi. Ở mỗi giai đoạn, con biết là tà lực có giăng một cái bẫy. Con chỉ cần tỉnh giác và để ý tìm cái bẫy bằng cách nhìn vào các phản ứng của mình, nhìn vào phản ứng của những người tâm linh khác và nói: “Ồ, bây giờ tôi thấy cái bẫy đây và tôi sẽ không đặt chân mình vào đó.”

Khi con nhận ra điều này, con nhận ra là con cũng chẳng cần nhìn tà lực với thái độ nghiêm trọng, bởi vì con có thể thấy được cái bẫy của họ, nhưng họ thì không thấy. Họ bị mắc kẹt trong trí tưởng tượng giới hạn của chính họ. Con không bị mắc kẹt trong trí tưởng tượng giới hạn và khi con có giáo lý của các thày và áp dụng chúng, thì tránh bẫy không khó lắm. Cho nên, con có thể tới điểm con đường tu không là nguồn căng thẳng; nó là nguồn vui thú. Con đi trên đường tu một cách vui thú và nếu con làm một lỗi, thì có sao đâu, con yêu dấu? Con đã học hỏi từ lỗi lầm này, và sau đó con giản dị tiến tới từ điểm đó. Con nhận ra rằng quả thực, như các thày đã nói trước đây, là con không thể làm một chọn lựa khiến con bị mắc kẹt đời đời. Bất cứ chọn lựa nào cũng có thể tháo gỡ được bằng cách lấy một chọn lựa sáng suốt hơn, một chọn lựa tỉnh thức hơn.

10.12. Giác ngộ không phải là một mục tiêu

Điều thày muốn nói để kết thúc là giác ngộ không phải là một giai đoạn trên con đường của 144 tầng tâm thức. Giác ngộ không phải là mục tiêu tối hậu của bát chánh đạo. Giác ngộ không phải là một mục tiêu, nó không phải là một khái niệm, nó không phải là một hình tư tưởng. Nó là một trải nghiệm không bị mắc kẹt vào các hình tư tưởng. Cách duy nhất đạt được giác ngộ là đi ra khỏi các hình tư tưởng và cho phép mình trải nghiệm. Con trải nghiệm giác ngộ ở đâu? Không phải trong quá khứ, không phải trong tương lai, mà chỉ ở trong hiện tại. Con có thể trải nghiệm giác ngộ trong bất cứ hiện tại nào có thể hiện ra cho con. Con hãy giữ trong tâm những khái niệm này cho tới khi có một giây phút hiện tại khi nó bỗng nhiên trở nên hiển nhiên với con và con nói: “Bây giờ thì tôi ở đó rồi!” Con còn không nói: “Bây giờ thì tôi thấy nó” bởi vì con đang không thấy nó như một khái niệm cách xa con. Con trải nghiệm nó như một thực tại mới của con.

Con yêu dấu, một lần nữa đây là một bài giảng dài có thể thách thức khả năng ngồi trên ghế cứng của thân thể con. Nó có thể thách thức khả năng của cảm thể con muốn né tránh không phản ứng lại một điều nào đó mà thày nói. Nó có thể thách thức khả năng của trí thể con bắt nó tiếp tục chú tâm vào những khái niệm phức tạp mà thày đưa ra. Nó có thể thách thức bản sắc thể của con khiến con tự hỏi: “Ấy, dựa trên những điều Phật nói, tôi là ai đây? Tôi là loại sinh thể nào đây?” Lẽ dĩ nhiên, con yêu dấu, đây là thách đố tối hậu bởi vì bất kỳ ý niệm bản sắc nào con có trong thế gian này chỉ là một hình tư tưởng. Nó không có thực tại tối hậu và con không đem nó theo con vào trạng thái thăng thiên được. Con chưa cần buông bỏ ý niệm bản sắc của con bây giờ, con buông bỏ nó từng phần một. Con chỉ buông bỏ lần cuối cùng khía cạnh cuối cùng của bản sắc thế gian của con khi con sẵn sàng thăng thiên. Nếu không như thế, thì cái gì giữ con lại trong thân thể? Cái gì giữ con chú tâm vào việc phụng sự đời sống – là một phần rất lớn của con đường tu của con?

Con đừng tin, con yêu dấu, là đường tu chỉ có chuyện nâng cao tầng tâm thức của mình và loại bỏ cái ta vỏ ngoài. Con chọn đi vào thế giới này vì con muốn có một số kinh nghiệm và con muốn đồng-sáng tạo một thế giới tốt đẹp hơn. Con muốn đóng góp vào sự tiến triển đi lên của thế giới này.

Con yêu dấu, không đúng là việc con phụng sự đời sống, cách con biểu hiện đời sống, việc con vui hưởng đời sống, việc con trải nghiệm đời sống, đi ngược lại tiến triển tâm linh. Đó là lý do vì sao nhiều năm trước đây thày nói giác ngộ giống như tâm thức không giác ngộ. Khi con giải thoát mình khỏi khái niệm tạo nên tâm thức không giác ngộ và giải thoát mình khỏi khái niệm giác ngộ, thì lúc đó con nhận ra là thế gian không phải là kẻ thù của tiến triển tâm linh; nó là cỗ xe dẫn con tiến triển tâm linh. Con đường quả vị Phật của con không bị ngăn trở khi con đi vào một trạng thái tâm thức thấp vì đây là một phần của trải nghiệm mà con cần có trong thế gian này. Nó cho con nền móng để biết những điều kiện nào con muốn thay đổi trong khi con tham gia vào tiến trình đồng-sáng tạo một thế giới tốt đẹp hơn.

Cho nên, con thấy là khi con đạt tới một giai đoạn nào đó, con không hối tiếc bất cứ điều gì con đã làm hay đã trải qua. Con không có cảm giác có sự phân chia giữa điều tâm linh và không tâm linh và ngay cả phản-tâm linh. Bỗng nhiên con bắt đầu nhận ra không có hiện tượng nào trên thế gian có thể chống lại sự phát triển của con, chống lại đường tu của con. Ngay cả tà lực, dù chúng có hiện hữu tạm thời, khi con thấy chúng như chúng là, chúng không chống lại sự phát triển của con. Chúng không có quyền lực trên tâm con khi con giải thoát mình khỏi sự phân biệt giữa “các cặp” – là cái tên mà thày dùng cách đây 2500 năm, nhưng ngày nay thì các thày gọi là hai cực nhị nguyên. Chúng không có thực tại, chúng không có quyền lực và do đó con có thể nhìn hiện tượng thế gian mà không thấy chúng qua phin lọc của những đối cực nhị nguyên này và những phán xét giá trị của chúng. Con thấy rằng mỗi khía cạnh của cuộc sống, mỗi khía cạnh của thế gian, là phương tiện cho con phát triển, cho con biểu đạt chính mình, cho tiến trình và khả năng đồng-sáng tạo của con.

Con yêu dấu, có thể con từng nghe nói khái niệm rằng “đối với Phật, không có thời gian” và có thể con nhận ra rằng thày có thể tiếp tục nói như thế này vô hạn định, vì thày rất vui mừng khi trao truyền cho con những khái niệm này. Thày cũng nhận ra rằng con chưa tới điểm thấy không có thời gian. Thày ghi nhớ điều này nên thày sẽ chấm dứt dòng tâm thức được biểu hiện qua từ ngữ ở đây và một lần nữa biểu lộ sự biết ơn của thày và của các thày đối với sự họp mặt tuyệt vời giữa các thày Ở Trên và các con Ở dưới. TA LÀ Phật, tên ta là Gautama.

Đức Phật bất động và đức Phật hằng động

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 4/7/2016 nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama và thật là một đặc ân cho ta – và đã từng là đặc ân nhiều lần rồi – được niêm đại hội này của chân sư thăng thiên tại Hàn quốc. Ta muốn các con biết là từ cõi thăng thiên, các chân sư xem hội nghị này là một thành công mỹ mãn. Các con đã thể hiện một quyết tâm đáng kinh ngạc để chung sức với nhau, hòa điệu bản thể với nhau cũng như với các thày. Vì vậy, các thày đã có thể nhân lên các bài chú cùng bài thỉnh, và các con cũng đã có thể nhân lên các bài truyền đọc qua luân xa của mình, khiến cho các bài giảng thâm nhập vào tâm thức tập thể với uy lực thật dõng mãnh. Điều này, các thày vô cùng biết ơn và khen ngợi các con.

Các thày đã ban cho các con rất, rất nhiều lời dạy mà ta tin tưởng các con sẽ tiếp nhận, suy ngẫm, thảo luận, và ngay cả các con cũng có thể viết lách và trao đổi với nhau. Bằng cách đó, các con có thể dùng những lời dạy vỏ ngoài này để đạt một hiểu biết nội tâm sâu sắc hơn về một số điểm tuy không được nói ra thành lời nhưng vẫn được diễn tả ở những tầng mức cao hơn. Điều con cần hiểu là khi các thày đưa ra một bài truyền đọc, những gì được nói lên trong cõi vật lý chỉ là một phần của toàn bộ công việc trao truyền. Hiển nhiên không chỉ có ánh sáng được chuyên chở qua lời nói, mà bài truyền đọc còn mang theo một bộ phận ở tầng mức xúc cảm, lý trí cũng như bản sắc. Nếu con sẵn lòng sử dụng lời nói trong cõi vật lý làm nền tảng, con có thể học cách hòa điệu với các thành phần cảm xúc, lý trí và bản sắc rất khó chuyển đạt qua ngôn từ. Con vẫn có thể có được một cảm nhận trực giác, một trải nghiệm trực quan về toàn bộ những điều mà các thày mong muốn trao truyền qua bài truyền đọc.

Tất nhiên, các thày còn rất nhiều điều muốn nói về – và nói cho – đất nước Hàn quốc cũng như các nước khác tại châu Á. Cho nên các thày mong mỏi sẽ còn những cơ hội khác để trình bày thêm trong tương lai. Nhưng ngay bây giờ, ta muốn các con cảm thấy là hội nghị này tự thân nó đã đầy đủ. Như các thày có nói trước đó, mỗi hội nghị đều mang một tiềm năng thấp và một tiềm năng cao, và với hội nghị này thì các con đã vượt cao hơn cả tiềm năng cao. Điều ta muốn làm ở đây là một điều có lẽ đã chưa xảy ra trong hội nghị này vì rất nhiều người trong số các con chưa quen thuộc với giáo lý và đây cũng là lần đầu tiên các con tham dự một hội nghị của chân sư thăng thiên.

Bị kẹt trong quá khứ hay trong tương lai

Ta mong muốn đem đến cho con một sự thưởng thức về giây phút hiện tại, thưởng thức hiện tại bất tận. Như các thày đã có đề cập, nhiều người trên địa cầu đã lớn lên và được dạy dỗ để không sống trong giây phút hiện tại, mà ngược lại họ bị vướng mắc trong quá khứ hay bị kéo hút về phía tương lai. Một số người từng bị mắc kẹt ở một điểm quá khứ nào đó, có thể là vì họ đã sống qua một sự kiện đau buồn đến độ vết thương tình cảm khiến họ không làm sao thoát ra khỏi cơn đau, thoát ra khỏi vết thương, và họ cứ mãi sống đi sống lại giây phút đó. Hoặc cũng có thể vì họ được sống qua một sự kiện vui sướng trong đời đến độ họ cảm thấy không còn gì có thể vượt trội được trong tương lai.

Nếu con đến thăm Công viên Olympic ở đây và đọc tên các lực sĩ đã giành được huy chương tại Thế vận hội 1988, con sẽ thấy rất nhiều lực sĩ đã cảm nhận việc giành được huy chương, lập kỷ lục mới, đứng trên bục chiến thắng và nhận huy chương của mình là đỉnh cao trong đời mình. Nhiều người đã cảm thấy thật sự chẳng có gì có thể so sánh được với niềm vui đó, và vì vậy phần còn lại cùa đời họ đã thua kém giây phút vinh quang đó. Và họ không ngừng luyến tiếc giây phút đó.

Tất nhiên cũng có nhiều người khác không gắn bó với quá khứ nhưng lại hướng về tương lai. Một số nhìn về tương lai với nỗi sợ một điều gì đó có thể xảy ra, cho dù đó là một tai họa trong đời sống cá nhân (như một căn bệnh hay một vấn đề nào khác) hoặc một thảm họa rộng khắp địa cầu, như đại chiến hay thiên tai. Và tất nhiên còn có những người chờ đợi ngày tận thế, như các thày đã có đề cập trước đây.

Ngoài ra cũng có nhiều người bất mãn với thời điểm hiện tại, với cuộc sống và hoàn cảnh hiện thời của họ, và họ nhìn về tương lai với niềm hy vọng một ngày kia cuộc sống sẽ dễ chịu hơn. Nhiều người hy vọng là nếu họ cứ tiếp tục làm những gì người ta bảo họ làm, nếu họ cứ làm y như xã hội và cha mẹ họ đã sắp đặt cho họ, thì sẽ tới ngày họ nhận được phần thưởng mà họ mong mỏi sẽ nhận được.

Như các thày đã nói, các con là những vị đồng sáng tạo, cho nên nếu con cứ thụ động ngồi chờ như vậy thì đó sẽ không phải là cách tiếp cận xây dựng nhất. Nếu con ngồi chờ người khác, chờ xã hội hay chờ một công ty nào đó một ngày kia sẽ tới thay đổi đời con, thì rất có thể con sẽ thất vọng. Nếu con ngồi chờ một sinh thể Linh thiêng nào đó xuất hiện trong đời con và ban cho con mọi thứ con muốn, thì bào đảm con sẽ bị thất vọng.

Thưởng thức giây phút hiện tại

Hiển nhiên ta mong muốn con hiểu được một trong những lời dạy cốt yếu của Phật, những lời dạy tâm truyền đích thực của Phật, chính là khả năng sống trong giây phút hiện tại. Thật ra tất cả các con đều có khả năng đó, khả năng sống trong khoảnh khắc, nhưng một số sẽ gặp khó khăn khi đem vào thực hành. Nếu con đã trải qua một biến cố gây chấn thương sâu đậm trong đời mình và con cần trị liệu tâm lý, thì việc con khó lòng sống được trong khoảnh khắc hiện tại là một điều dễ thông cảm. Trong trường hợp này, các thày khuyến khích con nên tìm sự giúp đỡ qua một số hình thức trị liệu khác nhau. Tất nhiên các thày cũng khuyến khích con sử dụng các giáo lý và dụng cụ tâm linh của các thày để chữa lành tâm lý. Nếu con đã sống qua một đỉnh cao cuộc đời trong quá khứ và con luyến tiếc thời điểm đó, cách trị liệu thật sự duy nhất là con cần lấy quyết định ý thức là mình sẽ không còn ngoảnh lại nhìn về quá khứ, mà thay vào đó con sẽ mở tâm ra để nhận món quà mà con có thể nhận được ngay trong giây phút hiện tại.

Nếu con nhìn về tương lai với lòng sợ hãi một tai hoạ nào đó, thì một lần nữa ta khuyến khích con sử dụng những dụng cụ thích hợp để giải quyết chấn thương này, vì rõ ràng một chấn thương đã khiến con nhìn tương lai với lòng sợ hãi. Nếu con nhin về tương lai với hy vọng đoạt được một loại phần thưởng nào đó, ta khuyến khích con nhận ra mình là một vị đồng sáng tạo. Nếu con muốn một tương lai tốt đẹp hơn, con sẽ cần tự mình đồng sáng tạo ra tương lai đó thay vì thụ động ngồi chờ một cái gì bên ngoài thị hiện nó giùm con.

Con cần hiểu là để đồng sáng tạo một tương lai tốt đẹp hơn, con cần khởi sự bằng cách biết thưởng thức giây phút hiện tại, thưởng thức hoàn cảnh con đang gặp, như thày Saint Germain vừa trình bày với rất nhiều minh triết. Đây là một lời dạy then chốt của Phật – hãy có mặt trong hiện tại. Lời dạy này rõ ràng nhất trong Phật giáo Thiền tông có trọng điểm là trải nghiệm hiện tại. Ta không đang bảo con phải trở thành một thiền gia Phật giáo, nhưng ta muốn nói là việc sống trong hiện tại, ít ra trải nghiệm được hiện tại ở một số thời điểm nào đó, là một việc chính đáng.

Một khung tham chiếu

Bây giờ ta muốn dẫn con làm một bài thực tập nho nhỏ. Mục đích của ta là giúp con có được một kinh nghiệm về hiện tại. Con yêu dấu, con vừa tham gia hội nghị chân sư thăng thiên này. Suốt bốn ngày liền, một số các con đã ở đây. Con đã tham dự những bài đọc chú, bài thỉnh, bài nguyện. Con đã lắng nghe những bài truyền đọc. Con đã tương tác với nhau. Đối với nhiều người trong số các con, đây đã là một tiến trình hướng đến một mục tiêu. Luôn luôn có thêm bài thỉnh để đọc, bài giảng để nghe. Nhưng bây giờ con đã tới bài truyền đọc chót và con đã đọc bài thỉnh chót. Không còn gì khác để con hướng tới trước mặt, và do đó ta khuyến khích con nhìn ra là món quà quý giá nhất mà con có thể đem về từ hội nghị này là một trải nghiệm: Con trải nghiệm mình hoàn toàn hiện diện trong hiện tại, mình thưởng thức giây phút hiện tại.

Con yêu dấu, ta khuyến khích con tự nhủ trong tâm con: “NGỪNG LẠI! Tôi sẽ ngừng các khuôn nếp suy nghĩ quen thuộc của tôi.” Ta khuyến khích con hãy lui lại và nhìn vào chính mình, và nhận thấy trong tâm con luôn luôn có một khuôn nếp đang phóng chiếu ý tưởng hay cảm xúc lên màn hình sự nhận biết ý thức của con. Những ý tưởng và cảm xúc đó đang lôi kéo nhận biết của con vào một phản ứng nào đó, một chuỗi những ý nghĩ và tình cảm, có khi giống như một cuộn phim đang trình chiếu tự động. Chú ý của con bị cuốn theo đó mà con không thực sự hay biết chuyện gì đang xảy ra.

Bây giờ ta kêu gọi con nhận diện những gì đang xảy ra trong tâm con và nhận biết một cách ý thức rằng đơn giản, nó giống như một cuộn phim đang trình chiếu trên một màn hình trong rạp xi-nê hay trên máy truyền hình của con. Ta khuyến khích con nhận ra là con không cần bắt cuộn phim đó ngừng lại.

Có rất nhiều Phật tử cho rằng trong khi thiền định, con phải cố ngừng mọi ý tưởng, nhưng điều này rất khó thực hiện ngay cả đối với một thiền gia vô cùng thành thạo. Điều ta nói con làm là tự nhủ: “NGỪNG LẠI! Tôi sẽ không còn đồng hóa với cuốn phim những ý tưởng và cảm xúc của tôi nữa. Tôi sẽ để yên cho nó chạy, nhưng tôi sẽ đứng lui lại và tôi sẽ bước vào một nhận biết mới nơi tôi không phải là ý tưởng lẫn cảm xúc. Tôi không phải là tâm. Tôi không phải là cuốn phim đang quay trong tâm. Tôi là một sinh thể vô hình tướng. Tôi không cần bất cứ gì từ quá khứ để là con người trọn vẹn mà tôi là. Tôi không chờ đợi bất cứ gì ở tương lai để là con người trọn vẹn mà tôi là. Tôi trọn vẹn ngay bây giờ! Tôi trọn vẹn trong giây phút này đây! Tôi viên mãn!”

Khi đó, con có thể cảm nhận sâu thẳm bên trong có sự im lặng, là im lặng của Phật, là cái ta Phật của con. Hơn vậy, con cũng có thể cảm thấy như các vị Phật đang thiền tọa trong an tịnh tuyệt đối. Con không cần hình dung mình là bất cứ hình tướng nào. Thực sự con có thể, nếu điều này thích hợp hơn với con, xem mình là một sinh thể vô hình tướng, cảm thấy mình là một sinh thể vô hình tướng, và trải nghiệm mình là một sinh thể vô hình tướng.

Bây giờ ta khuyến khích con nhận ra là mình đang ngồi đây trong căn phòng này ngay lúc này. Con không một mình. Ở đây có nhiều người khác. Trong số đó có nhiều người con không quen biết. Có lẽ con đã không nói chuyện với họ trong suốt bốn ngày qua. Có lẽ con đã chưa nhìn vào mắt họ. Có lẽ con chưa thực sự tán thưởng những người đó, nhưng ta khuyến khích con hãy mở mắt ra bây giờ và nhìn chung quanh. Hãy cả gan nhìn vào mặt nhau, nhìn vào mắt nhau và chào đón nhau. Hãy cả gan nhìn vào mắt sứ giả này, đó chính thực là mắt của ta đang nhìn con xuyên qua mắt ông.

Con yêu dấu, chúng ta hãy nhận mặt nhau vì chúng ta đã đến với nhau trong một sự hợp nhất thật đặc biệt, hiếm thấy trên địa cầu này, là sự hợp nhất theo chiều ngang của các con ở dưới với các chân sư ở Trên. Đây là một giây phút đặc biệt. Đây là một giây phút hiếm có. Không mấy người đã được sống qua giây phút thế này trong cả đời mình, con yêu dấu. Ấy thế mà các con đang ở đây. Các con đang trải nghiệm giây phút này ngay bây giờ. Khi các con nhận ra là mình đang ở đây trong hợp nhất với nhau, các con đã thực hiện một công việc phụng sự tâm linh thật quý báu, vô giá. Các con đang ở đây hợp nhất với một chân sư thăng thiên, một sinh thể tâm linh. Khi con nhận ra điều này, làm sao con có thể muốn gì hơn từ giây phút hiện tại? Khi con nhận ra điều này, làm sao con có thể không có mặt trọn vẹn trong khoảnh khắc bây giờ?

Các con hãy trọn vẹn và cảm nhận là không có gì của quá khứ mà mình cần đến, không có gì của hiện tại mà mình cần đến, không có gì của thế gian mà mình cần đến, bởi vì các con viên mãn trong sự duy nhất của mình ngay bây giờ. Khi con kinh nghiệm sự viên mãn này, giờ đây con đã có một khung tham chiếu mới mà con có thể mang theo mình để mà sử dụng. Khi con có một chút thì giờ trong đời sống bận rộn của con – hay khi con quyết định dành ra thì giờ trong cuộc sống bận rộn – con có thể sử dụng bất kỳ phương thức nào mà con thích, kể cả nghe lại hay đọc lại bài truyền đọc này, đọc bài thỉnh, nghe nhạc, hay làm bất cứ điều gì hiệu quả nhất đối với con. Nhưng con hãy dành nỗ lực ra để hòa điệu với Hiện diện của ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Xong dựa trên kinh nghiệm giây phút này đây, con có thể lại chiêm nghiệm cùng cảm nhận viên mãn đó. Khi con làm vậy, con có thể đạt tới điểm con bắt đầu cảm thấy là mình có khả năng duy trì liên tục nhận biết hiện tại.

Không có phán xét trong tâm trẻ thơ

Ta cũng hiểu là lúc đầu sẽ có tương phản giữa trạng thái nhận thức bình thường của con và những khi con hoàn toàn hiện diện trong khoảnh khắc hiện tại. Có những lúc con hoàn toàn hiện diện, nhưng cũng sẽ có nhiều lúc trong đời sống bình thường đòi hỏi sự chú ý của con, lôi kéo chú ý của con vào các khuôn nếp kia. Khi con ngày càng chiêm nghiệm nhiều hơn những giây phút hiện diện trọn vẹn, sinh động trọn vẹn, thưởng thức trọn vẹn đó, có thể con sẽ bắt đầu cảm thấy sự tương phản ngày càng bớt đi.

Điều này không có nghĩa là con cứ ngồi đó suốt ngày, hoàn toàn tỉnh thức trong thế toạ thiền, bởi vì chắc chắn trong cuộc sống sẽ có rất nhiều lúc đòi hỏi con phải chú ý hoàn toàn. Nhưng con có thể đạt tới điểm, mỗi khi con nghĩ về chuyện này, con có thể hòa điệu vào bên trong, và con có thể hiện diện trọn vẹn trong giây phút hiện tại ngay cả khi con đang làm một số hoạt động không đòi hỏi sự chú ý toàn bộ.

Ta không đang bảo con, như một số Phật tử Thiền tông muốn con tin như vậy, là con luôn luôn có thể sống trọn vẹn trong giây phút hiện tại ngay giữa công việc bận rộn. Cuộc sống có rất nhiều đòi hỏi và thật chẳng có gì sai trái nếu có những lúc mình phải tập trung vào công việc mình đang làm và do đó mình không còn chú ý nào sót lại để mà tự hình dung, hay để cảm thấy rằng mình là đức Phật viên mãn, hoàn toàn không dính mắc với tình huống đang diễn ra trước mắt và đang thưởng thức tình huống đó từ ngoài.

Điều ta muốn nói là con có thể có một tâm thái nơi đời con là một tiến trình thưởng thức liên tục. Con thưởng thức cuộc đời nói chung, và bất cứ lúc nào con muốn, con cũng có thể hòa điệu vào bên trong và thưởng thức trọn vẹn giây phút hiện tại khi con dư ra một chút khả năng nhận biết. Tất nhiên, đây là một phần của tâm trẻ thơ, tâm ban sơ đó con.

Điều ta có thể góp thêm với những gì thày Saint Germain vừa trình bày là tâm trẻ thơ không phán xét. Nó không đánh giá. Nó không phân tích. Nó không so sánh. Trong cốt yếu, khi con bị kẹt trong quá khứ hay trong tương lai, con không ngừng phân tích, không ngừng so sánh hiện tại với quá khứ hay tương lai. Quá khứ tốt hơn hay tệ hơn hiện tại? Tương lai sẽ tốt hơn hay tệ hơn hiện tại? Luôn luôn có một câu chuyện diễn ra trong tâm, nó phân tích và nó so sánh. Khi cái ở đây lại nằm ở đó thì con không đang hiện diện trong giây phút này được, mà sự chú ý của con bị cuốn hút và tập trung vào việc phân tích. Con có khả năng – và con cần làm chuyện này một cách ý thức – trau dồi một trạng thái tâm không phán xét, không phân tích. Đây là một tiến trình tinh tế sẽ cần thời gian, nhưng bằng cách sử dụng các bài thỉnh và giáo lý của các chân sư, đó là một mục tiêu có thể đạt được.

Con có thể đạt tới điểm là con không còn nhu cầu xét đoán những gì xảy ra trong cuộc sống. Con không có nhu cầu phải luôn luôn bày tỏ quan điểm về chuyện này hay chuyện nọ, về người này làm gì hay người nọ nói gì, về các chính trị gia đang làm gì hay không làm gì, về đội thể thao địa phương làm gì hay không làm gì. Tất cả những thứ đó khiến cho hầu hết mọi người bận tâm, bây giờ nó có thể mất hẳn tầm quan trọng đến độ con không còn nhu cầu nuôi thêm cái phần trong tâm cứ muốn phán xét, hạ thấp cái này hay nâng cao cái kia. Nó luôn luôn dùng bậc thang nhị nguyên để so sánh phải với trái, tốt với xấu, trên với dưới, cái này với cái nọ. Giờ đây một cách cố tình và ý thức, con quyết định là con sẽ bắt đầu một tiến trình gạt bỏ tất cả những thứ đó sang một bên.

Con có thể đặc biệt thỉnh cầu sự tiêu hủy các năng lượng trong cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc đang kéo tâm con lặp đi lặp lại cùng những khuôn nếp đã khiến cho biết bao người bị rối bời trong cảm thể của mình đến độ họ luôn luôn cần phải bất bình về một ai đó. Họ cần có một con dê tế thần để trút hết nỗi tức giận vào đó, bởi vì họ không chịu nhìn nhận là thật ra họ đang tức giận chính họ. Bằng cách làm việc trên bản thân mình, con có thể đạt tới điểm không cần phán đoán mọi thứ nữa. Con không còn nhu cầu đánh giá mọi chuyện và con không cần có quan điểm về mọi chuyện.

Quan sát thay vì phán đoán

Vậy thì con sẽ làm gì đây, con sẽ hỏi? Cuộc đời như vậy có đáng sống hay chăng? Có nghĩa chăng là con biến thành một người không còn suy nghĩ? Không đâu con yêu dấu, không có nghĩa là con không tham gia vào cuộc sống. Có một trạng thái của tâm vượt khỏi sự phán xét dựa trên một bậc thang nhị nguyên, và đó là tâm thái khi con chỉ đơn giản quan sát. Không là đánh giá, phán xét nhị nguyên tương đối, mà là quan sát. Con có thể bắt đầu với sự quan sát bản thân dựa trên một chuẩn mực vô cùng đơn giản – nếu con muốn dùng từ “chuẩn mực”.

Sứ giả này nhiều năm trước đây đã hòa điệu vào Hiện diện của ta và nhận được ý tưởng rằng mục đích cuộc sống là quả vị Phật. Ông đã nhận ra là để đạt được quả vị Phật, ông sẽ cần khắc phục các dính mắc của mình. Ông có một khải tượng – mà ông nhận được từ ta – và ông nhìn thấy thời điểm ta kinh qua cuộc khai ngộ chót trước khi nhập Niết bàn. Ngồi dưới cây Bồ đề, ta phải giáp mặt với bọn quỷ của Mara. Ông ngộ ra là bọn quỷ Mara đã tìm cách xâm nhập vào tâm ta để cố tìm một khuôn nếp nào đó, một dính mắc nào đó mà chúng có thể sử dụng để lôi kéo chú ý của ta và khiến ta rơi vào một khuôn nếp phản ứng lại những gì chúng đang làm trước mắt ta.

Ông nhận ra là chúng đang cố nhìn vào dòng sống của ta, nhìn vào mọi kiếp hiện thân của ta, nhìn vào các dính mắc mà ta đã từng có, rồi chúng dùng các dính mắc này để giao tiếp với ta. Chỉ vì ta không còn dính mắc nào nữa cho nên ta mới có thể giữ tâm mình hoàn toàn tự do, không bị lôi kéo vào bất cứ gì mà quỷ Mara đưa ra. Điều này, tất nhiên, đi song song với lời dạy của thày Giê-su khi thày nói: “Ông hoàng của thế gian đến nhưng không nắm được gì nơi ta.”

Mặc dù chắc chắn sẽ có một khai ngộ chót mà con phải bước qua trước khi con nhập được Niết bàn hoặc trạng thái thăng thiên, con có thể xem cuộc sống như là phiên bản liên tục của khai ngộ nói trên. Con luôn luôn đối mặt với ông hoàng của thế gian, với bọn quỷ của Mara, và chúng chỉ có một muc tiêu mà thôi, là xâm nhập vào bản thân con, phát hiện ra một dính mắc nào đó rồi dùng nó để lôi kéo con vào một khuôn nếp phản ứng sẽ tiêu hao hết lượng chú ý có ý thức của con trong một thời gian. Đối với một số người, chuyện này không xảy ra “trong một thời gian” mà trọn một kiếp sống hay suốt nhiều kiếp sống, nghĩa là sự chú ý của họ hoàn toàn bị hao kiệt bởi một khuôn nếp nào đó, chẳng hạn như đánh bại những kẻ họ xem là thù địch, hay ham muốn một trải nghiệm nào đó, hay thực hiện một mục tiêu nào đó. Cho dù khuôn nếp đó có là gì thì rất, rất nhiều người bị cái đó làm hao kiệt chú ý trong nhiều kiếp sống. Con không nằm trong số người đó bởi vì nếu không, con đã không ở đây. Chú ý của con không hoàn toàn bị cuốn hút vào cuộc đời vật chất bởi vì nếu không, con đã không mở tâm ra con đường tâm linh.

Vì vậy con hãy nhìn nhận điều này, và con có thể nhìn ra là mục đích của đường tu tâm linh là lần hồi phát hiện và khắc phục các dính mắc của mình, hầu càng ngày con càng có ít vật liệu cho quỷ Mara nắm lấy, cho ông hoàng của thế gian nắm lấy để lôi kéo con vào khuôn nếp phản ứng với thế gian. Thước đo cho bước tiến của con trên đường tu là có bao nhiêu lần tâm con bị lôi kéo vào các khuôn nếp đó, chúng mãnh liệt đến chừng nào, và chúng động cảm đến chừng nào. Con càng cảm thấy chúng phai nhạt đi thì con sẽ càng trải nghiệm được an bình. Như thày Saint Germain có nói, con càng an bình bao nhiêu thì con càng có thể vui đùa với cuộc đời bấy nhiêu. Khi con đạt một lượng an bình nào đó, con sẽ bắt đầu hết gắn bó, con bắt đầu nhìn cuộc đời một cách khác hơn là đánh giá, phán xét, phân tích. Khi đó con cũng sẽ bắt đầu nhìn người khác, và nếu có ai đó kể cho con nghe chuyện đời họ, con không còn nhu cầu có bất kỳ quan điểm nào về cách họ phải sống ra sao.

Không có quan điểm về người khác

Gần như mọi lúc khi con có quan điểm về cách sống của người khác, đó là vì con cảm thấy mình bị đe doạ bởi một việc gì đó mà họ làm. Con có quan điểm là họ phải ngừng làm những chuyện khiến con cảm thấy bị đe dọa, hay những chuyện khiến con đi vào một khuôn nếp phản ứng. Rất, rất nhiều người có thái độ là khi họ phản ứng lại người khác, đó là do lỗi của người kia. Người kia là nguyên nhân khiến họ phản ứng lại. Nhưng họ đã không sẵn lòng nhìn vào thực tế là không ai có thể khiến họ phản ứng trừ khi họ đã mang sẵn dính mắc đó trong họ. Khi con bước trên đường tu tâm linh, đường tu quả vị Phật, hiển nhiên là con nhìn nhận chính con phải khắc phục các dính mắc của con. Và khi con làm vậy, không ai sẽ có thể lôi kéo con vào vòng khuôn nếp phản ứng đó.

Đó là khi con có thể bắt đầu nhìn vào người khác, và thay vì có một quan điểm được quy định bởi các vết thương và dính mắc của mình, giờ đây con chỉ giản dị quan sát. Con có thể quan sát: “Liệu người bạn của tôi có an bình hay chăng?” Nếu bạn con không an bình, con có thể dùng trực giác hòa nhập xem điều gì đã lấy mất an bình của bạn. Xong con có thể nhận được linh hứng để nói ra một điều gì đó thật đơn giản mà không cố bảo bạn phải làm gì. Con chỉ giản dị nói ra những gì con nhận xét đang lấy mất sự an bình của bạn. Có thể bạn con sẽ tìm được một cách nhìn khác về cuộc đời mà không bị cuốn hút mãi vào các khuôn nếp đó. Nếu bạn con mở tâm ra đón nhận, con có thể kể cho bạn nghe về kinh nghiệm bản thân khi con khắc phục được dính mắc của mình. Trong một số trường hợp, bạn con sẽ không sẵn sàng tiếp nhận và thậm chí còn có thể đáp trả lại một cách tiêu cực hay gạt bỏ nhận xét của con, nhưng con vẫn có thể giữ mình không bị dính mắc vào đó. Con không cần cảm thấy là mình bị chối bỏ. Làm sao con có thể cảm thấy bị chối bỏ khi con không hề có ý định thay đổi người bạn của con?

Đa số tương tác giữa con người đi theo cùng một khuôn nếp

Con yêu dấu, hầu hết mọi tương tác mà con chứng kiến ở mức cá nhân giữa con người với nhau đều có thể được xếp vào cùng một khuôn nếp. Con hãy quan sát một người mang một dính mắc nội tâm khiến họ không ngừng ở trong một khuôn nếp phản ứng nào đó. Khuôn nếp phản ứng này được kích hoạt, được khơi dậy hay được tăng cường bởi người khác. Khi họ không nhận ra nhu cầu tự cải sửa qua việc khắc phục khuôn nếp phản ứng, họ sẽ tìm cách thay đổi người khác hầu tránh không cho người khác khơi dậy khuôn nếp bên trong họ. Con thấy 98% sự tương tác giữa con người trên thế giới với nhau đều thuộc loại này, tức là người ta tìm cách thay đổi người khác hầu không phải thay đổi chính mình. Khi con bắt đầu nhìn ra sự thể này và khi con bắt đầu giải thoát khỏi nó, con sẽ cảm thấy sao mình tự do đến như vậy, an bình đến như vậy – một niềm vui không thể nào nén được!

Con yêu dấu, nếu lúc nãy khi ta dẫn con làm bài tập ở trên, con đã thực sự trải nghiệm được sự viên mãn của giây phút hiện tại, thì con cũng đã trải nghiệm được sự an bình mà con sẽ bắt đầu cảm nhận một cách liên tục khi con khắc phục các dính mắc đó. Rồi con sẽ nhìn nhận một cách ý thức: “Tôi không cần phải liên tục phán xét người khác hay phán xét cuộc đời, và thật ra tôi cũng không cần liên tục tự phán xét chính tôi. À, tôi có thể ngừng phán xét chính mình. Tôi không cần tự phán xét.” Xong con có thể giải thoát khỏi mưu đồ tinh vi của ác quỷ hay bọn quỷ Mara, là khiến con không ngừng tự phán xét mình dựa trên ý tưởng là mình thiếu sót, mình bất toàn, hay mình đã phạm lỗi trong quá khứ và giờ đây mình cần bỏ ra một thời gian dài đằng đẵng để mà bù lại. Thay vào đó, con có thể đơn giản bước vào một tâm thái – như sứ giả đã mô tả hôm trước – nơi con an bình là con người mà con là ngay bây giờ.

Con dư biết là con chưa đi muốt con đường tâm linh vì nếu không, con đã thăng thiên rồi. Con hiện đang đầu thai nhưng con không cần tự trách mình là con vẫn còn một chặng đường khá dài trước khi thăng thiên và con vẫn còn một số vấn đề tâm lý chưa giải quyết. Con có thể chỉ đơn giản quan sát chính mình. Con quan sát các phản ứng của con. Khi con thấy con phản ứng, con không cần tự phán xét nghiêm khắc hay cảm thấy buồn bực, hay cảm thấy là mình đã phạm lỗi, hay mình là một người xấu, hay mình không là một đệ tử tốt. Con chỉ đơn giản quan sát khuôn nếp đó xong con nói: “Tại sao tôi lại phản ứng cách như vậy, đâu là cái khuôn nếp, đâu là cái tin tưởng?” Một khi con thấy rõ hơn, có lẽ bằng cách đọc các bài thỉnh và thỉnh vị chân sư mà con ưa thích nhất trợ giúp con nhìn ra, thì khi đó con có thể nhìn ra khuôn nếp đó. Rồi con có thể nói: “Liệu tôi có muốn sống phần đời còn lại của mình mà cứ lặp lại khuôn nếp này mãi hay chăng?” Nếu con cảm thấy: “Không, tôi không muốn vậy nữa” thì con hãy nhìn vào quyết định và con thay đổi quyết định đó đi một cách ý thức. Như vậy con đã tiến lên một bước về hướng tự do, nhưng con vẫn luôn ở trong trạng thái không tự phán xét.

Con không cần phán xét: “Liệu tôi có là một để tử tốt, liệu tôi đã đạt tới một trình độ cao trên đường tu hay chưa?” Con chỉ cần đợi lần sau con nhìn thấy một khuôn nếp thì con quan sát mà không xét đoán: “Đâu là tác dụng của khuôn nếp này, nó đang ảnh hưởng cách hành xử của tôi cùng cách tôi cảm nhận chính mình và đời mình như thế nào? Tôi có muốn cảm nhận như vậy hay không? Tôi có muốn hành xử như vậy hay không?” Sau đó, con hãy đi theo cùng tiến trình và một lần nữa con lại tự giải thoát khỏi nó. Cứ thế con bước lên cao hơn và con tự do hơn. Rồi khi con lần lần gia tốc tiến trình này, con có thể đạt tới điểm con cảm thấy sự an bình liên tục khi con xuôi chảy từ một tình huống sang tình huống kế tiếp. Như các thày đã có nói về các Phật tử Tây tạng, con trụ vững nơi thực tại cuộc sống là một dòng chảy không ngừng.

Con là một sinh thể vượt thời gian

Con không cần lượng định tình huống xem nó tôt hay xấu, liệu nó có thành công hay con đã mắc phải sai lầm. Con nhìn nhận là bất cứ gì xảy ra trong cõi vật chất chỉ là một biểu hiện tạm thời. Con nhận ra là mặc dù có một số hậu quả vật lý mà con không thể tháo gỡ – vì con không thể thay đổi chúng, con không thể tự gỡ mình ra khỏi chúng vì chúng đã xảy ra trong quá khứ – thì hậu quả vật lý thật sự không ảnh hưởng gì đến sự trải nghiệm cuộc sống của con, vì trải nghiệm cuộc sống diễn ra bên trong con. Nó diễn ra trong tâm con. Vì thế con có khả năng nhận ra là cho dù hoàn cảnh vật lý trải nghiệm có là gì, đó vẫn là một cơ hội để con nhìn ra khuôn nếp phản ứng trong con, để con giải thoát khỏi khuôn nếp đó rồi bước tới gần hơn với quả vị Phật.

Những gì xảy ra trong kiếp này thật sự không mang tác động nào vĩnh viễn, liên tục và vô tận trên đời con. Và khi con lần lần thoát khỏi tính phán xét, lần lần thoát khỏi sự đồng hóa với cơ thể cũng như với hoàn cảnh vật lý của con, con nhận ra con là một sinh thể vượt thời gian, một sinh thể vĩnh hằng, một sinh thể không ngừng hiện diện. Trước kiếp đầu thai này, con đã từng sống qua rất nhiều kiếp khác, và con sẽ còn hiện hữu rất dài lâu sau kiếp này. Vậy thì những gì xảy ra trong cõi vật lý có gì quan trọng đâu khi chúng không ảnh hưởng gì đến cuộc sống của con sau kiếp này?

Con yêu dấu, nếu con có thể nhìn lại những gì đã xảy ra cho con một ngàn kiếp trước đây, con sẽ thấy là rất có thể con đã trải qua một biến cố vật lý khủng khiếp, chẳng hạn như bỏ mạng trong một cuộc chiến. Nhưng chuyện đó xảy ra một ngàn kiếp trước rồi. Ngày hôm nay liệu nó còn thực sự quan trọng hay không? Nó không quan trọng hơn khi con còn bé, con đánh mất một đồ chơi yêu quý rồi không làm sao tìm lại được. Ngày hôm nay, chuyện mất đồ chơi vào tuổi thơ ấu có thực sự quan trọng gì không?

Con nhận ra là biến cố vật lý tự thân nó không có ý nghĩa gì hết. Chúng chỉ có thể tác động con qua cách con phản ứng lại trong tâm con. Con yêu dấu, mặc dù con không thể thay đổi hậu quả vật lý, nhưng bất cứ lúc nào con cũng có khả năng thay đổi khuôn nếp phản ứng trong tâm con. Đây là chìa khóa cốt yếu để con bước tới quả vị Phật, cụ thể là con nhận ra là con luôn luôn có khả năng thay đổi những gì xảy ra trong tâm mình. Mà chính những gì xảy ra trong tâm con mới định đoạt trải nghiệm của con trong giây phút hiện tại, tức là trải nghiệm của con về cuộc sống. Chính cái đó cũng định đoạt tương lai của con, hướng đi của con trong tương lai.

Khuôn nếp phản ứng sẽ định đoạt tương lai con

Con thử nhìn xem những người vừa trải qua một biến cố không như ý. Họ đều phản ứng lại cùng một cách: Thất vọng, buồn bực, giận dữ, tiêu cực. Họ rơi vào một khuôn nếp phản ứng. Con yêu dấu, bây giờ con thử suy ngẫm điều này: Bất kỳ một biến cố nào xảy ra cho con trong cõi vật lý là một điểm độc nhất. Con đang ngồi đây ngay bây giờ, và hoàn cảnh của con ngay bây giờ là một điểm độc nhất. Trước mặt con là một mặt phẳng rộng mênh mông, một bề mặt rộng lớn như quảng trường vĩ đại kia trong Công viên Olympic vậy. Con ngồi ở một điểm và trước mặt con là toàn bộ quảng trường mở rộng. Trên lý thuyết, con có thể bước đi về bất cứ hướng nào con muốn trong quảng trường đó.

Cho dù con đã trải qua biến cố nào trong đời, con vẫn có rất nhiều con đường mở ra trước mặt về phía tương lai. Nhưng khi con có một khuôn nếp phản ứng trong tâm, khuôn nếp này sẽ ngăn cản không cho con thấy rất nhiều những con đường mở ra như vậy. Nó sẽ tập trung chú ý của con vào đúng một con đường, thường là con đường tiêu cực nhất. Con sẽ nghĩ đó là cách duy nhất con có thể phản ứng, là con đường duy nhất đưa con vào tương lai.

Ta nói với con, khi con bước đi trên con đường quả vị Phật và khắc phục dính mắc của mình, con sẽ tới một điểm khi con có thể trải nghiệm một sự cố, và từ một góc độ nào đó, đây không phải là một sự cố lý tưởng. Có thể đây không là điều con mong muốn, nhưng cho dù sự cố đó là gì, con vẫn thấy được nhiều con đường mở ra trước mặt mà con có thể đi theo vào tương lai. Vì con đã vượt qua được khuôn nếp phản ứng, cho nên con có tự do chọn lựa trong số các con đường đó, và đó chính là lúc con có thể xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Con ngộ ra đời con là một dòng chảy không ngừng, và đó không phải là một tiến trình nơi con có thể dừng lại và kẹt lại ở một điểm nào đó cho dù biến cố trải nghiệm có khủng khiếp, đau thương biết mấy. Dòng chảy không ngừng lại. Có thể con quyết định đi theo một hướng nào đó khiến con tưởng dòng chảy đã ngừng lại hay con đang bơi ngược chiều Dòng sông sự Sống và đang gặp phải sự chống đối kịch liệt, nhưng dòng chảy không hề ngừng lại.

Một khi con khắc phục khuôn nếp phản ứng, con sẽ thấy là chỉ cần một chút thay đổi trong cách nhìn cuộc sống, cách tiếp cận cuộc sống, thái độ đối với cuộc sống, thì con có thể thay đổi hướng đi đời con. Và như vậy trong tương lai, con sẽ tới một điểm đến hoàn toàn khác xa so với con đường con đã đi khi con còn mang khuôn nếp tiêu cực. Con yêu dấu, có quan trọng gi hay chăng những gì đã xảy ra trong đời sống vật lý của con? Có thực sự quan trọng hay chăng con đường mà con đã lấy miễn là con đến được điểm thăng thiên ở cuối kiếp này? Hoặc ít ra con đến được điểm cao nhất mà con có khả năng với tới hầu con mở ra một kiếp hiện thân tốt đẹp hơn khi con tái đầu thai?

Có thật quan trọng hay chăng những gì xảy ra cho con khi bất cứ gì xảy ra cũng đều có thể được dùng để thiết lập một hướng đi tốt đẹp hơn cho tương lai? Một khi con nhìn nhận điều này, con có thể tránh bị các khuôn nếp phản ứng đó lôi kéo. Con sẽ bắt đầu quan sát các khuôn nếp. Con sẽ bắt đầu giải thể các dính mắc, và với mỗi dính mắc mà con giải thể, con sẽ tiến một bước gần hơn với quả vị Phật. Hiển nhiên đây là điều mà ta mong muốn nhìn thấy nơi con. Đó cũng là điều mà ta đã cố giảng dạy và chứng tỏ cho các đệ tử của ta 2500 năm trước đây. Thuở đó quá ít người đã có thể nắm bắt được, nhưng dù sao thì một số người đã sử dụng được giáo lý của Phật để nắm bắt lấy, và ta hy vọng nhiều người hơn nữa sẽ dùng được giáo lý của các chân sư thăng thiên trong thời đại hôm nay để trụ vững nơi tinh túy của con đường quả vị Phật.

Đức Phật bất động và đức Phật hằng động

Con yêu dấu, ta mong muốn trao cho con một số suy nghĩ dựa trên những gì ta đã nói hôm trước, cụ thể là ta, đức Phật, là một sinh thể hằng thay đổi. Từ khi đầu thai lần chót cách đây 2500 năm, ta đã tự thăng vượt rất nhiều lần. Tất nhiên, ta thừa biết là câu nói này có vẻ khiêu khích đối với những ai có cái nhìn truyền thống về Phật. Nhưng lời nói này cố tình khiêu khích, vì ta không muốn tâm con bị đông đặc trong một hình ảnh bất động về Phật.

Đương nhiên từ một góc nhìn phàm phu, đúng là Phật có một yếu tố dường như không thay đổi. Điều con cần hiều – hầu giải quyết một điểm có vẻ nghịch lý – là một tâm thái của con người mà ta từng gọi là “Biển Luân hồi” nơi biến động và rối loạn xảy ra không ngừng. Tất nhiên, chính các dính mắc của con đã cuốn hút con vào các khuôn nếp phản ứng trước những chuyển biến trong cuộc sống vật lý của con, và cái đó tạo ra sự rối loạn khiến đời con trở thành một tiến trình hoàn toàn hỗn độn.   

Để bắt đầu vạch ra một hướng đi mới cho đời con, một lộ trình có hệ thống để tiến về quả vị Phật, con cần khắc phục phần nào tình trạng hỗn loạn đó để tìm thấy một chút an bình, một chút im lặng, một vài giây phút nơi con có thể bước lui lại và quan sát cuộc sống. Đó là khi con được ích lợi khi con tập trung vào Phật như là Phật bất động, Phật an bình, Phật im lặng, là Phật đem lại cho con một nơi trú ẩn khỏi những náo động của Biển Luân hồi. Đây là một hình ảnh chính đáng nếu con sử dụng trong mục đích đó.

Một khi con bước lên cao hơn trên đường tu và con đã bắt đầu thiết lập một sự an bình nội tâm nào đó, thì con cần nhìn nhận là mặc dù không một thế lực nào của thế gian có thể khiến cho Phật lay động, nhưng điều này không có nghĩa là Phật đứng yên một chỗ. Nó không có nghĩa là Phật không bao giờ thay đổi. Im lặng, an bình, bất động không có nghĩa là không hằng sống, không thăng vượt. Đó là tại sao các chân sư thăng thiên ngày nay đã ban ra lời dạy về Dòng sông sự Sống, một lời dạy – mà theo một cách nào đó, hay ít ra được diễn tả với ngôn từ hiện đại hơn – vượt khỏi các giáo lý mà ta đã giảng dạy 2500 năm về trước.

Con cần nhìn nhận là ở những mức cao hơn của đường tu, ngay cả quả vị Phật cũng không đứng yên một chỗ. Con sẽ thấy là một số người ở phương Đông, cả trong truyền thống Phật giáo lẫn Ấn giáo, mô tả cuộc sống như một chiếc bánh xe. Một cách nào đó, linh hồn con hiện ra từ Niết bàn và con bước vào hiện thân, con tạo nghiệp và nghiệp này khiến con cứ phải trở lại đầu thai. Rồi con tìm ra một con đường giải thoát khỏi nghiệp để con không còn phải trở lại đầu thai. Một số người và một số vị thày dạy rằng một khi con giải thoát khỏi bánh xe luân hồi, con biến mất để trở về trong Niết bàn. Con biến mất trong tư cách là một sinh thế cá biệt. Con yêu dấu, nếu thật là như vậy thì đâu là mục đích để con hiện ra từ một trạng thái hư vô, kinh qua tất cả những biến động đó trên trái đất để rồi lại trở về trạng thái hư vô? Ích lợi ở đâu? Chẳng có ich lợi gì hết, và đó là lý do tại sao quá nhiều người cảm thấy vô vọng, như thể sự sống không có ý nghĩa gì, vì sau tất cả những phấn đấu đó thì họ chỉ đơn giản biến mất.

Không có trạng thái vô ngã

Tất nhiên, các chân sư giảng dạy sự thật rằng con là một sinh thể không ngừng hiện diện. Sau khi con thoát khỏi bánh xe luân hồi, con có thể thăng thiên và tiếp tục con đường tiến hóa có ý thức dẫn đến những tầng tâm thức cao hơn nữa. Sau khi con đã làm yên những rối loạn trong tâm, điều quan trọng, điều cốt yếu là con bắt đầu trụ vững nơi bản chất không ngừng hiện diện của con, và như vậy con cũng trụ vững nơi Bản thể của Phật. Làm thế nào con có thể cảm thấy mình đang nỗ lực tiến về quả vị Phật nếu con nghĩ đó là một trạng thái cố định, không thay đổi? Hay một trạng thái vô ngã, một trạng thái không có cái ta, như một số vị thày dạy như vậy? Nhưng con yêu dấu, không có trạng thái nào mà không có cái ta. Đúng là có một trạng thái không có ngã phàm phu, không có ngã tách biệt, nhưng không có trạng thái vô ngã, theo nghĩa là luôn luôn có cái Ta mà Thượng đế đã sinh tạo, là cá thể thiêng liêng của con luôn luôn hiện diện và tự thăng vượt.

Vấn đề không phải là chuyện khắc phục ngã phàm phu rồi biến mất vào hư vô, mà là khắc phục ngã phàm phu rồi nối kết lại với cái Ta chân thực của con. Bí quyết ở đây, con yêu dấu, là hiểu rằng đối với ngã phàm phu, việc khắc phục ngã phàm phu sẽ mang cảm giác như một trạng thái vô ngã, một trạng thái hư vô. Ngã phàm phu không thể nào hình dung nổi một trạng thái ý thức mà không có hai đối cực nhị nguyên của ngã phàm phu. Đối với nó, đối với sa nhân, cái đó có vẻ như là hư vô, nhưng nó không phải là hư vô. Nó không phải là vô ngã, mà nó là cái Ta Một. Nó là cái Ta của Phật.

Hình ảnh mà ta muốn để lại cho các con, một lần nữa, là hình ảnh một dòng sông. Khi con nhìn một dòng sông khởi nguồn cao trên núi, con thấy trong giai đọan đầu, sông chảy xuống sườn dốc rất cao, nước chảy rất nhanh và cuồng loạn. Điều này tượng trưng cho giai đọan mà hầu hết mọi người đều kinh qua khi họ bị kẹt cứng trong các khuôn nếp phản ứng, kẹt cứng trong các dính mắc của họ, đến độ họ vướng vào Biển Luân hồi với những xoáy nước, với sóng dữ và bão táp ngổn ngang hỗn loạn. Tất cả mọi thứ trong đời họ đều rối lên như thể họ bị ném tới tấp ra tứ phía bởi một định mệnh tàn nhẫn. Họ hoàn toàn không kiểm soát được đời họ và họ không thể ngừng chiếc tàu lượn cứ phóng tới.

Thế rồi khi con bước vào đường tu và khám phá sự an bình nội tâm đích thực của Phật, con giống như những đoạn cuối của dòng sông khi sông dịu dàng uốn mình giữa phong cảnh yên ắng. Con bắt đầu trải nghiệm là mặc dù dòng sông vẫn chuyển động, nó có một cái gì không bao giờ ngừng hiện diện. Nhưng con vẫn cảm thấy sự an bình vì náo động không còn nữa.

Khi con đạt đến điểm này, con sẽ có một cái nhìn khác về Phật. Khi con cảm thấy bình an bên trong chính con, cho dù con vẫn biết là con còn đang đầu thai, con xuôi chảy với Dòng sông sự Sống, và con ngộ ra là sự an bình có thể đạt được trong chuyển động. Khi đó, con sẽ nhận ra là cái có vẻ là bất động, là sự an bình tĩnh tại của Phật, thật ra không đứng yên chút nào.

Con yêu dấu, con hãy hình dung dòng sông. Con đang đứng ở một điểm nào đó trên dòng sông cho nên con có xu hướng nhìn sông từ điểm đó. Bây giờ con hãy bước ra khỏi sông, ngắm nhìn nó từ xa, từ lúc nó khởi nguồn trên núi cao vùng Đông Hàn quốc rồi chảy xuyên qua thành phố Seoul này. Xong con hãy nhận ra là dòng sông này có thể được ngắm trong sự trọn vẹn của nó. Nó được cấu tạo bằng từng phân tử nước cá biệt, nhưng con có thể xoay nhãn quan và nhìn ra toàn bộ dòng sông là một khối nước nối kết liên tục. Cái đó, con yêu dấu, chính là Phật, là toàn bộ dòng sông, là tánh duy nhất của sông đang tuôn chảy. Một số thành phần của nó náo động, một số thành phần của nó yên lặng, nhưng cả dòng sông thì chỉ là một. Cái đó, con yêu dấu, chính là Phật. Đó là im lặng trong chuyển động. Đó là Dòng sông sự Sống, và TA LÀ dòng sông đó, và con cũng là dòng sông đó.  

Con sẽ có thể nói: “Nhưng con đang ở trong dòng sông.” Phài, con đang ở trong đó, nhưng điều này không ngăn cản con nối kết với tổng thể và nhận ra rằng toàn bộ dòng sông là Phật tánh. Do đó, con có thể hòa nhập vào cái toàn thể đó, và mặc dù con đang đứng ở một điểm trên sông, con vẫn có thể thoáng trải nghiệm được toàn thể của nó. Điều này cho con một cái nhìn hoàn toàn đổi khác về cuộc sống. Đó là chìa khóa tối hậu để con khắc phục những dính mắc cuối cùng mà con còn mang trong con ngay cả ở những giai đoạn cao hơn của đường tu. Những dính mắc này cần được vượt qua trước khi dòng sông đời con có thể chảy vào đại dương tối thượng, là đại dương an bình vượt khỏi Biển Luân hồi, hoặc như ta đã từng gọi, là Bờ Bên kia.

Như vậy, con yêu dấu, ta chúc con sự an bình trong chuyển động và ta niêm con trong hòa bình mà TA LÀ. Ta niêm phong đại hội này, một đột phá thực sự để bước lên trạng thái tâm thức cao hơn cho mỗi cá nhân các con cũng như cho trạng thái tâm thức tập thể tại Nam Hàn, Bắc Hàn cũng như vùng châu Á rộng lớn. Con được niêm trong sự an bình không ngừng tuôn chảy, không ngừng hiện diện của Phật.  

Những thay đổi cần thiết trong tư duy người châu Á

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama, ngày 2/7/2016, qua trung gian Kim Michaels nhân dịp một hội nghị tại Hàn quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama, và ta đến đây để gửi đến các con một số tuệ quán về một trong những thay đổi có khả năng đưa không chỉ Hàn quốc mà cả châu Á nói chung vào Thời Hoàng kim. Các con yêu dấu, ta thật vui mừng khi thấy sứ giả này đã có thể trình bày bài nói chuyện vừa rồi và cử tọa đã thực sự hiểu được những gì ông nói. Tất nhiên các chân sư chấp nhận tất cả các con như các con đang là, ngay trong lúc này, và các chân sư không mong muốn gì hơn là được thấy các con cũng chấp nhận chính mình như là những học trò trên đường tu tâm linh.    

Vì thế các con hãy an lạc bước trên đường tu, an lạc được sống, và an lạc được hiện thân trong khi các con đang hiện thân, thay vì các con đi đến cuối đường đời, hay ngay cả thăng thiên, rồi mới nhận ra là mình đã không tận dụng cơ hội đầu thai và không hoàn toàn thưởng thức cuộc đời. Và con đã không thưởng thức được cuộc đời vì con không thể chấp nhận được chính con như con là.

Bù đắp cho sự không chấp nhận bản thân

Như sứ giả này vừa nói hoàn toàn chính xác, các sa nhân đã cố tạo ra một tình trạng nơi không một ai có thể chấp nhận chính mình bởi vì luôn nghĩ rằng mình phải là một người nào khác. Con thấy trong nhiều xã hội, người ta đã tìm ra một cách bù đắp cho tình trạng này. Nếu trong một xã hội không ai chấp nhận được mình như là mình, và do đó mọi người đều có một cảm giác bất mãn, khổ sở nào đó thì làm thế nào họ sống được đây? Nhiều người sống bằng cách chấp nhận số phần của mình trong đời. Họ chấp nhận làm người nông dân, người công nhân, hay một người bình thường không bao giờ có thể thực sự vươn lên cao hơn. Một khi con chấp nhận như vậy thì con có thể, một cách kỳ lạ, sống với nó, bởi vì suy cho cùng, không ai khác trong tập thể của con có thể làm hơn con. Nếu mọi người đều khổ sở như nhau thì hầu hết mọi người sẽ thấy khổ sở cũng không đến nỗi tệ.

Nhưng con cũng thấy trong hầu hết các xã hội, có một thành phần khác đối phó với sự thiếu chấp nhận bản thân đó một cách hoàn toàn khác. Họ đứng riêng ra và tự coi mình là đặc biệt so với người khác. Họ cảm thấy họ thuộc về một thành phần xã hội đặc biệt, phần nào được nâng lên cao hơn mọi người khác là những nông dân, công nhân, những người dân bình thường. Khi con nhìn vào lịch sử hành tinh này, con thấy đây là một trong những đặc tính chủ yếu của hầu hết các xã hội.   

Các chân sư đã nói là các sa nhân, ngay từ lúc họ bị sa ngã (và thậm chí trước đó nữa trong nhiều trường hợp), đã muốn tạo ra cho mình một tư thế cao hơn, vượt trên người khác. Xu hướng muốn tạo ra một giai cấp xã hội vượt trên đa số quần chúng khởi đầu với sa nhân. Điều này không có nghĩa là bất cứ ai thuộc về một thành phần đặc bịêt của xã hội nhất thiết phải là một sa nhân. Nhiều người chỉ lỡ mắc kẹt vào tâm thức sa ngã nên họ cũng cố nâng mình lên cho thành đặc biệt. Họ tìm cách thuộc về một giai cấp đặc biệt và cảm thấy mình cao hơn, vượt trên người khác.

Phương cách mà họ thường sử dụng là bảo rằng giai cấp này có một số khả năng hay tính cách đặc biệt. Suốt các thời đại, người ta đã dùng nhiều hệ thống triết lý để biện minh cho cách phân chia đó, cách chia cắt xã hội thành giai cấp trên và dưới. Đó có thể là tôn giáo, và trong nhiều trường hợp đã là tôn giáo. Đó có thể là một triết lý cai trị. Thậm chí đó có thể là chủ nghĩa duy vật khoa học, như con thấy ngày nay có những người cho mình là có thể lực hơn mọi người mặc dù họ hiếm khi đến phòng tập thể dục.  

Con yêu dấu, người ta có đủ cách bào chữa cho sự thể này, và nếu con nhìn vào các lý do vỏ ngoài tại sao họ lại đặc biệt, nếu con tin những gì họ nói, thì con có thể nghĩ chắc hẳn họ cảm thấy rất hài lòng về bản thân và địa vị xã hội của họ. Chắc hẳn họ cảm thấy tốt đẹp hơn người khác thật, và ta phải đồng ý là có nhiều người trong giai cấp thượng lưu tin chắc là họ có những đặc tính khiến họ tốt đẹp hơn mọi người. Nhưng điều này chỉ nằm trên bề mặt của tâm thức họ, vì thực sự họ đang ở trong ảo mộng, đang tự dối gạt, đang không chịu nhìn sâu vào tâm lý họ để nhận ra là kỳ thực họ đang hoàn toàn đau khổ do không chấp nhận được chính mình.  

Có thể nói, cảm giác vỏ ngoài tự cho mình là hơn người chỉ đơn giản là một cách che đậy nỗi khổ đau bên trong, hầu giúp họ có thể sống với đau khổ mà không nhìn thấy đau khổ. Cũng y hệt như những người kia trong giai cấp hạ lưu đã tìm ra cách che đậy nỗi đau khổ nội tâm hầu họ không nhìn thấy điều đó trong sự tỉnh táo. Con nhận ra là tại châu Á nói chung, xã hội đã có một truyền thống lâu đời chia thành một giai cấp thượng lưu mang đặc quyền, và phần còn lại là những người dân cư xử một cách vô cùng khúm núm, phục tùng – nếu có thể nói như vậy – đối với giới thượng lưu.    

Sự phân rẽ trong xã hội châu Á

Vậy con có thể thấy những tàn dư của tình trạng này tại nhiều quốc gia châu Á trong cách người dân cư xử trước quyền lực, và ngay cả trong cách đối xử với nhau. Họ thường cúi đầu và cảm thấy họ phải khuất phục, đặc biệt là đối với những kẻ ở địa vị lãnh đạo hay uy quyền. Hiển nhiên là các chân sư mong muốn các con, là học trò tâm linh, vượt lên trên tâm thức này, và chấp nhận mình như mình là, và chấp nhận rằng bất kể người ta có địa vị gì trong xã hội thì con vẫn cảm thấy hài lòng trong nội tâm về chính mình, như hồi nãy có đứa con gái của con vừa bày tỏ. Bên ngoài thì con có thể tuân thủ luật lệ xã hội và làm những điều cần làm để sống còn trong hệ thống, nhưng bên trong con hãy nhận ra mình là ai và nhận ra giá trị của mình.  

Tuy nhiên người dân tại các nước Á châu cũng cần nhận ra là sự phân chia xã hội thành cao với thấp không thể nào đứng vững trong Thời đại Bảo bình. Con không thể xây dựng một xã hội hoàng kim nếu con có một giai cấp trên và một giai cấp dưới. Giai cấp thượng lưu sẽ không thể xây dựng được xã hội hoàng kim bởi vì họ không thể hòa điệu với tâm thức của Saint Germain. Làm thế nào họ có thể hòa điệu với Thánh thần của Tự do khi họ không có cả tự do trong bản thân họ, và họ không sẵn lòng ban bố tự do đó cho những thành phần thấp hơn trong xã hội?   

Các con cần chuyển đổi nhận thức của mình, cần kêu gọi mọi người nhận thức được cái cơ chế phân chia xã hội thành cao với thấp. Mọi người cần tỉnh thức về những lý do đã dẫn đến sự thể này, tỉnh thức rằng nó đã lỗi thời. Mọi người cần nhìn thẳng vào nó, công khai thảo luận về nó và sáng tạo một nền văn hóa khác hẳn.   

Một điều con nhận thấy trong nhiều nước Á châu kể cả Hàn quốc, là chỉ những ai thuộc các gia đình “chọn lọc” mới có thể đi học trường tốt và được ưu đãi trên thị trường việc làm. Nhiều hãng sở sẽ cứu xét thế lực gia đình của nhân viên trước khi bổ nhiệm vào những chức vị cao cấp. Con yêu dấu, có nghĩa lý gì từ một góc độ kinh doanh khi người ta thuê mướn nhân viên mà lại nhìn vào gốc gác gia đình thay vì xét xem người đó có đủ kiến thức, khả năng hay cá tính để đảm nhiệm trách vụ? Con yêu dấu, con có hiểu là tại sao nhiều công ty châu Á đã không thể tung ra những phát minh hay công nghệ mới như các công ty ở một số nước phương Tây hay chăng?

Nếu con tự hỏi, con yêu dấu, tại sao tập đoàn khổng lồ mang tên Samsung lại phải bắt chước sản phẩm của Apple thì con sẽ thấy lý do khá giản dị. Mặc dầu to lớn, có nhiều tiền và nhiều nguồn lực nhưng Samsung vẫn không có khả năng thuê mướn những người đủ sáng tạo hầu tung ra những sản phẩm mới lạ. Họ vẫn phải bắt chước, và tại sao như vậy, con yêu dấu? Phần lớn là vì cái văn hóa mà ta vừa nói tới, tức là dùng người dựa trên gốc gác gia đình thay vì khả năng sáng tạo hay những khả năng khác.

Khi con bắt đầu nhận ra điều này thì con thấy nó ảnh hưởng trên nhiều phương diện, không chỉ xã hội Hàn quốc mà nhiều xã hội châu Á khác nữa. Ở một số nước, vấn đề này thật là hiển nhiên, trong khi ở một số nước khác thì nó vi tế hơn. Ta có thể cam đoan với con là nếu Á châu muốn vươn lên tâm thức của Thời Hoàng kim thì nền văn hóa này phải được vượt thăng, tức là người ta phải sẵn lòng nhìn vào linh hồn, nhìn vào con người cùng những khả năng và đặc điểm sẵn có của mỗi người thay vì các hình thức bề ngoài. 

Thái độ đối với phụ nữ tại châu Á

Một trong những vấn đề cũng cần được giải quyết, tất nhiên, là thái độ đối với phụ nữ trong các xã hội châu Á. Con thấy là để có được một chân đứng cao cấp trong một hãng lớn tại Á châu, con không những phải thuộc một gia đình cao cấp mà thêm vào đó con phải là đàn ông. Một lần nữa, đây là một trong những lý do nhiều công ty châu Á bị tụt hậu, bởi vì không có gì bảo đảm nam giới có nhiều khả năng sáng tạo hơn, và trong nhiều trường hợp các sáng kiến mới lạ chỉ có thể đến từ nữ giới. Đây cũng là một vấn đề tại Tây phương nhưng là một chủ đề cho một bài khác.

Con thấy được là trong vùng này của thế giới đã có một truyền thống lâu đời áp chế những ai bị coi là thuộc giai cấp thấp kém, những ai bị coi là không quan trọng. Ngay cả trong giới thượng lưu cũng có truyền thống áp chế phụ nữ, không để cho phụ nữ phát huy khả năng sáng tạo, tài năng tổ chức, tầm nhìn cũng như sự đóng góp của mình cho xã hội.

Có thể nói là khi nhìn vào xã hội, con thấy được là có phân chia giai cấp, trên và dưới, dựa theo gốc gác gia đình, và đồng thời cũng có một giai cấp ở trên gồm nam giới thuộc một số gia đình chọn lọc, và có một giai cấp ở dưới gồm nữ giới bất kể mọi gốc gác gia đình. Con cần nhìn nhận, như ta vừa nói, là một linh hồn, một dòng sống, không độc quyền là nam hay nữ, mà sẽ đầu thai trong mỗi kiếp trong một xác thân vật lý khác nhau. Con không luôn luôn là người nam trong một cơ thể nam giới. Con cũng không luôn luôn là người nữ. Cho nên nếu con muốn tìm nhân viên thích hợp nhất cho một trách vụ ở hãng sở hay trong xã hội, con cần nhìn vào các đặc điểm của linh hồn, các đặc điểm nội tại của linh hồn.

Không trân quý cá nhân

Con yêu dấu, nhìn từ góc cạnh kinh doanh thuần túy, điều này phải khá hiển nhiên. Các lãnh đạo kinh doanh, như tại Hàn quốc, phải có khả năng nhìn thấy tại sao họ lại thua kém các công ty Tây phương về sáng tạo và họ phải làm gì để thu hẹp khoảng cách. Họ phải kết luận được là họ cần tìm kiếm những người mang khả năng đặc biệt trong bản thân thay vì chỉ nhìn một số nét bề ngoài rồi giả thiết rằng người xuất thân từ gia đình tốt sẽ sáng tạo hơn, lãnh đạo giỏi hơn. Con có thể tự hỏi tại sao họ không đi đến được kết luận đó? Có phải là họ không đủ khôn ngoan, không đủ thông minh? Hay là vì những lý do nào khác?  

Lý do, như các chân sư khác có đề cập, là châu Á có một truyền thống lâu đời coi trọng nhà nước hay tập đoàn hơn là cá nhân. Người ta không xem mỗi con người cá nhân là có giá trị cố hữu, là nguồn lực đặc trưng với khả năng độc đáo. Xu hướng chung là cho rằng nếu một trách vụ cần người đảm nhiệm thì gần như bất cứ ai, hay ít ra rất nhiều người, cũng có thể đảm nhiệm được. Do vậy mà nhà nước lẫn công ty đã cho phép mình coi thường cá nhân, tất nhiên là ngoại trừ người lãnh đạo tối cao. Và ngay cả điểm này cũng không hẳn đúng, vì con có thể thấy ở nhiều nước như Bắc Hàn ngày nay chẳng hạn, con trai của lãnh tụ cũ tự động trở thành lãnh tụ mới bất kể anh ta có thích hợp cho trách vụ đó hay không và bất kể anh ta có muốn giữ trách vụ đó hay không.

Khi con không trân quý cá nhân, không trân quý con người, làm sao con có thể chuyển hướng khỏi cái văn hóa chỉ chuộng gia đình và hình thức bề ngoài? Cho nên sự chuyển đổi cần xảy ra, mà sứ giả này đã có nhắc đến, là các con phải bắt đầu trân quý lẫn nhau, nhìn nhau như là bình đẳng, và quý trọng nhau như những cá nhân, những con người mà các con là. Các con quý trọng và hiểu rõ giá trị của sự khác biệt. Tại sao sứ giả này đã có thể nói chuyện với các con? Bởi vì ông có một cử tọa nơi hầu hết mọi người đều nhận thức được là mình muốn liên hệ với nhau một cách khác. Các con muốn liên hệ với nhau bình đẳng thay vì chia ra thành kẻ trên người dưới. Đây là tiềm năng của các con để tác động lên xã hội khi các con chấp nhận tâm thức này nơi chính mình, khi các con phát biểu và, tất nhiên, khi các con đọc lên những bài chú. Nhất định là sẽ rất, rất khó thay đổi được một tâm thức vô cùng lâu đời đã ăn sâu vào xã hội như thế.

Khi ta nói là điều đó rất khó khăn thì, tất nhiên, đó cũng chỉ là tương đối. Vì như chúng tôi các chân sư đã nói nhiều lần, đối với con người thì nó không thể, nhưng đối với Thượng đế thì tất cả đều có thể. Nhưng chúng tôi cũng lại nói, tâm thức con người cần chuyển đổi trước khi chúng tôi có thể sử dụng quyền năng của chúng tôi. Phải cần có một nhận thức ngày càng sâu rộng, một sự chuyển hướng trong nhận thức, rằng các con sẽ chấp nhận lẫn nhau như con người mà các con là, và các con bắt đầu liên hệ với nhau một cách khác.

Chuyển đổi thái độ của xã hội đối với cá nhân

Con yêu dấu, chúng tôi không có ý tạo ra ở đây một phong trào tâm linh sẽ lặp lại những khuôn nếp được thấy quá thường xuyên trong Thời đại Song ngư vừa qua, khi mà ngay cả các phong trào tâm linh cũng bị phân rẽ thành giai cấp trên và giai cấp dưới. Có những người xem mình tốt đẹp hơn người khác, và những người còn lại thì chấp nhận mình là hàng thứ dưới của kẻ lãnh đạo. Đây không phải là điều chúng tôi muốn xảy ra. Khi các con vượt qua được tâm thức này trong con thì những lời chú của con sẽ có nhiều quyền năng hơn và các con sẽ làm theo những gì sứ giả đã nói. Các con sẽ làm gương cho mọi người là các con có thể liên hệ với nhau cách khác.

Sự chuyển đổi nào cần thiết cho xã hội? Là các con nhận ra mục đích của sự sống hay của một xã hội là phục vụ con người, phục vụ sự tăng trưởng tâm thức, trao cho mọi người cơ hội biểu hiện các đức tính vốn có của mình, sự sáng tạo, kinh nghiệm và khả năng của mình. Nếu một xã hội trao cơ hội cho những ai từng phát triển những khả năng cao nhất trong tiền kiếp có thể biểu thị được khả năng này, thì xã hội sẽ thăng hoa. Nếu một tập đoàn thu hút được nhân sự có khả năng, biết trân quý khả năng và trao cho họ cơ hội thể hiện khả năng, thì tập đoàn đó sẽ thịnh vượng.    

Muốn vậy, mọi người cần thấy mục đích của xã hội là phục vụ con người. Mục đích của tập đoàn là phục vụ những người làm việc trong tập đoàn, chứ không phải là tạo thêm lợi nhuận ngày càng lớn hơn cho một số ít cổ đông không thực sự đóng góp cho tập đoàn vì họ chỉ sở hữu cổ phiếu và nhận cổ tức.   

Con yêu dấu có thấy không, vào thời Hoàng kim sẽ có một cấu trúc công ty hoàn toàn mới mà qua đó những ai trực tiếp đóng góp vào hoạt động của công ty sẽ được xem là mục đích chủ yếu của hoạt động công ty. Thậm chí mục đích của một công ty thời hoàng kim sẽ không là kiếm tiền. Mục đích sẽ là phục vụ những người làm việc cho công ty, và tất nhiên muốn vậy thì phải phục vụ những ai sử dụng sản phẩm và dịch vụ của công ty. Đây là một chuyển đổi lớn lao mà ngay cả bên Tây phương vẫn chưa chứng kiến, ngoại trừ một vài ngoại lệ hiếm hoi. Chúng tôi vẫn biết điều này sẽ không xảy ra tại châu Á trước tiên, nhưng vẫn hữu ích nhắc đến vì nó nằm trong khuôn mẫu hoàng kim. Và các con có thể đọc lên những lời kêu gọi để các xã hội châu Á khởi sự trân quý cá nhân, trân quý con người, và thấy được mục đích xã hội là phục vụ người dân của mình.

Mục đích của Hàn quốc

Đâu là mục đích của dân tộc Hàn quốc? Có phải là để cho một thiểu số thượng lưu ngày càng giàu có hơn? Các con không thấy sao, những quốc gia từng để cho sự thể này xảy ra đã dựng lên một giai cấp thượng lưu không còn cảm thấy trung thành với quốc gia đã ban cho họ địa vị đặc quyền của họ. Con hãy nhìn bao nhiêu tập đoàn khắp thế giới đã trở thành tập đoàn đa quốc gia, vì một khi họ thu hút loại người đeo đuổi quyền lực và của cải vô hạn thì không có gì – như bài thỉnh các con vừa đọc có nói – không có gì là đủ cho họ.

Không có quyền lực nào đủ lớn cho họ. Không có lợi nhuận nào đủ lớn cho họ. Không có một quốc gia nào trên thế giới có khả năng thỏa mãn sự tham lam vô đáy của họ. Ngay cả một đất nước rộng lớn như Hoa Kỳ cũng không thể thỏa mãn lòng tham của cải và quyền lực của các tập đoàn, và các tập đoàn này đã bành trường thành đa quốc gia. Họ càng đa quốc gia thì sự trung thành của họ càng ít đi đối với quốc gia và dân tộc của họ.

Con không thấy điều này đang xảy ra với một số tập đoàn lớn tại Hàn quốc hay sao? Có thực sự mục đích của một dân tộc là trao địa vị đặc quyền như vậy cho một thiểu số thượng lưu không giữ trung thành đối với quốc gia và dân tộc mình? Con nhìn xem đã bao nhiêu lần các tập đoàn đã chuyển hoạt động sản xuất sang một nước có giá nhân công rẻ mạt để khiến cho hàng vạn nhân viên của mình lâm vào cảnh thất nghiệp? Hơn thế, nhà nước lại để yên cho tập đoàn cứ thế bành trướng, để rồi phải hứng lấy một nan đề phải giải quyết, trong khi tập đoàn thì phủi tay. Có thực đó là khuôn mẫu mà con muốn lặp đi lặp lại nơi đây tại Hàn quốc cũng như tại các nước Á châu và nhiều nơi khác?       

Sa nhân không có lòng trung thành

Con cần kêu gọi để tạo ra sự chuyển đổi, và con cần kêu gọi sự phán xét đối với tâm thức của nhóm thượng lưu đặc quyền không có chút trung thành nào đối với quốc gia hay với những nhân viên đã làm việc cật lưng để giúp cho tập đoàn bành trướng to lớn đến thế. Con yêu dấu, con cần nhìn ra là các sa nhân hoàn toàn không trung thành với bất cứ ai. Con cũng cần nhìn ra là sa nhân luôn luôn đòi hỏi sự trung thành từ mọi người. Chúng luôn luôn đòi hỏi từ người khác những gì chúng không sẵn sàng cống hiến, và đây là một tâm thức cần được phán xét, cần được phơi bày, và mọi người cần quyết định là mình sẽ không tiếp tục khuất phục trước cái ma trận này nữa.  

“Chúng tôi sẽ không tiếp tục khuất phục trước giai cấp thượng lưu luôn đòi hỏi chúng tôi phải trung thành nhưng không cho lại được gì. Do đó, chúng tôi đòi hỏi một xã hội không dung thứ giai cấp thượng lưu này và không ban đặc quyền và trung thành cho họ, mà thay vào đó phải trung thành với người dân, với quần chúng, và cho phép mọi người dân được chia sẻ sự thịnh vượng của dân tộc.”

Đó không phải là khuôn mẫu của Thời đại Bảo bình. Đó không phải là một khuôn mẫu có thể bền vững trong Thời đại Bảo bình. Con sẽ thấy là những nước nào không thể thăng vượt khuôn mẫu này sẽ bị tụt hậu. Những tập đoàn nào không thăng vượt khuôn mẫu này cũng sẽ tụt hậu. Tại sao như thế, con yêu dấu? Tại vì Saint Germain sẽ truyền rải những loại công nghệ hoàn toàn mới mà thày đã có nhắc đến và sẽ đề cập thêm trong tương lai. Đây là những công nghệ dựa trên một tư duy hoàn toàn khác lạ và không là công nghệ dựa trên lực đẩy.

Giáo dục Thời Hoàng kim

Con có nghĩ là một công ty do giai cấp thượng lưu quyền lực của sa nhân lãnh đạo, hay do những người bị rơi kẹt trong tâm thức sa ngã lãnh đạo, sẽ có khả năng hòa điệu với Saint Germain và nhận được công nghệ này chăng? Không đâu con yêu dấu, bởi vì họ chỉ tìm kiếm những loại công nghệ mà họ có thể chiếm độc quyền và sử dụng để củng cố địa vị. Họ sẽ không đoái nhìn đến những công nghệ mới nhằm phục vụ và giải thoát người dân. Làm sao họ có thể hòa địêu với Thánh thần Tự do và nhận được những sản phẩm và công nghệ sáng tạo mà thày đang chờ dịp tung ra?

Những công nghệ này chỉ có thể được truyền đạt đến những người sáng tạo cao độ với một tâm thức mở rộng không thể được nuôi dưỡng trong cấu trúc truyền thống của các tập đoàn, hay ngay cả trong cách tổ chức giáo dục của hầu hết mọi nước. Và như con thấy tại nhiều nước Á châu, có tình trạng phân biệt trong hệ thống giáo dục với những trường đặc quyền dành cho gia đình khá giả và trường học phổ thông cho mọi người khác.   

Nhưng ngay cả trong mọi cơ sở giáo dục cũng đều có trọng tâm vào việc đạt điểm cao qua những tiêu chuẩn học vấn dựa trên khả năng học thuộc lòng, ghi chép và lặp lại những gì được chỉ dạy. Còn những khả năng khác thì bị xem là thứ yếu, như liệu học sinh có lãnh hội được kiến thức, có hội nhập, có sử dụng kiến thức một cách sáng tạo trong công việc hay không. Con có thấy được bản chất máy móc của việc mù quáng đặt trọng tâm vào những thành quả vỏ ngoài, vào kiến thức vỏ ngoài và sự ghi nhớ? Nó như là con rô-bót. Nó sản xuất ra những con người không biết suy nghĩ sáng tạo cho dù là mang kiến thức về một số đề tài cụ thể.

Làm sao những người như vậy có thể tiếp nhận những ý tưởng sáng tạo vượt xa các công nghệ hiện có? Làm sao họ có thể nghĩ ở ngoài cái hộp khi cả đời họ đã được dạy dỗ để chui vào trong hộp, một cái hộp được định ra bởi người khác, bởi xã hội, bởi giới thượng lưu đặc quyền, bởi tâm thức sa ngã? Làm thế nào những người bị kẹt trong cái hộp tư duy do tâm thức sa ngã dựng lên có thể hòa điệu với Saint Germain để nhận được ý tưởng mới và công nghệ mới? Không thể nào được, con yêu dấu.  

Liệu điều này có nghĩa là không một quốc gia châu Á nào có thể là nước tiên tiến về công nghệ và sáng tạo? Không, không có nghĩa là như vậy, bởi vì có những linh hồn đã tình nguyện đầu thai trong phần này của thế giới, và chắc chắn trong số đó có nhiều người ở Hàn quốc vì họ là những linh hồn sáng tạo và họ mong muốn góp phần đưa khu vực này tiến lên phía trước. Nhưng đâu là lối mở cho họ trong hệ thống giáo dục hiện tại, trong cơ cấu xã hội, trong các tập đoàn? Con yêu dấu, đâu là những nơi mà họ được trân quý? Nơi đâu họ sẽ được phép biểu đạt ý tưởng sáng tạo của họ? Con thấy không, tình trạng này phải thay đổi. Sự nhận thức phải thay đổi, và sự nhận thức phải ngày càng cao hơn về giá trị của những cá nhân có khả năng khởi lên những sáng kiến mà không ai khác có thể có trong hoàn cảnh cụ thể đó, xã hội đó.     

Tiềm năng sáng tạo tại Hàn quốc

Hiện có những người ở Hàn quốc hoàn toàn có khả năng đưa ra những ý tưởng có thể đưa Hàn quốc vào Thời Hoàng kim. Họ có khả năng lắng nghe các chân sư thăng thiên và lãnh ý, nhưng đâu là lối mở cho họ nơi xã hội sẽ sẵn lòng lắng nghe họ? Làm cách nào đưa ý tưởng đó ra? Dĩ nhiên là ở những nơi khác trên địa cầu, cùng ý tưởng đó cũng sẽ được đưa ra, và nếu có những xã hội sẵn sàng lắng nghe thì họ sẽ đem ra thực hiên và nhảy vọt đi trước.    

Ở Á châu thường có xu hướng đặt trọng tâm vào việc sản xuất sản phẩm, hoặc là số lượng lớn, hoặc là với phẩm lượng cao rồi tinh chỉnh thêm dựa theo một khuôn mẫu nhất định. Con yêu dấu, con có thể tinh chỉnh một chiếc xe tới đâu, tinh chỉnh một động cơ xăng hay diesel tới đâu? Chỉ giới hạn thôi, vì con chỉ có thể nâng hiệu năng trong một giới hạn nào đó. Sẽ tới một điểm khi xã hội phải nhảy một bước nhảy vọt, bỏ lại công nghệ cũ và tạo ra một loại công nghệ chuyên chở hoàn toàn mới lạ.    

Nếu một quốc gia, một cơ cấu doanh nghiệp, chỉ tập trung vào việc cải tiến những gì đã sẵn phát minh, thì họ sẽ đụng một lằn ranh về mức độ cải tiến. Và như thế sự phát triển của xã hội và các tập đoàn cũng bị giới hạn bởi lằn ranh đó. Con chưa thấy rõ điều này tại Nhật Bản hay sao? Đã có một thời Nhật Bản chiếm vị trí dẫn đầu các nền kinh tế thế giới nhờ khả năng biến con người thành những con rô-bót có thể sản xuất thật nhiều sản phẩm đồng dạng. Tại sao nước Nhật và kinh tế Nhật bắt đầu suy thoái? Là bởi họ đã đạt tới lằn ranh và không thể phát triển hơn nữa qua sự tiếp tục áp dụng đường lối máy móc, rô-bót cho con người, cho sản xuất và cho cơ cấu doanh nghiệp.   

Con thấy một hiện tượng tương tự cũng đang bắt đầu diễn ra tại các nước khác, kể cả Hàn quốc. Có một giới hạn nào đó cho mức độ cải tiến và tăng giá trị cho một chiếc điện thoại di động hay một máy tính. Dĩ nhiên là con có thể vượt ra ngoài cái hộp và sáng chế một sản phẩm với khả năng hoàn toàn mới lạ mà các sản phẩm cũ không thể có được, nhưng làm sao thực hiện được đây nếu không có lối mở nào để tiếp nhận và áp dụng ý tưởng của con? 

Hình ảnh đức Phật cần thay đổi

Con yêu dấu thấy đó, người ta thường xem ta là đức Phật và nhiều người trong thế gian hình dung đức Phật là một đấng tĩnh lặng đem lại sự ổn định. Cho nên con có thể ngạc nhiên khi nghe ta phát biểu về tăng trưởng và thay đổi, nhưng đó là vì đã có một truyền thống lâu đời sử dụng một hình ảnh không trọn vẹn về Phật mà đặt chồng lên Phật.

Đâu là tinh túy của giáo lý mà ta giảng dạy cách đây 2500 năm? Đó là mọi thứ đều là Phật tánh. Thế nào là Phật tánh? Phật tánh có tĩnh lặng không? Không, Phật tánh là Dòng sông của Sự sống, luôn luôn tự thăng vượt. Nếu con tạo ra một hình ảnh rằng Phật là một đấng tĩnh lặng đem lại sự ổn định và mong muốn ổn định bất biến cho xã hội, thì con đã hiểu lầm chính bản chất của Phật, là Phật tánh. Con đã phủ nhận Phật tánh của con, bởi vì khi con nhìn thấy Phật tánh trong con, đó cũng là lúc con hòa điệu với Dòng sông Sự sống. Đó thực sự là lúc con hoàn toàn chấp nhận chính con như con là, con yêu dấu. Sứ giả này cũng vừa giải thích như thế.

Con có thể lấy điều sứ giả vừa nói và tiến thêm một bước. Con hãy nhận ra là khi con bắt đầu nhìn thấy Phật tánh trong con, và con thấy là Phật tánh không tĩnh lặng, thì đó là lúc con có thể trọn vẹn chấp nhận chính con như con là. Con chấp nhận rằng ngay lúc này con là sự thể hiện của Phật tánh. nhưng tất nhiên Phật tánh sẽ tiếp tục tự thăng vượt. Đó là tại sao con trở thành hơn-nữa. Đó là tại sao con sẽ không giống như bây giờ trong một năm nữa, hay mười năm nữa, hay ngay cả chỉ một tuần hay một ngày hay một giây. 

Con yêu dấu, thấy được Phật tánh trong con và thấy được Phật tánh không phải là một trạng thái toàn hảo mà là một trạng thái luôn luôn tuôn chảy, luôn luôn biến đổi (như ta có nhắc là các Phật tử Tây Tạng, hay ít ra một số, đã thấy được điều này), đó là chìa khoá để con tự chấp nhận chính con. Chỉ khi nào con chấp nhận con là một phần của sự thay đổi không ngừng tức là Dòng sông Sự sống, thì con mới có thể chấp nhận con một cách trọn vẹn, và con cho phép con là cái mà con là, con cho phép con là cái mà con sẽ là, cho phép con trở thành cái mà con sẽ trở thành trong sát na kế tiếp. Con cho phép con xuôi chảy cùng với Dòng sông Sự sống mà không bị kẹt vào truyền thống, không bị kẹt vào lòng trung hiếu đối với tổ tiên, đối với lãnh đạo của con, đối với hệ thống chính trị và tôn giáo của con, không trung thành với những gì đã qua nhưng luôn luôn sẵn sàng trở thành hơn-nữa trong tiến trình liên tục mà thực sự là Phật tánh.       

Phật tánh là sự thăng vượt liên tục qua sự quán niệm liên tục và nhận ra rằng: “Đây là cái mà tôi là ngay bây giờ, nhưng tôi có thể là hơn-nữa, và tôi muốn cái hơn-nữa đó. Cho nên tôi chuyển cảm nhận tôi-là vào trong cái hơn-nữa, và đó là cách tôi hòa điệu với Phật, và tôi chảy xuôi theo Phật vì thực sự Phật đang liên tục trở thành hơn-nữa.”

TA LÀ đấng hằng chảy, hằng thăng vượt. Ta chưa bao giờ là một sinh thể tĩnh lặng. Thờ phượng một bức tượng bằng vàng bất biến, và cho rằng đức Phật mà nó tượng trưng cũng là bất biến, là một sự hiểu lầm căn bản những lời dạy của ta cách đây 2500 năm. Tưởng rằng Phật hôm nay cùng giống như ta cách đây 2500 năm, là một sự hiểu lầm căn bản và sự bất lực không hòa điệu được với ta hôm nay. Ta đã tự thăng vượt vô số lần trong 2500 năm qua. Ta sẽ tiếp tục tự thăng vượt vô số lần nữa trong mỗi giây, trong mỗi phân đoạn của một giây, trong mỗi phân tử của một giây mà con có thể nghĩ ra. Ta sẽ tự thăng vượt vô số lần, có nghĩa là không có một phân chia nào mà con có thể tạo ra trong thế gian hữu hạn này có thể cầm giữ được Phật, bởi vì luôn luôn TA LÀ HƠN NỮA, và đó cũng là tinh túy của Phật tánh.        

Lướt sóng hay đâm đầu vào sóng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 1/1/2015.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Tại sao mọi người trên thế giới đón mừng năm mới nhiệt tình như vậy? Họ nhiệt tình vì sâu trong tâm khảm là niềm tin, thậm chí là hiểu biết, rằng họ có thể có một khởi đầu mới.

Chu kỳ nghiệp quả trong năm

Đây là tại sao việc đón chào một chu kỳ đều đặn thật là hay ho. Hầu hết mọi người đểu trải nghiệm là khi một năm trôi qua, có một sự nặng nề nào đó, một cảm nhận uể oải nào đó. Lý do là vì các vị Chủ tể Nghiệp quả (Lords of Karma) cho phép nghiệp quả đã tới hạn của hành tinh đi xuống bốn cõi của vũ trụ vật chất một cách đồng bộ với bốn tam cá nguyệt.

Như hầu hết các con đều biết, nghiệp quả đi xuống cõi bản sắc trong ba tháng đầu, cõi lý trí trong ba tháng tiếp theo, cõi cảm xúc trong ba tháng tiếp theo nữa, và cuối cùng xuống cõi vật lý trong ba tháng chót. Đến khi mọi người đã kinh qua đủ ba tháng nghiệp quả đi xuống cõi vật lý thì họ đều mệt mỏi. Họ cảm thấy gánh nặng, cảm thấy căng thẳng, và họ mong mỏi một khởi đầu mới.

Và đúng vậy mỗi năm, họ có một khởi đầu mới, vì họ trở lại đầu để phần nghiệp quả của năm sau bắt đầu lại đi xuống cõi ê-the. Đa số người ta không cảm nhận được điều này vì tâm thức chưa đủ cao để nhận biết tầng bản sắc trong chính tâm mình.

Nhưng đây không chỉ là chuyện nghiệp quả đi xuống mà thôi. Các thày, các chân sư thăng thiên, không muốn cho bất cứ ai có cảm giác là sự sống trên địa cầu, hay ngay cả việc cân bằng nghiệp quả, chỉ là một vòng tròn y hệt cứ lặp đi lặp lại một cách bất tận. Đây là một cách hiểu sai không những về lời dạy của Phật mà ta từng giảng dạy, mà cũng hiểu sai các giáo lý của đạo Ấn cùng các hệ thống tư tưởng khác tại phương Đông.

Luân hồi không chỉ là một chu kỳ thật dài mà qua đó, trên cơ bản, con quay trở lại ngay đúng điểm khởi đầu. Đây là một cách diễn giải có thể thông cảm được vì thuở xưa con người chỉ nắm được tới mức đó. Con người thời xưa quan sát bầu trời và nhận thấy một mô thức cứ lặp lại trong cách chuyển động của các vì sao và tất nhiên của cả mặt trăng lẫn hành tinh này. Như khoa học đã cho con thấy, vũ trụ không chuyển động theo hình tròn. Vũ trụ ngày càng giãn nở, thậm chí giãn nở ngày càng nhanh hơn, và do đó sự chuyển động không theo hình tròn mà hình xoắn ốc.

Sự diễn tiến của các năm trong một kiếp người cũng là một đường xoắn ốc, hay ít ra nó có tiềm năng trở thành một đường xoắn ốc hướng thượng. Điều này xảy đến khi con tận dụng cơ hội của năm tháng để cho nghiệp quả đi xuống qua cả bốn cõi thay vì ập xuống cõi vật lý cùng một lúc. Tất nhiên, hầu hết mọi người không nhận thức được ân sủng to lớn này. Họ không để ý đến nghiệp quả cho tới khi nó bắt đầu đi xuống cõi vật lý và trở nên khó làm ngơ. Nhiều người vẫn không hiểu đó là nghiệp quả, nhưng ít nhất họ sẽ cảm được sự nặng nề uể oải. Có thể họ sẽ quy cho chiều dài của ngày bị ngắn lại, nhưng dù sao thì họ cũng cảm thấy được.

Chuyển hóa nghiệp quả và bắt đầu Năm Mới

Là người có nhận biết tâm linh, con có một cơ hội tuyệt vời để sử dụng các bài chú, bài thỉnh, để chuyển hóa nghiệp quả trên ba cõi cao trước khi nó trở thành vật lý. Bằng cách đó, con có thể bước vào ba tháng chót – phần tư cuối cùng của một năm – mà không phải chịu bất kỳ nghiệp quả cá nhân nào đi xuống cõi vật lý. Có thể con vẫn cảm thấy một phần nào đó của nghiệp quả thế giới, thậm chí con có thể gánh nghiệp giùm người khác hay giùm thế giới, nhưng ít nhất con không phải chạm trán với nghiệp quả cá nhân của con. Ngay cả phần nghiệp mà con đã gánh lấy vào năm đó để cân bằng cho người khác, con cũng có thể cân bằng được trước khi nó trở thành vật lý.

Tại sao người ta đốt pháo và bắn pháo bông đủ loại vào ngày đầu năm? Tại sao người ta cần những tiếng nổ thật lớn? Tại sao người ta cần những chớp sáng chỉ lưu lại trên trời một vài giây ngắn ngủi? Mỗi điều như vậy có một chức năng khác nhau. Khi truyền thống đốt pháo khởi đầu, người ta tin rằng tiếng nổ lớn sẽ xua đuổi tà ma và niềm tin này không hoàn toàn là mê tín dị đoan.

Có những dạng tà lực, ngay cả những hồn không xác, bị hoảng sợ và trốn chạy trước tiếng động lớn. Tất nhiên chúng có thể quay trở lại sau vài ngày nhưng chúng thường sợ hãi bỏ đi một thời gian. Hiển nhiên những loài quỷ hung dữ hơn sẽ không sợ tiếng động lớn, cho nên phương cách này chỉ hiệu nghiệm giới hạn tuy rằng nó vẫn có thể đem lại một không khí lạc quan mà người ta cảm nhận được sau ngày đầu năm.

Niềm lạc quan này cũng khởi lên do ý nghĩa tượng trưng của pháo bông. Pháo bông chỉ thoáng hiện ra ngắn ngủi với dáng vẻ gần như siêu phàm, nhưng nó mang một số ý nghĩa. Ở bề mặt, nó biểu tượng cho một niềm lạc quan được người ta cảm nhận là chỉ lướt thoáng qua. Họ thấy chớp sáng lóe lên trên bầu trời, tinh thần của họ bỗng phấn chấn, họ trầm trồ kêu lên “ồ”, “à”, và họ cảm thấy nhẹ nhõm khi nhìn ánh sáng. Nhưng nó chỉ kéo dài được một chập. Đối với đa số con người, trải nghiệm mục kích ánh sáng không đem lại tác động nào dài hơn trải nghiệm thị giác, nhưng xa hơn còn có một ý nghĩa sâu sắc hơn. Bất kỳ hiện tượng nào thoáng hiện ra – cho dù do con người hay do thiên nhiên – đều có thể biểu tượng cho cách chuyển động của một cơ hội nâng cao tâm thức.

Nghiệp quả là một dòng chảy năng lượng

Mỗi năm khi nghiệp lực bắt đầu đi xuống, nghiệp quả không phải là một hình thức trừng phạt như nhiều người vẫn tưởng. Kỳ thực đó là một cơ hội, vì nghiệp hình thành một dòng chảy năng lượng. Nó chảy nhanh và luôn luôn chuyển động, và đối với tâm ý thức nó có thể khó nắm bắt. Con có thể cảm nhận nó hiện thoáng qua giống như khi con xem pháo bông trên trời, nhưng ngay khi con chú tâm vào đó thì nó đã biến mất.

Nếu con có thể nắm bắt được nó, con sẽ có thể lướt sóng theo nó, cưỡi trên dòng chảy và di chuyển cùng với nó suốt năm. Con yêu dấu, con thấy đó, từ rất lâu đã có một xu hướng – một lần nữa, đến từ các tôn giáo phương Đông – muốn mô tả nghiệp chướng như một cái gì xảy ra cho con. Nếu nó không phải là một hình phạt thì nó vẫn là một cái gì áp đặt lên con, nó bắt buộc con phải đối phó với nó. Nó là một cái gì khó chịu mà con muốn né tránh, một cái gì mà con cần quan tâm, cần cân bằng. Con cần vượt qua nó để có thể bước đi tiếp – và đây là cách hiểu của nhiều người tâm linh.

Ta muốn cho con một cái nhìn khác về nghiệp quả. Nghiệp quả là một dòng chảy. Nó có động lượng, nó có năng lượng và nó có phương hướng. Nó là một dòng chảy mà con đã tạo ra trong quá khứ. Giáo lý truyền thống về nghiệp quả bảo rằng trong quá khứ con đã làm một điều gì – hay con đã nghĩ hay đã cảm một điều gì – và cái đó đã gửi ra một xung lực năng lượng và bây giờ nó được gửi trả về con. Nếu nghiệp đó là cái mà hầu hết mọi người gọi là “nghiệp xấu” thì nó sẽ là một gánh nặng mà con cần cân bằng một cách nào đó.

Nghiệp quả là một cơ hội

Nhiều người nghĩ cách duy nhất để cân bằng “nghiệp xấu” là phải trải qua một sự kiện bất hạnh nào đó, có thể là cùng sự kiện mà con đã gây ra cho người khác khi con tạo nghiệp. Thậm chí một số đệ tử của chân sư thăng thiên cảm nhận nghiệp quả như một gánh nặng mà họ cần chuyển hóa bằng cách đọc thỉnh, đọc chú. Đó là cái gì con muốn tránh né, muốn làm cho xong chuyện càng sớm càng tốt. Nhưng trên thực tế, nghiệp quả chỉ là một hình phạt hay một gánh nặng khi con kháng cự lại nó. Thay vì làm vậy, con hãy xoay chuyển nhãn quan của mình về nghiệp quả và nhìn ra đó là một cơ hội.

Nghiệp là một năng lượng. Con biết rất rõ là nếu con nằm trên một chiếc thuyền mong manh giữa đại dương và có một ngọn sóng rất lớn ập xuống, và nếu thuyền con nằm ngược sóng hay không được xây hẳn hoi, thì thuyền có thể bị sóng đánh lật úp. Con cũng biết, có thể không qua kinh nghiệm bản thân nhưng ít ra qua quan sát, là nếu con có một tấm ván lướt sóng và con biết cách cưỡi sóng, thì không những làn sóng sẽ chở con đi xa mà lướt sóng còn đem lại cho con một cảm giác thích thú vô cùng. Thậm chí đối với một số người, nó có thể trở thành một trải nghiệm tâm linh, vì trong bản chất, lướt sóng cũng hiện thoáng qua giống như pháo bông trên trời.

Những chu kỳ đó của thiên nhiên, những chu kỳ tâm linh, ngay cả những chu kỳ nghiệp quả, không thoáng hiện ra. Chúng chỉ thoáng hiện khi con không bám chặt lấy chúng, không kháng cự lại hay tìm cách né tránh. Khi con quay đầu, khi con xoay tầm nhìn, khi con quyết định là mình sẽ sẵn lòng nhìn chúng và xem chúng như một cơ hội, thì con sẽ thấy nghiệp phản hồi hình thành một ngọn sóng vĩ đại có sức mạnh lẫn động lượng. Nếu con cưỡi ngọn sóng, không những nó sẽ chở con đi mà nó còn cho con niềm vui thú cân bằng nghiệp chướng.

Nghiệp quả không phải là một hình phạt mà là một cơ hội. Con có thể biến nó thành hình phạt – đó là cái quyền mà Luật Tự quyết đã trao cho con. Nhưng tự thân nó không phải là hình phạt. Như mọi thứ khác trong vũ trụ vật chất, nó là cái mà con muốn nó là. Nếu con biến nó thành hình phạt bằng cách kháng cự lại nó thì nó sẽ là hình phạt cho con. Vũ trụ là một tấm gương như các thày đã có nói nhiều lần. Nếu con muốn trải nghiệm sự trừng phạt do hành vi quá khứ và nghiệp quả thì con sẽ có trải nghiệm đó. Nếu con muốn một trải nghiệm tích cực là học cách cưỡi các chu kỳ và xoay chuyển động lượng cho nó thuận lợi cho mình, thì đó cũng sẽ là trải nghiệm của con, thậm chí còn là thực tại của con.

Khả năng thay đổi luôn luôn hiện hữu

Thực tại là gì? Thực tại không là gì khác hơn sự nhận thức, ít ra khi con vẫn đầu thai trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Khi con thăng thiên rồi thì con không còn nhận thức nữa. Con trải nghiệm trực tiếp, và khi đó trải nghiệm của con chính là thực tại.

Đúng hơn, chúng ta có thể nói là ngay cả các chân sư thăng thiên cũng có thể, tất nhiên, có một nền tảng nhận thức nào đó. Chẳng hạn, các Thượng sư của các tia sáng đều tập trung vào tia sáng đặc thù của mình và các thày nhìn mọi thứ từ góc độ đó. Điều này khiến các thày pha màu nhận thức của mình, nhưng không phải là cùng loại pha màu khi con chưa thăng thiên.

Khi con là một chân sư thăng thiên đã chứng tâm Phật, con dễ dàng nhìn vượt khỏi sự pha màu đó trên tia sáng và con nhận thức – đúng hơn, con trải nghiệm – không qua một phin lọc nào. Nếu con là một Thượng sư đã chứng đạt tâm Phật như một vài Thượng sư của con đã chứng đạt, thì con có thể nhìn một tình huống từ nhãn quan tia sáng của mình, nhưng điều này không có nghĩa là con không thể bước ra ngoài khi nào con muốn.

Vậy tại sao rất nhiều người đưa ra một lời quyết tâm, một lời tự hứa vào ngày đầu năm? Là do cảm nhận sâu xa đó trong nội tâm bảo họ rằng sự thay đổi có thể xảy ra, rằng họ có thể cưỡi một ngọn sóng mới, một chu kỳ mới. Đó cũng là mong muốn một cái gì mới. Niềm tin sâu thẳm bên trong rằng tiến bộ luôn luôn là một điều khả dĩ, cũng như mong muốn biến nó thành hiện thực, chính là cốt lõi của mọi tiến bộ con người, trong lãnh vực cá nhân lẫn tập thể.

Nếu trong tư cách một người đang đầu thai, con đánh mất niềm tin về khả năng có một chu kỳ mới hay mong muốn trải nghiệm một chu kỳ mới, thì con nên yêu cầu được thuyên chuyển đến một hành tinh khác. Nếu trong tư cách một chân sư thăng thiên, con đánh mất niềm tin rằng địa cầu có thể thay đổi bất kể cách hành xử của loài người có là gì, thì con cũng nên yêu cầu chuyển sang một hành tinh khác. Chắc chắn đã có những chân sư thăng thiên tới mức cảm thấy mình đã dành ra quá đủ chú ý cùng năng lượng cho địa cầu này.

Ngay cả một chân sư thăng thiên cũng có thể có ý muốn nhìn thấy nhiều thành quả hơn cho nỗ lực của mình. Và về điểm này, phải nói địa cầu là một hành tinh thách đố. Con biết rõ khi con đầu thai trên địa cầu rằng hành tinh này thách đố đến chừng nào, nhưng ta có thể cam đoan với con là ngay cả đối với các chân sư thăng thiên đang làm việc với địa cầu, đây là một hành tinh thách đố. Nếu con đã đạt đến mức chứng đạt của Phật thì chuyện này không xảy ra, nhưng trước khi con đạt đến mức đó thì một chân sư thăng thiên có thể gặp khó khăn giữ được niềm hy vọng, lòng nhiệt thành để tạo thay đổi khi con thấy nhân loại cứ lặp đi lặp lại cùng những khuôn nếp cũ. Con nhìn thấy con người khởi đầu với những ý định tốt đẹp nhất – như nhiều người thường làm vào mỗi ngày đầu năm khi họ đưa ra một lời tự hứa mới – thế rồi con thấy rất nhanh chóng họ lại bị lôi kéo trở lại khuôn nếp cũ.

Động lực của lời tự hứa đầu năm

Tại sao người ta đưa ra lời tự hứa? Bởi vì họ mong muốn thay đổi, nhưng cũng bởi vì họ cảm thấy nhẹ nhõm hơn do những yếu tố mà ta vừa trình bày ở trên. Các năng lượng đã chuyển đổi. Tự thân lễ ăn mừng Năm Mới có khả năng đập vỡ hay xua đuổi phần nào một số tà thể đang đè nặng lên họ và bỗng nhiên họ có niềm tin: “Lần này tôi sẽ làm được, tôi sẽ thành công! Năm nay tôi sẽ nhất quyết giữ lời tự hứa đầu năm!” Khi nghiệp quả bắt đầu đi xuống và họ quay về với sinh hoạt hàng ngày, khi một số tà lực hay hồn không xác cũng trở lại trong họ, thì họ bị kéo ngay về những khuôn nếp cũ. Y như thể họ đã quên mất là mình đã tự hứa những điều gì trong ngày đầu năm, y như thể không có chuyện gì xảy ra.

Khi con là chân sư thăng thiên, con có thể thấy diễn tiến này trong nhiều hoàn cảnh đời sống. Con thấy được là con người đã nhận được một hồng ân, nhận được một lời kiên định, một hướng đi. Người ta đã được tạm miễn nghiệp quả, và trong một thời gian ngắn, họ đã có mong muốn thay đổi, có ý định thay đổi cũng như niềm lạc quan là mình có thể thay đổi. Thế rồi họ lại tuột trở về nếp cũ. Thậm chí các thày còn thấy điều này xảy ra với những người có nhận thức về sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên.

Biết bao lần các thày đã nhìn họ tìm thấy giáo lý, hoặc họ tham dự một buổi sinh hoạt, rồi họ đọc chú, đọc thỉnh nhiều vô kể. Họ nỗ lực, ho nâng cao tâm thức, và trong nhiều trường hợp điều này khiến các thày quyết định gác lại một số nghiệp quả để tạo cơ hội cho họ. Thế rồi sau một thời gian, họ lại trở về khuôn nếp cũ và quên mất.

Có thể là con đã tiến lên được chút đỉnh, nhưng thay vì tiếp tục theo trớn đi lên, con lại chấp nhận mức con mới đạt được là một thế quân bình mới. Các thày đã thấy rất nhiều học trò của chân sư thăng thiên trong đủ loại phong trào mà các thày đã đỡ đầu, các thày thấy họ khám phá giáo lý, khám phá tổ chức, khám phá uy lực của việc thỉnh cầu ánh sáng, và họ đã sử dụng tất cả những thứ đó hết sức nhiệt tình có khi hàng năm trời. Nhưng sau một thời gian, con bắt đầu đánh mất lòng tha thiết, đánh mất nhiệt tâm, đánh mất niềm vui.

Khi con là chân sư thăng thiên chứng kiến sự thể này cứ lặp lại hoài hoài, con có thể tới mức – không hẳn là cái mà trên địa cầu gọi là chán nản hay thất vọng – con có thể tới mức cảm thấy mình cần trải nghiệm một hành tinh khác với năng lượng thanh thoát hơn nơi con người có thể duy trì dễ dàng hơn vòng xoắn ốc hướng thượng.

Tận dụng cơ hội của mình

Điều này xảy ra đặc biệt cho những vị mới thăng thiên cách đây không lâu. Con đã nỗ lực phi thường để hội đủ tư cách thăng thiên và bây giờ sau khi thăng thiên con cảm thấy mình đầy nghị lực để trợ giúp loài người. Con nghĩ là nếu phải chi họ biết đến giáo lý, biết đến các bài chú bài thỉnh, phải chi họ được tạm gác một phần nghiệp quả, thì chắc hẳn họ cũng sẽ đầy nghị lực muốn thăng thiên như một thời con đã từng như vậy.

Nhưng khi con thấy họ không thực sự đáp ứng, họ không nắm lấy và tận dụng cơ hội được mở ra, thì có thể con sẽ bắt đầu cảm thấy một hình thức gần như nóng lòng. Con mong muốn người ta sử dụng cơ hội to lớn mà con thấy rõ họ được ban cho. Thật là hoàn toàn dễ hiểu nếu một vị tân chân sư thăng thiên cảm thấy như vậy.

Ta có thể cam đoan với con là một trong những quyển sách quan trọng nhất từng được các chân sư thăng thiên ban ra là quyển của thày Guru Ma, “Don’t drink your own Kool-Aid” [Đừng uống Kool-Aid của bạn, dịch nghĩa: Đừng chạy theo và hy sinh cho một lý tưởng ngớ ngẩn]. Sách này có nhiều diện, nhiều tầng, và nó là một cơ hội to lớn. Guru Ma đã đổ hết trái tim, tâm trí cùng bản thể của thày vào đó từ cõi thăng thiên. Thày tóm gọn toàn bộ nỗ lực của thày suốt bao nhiêu năm và cả bao nhiêu kiếp đã dẫn thày đến thăng thiên. Thật không dễ dàng cho thày khi phải chứng kiến biết bao đệ tử cũ của mình hoàn toàn phớt lờ cuốn sách hay đã bỏ nó xuống mà không chịu đọc, tin chắc rằng họ có thể biết rõ là sách không có giá trị.

Hãy sẵn lòng nhận lấy truyền pháp tuần tự

Ta đã nói gì khi ta còn hiện thân? “Đừng chấp nhận bất cứ điều gì không hợp lý. Đừng bác bỏ bất cứ điều gì là không hợp lý nếu chưa xem xét kỹ lưỡng.” Xu hướng bác bỏ mà không xem xét kỹ lưỡng nói trên là một trong những giới hạn lớn nhất mà các thày phải đối mặt trên địa cầu.

Thậm chí đó cũng là giới hạn lớn nhất mà các thày phải đối mặt với những người tự xem là học trò của chân sư thăng thiên nhưng lại không sẵn lòng nhận ra rằng – y như nghiệp quả là một cơ hội – việc truyền pháp tuần tự của các thày cũng là một cơ hội. Có thể các thày vẫn dạy lại một số điều đã dạy trong quá khứ, nhưng ngày nay có một số điều các thày không dạy giống như quá khứ.

Nếu con bước vào một tư duy nhất định thì con có thể xem những lời dạy của quá khứ là chuẩn mực tối thượng. Xong con có thể bảo, bất cứ gì đi xa hơn hay có vẻ đi ngược lại những lời dạy đó bắt buộc phải sai lầm. Nếu con làm vậy, con sẽ tự đặt mình ra ngoài dòng xoắn ốc hướng thượng của các đợt truyền pháp của các thày, bởi vì sự truyền pháp này liên tục và tuần tự.

Làm thế nào các thày truyền pháp tuần tự chứ? Bằng cách giảng dạy những điều vượt xa hơn những gì được giảng dạy trong quá khứ. Có nghĩa là đôi khi các thày sẽ thách thức những gì đã được giảng dạy trước đây để lay chuyển mọi người bước ra khỏi khuôn nếp cũ. Cũng có nghĩa là thỉnh thoảng các thày phải nói những điều gần như mâu thuẫn với những gì đã nói trước đây. Nếu con đã lấy giáo lý của quá khử và biến nó thành một cái hộp khép kín, làm thế nào các thày có thể kéo con ra khỏi hộp mà không gây cho con một chút chấn động? Nếu con bám chặt vào chiếc hộp cũ đến độ con gạt bỏ lời dạy mới mà không chịu xem xét kỹ lưỡng, thì làm sao các thày chạm được con ngày hôm nay?

Con sẽ biết ta như ta đang là hôm nay

Là chân sư thăng thiên, các thày là một với Dòng sông sự Sống không ngừng tuôn chảy. Chính dòng sông này hình thành vòng xoắn ốc hướng thượng của toàn bộ vũ trụ cùng tất cả mọi bầu cõi ở cao hơn nữa. Các thày làm thế nào? Bằng cách thăng vượt ý niệm cái ta một cách liên tục. Không có cách nào khác. Điều này có nghĩa rằng ta là Gautama, là đức Phật, vị chân sư thăng thiên đã từng giảng dạy qua một số đợt truyền pháp trước. Ta là cùng vị thày, nhưng ta không là cùng cái ta của 10, 20 hay 2500 năm về trước. Trong suốt 20 năm hay 2500 năm qua, ta đã tự thăng vượt hằng hà sa số lần rồi.

Nếu con muốn biết ta, con cần biết ta như ta đang là hôm nay. Con không thể biết ta như ta là hôm nay qua một lời dạy được ban ra trong quá khứ. Đó là tại sao biết bao người tự xem mình là Phật tử đã dùng những lời dạy mà ta đã ban ra 2500 năm về trước để, kỳ thực, tạo ra một rào cản giữa họ và ta.

Họ không muốn biết ta như một chân sư thăng thiên. Họ chỉ muốn biết ta như là hình ảnh đức Phật mà môn phái đạo Phật của họ đã tạo dựng. Họ không muốn biết ta như một vị thày hằng sống. Họ muốn thờ phượng một thần tượng, và họ muốn cảm thấy là qua sự thờ phượng thần tượng này từ xa, một ngày kia họ sẽ đạt được giác ngộ hay chứng được Niết bàn.

Làm thế nào một ai đó có thể khiến con giác ngộ bằng cách làm gì đó cho con hay làm giùm con điều gì? Giác ngộ là một tiến trình nội tâm. Đó là một sự xoay chuyển ý niệm cái ta khi con ngừng không khoác vào hình tư tưởng, khi con cả gan nhìn vào chính con mà không qua phin lọc, và con trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con như nó thực là, như con thực là.

Làm thế nào con biết được đức Phật? Bằng cách thăng vượt xu hướng nhìn ta xuyên qua một phin lọc, bằng cách sẵn sàng trải nghiệm ta như ta là. Con có thể lấy một lời dạy mà ta đã ban ra 25 năm hay 2500 năm về trước, và nếu con có thể dùng lời dạy đó để hòa điệu với ta xong vượt xa hơn lời dạy để trải nghiệm hiện diện của ta, thì lời dạy đó quả thật có thể giúp con biết ta.

Nhưng nếu con biến lời dạy thành một cái hộp khép kín, thành một thần tượng, thành một hình tư tưởng, thành một phin lọc nhận thức, thì lời dạy đó sẽ chỉ đẩy con ra xa hơn trải nghiệm trực tiếp. Lời dạy đó sẽ trao cho tự ngã của con tất cả những lý do mà nó cần và nó muốn để bác bỏ trải nghiệm này. Ta thật sự mong muốn tất cả những ai xem mình là Phật tử hãy mở tâm ra để lắng nghe những gì ta vừa nói rồi hành động. Ta rất hiểu tại sao nhiều người không thể làm được điều này bởi vì họ chưa sẵn sàng biết ta như ta là, hay họ chưa sẵn sàng nhận biết Phật tánh nơi chính họ. Ta hy vọng là những ai tự xem mình là học trò của chân sư thăng thiên cũng sẽ cởi mở để biết được ta như ta là. Nếu con biết ta như ta là hôm nay, tại sao con lại không xuôi chảy với lời dạy mà ta ban truyền hôm nay?

Muốn tánh linh phải tuân theo vật chất

Khi con còn đang hiện thân, thật là quá dễ bị trơn trượt – từng bước nhỏ một và gần như không thể nào nhận ra – vào cái tâm thức vô cùng vi tế mà Giê-su đã chỉ ra khi thày thốt lên: “Bước ra sau ta, Satan!” Đây là tâm thức muốn tánh linh phải tuân theo vật chất.

Làm thế nào con sẽ thăng vượt được tâm thức hiện thời của con? Con không thể tự kéo mình lên cao bằng cách kéo sợi dây giày ở chân mình. Con không thể giải quyết một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề. Con không thể thăng vượt một trạng thái tâm thức bằng cách sử dụng chính nó. Đó là tại sao con người cần đến các chân sư thăng thiên.

Nếu con không nhận được một động lực từ tánh linh, con sẽ không thể vượt lên khỏi trạng thái cũ của bản ngã. Động lực thôi thúc này từ tánh linh phải vượt ra ngoài và thách thức trạng thái tâm thức hiện tại – vì nếu không, nó sẽ không thể đưa con ra khỏi tâm thức hiện tại. Có lô-gíc không con?

Nếu con đòi hỏi động lực từ tánh linh phải thuận theo những hình tư tưởng đang quy định trạng thái tâm thức hiện thời của con, thì làm thế nào tánh linh sẽ giúp con đây? Làm thế nào các thày giúp con thăng vượt trạng thái hiện thời của con nếu con muốn các thày ép mình vào những hình tư tưởng mà con có đang quy định các thày là ai và phải nói gì?

Ta cũng biết là các chân sư đã đề cập đến chuyện này trước đây trong những bối cảnh khác. Ta chắc chắn là ta hay một chân sư khác sẽ nhắc lại một lần nữa. Mỗi lần các thày nói lên điều đó thì lại có thêm một số ít người hiểu ra. Mỗi lần các thày nói lên thì những ai nhận được nhưng lại gạt bỏ ngoài tai hay từ chối làm theo, sẽ tạo ra một nghiệp lực quay ngược về họ, và hoặc nó sẽ tạo thêm gánh nặng cho họ, hoặc nó sẽ trao cho họ một cơ hội để lướt sóng. Ngay cả khi nó gia tăng gánh nặng thì nó cũng sẽ làm xáo trộn thế cân bằng của họ, buộc họ phải thay đổi do không thể chịu đựng được nữa.

Các chu kỳ không chạy vòng tròn

Con biết chăng là ngọn sóng trên đại dương chuyển động theo hình tròn? Nếu con nhìn mặt cắt của ngọn sóng, con thấy gần như thể nước chuyển động theo vòng tròn. Người ta có thể bị cuốn vào một vòng tròn như vậy. Con bị nước sóng cuộn tròn lên con cho tới khi con chết đuối vì không thể ngoi lên.

Vậy làm thế nào một làn sóng có thể di chuyển băng qua đại dương? Là vì có một động lượng đẩy chuyển động tròn đó đi tới. Các thày mong muốn nhìn thấy tất cả học trò của mình cưỡi trên lưng chuyển động tròn thay vì bị mắc kẹt trong chuyển động và không tiến tới. Con yêu dấu, con có hiểu điều ta muốn nói?

Rất nhiều người tâm linh và người mộ đạo trên địa cầu hiểu rằng có những chu kỳ, nhưng họ xem chu kỳ là sự chuyển động hình tròn, theo đó họ chuyển quanh vòng tròn suốt năm để trở về đúng ngay điểm khởi đầu. Và cũng vậy, họ chuyển quanh vòng tròn đầu thai trong nhiều kiếp người để trở về điểm hư vô hay vô ngã. Nhưng đây không phải là cách sự sống tiến tới. Trong tiến trình tự nhiên, không có chuyển động nào vòng tròn cứ dẫm chân tại chỗ.

Một chuyển động vòng tròn đưa về điểm khởi đầu chỉ có thể hiện hữu trong một hệ thống bị ảnh hưởng bởi quyền tự quyết. Đa số con người sống trong hệ thống đó đã biến tâm mình thành những hệ thống khép kín, khiến họ tiếp tục trải nghiệm cùng một chuyện hết kiếp này sang kiếp khác với cường độ ngày càng gia tăng, cho đến khi cuối cùng họ chán ngán và muốn tiến bước cao hơn.

Tại sao người ta lại lạc quan vào ngày đầu năm? Vì người ta hy vọng là năm mới sẽ tốt đẹp hơn năm cũ, rằng một cái gì mới sẽ xảy đến. Nhưng làm sao có cái gì mới xảy đến nếu con cứ lặp lại cùng những khuôn nếp như năm cũ? Nếu vậy sự chuyển động sẽ chỉ chạy theo vòng tròn và con sẽ quay về ngay điểm khởi đầu. Cái mới chỉ có thể xảy đến nếu con đứng dậy, vươn mình lên, giữ thế thăng bằng trên tấm ván lướt sóng và con ra tay cưỡi sóng. Điều này chẳng hoàn toàn hợp lý hay sao?

Các thử thách sắp đến trong năm 2015

Con thấy đó con yêu dấu, từ tầm nhìn của ta là Phật, điều đó hoàn toàn hợp lý. Ta cũng biết là tất nhiên, con không nhìn ra, con không nhận thức lời ta nói như ta nhận thức. Con nhận thức lời ta qua phin lọc của tâm luôn tìm ra cớ để không thay đổi.

Con có muốn một cách định nghĩa thật giản dị cho tự ngã? Tự ngã là khía cạnh của tâm luôn luôn tìm ra một lý do để con không phải thay đổi.

Ta sẽ không bàn gì về năm đã qua vì nó đã trôi qua. Không gì có thể thay đổi được năm 2014. Nó là như thế đó. Nhưng ta sẽ nói một vài lời về năm 2015. Như con có thể nhớ, bắt đầu từ ngày 1/1/2013, hành tinh này đã bước vào một chu kỳ qua đó mỗi năm sẽ đem lại cho hành tinh một khai ngộ trên một tia sáng trong số bảy tia. Năm 2013 đã là Tia thứ Nhất. Năm ngoái là Tia thứ Hai, và 2015 sẽ là Tia thứ Ba của Tình thương.

Vậy trong năm tới, đâu sẽ là cuộc khai ngộ mà bản thân con lẫn hành tinh sẽ đối mặt? Có hai cách để nhìn vấn đề này. Con có một cơ hội để cưỡi ngọn sóng tình thương sẽ cuộn tròn khắp hành tinh trong ba cõi cao. Nhưng con cũng có cơ hội để không cưỡi theo sóng, và nếu vậy thì con sẽ phải đương đầu với sự tha hóa của tình thương. Tất nhiên là có nhiều cách để tình thương bị tha hóa, nhưng cách chủ yếu là qua lòng sợ hãi.

Con có hai cách con tiếp cận năm 2015. Hoặc con cưỡi ngọn sóng của tình thương, hoặc con bị làn sóng tàn bạo của sợ hãi cuốn trôi. Ta có thể cam đoan với con năm 2015 sẽ là một năm thử thách, không hẳn là qua những biến cố sẽ xảy ra trong cõi vật lý, mà qua lòng sợ hãi phát xuất từ những rủi ro mà người ta cảm nhận về một số biến cố. Con thấy gì trong năm 2014? Con thấy dịch bệnh Ebola. Năm 2015 có khả năng chứng kiến một nỗi lo sợ còn lớn hơn nữa, không chỉ là Ebola mà một số bệnh tật có thể lây lan dễ dàng. Con lưu ý là ta không bảo các bệnh dịch này sẽ nhất thiết lan truyền trong cõi vật lý, nhưng nỗi sợ hãi thì sẽ có mặt.

Con thấy gì trong năm 2014? Chiến tranh và xung đột gia tăng, từ vùng Trung đông cho đến châu Phi, tình hình tại Ukraine và sự căng thẳng leo thang giữa Nga và các quốc gia mà Nga gọi là phương Tây. Những căng thẳng này sẽ có khả năng leo thang trong năm 2015. Tuy ta không nói là rủi ro chiến tranh trong cõi vật lý sẽ cao hơn năm ngoái, nhưng nỗi sợ chiến tranh, sợ xung đột sẽ lớn hơn.

Và hiển nhiên có vấn đề kinh tế. Năm ngoái, kinh tế không đến nỗi là mối quan tâm, nhưng sang năm 2015, đó sẽ là một quan tâm lớn hơn. Một lần nữa, ta không bảo là có rủi ro rất cao xảy ra vấn nạn kinh tế trong cõi vật lý, nhưng những lo lắng về nền kinh tế sẽ nhiều hơn.

Hãy dùng năng lượng của tình thương để vượt trên sợ hãi

Điều ta yêu cầu con làm với tư cách là học trò của chân sư thăng thiên là con ý thức được khả năng cưỡi ngọn sóng tình thương thay vì đâm đầu vào vòng xoáy của sợ hãi, vào vòng tròn của sợ hãi. Hãy dùng những bài thỉnh và bài chú của con để duy trì năng lượng vượt lên trên tầng cấp sợ hãi. Các thày rất vui mừng khi nhiều người đã yêu cầu làm theo chỉ dẫn của Mẹ Mary và tham dự buổi canh thức đều đặn khi khắp nơi trên thế giới các con đọc chú cùng với nhau vào cùng ngày, có thể là cùng giờ hay cùng một lúc tùy theo múi giờ của con.

Hẳn công việc này sẽ có thể tránh được nhiều tai họa trong cõi vật lý, nhưng trước hết nó có thể giúp con giữ mình ở cao hơn tầng cấp sợ hãi. Nếu con muốn tác động tối đa đến hành tinh như các thày mong muốn, con sẽ cần giữ mình cao hơn sợ hãi trong năm sắp tới. Các thày đã ban ra giáo lý về tình thương cùng với các bài thỉnh, bài chú để thỉnh cầu tình thương. Tất nhiên, các thày sẽ cho phát hành một quyển sách mới với giáo lý lẫn bài thỉnh, nhưng sách này thì vượt thời gian cho nên con không cần chờ sách trước khi con bắt đầu thỉnh cầu tình thương cùng các năng lượng dựa trên tình thương.

Hình tư tưởng cho năm 2015

Hình tư tưởng cho năm 2015 sắp tới sẽ là gì? Tình thương thường đi đôi với màu hồng, nhưng tình thương trong dạng cao độ nhất là màu ngọc đỏ (ruby) mà như con biết, đó là màu của tia laser. Hình tư tưởng mà ta ban cho con cho năm tới là một hình Phật ở rất cao trên trái đất – mà con có thể hình dung ở trên không trung hay trong cõi ê-the. Đây là một hình Phật làm bằng một chất trong suốt, không phải là thủy tinh nhưng trông giống như thủy tinh. Chất này màu ngọc đỏ. Có một chân sư thăng thiên tên gọi là đức Phật của Tia Ngoc đỏ; tuy nhiên đây không phải là vị chân sư sẽ cầm giữ cân bằng tâm linh cho hình tư tưởng này. Ta sẽ là vị chân sư khoác vào khía cạnh Tia Ngọc đỏ của Phật và cầm giữ hành tinh này trong tâm quân bình của ta cho năm tới.

Ta sẽ ở trên đây – tức là bất kỳ nơi nào con thấy ta – trong tư cách đức Phật ngọc đỏ đó. Ta không ngồi nhắm mắt; mắt ta mở. Con có thể hình dung ta có đôi mắt mở như người thường, hay con hình dung ta với một con mắt ở giữa lông mày, và con mắt thứ ba này là con mắt đang nhìn.

Qua khả năng viển quan, ta có thể hướng một Tia Ngọc đỏ với năng lượng tình thương mãnh liệt vào bất kỳ điều kiện nào trên địa cầu. Do Định luật Tự quyết, ta không thể tự mình làm điều này. Ta cần những con người đang đầu thai hòa điệu với khía cạnh Tia Ngọc đỏ của ta. Con hãy tự hình dung mình là đức Phật Tia Ngọc đỏ ở cõi vật lý, và đức Phật này hợp nhất, hay ít ra nối kết với ta trong tư cách là đức Phật Tia Ngọc đỏ ở cõi ê-the.

Sau đó con tập trung trước nhất vào việc thiết lập một sự nối kết hay hợp nhất với ta, xong con hướng tia ánh sáng laser Ngọc đỏ đó từ viễn quan của ta vào một điều kiện nào đó trên địa cầu. Con không cần biến chuyện này thành một nghi thức phức tạp nhưng ta cần con lâu lâu ý thức được. Con có thể dành ra một vài phút sau khi đọc thỉnh hay đọc chú để hòa điệu, để hình dung ta, hình dung chính con, rồi nhìn thấy ta là như thế nào, qua quyền năng và cây cầu của chú ý đang dẫn đường cho ánh sáng Tia Ngọc đỏ.

Con cần lưu ý là con không hướng ánh sáng. Con chỉ thiết lập cây cầu mà qua đó ánh sáng có thể chảy vào cõi vật lý. Điều này có nghĩa là việc duy nhất mà ta cần ở con là sự chú ý. Ta không cần quan điểm của con, cảm xúc của con, những nỗi sợ của con hay ý nghĩ của con về những gì cần hay không cần thay đổi trong hoàn cảnh hiện thời. Con càng trung hòa bao nhiêu thì càng nhiều ánh sáng sẽ chảy xuyên qua con bấy nhiêu.

Con hãy cố hiểu rằng chìa khóa của quả vị Ki-tô là không dính mắc. Con hãy hết sức không dính mắc vào hoàn cảnh mà con đang tập trung chú ý của con – cũng như tập trung chú ý của ta. Ta trung hòa đối với mọi sự xảy ra trên địa cầu.

Có lẽ “trung hòa” không phải là từ thích hợp nhất. Có lẽ “không dính mắc” cũng không phải là từ hay nhất. Có lẽ không có từ nào có thể diễn tả được tâm của Phật vì Phật vượt mọi từ ngữ, nhưng ta phải dùng ngôn ngữ để tâm con nắm bắt điều ta muốn nói. Vậy con hãy trung hòa tối đa, không dính mắc tối đa, phổ quát tối đa về tình huống trước mặt. Để yên cho ánh sáng làm công việc của nó mà không tìm cách hướng dẫn nó! Con chỉ vỏn vẹn đặt chú ý của con vào tình huống và cho phép ta hướng dẫn ánh sáng qua trung gian cây cầu là sự chú ý của con.

Lướt sóng

Đó là cách con có thể đóng góp to lớn song song với những bài chú, bài thỉnh của con. Như Mẹ Mary có nói, chắc chắn có khả năng quy tụ được 500 người đọc bài nguyện và bài chú cùng một lượt với nhau, nhưng liệu điều này có thực hiện được trong thực tế, liệu sẽ có đủ người nắm lấy ngọn đuốc và bỏ công ra làm hay không thì phải chờ xem. Nhưng chắc chắn điều hợp lý là chúng ta khởi sự tiến trình, xong hy vọng là các con sẽ có thể duy trì, xây dựng đủ động lượng và thu hút được ngày càng nhiều người hơn tham gia đưa vòng ốc xoắn đi lên.

Ta mong ta đã cho con món ăn tinh thần ở đây, không những cho năm 2015 mà cho cả những năm và thập niên sau đó. Nó có thể đem lại cho con sự khác biệt to lớn. Con có thể bắt đầu cưỡi sóng của nghiệp quả đang phản hồi thay vì đâm đầu vào ngọn sóng hết lần này sau lần khác.

Đương nhiên, nếu con muốn đâm đầu vào sóng thì ta sẽ không phản đối ý muốn trải nghiệm đó của con. Ta chỉ muốn con biết rằng lướt sóng là một chuyện hoàn toàn khả thi. Nếu con muốn trải nghiệm lướt sóng, cả ta lẫn các chân sư khác sẽ đều sẵn lòng giúp con một tay để con tự kéo mình đứng lên tấm ván – tấm ván của giáo lý các thày – và con học cách giữ thăng bằng dễ dàng hơn.

Như ta đã cố giải thích, quá nhiều lần các thày đã chứng kiến học trò tìm được giáo lý, rồi sử dụng giáo lý một cách cực đoan khiến họ bị mất thăng bằng. Cho dù có thể con chưa lướt sóng bao giờ nhưng con dư biết là nếu con không giữ được thăng bằng trên ván thì con sẽ té nhào xuống sóng nước. Các thày mong muốn thấy học trò của mình cưỡi sóng chứ không té sóng. Nếu con cũng mong muốn như vậy, ta nghĩ ta với con có thể làm việc với nhau trong năm tới và cả sau đó.

Ban thêm giáo lý

Với lời này, ta cảm ơn các con đã chú ý, đã sẵn lòng học tập và thực hành giáo lý, sẵn lòng hỗ trợ công việc phổ biến giáo lý, hỗ trợ sứ giả này trong việc đem giáo lý vào cõi vật lý. Con có thể nhìn vào các trang web được thành hình xuyên qua tâm của đúng một người, con có thể nhìn sách đã phát hành và con có thể ngạc nhiên tự hỏi: “Liệu các chân sư còn thêm bao nhiêu giáo lý nữa để ban truyền?”

Chính sứ giả này cũng đã từng ngạc nhiên, nhưng giờ đây ông đã vượt quá sự ngạc nhiên khi ông nhận ra là các thày còn muốn ban truyền nhiều hơn rất nhiều. Thậm chí ông không muốn biết sẽ còn thêm bao nhiêu nữa, vì ông sẽ bị choáng ngợp khi nghĩ đến thì giờ và công sức mình cần phải dành ra. Ta sẽ không nói cho con biết còn bao nhiêu nữa, mà ta sẽ chỉ nói với con là các thày mong muốn đem vào cõi vật lý thật nhiều giáo lý hơn nữa.

Các thày không có nhiều người mang tâm có thể làm chén thánh để nhận và truyền đạt giáo lý này. Các con hãy trao cho tâm này cơ hội để nó sử dụng những khả năng mà nó đã được đào tạo – và cũng sẵn lòng thực hiện. Quả thật, nếu không đưa ra giáo lý thì làm thế nào có được sự thay đổi? Và cũng thế, nếu giáo lý không được chấp nhận và áp dụng thì cũng chẳng có được sự thay đổi.

Mỗi người trong số các con đều cần thiết y như sứ giả này cần thiết. Tuy con không nên đặt bất cứ ai lên bệ cao, nhưng con hãy đón nhận mọi người như những cá nhân độc đáo – quan trọng một cách độc đáo – mà các con là. Đôi khi con cũng cần nhìn nhận là mình đã có đem lại một chút giá trị, mình đã có nỗ lực, mình đã có tinh tiến. Nhìn nhận như vậy sẽ giúp con giữ được cái trớn đi lên, giúp con tìm lại sự nhiệt thành mà có thể con đã đánh mất chút đỉnh giữa sự chuyển động vòng tròn của đời sống hàng ngày.

Ta có thể cam đoan với con là các thày, những người đã thăng thiên khỏi địa cầu, đều biết rõ nếp sống hàng ngày có thể nặng nề chừng nào trên một hành tinh có năng lượng dày đặc như thế này. Bước đi trên con đường tâm linh trên địa cầu không phải là một chuyện dễ. Hội đủ tư cách để thăng thiên khỏi địa cầu cũng không dễ. Nhưng như ta đã chứng minh, việc đó hoàn toàn khả thi. Và như các thày luôn nói: “Điều gì một người làm được thì mọi người cũng đều làm được.”

Không cần nói gì thêm, ta chúc các con một Năm Mới vui tươi. Gautama TA LÀ!

Vượt qua tấn tuồng cuộc đời bằng cách chuyển từ phản ứng sang hành động

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama ngày 31/12/2009 qua trung gian Kim Michaels.

Phật TA LÀ. Gautama TA LÀ và TA LÀ tỉnh thức. Ta đến để nói với con rằng, con cũng vậy, tốt hơn là con nên tỉnh thức nếu con muốn vượt qua những cuộc điểm đạo của năm 2010 này, mà như ta đã trình bày năm ngoái vào ngày đầu năm, sẽ là Năm của Ngôi Con. Là năm mà nhân loại phải đối mặt với điểm đạo của Ngôi Con – tức Tâm thức Ki-tô – và do đó phải đối mặt với điểm đạo về sự cần thiết đạt được Tâm thức Ki-tô hầu phân biện giữa chân và bất chân.

Con để ý ta không nói “thật và giả”, bởi vì thật và giả là từ ngữ mà loài người đã sử dụng từ bao lâu nay để chỉ những thứ trong cõi nhị nguyên. Và tất nhiên, trong năm tới, điều cần thiết là mỗi người cần bước lên khỏi nhị nguyên và, trên hết, học cách phân biện là có một cõi vượt khỏi nhị nguyên, có một mức tâm thức có thực – và nó không ở trong cái cõi luôn luôn có hai đối cực chống đối lẫn nhau.

Và như thế, tâm thức bất nhị này không có đối cực, bởi vì Thượng đế không có đối cực, Phật không có đối cực. Không có cái gì có thể gọi là phản Thượng đế tuy rằng dĩ nhiên con có thể nghĩ ra từ này. Cũng vậy, không hề có phản Phật cho dù con cũng có thể nghĩ ra từ đó. Vì con thấy không, cái gì không phải là Phật chỉ đơn giản không là Phật. Cái gì không phải là Thượng đế thì không là Thượng đế, có nghĩa cái đó bị chia cách khỏi Thượng đế, chia cách khỏi Phật. Thế nhưng khi Thượng đế ở mọi nơi và khi tất cả đều là Phật tánh, làm sao có gì thực sự chia cách khỏi Phật? Làm sao có gì thực sự chia cách khỏi Thượng đế?

Điều này tất nhiên không thể xảy ra trên thực tế, nó chỉ có thể xảy ra trong cõi nhị nguyên, nơi con có thể định nghĩa hai đối cực rồi bảo rằng Thượng đế là một đối cực, và ác quỷ – hay phản Thượng đế hay bất kỳ con muốn gọi tên là gì, thậm chí là vật chất – là đối cực kia, và do đó là chống đối, là chia cách khỏi Thượng đế. Nhưng ảo tưởng này tất nhiên không hiện hữu tự nó. Nó chỉ hiện hữu trong tâm của những ai đã quyết định bước vào cõi của nhị nguyên. Và tại sao lại có những dòng sống muốn bước vào cõi này?

Con luôn luôn có thể thay đổi phản ứng của mình

Như Giê-su, như Đại chỉ đạo Thiêng liêng, như Astrea và như Serapis Bey gần đây có giải thích thật cặn kẽ, họ làm vậy vì họ không sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm về bản thân họ. Thế nào là nhận lấy trách nhiệm về bản thân? Đơn giản có nghĩa là con sẵn sàng nhận diện và nhìn nhận một cách ý thức một sự thật duy nhất, là sự thật nền tảng cho sự tăng triển trên con đường tâm linh để bước vào vòng xoắn ốc thăng thiên. Đây là sự thật khiến cho các chân sư có thể làm việc với con trên một căn bản cá nhân thay vì con ở lại Trường đời Cay đắng, hay ở lại trường học của giáo lý công truyền, của những tổ chức và đạo sư công truyền nơi con có thể tìm thấy một đạo sư chân chính hay không chân chính, nhưng trong mọi trường hợp, nơi con sẽ bị hấp dẫn bởi loại đạo sư hay giáo lý vang dội trong tâm thức hiện thời của con.

Vì con thấy đó, khi con chưa nhận trách nhiệm về mình thì con chưa sẵn sàng tra vấn tâm thức hiện thời, nhận thức hiện thời của con. Và như vậy, làm sao con có thể thu hút một đạo sư vượt lên trên tầng tâm thức đó? Chuyện này không thể làm được. Đây là một trong những sự thật quá hiển nhiên, nó đáng lý phải hiển nhiên nhưng lại không hiển nhiên chút nào cho những ai chưa chịu nhận lãnh trách nhiệm và do đó còn nhìn tất cả mọi thứ với nhận thức ô nhiễm.

Vậy thì điều gì là điều con bắt buộc phải nhận ra trước khi con có thể là học trò cá nhân của các chân sư thâng thiên? Đó chính là: Mọi thứ trong thế giới hình tướng đều là sự biểu hiện của tâm thức, là một tạo vật của tâm thức. Không có gì – ta nhắc lại, không có gì – trong thế giới hình tướng, dù là trong cõi tâm linh hay vũ trụ vật chất, mà có sự hiện hữu độc lập hay khách quan. Không có gì đã đi vào hiện hữu mà không được sinh tạo bởi một vị đồng sáng tạo với khả năng tự nhận biết. Vị đó trước tiên hình dung ra một hình tư tưởng, rồi sử dụng khả năng đồng sáng tạo của mình để áp chồng hình tư tưởng này lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và ánh sáng này khoác lấy hình dạng của hình tư tưởng.

Không có cách nào khác để đồng sáng tạo. Ngay cả Đấng Sáng tạo cũng sáng tạo cách này, cũng như mọi vị đồng sáng tạo khác từ mọi thời – trong bầu cõi này hay trong những bầu cõi trước cho tới lần sáng tạo đầu tiên. Không có cách nào khác để sáng tạo. Và như vậy, con đường tâm linh khởi sự khi con đạt tới điểm sẵn sàng chất vấn nhận thức cho rằng những gì mình nhận biết trong vũ trụ vật chất là thực – là có sự hiện hữu độc lập, nghĩa là hiện hữu một cách độc lập khỏi tâm thức – và như vậy nó trường tồn hay bất biến, hay chỉ thay đổi rất chậm do một tiến trình vượt ngoài tầm kiểm soát của con, cho dù tiến trình này là Thượng đế hay thiên thần trên trời, hay định luật thiên nhiên, hay quy trình tiến hóa, hay bất kỳ huyền thoại nào khác mà con người đã nghĩ ra để giải thích mọi sự ở chung quanh mà qua đó con người thấy cả hình dáng của trường tồn lẫn hình dáng hiển nhiên của biến đổi.

Tuy nhiên, vì không chịu nhận trách nhiệm về bản thân, con người phải phóng chiếu ra là mọi thứ đều trường tồn và hiện hữu độc lập. Và cùng lúc, họ cũng phải phóng chiếu là những thay đổi mà họ không thể chối cãi phải đến từ một tiến trình nào đó ở bên ngoài họ mà họ không thể kiểm soát. Nhưng thực sự, liệu có cái gì trong thế giới của họ – trong thế giới cá nhân của họ – mà họ hoàn toàn không thể kiểm soát không? Có, có chứ – nhưng chỉ ở mức tâm thức hiện thời của họ mà thôi. Nhưng nếu con sẵn sàng thăng vượt mức tâm thức hiện thời của con, thăng vượt nhận thức hiện thời của con, thăng vượt cái hộp tư duy hiện thời của con, thì hoàn toàn sẽ không có gì trong thế giới của con mà con không thể gia tốc lên một tầng cao hơn bằng cách sẵn lòng gia tốc chính tâm thức của con.

Con có thể nhìn vào thế giới chung quanh, nhìn vào hoàn cảnh cá nhân, và con cỏ thể thấy nhiều điều trong đời mình mà dường như con không có quyền năng ảnh hưởng hay thay đổi, do chúng tùy thuộc vào định luật thiên nhiên mà hình như con không thể thay đổi, hoặc chúng tùy thuộc vào người khác và những chọn lựa tự quyết của họ. Nhưng con thấy đó, con vẫn có quyền năng thay đổi một thứ. Con có quyền năng thay đổi cách con phản ứng trước tình huống ngoại cảnh, trước cách cư xử của người khác.

Khởi đầu của con đường tâm linh

Và con khởi đầu khi con tự hỏi: “Làm thế nào tôi có thể gia tốc phản ứng của mình để tôi không bị những hoàn cảnh, hành động, lời nói của người khác buộc tôi phải phản ứng tiêu cực? Làm thế nào gia tốc ra khỏi khuôn nếp phản ứng cũ? Làm thế nào ra khỏi cách vận hành cố hữu của tâm thức phản ứng?” Khi con bắt đầu đặt ra những câu hỏi này, đó là lúc con có thể khởi sự con đường tâm linh.

Ban đầu, có vẻ như con chỉ thay đổi được cách phản ứng đối với hoàn cảnh hay người khác, nhưng ta cam đoan với con là các thày – là các chân sư thăng thiên đã từng trải qua cùng tiến trình như con, đã khởi đầu ở một tâm thức vô cùng nhị nguyên rồi đã tự gia tốc vào Xoáy ốc Thăng thiên – các thày đã chứng minh, chứng minh nhiều lần và thêm nhiều lần rằng khi con gia tốc các phản ứng của con, con sẽ đạt tới điểm không còn gặp phải một số tình huống hay một số loại người nữa. Và con yêu dấu, có thật là khó hiểu lắm không khi con đã nhận được rất nhiều lời dạy của các thày về sự kiện vũ trụ này là một tấm gương phản chiếu lại cho con những gì con gửi ra ngoài?

Nếu con gửi ra ngoài ý tưởng là con luôn bị người ta đổ tội oan ức, thì dựa trên hình tư tưởng mà con có trong tâm, vũ trụ sẽ suy ra điều gì? Đúng vậy, vũ trụ sẽ suy ra là con muốn kinh nghiệm một tình huống có ai đó buộc tội con. Và như thế, vũ trụ sẽ chiều theo và gửi đến con loại người buộc tội đó. Và con có thể rơi vào vòng xoáy ốc muôn thuở là tìm cách tự minh oan trước lời buộc tội của họ, hay tìm cách bác bỏ họ, hay tự bào chữa, hay thậm chí tìm cách thay đổi quan điểm của họ – nhưng con vẫn đang phản ứng đó con.

Con có thấy chăng là những gì khiến con phản ứng không phải là tình huống bên ngoài độc lập với tâm thức con? Con đang phản ứng lại sự phản ứng của tấm gương vũ trụ đối với những hình ảnh mà con đã gửi ra. Hẳn con có biết về luật nhân quả, còn gọi là luật của hành động và phản ứng. Vậy thì con biết phản ứng luôn luôn đi theo sau hành động. Thế nhưng khi con không nhận trách nhiệm về mình, con không thấy được là cái chuỗi sự kiện đó đã khởi sự với một hành động của con, tức là những hình tư tưởng mà con cho phép hiện hữu nơi thể bản sắc của con, rồi con phóng nó ra vào tấm gương vũ trụ, và những gì trở ngược lại con chính là sự phản ứng do hành động của con.

Khi con không nhìn nhận điều này, con sẽ chỉ nhìn vào những gì xảy ra bên ngoài con, rồi con cho rằng cách người khác đối xử với mình là hành động của họ. Rồi con cho rằng hành động của họ bắt buộc con phải phản ứng một cách nào đó, thường thường nó bắt con phản ứng một cách nhất định bất kể động lực cá nhân của con là gì, chẳng hạn con phải tự biện minh hay buộc ngược lại người ta. Và con cho rằng vì con không thể thay đổi hành động của họ, con sẽ không có cách nào thăng vượt hoàn cảnh của con. Nhưng con có thấy là lý do con cảm thấy mình bất lực là vì con đã lẫn lộn hành động với phản ứng? Con nghĩ con phản ứng lại hành động của họ, nhưng sự thật ở đây – sự thật nói lên khác biệt giữa những học trò chân chính của chân sư thăng thiên với những ai không phải là học trò chân chính, cho dù họ có thể tự nhận hoặc tin chắc thế nào đi nữa – là nhận ra một điều mà thôi, đó là khi con nhận trọn vẹn trách nhiệm về bản thân thì con sẽ KHÔNG BAO GIỜ phản ứng lại bất cứ gì!

Khi con hoàn toàn trách nhiệm về tình trạng tâm mình, con thấy rằng Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết. Và dù điều gì xảy ra cho con trên địa cầu, con có tự do chọn lựa những gì xảy ra trong tâm con – bất kể những gì xảy ra bên ngoài thân con và tâm con. Và như vậy khi con trách nhiệm bản thân con, con ngộ ra rằng con hoàn toàn không có nhu cầu phản ứng lại bất cứ gì. Không có một định luật tự nhiên nào bắt con phải phản ứng lại những tình huống mà con gặp trong vũ trụ vật chất, bởi vì con có tiềm năng gia tốc vào một tâm thức cao hơn, nơi con không phản ứng mà con hành động. Bởi vì dù chuyện gì xảy ra bên ngoài, con vẫn chọn lựa được tâm thức của mình. Và con chọn hành động dựa theo tâm thức mình, chứ KHÔNG dựa theo tâm thức người khác. Và đó là tại sao con sẽ không bao giờ bị giới hạn bởi tâm thức và quyền tự quyết của người khác, vì CHÍNH CON, trong mọi tình huống con phải đương đầu và bất kể chọn lựa của người khác, con tự do chọn lựa hành động của mình, tâm thức của mình.

Giành lại thế chủ động

Không ai cấm con nhìn vào chính con rồi tự hỏi: “Tại sao tôi cứ gặp hoài những loại người này? Có điều gì trong tôi mà tôi chưa nhìn thấy cứ khiến mình phải gặp lại họ hoài hoài? Có bài học nào mà mình chưa hấp thụ khiến mình cứ phải đi thi lại dài dài cho đến khi mình thuộc bài?” Lúc đó con có thể nhìn vào chính mình, làm sáng tỏ cái đó là gì – có thể là một vết thương từ quá khứ, một tin tưởng nào đó – và con có thể thăng vượt nó, con có thể tự gia tốc để vượt khỏi nó. Và khi con làm được vậy, con sẽ không còn nhu cầu phản ứng nữa, và con sẽ tự do chọn lựa hành động. Thậm chí khi con gặp lại người kia cư xử y hệt như trước, như họ buộc tội con hay làm bất cứ gì khác, con sẽ không phản ứng lại họ. Con chọn! Và vì vậy con HÀNH ĐỘNG. 

Và bây giờ họ không là người nắm chủ động nữa, vì con đã giành lại thế chủ động khỏi tay họ qua hành động của con – là những hành động không hề bị điều chỉnh cho phù hợp với tâm thức hay hành động của họ, mà là hành động xuất phát từ sự sáng tạo nội tại mà con vốn có, từ nguồn sáng tạo nằm trong Hiện diện TA LÀ của con – và bây giờ con có khả năng khởi lên những cách ứng đối sẽ khiến họ hoàn toàn bối rối, y như Giê-su đã khiến cho các thày thông giáo và người Pha-ri-si bị bối rối, hay nếu con có học đạo Phật kỹ lưỡng, tương tự như ta đã khiến người Bà-la-môn trong đạo Ấn bị bối rối vào thời của ta. Họ tưởng họ đã tìm ra tất cả, tưởng chỉ có họ mới hiểu đúng kinh cổ, mới tuân thủ nghi lễ và truyền thống, nhưng họ chỉ làm cho Lời Hằng Sống bị vô hiệu hóa, như Giê-su đã chỉ ra cho họ sau này.

Tâm thức cáo buộc người anh em đã có từ lâu trước khi bầu cõi này được tạo lập, trước cả khi vũ trụ vật chất được sáng tạo. Nó đã hiện diện trên địa cầu, không ngay từ đầu nhưng suốt một thời gian rất dài. Đó chỉ đơn giản là một sự khai ngộ thuộc về các bầu cõi tiếp theo sau bầu cõi có các sinh thể sa ngã đầu tiên quyết định dấn thân vào năng lượng cáo buộc hầu kéo mọi người rơi xuống với chúng. Có thể nói đó là phần nào những khai ngộ của trường đời cay đắng, và cũng vậy nhưng theo một cách khác, đó cũng là phần nào những khai ngộ của trường bí giáo của chân sư thăng thiên. Bởi vì tất nhiên các thày sẽ làm việc với con để giúp con nhìn thấu những điểm tinh tế của năng lượng cáo buộc, nhưng các thày chỉ có thể giúp con được nếu con đã tới mức sẵn sàng nhìn nhận tất cả đều là tạo vật của tâm thức.

Và khi đó, con sẽ nhìn ra một sự thật rất giản dị sẽ giúp con vươn lên trên năng lượng cáo buộc vì chính tâm con sẽ không bắt đầu suy nghĩ về chuyện cáo buộc. Con có thấy cách thức nó diễn ra thế nào không: có ai đó nóng giận tiến về phía con, họ buộc tội con đã làm điều gì đó. Con lập tức phản ứng lại năng lượng cáo buộc bằng cách đóng tâm con lại, đóng các luân xa lại và không muốn nhận vào năng lượng. Ngay sau đó, tâm con bắt đầu duyệt qua nội dung của lời buộc tội. “Có gì thực trong lời này? Có thật là tôi đã làm chuyện đó không? Hay tôi không làm? Không, tôi đã không làm, tôi sẽ bào chữa thế nào đây? Làm sao để người ta tin tôi? Chuyện này sẽ hại đến danh giá của tôi như thế nào?” Và tất cả những câu hỏi như thế mà con có thể nghĩ ra cứ lặp đi lặp lại trong tâm con.

Một khi tâm con vùi đầu vào chi tiết lời buộc tội, con đã dấn sâu vào vòng xoắn ốc hướng hạ – và kẻ buộc tội đã đặt con vào đúng cái thế mà họ muốn. Nhưng khi con ngộ ra rằng mọi sự đều do tâm thức tạo dựng – và do đó mọi sự có mặt trên địa cầu là sự biểu hiện thành hình tướng của một trạng thái tâm thức nào đó – thì con sẽ nhìn những lời đó từ một góc độ khác, có đúng thế không? Vì bây giờ con nhận ra là lời buộc tội của người kia rất có thể không liên quan gì tới con, tới hành vi của con hay tình trạng tâm thức của con. Nó có thể chỉ là sản phẩm của tâm thức người đó và vì vậy không có chút thực thể nào. Và tất nhiên ở đây, chúng ta cần xem đến một điều tinh tế đã cho phép kẻ cáo buộc cứ quay tiếp vòng xoáy cáo buộc rồi đánh bẫy mọi người kẹt vào đó hết lần này tới lần khác.

Vì con thấy không, một khi con đã rơi vào vòng nhị nguyên, con sẽ có một số tin tưởng, cảm xúc hay động lực, một số hành vi không mấy cao đẹp – và người kia sẽ dùng những điều này để buộc tội con. Và bây giờ con cảm thấy nếu những chuyện đó có thật – bởi vì con đã làm những chuyện đó, đã có những ý nghĩ, tình cảm hay động lực đó – thì con không thể đơn giản làm ngơ lời cáo buộc. Và tất nhiên là nó chính xác. Con không thể làm ngơ, nhưng có một điều con có thể làm được là tự nhủ: “Tôi sẽ không phản ứng lại lời buộc tội bằng sự biện minh. Tôi sẽ tự xét mình một cách trung thực. Nếu tôi thấy tôi đã có những hành vi, động lực, tình cảm, ý nghĩ hay quan điểm không trong sáng, không tối ưu, thì tôi sẽ tự tu sửa lấy mình. Nhưng tôi sẽ hoàn toàn làm ngơ người tố cáo. Tôi sẽ không bào chữa. Tôi sẽ không buộc ngược lại. Tôi sẽ nhìn vào chính mình, tôi sẽ tách ra khỏi người tố cáo vì lời buộc và năng lượng của họ sẽ không giúp tôi nhìn vào bên trong và tiếp xúc với các vị thày tâm linh của tôi hầu nhận được sự hướng dẫn nội tâm sẽ giúp tôi nhìn thấy cái xà trong mắt mình.”

“Như vậy tôi sẽ tách mình ra khỏi năng lượng và tâm thức của người buộc tội. Tôi sẽ làm việc với các thày tâm linh của tôi. Tôi sẽ tìm xem có điều gì trong tâm thức mình cần thay đổi. Và tôi sẽ thay đổi nó. Và tôi sẽ tự gia tốc để vượt lên trên nó. Và tôi sẽ nhìn lại người kia và xem họ còn buộc tôi nữa không, và nếu họ còn, tôi sẽ giải quyết chuyện này ở tầng tâm thức cao hơn mà tôi vừa vươn tới, là tầng tâm thức nơi người kia không còn lý do nào để buộc tôi nữa.”

Con yêu dấu, con có thấy cái cạm bẫy mà bao lần con đã rơi vào khi con bị buộc tội là con có một trạng thái tâm thức nào đó, con đã đáp lại ở cùng tầng tâm thức đó hay không? Và con bị vướng kẹt, con rơi vào cái bẫy của phản ứng nhị nguyên chỉ có thể tạo ra một vòng xoáy đi xuống. Điều ta muốn nói với con ở đây là con không chỉ làm ngơ trước những điều người ta nói, nhưng con phải trung thực và nhìn xem có điều gì đúng trong lời đó hay không. Và con đừng phản ứng ở tầng tâm thức đó, mà ngược lại hãy rút về, đứng sang một bên, làm việc trên chính mình, nhìn vào chính mình, làm việc với các thày tâm linh. Và khi con thấy lời buộc tội có điều gì đúng đắn thì con hãy bỏ công ra cho tới khi con tự gia tốc vượt lên trên. Và sau đó nếu cần thiết, con có thể trở lại giải quyết với người đã buộc con.

Nhưng cũng có thể con nhận ra là chuyện giải quyết với người kia sẽ chẳng đem lại được gì xây dựng bởi vì con đã thăng vượt tâm thức đó rồi. Có khi, vì con đã thăng vượt tâm thức, con có thể trở lại người cáo buộc để khiến họ nhận ra con đã vượt tâm thức cũ của con. Và có thể nó sẽ khiến người kia cũng muốn thăng vượt tâm thức của họ. Con và họ có thể bắt đầu một quan hệ mới ở một cấp độ mới. Nhưng nếu con tìm ra là họ vẫn không sẵn sàng thăng vượt tâm thức cáo buộc, thì trong rất nhiều trường hợp, chẳng có ích gì mà con cố bác bỏ lập luận của họ, hay tự biện bạch, hay cố thay đổi quan điểm của họ.

Quả vị Ki-tô và quả vị Phật

Bởi vì nếu người buộc tội không sẵn sàng làm điều con vừa làm, làm sao con sẽ đạt được điều gì xây dựng đây? Con thấy không, một người buộc tội con có thể đã chỉ ra điều gì đó không ổn trong con và như thế con có thể nắm lấy cơ hội mà học hỏi. Nhưng con cũng cần biết, dù người kia nhìn thấy điều dở trong con, có thể họ chưa có được tâm thức nhìn nhận mọi vật là biểu hiện của tâm thức. Và con thấy một sự thật giản dị ở đây. Người ta bảo rằng nếu con thấy thói xấu nơi người khác thì chính con cũng có thói xấu đó. Câu này không hoàn toàn đúng với mọi người, bởi vì một khi con có tâm thức Ki-tô, con có thể thấy thói xấu hay cái giằm trong mắt người anh em mà nhận xét của con vẫn đúng – nó sẽ đúng khi con có tâm Ki-tô.

Nhưng trong tâm thức Ki-tô, con không bao giờ cáo buộc một ai, bởi vì con đã thăng vượt năng lượng cáo buộc sinh ra từ nhị nguyên – và vì thế Ki-tô không cáo buộc. Có một sự khác biệt quan trọng nhưng vi tế giữa việc chỉ ra một điều cần chỉnh đốn và làm cùng như vậy với một năng lượng cáo buộc nhằm hạ thấp đối tượng. Ki-tô chỉ có một mục đích mà thôi là nâng người kia lên. Và như vậy khi con chỉ ra một điều gì cần sửa đổi, con hãy nói một cách xây dựng vì con muốn giúp người kia thăng vượt nó.

Kẻ buộc tội thì không muốn đối tượng của họ thăng vượt. Họ chỉ muốn kéo người kia xuống, và đó là động lực, là ý định của họ, đó là năng lượng mà họ phóng vào người khác. Cho nên con yêu dấu, khi con đã giải thoát khỏi những bợn nhơ trong tâm thức, con sẽ tới điểm nhìn thấy rõ hơn. Như Giê-su có nói, khi con đã gỡ được cái xà trong mắt mình thì con sẽ thấy rõ những gì diễn ra trong tâm thức người khác. Và nếu con thấy một người sẵn sàng để cho con làm việc với họ thì con hãy hết sức giúp họ. Nhưng nếu con thấy người đó chưa tới mức chấp nhận được tất cả đều là biểu hiện của tâm thức, thì có những trường hợp con có thể lấy biện pháp khác hơn – như khi Giê-su thách đố các thày thông giáo và người Pha-ri-si, hay lật đổ bàn ghế của bọn đổi tiền – hoặc con cũng có thể để mặc cho người ta yên thân. Không có cách đúng hay sai bởi vì trên đường tu có nhiều giai đoạn khác nhau.

Có giai đoạn gọi là giai đoạn của Ki-tô, con đường dẫn đến quả vị Ki-tô, khi bình thường con sẽ đi ra thế gian và hoặc con tìm cách giúp đỡ mọi người, hoặc con đặt vấn đề với những ai không chịu tiến tới cao hơn. Nhưng sau giai đoạn này là giai đoạn của quả vị Phật, như khi con thấy ta đã không tích cực đi ra ngoài, ta lánh xa xã hội và thiết lập một đạo tràng sống biệt lập. Khi ta để cho học trò tự nguyện đến với ta, ta được lợi điểm là có thể từ khước những ai chưa sẵn sàng, là những người chưa chứng ngộ một điều thiết yếu là cái chìa khóa để gia nhập đạo tràng của ta, đó là sẵn sàng nhận ra mọi thứ là sự biểu hiện của tâm thức. Và như vậy, con yêu dấu, con hãy lắng nghe – chìa khóa cho sự tiến bộ cá nhân của con có thể tìm thấy trong tâm thức con.

Con có thấy là ngày nay trên thế giới, ngay cả những người tâm linh cũng bị mắc kẹt trong cái tâm thức mà kẻ cáo buộc người anh em đã tạo ra, cái vòng xoắn ốc hướng hạ nơi họ chỉ chú tâm vào người khác, chú tâm vào việc cải sửa người khác? Họ tưởng là họ phải cải tổ thế giới và con người, thậm chí phải đưa ra lời phán xét hay lên án hay lật mặt người khác. Và như vậy, họ luôn luôn ở trong tâm trạng muốn thay đổi tâm thức người khác thay vì tâm thức của mình.

Điều này tất nhiên cũng tốt thôi. Con có quyền tự quyết, con có quyền ở trong tâm thức đó và nếm mùi những trải nghiệm mà con cần trong tâm thức đó. Nhưng ta với tư cách là Phật, có quyền định ra một tăng đoàn đứng biệt lập khỏi tâm thức cáo buộc, và do đó ta có quyền định ra một điều kiện gia nhập mà qua đó những ai không sẵn sàng thừa nhận họ cần thay đổi tâm thức của chính họ – thay vì cố thay đổi tâm thức người khác – sẽ không đủ tư cách, không đủ sẵn sàng để gia nhập tăng đoàn của Phật và nhận được giáo huấn trực tiếp của ta.

Như vậy họ có thể đứng ngoài và tiếp nhận những hình thức giáo huấn khác, chẳng hạn giáo huấn mà con có thể nhận được ngày nay từ tôn giáo công truyền đạo Phật hoặc các giáo lý tôn giáo hay tâm linh công truyền nào khác. Nhưng con sẽ thấy, ngay cả thời nay trong truyền thống đạo Phật cũng có những vị thày chân chính đã chứng đạt tâm thức cao hơn, và mỗi vị đó đều có những tiêu chuẩn cá nhân cho những ai được phép gia nhập vòng đệ tử riêng, vòng đệ tử điểm đạo.

Và tất nhiên giống như Phật, con không bắt buộc phải làm việc với bất cứ ai đến gõ cửa nhà con. Con yêu dấu, cái đó chính là sự điểm đạo của Ki-tô, khi với tư cách Ki-tô con làm giống như Giê-su đã làm, là tiếp nhận bất cứ ai bất kể tâm thức của họ. Con tiếp nhận người hủi lở, con tiếp nhận người có đủ loại tật nguyền, con tiếp nhận người bị quỷ ám – đủ mọi loại người bị kẹt trong đủ loại niềm tin. Ki-tô đi ra ngoài thế gian và bất cứ ai Ki-tô gặp, Ki-tô cũng sẽ ứng xử với người đó tùy theo khả năng sáng tạo bên trong, khả năng phân biện nội tâm và trình độ tâm Ki-tô của người đó. Điều này hoàn toàn chấp nhận được vì đó là lý do Ki-tô đi ra ngoài thế gian.

Nhưng ở mức của Phật thì Phật đã lập ra một tăng đoàn đứng biệt lập, và do đó học trò phải trải qua một số cuộc điểm đạo trước khi được phép gia nhập. Điều cốt yếu ở đây là để được cứu xét là học trò của Phật, người muốn đạt quả vị Phật phải trước tiên chấp nhận rằng mọi thứ trong thế giới hình tướng đều là biểu hiện của tâm thức. Và do đó mọi thứ mà CON gặp trong thế giới hình tướng là một biểu hiện của tâm thức con – nếu con phản ứng lại.

Hành động và phản ứng

Cho nên khi nào con thấy con còn phản ứng lại bất cứ điều gì trong thế gian này, con cần biết rằng trong tâm thức con vẫn còn một cái gì đó chưa được rũ bỏ, chưa chữa lành hay chưa thanh lọc – và đó là tại sao con mới phản ứng. Chỉ giản dị có vậy! Bởi vì nếu trong con không có gì tương ứng thì con sẽ không phản ứng. Con sẽ hành động, nhưng con sẽ không vướng mắc vào hành động. Và đây là sự khác biệt giữa hành động và phản ứng. Khi con phản ứng, con có sự vướng mắc vào một thành quả. Và nếu thành quả này không đạt được, con sẽ có một phản ứng vừa cảm xúc vừa lý trí, tiêu cực, bất an, không quân bình, không thương yêu.

Nhưng khi con hành động, con không vướng mắc vào thành quả. Và do đó hành động mang sẵn chiến thắng của nó, sự hoàn thành trọn vẹn của nó, thành công của nó, niềm vui của nó. Con thấy đó khi con phản ứng, con nghĩ sự thành công hay thất bại của phản ứng tùy thuộc vào những sự việc trong thế gian. Nhưng khi con thăng vượt tâm thức phản ứng và vươn lên tâm thức hành động từ bên trong, con ngộ ra là hành động để biểu thị những gì con biểu thị tự nó đã là chiến thắng. Không cần bất cứ gì khác, không cần thành quả nào trong tâm của người khác, trong hành động của người khác, trong hành động của xã hội hay trong thế giới rộng lớn, không gì là cần thiết nữa.

Con như là mặt trời cảm thấy vui mừng tỏa chiếu ánh sáng. Mặt trời không nhìn xuống trái đất để tìm xem có ai đang phải che chắn ánh nắng, ai đang trốn tránh tìm bóng rợp, ai đang đeo kính râm hay bôi kem chống nắng hay đang làm bất cứ gì. Mặt trời không quan tâm đến phản ứng, nó tiếp tục tỏa sáng vì niềm vui tỏa sáng. Và đó là tâm thức của hành động, ngược với tâm thức phản ứng là khi con không vui trong việc làm mà chỉ chờ thành quả, chờ phản ứng của người khác trước khi con định được là con nên vui hay buồn.

Cho nên đâu là chìa khóa để thăng vượt tâm thức phản ứng này? Đó là nhận ra rằng phản ứng của con phát xuất từ cách con nhận thức tình huống. Phản ứng là kết quả, là hậu quả, của nhận thức. Và như vậy khi con nhận diện tất cả là biểu hiện của tâm thức, con cũng nhận diện phản ứng của con đối với tình huống là sản phẩm của cách con nhận thức tình huống. Nhận thức ở đây, tất nhiên, đi xa hơn là nhận biết của giác quan, vì nó đi sâu vào phản ứng của cảm xúc, vào cách con suy nghĩ về tình huống, và vì thế nó đi xa hơn thế nữa, tuốt vào bên trong cách con nhìn cuộc đời rộng lớn, cái tư duy vi tế, cái thế giới quan được lưu trữ trong thể bản sắc của con.

Cho nên cách đây 2500 năm, ta đã nói thế này ngay đoạn mở đầu của Kinh Pháp cú: “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, đau khổ sẽ theo sau.”

Nhận biết ô nhiễm với nhận biết thuần khiết khác nhau thế nào? Phải, ta vừa gợi ý cho con đó. Bất cứ khi nào con phản ứng trước một tình huống, con biết là con đang nhận thức tình huống đó với nhận biết ô nhiễm. Nhưng làm thế nào vượt qua được nhận biết ô nhiễm để có nhận biết thuần khiết? Bằng cách con nhận ra bất kỳ nhận biết nào phát xuất từ nhị nguyên thì nó vốn đã ô nhiễm trong bản chất. Điều này tất nhiên thật là khó. Bởi vì hầu hết mọi dòng sống trên địa cầu đã ngụ trong tâm thức nhị nguyên từ quá lâu đến độ mất hết mọi ý thức về nhận biết thuần khiết. Nhưng như ta đã giải thích nhiều lần, trong cốt lõi, cái Là của con chính là trạng thái tâm thức thuần khiết đó. Suốt bao nhiêu thời đại, tâm thuần khiết này đã được mọi truyền thống thần bí và tâm linh giảng dạy, xưa hơn cả kinh Veda, trở ngược về thời Atlantis và Lemuria, thậm chí cả những nền văn hóa xưa cổ hơn nữa.

Các nhà thần bí mọi thời đều biết khi con vượt ngoài nhận biết giác quan – sự nhận biết đến từ tâm vỏ ngoài do cảm xúc chi phối, sự nhận biết ở mức ý tưởng, ngay cả sự nhận biết đến từ ý thức bản sắc là mình sống trong thế gian này – khi con vượt qua tất cả những thứ đó thì con chứng nghiệm nhận biết thuần khiết. Con có thể gọi đó là cái ta ý thức, cái Ta Biết, hay bất cứ tên gọi nào mà con muốn. Nhưng thực tế là khi con vượt khỏi mọi ý niệm bản ngã thì đó là sự nhận biết thuần khiết.

Nhận biết thuần khiết này không thể bị bất cứ gì trong cõi nhị nguyên, bất cứ gì trong thế giới hình tướng làm ô nhiễm. Và như vậy con có thể hòa điệu với cốt lõi của chính con. Và khi con chiêm nghiệm sự nhận biết thuần khiết và biết con là nhiều hơn cái ngã vỏ ngoài chỉ nhận thức thế gian theo cách của nó, thì con sẽ bắt đầu trụ neo trong nhận biết thuần khiết. Và lúc đó con cũng bắt đầu nhận thức thế gian mà không rời nhận biết thuần khiết của con.

Duy trì sự nhận biết thuần khiết

Con không thấy hay sao, nhiều người chỉ kinh nghiệm được nhận biết thuần khiết thoáng hiện ra thật ngắn ngủi, xong ngay sau đó, có khi chỉ ít hơn một giây, họ lại trở về nhận thức thế giới qua nhân cách vỏ ngoài? Trong nhiều trường hợp, họ lấy những niềm tin tôn giáo của họ rồi đặt chồng lên trên nhận thức thuần khiết, cứ đinh ninh rằng kinh nghiệm ngắn ngủi kia xác nhận điều này hay điều nọ trong giáo lý hay giáo điều của tôn giáo họ. Con thấy có những nhà thần bí đạo Cơ đốc sau khi trải nghiệm nhận biết thuần khiết, lại cắt nghĩa kinh nghiệm này trong cái nhìn cố hữu của tín điều đạo Cơ đốc mà chính họ chưa thăng vượt được. Con cũng thấy những sự kiện tương tự trong đạo Phật, đạo Ấn, đạo Hồi và tất cả mọi nơi khác. Thậm chí con còn thấy những người tự nhận là vô thần trải qua một kinh nghiệm nhận biết thuần khiết xong cố cắt nghĩa từ một quan điểm khoa học nào đó rằng đấy chỉ là trò ảo thuật của bộ não, hay là một phản ứng hoá học hay điện từ hên xui may rủi.

Nhưng khi con sẵn sàng tra vấn nhận thức hiện thời của mình, sẵn sàng nhận ra là có nhiều cách nhìn một tình huống hay nhìn thế giới, sẵn sàng nhận ra là các chân sư thăng thiên có nhận biết thuần khiết, sẵn sàng kêu gọi các thày giúp đỡ, thì các thày chắc chắn sẽ giúp con phơi bày các điều ô uế nơi nhận thức. Và khi con sẵn sàng nhìn thẳng vào những ô uế này và thăng vượt chúng, sẵn sàng đi mút tiến trình mà chân sư đã mô tả là con đường tâm linh chân chính, thì con sẽ lần hồi đến được một điểm nơi con sẽ duy trì được sự tỉnh giác thuần khiết mà không bị lập tức rơi trở lại nhận thức vỏ ngoài.

Và điều này có nghĩa là bây giờ con có thể bắt đầu nhìn vào chính mình, cơ thể mình, tình cảnh riêng của mình và thậm chí cả thế giới, qua sự tỉnh giác thuần khiết. Con bắt đầu thấy có một cách khác để nhìn cuộc sống, khác hẳn cái nhìn của ngã vỏ ngoài, của nhân cách vỏ ngoài, của phin lọc nhận thức vỏ ngoài, của nhận thức ô nhiễm. Lúc đầu, đó sẽ là một tiến trình dường như phân liệt (schizophrenic) vì có lúc con có cái nhìn thăng vượt rồi chỉ lúc sau con lại trở về cái nhìn vỏ ngoài, khiến con nghi ngờ những gì con thấy. Cái này có thật không? Liệu thực tại của chân sư thăng thiên có khác hẳn những gì mình đã lớn lên và tin tưởng, những gì mình đã nhìn thấy từ bao năm, thậm chí cả những gì mình tin tưởng là chân lý của một tôn giáo hay lời dạy công truyền?

Con thấy đó, con yêu dấu, có nhiều người tự xem mình là học trò của chân sư thăng thiên nhưng trong suốt bao nhiêu thập niên đã chỉ học hỏi những giáo lý công truyền vỏ ngoài, họ không có khả năng hay mong muốn đi xa hơn để chiêm nghiệm nhận biết thuần khiết. Họ đã dùng giáo lý công truyền đó để tạo ra một hộp tư duy mới, một thế quân bình mới như Giê-su đã giải thích tường tận. Và bây giờ khi họ chiêm nghiệm nhận biết thuần khiết, họ phải đối diện với thực tế là cái nhìn của các chân sư thăng thiên khác xa với cái nhìn cố hữu của họ dựa trên một giáo lý công truyền của chính các chân sư.

Tuy nhiên họ chưa hề đi xa hơn giáo lý! Họ đã không vươn lên cao hơn tâm thức của họ, đã không chất vấn nhận thức của họ. Cho nên họ đã hình thành một nhận thức dựa trên giáo lý công truyền thay vì Tánh linh vượt trên mọi chữ nghĩa vỏ ngoài. Và do đó, bây giờ họ mới nhận ra là các chân sư không nhìn như họ đã học nhìn. Và họ phải đối mặt với thử thách – liệu họ sẽ chất vấn, không cứ là giáo lý công truyền, nhưng chất vấn nhận thức của họ về giáo lý công truyền? Liệu họ sẽ sẵn sàng từng bước đạt tới nhận biết thuần khiết hầu vượt xa hơn cái nhận thức về giáo lý công truyền mà họ đã học và xem là chân lý tuyệt đối không thể sai sót?

Đó là cách mà ngay cả giáo lý của chân sư cũng có thể trở thành một cái bẫy cho những học trò nào không sẵn lòng liên tục chất vấn nhận thức của mình. Vì con thấy đó, con có thể là thành viên của một tổ chức hay giáo lý công truyền mà không cần chất vấn nhận thức của mình – như con bắt buộc phải làm trước khi được gia nhập tăng đoàn của Phật, hay trước khi con được bước vào lớp nhập thất của Đại đoàn Chưởng giáo như các thày đã mô tả nhiều lần.

Làm thế nào người ta bị kẹt trong nhận thức

Nếu con không muốn tra vấn nhận thức thì hiển nhiên con tin rằng nhận thức của con hoàn toàn chính xác, hoàn toàn thực. Con đâu làm gì khác hơn được? Ta tin cậy hầu hết các con đều thấy được điều này. Nếu con không chất vấn nhận thức, con sẽ tin là nhận thức hiện thời của con về cuộc sống – hay về một tình huống cụ thể nào đó – là thực, trọn vẹn, chính xác. Ta tin cậy con phải thấy được là nếu con không chất vấn nhận thức thì con không thể vượt lên trên nhận thức đó. Mà nếu con không vượt lên trên nhận thức thì làm sao con nhận ra sự thật mà ta đã bày tỏ trong Kinh Pháp cú cách đây 2500 năm – rằng nhận thức xuất phát từ một thể của tâm sâu xa hơn, thể bản sắc, là cái nhìn của con nơi tầng bản sắc về chính con và cuộc sống?

Chính sự nhận biết sâu xa này nơi bản sắc đã nhào nặn cách con tiếp cận cuộc sống theo lý trí và cảm xúc. Tiếp cận theo lý trí và cảm xúc khiến con nhìn các tình huống một cách nào đó, và điều này khiến con có tâm trạng nào đó, chẳng hạn con cảm thấy mình bị kết án bất công, cảm thấy mình cần phải phê phán người khác, cần phải phản ứng giận dữ khi tình thế không đúng ý hay bất cứ tâm thái nào khác. Và khi con ở trong một tâm thái thấp như vậy, nếu con không chịu chất vấn nhận thức của mình thì trong tâm thái đó, nhận thức của con là cao nhất.

Và nếu nhận thức của con là cao nhất, con sẽ không thể vượt lên trên nó, con không thể vượt lên trên tâm thái thấp đó. Con không thể phơi bày cái trạng thái cao hơn kia để nhận ra chính nó đã làm ô nhiễm nhận thức con từ trong sâu, và nó đã khiến con nhìn cuộc đời với nhận thức ô nhiễm. Và nhận thức ô nhiễm này thì lại sản xuất tâm thái thấp kém nơi con bị kẹt. Thế là tâm thái thấp trở thành một cơ chế khép kín, một vòng phản ứng luẩn quẩn đóng chặt nơi con không ngừng phản ứng lại với cuộc đời.

Như ta đã nói ở phần đầu, con phản ứng lại những gì con phóng ra tấm gương vũ trụ. Con phản ứng lại những phản ứng của chính con do cái nhìn của con về cuộc đời tạo ra. Cho nên con bị kẹt trong một vòng xoắn ốc bất tận, phản ứng lại phản ứng của con lẫn phản ứng của người khác. Tất cả đều là phản ứng của nhau. Làm sao con bao giờ thoát ra khỏi cảnh này? Làm sao CON bao giờ thoát khỏi vòng xoáy phản ứng của CON?

Con sẽ chỉ được tự do khi nào con ngừng nhìn vào người khác hầu tìm cách thay đổi tâm thức họ, và nhìn nhận rằng chìa khóa cho tự do của CON là thay đổi tâm thức của CON. Và chìa khóa để thay đổi tâm thức của con là chất vấn nhận thức của con – là đi sâu vào tầng mức của nguyên nhân và nhìn xa hơn tầng mức của kết quả, đi vào tầng mức của hành động và nhìn vượt khỏi tầng mức của phản ứng. Bởi vì con sẽ không thể thay đổi phản ứng cho đến khi con thay đổi hành động. Có thể nói phản ứng là nhận thức ô nhiễm. Cái tâm trạng do nhận thức tạo ra ở các tầng cảm xúc và lý trí, đó là phản ứng.

Còn tầng mức của hành động nằm bên trên, ở thể bản sắc, là cách con nhìn cuộc đời và chính con, là quan hệ của con với cuộc sống, quan hệ của con với mọi người, quan hệ của con với Ánh sáng Mẫu-Vật, quan hệ của con với Thượng đế. Đây là nhận thức sâu sắc của con, là cái khiến con hành động bằng cách phóng ra một hình ảnh vào tấm gương vũ trụ nằm ở ngoài tầng cảm xúc, ở ngoài tầng tư tưởng – tức là ở ngoài tầm mức mà hầu hết mọi người có thể nhận biết. Và làm sao con có thể nhận biết những gì nằm ngoài cảm xúc và tư tưởng nếu con không bắt đầu chất vấn nhận thức của mình? Chuyện này giản dị không thể làm được, và đó là tại sao cái bẫy thật là trọn vẹn.

Những kẻ cáo buộc người anh em biết rõ là một khi chúng có thể ép buộc mọi người, ép buộc các dòng sống bước vào chu kỳ phản ứng bất tận, thì con người sẽ không bao giờ thoát ra được – trừ khi mình chịu chất vấn nhận thức của mình. Và bằng cách khiến cho mọi người luôn luôn bận rộn lo phản ứng lại cuộc đời, chúng sẽ tạo ra một vòng ốc xoắn hướng hạ vũ bão đến độ hầu hết mọi người không bao giờ có khả năng chất vấn nhận thức của mình, vì mình quá chắc chắn nhận thức này đúng đắn và không cần chất vấn. Vả lại ai ai cũng đều có cùng cái nhìn như thế.

Cho nên một khi phần lớn dân cư trên một hành tinh xem cuộc đời là sự phấn đấu không ngừng thì làm sao có ai đây sẽ bước lui lại để chất vấn cách nhận thức đó? Có ai sẽ đứng ra đặt câu hỏi: “Có thật cuộc đời là phấn đấu? Cuộc đời có bắt buộc phải phấn đấu không? Hay chỉ nhận thức của mình về phấn đấu đã tạo ra phấn đấu, bằng cách phóng hình ảnh cuộc đời phấn đấu ra tấm gương vũ trụ?”

Nhận biết thuần khiết là gì?

Hẳn con đã nghe truyện kể rằng xưa kia ta là con vua, lớn lên trong một khung cảnh bảo bọc nơi ta không có dịp nhận thức về bệnh và chết. Cho nên ta lớn lên với một nhận thức hạn hẹp, một chiều, có thể gọi là trong lành hơn nhận thức của hầu hết mọi người trên địa cầu. Con đã nghe là nhận thức của ta về một cụ già đã khiến cho ta ngộ ra là nhận thức cố hữu của mình thật là giới hạn. Và tuy rằng nhận thức đó thuần khiết hơn một người trung bình, cuối cùng thi nó không thuần khiết lắm vì giản dị ta đã bỏ qua không biết đến một số thực tế tạm thời của hành tinh. Đó không thật sự là nhận thức thuần khiết.

Nhận thức thật sự thuần khiết không đạt được bằng cách gạt bỏ những bất toàn, mà nhìn xuyên qua bất toàn, nhìn xa hơn bất toàn, và nhìn xem có gì vượt cả sự nhận thức – ngay cả nhận thức rằng cuộc đời là phấn đấu. Con cũng biết, sau khi nhận ra điều này, ta đã rút vào rừng, sống một cuộc đời khổ hạnh, hành hạ thân tâm mình, tìm cách kiềm chế tâm trí. Cho tới khi ta ngộ ra rằng ngay cả những thứ đó cũng sẽ không dẫn ta đến nhận thức thuần khiết.

Cái gì đã khiến ta vượt lên trên mức đó và chứng đạt quả vị Phật? Đó là vì ta đã tới điểm sẵn sàng chất vấn TỪNG khía cạnh của nhận thức – nhận thức mà ta đã có khi lớn lên, nhận thức về lối sống và triết lý khổ hạnh. Ta sẵn sàng đặt lại vấn đề tất cả, và khi ta bắt đầu đặt lại vấn đề, ta cũng bắt đầu nhận ra những mô thức vận hành khiến cho sự nhận biết ô nhiễm trở thành một chu kỳ bất tận không dẫn tới đâu. Đó là lúc ta bắt đầu chiêm nghiệm sự nhận biết thuần khiết mà trong đạo Phật gọi là Samadhi, hay Nirvana. Rồi nhờ thế ta lần hồi duy trì được nhận biết thuần khiết cho dù mình vẫn làm lụng công việc hàng ngày, và khi đó ta nhận thức thế gian từ tầng mức của nhận biết thuần khiết.

Như vậy ta nhìn thấy, ta bắt đầu nhìn thấy sự nhận biết ô nhiễm chính là nhận biết nhị nguyên khi có hai đối cực phải hiện diện. Trông ra thì tưởng chừng chúng hoàn toàn có thực, cái đối cực này không thể hiện hữu mà không có cái kia. Và do đó theo một nghĩa nào đó, cái này cũng thực như cái kia, tạo ra cảm tưởng là cái ác cũng thực như Thượng đế, rằng ác quỷ có quyền năng – có thường hằng, có thực thể. Và như vậy, ta bắt đầu nhìn vượt lên trên nhận thức nhị nguyên. Ta bắt đầu thấy được là có một cách tham gia vào cuộc sống – ngay cả cuộc sống năng động trong một thế gian tràn đầy bất toàn – mà vẫn không bị cuốn hút vào nhận thức nhị nguyên nơi người ta phải gắn nhãn cho mọi thứ theo một thang điểm nhị nguyên tương đối với hai đối cực – một cái là thiện, cái kia là ác; cái này là đúng, cái kia là sai; cái là thật, cái là không thật hoặc giả; cái là đẹp, cái là xấu; cái này dễ chịu, cái kia khó chịu.

Ta bắt đầu thấy được có gì vượt ngoài nhận thức nhị nguyên. Ta thấy nhận thức nhị nguyên là nhận thức ô nhiễm khi người ta nhận biết một cái gì nhưng không thật nhận biết vì sự nhận biết đã bị ô nhiễm. Và do đó, người ta không thể tách rời hành động nhận thức với hành động gắn nhãn, lượng định, phê phán. “Hãy đừng xét đoán để mình khỏi bị xét đoán, vì con xét đoán người ta thế nào thì con cũng bị xét đoán như thế”. Con có thấy chăng là con sẽ bị chính con xét đoán qua tâm thức của con? Và như vậy, cách con xét đoán người khác khi con đang đầu thai trên địa cầu cũng là cách con sẽ xét đoán chính mình khi con bước ra khỏi kiếp đầu thai và duyệt lại đời mình – là khi con nhìn vào chính mình qua cái tâm thức mà con đã nhìn người khác. 

Ta bắt đầu nhìn ra là vượt lên trên cách nhận thức này – cái nhận thức khiến mình như phải phê phán, gắn nhãn và lượng định tất cả – có sự nhận biết thuần khiết, một cách nhận thức mà qua đó ta không gạt bỏ những bất toàn trên địa cầu. Ta không gạt bỏ tính không thực của thế gian, nhưng ta không phán xét nó, không dán nhãn nó. Và như vậy, ta không phản ứng lại nó trong sự cảm xúc, như cảm thấy bị đe dọa, cảm thấy khó chịu hay ghê tởm, hay cảm thấy nó không được có mặt ở đó. Thực sự, ta nhìn vượt khỏi nó. Và vượt khỏi hình tướng bên ngoài, ta nhìn thấy Phật tánh, Ánh sáng Mẫu-Vật, sự THANH TỊNH, thực tại rằng tất cả được sinh tạo từ ánh sáng của Thượng đế. Và vì vậy nó có tiềm năng rũ bỏ hình ảnh ô uế, hình tướng ô uế, để được gia tốc vào sự thuần khiết – là thuần khiết của tâm thức Ki-tô, thuần khiết của tâm thức Phật, thuần khiết của tâm thức Thượng đế.

Và như vậy, ta đến được một điểm của tâm thức Phật nơi ta có thể duy trì Nirvana, duy trì Samadhi, cho dù ta đang tham gia vào mọi sinh hoạt đời sống. Con không cần phải ngồi đó thiền quán với mắt nhắm để trụ trong Samadhi hay Nirvana. Con luôn mang nó theo con, và con luôn nhìn tất cả xuyên qua tâm thức thuần khiết. Con vẫn thấy mọi bất toàn của thế gian, nhưng con không dán nhãn chúng, con không phê phán chúng, con không phản ứng lai chúng. Con chỉ nhìn thấy chúng, nhưng con thấy chúng là vô thường, con thấy chúng là không thực. Và con không phản ứng lại cái không thực, cái bất toàn. Thay vào đó, con HÀNH ĐỘNG, dựa trên sự chứng ngộ là mỗi bất toàn có thể được gia tốc vào thuần khiết, vào một trạng thái cao hơn. Khi đó, con có thể vào đời và hành động để nâng cao mọi sự sống, thay vì tìm cách kết án một sắc thái nào đó của sự sống rồi tìm cách triệt tiêu nó đi.

Sự lừa dối đằng sau mọi tấn tuồng

Con có thấy đây là sự lừa dối của kẻ cáo buộc người anh em hay không? Đây là sự lừa dối nền tảng đằng sau tất cả những tấn tuồng cuồng đại mà các thày cho tới nay đã phơi bày một cách rất cẩn trọng. Tấn tuồng cuồng đại khiến con tin rằng có cái gì đó xấu xa hay ác hại, và cái đó cần bị triệt tiêu. Nhưng khi con muốn triệt tiêu xấu ác thì con đã khởi đầu một phản ứng chống lại xấu ác – điều này sẽ không thể xóa bỏ khổ đau trên địa cầu mà sẽ chỉ gia tăng khổ đau. Và vì vậy, cách duy nhất để “xoá bỏ” “xấu ác” là thăng vượt tâm thức nhị nguyên hầu con có thể hành động trong tâm thức bất nhị, và do đó con tìm cách gia tốc các điều kiện mà người ta gọi là xấu ác, gia tốc nó vào thanh tịnh bằng cách nâng cao mọi sự sống thay vì lên án, chê trách, miệt thị, triệt tiêu.

Đây là sự khác biệt giữa những ai đã thăng thiên và những ai chưa thăng thiên. Là sự khác biệt giữa những ai đi theo con đường của tình thương và những ai còn bị mắc kẹt trong cái nhìn sợ hãi khi họ cảm thấy nhu cầu phải phê phán, bài bác, tiêu diệt.

Làm thế nào con thăng thiên? Bằng cách tự gia tốc và bước đến một điểm nơi con có thể nói với Giê-su: “Còn ta, khi ta thăng lên khỏi địa cầu, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta.” Thế Giê-su có nói, ta sẽ chỉ kéo những người tốt lên với ta và đuổi người xấu xuống địa ngục? Không, Giê-su không nói thế, mà thày nói: “Ta sẵn sàng gia tốc để nâng cao mọi sự sống”, và đó là tại sao thày đã có thể thăng thiên. Đó là vì thày đã tự gia tốc khỏi cái tâm thức cáo buộc đã chia cắt sự duy nhất bất khả phân chia của Thượng đế thành hai đối cực, rồi dán nhãn cho một đối cực là tốt – được vào Nước Trời – và đối cực kia là xấu – không được vào Nước Trời – và do đó phải bị tiêu diệt bởi những ai muốn vào Nước Trời. Bởi vì khi tiêu diệt xấu ác, con tưởng là con sẽ đủ tư cách để vào Nước Trời. Đó chính là sự lừa dối của các tấn tuồng cuồng đại. Có quá nhiều người đã từng tin vào, và vẫn tin vào, sự dối gạt đó. Họ vẫn tin là họ có thể tìm đường để được chấp nhận vào Nước Trời bằng cách khăng khăng giữ lấy tâm thức nhị nguyên – nghĩa là họ từ chối khoác vào cái áo cưới nơi họ sẽ hoàn toàn không bạo động, không nhị nguyên, không phê phán, không lên án, không bài bác, mà chỉ cố gia tốc mọi sự sống vào thanh tịnh.

Con có thấy chăng là ta không yêu cầu con trở nên đui mù? Ta không yêu cầu con gạt bỏ những bất toàn đầy rẫy trong thế gian, nhưng ta yêu cầu con đừng khiến chúng trở thành trường tồn trong tâm con. Bởi vì khi con phản ứng lại chúng thì con làm gì? Phải, nếu con biết cái gì đó là không thực và con là thực, tại sao con lại có nhu cầu phản ứng hay chống đối lại? Tại sao con có nhu cầu phản ứng lại một cái gì không thực? Cho nên con không phản ứng vì thấy mình bị đe dọa, hay mình tức giận, sợ hãi hay bất cứ một cảm xúc tiêu cực nào khác. Con chỉ đơn giản nhìn nó, và con hành động – bằng hành động không dựa trên hình dạng hay hình tướng bề ngoài, mà dựa trên nguồn sáng tạo nội tâm tự phát từ cái ta cao hơn của con, từ Hiện diện TA LÀ của con, từ tất cả mọi tầng của các sinh thể tâm linh ở ngay trên con nối dài cho tới Đấng Sáng tạo.

Thay vì phản ứng, con hành động trong một hành động được tưới bởi nguồn suối sáng tạo đó. Và vì con không phản ứng lại hình tướng, con không ban cho nó sự trường tồn, con không ban cho nó thực chất. Và như vậy, hành động của con không nhắm tới triệt hạ và hủy diệt, mà chỉ nhắm tới gia tốc vào sự thuần khiết mà con thấy vượt khỏi hình tướng. Đây là nhận thức thuần khiết khi con nhìn cái gì đó và thấy đó là một biểu hiện không thực, và con không bị lôi cuốn vào phản ứng muốn gắn nhãn cho nó là xấu, dở hay ác – như người đời thường làm. 

Con yêu dấu, các thày đã cho con nhiều lời dạy để giúp con vươn lên khỏi tâm thức của kẻ cáo buộc, tâm thức của những tấn tuồng cuồng đại. Đúng một năm trước đây, các thày đưa ra khái niệm những tấn tuồng đời sống và chỉ ra cho con sự cần thiết phải thăng vượt chúng nếu con muốn bước lên cao hơn, tức là nếu con quả thật mong muốn trở thành một sức mạnh nhằm gia tốc địa cầu vào xoắn ốc thăng thiên vào năm 2012 và xa hơn nữa. Nếu con thực sự muốn hình thành tăng đoàn của Phật, con cần phải thăng vượt các tấn tuồng của con, như ta và các chân sư khác đã chỉ ra rõ ràng, và cả Saint Germain nữa trong bài giảng quan trọng của thày. Đối với các con tha thiết muốn vượt qua tấn tuồng của mình, rất có thể con sẽ có lý do để học tập lại bài đó một lần nữa.

Bởi vì các thày nhận thấy trong số các con có những người không sẵn sàng khắc phục tấn tuồng của mình và thậm chí đã bác bỏ toàn bộ khái niệm đó, bác bỏ nhu cầu phải vượt qua tấn tuồng, hay từ chối nhìn nhận là mình có những tấn tuồng cần vượt qua. Tất nhiên theo Luật Tự quyết, điều này các thày hoàn toàn chấp nhận được. Nhưng các thày chỉ muốn nói: Nếu thế thì các thày không thể nhận con vào tăng đoàn mà các thày đang thiết lập. Khi cách đây 2500 năm học trò xin gia nhập tăng đoàn của ta, họ phải khảo thí, tức là có một tiến trình lựa lọc, phân loại giữa những người sẵn sàng chất vấn nhận thức và tấn tuồng của mình, với những người không sẵn sàng. Những người không sẵn sàng phải đứng lại ở ngoài. Họ đã phản ứng bằng nhiều cách, một số cảm thấy mình bị hất hủi, một số khác thì công kích Phật cùng các đệ tử của Phật bằng đủ mọi cách mà kinh sách Phật giáo không ghi lại cho nên người đời sau không biết rõ.

Nhưng ta có thể cam đoan với con yêu dấu, tất cả mọi việc ta làm hay những lời ta nói vào thời đó đã không được các Bà la môn trong đạo Ấn chấp nhận hay chấp thuận. Họ cảm thấy bị đe dọa bởi ta, hay bởi những người trong số đệ tử của họ không chịu chất vấn nhận thức của mình. Đã có rất nhiều cãi vã, công kích, buộc tội đối với ta, đối với sinh mạng và đệ tử của ta. Có rất nhiều chuyện xảy ra, như con thấy với Giê-su cũng từng bị công kích, lên án. Bởi vì như ta đã nói, cái tâm thức này đã có từ ngàn xưa. Con đừng nghĩ là ta đã tránh được nó, bởi vì nó có đó. Nhưng tất nhiên ta không bận tâm vì nó, ta không dính mắc vào nó, cho nên ta không phản ứng lại nó. Ta chỉ giản dị đi giảng dạy để cố giúp những ai chịu thăng vượt tầng mức tâm thức đó, và ta đặt trọng tâm giúp đỡ những ai ta có thể giúp đỡ bởi vì họ sẵn sàng tự giúp họ. Họ sẵn sàng nhìn vào chính họ, đặt vấn đề nhận thức của họ thay vì coi đó là tối thượng, vượt ngoài mọi chất vấn.

Hình tư tưởng tia chớp từ Đông sang Tây

Và bây giờ, như thông lệ, ta sẽ kết thúc bài giảng hôm nay bằng một hình tư tưởng có thể giúp con có một vai trò đắc lực hầu đưa nhân loại qua cuộc điểm đạo của Ngôi Con, Tâm thức Ki-tô – là tâm thức phân biện giữa chân và bất chân, và tất nhiên điều này đòi hỏi con có sự nhận biết thuần khiết không dán nhãn và không phê phán mà ta vừa trình bày ban nãy.

Ta mong muốn con hình dung Ki-tô đang bước vào thế gian này như lời của Giê-su – tựa như tia chớp từ Đông sang Tây. Và tia chớp phóng ra thế giới như một thanh gươm hai lưỡi chém xuyên qua những tấm màn ảo ảnh, tấm màn của Maya. Những tấm màn này có thể xem là những tấm rèm mà các thày giả và sa nhân đã treo lên để chúng ẩn nấp đằng sau. Có những tấm rèm dày đặc đến độ không thể nhìn xuyên qua, và cũng có những tấm khác đã trở nên phần nào trong suốt khiến con có thể nhìn thấy những cái bóng đang di chuyển đằng sau.

Con hãy hình dung Thanh gươm của Ki-tô, Lời Hằng sống, sẽ phóng ra và chặt đứt những sợi dây dùng để treo rèm, và những tấm rèm rơi xuống, để lộ những gì đằng sau. Phơi bày tầng lớp thượng tôn quyền lực, phơi bày những kẻ đang thao túng bằng đủ mọi cách, vì chúng đã có thể giấu mặt khỏi loài người thì nay chúng sẽ bị phơi trần. Tấm rèm sẽ rơi xuống và mọi người sẽ thức tỉnh và nói, “Nhìn kìa, hoàng đế không mặc áo. Bây giờ chúng ta thấy rõ y rồi – y không còn trùm trong tấm màn ảo ảnh của y được nữa, cái hỏa mù của Maya, của gian trá và lừa gạt.”

Con hãy giữ hình tư tưởng này, con yêu dấu! Con hãy nhớ đến nó mỗi khi con gặp một tình huống mà con biết có sự lừa dối. Và con hãy gọi lên một lời gọi ngắn gọn do con nghĩ ra, gửi về Ki-tô và Phật. Con hãy cầu thỉnh Thanh gươm của Ki-tô tách chân ra khỏi bất chân, cắt những tấm màn để chúng rơi xuống, và mọi người thấy phơi bày ra sự thực và sự không thực – và như vậy, cái không thực sẽ đứng đó trần truồng cho cả thế giới được thấy. Ta khuyên con hãy hình dung như vậy.

Và với lòng biết ơn đối với các con đã kiên trì giữ vững sự quân bình cho lời giảng này, ta nói: “Tốt lắm, những con người phụng sự tốt lành và trung thực, các con đã trung thực trong một số công việc, thì ta sẽ nỗ lực cho con cai quản nhiều điều trong những năm sắp tới.” Và như vậy, hãy được niêm phong trong nhận thức thuần khiết vô biên bất nhị của Phật. Hãy gọi ta để ta ban cho con nhận thức thuần khiết của Tâm Phật, là tâm biết tất cả đều là Phật tánh và do đó thấy được sự khác biệt giữa sự thực thuần khiết của Phật tánh và sự không thực của các ảo tưởng Maya luôn đến cám dỗ con – cám dỗ con làm điều gì? Cám dỗ con phản ứng lại cái không thực bằng đủ cách! Bởi vì bất kỳ phản ứng nào cũng khiến con bị kẹt trong vòng xoắn ốc của không thực. Cho nên con hãy là Phật – nhất định không phản ứng, nhất định bước vào con đường tâm linh hầu ta có thể dạy con cách HÀNH ĐỘNG, HÀNH ĐỘNG, HÀNH ĐỘNG từ nhận thức thuần khiết.

Vậy hãy được niêm phong trong an bình của ta, trong sự an bình không hề thụ động, và không là cái an bình mà nhiều người cho là an bình, mà là an bình năng động, vô hạn, không để cho sự thể đứng yên một chỗ, không để cho con người bị kẹt cứng trong cái xoắn ốc nơi họ nghĩ cuộc đời là đau khổ. Và đó là lý do ta đã bước ra khỏi Nirvana – để giảng dạy cho loài người là có một chọn lựa khác hơn là sự khổ đau. Và ta khuyên CON hãy làm tương tự. Hãy dạy dỗ họ, hãy chứng tỏ cho họ là có một chọn lựa khác hơn là khổ đau. Các con đều có khả năng đạt được thanh thản trong tâm, khả năng nhìn cuộc sống với một niềm vui vô biên, bất tận! Hãy được niêm phong trong niềm vui của Phật. Vì khi con thấy được Phật tánh, làm sao con không vui được? Cho nên TA LÀ Niềm vui Bất tận.

Ghi chú: Các bài thỉnh sau đây đã được soạn thảo đặc biệt để được sử dụng cùng với bài truyền giảng trên:
Thỉnh cầu sự phân biện giữa phản ứng và hành động
Thỉnh cầu cách ứng xử đối với tâm thức cáo buộc
Thỉnh cầu bước theo chân Phật để nhận biết thuần khiết

Thành hình tăng đoàn chân chính của Phật

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 29/6/2008.

Phật, pháp, tăng – đây là ba cột trụ của tôn giáo – hay cái người ta gọi là tôn giáo – đạo Phật. Thế nhưng con yêu dấu, ta Gautama đã không đến đây để khởi xướng một tôn giáo. Ta đến đây để chứng tỏ con đường phổ quát dẫn đến sự hợp nhất với Tánh linh – sự hợp nhất giữa Tánh linh và vật chất, cái Một mà con đạt được khi con hoàn toàn tỉnh thức.

Câu hỏi không phải chỉ là “Là hay không là?” mà “Con có muốn tỉnh thức hay con muốn tiếp tục không tỉnh thức?” tức trạng thái mà qua đó – trong tâm trạng không tỉnh thức của con – có một khoảng cách giữa con và thực tại, là thực tại mà con thấy được khi con tỉnh thức. Và trong khoảng cách đó tự ngã có thể lẩn trốn, và con cũng có thể lẩn trốn khỏi các động lượng cũ của con mà con chưa xem xét, như thày MORE vừa giải thích thật hùng hồn.

Vậy thì thực tại của Phật là gì? Cái biết tỉnh thức về Phật là gì? Đó là cái Bản thể – do nó tỉnh thức – thấy được tính duy nhất của mọi sự sống, thấy được thực tại của mọi sự sống khởi lên từ cùng một nguồn cội và cũng sẽ trở về nguồn cội đó khi nó thăng thiên và nhập về cõi tâm linh. Cho nên Phật là sinh thể cầm giữ sự quân bình cho phép những ai chưa tỉnh thức được tiếp tục sinh tồn trong trạng thái không tỉnh thức của họ, thay vì bị tiêu hủy bởi vòng xoáy ốc thăng thiên ngày càng mãnh liệt, là vòng xoáy mà toàn bộ vũ trụ vật chất đã bước vào từ điểm khởi thủy.

Pháp là gì? Pháp là sự nâng cao tất cả mọi chúng sinh, mọi sinh thể tự nhận biết, vào trạng thái tỉnh thức hầu chính họ cũng trở thành Phật. Vậy tăng là gì, cộng đồng là gì? Đó là tập hợp của những ai đã cam kết bước đi trên con đường dẫn đến tỉnh thức toàn diện của Phật, đã quyết tâm không để cho bất cứ gì trong thế giới vật chất ngăn mình chứng quả vị Phật trọn vẹn, cho dù mình vẫn phải đặt trọng tâm trong một cơ thể vật lý. Và như thế, họ có thể biểu hiện ở dưới này những gì họ là ở bên Trên, họ phụng sự để làm cánh cửa mở giữa vật chất và Tánh linh, phụng sự để làm điểm trụ neo cho Tánh linh đưa Ánh sáng chảy xuyên xuống, thắp sáng mọi ngõ ngách tối tăm của địa cầu cho đến khi không còn phàm linh bất toàn nào, không còn ảo tưởng nào của tự ngã có thể trốn tránh khỏi Ánh sáng của Phật chiếu xuyên thấu qua tất cả.

Thế nào là tăng đoàn của Phật?

Khi ta còn ngồi trên trái đất trong một thân xác vật lý, ta đã đưa ra một giáo lý thích ứng với tâm thức con người thời đó, thích ứng với một yếu tố nào đó của tâm thức đại chúng. Cho nên ta biết rõ là không có cách nào diễn tả được trọn vẹn đường tu là thế nào và cộng đồng tu hành phải ra sao. Ta đã phải đưa ra một giáo lý mà con người có khả năng nắm bắt, và như vậy con người cũng đã biến giáo lý của ta thành thêm một tôn giáo khác có tên là Phật giáo.

Và người ta đã dựng lên hình ảnh rằng những ai thuộc về tôn giáo đạo Phật tạo thành một đạo tràng đứng tách biệt khỏi những ai không thuộc về tôn giáo đạo Phật. Và như vậy họ dựng lên một hình ảnh cũng chẳng khác gì tín đồ của các tôn giáo khác đã dựng lên, một hình ảnh phân rẽ, coi tôn giáo mình là chân chính duy nhất. Tuy nhiên thời gian đã trôi qua. Ki-tô đã giáng thế, nhân loại đã vươn lên và giờ đây chúng ta có được một đội ngũ học trò sẵn sàng hiểu Phật-pháp-tăng một cách trọn vẹn.

Nhiều người tâm linh đã tiến gần hơn đến việc thể hiện một cộng đồng như thế. Cho nên con hãy cho phép ta nói lên một số ý nghĩ về tăng đoàn của Phật. Lẽ tự nhiên, khi đến với nhau trong một cộng đồng những người cùng chí hướng – những người có thể tự do nói chuyện với nhau và hỗ trợ cho nhau – thì hẳn điều này sẽ đem lại một cảm giác ấm cúng, an toàn nào đó. Các thày, các chân sư thăng thiên, không nói là các con không thể thành lập một cộng đồng như vậy, một cộng đồng nơi ai nấy đến với nhau, tự do chia sẻ quan điểm với nhau mà biết rằng mình sẽ không bị lên án hay chỉ trích, rằng mình sẽ không phải đối phó với những trò chơi tự ngã thường khiến cho người ta miệt thị lẫn nhau ngay cả khi có ý kiến hay đẹp, hoặc người ta hạ thấp ý kiến của nhau chỉ vì chính mình đã không nghĩ ra được. Cho nên đương nhiên, ta yêu cầu con chấp nhận là con có thể – và con nên – thành lập một cộng đồng như vậy. Nhưng ta yêu cầu con suy ngẫm sự khác biệt vi tế là con không nên biến nó thành một cộng đồng gạt bỏ và đứng tách biệt khỏi cộng đồng rộng lớn của nhân loại nói chung.

Bởi vì Phật là ai chứ? Phật là người biết rằng tất cả mọi thứ đều là Phật tánh, cho nên Phật ở trong mọi người lẫn mọi vật. Vậy thì làm sao con có thể là môn đệ của Phật nếu con đứng riêng ra và bảo rằng Phật chỉ có thể ở trong một số người và không ở trong một số người khác? Các thày mong con thấy rằng cộng đồng mà con thành lập không đứng cô lập khỏi cộng đồng rộng lớn của mọi chúng sinh, mà là một hạt nhân tương tác với cộng đồng rộng lớn, sẵn sàng đi vào xã hội để “rải truyền thông điệp từ mọi mái nhà, sẵn sàng để cho Ánh sáng của mình tỏa rạng hầu ai nấy thấy được công việc tốt lành và biết được chỉ có Cha trong nội tâm mới có khả năng thực hiện những công việc đó”. Và như vậy, họ dần dà nhận ra Thượng đế bên trong họ, nhận ra Phật bên trong họ.

Bởi vì con yêu dấu, cũng tương tự như thế, Phật không phải là một kẻ háo danh muốn được tâng lên cao hơn mọi người. Khi Phật được đánh thức trong lòng một ai đó, người đó sẽ chỉ có một mong muốn và một trọng tâm độc nhất, đó là đánh thức đức Phật trong mọi người khác hầu đức Phật tỉnh giấc trong lòng mọi người. Bởi vì chỉ khi đó thì Phật mới viên mãn.

Một cộng đồng chân thực

Cho nên tăng đoàn, cộng đồng, mà các thày mong muốn thị hiện, sẽ mang đức tính hàng đầu là sự chân thực – rõ ràng và giản dị như vậy. Chân thực với chính bản thân, chân thực với người khác, chân thực với cả những người chưa nhập tăng đoàn của mình vì họ vẫn còn do dự. Để trọn vẹn, tính chân thực không được mang bất kỳ điều kiện nào cho phép tự ngã lẩn trốn. Bởi vì sự chân thực không đặt điều kiện gì cả – chỉ có tự ngã mới đặt điều kiện. Và tự ngã đặt ra những điều kiện đó chính là vì nó có thể lẩn trốn. Đây là thế lực mà con cần khắc phục.

Đâu là chìa khóa của chân thực, con yêu dấu? Đó là khi con ngộ ra là nếu Phật ở mọi nơi, nếu Thượng đế ở mọi nơi, thì không có gì có thể giấu khỏi Thượng đế. Vậy có ích chi mà tìm cách gian dối với giấu giếm? Con đang cố lừa ai đây – chắc chắn là không lừa được Thượng đế, chắc chắn không lừa được Phật, chắc chắn không lừa được các chân sư thăng thiên, chắc chắn không lừa được chính Hiện diện TA LÀ của con. Có thể con sẽ lừa được người khác, nhưng trên hết con đang đánh lừa chính con. Và nếu con muốn chơi trò đó thì đơn giản ta sẽ chỉ yêu cầu con gia nhập rất nhiều tổ chức khác ở ngoài kia vẫn còn bị kẹt trong trò chơi đó, vẫn cho phép – hơn vậy nữa, vẫn khuyến khích – thành viên của họ chơi trò đó.

Con hãy đi ra đó và chơi trò này cho đến khi con chán ngán, rồi khi đó con hãy trở lại với tăng đoàn của Phật. Và như vậy, chúng ta thấy được các mảnh nhỏ đang được ghép lại với nhau, tức là trong thời buổi then chốt này, nhiều người tâm linh có thể đến với nhau trong cõi vật lý và cùng bước lên cao hơn để thể hiện một tấm gương chân chính – không phải là tấm gương duy nhất – nhưng một tấm gương chân chính cho tăng đoàn của Phật trong Thời đại Bảo bình dựa trên nhận thức của nhân loại thời nay.

Phật và khía cạnh Mẹ

Bây giờ ta sẽ trình bày tiếp một số ý nghĩ về quan hệ giữa Phật và Mẹ. Như con có thể nhận xét trong bài thỉnh con vừa đọc* có câu nói rằng: “Không gian của Phật, thời gian của Mẹ, đây là bí ẩn quá tuyệt vời.” Vũ trụ vật chất được khoa học xem là một khoảng không gian trong đó con có thể tìm thấy các hành tinh, các thái dương hệ và các dải thiên hà. Không gian này chính là Phật – nó được tạo ra từ Phật tánh. Không gian là một khoảng không gian được đặt riêng ra khỏi cái Tất Cả của Thượng đế hầu cho phép các hình tướng cách biệt được thị hiện. Trong không gian này, con tìm thấy Ánh sáng Mẫu-Vật đang khoác vào hình tướng.

Với tư cách một sinh thể chưa thăng thiên, con có những khả năng đồng sáng tạo, nhưng tâm con không có quyền năng ảnh hưởng đến không gian, bởi vì con sẽ không thể ảnh hưởng đến không gian cho tới khi con đạt được tâm thức của Phật – và khi đó, con sẽ thăng vượt không gian. Cho nên việc thể hiện khả năng đồng sáng tạo của con bị giới hạn trong khuôn khổ không gian cũng như những cái gọi là định luật tự nhiên chi phối không gian, mà hầu hết chưa được khoa học khám phá hay hiểu được hoàn toàn.

Là một sinh thể chưa thăng thiên, khả năng đồng sáng tạo của con chỉ cho phép con làm việc trên Ánh sáng Mẫu-Vật khi con phóng chiếu hình tướng lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi Phật cho phép Bản thể của mình trở thành không gian thì Phật cũng cầm giữ một viễn quan về cách trải bày của không gian đó cùng tất cả mọi thứ trong không gian – Ánh sáng Mẫu-Vật lẫn năng lượng ở trong đó. Không gian được trù định để vươn lên cao hơn theo vòng xoáy hướng thượng mà bào huynh Maitreya của ta đã mô tả trong sách của thày. Rồi sau đó khía cạnh Mẹ của Thượng đế cho phép Ánh sáng của Mẹ trở thành một phương tiện biểu đạt cho các sinh thể tự nhận biết sử dụng quyền tự quyết của họ, và họ sẽ gặt hái những điều kiện vật lý mà chính hình tư tưởng của họ trình chiếu ra. Điều này có nghĩa là trong không gian toàn bộ đó của Phật, rất có thể sẽ có một số khu vực – chẳng hạn như khu vực tập trung quanh hành tinh địa cầu – không theo kịp vòng xoáy hướng thượng của toàn bộ không gian và bị tụt hậu.

Nguồn gốc của thời gian

Con yêu dấu, con có thấy là toàn bộ cõi vật chất đang – và luôn luôn đã từng như vậy – ở trong một vòng xoáy hướng thượng không thể nào ngừng lại? Nhưng do có quyền tự quyết, các cư dân của một hành tinh có thể khiến cho tâm thức mình dày đặc hơn, qua đó họ cũng khiến cho hành tinh của họ dày đặc hơn đến độ nó bị tụt hậu so với vòng xoáy đi lên. Con có thể mô tả sự thể này giống như không gian bị kéo căng ra, hay con có thể hình dung cái gọi là tấm thảm không-thời-gian (space-time continuum) bị kéo giãn ra. Nhưng điều khoa học chưa hiểu được là thời gian không phải là một hàm số tùy thuộc vào không gian. Thời gian là một hàm số tùy thuộc vào quyền tự quyết, bởi vì khi một hành tinh bị tụt hậu so với vị trí nơi đúng lý nó phải đứng trong không gian, thì khoảng cách giữa niệm tinh khôi này với hiện trạng thực tế của nó chính là cái tạo ra thời gian.

Và có thể nói, đó là một chiếc đồng hồ vũ trụ đang bắt đầu tích tắc. Bởi vì như thày Maitreya đã giải thích, một khi con có quyền tự quyết thì quyền tự quyết này không thể không có giới hạn. Con không thể lấy ra một mảnh của Bản thể Đấng Sáng tạo và mãi mãi giữ chặt nó trong một hình tướng bất toàn, cũng như con không thể mãi mãi giữ chặt các sinh thể tự nhận biết khác trong một hình thể bất toàn.

Và như vậy, kim đồng hồ của thời gian bắt đầu quay, và nó sẽ đếm cho tới thời điểm mà những dòng sống đã đem hành tinh vào vòng xoáy hướng hạ bị lỡ mất cơ hội của họ. Và họ bắt buộc bị loại bỏ ra khỏi hành tinh đó để cho phép các cư dân còn lại – mặc dù có thể đã đi theo những kẻ lãnh đạo đui mù – nhận được cơ hội để gỡ mình ra khỏi lực kéo xuống. Các cư dân này được cơ hội chọn con đường đi ngược trở lên để hồi phục hành tinh của họ và – nếu có thể nói như vậy – gia tốc thời gian để hành tinh của họ bắt kịp lại chỗ đứng xứng đáng trong điệu múa vũ trụ, là khi thời gian như con đang trải nghiệm ngừng hiện hữu cho hành tinh đó. Bởi vì thực sự, con yêu dấu, “Thời gian không hề hiện hữu!”

Tha thứ toàn diện là quên tất cả

Bây giờ để tiếp nối với bài giảng của chân sư MORE về ký ức, tức là ký ức cá nhân của con đối chiếu với ký ức vũ trụ trong hồ sơ ở cõi Akasha. Một lần nữa, như thày MORE giải thích, ký ức cá nhân của con đứng riêng biệt, nó được phép không bước theo kịp hồ sơ trên Akasha, là bộ nhớ của vũ trụ nhìn thấy thực tại và ghi nhớ mọi chuyện y như là. Và do đó, khi con bước trên con đường quả vị Ki-tô buông bỏ toàn bộ ngã tách biệt, thì chính con cũng sẽ bắt kịp lại chỗ đứng của con trong không gian nơi đáng lý con phải đứng nếu con đã ở lại với Dòng sông sự Sống và đã xuôi chảy với nó, thay vì bước vào khu rừng rậm của tách biệt rồi bị bỏ lại đằng sau.

Những bóng ma – mà một vài chân sư đã có nói tới – là những ký ức mà con giữ trong những bất toàn của con khi con nhìn xuyên qua phin lọc của tâm thức nhị nguyên thay vì nhìn xuyên qua thực tại của tâm thức Thượng đế vốn tha thứ tất cả. Đó là những bóng ma con phải từ bỏ. Và như vậy, tha thứ toàn diện cũng có nghĩa là buông bỏ ngay cả ký ức về những gì mình coi là lỗi lầm. Đơn giản, con để cho nó bị thiêu hủy đi hầu con không còn bám vào nó nữa, vì nếu con còn bám vào nó thì nó sẽ giữ chặt con lại trong một méo mó thời gian (time warp) – nếu có thể gọi như vậy – vì con tự giam con lại trong thời gian, tức là cái khoảng cách giữa điểm mà đáng lý con phải đứng và điểm mà con đã chọn đứng (hay không chọn đứng).

Con hãy lưu ý trong Kinh thánh có ghi câu này: “Ta sẽ không còn nhớ tội lỗi của họ nữa.” Phải, Thượng đế không bao giờ ghi nhớ tội lỗi của con, vì Thượng đế chỉ nhớ được thực tại – thực tại rằng vũ trụ vật chất là một bãi chơi cát – bởi vì con đã được ban cho quyền tự do thử nghiệm. Và như vậy, một khi một chọn lựa gây giới hạn được thay thế bởi một chọn lựa cao hơn thì chọn lựa trước không còn hiện hữu nữa. Tinh túy của quyền tự quyết là con chọn một quyết định nào đó, và khi con chọn như vậy, con không thể cùng một lúc chọn một quyết định nào khác. Cho nên con không thể cùng một lúc vừa tỉnh thức vừa không tỉnh thức. Và một khi con buông bỏ ảo tưởng cũ – tức chọn lựa cũ chấp nhận ảo tưởng nhị nguyên – thì con được giải thoát khỏi ảo tưởng đó.

Nó đã ra đi, nó không còn đó nữa, trừ khi con chọn để cho nó ở lại trong ký ức của con, và như vậy con sẽ tái tạo nó hoài hoài, cho đến khi cuối cùng con từ bỏ bóng ma và để cho cái ngã sinh diệt đó chết đi. Vì thế cho nên ngay cả Giê-su khi lên thập tự giá vẫn còn mang một số bóng ma cá nhân mà thày phải buông bỏ, y như bất cứ ai khác đã từng thăng thiên.

Một chiến thắng cho tất cả chúng ta

Và như vậy, thật là một ân huệ và niềm vui rất lớn cho ta được niêm buổi đại hội này, mà ta phải nói đã là một chiến thắng toàn diện cho các chân sư thăng thiên – cũng như cho con là thành phần cuả chân sư thăng thiên mặc dù con chưa thăng thiên, ít ra là trong một vài lãnh vực nhận thức của con. Bởi vì thật sự, con là nhiều hơn rất nhiều những gì con có thể mường tượng, và do đó chỉ có một phần nhỏ của toàn bộ Bản thể của con còn bị kẹt lại ở đây trong vũng lầy này. 

Và khi con hòa nhập vào cái toàn bộ đó, con sẽ có được một tầm nhìn vũ trụ, qua đó con sẽ thấy tất cả những trò chơi của tự ngã thật không đáng kể đến chừng nào. Và đó là khi con có thể để cho các bóng ma chết đi, vì con biết mình là nhiều hơn như vậy, và do đó con sẽ không chết cùng với chúng.

Các con đừng buồn vì đại hội này kết thúc, vì mọi chuyện đều có lúc phải kết thúc. Thay vào đó, các con hãy nhìn xa hơn, hãy nhìn ra là mình đã thiết lập một tăng đoàn vượt thời gian. Bởi vì, con yêu dấu, đây là tăng đoàn của Phật hiện hữu trong không gian – mà không gian thì vượt khỏi thời gian. Cho nên con hãy trụ tâm vào đó! Trụ tâm vào tăng đoàn và vượt thăng cả những khoảng cách địa dư. Giữ lấy mối liên lạc qua những phương tiện công nghệ truyền thông mà con có, rồi thấy được đại hội này tuy đã niêm lại nhưng vẫn chưa chấm dứt, mà lại đánh dấu sự khởi đầu của một chu kỳ mới, một chu kỳ khác hơn, ngay cả một chu kỳ cao hơn.

Bây giờ các con hãy đi ra ngoài và thể hiện mình là Omega, và khi con nhân lên những ta-lăng con đã nhận được, chắc chắn các thày sẽ thu hút con – trong làn hơi thở vào – để con tham dự một đại hội nữa, khi con sẽ có thể bước lên cao hơn nữa do con đã đi ra ngoài, con yêu dấu. Bởi vì nếu con đã không đi ra ngoài để chia sẻ với người khác và nỗ lực nâng cao cái Tất Cả, thì các thày đã không thể ban cho con những lời dạy cao hơn. Và con sẽ đứng lại ở đó mà dẫm chân tại chỗ.

Cho nên con có thấy chăng là cả hai đều cần thiết, làn hơi thở vào lẫn làn hơi thở ra, tạo thành điệu múa vũ trụ? Cho nên con hãy đi ra ngoài, vượt ra khỏi cái tư duy quá phổ biến nơi nhiều người tâm linh là muốn rút lui khỏi nhịp sống hối hả của thế gian, tưởng rằng khi con tìm được sự an bình, thanh vắng và tĩnh lặng nơi hang núi thì con cũng sẽ tìm được Phật. Thay vào đó, con hãy học lời dạy của những người đã phụng sự cuộc sống dưới mọi hình thức, và khi họ làm vậy thì bỗng nhiên họ gặp được Phật. Còn có cả vị kia liếm giòi trên vết thương người khác cũng đã chứng được giác ngộ và sự hợp nhất với Phật.

Bởi vì khi con nhìn thấy Phật trong mọi sự sống thì con mới thấy được ta, con yêu dấu. Vì TA LÀ TẤT CẢ và ta ở trong tất cả. Cho nên chừng nào con còn mang tư duy là con chỉ tìm thấy ta ở một số nơi mà không tìm thấy ở nơi khác, làm sao con có thể phát hiện được ta đây? Nơi duy nhất con phát hiện được ta là trong chính con. Cho nên nếu con nghĩ con phải ở đâu khác để khám phá ta, thì con chẳng thấy hay sao là con không thể thấy ta – cho dù ta luôn luôn ở đó, mỉm cười nụ cười của Phật, kiên nhẫn chờ đợi con đến tìm ta ở trong chính con. Bởi vì TA LÀ Phật. Ta là không gian. Ta vượt thời gian. Cho nên ta có tất cả thời gian trong thế gian này, nhưng thế gian thì không có thời gian vô hạn.

Vậy con hãy tỉnh dậy và quyết định là con sẽ với tới cái vượt khỏi thời gian, và con nhìn ra là có một thời điểm khi thời điểm thích hợp là NGAY BÂY GIỜ – không phải ngày mai, không phải trong một giây nữa, mà NGAY BÂY GIỜ. Bởi vì đó là lúc con bước vào HIỆN TẠI Bất Tận và thăng vượt ảo tưởng của không gian, ảo tưởng cho rằng thế giới vật chất có thể ngăn cách con khỏi tính hợp nhất của tăng đoàn. Đó là lúc con biểu hiện tăng đoàn ngay nơi con đang đứng thay vì con tìm nó ở đâu khác.

TA LÀ ở nơi con là. TA LÀ tỉnh thức nơi con tỉnh thức. Liệu con sẽ tỉnh thức nơi TA LÀ? Nếu thế thì con hãy LÀ, và con được niêm trong sự an bình bất tận của ta. Hãy vui mừng trong an bình bất tận của ta. Và khám phá ra là những gì có vẻ là bình an từ góc nhìn của con người thật ra không phải là an bình. An bình là cực lạc của Phật, nơi con vui mừng quá đỗi vì con biết bọn quỷ của Mara không có chút quyền năng nào trên con. Và vì thế con có thể bật cười khi chúng bày trò kéo con vào dính mắc. Và đó là lúc chúng chạy trốn khỏi con, và TA LÀ tất cả những gì còn lại.

* Bài thỉnh INV10: Thỉnh cầu HIỆN TẠI Bất tận.

Hoàng đế bóng tối không mặc quần áo

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama, ngày 31/12/2007 qua trung gian Kim Michaels.

Phật TA LÀ. Ta đến địa cầu này để đem lại hòa bình, nhưng không phải loại hòa bình nhằm biến mọi người thành giống nhau, hay buộc mọi người phải theo một tôn giáo hoặc phải sống một cách nào đó. Con yêu dấu, một nền hòa bình như vậy không thể là hòa bình vì lý do giản dị là khi con tìm cách ép buộc tất cả mọi người vào một hệ thống tư tưởng – dù đó là tôn giáo hay chủ nghĩa cai trị – con tạo ra một hệ thống khép kín sẽ không thể tránh khỏi bị tan rã do những mâu thuẫn nội tại và các thế lực tương phản.  

Lịch sử đã từng chứng kiến một vài xã hội loài người đạt được, trong một số giai đoạn, một sự hài hòa cao độ giữa các tôn giáo khác biệt, và tín đồ của mọi tôn giáo đã có thể chung sống trong thái bình và khoan dung, và xã hội của họ – tức là cộng đồng chung của họ – đã khởi sắc. Và mặc dù người ta không thực sự hiểu được nguyên do, nhưng nguyên do ấy chính là sự đa dạng trong một khuôn khổ hài hòa, khi sự khác biệt giữa các lối sống và các tín ngưỡng tạo ra một sự căng thẳng sáng tạo, và sự căng thẳng này dẫn đến phát triển và thịnh vượng, cả về vật chất lẫn tinh thần.

Thế nhưng con cũng đã chứng kiến khi có một thế lực trở thành thế lực thống trị, tìm cách tiêu diệt sự đa dạng và tạo ra đồng nhất, thì xã hội đó sẽ bước vào một vòng xoáy kéo nó đi xuống, rồi cuối cùng nó sẽ tự hủy diệt, hoặc một cuộc cách mạng sẽ xảy đến đưa xã hội lên một nấc thang tiến bộ cao hơn. Bài học mà chúng ta đều có thể học được từ một xã hội như thời Al-Andalus tại Tây Ban Nha – ngược lại với điều tin tưởng của nhiều người – là sự đồng nhất sẽ không đem lại hòa bình. Và con yêu dấu, thật là quan trọng nếu con hiểu được tại sao.  

Đa dạng không gây ra xung đột

Con có thể hiểu được bằng cách nhìn vào một thực tế thật giản dị. Thượng đế – trước khi bất cứ gì được sinh tạo – là Một. Đây là đồng nhất. Tuy nhiên Thượng đế không muốn tiếp tục là Một. Thượng đế mong muốn sáng tạo, và để sáng tạo bất cứ gì, ngài phải trở nên nhiều hơn Một, cái toàn thể không phân chia. Cho nên ngài biểu hiện chính mình như là thái cực đầu tiên của lực lan ra và co lại – là Alpha và Omega, khởi đầu và kết thúc, Cha và Mẹ, hay bất kỳ danh tính nào mà con muốn gọi.

Từ thái cực đầu tiên này đã nẩy sinh ra toàn bộ sự đa dạng mà con thấy được trong vũ trụ vật chất. Nhưng ta cam đoan với con, con sẽ tìm thấy trong cõi tâm linh một sự đa dạng lớn hơn thế nữa. Cho nên như con thấy, động lực chủ yếu trong sáng tạo là động lực trở thành HƠN NỮA qua sự đa dạng. Con thấy được là ý muốn con người nhằm ép buộc mọi người vào khuôn khổ một hệ thống hay một xã hội nhất định đi ngược lại mãnh lực căn bản của sự sống.

Vì lý do này mà ý muốn phàm phu nhằm ngăn chặn đa dạng sẽ không bao giờ đem lại hòa bình. Đó là một ảo tưởng. Bởi vì con thấy đó, nếu con người đạt được một trạng thái đồng nhất cưỡng ép như vậy, thì những mâu thuẫn nổi lên sẽ là những mâu thuẫn do chính Dòng sông Sự sống, do chính sức mạnh của sự sống, nhất thiết đem lại. Bởi vì Dòng sông Sự sống sẽ tạo ra căng thẳng để rồi cuối cùng căng thẳng phải thị hiện thành đa dạng trong xã hội. Và khi có một thế lực nào đó tìm cách ngăn chặn đa dạng thì xung đột sẽ là kết quả tất yếu, và khi đó con thấy xã hội bị chia ra thành từng phe phái riêng biệt.  

Nếu không có sự khoan hòa đối với đa dạng, các phe phái này sẽ không thể tránh khỏi tuyên chiến với nhau, với khả năng làm cho xã hội bị tan vỡ hay tiêu diệt. Không phải Dòng sông Sự sống đã đem lại xung đột. Không phải đa dạng và khác biệt đã đem lại xung đột. Chính khi con người khoác vào cái tư duy muốn ngăn chặn đa dạng và dựng lên một trạng thái đồng nhất giả tạo, thì hỡi con yêu dấu, xung đột là kết quả không thể tránh khỏi.  

Nhưng nếu ngược lại, con người dồn nỗ lực vào việc trở thành hơn-nữa, dồn nỗ lực vào việc đưa xã hội mình vào trạng thái hơn-nữa, hay trở thành hơn-nữa, thì họ sẽ không còn thì giờ, chú ý hay sức lực để mà xung đột với nhau. Bởi vì khi con biết con sẽ thị hiện được nhiều hơn bằng cách nỗ lực biểu thị khả năng sáng tạo của mình, thì tại sao con lại phải xung đột với láng giềng của con? Tại sao con lại phải cố kiểm soát người khác, tước đoạt của người khác, khi con hiểu rằng mọi người đều có thể tăng trưởng và trở thành hơn nữa? Nền tảng của Thời Hoàng kim chính là khi con người bước vào tâm thức nơi mình chỉ tập trung vào việc trở thành hơn nữa, thay vì tập trung vào ý muốn kiểm soát người khác – bởi vì cái này mới là tâm thức trở thành it hơn.

Tại sao các xã hội hoàng kim đã thoái hóa

Vậy tại sao trong quá khứ khi có những xã hội hoàng kim đạt được phát triển và thịnh vượng, tại sao những xã hội này lại không duy trì cho khuôn mẫu tăng trưởng cứ tiếp diễn? Lời giải đáp ẩn giấu cho câu hỏi này là như sau: trong tất cả mọi thời hoàng kim đã qua, loài người đã không đủ nhận thức về sự kiện có những dòng sống trên địa cầu bị kẹt cứng trong tâm thức nhị nguyên đến độ họ không thể thấy ích lợi nào trong đa dạng và phát triển.

Họ không hề mong muốn một xã hội phát triển, bởi vì khi xã hội càng trở thành hơn-nữa thì sự khác biệt giữa cao và thấp sẽ càng ít đi. Kỳ thực trong một xã hội hoàng kim đích thực, sẽ không có ai được xem là cao hơn, tốt đẹp hơn hay có giá trị hơn người khác. Mọi người sẽ được xem là có giá trị bình đẳng, được quý trọng không phải vì địa vì hay cấp bậc trên địa cầu, mà vì họ sẵn sàng biểu lộ qua bản thân họ cái khả năng sáng tạo tự nhiên mà Thượng đế đã sẵn ban cho họ, và do đó những người sáng tạo nhất sẽ – không phải là được đánh giá cao nhất – mà được trân quý nhất.   

Đây chính là điểm mà những người bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên không muốn chứng kiến trong xã hội, bởi vì trong một xã hội như vậy họ sẽ không có cách gì đạt được địa vị cao cả. Sự kiện họ bị đui mù bởi tâm thức nhị nguyên cũng chính là lý do họ bị cắt đứt khỏi Dòng sông Sự sống và do đó họ không thể biểu hiện khả năng sáng tạo mà họ sẵn có. Họ sẽ không cho phép dòng sáng tạo này tuôn chảy, cho nên trong một xã hội trân quý sáng tạo, họ sẽ không thể đạt được địa vị cao trọng, họ không thể đạt được những địa vị khả dĩ cho họ ảo tưởng là họ tốt đẹp hơn người khác.  

Và bởi vì họ nhất quyết đạt được những địa vị này cho bằng được, bởi vì họ đeo đuổi quyền lực cho bằng được, nên con thấy họ sẽ bắt buộc phải ngừng sáng tạo do họ coi sáng tạo là một mối đe dọa. Vậy thì bằng cách nào những dòng sống này – mà Giê-su gọi là những kẻ lãnh đạo mù quáng, hoặc chúng ta có thể gọi là những dòng sống sa ngã – bằng cách nào họ có thể giựt sập một xã hội hoàng kim và kéo nó xuống xoắn ốc thoái hóa? Phải rồi, họ làm được vậy bằng cách làm tha hóa chính cái lực đẩy xã hội đi lên, tức là cái lực sáng tạo thể hiện ra qua những biểu thị đa dạng.     

Họ lấy sự đa dạng rồi nhào nặn đa dạng qua tâm thức nhị nguyên của họ. Và họ bày ra một hệ tư tưởng, một triết lý, thậm chí cả một văn hoá quần chúng nào đó, nhằm trình bày sự đa dạng như là một mối đe dọa, một nguyên nhân xung đột. Họ chỉ cần kéo được một đoàn nhóm nào đó trong xã hội nghĩ rằng mình đứng riêng biệt khỏi xã hội, rằng bất cứ ai thuộc nhóm nào khác cũng đều đe dọa mình, hay đe dọa xã hội, hay đe dọa tiến bộ, hay đe doạ Thượng đế hoặc bất kỳ điều gì hấp dẫn đối với quần chúng.   

Bởi vì xã hội trong quá khứ đã không đủ cảnh giác về tâm thức nhị nguyên cùng sự tác hại nơi những người bị mù quáng bởi nhị nguyên, nên nhiều xã hội hoàng kim cuối cùng đã bị rơi vào vòng xoáy thoái hóa. Trong vòng xoáy này, con người thay vì coi đa dạng và sáng tạo là nguyên nhân thịnh vượng, lại bước vào tâm thức cho rằng đó là mối đe doạ cho ổn định xã hội.  

Rồi họ tin rằng muốn duy trì được xã hội hoàng kim, duy trì được xã hội và nền văn hóa mà họ đang được hưởng, thì họ phải kềm kẹp dòng sáng tạo mà họ cho là mối đe dọa có thể đảo lộn hiện trạng tốt đẹp của họ. Nhưng kỳ thực, chính đa dạng với sáng tạo mới là yếu tố duy nhất có khả năng bảo đảm sự sống còn lâu dài của một xã hội hoàng kim. Đó là cách duy nhất mà một xã hội có thể xuôi chảy trong Đòng sông Sự sống thay vì trở thành một hệ thống đóng kín phải suy vi do những lực phân rã được mô tả trong định luật thứ hai của nhiệt động học.

Tôn giáo như một cái cớ xung đột

Những gì con thấy vào thời Al-Andalus là một ví dụ điển hình cho sự kiện tôn giáo thường bị sử dụng để làm cái cớ bề ngoài hầu tạo ra căng thẳng giữa các nhóm người. Nhưng xã hội Al-Andalus không là ví dụ duy nhất về một xã hội với văn hoá đang cường thịnh và sáng tạo mà lại bị diệt vong bởi những chia rẽ và tranh chấp tôn giáo. Thật ra vào thời ta hiện thân trên địa cầu, ta cũng đã đầu thai trong một nền văn hóa nơi Ấn giáo đã trở thành nguồn xung đột, nguồn tranh chấp, nguồn mâu thuẫn.      

Nguyên nhân là vì trong Ấn giáo, đã biết bao nhiêu phe nhóm mọc lên, mỗi phe tự xưng mình là nắm được học thuyết cao nhất về vũ trụ và sáng thế. Hiện nay có một số người, đặc biệt là ở Tây phương, xem đạo Phật là một tôn giáo vô Thượng đế, thậm chí là một tôn giáo phủ nhận Thượng đế, nhưng điều này tất nhiên là không phải vậy. Đạo Phật là một cái nhìn vô cùng thực dụng về tâm linh, và khi tâm thức con người còn ít nhiều bị chìm đắm trong nhị nguyên thì họ không có khả năng vượt lên trên tâm nhị nguyên để mà ngộ được một thiên khải nào đó về vũ trụ quan tối thượng. Đối với con người như vậy thì thật là vô nghĩa bàn đến vũ trụ quan xuyên qua phin lọc của tâm nhị nguyên.     

Tốt hơn hết, con yêu dấu, là con hãy làm như Ki-tô từng dạy sau này, đó là xét cái xà trong mắt con thay vì chú mục vào cái giằm trong mắt anh em con, rồi bảo rằng tôn giáo anh ta là tôn giáo của ma quỷ hay là đe dọa ổn định xã hội. Cho nên điều ta đã cố làm là tạo nên một phong trào tâm linh mới hầu con người không còn chú mục vào vấn đế tối hậu về sáng thế, không còn tranh cãi với những ai có quan điểm khác mình về sáng thế, mà thay vào đó, chú mục vào chính tâm mình và tìm cách phần nào điều ngự được tâm mình.

Đây là một cái nhìn thực dụng và thực tế chắc chắn đã góp phần tạo ra một lực ổn định hơn cho xã hội. Do có rất nhiều người chấp nhận đạo Phật và sẵn sàng chuyển đổi tâm mình, cho nên chính sự phát triển tâm thức này của họ đã tạo ra một mãnh lực tâm linh, ngăn chặn được một cuộc đại chiến, một cuộc tranh chấp võ trang bùng nổ trong xã hội. Mãnh lực ổn định này có được là nhờ số đông Phật tử đã dốc lòng điều ngự chính tâm mình, và qua đó họ đã duy trì được sự cân bằng tâm linh tuyệt vời cho xã hội của họ.     

Và ta cho con hình ảnh này vì con là người tâm linh – và cũng có rất nhiều người tâm linh khác trên địa cầu hôm nay sẽ không bao giờ nghe được thông điệp này, và không cứ là họ cần nghe – phải, con là người tâm linh, con có tiềm năng hôm nay trở thành một mãnh lực tâm linh có thể giữ được cán cân quân bình đối với các thế lực của nhị nguyên, là các thế lực mà con biết hiện đang lan tràn địa cầu, đang cố kéo địa cầu xuống vòng xoáy thoái hoá của chiến tranh, đang gây ra những tranh chấp tôn giáo sẽ hủy diệt tiềm năng thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain.   

Điều duy nhất có thể chặn đứng vòng xoáy thoái hóa của bạo động tôn giáo chính là khi những người tâm linh trên địa cầu tự nhủ rằng: “Tôi sẽ không gây chiến với người anh em của tôi. Tôi sẽ nhìn thấu vào chính bản thân tôi và nhận ra là không thể đạt được hoà bình trên thế giới mà lại tiêu diệt những ai không giống mình. Chỉ có thể có hoà bình trên thế giới nếu tôi thoát ra khỏi các thế lực nhị nguyên là nguyên nhân thực sự của tranh chấp”.

Đừng kháng cự lại cái ác – hãy thăng vượt nó

Thật là không đúng – như một số nhà khoa học thời nay vẫn nói – khi bảo rằng tôn giáo là nguyên nhân chiến tranh trên hành tinh này. Không, nguyên nhân thực sự của chiến tranh là tâm thức nhị nguyên dẫn đến tình trạng không dung thứ đa dạng. Tôn giáo chỉ là cái cớ bề ngoài, chứ thật ra người ta lấy sự cố chấp của nhị nguyên rồi đem thể hiện ra ngoài thành tranh chấp võ trang. Người ta tìm cách dùng bạo lực để tiêu diệt một nhóm người khác bị dán nhãn là kẻ thù, nhưng kỳ thực chỉ là những con dê tế thần, là cái cớ để người ta không chịu nhìn vào cái xà trong mắt mình.

Hình ảnh mà ta mong muốn con nắm giữ không chỉ đơn giản là một hình ảnh, mà là sự thật rằng chỉ cần một số người tương đối nhỏ để duy trì sự cân bằng tâm linh cho cả hành tinh và ngăn hành tinh khỏi bị rơi xuống vòng xoáy hướng hạ, thay vì cho phép Dòng sông Sự sống nâng cao hành tinh vào vòng xoáy hướng thượng và thị hiện một xã hội hoàng kim nơi đa dạng sẽ kích hoạt thịnh vượng trên cả hai bình diện vật chất lẫn tâm linh. Sẽ có phát minh mới và sáng tạo mới liên tục đem lại giải pháp mới cho những vấn đề mà trong phin lọc của tâm thức cũ thì dường như hoàn toàn không có giải pháp. Tâm thức cũ được thay thế bởi một tự do mới, một sự sẵn lòng mới để nhìn vào những nan đề dưới ánh sáng mới, và khi đó lời giải đáp sẽ bật ra thật là hiển nhiên. 

Con hãy giữ lấy hình ảnh này – đó chính là sự thực – rằng nếu con sẵn sàng nhìn vào bất cứ gì trong tâm lý con, bất cứ gì có thể kéo con xa lìa khỏi hòa bình, nếu con sẵn sàng xem xét nó, trực diện với nó cho tới khi con hiểu – cho tới khi con thấy được sự giả dối của nó, cho tới khi con thấy nó đang thực sự làm hại con – khi đó con sẽ tức khắc khởi lên ý muốn để cho nó ra đi, ý muốn buông bỏ nó, không muốn tiếp tục củng cố khuôn nếp của nó, bởi vì con thực sự không muốn kháng cự lại khuôn nếp này. Con thấy nó như nó là, hoàn toàn không thực. Và một khi con thấy nó không thực thì con cũng thấy việc kháng cự hoàn toàn không cần thiết, hoàn toàn vô ích. Bởi vì khi một cái gì đó không thực thì kháng cự chẳng có ích gì. Bởi vì khi con kháng cự lại, con sẽ hướng năng lượng về phía nó, và như vậy con đã củng cố cho nó mạnh hơn, con tăng cường cái cảm giác, cái ảo tưởng là nó thực. Con củng cố ảo tưởng khiến cho cái không thực hiện ra là thực, khiến nó hiện ra là có thực chất nào đó giúp cho nó hiện hữu và tiếp tục hiện hữu.    

Thấu hiểu hàng ngũ tà lực

Các chân sư đôi khi có nhắc tới một số dòng sống đã được phép đầu thai trên hành tinh này, và – cùng với một số dòng sống nơi các cõi lý trí và tình cảm – chúng tạo thành một hàng ngũ mà các chân sư gọi là hàng ngũ tà lực. Con yêu dấu, đây là thế lực mà lúc nãy ta có nói là chúng đã phá hủy rất nhiều nền văn minh hoàng kim trong quá khứ.   

Các con là những người tâm linh, rất nhiều người tâm linh, đã đến một giai đoạn mà con thấy cần phải đọc lên những bài chú, hay phải kêu gọi sự phán xét đối với hàng ngũ tà đạo. Đây là một bước cần thiết, không những cho sự phát triển của hành tinh mà cả sự phát triển của chính con. Nhưng nhiều người trong số các con đã đạt đến điểm sẵn sàng tự giải thoát thực sự khỏi những tàn dư cuối cùng rất vi tế của tâm thức nhị nguyên. Và do đó, ta trong cương vị Chủ tể Thế gian – là đấng thực sự nắm giữ sự cân bằng tâm linh cho mọi dòng sống đầu thai trên địa cầu – ta đã quyết định ban cho con một lời dạy vượt khỏi tất cả những gì đã được các chân sư truyền dạy cho tới nay.    

Hãy cho phép ta dẫn con làm thử một thí nghiệm tư tưởng, gọi là để vận động trí tưởng tượng. Con hãy bắt đầu với hình ảnh này đã được sách vở và phim ảnh phổ biến gần đây, là hình ảnh cậu hobbit Frodo nhận lãnh chiếc nhẫn với sứ mạng phải đem nhẫn về nơi sinh tạo ra nhẫn [Lord of the Rings]. Khi cố thực hiện công việc này, cậu ta phải ra sức chiến đấu chống lại một tà lực dường như đang tràn ngập khắp vũ trụ, xuất phát từ một điểm trung tâm. Ở trung tâm này, hình như có một hoàng đế bóng tối đang ngự trị, một tay phù thủy không những chỉ đang điều khiển tà lực, mà còn điều khiển hàng triệu triệu những con Orc cùng những sinh vật khác nữa đang răm rắp tuân lệnh phù thủy.  

Ta mong muốn con thay đổi câu chuyện đi chút đỉnh. Bây giờ con hãy tưởng tượng con đang nhìn ra thế giới và thấy được một số người dường như đang tận tình phá hoại hoà bình và thịnh vượng của thế giới. Con nhìn sâu hơn và con nhận ra họ tận tình như vậy là vì họ ở trong một trạng thái tâm thức đặc thù. Con thấy họ ở trong tâm thức này chủ yếu là vì họ sợ hãi. Họ sợ rằng nếu họ không đeo đuổi một cách hành xử nào đó thì tai họa sẽ ập đến, như phải đời đời bị thiêu đốt dưới hỏa ngục nếu đó là điều khủng khiếp nhất họ có thể nghĩ được.    

Do sợ bị đày xuống địa ngục mà họ sợ cãi lệnh những ai đang ra lệnh họ phải nhân danh Thượng đế mà giết người. Và như vậy con thấy trên địa cầu có một hàng ngũ có thứ bậc, tương tự như những thời đại trước đã từng có những vị lãnh đạo tôn giáo – thậm chí vị lãnh đạo cao nhất như giáo hoàng trong đạo Cơ đốc – ra lệnh cho thuộc hạ của mình phải giao chiến với tín đồ một tôn giáo khác. Khi làm vậy, họ đã khiến cho con người phải giết hại con người nhân danh thượng đế của mình, đồng thời tuyên bố đó là một thượng đế thương yêu đã từng phán lời răn: “Ngươi chớ giết người”, rồi lại gửi đứa con một của mình xuống trần gian để dạy rằng phải giơ má bên kia và thương yêu kẻ lân cận như chính mình.

Cứ theo lô-gíc đó thì nếu con giết người khác nhân danh thượng đế đó, thì con sẽ tránh khỏi cái địa ngục rực lửa chắc chắn sẽ ập xuống địa cầu – khi các tín đồ kia được phép rao truyền tôn giáo của họ một cách thoải mái. Cho nên đúng là có một hàng ngũ của bóng tối trên địa cầu, nhưng khi con là một người tâm linh có tầm nhìn sâu hơn, con có thể thấy được là có một hàng ngũ phi vật chất đang giật dây – nếu có thể nói như vậy – những con rối đang nhảy múa khắp nơi quanh địa cầu. Và ngay cả những người có vẻ nắm quyền hành to lớn như các giáo hoàng và các hoàng đế, chỉ thực là những con rô-bốt dưới quyền sai khiến của một thế lực lớn hơn đứng đằng sau.  

Đối mặt với nỗi sợ hãi hàng ngũ tà lực

Con nên mở tâm tỉnh giác của con ra đối với sự hiện hữu của một thế lực vượt khỏi cõi vật chất. Lúc đầu, con có thể cảm thấy đôi chút sợ hãi thế lực này. Và con có thể nghĩ là nếu có một hàng ngũ bóng tối trên địa cầu thì có lẽ ở những cõi cao hơn – thế giới phi vật chất – có một hàng ngũ còn to lớn và quyền năng hơn nữa, một loại hàng ngũ có quyền năng vô hạn, hay hầu như vô hạn, trên tất cả những ai bị lôi cuốn vào vòng ảnh hưởng của chúng.

Và ý nghĩ này, tất nhiên, đã khiến cho rất nhiều người trên trái đất – từ mọi tôn giáo kể cả học trò của chân sư thăng thiên – vô cùng sợ hãi mình bị hàng ngũ bóng tối đó ảnh hưởng. Do nỗi sợ này mà con quá quan tâm, con cố giữ cho tâm thức mình trong sáng đến độ con đóng chặt lại – mà không hề hay biết – dòng chảy của Dòng sông Sự sống đang muốn xối qua bản thân con. Con đóng chặt lại khả năng sáng tạo của con khi con nghĩ rằng con phải cẩn trọng không được thử nghiệm khả năng này vì con sợ mở cửa ra cho hàng ngũ tà lực.     

Nhiều người tâm linh đã vượt quá giai đoạn “ngu si hưởng thái bình” và “không nhìn thấy cái ác, không nghe thấy cái ác” đành phải nhận ra sự có mặt của các tà lực này. Và quả thật là có tà lực – ta hoàn toàn không phủ nhận điều này. Hình ảnh mà ta muốn cho con ở đây là thực sự có một hàng ngũ tà lực, một thế lực của bóng tối được tổ chức thành hàng ngũ. Con có thể nhìn xuống trái đất và thấy từng cá nhân bị tà lực này sai khiến và làm cho đui mù, và một số trong bọn họ trở thành, chẳng hạn, những kẻ giết người hàng loạt.     

Ở một số thời điểm trong quá khứ đã từng có một hình thức quy mô hơn như vậy khi toàn bộ xã hội bị rơi vào vòng phù phép của hàng ngũ tà lực, và mọi người trong xã hội đó hợp lực giết hại thành viên của một cộng đồng khác. Và hiển nhiên nếu con muốn một ví dụ điển hình và hiện đại, đó là trường hợp của lực lượng Quốc xã tại Đức. Nhưng nếu con có gan nhìn kỹ hơn, con sẽ nhận ra cùng những yếu tố này trong rất nhiều xã hội khác. Ngay cả nước Mỹ hiện đại cũng có một số người đang nắm giữ quyền chức cao trọng đã rơi vào bùa mê của hàng ngũ tà lực và trở thành những công cụ gây chiến trên bình diện toàn cầu.        

Tuy nhiên, nếu con nhìn xa hơn những người đó – là người bị hàng ngũ tà lực che mắt hay chiếm hoặc – con sẽ thấy vượt trên họ có một hàng ngũ phi vật chất. Nói vậy thì con sẽ nghĩ ngay đến những loại hồn bóng xấu ác, quỷ dữ, hồn ma không xác, hay bất kỳ tên gọi là gì. Nhưng hình ảnh chủ yếu ở đây là những sinh thể hoàn toàn bị mù quáng bởi tâm thức nhị nguyên, hoàn toàn chú tâm và tận tình trong công cuộc thể hiện một hình thức bóng tối nào đó – cho dù họ thường hay tin rằng họ làm vậy cho phúc lợi của số đông.   

Con hãy hình dung hàng ngũ tà lực này như một kim tự tháp, ở tầng dưới là những biểu hiện vật lý có thể thấy được, rồi ở trên có một tầng cao hơn, rồi lại một tầng cao hơn nữa, cho đến cái đỉnh của kim tự tháp. Con cũng biết kim tự tháp ở chỗ cao nhất chỉ là một điểm duy nhất, cho nên mới có hình ảnh rất phổ biến là đứng ngay đỉnh kim tự tháp tà lực là ác quỷ, hay Sa-tăng, hay Lucifer, hay bất kỳ nhân vật nào đó với danh tính khác nhau tùy theo truyền thống văn hóa hay tôn giáo.     

Một hành trình vào ảo ảnh bóng tối

Bây giờ con hãy tưởng tượng chúng ta đều mặc nguyên bộ áo giáp của Đại thiên thần Michael để trở thành bất khả xâm phạm đối với tà lực. Chúng ta cất bước lên đường giống như Frodo, đi vào thật sâu trong xứ Mordor là vùng sâu thẳm của bóng tối. Chúng ta du hành xuyên qua từng tầng lớp của hàng ngũ tà lực, di chuyển ngày càng cao hơn về phía đỉnh cao của kim tự tháp.  

Và khi đến gần hơn và gần hơn nữa, chúng ta bắt gặp những biểu hiện khác nhau của bóng tối y như Frodo đã gặp trong chuyến hành trình tới Mordor. Và tất nhiên, chúng ta chờ đợi là khi tới tuyệt đỉnh, chúng ta sẽ tìm thấy ngôi đền tối thượng của bóng tối, lâu đài tối thượng nơi chúa tể bóng tối cư ngụ, là nhân vật tối cao trong toàn bộ hàng ngũ tà lực. Và quả vậy, con yêu dấu, khi đâm xuyên qua từng tầng lớp sâu thẳm của bóng tối, chúng ta thấy được một ngôi đền như thế, một kiến trúc với đủ loại hình thù xấu ác, nào rồng rắn, đầu thú, hình tượng của đủ mọi vật có thể tưởng tượng trên trái đất.

Khi bước đến ngôi đền này thì chúng ta thấy cái gì đó lạ kỳ. Chung quanh đền có những sinh thể đang thờ phượng ngôi đền, nhưng họ lại sợ vào đền đến độ họ không bao giờ dám bước vào. Họ luôn luôn chỉ đứng bên ngoài. Những sinh thể này – nếu có thể nói như vậy –là tầng lớp cao nhất trong hàng ngũ tà lực mà chúng ta có thể thấy được từ vị trí bên ngoài ngôi đền. Và chúng ta thấy họ bị thôi miên, hoàn toàn tập trung vào việc quảng bá hay duy trì một ý tưởng đặc thù mà họ tin đã được chính chúa tể bóng tối trao cho họ.

Nhưng chúng ta cũng phát hiện là không một sinh thể nào đã gặp tận mặt chúa tể để nhận được ý tưởng đó hay khuôn mẫu đó từ chúa tể. Họ tin rằng ý tưởng đã được trao cho tổ tiên họ trong một quá khứ xa xôi và họ chỉ giản dị tiếp tục tuân theo những mệnh lệnh đó. Mệnh lệnh được truyền xuống tầng lớp ngay bên dưới, và tầng lớp này sẽ mù quáng tuân hành theo mà cứ tưởng là nó đến thẳng từ chúa tể. Cứ như thế, lệnh được ban xuống cho tới tầng dưới cùng của kim tự tháp. Và bây giờ thì chúng ta có thể thấy, những sinh thể cao cấp nhất mà mình đã gặp trong cuộc hành trình – nếu có thể nói như vậy – tuy rằng họ có quyền hạn to lớn đối với kẻ bên dưới họ nhưng chính họ thì lại bị nỗi sợ hãi sai khiến. Họ không phải là sinh thể quyền lực mà những ai theo họ tưởng lầm.    

Chúng ta nhìn thấu qua họ và thấy họ chỉ là những cái vỏ rỗng tuếch vì họ bị sai khiến bởi sợ hãi. Trong nỗi sợ này, họ chỉ máy móc làm theo những gì họ tưởng là mệnh lệnh của chúa tể họ. Và mặc dầu họ tin chúa tể tà lực là đối trọng của Thượng đế – và do đó cũng quyền năng như Thượng đế – họ thật sự không có bằng chứng nào bởi vì họ chưa từng gặp chúa tể tận mặt. Khi chúng ta nhận ra nỗi sợ hãi này – và tất nhiên chúng ta vẫn còn được toàn bộ áo giáp của Đại thiên thần Michael bảo vệ – chúng ta mới nghĩ: “Ừ nhỉ, có lẽ mình nên làm điều mà tất cả bọn họ vẫn sợ làm. Có lẽ mình nên bước vào ngôi đền và xem mặt mũi của chúa tể bóng tối ra sao, hình như y có quyền năng không kém gì Thượng đế?”    

Và bây giờ, con yêu dấu, chúng ta gom góp tất cả can đảm và bước qua cổng đền, chúng ta gặp một hội trường lớn, và ở cuối hội trường là một chiếc ngai lớn. Nhưng quá đỗi ngạc nhiên, chúng ta khám phá ra là không có ai ngồi trên ngai kia mà chỉ có một chú chuột nhắt đã lẻn vào đền để kiếm đồ ăn, nhưng giờ đây chú không tìm thấy và nhanh như cắt chú chạy đi mất khi chú nghe thấy tiếng chân chúng ta bước tới. Và như vậy, chúng ta đứng ngay trước ngai vàng của bóng tối – và chúng ta chợt hiểu, con yêu dấu. Chúa tể của bóng tối không hề có!  

Hãy ngừng trao quyền cho những gì không thực

Chưa hề bao giờ có một chúa tể tà lực! Chưa bao giờ có một sinh thể xấu ác nào là đối trọng của Thượng đế và do đó có quyền năng như Thượng đế. Con yếu dấu thấy đó, chúng ta nhận ra trong chớp nhoáng là tất cả các tầng lớp của hàng ngũ tà lực đang thờ phượng một ảo ảnh hoàn toàn. Họ đang thờ phương một cái gì không có, một cái gì không có thực chất. Và như vậy chúng ta hiểu được một điều vô cùng thâm sâu. Những sinh thể ở những tầng dưới của kim tự tháp sợ cãi lệnh những tầng trên vì họ tưởng kẻ ở trên có quyền hạn trên họ, và ở một mức độ nào đó thì điều này không sai, bởi vì những kẻ ở trên có một số quyền năng tà thuật mà họ có thể sử dụng để trừng phạt kẻ dưới.

Nhưng chúng ta cũng thấy toàn bộ cấu trúc dẫn đến tầng cao nhất là những sinh thể đứng bên ngoài ngôi đền, và những kẻ này thờ phượng một chúa tể họ nghĩ đang ngự trị bên trong. Họ nghĩ là chúa tể có mặt ở đó, chúa tể là có thật, chúa tể thực sự có quyền hạn trên họ, chúa tể sẽ tiêu diệt họ nếu họ không vâng lời. Nhưng chúng ta thấy những sinh thể này, mặc dù họ có quyền hạn trên kẻ dưới, lại là những sinh thể đáng thương nhất – bởi vì họ nghĩ chúa tể có quyền hạn trên họ. Nhưng vì chúa tể không có ở đó và ngôi đền thì trống rỗng, thật là không có quyền hạn nào đang chi phối họ, và do đó không có ai để mà tiêu diệt họ nếu họ bất tuân.

Và như vậy chúng ta chợt hiểu là hàng ngũ giả dối này – tuy rằng nó có vẻ có quyền hạn trên địa cầu, hay trên các cõi lý trí hay cảm xúc – thật sự không có quyền lực nào hết. Tất cả chỉ là một ảo tưởng, và cái gì không thực thì không thể có quyền lực nào trên cái thực – trừ khi cái thực bị rơi vào ảo ảnh rồi lầm tin rằng bóng tối có thực. Chỉ bằng cách quả quyết rằng bóng tối là thực thì cái thực mới trao quyền cho bóng tối. Và chúng ta chợt nhận ra, những kẻ ở những tầng dưới của kim tự tháp đang sử dụng chính năng lượng của họ để nuôi mãi ảo ảnh. Khi làm vậy, họ gửi gấm năng lượng của họ vào một khuôn tạo sinh giả trá, tức họ cống hiến năng lượng của họ để tạo ra một thế lực, là chính cái thế lực mà những kẻ ở tầng trên sử dụng để kiểm soát họ.      

Nói cách khác, kẻ bị kiểm soát chính là kẻ đã ban bố năng lượng cho kẻ kiểm soát mình. Cho nên nếu kẻ bị kiểm soát chịu ngừng lại, ngừng cung cấp năng lượng cho kẻ thống trị mình, thì họ sẽ tước đi quyền hạn của kẻ thống trị. Và khi con thấy sự thể này được lặp đi lặp lại ở mỗi tầng của kim tự tháp thì con thấy rõ là hoàn toàn không đúng – như được kể lại trong nhiều truyền thuyết khắp thế giới – hoàn toàn không đúng là những kẻ đứng ngay dưới chúa tể bóng tối nhận được quyền lực từ chúa tể.

Vì con thấy đó, không hề có chúa tể nào hết, vậy thì làm sao họ có thể nhận được quyền lực từ một cái gì không có? Con đã thấy rõ, toàn bộ kiến trúc đồ sộ của hàng ngũ tà lực không hề được nuôi dưỡng bởi chúa tể. Họ được nuôi dưỡng bởi những tầng ở ngay bên dưới, và cứ thế tầng tầng lớp lớp xuống mãi cho tới những con người đang đầu thai, tuy không hoàn toàn thiếu vắng ánh sáng và còn có chút thực chất và một chút ánh sáng, nhưng những người này đã bị lừa gạt để làm ô uế ánh sáng của mình qua ảo ảnh, và như vậy chính họ đang nuôi dưỡng toàn bộ kiến trúc to lớn kia của tà lực. Và chúng ta chợt nhận ra là cái ác không có thật, và hình dạng của cái ác không có quyền năng gì trên con người – ngoại trừ những gì con người trao cho bóng tối khi mình làm tha hóa ánh sáng của mình trong ảo ảnh của bóng tối. Những ảo ảnh này, con người tin là có thật.

Vượt qua ảo tưởng bóng tối có quyền năng

Con yêu dấu, các con là người tâm linh, rất nhiều người trong số các con đang đứng ngay ở điểm con sẵn sàng thể nhập được đầy đủ sự thật mà ta vừa trao cho con. Các con sẵn sàng bước tới cái bước sẽ đưa các con, một cách toàn diện và dứt khoát, ra khỏi tầm với của các thế lực nhị nguyên. Bước này sẽ đưa con tới một nơi mà ông hoàng của thế gian có muốn tới cũng không thể nắm được gì trong con, không thể ép buộc con phản ứng tiêu cực rồi đem ánh sáng con ra nuôi sống bóng tối.

Các con đứng ngay ở điểm mà chỉ một bước nữa sẽ giải thoát con, để con có thể ngồi như đức Phật dưới gốc cây mà đối mặt với ma quỷ của Mara, các thế lực của thế gian. Nhưng dù chúng cố cám dỗ hay công hãm con biết mấy, thì trong con không có vướng mắc nào để chúng khiến con trao quyền cho ảo ảnh của chúng. Bởi vì con đã nhìn thấu qua ảo ảnh và con không bị lay động, vì con đã mãi mãi buông bỏ mọi điều không thực.   

Nhiều người trong các con đang đứng ở điểm khi chỉ một sự quay đầu thật nhẹ trong tâm thức cũng sẽ đột nhiên mở ra cho con viễn quan toàn bộ về tính không thực của mọi thứ tối tăm, xấu ác. Điều này, con yêu dấu, sẽ không xóa bỏ ngay lập tức mọi bóng tối trên địa cầu, bởi vì Luật Tự quyết cho phép nhiều người tiếp tục tin vào ảo tưởng của bóng tối, nhưng sự kiện con vượt qua được ảo tưởng đó sẽ bao gồm hai khía cạnh quan trọng.    

Trước hết, tất nhiên, con sẽ thoát khỏi lực lôi kéo của nhị nguyên, thoát khỏi nỗi sợ hãi hàng ngũ tà lực. Con nay neo chặt vào sự an bình bất tận của Phật, sự an bình bất tận của Ki-tô, sự an bình bất tận của Mẹ Thiêng liêng, sự an bình bất tận của Cha Thiêng liêng, sự an bình bất tận của đức Thánh linh. Và do neo chặt vào an bình đó, con có thể bước lên một tầm mức hoàn toàn mới nơi con cầm giữ cân bằng cho địa cầu, hầu con có thể phụng sự như là một đối trọng cho những ai còn bị mù quáng bởi nhị nguyên và còn nghĩ rằng họ phải tuân theo chúa tể của xấu ác cũng như những kẻ ở trên họ trong hàng ngũ tà lực. Họ thường không nhận ra những kẻ này là hàng ngũ tà đạo, mà lại tưởng là chức sắc trong chính tôn giáo mình, hay quan chức trong đảng phái chính trị của mình, hay bất kỳ ảo tưởng nào khác trên địa cầu nhằm lừa gạt họ trao cho tà lực sự vâng lời cùng năng lượng, mà lại cứ tưởng mình đang phục vụ Thượng đế hay những lý tưởng cao thượng nào đó.   

Đây thực sự là cách con giữ được đối trọng cho các thế lực bóng tối khi con nhận ra là chúa tể bóng tối không hề có. Không có thực thể nào trong thế lực bóng tối. Nhưng đồng thời con cũng nhận ra là rất nhiều anh chị em của con trong nhân loại vẫn còn bị đui mù bởi cái ảo ảnh rằng bóng tối có thật, rằng bóng tối thật có quyền năng trên họ. Và con phải nhìn nhận còn rất nhiều người chưa sẵn sàng buông bỏ ảo ảnh này.

Và tại sao họ chưa sẵn sàng chứ con yêu dấu? Bởi vì họ chưa sẵn sàng đoái nhìn tới bóng tối. Họ chưa sẵn sàng công nhận rằng khi họ tham gia vào một cuộc chiến đấu nhị nguyên – cho dù họ tin họ đang chiến đấu cho một chính nghĩa cao đẹp – thì họ cũng đang phục vụ cho hàng ngũ tà lực. Họ sợ phải công nhận điều này vì họ sẽ cảm thấy hối hận, sẽ tự trách móc đến độ mất đến hàng bao nhiêu kiếp để chữa lành vết thương. Ngay cả những người sẵn sàng thừa nhận rằng chiến đấu không bao giờ là chủ trương của Đại đoàn Ánh sáng, thì họ vẫn sợ không dám nhìn tận mặt hàng ngũ tà lực, dõi nhìn lên tuốt cái chóp đỉnh để rốt cuộc phát hiện ở trên đó cũng không có gì và vì vậy không có quyền gì.     

Thật là cần thiết phải có một tỷ lệ nào đó của loài người giữ được cân bằng, hầu giúp cho phần còn lại có đủ thì giờ trau dồi sự chín chắn và lòng dũng cảm để nhìn thẳng vào bóng tối và thấy được nó thật sự là gì, rồi từ đó mới dùng quyền tự quyết của mình để mà từ bỏ. Cần có người giữ cân bằng để cho những ai bị mù quáng bởi bóng tối khỏi nhận chìm cả địa cầu xuống một lốc xoáy bạo động sẽ cản trở sự thị hiện của Thời Hoàng kim.

Hãy giữ viễn tượng thức tỉnh khỏi ảo tưởng bóng tối

Con cần giữ vững viễn tượng là nhân loại sẽ tự kéo mình ra khỏi chu kỳ bạo động và lần hồi tự nâng mình lên tâm thức của Thời Hoàng kim. Viễn tượng mà con cần giữ là ngày càng có nhiều người thức tỉnh, mở mắt ra với các giá trị khoan dung, đa dạng, sáng tạo, và loài người sẽ tìm ra câu giải đáp cho những nan đề của mình qua sáng tạo chứ không phải kiểm soát. Phải tìm ra những giải pháp sáng tạo thay vì cứ lặp đi lặp lại lối suy nghĩ máy móc rằng mọi vấn đề sẽ được giải quyết bằng cách áp đặt một giải pháp nhất định, một hệ tư tưởng nhất định. Kỳ thực, giải pháp đó không là giải pháp vì nó sẽ chỉ khiến cho cuộc chiến đấu nhị nguyên càng thêm kịch liệt mà thôi.  

Ta mong muốn con giữ vững viễn tượng là sự thức tỉnh này sẽ lan rộng ra như những vòng nước trên mặt hồ. Con hãy hình dung con người hoàn toàn thức tỉnh trước sự thật của ánh sáng và bóng tối – thấy được sự không thực của bóng tối, thấy được sự thực của Thượng đế, sự thực trong lời dạy của Ki-tô bảo rằng với Thượng đế mọi chuyện đều khả dĩ – và nhất định Thời Hoàng kim có thể thị hiện, trồi dậy y như con chim phượng hoàng vươn lên từ ngọn lửa tranh chấp mà con đang chứng kiến trên thế giới.      

Ta mong muốn con giữ vững viễn tượng là nhân loại sẽ thức tỉnh trước giá trị của sáng tạo, giá trị của sự sáng tạo mà mỗi người đã mang sẵn – rằng mọi người sẽ đóng góp phần mình để đưa ra những giải pháp mới lạ, hay hỗ trợ những giải pháp mới lạ, cho những nan đề đã gây ra xung đột từ bao ngàn năm, kể cả, hỡi con yêu dấu, những giải pháp sáng tạo trong địa hạt tôn giáo và tâm linh, hầu tôn giáo không còn là tác nhân gây ra xung đột bạo động làm thế giới rực lửa, không còn gây vòng xoáy mà con người không thể thoát khỏi, và cứ thế họ sẽ giết hại một cách phi lý và máy móc tất cả mọi tín đồ của tôn giáo khác, tựa như những con rô-bốt đã bị tà lực hoàn toàn chiếm dụng.     

Một viễn tượng thức tỉnh

Để giúp con giữ vững viễn tượng đó, ta sẽ trao cho con hình tư tưởng này. Ta nói với con, con yêu dấu, là Phật không rắc rối. Tâm Phật không phức tạp. Thật ra hàng ngũ tà đạo mới cố làm cho mọi chuyện trở nên phức tạp, bởi vì càng phức tạp bao nhiêu thì con người sẽ càng khó nhìn thấu qua ảo ảnh bấy nhiêu. Cho nên chúng đã xây đắp hết lớp phức tạp này tới lớp phức tạp khác để cố đánh lạc hướng sự chú ý của con hầu con không thấy được sự thật đơn giản là bóng tối không thật.   

Ta đến đây để cho con một hình tư tưởng vô cùng giản dị. Đây là hình tư tưởng một trận mưa tuyết thật dày đặc, có bông tuyết rơi xuống khắp mọi nơi trên địa cầu. Bông tuyết màu hoàng kim khi nhìn từ xa, nhưng khi con nhìn gần hơn, con thấy mỗi bông tuyết đều đặc biệt, như con cũng biết mỗi bông tuyết vật lý đều mang hình dạng độc nhất. Nhưng những bông tuyết này thì không như bông tuyết vật lý. Mỗi bông tuyết thật ra là một tấm gương, và mỗi bông tuyết sẽ rơi xuống trước mặt một người trên trái đất. Và sẽ có đủ bông tuyết để mỗi người có được bông tuyết riêng của mình, tạo thành một tấm gương phản chiếu lại cho người đó những gì đang khiến người đó bị mắc kẹt trong giới hạn, mắc kẹt trong bóng tối. Và như thế, tuyết trao cho mỗi người một cơ hội để mình tự nhìn thấy mình dưới một ánh sáng mới.

Điều này không có nghĩa là mỗi người sẽ giác ngộ tâm Ki-tô hay tâm Phật, mà mỗi người sẽ có một cơ hội lớn hơn trước kia rất nhiều – dù là trong kiếp này hay trong nhiều kiếp trước – để thấy được điều gì trong tâm lý của mình đang giới hạn mình, đang ngăn cản mình là sinh thể mà mình là, đang ngăn chặn mình tiến tới và bước cái bước quyết định trên đường tu tâm linh.  

Thật ra nhiều người chưa tới mức bước lên được tâm Ki-tô hay ngay cả bước lên để nhận ra con đường dẫn tới tâm Ki-tô, con đường toàn vũ đằng sau mọi tôn giáo. Nhưng mỗi người đều có cơ hội bước tới, và nếu mọi người trên địa cầu đều nắm lấy cơ hội này thì hiển nhiên toàn hành tinh sẽ được nâng cao một cách phi thường. Nhưng bởi vì mỗi người đều có quyền tự quyết cho nên không phải ai ai cũng sẽ nắm lấy cơ hội. Nhưng con không cần quan tâm chuyện đó. Điều con giữ vững trong viễn tượng là tấm gương trước mặt mỗi người sẽ không ngừng phản chiếu lại đúng những gì mà người đó đang cần vượt qua để bước tới về hướng giải thoát. Và như vậy, người đó sẽ liên tục đối mặt với những gì họ cần khắc phục, và họ nhận được thật nhiều cơ hội để cuối cùng họ sẽ nhận diện ra con đường. Khi đó, họ sẽ nhìn vào gương và tự nhủ: “Tôi không thể cứ tiếp tục lặp đi lặp lại một cách ngu xuẩn những khuôn nếp cũ. Tôi cần vươn lên cái gì đó mới hơn, cái HƠN NỮA.”   

Đó là viễn tượng mà ta trao cho con. Nếu con giữ vững viễn tượng này – và tất nhiên là con sẽ tiếp tục tu tập bản thân, tu tập để đạt tới mức hoàn toàn buông bỏ ảo ảnh bóng tối, cái ảo ảnh rằng bóng tối có quyền hạn trên con – thì con sẽ tinh tấn khả quan trên mặt cá nhân. Nhưng con cũng có thể giữ vững viễn tượng  cùng sự cân bằng đó cho cả hành tinh và cả nhân loại để tất cả được tinh tấn vượt bực. Và khi đó – như người ta hay nói – sẽ là một bước nhảy vọt lượng tử.

Phật cũng có tình cảm

Hỡi con yêu dấu, ta có thể cam đoan với con là dẫu rằng Phật hoàn toàn không dính mắc với bất cứ biểu hiện nào trên địa cầu, điều này không có nghĩa là Phật không có tình cảm. Ta có những tình cảm tích cực. Ta có những tình cảm rất mãnh liệt đối với mọi người trên địa cầu, bởi vì nếu không thì ta đã không còn giữ trách vụ Chủ tể Thế gian và giữ cân bằng cho chúng sinh. Vì thế, ta cảm thấy một nhiềm vui tự nhiên rất lớn khi ta thấy những ai đang có nỗ lực phi thường để vượt lên trên tâm thức nhị nguyên và tiến gần hơn với tâm Phật.

Ta khen ngợi các con, và ta muốn trao cho con niềm vui trong tim ta, một niềm vui vượt ngoài nhị nguyên và do đó không thể, và không được, tạo ra nơi con niềm kiêu hãnh phàm phu. Niềm vui này phải khiến con vượt xa hơn niềm kiêu hãnh và con nhận ra thực tế là con đã có tinh tấn, là con đã đến gần hơn với an bình, và quả thật các con là những người tiên phong mở đường cho Thời Hoàng kim của Saint Germain.  

Như vậy con hãy tự xem mình là những cánh cửa mở mà qua đó ánh sáng của Đại đoàn Ánh sáng, đại đoàn chân chính, có thể chiếu rọi vào thế gian. Con hãy xem mình là một thành phần của Dòng sông Sự sống, là dòng chảy của cái LÀ, cái lực tập thể của Đại đoàn Ánh sáng đang tìm kiếm một cánh cửa rộng mở để biểu hiện ra thế gian. Nhưng tất nhiên, ánh sáng tôn trọng quyền tự quyết và sẽ chỉ có thể biểu hiện qua những ai sẵn lòng vượt lên trên nhị nguyên, vượt lên trên tâm thức máy móc đang muốn đóng chặt dòng chảy, và mở cửa ra để hợp nhất với dòng sống, để trở thành chính dòng sống. Đây là những người đang từ bỏ ảo mộng kiểm soát của tự ngã, đang sẵn sàng để cho ngọn gió của Thánh linh thổi theo ý muốn Thánh linh, và đi về những nơi chốn mà Thánh linh muốn đưa về, tức là bất cứ nơi nào ích lợi nhất cho Đại đoàn Ánh sáng.   

Trong số các con, rất nhiều người đã sẵn lòng dời chuyển đến một nơi khác, nhưng đặc biệt các con đã sẵn lòng dời chuyển trong tâm thức. Và đây là niềm vui thực sự trong tim Phật, một niềm vui mà ta mong muốn chia sẻ với con tối nay khi chúng ta đang bước ra ngoài chu kỳ cũ, bỏ lại chu kỳ đó như một cái vỏ rỗng, không hối tiếc và cũng không mong mỏi. Trong cuốn phim về thời Al-Andalus, cảm giác toát ra là một niềm mong mỏi u uất về một thời vàng son đã không còn. Và con có thể thấy được nhiều người thời nay nhìn lại quá khứ vàng son rồi nghĩ rằng hiện tại thật là thua kém và tương lai sẽ còn tệ hại hơn.     

Nhưng con – là những học trò của Đại đoàn Ánh sáng – con sẽ để cho mọi nhớ nhung về Thời Hoàng kim thuở trước tan đi, và thay vào đó con sẽ tập trung vào thực tế của Thời Hoàng kim, không những của tương lai, mà Thời Hoàng kim của ngày bây giờ, cái NGAY BÂY GIỜ vĩnh hằng là đồng nhất với tâm thức Phật, nơi ngay cả thời gian không được coi là thật mà là ảo tưởng, và nơi không có sự phân chia nào giữa bây giờ và Thời Hoàng Kim. Thời điểm bây giờ chỉ có thể ở trong cái NGAY BÂY GIỜ vĩnh hằng là nơi Thời Hoàng kim cũng đang thị hiện. Cho nên con hãy chấp nhận viễn tượng là mỗi người trong các con là trung tâm của vũ trụ cá nhân của con, và con hãy sử dụng lời dạy hồi nãy của ta về sự quyết tâm, để con xác quyết ngay bây giờ là trong vũ trụ cá nhân của con, Thời Hoàng kim là một thực tại đang hiển thị!

Và con hãy giữ vững xác quyết này, hầu con không để cho bất kỳ biến cố nào trên thế giới – bất kể chúng hiện ra như thế nào – khiến con bị sao lãng thay vì con hoàn toàn xác quyết và chấp nhận rằng trong vũ trụ cá nhân của con, Thời Hoàng kim của Saint Germain là một thực tại hiển hiện trong cái NGAY BÂY GIỜ vĩnh hằng, đang LÀ mỗi cái bây giờ mà con kinh qua.  Con yêu dấu, ngọn lửa quyết tâm của Phật là nền tảng cho an bình của Phật. Bởi vì với quyết tâm vô hạn, Phật bác bò các thế lực phản hòa bình, và đó là cách Phật giữ được an bình. Và như vậy, trong ngọn lửa của quyết tâm vô hạn, ta niêm ấn con, và ta gửi con làm sứ giả cho ta.

Và ta nói với con, “Hãy đi ra khắp thế giới và biến mọi người thành đệ tử của Phật bằng cách giúp họ thấy được Phật tánh của chính họ!” Và con yêu dấu, con chỉ có thể làm được điều này một cách mà thôi. Không phải bằng cách thuyết giảng giáo lý của Phật mà bằng cách LÀ Phật ngay nơi con đang ở. Con đã được niêm ấn! Được niêm ấn trong lòng biết ơn của ta, niềm vui của ta thấy con phát triển, phát triển về hướng sự tỉnh giác vô tận là tánh Phật, là tâm Phật.  

Một Phật quan về Hoa Kỳ và việc là Ki-tô trong hành động

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 4, 2007 tức ngày Chủ nhật Phục sinh, tại Washington D.C. (Hoa Kỳ). [Năm 2007 Hoa Kỳ còn tham chiến tại Iraq, nhưng đến cuối năm thì tuyên bố khởi sự rút quân]

Ta Gautama đến đây để chào đón con. Và chắc chắn một số người ở phương Tây sẽ tự hỏi tại sao Phật lại đến can thiệp vào ngày lễ Phục sinh của Ki-tô. Nhưng trên thiên đàng chỉ có Một. Vậy thì làm sao có thể có ngăn cách nào giữa Ki-tô với Phật? Và quả thế, ta đến để cho con Phật quan (Buddhic perspective) về việc là Ki-tô trong hành động.

Vì con thấy đó, con yêu dấu, có sự khác biệt về mức độ – không phải về bản chất – giữa sứ mệnh của Ki-tô và của Phật. Cả hai, theo một nghĩa nào đó, giống như Alpha với Omega. Sứ mệnh của Ki-tô Hằng sống trong hiện thân, của Ngôi Lời nhập thế, là đi ra ngoài tích cực tìm kiếm những ai bị vướng kẹt trong một hộp tư duy hay cái gì khác – hay như cách gọi trong đạo Phật, những ai bị vướng mắc sau tấm màn của Maya, tấm màn của ảo tưởng do Mara, những con quỷ của thế gian và ông hoàng của thế gian này dựng lên.

Vai trò của Ki-tô Hằng sống là đi ra ngoài thách thức ảo tưởng của mọi người để họ được đánh thức trước thực tại là có một cái gì khác, một cách sống khác vượt quá ảo tưởng. Ki-tô phải hướng ngoại, phải năng động, phải thách thức. Và do đó Ki-tô cũng hứng chịu sự giận dữ của những ai không muốn bị thách thức, không muốn thay đổi, không chịu soi gương và nhổ cái đà trong mắt mình.

Và một khi con người đã thức tỉnh và bước theo con đường quả vị Ki-tô, thì họ sẽ mở tâm ra với con đường của Phật, là con đường của sự không dính mắc. Ở điểm hai con đường gặp gỡ và trở thành song song với nhau là nơi dành cho những đệ tử đã trưởng thành hơn, có khả năng nhìn xa hơn hai tôn giáo vỏ ngoài là đạo Cơ đốc và đạo Phật. Họ thấy được là cả Ki-tô lẫn Phật đều đến địa cầu giảng dạy cùng một giáo lý toàn vũ, cùng một con đường phổ quát, chỉ có điều họ giảng dạy trong những bối cảnh văn hóa khác nhau và với những ngôn từ hơi khác.

Khi đệ tử trở nên mất cân bằng

Tuy nhiên vẫn có những sắc thái mà các đệ tử tiên tiến phải biết. Và đây là một điểm ta sẽ trình bày hôm nay. Quả thực một người có thể thức tỉnh với con đường quả vị Ki-tô và nắm bắt được phần nào con đường này, rồi y cất bước, y khởi sự hình thức phụng sự là nhận ra có rất nhiều việc trên thế giới cần thay đổi, còn rất nhiều ảo tưởng cần được thách thức. Và quả vậy, y bắt đầu thách thức các ảo tưởng đó, nhưng luôn luôn có rủi ro là y bị kẹt trong một ngõ cụt khi y trở nên mất cân bằng.

Có nhiều người tâm linh và mộ đạo đã thức tỉnh trước nhu cầu phải làm gì đó, phải đem lại một thời mới tốt đẹp hơn, một dạng xã hội cao hơn, một xã hội tâm linh hơn, hay ngay cả một thời đại hoàng kim. Họ có một trải nghiệm thức tỉnh hay sáng ngộ, họ trở nên nhiệt tâm phụng sự Thượng đế – cho dù họ xem Thượng đế là gì – hay làm việc cho các chân sư thăng thiên. Và họ ném mình vào công cuộc đó với lòng nhiệt huyết, nỗi háo hức to lớn.

Theo một nghĩa nào đó, các thày là chân sư thăng thiên rất thích nhìn thấy con người ở giai đoạn này, bởi vì chắc chắn họ sống động và ngoạn mục hơn là những người chỉ ngồi đó trước màn hình tivi, tưởng rằng mục đích cuộc sống là ăn popcorn và lướt qua các kênh truyền hình cho đến khi bộ não của họ trở nên đờ đẫn đến độ họ khó lòng nặn ra được một ý nghĩ cá biệt nào, vì họ đã bị áp chế bởi tâm thức đại chúng phóng ra từ tivi đến mức họ giống như người chết, một người đã chết về mặt tâm linh.

Nhưng tuy các thày hân hoan dõi nhìn những ai đang thức tỉnh, ta phải nói với con rằng rất nhiều khi các thày lại chứng kiến cùng những người này bước vào ngõ cụt khi họ chọn một cách tiếp cận mất cân bằng trong những việc họ xem là công việc phụng sự Thượng đế, có lẽ cả Sứ vụ Thiêng liêng của họ. Các thày đã thấy sự thể này trong mọi tôn giáo, khi một tỷ lệ đệ tử trở nên gần như bận tâm quá đáng muốn tạo thay đổi trên thế giới. Và họ nôn nóng, họ “bốc lửa” như họ nói, đến mức họ mất hẳn mọi tầm nhìn lẫn cân bằng.

Đâu là nguyên nhân của sự kiện này, con yêu dấu? À, đó là vì họ không có Phật quan về ý nghĩa thế nào là Ki-tô trong hành động. Là Ki-tô Hằng sống trong hành động, con không thể hoàn toàn không dính mắc đến mức bảo rằng không có gì thực sự quan trọng. Con không thể chui vào tư duy xám mà nghĩ rằng rốt cuộc mọi chuyện sẽ ổn thỏa bởi vì, một cách nào đó, Giê-su hay một đĩa bay UFO sẽ đến cứu nguy hành tinh.

Là Ki-tô Hằng sống trong hành động, con phơi mình ra để người ta nhạo báng và lên án con. Con thường hay đi ngược lại tự ngã của họ, và con làm vậy vì con thực sự quan tâm. Con quan tâm đến độ con sẵn lòng để cho họ chối bỏ, đàn áp con. Thậm chí thày Giê-su còn quan tâm đến mức để họ đóng đinh thày trên thập tự giá hầu cho họ cơ hội nhìn thấy tâm nhị nguyên của họ được trình chiếu ra bên ngoài.

Là Ki-tô Hằng sống, con quan tâm. Đó là tại sao con đi ra ngoài, sẵn lòng làm xao động mọi người. Nhưng việc duy trì lòng quan tâm này là một thế cân bằng rất tế nhị. Vì con rất dễ trở nên bận tâm quá đáng, con bước qua lằn ranh và bị dính mắc muốn đạt một kết quả đặc thù qua hành động của mình. Con trở nên dính mắc muốn tạo một phản ứng đặc thù nơi người khác.

Đây là một lằn ranh rất tinh tế, là lằn ranh giữa việc ở lại trên con đường thẳng và hẹp của Ki-tô, và việc bước ra con đường rộng của phản Ki-tô. Vì con thấy đó, mặc dù con quan tâm về người khác và muốn đánh thức họ, con không bao giờ được quên là Thượng đế đã cho họ quyền tự quyết. Con chỉ cho họ tấm gương của con, cho họ hiểu biết, sáng ngộ, minh triết, Lời Hằng sống sẽ giúp họ tự do chọn lựa rời bỏ tâm thức nhị nguyên. Nhưng con không được dính mắc vào một kết quả đặc thù.

Biểu hiện bên ngoài của sự dính mắc này là những người đếm số. Hội thánh của họ có bao nhiêu thành viên? Môn phái của họ có bao nhiêu thành viên? Con hãy nhìn biết bao tín hữu đạo Cơ đốc tự hào tôn giáo mình lớn nhất thế giới. Nhưng thật  ra đạo Cơ đốc vô cùng đa dạng cho nên con khó lòng xem đó là một tôn giáo nhất thống.

Nhưng điểm bao quát hơn mà ta muốn nói lên là như sau: những ai chơi trò đếm số, so sánh tôn giáo mình với tôn giáo khác – và cảm thấy nhu cầu tôn giáo mình phải hay hơn – hiển nhiên đã chứng tỏ là họ dính mắc. Có thể họ vẫn phục vụ một động cơ trong sáng tương đối, nhưng có một sự dính mắc làm tha hóa động cơ của họ, thậm chí nó mở tâm họ ra với lời dối trá gian manh rằng mục tiêu có thể biện minh cho phương tiện.

Con không ở đây để thay đổi thế giới

Cho nên con yêu dấu, làm thế nào con sẽ bước trên sợi dây chênh vênh của Ki-tô Hằng sống trong hành động mà không rơi xuống quá xa vào một trong hai đối cực nhị nguyên? À, con phải trước tiên giữ vững một sự thật trong tâm con: Là Ki-tô Hằng sống, con không ở đây để chế tạo một thay đổi vỏ ngoài đặc thù trên trái đất! Con không ở đây để đưa Hoa Kỳ tới mức công nhận các chân sư thăng thiên. Con không ở đây để đem lại hòa bình thế giới. Con không ở đây để phơi bày nhóm thượng tôn quyền lực cùng sự khuynh loát nền kinh tế của chúng. Con không ở đây để lật đổ hệ thống ngân hàng quốc tế. Con không ở đây để lật ngược vụ án Roe vs. Wade.

Con hãy để ý là ta không bảo một số việc trên không là mục tiêu chính đáng cần đạt được và cần xảy ra. Nhưng con không ở đây để khiến nó xảy ra. Bởi vì những gì xảy ra trên địa cầu phải xảy ra qua quyền tự quyết của mọi người. Và do đó con thấy tại sao hình thức chính quyền tại Hoa Kỳ – tại sao Hiến pháp và Tuyên ngôn Độc lập – bao gồm khái niệm “Chúng ta, nhân dân Mỹ”. Điều con có thể làm trong tư cách Ki-tô Hằng sống là đánh thức mọi người để họ có thể chọn những chọn lựa tốt nhất. Nhưng Ki-tô Hằng sống không hề là một nhà độc tài xông vào giành lấy quyền hành, hay tước quyền từ tay một kẻ độc tài khác mà mình xem là kẻ xấu, kẻ cực ác trong vở tuồng.

Khi con rơi vào cái bẫy nghĩ rằng con ở đây để tạo ra môt kết quả đặc thù – khi con ở đây để lật đổ chế độ của nhóm này hay nhóm kia, của tà lực này hay tà lực kia – thì con làm gì chứ? À, con làm điều mà Giê-su đã mô tả, rằng thế giới là một sân khấu và cuộc sống là một vở tuồng với nhiều vai khác nhau. Trên thế giới có nhiều vai đóng được quy định theo tâm thức nhị nguyên. Và có một vai do tâm rắn tạo ra nhằm đặc biệt gài bẫy những ai đã thức tỉnh con đường quả vị Ki-tô nhưng chưa đạt được sự cân bằng. Và họ khoác lấy vai này, tưởng rằng khi mình là đại diện của Ki-tô thì mình phải giao chiến, phải tiêu diệt các đại diện của phản Ki-tô, phải chống lại hành vi của những kẻ mình xem là đại diện của phản Ki-tô, hầu tạo ra một kết quả đặc thù.

Con có thấy cái bẫy này vi tế lắm không? Thật quá dễ dàng để một người đã thức tỉnh con đường tâm linh – đang bốc lửa muốn phụng sự Thượng đế và chính nghĩa của Ki-tô – bước vào vai trò đó mà không hay biết mình đang làm gì. Thế rồi họ đi trật đường, có khi hàng chục năm trời, nghĩ rằng mình đang làm việc cho Thượng đế, cho các chân sư thăng thiên, nhưng kỳ thực họ chỉ đơn giản diễn thêm một vai tuồng nhị nguyên, hầu như không đóng góp gì cho việc làm đích thực của chân sư thăng thiên là nâng cao mọi người khỏi tâm thức nhị nguyên.

Con có thấy điều ta nói? Quan tâm chủ yếu của các thày không phải là đem lại hòa bình thế giới, kéo Hoa Kỳ ra khỏi Iraq, lật ngược vụ án Roe vs. Wade, hay lật đổ nhóm thượng tôn tài chính. Quan tâm chủ yếu của các thày là đánh thức con người khỏi sự mù quáng do tâm thức nhị nguyên gây ra, vì khi con người thức giấc khỏi nhị nguyên, họ sẽ có những chọn lựa đúng đắn. Và như vậy một khi nhị nguyên được chinh phục thì mọi thứ khác sẽ tự nhiên rơi vào đúng chỗ. Con có thấy không? Như Ki-tô có nói: “Trước hết hãy tìm vương quốc Thượng đế và sự công chính của ngài, rồi mọi chuyện kia sẽ được bồi thêm cho con.”

Không dính mắc vào kết quả đặc thù

Qua hàng thiên niên kỷ, các thày đã chứng kiến những ai đi theo một tôn giáo chân chính – từ giáo lý của Abraham, giáo lý của Moses, qua giáo lý của chính ta trong tư cách là Phật, rồi giáo lý của Giê-su cho đến giáo lý của các chân sư thăng thiên – phải, các thày đã chứng kiến làm thế nào con người đã cất bước đi theo những lời dạy đó, nhưng với sự nóng lòng quá đáng, họ đã trở nên dính mắc với việc chế tạo những kết quả vỏ ngoài. Họ đã đi vào ngõ cụt tìm cầu trước tiên những chuyện của thế gian thay vì cố đạt được mục tiêu thực sự là thể nhập trọn vẹn giáo lý mà họ đi theo – thể nhập cho đến khi họ trở thành chính giáo lý, trở thành một với giáo lý, trở thành một với vị thày.

Và nếu con cố đạt trước hết mục tiêu hợp nhất đó và việc sử dụng đúng đắn các khả năng sáng tạo – nghĩa là sử dụng các khả năng sáng tạo của con một cách cân bằng – thì kết quả vỏ ngoài có thể sẽ được bồi thêm cho con, hay cũng có thể là không. Bởi vì một lần nữa, ý muốn của Thượng đế là con người có quyền tự quyết và họ được phép biểu hiện quyền tự quyết này trên trái đất. Chắc chắn các chân sư thăng thiên mong muốn nhìn thấy một số kết quả vỏ ngoài, và nói cho cùng, các thày mong muốn nhìn thấy vương quốc Thượng đế và Thời Hoàng kim của Saint Germain thị hiện trong vật lý trên trái đất. Nhưng những thứ đó không thể xảy đến qua việc con làm sai cách. Vì như Giê-su diễn tả: “Với con người thì không thể, nhưng với Thượng đế thì có thể, vì đối với Thượng đế mọi chuyện đều khả dĩ.”

Vậy đâu là điểm thứ nhì con phải suy ngẫm để tìm thấy cân bằng? Chính là điều ta từng giảng dạy trong tư cách là Phật – sự không dính mắc. Không dính mắc không giống như không quan tâm hay thờ ơ. Vì đúng là khi ta chứng quả Phật, không phải là ta không dính mắc đến độ thờ ơ. Và đó là tại sao ta đã không chỉ ở lại trong Niết bàn để trải nghiệm trạng thái cực lạc mà các thày vừa đề cập hồi nãy.

Ta đã tình nguyện trở lại địa cầu và giảng dạy, và qua đó ta đã phơi mình cho các thế lực trên trái đất tấn công. Không phải là các thế lực này có khả năng chạm đến ta, nhưng dẫu sao ta vẫn phải bước đi trong thế giới nhị nguyên và xử lý các đệ tử đến với ta ở đủ loại tầng tâm thức nhị nguyên khác nhau. Và mặc dù có rất ít ghi chép về điều này, nhưng ta có thể cam đoan với con là một số đệ tử này đến gặp mặt ta còn bị vướng kẹt rất sâu trong tâm thức nhị nguyên, và họ đã làm những chuyện với ta y hệt như một số môn đồ của Giê-su đã làm với Giê-su – như được minh họa qua cách cư xử của Peter muốn áp đặt hộp tư duy của ông lên Ki-tô Hằng sống, để Ki-tô Hằng sống bị ép uổng phải tuân theo hộp tư duy đó. Cho nên cũng có những đệ tử muốn ép uổng Phật Hằng sống phải nằm gọn trong hộp tư duy của họ thay vì cho phép Phật dẫn họ vượt ra khỏi hộp.

Không dính mắc là chìa khóa của quả vị Phật. Và không dính mắc là chìa khóa của quả vị Ki-tô. Và sự không dính mắc này đến từ cái hiểu mà ta vừa trình bày. Mục tiêu đích thực của các chân sư thăng thiên cho trái đất này là nâng cao tâm thức con người vượt ra khỏi nhị nguyên để họ với lên và khám phá Lời Hằng sống bên trong họ, và như vậy họ sẽ lấy những quyết định đúng đắn một cách tự nhiên – do họ có được cái mà một số môn đệ của ta sau này gọi là “sơ tâm”, là cùng cái tâm được Giê-su mô tả khi thày nói rằng trừ khi con trở thành như trẻ nhỏ thì con không thể vào được Nước Trời.

Tại sao sơ tâm là chìa khóa

Tại sao vậy chứ? Vì con có cái tâm trong sáng – tâm không dính mắc, tâm không thành kiến – không tìm cách ép uổng thế gian để nó nằm gọn trong hộp tư duy của con, không tìm cách ép uổng Thượng đế và Lời Hằng sống vào hộp tư duy của con. Con sẵn lòng xuôi chảy với Lời Hằng sống, sẵn lòng làm cánh cửa mở và cho phép Lời Hằng sống biểu đạt xuyên qua con, tức con chính là Dòng sông sự Sống, con xuôi chảy với dòng sông đó, rồi như vậy ánh sáng của dòng sông có thể chảy xuyên qua con và đánh thức người khác.

Con không thực sự tin là Giê-su lẫn ta đã đánh thức con người qua lập luận trí thức, phải không con? Con không thực sự tin là các thày khôn ngoan đến độ có thể đánh bạt trí thông minh của những kẻ thách đố các thày, phải không con? Chắc hẳn con đã đọc trong Kinh thánh là thày Giê-su đã khiến cho trí thông minh của người Pha-ri-si lẫn các thày thông giáo bị lúng túng, nhưng đến khi thày rời khỏi thì họ lại quay ngay về với kinh điển của họ và tìm ra những câu trích dẫn sẽ giúp họ đạp đổ hay phớt lờ những gì thày vừa nói, và qua đó họ cũng phủ nhận thày là Ki-tô Hằng sống.

Đạo Phật KHÔNG là một tôn giáo vô Thượng đế

Nếu con nghiên cứu lịch sử đạo Phật, con cũng biết là ta từng đặt vấn đề với các nhà Bà là môn trong đạo Ấn – họ cũng kiểm soát người dân của họ giống như giới tu sĩ đạo Do Thái vào thời Israel cổ. Và cũng vậy, họ đã chối bỏ ta bằng cách trích dẫn kinh Veda cùng mô hình vũ trụ của họ. Nhiều người trong số họ chối bỏ ta vì ta không nói đến Thượng đế hay các khái niệm siêu hình.

Con yêu dấu, tại sao ta lại không đề cập? À, ta có thể nói chắc với con là lý do không phải – như một số Phật tử hiện đại tin như vậy – là vì ta không công nhận sự hiện hữu của Thượng đế. Không, ta thực sự có công nhận Thượng đế cùng sự hiện hữu của Thượng đế là nguồn cội của mọi sự sống. Nhưng ta cũng biết chìa khóa để vươn lên khỏi cuộc vật lộn nhị nguyên đã tiếp diễn trong lãnh vực tôn giáo là giúp mọi người đạt được một trải nghiệm nội tâm của tánh linh sự thật, của Lời Hằng sống. Bởi vì một khi họ có được trải nghiệm nội tâm này thì họ sẽ ít khả năng bị mắc bẫy trong cuộc vật lộn nhị nguyên nhằm chứng minh kinh điển này mới đúng, hoặc cách diễn giải kia mới hữu lý và hay hơn – trong khi kỳ thực mọi cách diễn giải kinh điển đều sai lạc vì chúng khởi lên từ tâm thức nhị nguyên.

Mục đích của ta là trước hết nối kết con người với Lời Hằng sống ngay bên trong họ, vì khi đó ai nấy sẽ có thể có một cách tiếp cận hoàn toàn mới về chủ đề Thượng đế cùng chủ đề thiên đàng và các khái niệm siêu hình. Cho nên ta đã quyết định chọn một thế đứng vô cùng thực tiễn nói rằng, trên cơ bản, chừng nào con người còn bị vướng kẹt trong ảo tưởng của Mara thì làm thế nào họ có thể biết chắc bất cứ gì về cõi tâm linh? Và vì vậy, nếu chúng ta muốn hiểu biết về các đề tài này thì chúng ta phải bước vào nội tâm, tạo được mối liên lạc trực tiếp với cõi tâm linh, rồi sau đó chúng ta mới có nền tảng thích đáng để nói chuyện về Thượng đế.

Nhiều Phật tử sau đó và nhiều Phật tử thời nay đã không hiểu được điều này, cho nên họ nghĩ rằng đạo Phật là một tôn giáo vô Thượng đế. Và điểm này, tất nhiên, rất hợp ý một số người phương Tây, vì họ đã bị đốt cháy bởi lửa địa ngục và diêm sinh của những nhà thuyết pháp trong đạo Cơ đốc chính thống và cực chính thống, đến độ họ sẵn sàng đổ cả chậu nước dơ của giáo hội mà không dè trong chậu nước có một đứa bé, và họ chối bỏ luôn cả Thượng đế. Thế là họ quay sang đạo Phật trong ý muốn né tránh không muốn nhắc đến hai chữ T.Đ. mà họ nhất định không để vuột qua miệng họ.

Con không thể đạt được giác ngộ bằng cách xem giác ngộ là một tiến trình không kết thúc bằng sự hợp nhất với Thượng đế. Và đây là điểm các Phật tử thời nay có thể học được từ Giê-su, khi Giê-su nói lên công khai sự hợp nhất của thày với Thượng đế: “Ta với Cha ta là một.” Đúng là như vậy, chính ta cũng nói lên một điều tương tự, vì ta chẳng nói rằng mọi thứ đều là Phật tánh hay sao? Phật tánh chẳng phải là một cách khác để mô tả Thượng đế, mô tả LOGOS, là nguồn cội của tất cả hay sao? Quả thực những ai là đệ tử tâm linh nhạy bén có thể học được một số điều từ tấm gương của Phật. Và như con thấy trong bài thỉnh tuyệt vời mà các con vừa đọc, quả thực có một sự tương đồng giữa lời lẽ của Ki-tô với lời lẽ của Phật. Ngôn từ chỉ khác đôi chút nhưng ý tưởng được diễn tả thì giống nhau.

Đạo Phật phương Tây không phải là giải đáp

Ta khuyên con nên học một số kinh Phật giáo như Kinh Pháp Cú và một số kinh khác, từng quyển một, khi nào con thấy cảm hứng. Nhưng ta không muốn con rơi vào cạm bẫy tưởng rằng con phải trở thành một Phật tử trong thế giới Tây phương. Vì ta phải thẳng thắn nói với con là có nhiều người ở phương Tây tự nhận mình là Phật tử hay là người theo đạo Phật, nhưng họ tự hại thân khi họ đi theo một dạng Phật giáo Đông phương chẳng hạn như Phật giáo Tây Tạng. Và ta phải nói với con hai điều về hiện tượng này khiến ta hơi lo lắng – nếu dĩ nhiên một vị Phật không dính mắc có thể lo lắng về bất cứ chuyện gì.

Như đã xảy ra với đạo Cơ đốc, đạo Phật cũng đã phát triển khác xa với các ý tưởng ban đầu của ta. Và một trong những điều đã xảy ra trong đạo Phật – tương tự như trong đạo Cơ đốc và tất cả mọi tôn giáo khác – là một số khía cạnh của đạo Phật đã tập trung quá đáng vào các nghi thức vỏ ngoài. Con thấy một ví dụ điển hình nhất là Phật giáo Tây Tạng, họ có chùa chiền trang trí thật công phu, những bánh xe cầu nguyện để tín đồ quay không ngừng, tưởng rằng qua thiết bị máy móc này họ sẽ tăng triển tâm linh một cách nào đó. Ta không nói là không có tác dụng, nhưng tác dụng thật ít ỏi so với khi con đọc kinh và phú cho bài kinh ngọn lửa của tim con – như con cũng biết rõ sự khác biệt giữa bài cầu nguyện đọc máy móc với bài cầu nguyện đọc lên bằng tất cả trái tim nhiệt thành.

Cho nên đúng vậy như con thấy, Phật giáo Tây Tạng có quá nhiều nghi thức đến độ hầu như họ đã đánh mất cốt lõi những lời dạy ban đầu của ta. Điều này không có nghĩa là không có ai hiểu được cốt lõi đó, nhưng ta phải nói với con, số người này không nhiều lắm – không nhiều bằng số đạo sư đủ loại với cái tên lạ lẫm được quá nhiều người tầm đạo tại phương Tây sùng kính.

Một điều nữa mà ta muốn đề cập với con, con yêu dấu, là Phật giáo Tây Tạng đã không hoàn toàn đi lạc đường. Nhưng Phật giáo được phát triển ở Tây Tạng là có lý do. Và có một lý do vì sao Tây Tạng bị cô lập từ bao nhiêu năm trời, là vì ở đó có một mạn đà la những con người mang một tư duy đặc thù. Cho nên, ý ta muốn nói là như sau: Phật giáo Tây Tạng không thích hợp lắm cho tư duy người Tây phương vốn rất khác với tư duy người Tây Tạng.

Và ta cũng nói qua một điểm nữa – vì trong tương lai ta sẽ trình bày chi tiết hơn – rằng Phật giáo Tây Tạng đã quả thực trở thành một cái hộp tư duy khép kín, một hệ thống khép kín. Và đây chính là tại sao quốc gia Tây Tạng đã trở thành nạn nhân – điều không thể tránh được – của định luật thứ hai của nhiệt động học. Và thế lực ngoại lai nhảy vào xâm chiếm là những đoàn quân Trung quốc. Ta hoàn toàn không dung túng hay biện minh cho cuộc xâm lăng của Trung quốc, nhưng ta chỉ muốn chỉ ra sự kiện lô-gíc là nếu Phật giáo Tây Tạng đã không trở thành một cái hộp khép kín thì cuộc xâm lăng đã không xảy ra.

Cho nên con thấy đó, việc đem hệ thống khép kín của Phật giáo Tây Tạng xuất khẩu sang phương Tây không thực sự là con đường thích hợp. Và việc lưu đày đức Đạt lai Lạt ma và cố giữ lấy truyền thống Tây Tạng cũng không phải là con đường thích hợp. Bởi vì nếu Đạt lai Lạt ma hay người kế vị có bao giờ trở lại Tây Tạng thì chuyện này không thể xảy ra trong cùng một tình trạng như khi ra đi. Vì trừ khi có sự tự thăng vượt thì tình trạng của Tây Tạng không thể thay đổi đến mức đức Đạt lai Lạt ma có thể trở về nước.

Không dính mắc là chìa khóa cho tương lai nước Mỹ

Vậy bây giờ hãy để ta đi hết vòng tròn và trở lại với công việc các con đang làm ở buổi hội nghị này, công việc các con đang làm với bài thỉnh vừa qua. Và bài thỉnh đó thật là một nghi thức độc đáo chưa bao giờ được thấy trong suốt lịch sử ghi chép của hành tinh này. Ta không nói ra điều này để tạo bất kỳ niềm tự hào hay tự tôn nào, mà chỉ để công nhận: Đã bao giờ từng có một sáng kiến mãnh liệt đến như vậy để kết hợp lời dạy của Ki-tô với lời dạy của Phật?

Và sự độc đáo của nghi thức trên là những gì Mẹ Mary vừa mô tả, là nó đã đập vỡ các khối ở Trung Đông để ánh sáng từ bán cầu phía Đông có thể chảy sang bán cầu phía Tây. Và công việc các con đã làm trong hội nghị này là đập bể các chướng ngại chặn nghẽn luồng chảy ánh sáng vào bán cầu phía Tây, ngay đây tại Washington D.C.

Vì như các con thấy rõ, chính phủ Hoa Kỳ đã rơi vào đúng cái bẫy mà ta vừa mô tả trong bài giảng này. Quốc gia này đã được thày Saint Germain thành lập để đại diện cho ánh sáng của Ki-tô trong thế giới, đại diện cho sự thật của Ki-tô và ánh sáng của Ki-tô. Cho nên Hoa Kỳ có một vai trò hành xử không những như một thành lũy của tự do, mà còn là một đại sứ cho tự do, để đem đến khắp thế giới nền tự do cùng với một hình thức chính phủ khai sáng hơn.

Nhưng nước Mỹ đã trở nên mất cân bằng không kém gì các đệ tử ta mô tả hồi nãy, cứ tưởng rằng mình phải làm vậy bằng cách giao chiến với những kẻ mình xem là đại diện cho phản Ki-tô – cho dù đó là Đức Quốc xã, Liên Xô, Trung quốc hay khủng bố Hồi giáo. Ta không đang bảo là trên thế giới không có những thế lực đại diện cho phản Ki-tô, nhưng ta sẽ đơn giản nói – một lần nữa – là nếu con nghĩ con có thể đem lại Nước Trời qua bạo động và vũ lực quân sự để tiêu diệt mọi thế lực phản Ki-tô, thì con đã không hiểu lời dạy của Ki-tô. Vì chẳng phải là Giê-su đã dạy, đừng cưỡng lại cái ác mà hãy chìa má bên kia? À, làm thế nào con có thể chìa má bên kia và tiếp tục chìa má khi họ cứ tát con hết lần này đến lần khác? Con yêu dấu, con có khả năng làm được, nhưng chỉ khi nào con có được sự không dính mắc của Phật, không phải sao?

Bởi vì nếu không, khi họ đánh con lần đầu – hay lần thứ mười – con sẽ nổi giận và nghĩ mình phải làm gì đó để chặn họ lại. Nhưng con thấy không, điều mà Hoa Kỳ đã nên làm sau vụ 9/11 là – theo nghĩa đen và cũng theo nghĩa bóng và nghĩa tâm linh – chìa má bên kia. Và hành động này đã có thể đóng góp nhiều hơn cho việc phán xử các thế lực phản Ki-tô so với bất kỳ biện pháp quân sự nào tốn đến hàng tỷ và hàng ngàn tỷ đô la. Và những ngàn tỷ đó đã có thể dùng ích lợi hơn trong việc nuôi sống bầy chiên của Ki-tô.

Sự thức tỉnh mà thày Saint Germain vừa nói đến quả thực là sự thức tỉnh của dân tộc Mỹ trước thực tế là cho dù họ có một sứ mệnh và được Saint Germain đỡ đầu, họ đã đưa sứ mệnh này đi lầm hướng khi họ trở nên mất cân bằng, quá nôn nóng, quá chú tâm và dính mắc vào những kết quả vỏ ngoài đặc thù. Cho nên thay vì với tay lên vương quốc Thượng đế cùng sự công chính của ngài, thì họ đã tìm cách dùng sức mạnh quân sự vượt trội để ép buộc một kết quả mà họ tưởng phải xảy ra.

Sự mù quáng toàn diện của lớp thượng tôn quyền lực

Và tất nhiên, con thấy được những kẻ nêu gương, những kẻ thể hiện trạng thái tâm thức đó đến độ cùng cực, chính là các thành viên của lớp thượng tôn quyền lực. Vì ta có thể cam đoan với con, tuyệt đại đa số những người đó tuyệt đối tin rằng họ đang làm điều phải. Nhiều người còn tin là họ đang làm công việc của Thượng đế hay phục vụ đại nghĩa của Ki-tô. Vì họ thực sự tin là họ cao trội hơn người khác, cho nên họ phải cai trị mọi người, cai trị đất nước này.

Nhưng điều này hoàn toàn đi ngược lại mục đích thực sự mà ta vừa mô tả ở trên, cụ thể là các thày có mục đích đánh thức loài người, trong khi các thế lực phản Ki-tô, các thày giả của phản Ki-tô, muốn ép buộc mọi người phải đi vào cái mà họ gọi là Nước Trời theo tiêu chuẩn nhị nguyên của họ. Phải, các con đã đạt được một chiến thắng ở hội nghị này, một chiến thắng làm mềm nhũn cái tư duy cứng nhắc đã giam cầm Washington D.C. và toàn bộ chính phủ liên bang Hoa Kỳ, đã khiến họ đui mù với Trung đạo – là con đường Trung đạo đã có thể tránh được nỗi xấu hổ của cả nước trong cuộc chiến Iraq. Cho nên các con đã dọn sạch một con đường may ra sẽ giúp cho chính phủ Mỹ khởi sự quay trở về – hay đúng hơn, lần đầu tiên bắt đầu tìm kiếm – con đường Trung đạo.

Với chiến thắng đạt được ở hội nghị này, các con đã hình thành một thái cực Omega cho chiến thắng đạt được trong tháng qua bởi nhiều người khắp thế giới qua Bài thỉnh Hiện tại Vĩnh hằng. Và điều này đã cho phép các thày tạo ra một mạn đà la vô cùng quyền năng, một cơn lốc năng lượng vô cùng mãnh liệt, nhờ vậy tất cả ánh sáng được cầu thỉnh bởi nhiều người khắp thế giới qua bài thỉnh trước giờ đây có thể được hội tụ lại, tập trung lại, vào nơi có nhu cầu lớn nhất ngay lúc này, tức là ở Washington D.C. đây.

Và như vậy con đã tham gia vào việc hình dung ánh sáng đi xuống trên Tượng đài Washington, lan tỏa đến mọi cơ quan của chính phủ liên bang, làm dịu đi cái tư duy đông đặc, những cái hộp tư duy, những mối vướng mắc với một thế giới quan đặc thù cho rằng thế giới phải tuân theo hộp tư duy hiện thời của mình thay vì với lên Lời Hằng sống, vượt khỏi mọi hộp tư duy và thực sự hoàn thành sứ mệnh của mình.

Như Mẹ Mary và El Morya vừa trình bày, sự thật là để có một thay đổi đích thực ở vùng Trung đông, phải có trước tiên một thay đổi đích thực ở Hoa Kỳ. Vì nước Mỹ bây giờ đã dấn quá sâu vào Trung Đông – qua vụ can thiệp ở Iraq, liên hệ với Israel và nhiều nước khác – cho nên không có cách nào đem lại tình trạng hòa bình ở Trung Đông mà không có sự tham gia của Mỹ.

Nhưng không có cách đem lại hòa bình trừ khi Hoa Kỳ tỉnh trí lại, trước hết bước vào Trung Đạo và tìm được cân bằng, nhận ra ý nghĩa đích thực của việc làm đại diện cho Ki-tô trên thế giới là gì, thay vì mắc bẫy rơi vào một trong hai vai trò nhị nguyên do tâm rắn quy định. Cho nên ta cho các con và mọi người khắp thế giới biết rằng các con đã đạt được và xứng đáng được nhận một sự rải truyền ánh sáng thật hi hữu vào ngày Chủ nhật Phục sinh hôm nay, một tia sáng được các thày phóng ra về nơi có nhu cầu lớn nhất, tức là ngay đây ở thủ đô nước Mỹ.

Một đặc ân từ Chủ tể Thế gian

Qua bài thỉnh này, các con đã nhận được một đặc ân từ trái tim ta. Vì ta phải nói với con là trách vụ của ta, trách vụ tâm linh mà ta được ủy nhiệm, có tên là Chủ tể Thế gian. Có nghĩa là, trong nghĩa đen, ta cầm giữ thế giới cùng đời sống của mọi người trên thế giới trong tay mình. Sợi dây pha lê nối kết mỗi người trên địa cầu với Hiện diện TA LÀ của họ đi qua trái tim ta, và do đó xuyên qua trái tim của Phật mà mọi người có tiềm năng biểu lộ ngọn lửa Thượng đế trên địa cầu.

Vậy đặc ân ta ban cho các con hôm nay là ta sẽ neo trụ Hiện diện của ta nơi tòa nhà Quốc hội, dưới mái vòm của phòng rotunda trong tòa nhà Quốc hội. Và nếu có ai khắp thế giới sẵn lòng thì họ có thể neo trụ một phần ngọn lửa Thượng đế của họ ở đó biểu lộ qua tim ta và Hiện diện của ta. Vậy ta yêu cầu những ai nghe hoặc đọc bài truyền đọc này hãy hình dung là ta đang ngồi trong tư thế hoa sen ngay trung tâm tòa nhà Quốc hội. Và các con ngồi quanh ta trong tư thế hoa sen. Đừng để ý đến các thượng nghị sĩ và dân biểu đi ngang qua thấy đây là một cảnh tượng kỳ lạ. Hãy không dính mắc, vì chúng ta ở đây trong Hiện tại Vĩnh cửu. Và ta sẽ ở lại đây trong Hiện tại Vĩnh cửu vượt khỏi thời gian lẫn không gian.

Vậy con hãy hình dung cùng với ta là chúng ta đang ngồi đây trong an bình toàn hảo của Phật. Chúng ta không quan tâm đến những gì đang diễn ra trong Hạ viện lẫn Thượng viện. Chúng ta không quan tâm đến những suy tư phi lý của các vị dân cử. Chúng ta không quan tâm đến những quyết định của họ. Chúng ta chỉ lo ở lại trong An bình của Phật, neo trụ ánh sáng này nơi toà nhà Capitol để đối trọng lại.

Mặc dù có một số vị dân cử chắc chắn có thể xem là hiện thân của tâm thức phản Ki-tô, nhưng có nhiều vị dân cử khác của đất nước này có ý định tối ưu và họ đại diện cho tâm thức của dân tộc Mỹ trong trạng thái hôm nay. Không dễ dàng gì cho họ đến Washington D.C. để phải đối mặt với những áp lực dữ dội mà mọi người đang gửi tới họ từ khắp mọi nơi.

Cho nên chúng ta không ở đây để khiến các vị dân cử đó đưa ra những quyết định đặc thù. Chúng ta ở đây để neo trụ An bình của Phật có tiềm năng giải thoát một số vị đó khỏi những áp lực đang kéo họ vào hai đối cực nhị nguyên, và như vậy cho phép họ cảm nhận được một sự tĩnh lặng nội tâm sẽ nối kết họ lại với mục đích ban đầu, với mơ ước ban đầu khi họ lần đầu tiên quyết định ra ứng cử. Có lẽ nó sẽ nối kết họ lại với truyền thống đích thực của những vị sáng lập nước Mỹ cùng các nguyên lý tâm linh của dân tộc Mỹ, để họ nhận ra là họ không phải gục ngã trước áp lực của các nhóm vận động hành lang, các nhóm đặc quyền đặc lợi, của giới truyền thông, của các nghị sĩ khác, của chính đảng phái họ đang muốn họ phải tuân theo đường lối của đảng và chơi trò chính trị của đảng thay vì làm điều phải.

Thay vào đó, họ có khả năng bước vào bên trong chính họ. Họ có khả năng đứng lên bảo vệ những gì họ thực sự tin tưởng, những nguyên tắc chân thực của dân tộc này, và họ có thể nói: “Tôi đã chán những trò chính trị đảng phái. Trong tim tôi biết rõ điều gì là phải, và tôi sẽ theo đó nói lên ý nghĩ của mình trong hội trường này, tôi sẽ theo đó bỏ phiếu. Bởi vì tôi không được người dân bầu lên để làm con múa rối cho nhóm thượng lưu quyền lực. Tôi đã được bầu lên để đại diện cho “chúng ta, nhân dân Mỹ”, và tôi không quên là tôi đến từ “chúng ta, nhân dân Mỹ”. Tôi ở đây để đại diện người dân chứ không phải nhóm thượng tôn quyền lực cùng những trò lũng đoạn của chúng. Tôi sẽ giữ vững lập trường của mình dù chuyện gì có xảy ra. Và tôi sẽ giành lại chính quyền này khỏi tay nhóm thượng tôn quyền lực, trao nó lại cho người dân là người sở hữu chính quyền. Bởi vì tôi là một đại diện chân chính của Saint Germain.”

Các con là những đại diện chân chính của Saint Germain. Và bây giờ con hãy hình dung Ngọn lửa Tự do và Saint Germain cùng Hiện diện của thày đi xuống từ cao trong một luồng ánh sáng, neo trụ Hiện diện của thày ngay trong phòng rotunda của toà nhà Quốc hội. Sau đó sự Hiện diện đó uốn cong giống như vòng cung con thấy ở Saint Louis nơi Tượng đài Washington – giống như một vòng cung ánh sáng tạo ra hai tiêu điểm của Alpha nơi Tượng đài Washington và của Omega nơi toà nhà Quốc hội. Hình ảnh này tượng trưng cho những gì các thày đã nói trong hội nghị này, là sự kết tụ một chính quyền của Thượng đế – tức là một chính quyền nối kết với Thượng đế, đồng thời cũng là một chính quyền ở thái cực Omega, của dân, bởi dân và cho dân. Nhưng vẫn là một quốc gia duy nhất dưới Thượng đế, vì chúng ta là một dân tộc duy nhất dưới Thượng đế.

Và như vậy, con yêu dấu, thế là xong. Công việc của chúng ta đã hoàn tất. Công việc của hội nghị này đã hoàn tất. Với niềm vui to lớn, ta niêm các con trong sự an bình vô biên của Phật. An bình của ta sẽ ở với con. Ta để lại an bình của ta cho con. Con hãy đem an bình của ta theo con bất cứ nơi nào con đi đến. Và khi con cảm thấy sự căng thẳng của cuộc sống thường nhật ập tới, con hãy dành ra một ít thời gian – thỉnh thoảng – để nối kết với An bình của Phật, vì ta sẽ nâng đỡ con khi con đi qua cuộc đời. Ta sẽ nâng đỡ con miễn là quyền tự quyết của con cho phép, miễn là con tiếp tục không dính mắc. An bình. An bình. An bình. An bình.

Con có tỉnh thức?

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama ngày 20/10/2006 qua trung gian Kim Michaels.

Phật TA LÀ. Gautama là tên ta khi ta bước chân trên địa cầu. Và mặc dù ta vẫn mang tên đó, ta có một cái tên cao hơn mà một ngày ta sẽ tiết lộ cho con khi con sẵn sàng tiếp nhận được do con đã đạt tới sự hòa nhập cao hơn với tên gọi bên trong của con, với bản thể cao hơn của con mà con là.

Con yêu dấu, sau khi ta nhập Niết bàn và trở lại vũ trụ vật chất để giảng dạy, ta có gặp ba người đàn ông sửng sốt trước ánh hào quang an tịnh của ta. Họ sửng sốt trước Ngọn lửa Thượng đế tỏa sáng xuyên qua hình tướng vỏ ngoài của ta. Và họ hỏi ta là gì. Liệu ta có phải là một vị thần, một thiên thần, và một số câu hỏi khác nữa. Trong số các con, có ai biết câu trả lời của ta cho họ? Ta đã nói gì khi họ hỏi “Ông là gì?” [Cử tọa trả lời: “Ta là tỉnh thức!”] Đúng vậy, ta chỉ đơn giản trả lời: “TA LÀ tỉnh thức!” Vậy thì các con yêu dấu, chúng tôi, các chân sư thăng thiên, muốn thấy điều gì nơi các học trò của chúng tôi còn đang hiện thân? [Cử tọa trả lời: “Muốn chúng con là tỉnh thức!”]  

Đúng vậy. Chúng tôi muốn các con tỉnh thức như chúng tôi đã trở nên tỉnh thức. Cho dù chúng tôi đã nhận biết điều này sau khi thăng thiên hay trong khi còn hiện thân nơi cõi vật lý, con có tiềm năng trở nên tỉnh thức ngay khi con còn trên địa cầu. Và do đó con có khả năng thoát khỏi trạng thái ảo tưởng, trạng thái mộng du qua cuộc đời, khi con cảm thấy cuộc sống là một chiếc máy chạy bộ và con cứ chạy tới và chạy tới nữa mà vẫn có vẻ không tới được nơi nào. Và cuộc sống dường như không có mục đích, không có phương hướng hay ý nghĩa gì sâu xa hơn. Con hãy nhìn nhân loại và tự hỏi, “Có bao nhiêu người trên hành tinh này đang phần nào tỉnh thức, ý thức được họ là nhiều hơn những gì họ đang kinh qua trong đời sống mỗi ngày?” và nhờ nhận biết này mà họ thưởng thức cuộc sống sâu sắc hơn.     

Khi con tỉnh thức, có một nhận thức cốt yếu rằng con là nhiều hơn những thị hiện vỏ ngoài đó. Con là nhiều hơn hoàn cảnh vỏ ngoài. Con là nhiều hơn cơ thể vật lý của con. Con là nhiều hơn hạ trí, nhiều hơn cái cá tính vỏ ngoài đã bị thế gian này nhào nặn. Con là nhiều hơn thế. Và điều gì xảy ra khi con biết con là nhiều hơn? Phải, con không hoàn toàn đồng hóa với thế gian này nữa, với phàm nhân của con, với cá tính vỏ ngoài của con, thậm chí với cả tự ngã. Và khi con không còn hoàn toàn đồng hóa với nó nữa, tâm con sẽ không còn bị kẹt lại trong cái hộp tư duy mà tự ngã đã tạo ra. Và như vậy, ít nhất là đôi khi, con có thể bước ra ngoài hộp tư duy đó và nhìn cuộc đời với một tầm nhìn rộng lớn hơn. Con có thể nhìn toàn bộ bức tranh. Con có thể thấy được toàn khu rừng thay vì cứ đập đầu vào một gốc cây.      

Chìa khóa của tự do không phải là thăng thiên

Và đó tất nhiên là chìa khóa của tự do. Chìa khoá của tự do không phải là con vĩnh viễn bỏ lại thân xác vật lý này trong tiến trình thăng thiên. Con yêu dấu, con có đang tỉnh thức? Con có nghe điều ta vừa nói? Chìa khóa của tự do không phải là con bỏ lại vũ trụ vật chất trong tiến trình thăng thiên. Có vẻ như ta đang nói ngược lại những giáo lý trước đây của các chân sư vốn đặt trọng tâm vào việc thăng thiên như là mục đích của cuộc sống. Vậy tại sao bây giờ ta lại nói rằng thăng thiên không phải là chìa khóa của tự do? Bởi vì con không thể thăng thiên nếu con không tỉnh thức.  

Trở nên tỉnh thức không phải là một tiến trình máy móc có thể đạt được qua một số quy tắc, tín điều hay nghi lễ vỏ ngoài nào đó. Đó là một tiến trình sáng tạo chỉ có thể đạt được qua một sự tỉnh thức đã thể nhập, và do đó nó dẫn đến quyết định SỐNG tối hậu – một quyết định không do con sản xuất ra, không phải do ý chí mà có, nhưng một quyết định tự phát từ bên trong vì một hôm con quyết định là con sẵn sàng tỉnh thức. Con sẵn sàng vượt ra khỏi cái trạng thái tâm thức mà cho tới giờ con vẫn là. Con sẵn sàng vươn lên tới trạng thái nhận biết cao hơn khi một phần chú ý của con, một phần cái là của con, một phần ý niệm bản sắc của con, luôn luôn đứng ngoài tình huống hiện thời của con, luôn luôn nhìn về toàn cảnh và nhìn từ một tầm nhìn rộng lớn hơn. Và do đó, con không bao giờ hoàn toàn nhìn cuộc sống từ bên trong hộp tư duy của tự ngã.

Sự nhận biết này sẽ không đến với con một cách tự động. Không phải là cứ ngồi thiền X tíếng đồng hồ mỗi ngày trong X năm trời. Không phải là vấn đề tuân thủ bất cứ lễ nghi nào. Đây là sự nhận biết phải đến từ bên trong. Nhưng đây là một sự nhận biết có thể được trau dồi, bởi con sẵn lòng luôn luôn nhìn vượt ra ngoài tình huống trước mắt, luôn luôn nhìn vượt ra ngoài hộp tư duy hiện thời của tự ngã, hầu con không đồng hóa hoàn toàn với cái hộp đó và bị mắc kẹt trong đó.

Sự nhận biết rằng mình hoàn toàn tỉnh thức là điều mà chúng tôi mong muốn nhìn thấy nơi tất cả các con. Lý do là vì chúng tôi đã trở nên tỉnh thức, chúng tôi đã được tự do, và chúng tôi cũng muốn tất cả các con đạt được cùng tự do này, cùng niềm vui, cùng trạng thái an lạc. Đây là sự an lạc vượt khỏi mọi hiểu biết, mọi điều kiện bên ngoài – bởi vì nó không tùy thuộc vào bất cứ điều kiện nào trong thế gian, bởi vì con nhận ra rằng chìa khóa của an lạc là sự kết nối với nguồn gốc của an lạc. Và nguồn gốc của an lạc không thể tìm thấy trong thế giới vật chất, mà chỉ tìm được trong chính bản thể cao hơn của con mà từ đó nguồn cội sự sống tuôn chảy vào con.

Niết bàn không phải là tiêu diệt

Con yêu dấu, con đã không sinh tạo ra hoàn toàn không có mục đích. Cuộc đời không phải là cái máy chạy bộ. Ta biết rất rõ là một số người theo ta – hay những người tự nhận là Phật tử – đã tạo ra một thế giới quan mà họ bảo là dựa theo lời dạy của ta, một thế giới quan cho rằng cuộc sống chỉ là một tiến trình sinh ra, vươn lên mức tâm thức của Phật, rồi hoà nhập lại, tan biến trở lại vào Niết bàn nơi mình sẽ tiêu diệt. Đây là hư cấu của trí tưởng tượng con người, vì Niết bàn không phải là tiêu diệt. Đó là một tính cách sống cao hơn mà hầu hết mọi người trên địa cầu không thể mường tượng được. Cho nên đối với họ, nhập Niết bàn có vẻ như là tiêu tan. Nhưng người nhập Niết bàn chỉ tan biến khỏi tầm mắt của những ai không tỉnh thức, những ai chưa vượt lên khỏi nhị nguyên.    

Con thấy đó, các giáo lý mà Mẹ Mary và Giê-su đã ban ra về tự ngã và tâm thức nhị nguyên quả là giáo lý tinh túy cho Thời đại Bảo bình. Bởi vì loài người đã sẵn sàng nhận ra sự hiện hữu của tự ngã, sẵn sàng hiểu ra – nếu học hỏi nghiêm túc –bản chất của nhị nguyên và cách nhị nguyên ảnh hưởng tư duy như thế nào, cách nó khiến mình mù quáng trước thực tại, cách nó trói chặt mình vào cái máy chạy bộ khiến mình luôn luôn phải giao chiến với một thế lực đối nghịch mà không bao giờ đạt được mục đích của mình, không bao giờ có thể đột phá và đến được nơi mình muốn đến trong cuộc sống.

Và lý do là vì con đã bị lừa gạt bởi tự ngã và ông hoàng của thế gian, khiến con tin rằng an lạc của con, hạnh phúc của con nằm trong thế gian này. Và như vậy, con được dạy bảo là con phải đeo đuổi hạnh phúc đó và tìm nó trong thế gian. Bởi vì để đạt được hạnh phúc – họ bảo vậy – con phải khắc phục cái thế lực đối nghịch kia, và con đâm đầu vào giao chiến với đối cực ngược lại. Cuộc chiến này có thể kéo dài mãi mãi, cho tới khi con hết thì giờ.  

Bởi vì khi con tham gia vào trận chiến đó, quả là con đang tạo dựng ra kẻ đối đầu với con. Con tự phân cực con ra để trở thành một trong hai đối cực nhị nguyên, con bị mất cân bằng, và con đánh mất trung đạo. Trong thế mất cân bằng này, con tạo ra lực đối lại mỗi nỗ lực của con, vì con phóng chiếu ra một cái nhìn mất cân bằng vào tấm gương vũ trụ, và tấm gương này không làm sao khác hơn là phóng chiếu trở lại cho con một tình huống vật chất cũng mất cân bằng như thế.   

Cho nên, sự tỉnh thức có nghĩa là con nhận ra cách vận hành của tranh đấu nhị nguyên, và con quyết định con sẽ nâng cao nhận biết của mình hầu con nhận biết những lực nhị nguyên trong chính bản thân con, những lực đang phân rẽ con khỏi chính con, phân rẽ phàm nhân của con để nó chống lại chân nhân của con. Và cứ như vậy trong sự phân rẽ đó, con tạo ra những tình huống đối chọi với những mục đích của con.   

Trong một nghĩa nào đó, đây là một ân huệ, bởi vì đó là một cơ năng an toàn được cài đặt sẵn trong vũ trụ vật chất. Nói giản dị, mục đích của cơ năng này là khi con bị mất cân bằng, khi con bỏ rơi con đường trung đạo, chính sự mất cân bằng của con tạo ra một lực đối nghịch sẽ kéo con ngược trở về cân bằng. Cho nên con càng đi xa vào một đối cực – càng cố đẩy để đạt được mục đích mà con đã đặt ra cho mình – thì con sẽ càng tạo ra lực đối nghịch sẽ chống đối nỗ lực của con và tìm cách kéo con về trung điểm.  

Ảo tưởng nhân đôi

Nhưng tất nhiên, con không nhìn như vậy. Con không nhìn thấy là vũ trụ vật chất đang cống hiến cho con một dịch vụ bằng cách nó cố gắng tái lập cân bằng cho con. Nhưng không, con cho phép tự ngã của con bảo con rằng vũ trụ đang chống lại quyền lợi của con – là quyền tự do làm bất cứ gì con muốn bất chấp vũ trụ vật chất, bất chấp quy luật cân bằng. Không những con tạo ra sự mất cân bằng đã tạo ra chống đối, bây giờ con lại chống đối ngay cả sự chống đối mà con đã tạo ra. Và con đinh ninh rằng con đã không tạo ra nó, mà có một thế lực bên ngoài – có thể là ma quỷ hay là người khác – đã tạo ra nó.  

Bây giờ con đang chiến đấu trên hai mặt. Và từ hai mặt trận này, một mặt trận thứ ba sẽ dấy lên, và từ ba mặt trận đó sẽ dấy lên một mặt trận thứ tư. Chẳng bao lâu con bị bao trùm trong các trận chiến nhị nguyên đủ loại, đến độ con không còn sự chú ý nào sót lại để lùi về một bước và thầm nhủ: “Có thể có cách nào hay hơn chăng? Có thể có một cách trung đạo? Có cách nào bước ra khỏi cái máy chạy bộ cứ khiến minh lao vào những trận chiến nhị nguyên, và mình tìm được cách vượt lên trên cuộc tranh đấu?”

Đó là thông điệp của chính cuộc đời của ta. Đầu tiên khi lớn lên, ta đã sống một cuộc đời thế gian, vật chất, rồi ta nhảy sang đối cực ngược lại, ta sống trong rừng, hành hạ bản thân và thể xác vật lý vì ta tưởng thể xác vật lý là kẻ thù và ta phải kỷ luật, kiểm soát nó. Sự thật mà đa số Phật tử chưa hiểu rõ là ta đã thực sự nhận ra rằng thân xác ta cùng thế giới vật chất này không phải là kẻ thù của phát triển tâm linh. Ta thấy được kẻ thù, và nó chính là ta, là phàm nhân của ta, tự ngã của ta, những dính mắc của ta, những kỳ vọng của ta muốn cuộc sống phải thế này hay thế khác.

Cho nên điều mà chúng tôi thực sự mong muốn thấy nơi các học trò của chúng tôi trong thời đại hôm nay là các con nhận biết được điều đó và vượt lên trên những cuộc chiến nhị nguyên trong bản thân mình. Nhưng chúng tôi không chỉ mong muốn cho riêng con được lợi ích, không chỉ riêng con được an lạc hay giải thoát, mà vì trong thời đại này chúng tôi cần có những người sẵn sàng chứng tỏ được con đường tâm linh cho người khác.   

Vậy thì làm thế nào chứng tỏ con đường tâm linh cho người khác? Cách cao nhất không phải là thuyết giảng hay truyền giáo qua những giáo lý trí thức vỏ ngoài. Không, cách cao nhất là con hãy là con người mà con là, con hãy tỉnh thức hầu con có thể tỏa ra cái ánh sáng mà con là. Điều này không có nghĩa là con cần giữ im lặng, bởi vì thật sự chính ta cũng đã giảng dạy. Ta không chỉ đứng nói “TA LÀ tỉnh thức” rồi mặc kệ đó. Nhưng thuở xưa khi ta giảng dạy, ta đã không trình bày theo cách giáo lý được trình bày ngày nay 2500 năm sau,  không phải là lời dạy đã được ghi chép xuống, được dịch thuật rồi lại dịch thuật, được phiên âm rồi lại phiên âm, và như vậy đã bị phần nào loãng đi, tương tự như mọi giáo lý khác đã đi qua tâm trí của rất nhiều người còn vô minh.

Truyền rải Lời Hằng sống

Không, điều ta truyền rải là Lời Hằng sống được phú Ngọn lửa Thượng đế, được phú Bản thể Nội tâm của ta. Ta mong muốn tất cả các con có thể truyền rải Lời Hằng sống này. Và ta không muốn nói con phải đứng trước mặt nhiều người và đọc lên bài truyền đọc của chân sư. Ta muốn nói là khi con nói chuyện với người khác, dù là trong bài thuyết pháp hay cuộc đối thoại thân mật, con hãy nói ra từ Bản thể Nội tâm của con một cách tự do. Con hãy để cho ánh sáng của con tỏa ra, hầu lời nói không còn là chủ yếu, mà lời nói chỉ đơn giản là những chiếc chén thánh chứa đựng ánh sáng.   

Lời nói chuyên chở ánh sáng, đi vào trường năng lượng của người kia, nâng họ lên và chuyển hóa họ. Và đột nhiên họ ngộ ra là có một trạng thái tâm thức khác nữa ngoài tâm thức mộng du trong đời, bởi vì họ thấy được trong con một cái gì đó nhiều hơn. Họ thấy con tỉnh thức, con hào hứng, con hăng hái, con là con người mà con là, con an bình. Họ cảm thấy được sự an lạc của con và họ nghĩ: “Tôi cũng muốn như vậy!” Và con có thể nói với họ: “Bạn cũng có thể có được. Và nếu bạn cho phép tôi gợi ý, đây là con đường tôi đã đi theo. Con đường của bạn sẽ khác con đường của tôi, nhưng ít ra bạn có một khởi điểm”.  

Tất cả các con sẵn lòng học hỏi và thể nhập những giáo lý này đều có tiềm năng đạt đến trạng thái tỏa rạng ánh sáng nội tâm, làm tấm gương cho con đường tâm linh, con đường tự thăng vượt, con đường trở thành nhiều hơn. Thật sự chúng tôi, các chân sư thăng thiên, có khả năng nâng cao mức rung động của một lực trường, và đó là một trong những lý do chúng tôi đã ban ra những bài truyền đọc là sự diễn đạt của Lời Hằng sống. Nhưng con cũng có thể làm được như vậy. Con cũng có thể là cánh cửa rộng mở để nâng cao rung động, gia tốc mọi người, nâng cao tâm thức của họ, hầu họ nhận ra rằng sự sống thực sự là nhiều hơn thế. Và họ nghĩ, nếu anh ấy, nếu chị ấy đã tìm được thì có thể tôi cũng sẽ tìm được.   

Vì như chúng tôi có nói trước đây, Giê-su, Gautama, Krishna, Maitreya, Mẹ Mary, Saint Germain, El Morya, chúng tôi không phải là tấm gương tốt nhất cho mọi người đâu, bởi vì họ đã đặt chúng tôi lên bệ cao rồi và họ nghĩ rằng chúng tôi vượt ra ngoài phạm vi bình thường của con người. Cho nên họ không nghĩ là họ có thể noi theo gương chúng tôi. Vì vậy mà chúng tôi cần đến các con để chứng tỏ con đường tâm linh, hầu họ có thể đồng hóa với con, họ thức tỉnh, nhận linh hứng của con và được nâng lên chỉ do sự hiện diện của con. Bởi vì đây chính là hiện diện, là Hiện diện TA LÀ, nó nâng lên, làm cho thăng hoa, làm cho gia tốc, làm cho sinh sôi, để các khả năng của họ được nhân lên và họ trở thành nhiều hơn.

Cho nên con yêu dấu, chúng tôi, các chân sư thăng thiên, rất cần đến con giữ vai trò làm đối tác cho chúng tôi trong cõi vật chất, làm ngọn lửa tâm linh sinh đôi của chúng tôi, làm cánh cửa mở ở dưới trần gian hầu ánh sáng lớn hơn của chúng tôi có thể chiếu xuyên qua, và nâng cao những ai chưa thấy được một cách sống khác hơn là cứ mộng du trong cuộc đời, cứ sống mãi mà vẫn chưa được nếm một giây phút tỉnh thức và thực sự thưởng thức cuộc đời.     

Vượt qua sự chú trọng chính mình

Tuy nhiên như Mẹ Mary có nói, hầu con đạt được trạng thái này, con phải vượt qua sự tập trung vào ngã, cái ngã nhỏ nhoi, cái ngã hẹp hòi, cái ngã đựng trong hộp. Con phải trau dồi tình yêu rộng lớn hơn. Con phải tìm ra tình yêu lớn nhất của con, tình yêu mà con đã đến tìm ở đây vào thuở ban đầu – là món quà mà con muốn đem đến địa cầu. Là món quà mà con chỉ muốn tỏ lộ ra, và mong muốn của con mãnh liệt – tình yêu đối với món quà này mãnh liệt – đến độ con sẵn lòng đến đây để biểu lộ món quà đó.

Nếu con muốn tỉnh thức, con phải nối kết lại với tình yêu lớn đó và để cho nó lớn thêm, hầu nó trở thành một thỏi nam châm sẽ hút con ra khỏi trạng thái buồn chán, mộng du bình thường của con. Và con tỉnh thức bởi vì con yêu thích tỉnh thức, con yêu thích cảm giác có dòng ánh sáng tuôn chảy qua con. Con yêu thích nhìn thấy sự hưng phấn nơi người khác. Con yêu thích cảm thấy con là một phần của các chân sư thăng thiên cùng nỗ lực của chân sư để nâng cao tâm thức nhân loại.

Cẩn thận cái bẫy của tự ngã biến đường đạo thành cuộc chiến

Tất nhiên có nhiều cái bẫy mà tự ngã đã chế tạo ra để ngăn cản con nối kết lại với tình yêu lớn hơn của con. Một trong những cái bẫy thuộc loại tinh vi là đặt ra một kỳ vọng thiếu thực tế về con đường tâm linh, để khiến con đeo đuổi đường tu một cách mất cân bằng và, như ta đã giảng, con tạo ra một thế lực chống lại con. Đường tâm linh của con thay vì trở thành một tiến trình ngày càng tự do thênh thang, thì nó lại biến thành một cuộc đối đầu liên tục ngày càng gian nan hơn, cho tới khi rốt cuộc con sẽ bị bẻ gẫy trước áp lực, con đầu hàng và nghĩ: “Tôi sẽ không bao giờ muốn dính dáng tới chuyện này nữa.”.  

Nếu con thành thật, con sẽ thấy rất nhiều người tâm linh đã trải qua tiến trình này – họ bị sự căng thẳng bẻ gẫy và họ bỏ cuộc trên đường tu. Hay là họ quyết định rằng đó sẽ là mức tinh tấn mà họ thấy thoải mái rồi, là mức nơi họ muốn phục vụ và họ không muốn lên cao hơn nữa. Một số những người này có một cách nói mà con sẽ nghe thấy rất nhiều lần nếu con lắng nghe. Họ nói: “Tôi không cần thêm một sứ giả, tôi không cần thêm một đạo sư, tôi không cần thêm một tổ chức tâm linh nào nữa, tôi không muốn trải qua những chuyện này một lần nữa.”  

Con yêu dấu, chúng tôi, các chân sư thăng thiên, hoàn toàn đồng ý với cảm nhận “không bao giờ nữa”. Bởi vì chúng tôi không muốn bất cứ ai phải lặp lại cái chu kỳ biến con đường tâm linh thành một chiến trường như thế. Chúng tôi không muốn thấy bất cứ ai lặp lại sai lầm của mình. Nhưng ta phải nói cho con, đằng sau câu “Tôi không cần thêm một sứ giả, đạo sư, tổ chức hay giáo lý nào nữa”, đằng sau câu đó là cái mà Mẹ Mary lẫn chính ta đều đã đề cập, đó là tính vị kỷ, là trọng tâm vào bản thân mình.  

Con hãy nghe câu nói: “Tôi không cần”. Tất cả xoay chung quanh chữ “tôi”. Tất cả là về cái “tôi”. Vì những người này đã trở thành vị kỷ. Và như thế, mục đích con đường tâm linh của họ, của sự tham gia vào một phong trào tâm linh, không phải để vượt lên khỏi sự vị kỷ và phụng sự mọi sự sống. Không, mục đích của họ là tôn vinh cái tôi thấp kém, bào chữa cho cái tôi thấp kém, và đạt được cái gì đó sẽ khiến họ có vẻ cao quý hơn người khác bởi vì họ đã làm tất cả những điều tâm linh kia rồi.  

Nếu con sẵn lòng thành thật, con sẽ thấy tính vị kỷ là kẻ thù thực sự của phát triển tâm linh. Nhưng vẫn không có bảo đảm gì là bằng cách đi theo một giáo lý tâm linh vỏ ngoài – ngay cả một giáo lý chân chính của chân sư thăng thiên – không có gì bảo đảm là giáo lý vỏ ngoài này sẽ đưa con vượt qua tính vị kỷ. Bởi vì điều duy nhất sẽ đưa con vượt qua là quyết định con sẽ sẵn lòng vượt lên trên nó, sẵn lòng tỉnh thức.

Con có quyền LÀ trên địa cầu

Chắc chắn con sẽ bị một số người chối bỏ. Chắc chắn con sẽ bị người khác lên án. Chắc chắn người ta sẽ bảo là con không được phép làm vậy, con không được phép thương yêu và nhân từ, không được phép bình an, không được phép hạnh phúc, không được phép an lạc. “Ơ kìa, bạn nghĩ bạn là gì trong một thế giới nơi mọi chuyện đều nghiêm trọng và ai ai cũng phải vật lộn không ngừng, mà bạn lại tới đây, tỏa ra sự an tịnh đó và tình thương đó và ánh sáng đó – và bạn quấy rầy những người đã đồng hóa mình với cuộc chiến đấu nhị nguyên đến độ họ tin rằng không có cách nào khác?” Và như thế, con sẽ đến và con tỏa ra tình yêu thương này, và họ nhận ra là họ thật sự có một cách khác, nhưng để có được tình yêu này, họ sẽ phải buông bỏ hộp tư duy của họ.         

Và họ sẽ oán giận con. Nhưng con yêu dấu, đó là một phần của thử thách. Chính vì con đã để cho người khác khiến con ngừng tỏa ánh sáng mà con đã rời bỏ con đường tự thăng vượt đích thực, con đường trở thành nhiều hơn. Và như vậy, nhiều người trong số các con bây giờ đang một lần nữa đối mặt với cuộc điểm đạo này.

Liệu con sẽ để cho người khác – cho dù đó là gia đình, hay những người trước kia là đồng môn của con trong cùng một tổ chức tâm linh, hay thế giới nói chung – liệu con sẽ để họ ngăn con tỏa rọi ánh sáng? Hay là cuối cùng con sẽ trở thành mặt trời đó và để cho ánh sáng con chiếu ra ngoài, bất kể thế giới có nghĩ gì và nói gì? Bởi vì rốt cuộc, cho dù thế giới có nói gì đi nữa, con có quyền ở trên trái đất, và trên trái đất con có quyền LÀ tất cả những gì con là ở Bên trên, con có quyền để ánh sáng toả chiếu ra, có quyền làm chứng cho sự thật của con.    

Con có nghe ta nói không? Con có quyền Là Ki-tô, Là Phật, Là Ngọn lửa Thượng đế của con. Con có cái quyền tuyệt đối mà Thượng đế đã trao cho con. Và những ai chống đối con và không muốn con quấy rầy họ, họ không có quyền đòi hỏi như thế, bởi vì họ đã vi phạm quyền tự quyết của họ và đang cố lôi kéo người khác vi phạm giống như họ.

Quyền tự quyết không cho con quyền hủy diệt người khác. Đây chính là điều mà những kẻ bị kẹt trong tâm thức của thiên thần sa ngã sẽ không hiểu được. Họ không có quyền gì giết hại những người làm chứng cho ánh sáng. Họ không có quyền giết hại những người đó trong tình cảm, để khiến những người đó phải tắt ngọn đèn của mình đi, hay cảm thấy tủi hổ đến độ không dám tỏ lộ điều gì vượt ngoài những chuyện tầm thường.    

Con thấy đó, con có quyền Là ở đây. Con có quyền quậy động người khác. Và họ có quyền bị quậy động để họ bắt buộc phải đối diện với chọn lựa này: Là hay không Là. Và cho dù họ có phủ nhận chuyện đó – phủ nhận mình Là, cái Là mà họ thấy nơi con – thì kết quả vẫn sẽ đạt được, và một tiến trình vẫn sẽ khởi sự trong cái Là của họ. Và ta phải nói cho con một điều, trong nhiều trường hợp, khi một linh hồn gặp được một người có ánh sáng tâm linh rồi phủ nhận ánh sáng đó, thì cho tới nhiều kiếp sau họ sẽ không quên được trải nghiệm này. Và trải nghiệm này sẽ quay trở lại, ám ảnh họ cho tới ngày họ sẵn sàng nhìn vào lý do đã khiến mình giận dữ đến vậy. Và quả vậy khi nhìn vào, nhiều người đã vươn lên cao hơn và cất bước đi theo đường tâm linh, tất cả chỉ vì trong một quá khứ xa hay gần, họ đã gặp được một người cả gan bộc lộ ánh sáng của mình.

Con không thể mất gì khi chia sẻ ánh sáng

Con đang gieo hạt giống đó. Có khi hạt giống này phải nằm dưới đất rất lâu trước khi nảy mầm, và có những hạt giống sẽ rơi trên đất cằn, không bao giờ được dịp nảy mầm. Nhưng ta nói với con, không có cuộc gặp gỡ nào mà con để cho ánh sáng mình tỏa ra, là vô ích đâu con. Bởi vì ít nhất, dù phản ứng của người kia là gì, một khi con biểu lộ ánh sáng với tình thương không dính mắc, thì con cũng đã nối liền hình số 8 thành một dòng chảy toàn vẹn. Và ánh sáng của con sẽ được nhân lên, và con sẽ nhận được thêm ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con khiến cho mặt trời trong tim con rực rỡ hơn thêm.    

Khi con Là cái con là, khi con biểu lộ ánh sáng mà không dính mắc, không áp đặt bất cứ luận lý trí thức nào hay quy tắc hay hạn chế nào, thì con không thể vứt ánh sáng cho heo ăn. Con không thể phí phạm ánh sáng đó. Bởi vì ánh sáng được trao ra với sự thuần khiết của tình thương không thể trở ngược lại con với một rung động thấp hơn, dù cho người kia có làm gì, có làm tha hóa một phần ánh sáng đó đi nữa. Đó là chọn lựa của họ. Đó là nghiệp của họ. Nếu ý định của con trong sáng, con sẽ không gây ra nghiệp quả tiêu cực. Con sẽ tạo nghiệp tích cực và ánh sáng của con sẽ nhân lên gấp bội. Bởi vì thật sự, Thượng đế không là một ông chủ bất công, Thượng đế sẽ không trừng phạt con khi con làm việc tốt và những việc tốt lành này được thực hiện một cách vị tha, không dính mắc.

Rồi một ngày con sẽ đạt đến một trạng thái, một tư cách tự do, một sự sẵn lòng để là con người mà con là, khi con vượt khỏi cõi nhị nguyên là cõi nơi con có thể lầm lỗi, nơi có những hành vi đúng và những hành vi sai. Thay vào đó, con sẽ đạt được một mức, một mức cao hơn, nơi cái đúng không còn ngược với cái sai. Và như vậy hành động của con không thể lầm lẫn cho dù bên ngoài có xảy ra điều gì đi nữa. Hành động chia sẻ ánh sáng của con, để cho ánh sáng con chiếu tỏa, không thể lầm lẫn được. Bởi vì con đã ném bánh của con xuống nước, và nó sẽ không quay trở lại như số không, mà nó sẽ quay trở lại với con nhiều hơn gấp bội, nó được nhân lên bởi Hiện diện TA LÀ của chính con cũng như bởi các chân sư thăng thiên mà con là một phần nối dài.     

Làm thế nào trở nên tỉnh thức

Con yêu dấu, trở nên tỉnh thức không phải là chuyện tìm ra thuốc tiên hay một công thức bí mật. Đó là một tiến trình, và tinh túy của tiến trình này là sự quán sát, là sẵn lòng nhìn vào chính mình, nhìn vào cái xà trong mắt mình thay vì chú tâm vào cái giằm, cái hạt bụi trong mắt người khác. Bởi vì khi con sẵn lòng tự quan sát mà không dính mắc, không chỉ cố thấy những gì tự ngã muốn thấy, thì con đã bắt đầu tách mình ra khỏi tự ngã cùng những ảo tưởng của nó.  

Sự tách rời này là chìa khóa cho một nhận biết lớn hơn, là sự nhận biết lớn hơn về chính mình, mà qua đó con nhận ra con là nhiều hơn cái ngã nhỏ nhen này đang sống trong chiếc hộp nhỏ xíu, chỉ chú trọng đến mình và cho rằng toàn bộ vũ trụ phải ở đó để phục vụ cho mình. Thay vào đó, con nhìn vượt khỏi ngã và bắt đầu nhìn thoáng thấy cái Ta Cao rộng mà con là. Và điều này sẽ tái kết nối con lại với tình yêu cao hơn mà con là, tình yêu mà con đã đến trao cho địa cầu.

Và bỗng nhiên, con bắt đầu ngộ ra là mặc dù cuộc sống có những lúc thăng trầm, nhưng có một thực tại thâm sâu đằng sau dáng vẻ bên ngoài. Trong thực tại thâm sâu đó, con thấy cuộc sống trên địa cầu là một cơ hội tuyệt diệu, một món quà tuyệt diệu – một cơ hội tuyệt diệu để con biểu hiện chính con, biểu hiện sự sáng tạo của con, biểu hiện cái là bên trong con, đồng thời nâng cao mọi người khác, điều chỉnh lại thái cực của cả hành tinh cho phù hợp với viễn quan của Thượng đế.

Con hãy lâu lâu dành ra chút thì giờ bước ra ngoài cuộc sống bận rộn hàng ngày để suy ngẫm về cơ hội tuyệt vời được sống trong một cơ thể vật lý trong vũ trụ vật chất này. Hãy nhìn xa hơn tình cảnh hàng ngày của con. Hãy nhìn xa hơn những thử thách. Ta cũng biết đôi khi những khó khăn này rất lớn, hay ít ra chúng có vẻ có chút thực tế. Nhưng lâu lâu con hãy nhìn xa hơn và thấy rằng đằng sau mỗi thử thách là một cơ hội để con tự thăng vượt. Và khi con tìm sự tự thăng vượt, con sẽ không còn nghĩ mình là người hành động phải giải quyết tất cả những vấn đề mà con biết tâm vỏ ngoài không thể giải quyết được. Thay vào đó, con sẽ trầm mình vào dòng sống, để cho ánh sáng của Hiện diện TA LÀ chảy xuyên qua con, và ánh sáng này sẽ làm tan biến những vấn đề dường như không thể vượt qua với tâm vỏ ngoài.      

Và như vậy khi con dành thì giờ ra để thưởng thức cuộc đời, cuộc đời cũng sẽ trở nên dễ thưởng thức hơn đối với con. Và cuộc đời sẽ không còn là cuộc vật lộn nhị nguyên khi trong mỗi lúc con phải giao tranh với những thế lực đối nghịch. Cuộc đời con sẽ trở thành điều mà tất cả chúng tôi đều mong muốn được chứng kiến nơi con, là một vòng xoáy hướng thượng sẽ dẫn con đến tự do lớn hơn và lớn hơn nữa, cho tới khi cuối cùng con sẽ đột phá và đạt được sự không dính mắc toàn vẹn là chìa khóa đích thực của an bình và cực lạc.  

Tiến trình tiết lộ tuần tự

Ta, cũng như tất cả các chân sư, còn nhiều điều khác nữa để nói. Vì chúng tôi đang đứng trong Dòng sông Sự sống, và trong Dòng sông Sự sống, sự tự thăng vượt quả là bất tận, vô hạn. Và vì vậy, giáo lý của chúng tôi cũng không ngừng thăng vượt, không ngừng vượt khỏi mọi cách biểu đạt cũ. Con yêu dấu thấy đó, giáo lý vỏ ngoài không quan trọng lắm đâu, mà trái lại dòng ánh sáng chảy xuyên qua giáo lý vỏ ngoài mới là quan trọng. Con đừng biến giáo lý vỏ ngoài của chúng tôi thành những hình tạc trên đá mà do lòng chung thủy đặt không đúng chỗ con cứ bám giữ lấy mãi – vì con tưởng rằng con phải chung thủy với chân sư bằng cách bám chặt vào những giáo lý vỏ ngoài mà chính chúng tôi đã thăng vượt.   

Làm sao con có thể chung thủy với chúng tôi mà cứ bám vào quá khứ? Cách duy nhất để chung thủy với chúng tôi là bước đi tới cùng với chúng tôi, là tự thăng vượt, là trở nên nhiều hơn khi chúng tôi cũng càng trở nên nhiều hơn. Cho dù qua giáo lý vỏ ngoài hay qua cảm hứng mà con nhận được từ một sứ giả vỏ ngoài, hay hoàn toàn qua một tiến trình nội tâm – tức là con nhận được Lời Hằng sống ngay trong tim con – thì điều quan trọng là chảy xuôi theo.    

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, không thể bị bỏ vào bất kỳ cái hộp tư duy nào mà tự ngã con người hay bất kỳ một ai trong thế gian tạo ra. Chúng tôi chưa bao giờ ngồi vừa trong một hộp tư duy nào và sẽ không bao giờ ngồi vừa! Con hãy nhìn cuộc đời của chúng tôi mà xem. Đạo Phật không phải tự dưng mà xuất hiện. Đạo Phật là nỗ lực của ta nhằm rung chuyển hộp tư duy do Ấn giáo tạo dựng đang giam hãm con người trong một cái khung vỏ ngoài xơ cứng và tước đoạt quyền tự do Là của họ. Cũng vậy, cuộc đời của Giê-su là một nỗ lực để lay chuyển hộp tư duy của đạo Do Thái, lay động người đạo Do Thái cho văng ra khỏi hộp tư duy do chính họ tạo dựng dựa theo gương của Abraham và Moses, và chính cả hai vị này cũng đã sẵn sàng vượt ra khỏi hộp tư duy của họ, bỏ lại đời sống cũ hầu vươn tới miền đất mới – một miền không phải là một vùng đất ở nơi chốn nào đó mà là một trạng thái tâm thức.      

Có khó khăn gì để mà hiểu ra rằng mọi điều trong giáo lý tâm linh là một biểu tượng cho một sự thật cao hơn? Có khó khăn gì để nhận ra đúng một sự thật này, và từ đó thoát khỏi tàn lực, là cái động lực cũ của cả hành tinh chỉ cứ chú tâm vào thế gian vỏ ngoài thay vì vượt ra khỏi ngôn từ để vươn tới Tánh linh của Sự thật, tới Phật Hằng sống, tới Ki-tô Hằng sống, bỏ lại Phật chết và Ki-tô chết đã bị đóng hộp trong những ngôn từ, những hình ảnh bất di bất dịch?       

Con yêu dấu, đó là chân lý duy nhất mà chúng tôi mong muốn tất cả nhân loại – ít ra là mười phần trăm trên cùng của những người tâm linh nhất – hiểu được. Các con cần hiểu là có một thực tại thâm sâu vượt khỏi mọi cách diễn tả vỏ ngoài, có một chân lý tâm linh vượt khỏi mọi cách biểu hiện chân lý. Nếu con muốn ta gợi ý một sứ vụ cho đời con, con hãy chọn sứ vụ này – đem sự thật đó ra ngoài và giúp cho bất cứ ai mà con gặp thấy được rằng sự thật không chỉ có thế, rằng sự thật là nhiều hơn cách biểu đạt bên ngoài. Cái nhiều hơn đó chính là khi con vươn tới Tánh linh của Sự thật cho đến khi con hòa nhập làm một với Tánh linh, với cái ta cao hơn của con, để rồi trở thành cánh cửa mở cho Tánh linh chảy xối qua lời nói của con.      

Con hãy lấy đó là mục đích đời con – trở thành cánh cửa mở cho Tánh linh Sự thật, hay Tánh linh Tình thương, hay Tánh linh Hòa bình, hay Tánh linh Hướng dẫn Thiêng liêng, hay Tánh linh của bất cứ phẩm cách nào của Thượng đế mà tình yêu cao hơn của con đã phóng con vào vũ trụ vật chất này để con biểu hiện, để con đem lại món quà sẽ nâng cao mọi người ra khỏi trạng thái không nhận biết – là trạng thái mà Giê-su gọi là chết, tức là chết tâm linh.    

Ta phải công nhận các con vẫn còn một thể xác vật lý đang bị vấn đề nghiêm trọng với cái ghế ngồi đau lưng, cho nên ta sẽ tự giới hạn và sẽ không nói nhiều hơn. Ta chỉ xin nói giản dị là buổi chiều hôm nay, trên cõi tâm linh không có một sinh thể thăng thiên nào nhìn xuống buổi nói chuyện này mà không cảm thấy một niềm vui mừng to lớn. Bởi vì trong cách diễn đạt tự do, cách chia sẻ hòa hợp, các con đã đạt được trạng thái từng hiện diện nơi trường bí giáo của Maitreya, là trạng thái kết hợp, là chìa khóa đích thực của học hỏi, của tăng trưởng, của sự vươn lên cao.      

Chúng tôi nhìn buổi họp mặt hôm nay với nỗi hân hoan vui mừng. Và chúng tôi mong đợi những ngày sắp tới. Chúng tôi mong các con sẽ duy trì được Tánh linh này mà – nếu con nghĩ sâu hơn – đó chính là tinh thần hồn nhiên của trẻ nhỏ. Nếu tất cả các con có thể trở thành như trẻ nhỏ thì Giê-su sẽ hiện ra và nói chuyện với các con vào ngày Chủ nhật này. Bởi vì thày đã từng nói: “Hãy để con trẻ đến cùng ta, đừng ngăn trở, vì Nước trời thuộc về những ai như con trẻ.” Vì vậy con hãy sẵn sàng bước vào hồn nhiên của trẻ nhỏ, mở tâm ra cho sự thật cao hơn, cho đường hướng nội tâm sẽ dẫn dắt cuộc đời của riêng con, và là sự phụng sự mà chân nhân của con mong muốn đem lại cho nhân loại xuyên qua con. Vậy ta chào từ giã và chúc các con ngủ ngon!

Giữ an bình và đồng thời để cho ánh sáng mình tỏa rạng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 1/10/2006.

Thật vậy, ta là đức Phật ở đỉnh đầu, ở luân xa đỉnh đầu của hành tinh, nơi ta giữ vị trí, trách vụ, là Chủ tể Thế gian (Lord of the World). Ta trông ngóng các cánh hoa sen mở ra – sáu tỷ cánh hoa sen và nhiều hơn nữa của mọi người trên địa cầu là thành phần của đóa hoa sen tuyệt đẹp của Thượng đế.

Để châu Âu hoàn thành vai trò, phải có hội nhập

Thật là một niềm vui lớn cho ta được phát biểu hôm nay. Đối với công việc được hoàn thành qua hội nghị này với cao điểm là lời thỉnh cầu của các con cho sự hợp nhất giữa Đông và Tây, thì bài thỉnh Đông-Tây của Thời Hoàng kim (Golden Age East-West Invocation – WINV02) đã có một ý nghĩa thật to lớn cho lục địa châu Âu này. Bởi vì qua lời thỉnh được đọc lên với trái tim trong sáng của tình thương, ta đã có thể – cùng với nhiều chân sư thăng thiên khác và nhiều thiên thần – xóa bỏ một phần đáng kể những ký ức đã lâu nay cắt đứt và phân rẽ châu Âu thành hai phe Đông và Tây.

Như con thấy mối chia rẽ giữa Đông và Tây trên bình diện hành tinh, thì chắc chắn con cũng thấy được mối chia rẽ này tại Âu châu cho tới rất gần đây. Cho dù biểu tượng vật chất của chia rẽ đã sụp đổ – cụ thể là bức Tường Bá linh và bức Màn Sắt – nhưng vẫn có một điểm tắc nghẽn còn hiện hữu trong các cõi cảm xúc, lý trí, thậm chí cả những vùng thấp của cõi ê-the, và sự tắc nghẽn này đã ngăn cản Đông và Tây tái kếp hợp, hội nhập đích thực với nhau. Và do đó cho tới nay vẫn không có một dòng chảy năng lượng tối ưu giữa hai vùng này của Âu châu.

Tuy nhiên qua công việc được hoàn thành tại hội nghị này cũng như việc đọc bài nguyện tràng hạt của Mẹ Mary, chúng tôi đã có thể thanh tẩy những điểm nghẽn trong cõi tình cảm. Đây là một bước đáng kể. Và khi công việc này được tiếp diễn bởi cá nhân từng người cũng như bởi các hội nghị tương lai mà ta tin tưởng sẽ được tổ chức trên lục địa này, chắc chắn chúng tôi sẽ có thể tiếp tục làm thông sạch các tầng cấp khác.

Nếu Âu châu muốn hoàn thành vai trò đại sứ của mình cho nền hoà bình thế giới, rõ ràng sẽ phải có sự hội nhập giữa Đông và Tây, ngay cả giữa Bắc và Nam. Bởi vì nếu còn chia rẽ, làm thế nào châu Âu sẽ có thể làm vị đại sứ cho hòa bình, làm tiếng nói cho lẽ phải? Vì vậy, giờ đây sự hội nhập giữa Đông và Tây sẽ được gia tốc qua việc giải tỏa các năng lượng tình cảm đó, giải tỏa điểm bế tắc đó đã ngăn cản không cho các dân tộc Âu châu buông bỏ quá khứ của mình và tha thứ lẫn nhau. Và các con sẽ thấy một sự thay đổi trong lãnh vực này. Con sẽ thấy một sự cởi mở lớn hơn, một sự sẵn lòng nhiều hơn để nhìn vào quá khứ và học những bài học cần thiết rồi tha thứ cho nhau.

Thật sự với Liên minh Âu châu mở rộng về hướng Đông, các quốc gia Âu châu đã mở cửa ra cho sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ, kể cả những người di chuyển giữa Đông và Tây để cống hiến kỹ năng của mình hay tìm việc làm. Với lượng trao đổi lớn hơn, con sẽ thấy các rào cản được gỡ bỏ nhiều hơn, hội nhập sẽ gắn bó hơn, thậm chí một ý thức hợp nhất bắt đầu hình thành. Đây chính là ý thức hợp nhất đã thiếu sót từ quá lâu nay trên lục địa này do những phân rẽ giữa quá nhiều quốc gia không ngừng giao chiến hay cạnh tranh với nhau.

Những gì Tây Âu có thể học được từ Đông Âu

Điều hiển nhiên là các nước tại Tây Âu đang vượt xa các nước đằng sau bức Màn Sắt cũ về mặt kinh tế, công nghệ và, ở một mức nào đó, cả về mặt chính trị. Tuy nhiên con không thể bỏ qua thực tế là các nước phương Đông cũng có thể đóng góp đáng kể cho tương lai châu Âu, không chỉ trên phương diện sáng tạo. Đặc biệt, hãy để ta chỉ ra cho con thực tế hiển nhiên là đa số các nước Tây Âu đã trở nên duy vật đến độ họ không thực sự dám nghĩ đến, hay dám bàn đến, tôn giáo cùng vai trò của tôn giáo trong xã hội. Điều này thấy được rất rõ qua cách mà nhiều nước Tây Âu đã xử lý – hay đúng hơn, không xử lý – các xung đột do người tỵ nạn từ các nước Hồi giáo gây ra. Thậm chí họ còn không biết cách có được một cuộc bàn cãi xây dựng về vai trò của tôn giáo trong xã hội.

Các nước Tây phương đã trở nên gần như bất lực khi cần thảo luận công khai về các vấn đề tôn giáo. Và tất nhiên, đây không phải là một tình trạng có thể kéo dài. Vì như con vừa nghe các chân sư khác trình bày ở đây, không thể có một chính quyền đích thực nếu không có tâm linh đích thực. Giải pháp duy nhất cho tình trạng thế giới là một chính quyền của Thượng đế. Nhưng làm thế nào có chính quyền của Thượng đế mà không có Thượng đế? Làm thế nào có chính quyền của Thượng đế ở những nước sợ bàn cãi về Thượng đế, sợ bàn cãi về khả năng một giáo lý tâm linh phổ quát về Luật Thượng đế có thể làm nền tảng cho thể chế dân chủ tự do? Một nền dân chủ như vậy phải công nhận người dân có những quyền không do nhà nước ban bố, mà do một thẩm quyền vượt hẳn mọi quyền lực nhân thế, và do đó cũng không thể bị lung lạc bởi các trò chơi quyền lực nhân thế.

Đây chính là lãnh vực mà các nước Đông Âu cũ có thể đóng góp sáng giá. Vì từ quá lâu các nước này đã bị cộng sản cai trị, cho nên họ biết quá rõ cuộc sống như thế nào khi nhà nước cấm đoán mọi hình thức sinh hoạt tôn giáo, thậm chí còn đàn áp những ai dám theo đạo. Cho nên con sẽ thấy khu vực Đông của Âu châu đang trải qua một mức độ thức tỉnh tâm linh cao hơn khu vực Tây, và nếu hiện tượng này lấy trớn để biến thành sự thức tỉnh tâm linh đích thực – thay vì chỉ là thức tỉnh tôn giáo nơi người dân Đông Âu vẫn bị kẹt trong các tôn giáo cũ – thì nó có thể lan sang phương Tây và tái lập cân bằng giữa một hình thức chính quyền thế tục và một chính quyền của Thượng đế. Xác suất cho sự việc này xảy ra trong hiện thực đã lớn hơn sau khi các rào cản trong cõi cảm xúc được gỡ bỏ, khi những trao đổi về quan điểm, tư tưởng và tình cảm được tự do hơn và người dân cũng cảm thấy tự do hơn để phát biểu cảm nghĩ của mình.

Một chính quyền không có Thượng đế sẽ trở nên chuyên chế

Ngay cả tại Đông Âu, người dân cũng sẽ thấy tự do hơn khi phát biểu cảm nghĩ về điều mà họ xem là chủ nghĩa duy vật phản tâm linh tại phương Tây. Và như vậy, họ sẽ có đủ can đảm đứng lên làm chứng cho điều mà họ đã ngộ ra, tức là một chính quyền phủ nhận Thượng đế không thể tránh khỏi trở thành một chế độ chuyên chế đàn áp người dân. Đây là một quy luật phổ quát mà bất cứ ai sẵn lòng nhìn vào lịch sử đều có thể xác nhận. Tất nhiên có nhiều ví dụ một chính quyền không phủ nhận Thượng đế vẫn trở thành chuyên chế, nhưng nếu người ta công nhận sự hiện hữu của một thẩm quyền cao hơn thì ít ra đó sẽ là một khung tham chiếu vượt khỏi quyền lực con người cùng sự quy định của con người.

Có một tầng mức nơi con người bị hoàn toàn mù quáng bởi tâm thức nhị nguyên, nơi họ chỉ quan tâm đến chuyện tranh giành, giao chiến với nhau. Họ đặt ra một định nghĩa về cái gì là phải, và theo định nghĩa đó, chính họ là người nắm lẽ phải và bất cứ ai khác với họ đều tự động là trái. Và nếu hai dân tộc hay hai nền văn minh định nghĩa phải-trái một cách nhị nguyên như vậy, làm thế nào họ sẽ tránh được xung đột đây? Làm thế nào họ có thể giải quyết xung đột nếu cả hai bên đều theo cách định nghĩa nhị nguyên, nhân tạo như thế? Cần phải có một thiện chí vượt lên trên nhị nguyên, vươn tới một hiểu biết cao hơn về lẽ phải không do con người hay thể chế đặt ra, không do tâm thức nhị nguyên quy định bảo rằng bất kỳ ý tưởng nào cũng phải có đối nghịch.

Khác biệt giữa nhị nguyên và bất nhị

Khi con vượt lên khỏi nhị nguyên, con thấy rõ có cái không thực. Nhưng cái không thực đó không đối nghịch với cái thực – theo nhãn quan thường tình của con người là một điều trái sẽ đối nghịch với một điều phải. Cái không thực chỉ đơn giản là không thực. Nó đứng ngoài thực tại, nó tách biệt khỏi thực tại. Nhưng nó không đối nghịch và không thể đối nghịch với thực tại. Bởi vì cái thực không thể có đối nghịch. Không gì có thể đe dọa cái thực.

Cho nên bước đầu tiên trên đường tu tâm linh là con vươn lên một cái gì vượt khỏi nhị nguyên. Và đó là điều mà Giê-su đã diễn tả tuyệt vời khi thày nói: “Trước hết hãy tìm vương quốc Thượng đế và sự công chính của ngài.” Đúng vậy, trước hết con hãy tìm “lẽ phải” cao hơn của Thượng đế.

Đó cũng chính là điều ta đã diễn đạt qua Bát chánh đạo. Biết bao nhiêu Phật tử đã hiểu lầm Bát chánh đạo và tưởng rằng con đường đó có thể được định nghĩa theo nhãn quan con người – thế nào là việc làm phải, thế nào là suy nghĩ phải, thế nào là sinh kế phải, vân vân.

Nhưng con thấy đó, định nghĩa thực của Bát chánh đạo là con vươn lên “lẽ phải” của Thượng đế, và lẽ phải này thì vượt khỏi nhị nguyên. Nhưng làm thế nào con vươn đến được lẽ phải đó, lẽ phải cao hơn đó? Con chỉ làm được vậy khi con nhận ra diệu đế rằng bất cứ gì khởi lên từ nhị nguyên sẽ tạo ra đau khổ, và nguyên nhân của đau khổ là lòng ham muốn sai lầm phát xuất từ dính mắc vào những vật của thế gian. Những vật này có thể là thú vui giác quan, hay cũng có thể là ham muốn nắm lẽ phải trong nhãn quan con người, cảm thấy mình tốt đẹp hơn những người mình đã định nghĩa là trái vì họ khác với mình hay có quan điểm ngược với mình.

Trên hành tinh này có biết bao người bỏ ra cả cuộc đời để xây dựng cảm giác vượt trội đó, để cảm thấy mình tốt đẹp hơn người. Họ luôn xem mình trong thế cạnh tranh với người khác. Xu hướng này không chỉ bao gồm những người gọi là bình thường – họ đua đòi với người chung quanh, họ chạy theo căn nhà đẹp hơn, chiếc xe lớn hơn hay nhiều của cải vật chất hơn – mà nó còn chi phối cả lớp thượng lưu quyền lực không ngừng tranh giành quyền lực với những nhóm thượng lưu quyền lực khác mà họ luôn luôn so bì.

Con yêu dấu, con có thể bỏ ra rất nhiều kiếp sống chạy theo cuộc tìm kiếm điên cuồng đó để người đời xem con là “phải”. Hay con có thể vươn lên cao hơn, vươn lên thực tại của lẽ phải Thượng đế. Tuy nhiên, để được “phải” với Thượng đế, con phải sẵn sàng chọn lựa một cách ý thức, cố tình, rằng con sẽ buông bỏ mọi dính mắc vào những thứ của cõi vật chất. Bởi vì chừng nào con còn dính mắc vào ý tưởng mình là “người phải” trong tập thể loài người, rằng mình được người đời yêu mến, rằng mình không bị người đời gạt bỏ hay bị chê cười do niềm tin của minh, do lối sống hay cách hành xử của mình, chừng nào con còn dính mắc vào bất cứ gì, bất cứ hình dáng nào của thế gian, bất cứ địa vị nào trong nhân quần, thì con sẽ không thể tự do để nắm lấy lẽ phải cao hơn của Thượng đế hay biểu đạt được lẽ phải đó.

Cách đây 2500 năm, ta có dạy rằng sự không dính mắc là chìa khóa của an bình nội tâm. Lời giảng đó xác thực. Nó vượt thời gian. Nó vĩnh cửu. Thế nhưng như Giê-su đã chỉ ra, không có một lời dạy nào diễn tả bằng ngôn từ mà không thể bị con người bẻ cong. Bởi vì bất cứ gì nói thành lời cũng có thể bị tâm nhị nguyên chụp lấy, diễn giải theo cách cực đoan này hay cách cực đoan nọ, thậm chí còn có quan niệm sai lầm bảo rằng Trung đạo là cái nằm ngay giữa hai đối cực nhị nguyên.

Ngay cả khái niệm Trung đạo cũng có thể bị diễn giải sai lầm. Bởi vì thật sự, ta không bao giờ dạy rằng con người phải cố đạt trung điểm giữa hai đối cực nhị nguyên. Ta dạy con người thăng vượt toàn bộ cái thang của nhị nguyên, toàn bộ tâm thức nhị nguyên. Và đó là tinh túy của tâm Phật. Nhưng để thăng vượt nhị nguyên, con phải sẵn sàng buông bỏ các ham muốn, các tin tưởng, các dính mắc đã khởi lên từ nhị nguyên. Và như vậy con phải đạt tới điểm con yêu lẽ phải của Thượng đế nhiều hơn lẽ phải của con người.

Nói cho cùng, đây phải là một quyết định có ý thức của con. Đồng ý, không phải ai ai cũng sẵn sàng lấy được quyết định đó, nhưng chắc chắn những ai là người tâm linh thì đã sẵn sàng, hay có thể nhanh chóng trở nên sẵn sàng. Và nếu con suy ngẫm về những ý tưởng trên, con sẽ đạt tới điểm là con cảm thấy một tình yêu tự phát dâng lên trong nội tâm con đối với thực tại cao hơn của Thượng đế, và thực tại này bỗng nhiên khiến con dễ dàng buông bỏ một số dính mắc. Và một khi con ngộ ra là sự buông bỏ dính mắc dễ dàng đến như vậy, con sẽ có thể dùng cái trớn đó để buông bỏ các dính mắc khác ngay khi con phát hiện ra chúng.

Giữ an bình bên trong

Điều không nhất thiết sẽ dễ dàng là làm thế nào luôn luôn biết được cái gì là phải đối với Thượng đế. Lý do là vì không có một luật lệ vỏ ngoài nào trên thế gian có thể định đoạt cái gì là phải trong thực tại tuyệt đối của Thượng đế. Mỗi tình huống, mỗi cá nhân đều khác nhau. Trong tình huống này thì điều phải có thể là thế này, nhưng trong một tình huống khác, mặc dù dáng vẻ bề ngoài có thể tương tự, thì rất có thể cách hành xử ngược lại mới là phải. Và do đó, con không thể biết điều phải bằng cách dùng tâm phân tích để đặt ra luật lệ, là cái tâm ưa dán nhãn: “Trong hoàn cảnh này phải luôn luôn hành xử thế này, và trong hoàn cảnh kia phải luôn luôn hành xử thế kia.”

Con yêu dấu, làm như vậy sẽ không đi đến đâu, vì con đã tự kéo mình vào lãnh vực của trí thức chỉ có khả năng hoạt động trong lãnh vực nhị nguyên. Nhưng con sẽ đạt được rất nhiều bằng cách tu tập sự không dính mắc một cách ý thức. Thật sự khi con không dính mắc vào dáng vẻ bên ngoài, con sẽ không muốn phản ứng theo các tiêu chuẩn của con người về thế nào là điều phải trong tình huống này hay tình huống nọ. Con sẽ có khả năng với lên thực tại cao hơn của Thượng đế, và khi đó, con sẽ hành xử “phải” một cách tự nhiên.

Tuy nhiên để biết cái gì là phải đối với Thượng đế, con phải nhận ra rằng không dính mắc không đồng nghĩa với thờ ơ. Nếu con tìm hiểu đời ta như là đức Phật hiện thân, con sẽ nhận thấy ta đã đi trên đường chứng đạt sự không dính mắc toàn diện với mọi thứ của thế gian. Rồi sau khi đạt được sự không dính mắc đó – thường được nhà Phật gọi là giác ngộ – ta vẫn phải đối mặt với một cuộc khai ngộ mà nhiều Phật tử không hiểu hay không để ý. Vì ta đã phải đối đầu với cám dỗ khi các thế lực của thế gian bảo ta: “Ồ, nhưng những gì ông đã nhìn thấy, những gì ông đã đạt được, thật quá cao siêu, quá phức tạp đối với con người trên địa cầu. Ông sẽ không làm thế nào giải thích được cho họ. Họ sẽ không thể hiểu được. Không một ai sẽ hiểu được ông, cho nên ông đừng mất công bước ra ngoài xã hội để làm chứng cho sự thật của ông. Ông chỉ cần ở lại Niết bàn và phó mặc thế giới cho các thế lực nhị nguyên. Đừng cố khai sáng cho một ai vì họ sẽ không hiểu.”

Đấy, ta chỉ vượt qua được khai ngộ đó bằng cách nối kết với Hiện diện TA LÀ bên trong ta, với chính Brahman. Và qua sự nối kết đó, ta nhận được lời nhắn rõ ràng: “Sẽ có một số người hiểu được.” Thế là ta bước ra ngoài và bắt đầu giảng dạy về chân lý của ta, và quả thực một số người đã hiểu được. Vì thế, con cũng sẽ đối diện với cùng khai ngộ đó. Trước hết, con đối diện với cuộc khai ngộ không dính mắc vào phản ứng của người khác, để khi họ chối bỏ ánh sáng của con, ngọn Lửa Thượng đế của con, sự thật của con, con không bị dính mắc vào phản ứng của họ. Và con không cho phép sự chối bỏ của họ trở thành một cái cớ mà tự ngã có thể sử dụng để lừa gạt con tắt ánh sáng con đi, hay trở nên im lặng và không thách thức những điều không thực trên địa cầu.

Khi con tu tập và đạt được sự không dính mắc đó, con sẽ trực diện với ý tưởng đầy cám đỗ: “Đâu là ích lợi của việc cố gắng khai sáng khi người ta bị chìm quá sâu vào tâm thức nhị nguyên, dường như không quan tâm gì đến những chuyện tâm linh?” Thật là một thế cân bằng vi tế khi con phải trụ vững trong không dính mắc và đồng thời không trở nên thờ ơ, không bỏ cuộc, không biến thành một kẻ cầu an chỉ ngồi đó, để mặc cho thế giới cứ tiếp tục xoay vần mà không làm gì để thách thức những điều không thực. Mỗi người trong các con sẽ phải tìm ra thế quân bình của mình, vì ta nói thật với con, trên thế giới có một xu hướng sùng bái thần tượng cho rằng đối với cá nhân ta thì chuyện bước trên đường tu thật là quá dễ, và chuyện ta chứng ngộ, tìm được thế cân bằng rồi bước ra xã hội để giảng dạy chân lý cũng thật quá dễ.

Cũng vậy, người ta cho rằng thật là quá dễ cho Giê-su chứng đạt rồi bước ra làm chứng cho sự thật của thày. Nhưng ta nói với con, điều đó đã hoàn toàn khó khăn cho Giê-su lẫn cho ta, như nó sẽ khó khăn cho chính con. Tất cả chúng ta đều mang một số yếu tố của thân phận làm người mà chúng ta phải khắc phục, phải bỏ lại, trước khi biểu hiện được một trạng thái tâm thức cao hơn. Và các điều kiện phàm phu mà mỗi chúng ta đều mang chính là những điều kiện mà chúng ta khó nhìn thấy nhất. Cho nên Giê-su đã không sinh ra trong sự viên mãn của quả vị Ki-tô. Ta cũng không sinh ra trong sự viên mãn của quả vị Phật, như con có thể thấy rõ qua cuộc đời của cả hai chúng tôi.

Do đó, chúng tôi cũng đã phải khắc phục những điểm đui mù về chính mình mà chúng tôi không thể nhìn thấy. Và nếu cái không nhìn thấy đã là cái khó khắc phục cho chúng tôi, thì đó cũng là cái khó khắc phục cho con vì con không nhìn thấy. Con có thấy chăng, con yêu dấu, thật là một ảo tưởng to lớn khi cho rằng Giê-su với ta, cùng với các vị thày tâm linh khác, đứng cao hơn con, và đường tu của chúng tôi đã dễ dàng hơn đường của con. Kỳ thực, nó không dễ dàng chút nào. Nhưng chính sự kiện chúng tôi đã thành công phải là một lời khuyến khích để con biết rằng con cũng có khả năng thành công. Bởi vì phương châm từ lâu nay của các chân sư thăng thiên vẫn là: “Cái gì một người có thể làm được thì mọi người cũng làm được.” Thời nay, chúng ta có thể nói: “Cái gì một người có thể Là, thì mọi người cũng có thể Là!” Đúng vậy, chìa khoá không phải là làm, mà là Là.

Làm thế nào làm chứng cho sự thật của con

Hãy để ta cho con ít nhất một lời gợi ý về cách làm thế nào con có thể bước ra ngoài và làm chứng cho sự thật, làm thế nào con để cho ánh sáng của con tỏa sáng trước mọi người đến độ khi họ nhìn thấy việc làm tốt của con, họ sẽ không thấy tác nhân là con người vỏ ngoài của con, mà họ thấy tác nhân thật sự là ánh sáng của Thượng đế bên trong con. Muốn làm được như vậy, con phải không dính mắc mà lại không thờ ơ. Vậy hãy để ta chỉ cho con bí quyết, đó là nếu con cố giữ an bình nội tâm ngay cả khi con thách thức người khác, thì con sẽ luôn luôn ở trong lẽ phải cao hơn của Thượng đế.

Cho nên con hãy tự xem xét mình. Liệu con có cảm thấy miễn cưỡng khi phải đặt vấn đề với một ai không? Liệu con có cảm thấy sợ hãi, tội lỗi hay bất kỳ cảm xúc tiêu cực nào khi con thách thức người khác? Trong trường hợp này, con thử nghĩ xem là con vẫn còn bị dính mắc với một dáng vẻ vỏ ngoài nào đó đang ngăn cản con thách thức người kia với tâm bình an thực sự của Ki-tô hay của Phật, là những vị đã đạt được sự không dính mắc hoàn toàn. Và con chỉ nhìn vào đó. Con xem xét và con tu sửa. Con đi vào cốt lõi của nó rồi con buông cho nó ra đi.

Liệu con có thật tin rằng Giê-su với ta khi mới sinh ra đã không còn tàn tích nào của tự ngã con người? Ta biết rõ nhiều người theo đạo Phật hay đạo Cơ đốc tin vào chuyện thần tượng hóa như vậy. Nhưng nó không đúng đâu con. Bởi vì quả thực chúng tôi đã có mang một số yếu tố của tự ngã, một số dính mắc và bệnh mù tâm linh mà chúng tôi cần khắc phục. Và làm thế nào chúng tôi khắc phục được chứ? Không như một số vị thày giảng dạy, chuyện đó đã không xảy ra trong một giây phút đột phá vinh quang bước vào Niết bàn. Nó đã xảy ra từng bước nhỏ một. Và phần lớn tiến trình này đã không được người ta ghi chép lại vì đó là một tiến trình nội tâm. Và vào thời điểm chúng tôi giảng dạy, nhân loại cũng chưa sẵn sàng hiểu được nhiều nét của tâm lý con người mà ngày nay nhiều người khắp thế giới nắm bắt được.

Vì lý do đó mà thuở ấy, chúng tôi đã không thể giảng dạy những điều đó. Chúng tôi đã phải đưa ra một giáo lý đơn giản hơn, thích hợp với tâm thức của loài người vào thời buổi tăm tối đó. Nhưng vào thời đại hôm nay, ta có thể nói với con là con đã có sẵn những giáo lý và những dụng cụ để con khắc phục từng dính mắc một cách hệ thống. Và khi con neo chặt vào cái ta cao hơn của con và vào Ngọn lửa Thượng đế của con – và con biết mình là ngọn lửa đó chứ không phải nhân cách vỏ ngoài, hay tự ngã hay cơ thể hay con người mà người khác đã tạo dựng trong tâm họ – thì con sẽ có thể đạt tới điểm con sẵn sàng buông bỏ bất kỳ dính mắc nào ngay khi con thấy nó.

Và con biết là cho dù cái gì khởi lên, con cũng sẽ sẵn sàng buông bỏ nó. Đây là dấu ấn đích thực của một người tầm đạo tâm linh chân chính đã bắt đầu tìm thấy những gì bao nhiêu người khác vẫn tìm kiếm mà không biết mình đang tìm gì. Và như vậy, mặc dù không nhất thiết là con đã hoàn toàn bỏ hết mọi dính mắc, nhưng con vẫn đạt được niềm an bình nội tâm vượt khỏi mọi hiểu biết, vì nó không dựa trên bất kỳ hình thức an toàn vỏ ngoài nào, chẳng hạn như có bom hay đại bác lớn hơn nước khác – hay ngay cả sự an toàn trí thức giả dối cho rằng nếu con là tín đồ của đạo này hay đạo nọ, nếu con theo thế giới quan khoa học này hay khoa học nọ và con hiểu tất cả mọi khái niệm đó một cách trí thức, thì con chắc chắn sẽ được cứu rỗi.

Không, đây là niềm an bình vượt khỏi mọi hình dáng vỏ ngoài, nó không tùy thuộc vào bất kỳ điều kiện nào trong cõi vật chất, và do đó nó không thể bị tước mất bởi bất kỳ điều kiện nào trong cõi vật chất cho dù chuyện gì có xảy ra. Đây chính là sự an bình nội tâm mà ta mong muốn tất cả các con chứng được. Đó cũng là an bình nội tâm mà ta đã chứng đạt trước khi ta khởi sự sứ vụ của ta. Nhưng ta phải nói cho con là con sẽ tinh tấn nhanh chóng hơn nếu con sẵn sàng làm chứng cho sự thật mà con đang thấy cho dù có thể con chưa thấy được sự thật cao nhất.

Giê-su với ta đã nêu cho con một số tấm gương. Chúng tôi đã rút lui khỏi thế giới cho tới khi chúng tôi đạt được một mức tâm thức cho phép mình hoành thành sứ vụ của mình. Nhưng chính vì chúng tôi muốn nêu gương mà sứ vụ của chúng tôi đã phải chạm trán với sự chống đối dữ dội mà mỗi cá nhân các con sẽ không phải đối mặt, vì vào thời đại hôm nay, ưu tiên là nhiều người sẽ cùng chung bước với nhau trên đường tu thay vì chỉ có đúng một người đi bước tiên phong. Cho nên mỗi cá nhân các con không phải đương đầu với cùng lực chống đối mà chúng tôi đã phải đương đầu, và đó là tại sao các con có thể làm chứng cho sự thật ngay cả khi con chưa đạt được sự không dính mắc và an bình nội tâm hoàn toàn.

Và quả thực khi làm vậy, các con sẽ tinh tấn nhiều hơn so với trường hợp con rút khỏi xã hội cho tới khi con đạt trạng thái tâm thức cao hơn. Cho nên con hãy sẵn lòng làm chứng cho sự thật của mình cho dù con chưa toàn hảo, cho dù con vẫn bị bận tâm bởi sự chối bỏ của người khác. Bởi vì nếu con có lòng can đảm đó, sự sẵn lòng đó, chắc chắn con sẽ tiến bộ nhanh hơn, đặc biệt nếu con sẵn sàng xem xét chính mình và nói: “À, nhưng tại sao tôi lại bận tâm với phản ứng của người khác? Liệu có một yếu tố tự ngã đang lẩn trốn đằng sau sự bối rối này? Nếu vậy thì khi tôi nhìn vào nó, tôi sẽ chẳng phát hiện tự ngã rồi buông nó ra hay sao?”  

Đúng vậy, con có thể tự xét mình và nói: “Liệu tôi có đang hoàn toàn thoải mái và an bình khi tôi đứng lên và thể hiện Ngọn lửa Thượng đế của mình, hay tôi vẫn quan ngại phản ứng của người khác?” Nếu con tìm thấy những lo lắng loại đó, con hãy nhìn vào chúng và nói: “Tại sao tôi lại băn khoăn? Tại sao tôi không thể bình an, bởi vì nói cho cùng, nếu tôi đang thể hiện Ngọn lửa Thượng đế của mình, tại sao tôi lại bị bận tâm bởi bất kỳ dáng vẻ bề ngoài nào?” Sự bình an mà con cần đạt được là con có khả năng làm chứng cho sự thật của mình và để ánh sáng con tỏa rạng bất kể điều kiện vỏ ngoài hay phản ứng nào mà con nhận được từ người khác. Con không bị quấy rầy. Họ không lấy mất an bình của con. Con không cảm thấy mình bị chối bỏ vì con không bị dính mắc vào cách phản hồi của họ. Con đơn giản cho phép quyền tự quyết của họ trải bày ra và con để yên cho họ chấp nhận hay từ chối sự thật cao hơn mà họ đã nhìn thấy nơi con.

Một khi con có thể không dính mắc như vậy, không có gì sẽ làm phiền được con nữa. Không có gì sẽ có thể lấy đi sự bình an của con. Ta không muốn con nghĩ rằng con còn quá xa quả vị Phật đến độ con sẽ phải bỏ ra phần còn lại của kiếp này hay nhiều năm, nhiều chục năm trời để đạt được bình an đó, bởi vì đối với đa số các con, chuyện đó không đúng. Con có khả năng chứng được bình an nội tâm đó trong một thời gian tương đối ngắn nếu con tận dụng các giáo lý và dụng cụ con đã có, và con hãy hỏi người khác xem họ đã đạt được bình an như thế nào, xong con hãy chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau để bước vào cảm giác an bình nội tâm đó.

Đây là một mục tiêu thực tế – mà các con trong cương vị một cộng đồng trên toàn thế giới có thể đạt được nếu con công khai đặt tâm trí vào đó. Và như vậy, thông điệp chót của ta hôm nay là ta đưa ra thách đố này cho các con. Hãy nắm lấy các dụng cụ mà con đã được trao cho, những bài nguyện, bài thỉnh, bài chú, các bài giảng về tự ngã, nhưng con cũng hãy sẵn sàng trao đổi công khai về đề tài này và đặt câu hỏi. Hãy giúp đỡ lẫn nhau. Tạo cảm hứng cho nhau. Và sẵn lòng cởi mở, trung thực với nhau và nói: “Tôi nghĩ bạn vẫn còn dính mắc và đó là tại sao bạn bị chuyện này quấy rầy bạn. Chúng ta hãy thử nhìn xem chúng ta có thể cùng nhau phát hiện nguyên nhân dính mắc này là gì, hầu nó có thể quy hàng trước Ngọn lửa của An bình Cực lạc.”

Ta đã nói xong phần của ta, và trong khi ta nói, quả thật là ta đã truyền rải một động lực mãnh liệt của Ngọn lửa An bình của Phật. Ngọn lửa chuyển động như một làn sóng trên khắp lục địa này để tiêu hủy một phần của tâm thức và ký ức chiến tranh. Vì vậy ta cũng vô cùng biết ơn sự hiện diện của các con, biết ơn hội nghị này đã thị hiện, hầu ta có thể làm cánh cửa mở đem xuống tác động vô cùng cần thiết này.

Trong niềm tri ân, ta niêm con lại trong Ngọn lửa An bình của Phật. Và ta xin con nhận lấy tiềm năng là Phật của con trước khi con suy nghĩ việc đó có khả thi hay không. Ta ban cho con hòa bình của ta. Ta giao lại cho con hòa bình của ta. Vậy con hãy an bình bằng cách trụ trong an bình của Phật, bằng cách con LÀ an bình của Phật.

Niêm.

Trò chơi của tự ngã phá hoại các cộng đồng tâm linh như thế nào

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama ngày 1 tháng 1 năm 2006 qua trung gian Kim Michaels.

Ta, Gautama, là đức Phật nơi Đỉnh đầu của mỗi đệ tử chân chính trên con đường dẫn đến quả vị Phật. Ta đến để chắc chắn rằng con hiểu rõ giáo lý về mối quan hệ giữa Phật và Mẹ. Đúng thực là chìa khóa để chữa lành tâm lý của con và vượt qua quá khứ – cùng mọi dính mắc với quá khứ – là hiểu rằng con không thể khắc phục tâm thức phàm phu bằng cách sử dụng tâm thức phàm phu.

Con thấy đó, con yêu dấu, mọi thứ trong vũ trụ vật chất đều được tạo bằng Ánh sáng Mẫu-Vật. Bất kỳ vấn đề nào con gặp đều tạo bằng một sự tha hóa của Ánh sáng Mẫu-Vật, tức là ánh sáng đã khoác vào một hình tướng không thẳng hàng với các định luật toàn hảo của Cha, là các định luật toàn hảo của tình thương đang đảm bảo sự tăng triển của mọi sự sống. Cho nên hình tướng bất toàn, sự thị hiện bất toàn, không những hạn chế chính con mà còn hạn chế mọi sự sống.

Một khi ánh sáng của Mẹ đã khoác vào một hình dạng rung động ở dưới độ rung của tình thương, sẽ không có phương thuốc nào trong vũ trụ vật chất có thể hoàn toàn điều trị vấn đề này. Thật ra có nhiều phương pháp điều trị có thể giúp con tiến bước trên con đường dẫn đến lành bệnh, nhưng không có một phương thuốc tối hậu nào, một loại đá hóa kim nào, một cây đũa thần nào sẽ loại đi các điều kiện bất toàn bằng cách chỉ dùng đến các thế lực có mặt trong vũ trụ vật chất.

Cách duy nhất để giải thoát khỏi quá khứ là con với lên uy lực của Thượng đế ở ngay trong con, uy lực của Thượng đế Cha. Uy lực này là điều ta từng gọi là Phật tánh vào thuở ta được đặc ân trao truyền những lời dạy làm nền móng cho tôn giáo mà ngày nay các con xem là đạo Phật. Thời nay con biết đó là Thượng đế Cha, là lực lan rộng của Cha, hay Hiện diện TA LÀ của con.

Con phải lấy hai quyết định để được chữa lành

Con yêu dấu, chỉ có uy lực của Hiện diện TA LÀ, uy lực của Cha, uy lực của Phật mới có thể giải thoát Ánh sáng của Mẹ khỏi một khuôn đúc bất toàn và nhờ vậy chữa con lành khỏi những vết thương trong tâm lý. Tuy nhiên để uy lực này đi xuống thể phàm của con, con phải sẵn lòng buông bỏ sự dính mắc đối với vết thương, đối với nỗi đau, đối với nỗi khổ. Do đó điều này trở thành một hành động nhân đôi, và nó đòi hỏi con lấy hai quyết định. Con phải quyết định là con sẵn sàng đứng thẳng hàng trong ý chí của Cha. Đây là điều mà Mẹ Mary chứng tỏ khi nói với thiên thần “Không phải ý muốn của con mà ý muốn của Cha được thành tựu.” Đây cũng là điều Giê-su thốt lên khi thày xin Cha lấy chén khỏi tay thày mà vẫn nói “Không phải ý muốn của con mà ý muốn của Cha được thành tựu.”  

Nhưng con phải hiểu đây là ý chí cao hơn của chính con chứ không phải một ý chí xa lạ gì đang tìm cách hạn chế hay giới hạn con. Ngược lại là đằng khác, ý chí cao hơn của con chỉ tìm cách giải thoát con để con là tất cả những gì con là. Và như vậy, để có thể quy phục và đầu hàng ý chí cao hơn của chính mình, con phải sẵn sàng vứt bỏ lời gian dối của các thiên thần sa ngã bảo rằng ý chí Thượng đế trái ngược với ý chí của con, nó hạn chế hay tước mất quyền tự quyết của con. Đây là lời gian dối chúng đã áp đặt lên cuộc tiến hóa của địa cầu từ hàng thiên niên kỷ, và nói thật, đây là lời gian dối mà con phải thách thức trong thời đại hôm nay, con phải tăng triển tâm thức để vượt lên trên nó.  

Bởi vì một khi con hàng phục ý chí cao hơn của chính bản thể con, ánh sáng mới có thể được phóng thích để nó đi xuống thế giới hình tướng. Nhưng sự chữa lành sẽ không trọn vẹn với ánh sáng đi xuống mà thôi, vì con cũng phải sẵn sàng buông bỏ sự dính mắc vào nỗi đau, vào thương tổn, vào niềm oán giận hay không tha thứ đối với những ai đã làm con đau đớn, thậm chí cả lòng không tha thứ đối với Thượng đế hay chính mình. Rồi điều này có thể được thực hiện tốt nhất khi con hiểu rõ tự ngã, hiểu rõ là nó muốn giam giữ con trong cái hộp nhỏ xíu đó nơi con chỉ nghĩ đến mình con, nghĩ đến nỗi đau và các nhu cầu của mình con đến độ con không còn nghĩ đến những thành phần khác của sự sống. Và đúng thực, đó là tại sao cách tốt nhất để tự chữa lành là con tìm cách chữa lành người khác, cống hiến cho người khác.

Các trái tim yêu dấu của ta, khi con tự đặt mình cho thẳng hàng lại với ý chí của Cha, kéo ánh sáng của Cha xuống và đồng thời sẵn sàng phụng sự người khác, thì con sẽ thiết lập một dòng chảy hình số 8. Và khi nó liên tục chảy xối, nó sẽ kéo con – trong nghĩa đen – ra khỏi mọi điều kiện cùng năng lượng bất toàn để dần dần con được chữa lành. Và khi con càng được chữa lành, cường độ của ánh sáng sẽ càng tăng lên. Con có khả năng cầm giữ nhiều ánh sáng hơn, và khi con toả ra nhiều ánh sáng hơn, Thượng đế sẽ nhân lên những gì con cho ra, sẽ nhân lên các ta-lăng của con. Và như vậy, những ai đã có thì sẽ được cho thêm nhiều hơn, cho tới khi mọi sự sống được nâng lên.

Một hiểu biết sâu sắc hơn về thăng thiên

Đây là một lời dạy thiết yếu cho sự chữa lành của con cũng như của hành tinh, nhưng không kém thiết yếu là những gì ta sẽ trình bày cho con trong bài giảng này, cụ thể là làm thế nào con có thể thiết lập Quả cầu Một của Maitreya được hình thành trong Tánh linh Một đích thực. Con sẽ thấy từ thuở khai sinh hành tinh này, hầu hết các phong trào hay tổ chức tâm linh đều nói về sự cần thiết của việc mọi người đến với nhau, cho dù họ gọi đó là cộng đồng, Tăng đoàn của Phật, Thân thể của Chúa hay một giáo hội hay một tôn giáo đặc thù nào đó.

Tại sao việc mọi người đến với nhau quan trọng như vậy? À, như ta vừa giải thích, để con có thể thực sự được chữa lành, con phải vượt qua sự chú tâm vào bản thân mình và tìm cách phụng sự mọi sự sống và chữa lành người khác. Và còn cách nào tốt hơn và hiển nhiên hơn là các con hội tụ lại trong một khung cảnh tâm linh, một tổ chức hay một phong trào tâm linh, để các con có dịp giúp đỡ lẫn nhau chữa lành và tăng triển. Cho nên đây là một mục đích – sự chữa lành của con.

Thế nhưng có một mục đích rộng lớn hơn mà nhiều người chưa hiểu, một mục đích chưa thể thực sự hoàn thành được cho đến thời đại hôm nay. Khi con nhìn lại lịch sử được ghi chép, con sẽ thấy là tôn giáo đã tập trung vào việc cứu rỗi từng cá nhân. Từ nhiều năm, giáo lý của chân sư thăng thiên đã nói đến sự thăng thiên, tập trung vào việc thăng thiên của từng cá nhân. Thực sự việc thăng thiên của cá nhân con là một tiến trình con phải bước đi một mình. Nhưng có một hiểu biết rộng lớn hơn về tiến trình thăng thiên.

Trong các thời đại trước, với độ dày đặc của hành tinh địa cầu lẫn độ dày đặc của tâm thức nhân loại, việc nâng toàn bộ hành tinh lên một mức rung động cao hơn đã không thể làm được. Do đó, các thày đã tập trung vào việc nâng cao từng cá nhân một, hầu những cá nhân này khi họ thăng lên thiên đàng sẽ hình thành một thỏi nam châm ở thiên đàng, và nam châm này sẽ kéo phần còn lại của nhân loại, sẽ gọi nhân loại vươn lên cao hơn. Đây là điểm mà Giê-su đã diễn tả khi thày nói: “Và khi ta thăng lên, ta cũng sẽ kéo mọi người lên với ta.” Cho nên ngay cả trong Thời đại Song ngư, việc cần thiết là tập trung giúp đỡ những ai đã sẵn sàng thực hiện cuộc thăng thiên cá nhân của mình.

Nhưng trong Thời đại Bảo bình, một mục tiêu cao hơn đã nằm trong tầm tay, nếu có đủ số người chịu lắng nghe các lời dạy về cái Một và cống hiến đời mình cho việc thị hiện cái Một ngay dưới này. Khi con đi vào nội tâm và thiết lập dòng chảy hình số 8 mà ta vừa mô tả, con sẽ mở toang cổng nước lũ của thiên đàng. Và khi con thực hiện hành động Omega, con sẽ có thể kéo xuống hành động Alpha của ánh sáng và sử dụng nó ngay dưới này để xây dựng sự kết hợp chiều ngang. Con có một dòng chảy hình số 8 chiều dọc giữa con là người đầu thai với cái Ta cao hơn của con cùng các chân sư thăng thiên ở trên, nhưng con cũng xây dựng một dòng chảy hình số 8 chiều ngang ở dưới này.

Nếu có một số tới hạn những người chịu xây dựng các dòng chảy hình số 8 chiều dọc lẫn chiều ngang – nếu họ đến với nhau trong Quả cầu Một – thì không có sự cần thiết con phải thăng thiên khỏi địa cầu, bởi vì các con có thể cùng nhau nâng cao địa cầu để địa cầu được thanh lọc và trình chiếu ra Vương quốc của Thượng đế, mà các thày cũng gọi là Thời đại Hoàng kim của Saint Germain. Cho nên con thấy đó, việc hội tụ lại với nhau trong một cộng đồng tâm linh thực sự là một bước thiết yếu trong sự tiến bộ của hành tinh và nâng cao tâm thức của nhân loại. Vì thế việc cần thiết là con hiểu được rất nhiều điều về tiến trình hội tụ lại, và chắc chắn các thày sẽ cho con những lời dạy sẽ giúp con làm được vậy.

Một tổ chức tâm linh có thể trở thành một trở ngại cho tăng triển

Ta đến để cho con một lời dạy đặc biệt liên quan đến những ai đã từng tham gia vào bất kỳ tổ chức tâm linh nào trong một thời gian và đã từng rời bỏ tổ chức đó, hoặc vì họ thất vọng, hoặc vì họ có một cảm giác trống rỗng hay khắc khoải nào đó như thể đã đến lúc họ phải ra đi. Đó là vì khi con đã bước trên đường tu tâm linh được một thời gian và đã chú tâm vào sự chữa lành và tăng triển bản thân mình, con sẽ tới một điểm quyết định – được Mẹ Mary giải thích trong quyển sách mới của thày [A Course in abundance hay Khóa học về sự dồi dào] – qua đó con không thể tăng triển thêm nữa bằng cách tập trung vào tăng triển cá nhân của mình.

Cách duy nhất để con tăng triển quá điểm đó là chuyển hướng tập trung của con và tìm cách giúp đỡ người khác. Đối với nhiều đệ tử tâm linh chân thành, đây có thể là một thử thách rất khó khăn vì từ quá lâu họ đã quen tập trung vào việc tăng triển bản thân. Nhiều người trong số đó đã chú tâm vào một cách tiếp cận đặc thù, như cứu nguy hành tinh hay phụng sự các chân sư thăng thiên. Và khi từ lâu con đã tập trung vào một cách tiếp cận, hầu như không thể tránh được là tự ngã của con sẽ xoay sở để dựng lên một số bức tường trong tâm con gây ra một trạng thái xơ cứng. Con trở nên thoải mái với cách tiếp cận của mình, thế là giờ đây con khó lòng từ bỏ cảm giác là con đã đạt được một độ trưởng thành nào đó trên đường tu, con đã biết mọi đường đi lối bước. Con có một cảm giác thoải mái, có lẽ cả một cảm giác an toàn.

Đây là điều con có thể nhận xét trong mỗi tổ chức tôn giáo hay tâm linh trên hành tinh này. Nhiều người đã phụng sự không mỏi mệt và vô cùng nhiệt thành trong một thời gian dài, và họ đã đạt được một vị trí lãnh đạo. Và giờ đây, đột nhiên, một cảm giác thoải mái hay xơ cứng nhen nhúm nổi lên, thế là bỗng chốc tự ngã thuyết phục họ rằng điều quan trọng hơn là họ phải cố giữ lấy vị trí hiện thời của họ trong tổ chức vỏ ngoài, thay vì tái cam kết bước đi bước kế tiếp trên đường tu tâm linh hầu họ có thể vươn tới một tầng mức hoàn toàn mới.

Khi lãnh đạo cảm thấy bị đe dọa

Quả thực đây là tại sao Giê-su có nói rằng người đi đầu sẽ là kẻ đi chót và kẻ đi chót sẽ là người đi đầu. Bởi vì điều gì sẽ xảy ra khi những người giàu kinh nghiệm nhất, những người đã đạt được vị trí lãnh đạo, trở nên cứng nhắc trong cách tiếp cận đường tu hay cách tiếp cận một lời dạy hay một tổ chức? À, ta sẽ nói cho con điều gì sẽ xảy ra. Sự tăng triển của họ sẽ ngừng lại.

Nhưng sẽ có những người chưa ở trong tổ chức lâu đến thế, và họ không xơ cứng, họ vẫn kiên quyết tăng triển. Cho nên họ dùng giáo lý hay tổ chức để tăng triển, và sẽ tới một điểm không thể tránh là họ bắt đầu vượt quá mức chứng đạt tâm linh của các vị lãnh đạo. Không thể tránh khỏi các vị lãnh đạo này bỗng nhiên cảm thấy mình bị đe doạ bởi những người mà họ vẫn xem là cấp dưới trong hệ thống thứ bậc mà họ đã thiết lập trong tâm họ.

Bỗng nhiên họ nhận ra là những thành viên mới này, những cái chồi mới này, muốn nhiều hơn là thụ động đi theo lãnh đạo. Trong một số trường hợp, cũng đúng là những người ít kinh nghiệm hơn này muốn thoả mãn tự ngã, hay có lẽ họ ham muốn uy quyền của những người đang giữ địa vị lãnh đạo, và nếu vậy thì đúng thực là họ không xứng đáng với địa vị đó.

Tuy nhiên, ta phải nói với con là trong hầu hết mọi tổ chức có chút giá trị nào, sẽ có một số người bắt đầu bước ra khỏi tự ngã và thể hiện quả vị Ki-tô, cho nên họ có một khao khát không thể tránh khỏi và không thể cưỡng lại, là họ muốn biểu hiện quả vi- Ki-tô này. Họ thực sự là những người xứng đáng được giữ vị trí lãnh đạo, hay được biểu lộ bằng một cách nào khác quả vị Ki-tô của họ trong khuôn khổ của tổ chức. Và nếu những lãnh đạo đương nhiệm cũng quyết tâm y như vậy trong việc thể hiện quả vị Ki-tô của mình thì sẽ không có xung đột gì hết. Bởi vì thật vậy, mọi người sẽ tìm được chỗ đứng của mình và có thể biểu hiện chứng đạt Ki-tô cùng ngọn lửa Thượng đế của mình. Nhưng nếu các lãnh đạo đương nhiệm đã đánh mất sự quyết tâm tăng triển, thì không thể tránh khỏi họ sẽ cảm thấy bị đe doạ, và vì vậy họ sẽ tìm cách kềm chân những người kia đang gia tăng quả vị Ki-tô.

Thảm họa lớn nhất trong các tổ chức tâm linh

Con yêu dấu, đây là thảm họa lớn nhất trong bất kỳ tổ chức tâm linh nào – khi tiến trình đó nổ thành khủng hoảng và cuộc đối đầu bắt buộc xảy ra. Qua các thời đại, quá nhiều kịch bản đã trải bày ra đến độ nếu ta cố kể cho con thì con sẽ buồn nôn. Con sẽ cảm thấy ghê tởm khi chứng kiến tự ngã, hết lần này sau lần nọ, đã có thể xoay sở để khiến cho những người tầm đạo chân thành rơi vào trò chơi nhị nguyên là cố chứng minh ai là người đúng, ai là kẻ sai, và tự ngã của ai mới là đẹp đẽ hơn.

Các trái tim yêu dấu của ta, điều này đã diễn ra từ quá lâu đến độ các chân sư thăng thiên thấy là quá đủ. Các thày đã nói: “Đủ rồi là đủ rồi. Đã đến lúc các thày thành lập những tổ chức và phong trào trên hành tinh này nơi những trò chơi đó của tự ngã không còn có thể hủy hoại tổ chức, hủy hoại những con người đang thành tâm bước trên đường tu.” Vì vậy các thày yêu cầu những ai trong số các con cởi mở với đợt truyền pháp mới này, những ai mở tâm ra với Quả cầu Một của Maitreya, hãy nhất quyết khắc phục các trò chơi đó của tự ngã, trước tiên là trong chính mình, rồi sau đó tìm cách giúp người khác cũng khắc phục theo.

Ta đang phát biểu một cách nghiêm nghị, vì quả thực ta muốn đến trong tư cách uy lực của Cha, uy lực của Phật, để giúp con đứng thẳng hàng với ý chí cao hơn của chính bản thể con, giúp con thấy được là chính con cũng đã chán ngán các trò chơi này của tự ngã. Từ nhiều tiền kiếp, con đã tham gia vào những phong trào tâm linh. Con đã nỗ lực chân thành, chỉ đề cuối cùng nhìn thấy nỗ lực của mình bị tiêu tan, những hạt ngọc của mình bị ném cho heo ăn, và hạt ngọc bị vồ lấy bởi những con người còn chìm đắm quá đỗi trong trò chơi tự ngã đến độ họ không chịu nhả nó ra.

Chính con cũng đã đạt tới điểm khi con nói “Đủ rồi”, và đây là tại sao con đang đứng ở mức tâm thức này của con. Nhưng ta cũng biết có một số người tâm linh vẫn chưa cởi mở với những lời dạy các thày đang ban truyền vì con đã từng bị quá tổn thương, con đã bị ức hiếp quá sức. Và con đã cho phép mình nhận lấy tổn thương một cách cá nhân, con bị dính mắc vào đó và không sẵn lòng buông nó ra. Con không sẵn lòng đứng thẳng hàng lại với ý chí cao hơn của Cha đang nói rằng: “Con ơi, bây giờ đã đến lúc con về nhà. Đã đến lúc con ngừng chơi trên cát. Đã đến lúc con ngừng vùi đầu dưới cát mà hãy ngẩng đầu, đứng thẳng lên và là chính mình. Hãy bước lên cao hơn! Bỏ lại tất cả nỗi đau cũ, bỏ lại thương tích cũ, và ngộ ra là con đã bị người khác làm tổn thương chính vì họ bị mắc kẹt trong tự ngã, và con cũng đã cho phép mình bị tổn thương vì con mắc kẹt trong tự ngã.”

Giải pháp duy nhất là có ai đó phải bước ra ngoài trò chơi của tự ngã. Và các trái tim yêu dấu, ta kêu gọi con là người bước ra ngoài trò chơi của tự ngã và tái cam kết đi theo đường tu đích thực, đường tu của Hợp nhất. Đây chính là điều các thày muốn chứng kiến trong những năm sắp tới. Đó là tại sao Maitreya đã ban ra Quả cầu Một, mà ta phải nói là một cống hiến vĩ đại nếu con xem xét những gì đang xảy ra ngay lúc này trên hành tinh trong biết bao lãnh vực, khi các trò chơi tự ngã được phép lan tràn khắp nơi đến độ người ta sẵn sàng giết hại hàng triệu người để chứng minh tôn giáo hay chủ nghĩa của mình là đúng.

Món quà đặc biệt của Gautama

Những người tâm linh là triển vọng tốt nhất cho các thày để lật ngược tình trạng này, thiết lập một Quả cầu Một có thể dùng làm tấm gương cho những ai khao khát nhìn thấy hành tinh vươn lên khỏi trò chơi tự ngã và thị hiện Vương quốc Thượng đế, Tăng đoàn của Phật, Vòng tròn của Duy nhất, sự kết hợp của Thân thể Chúa, Thân thể Ki-tô. Cho nên ta, Gautama, khen ngợi tất cả những ai sẽ thức tỉnh trong lời kêu gọi Quả cầu Một của Maitreya, bây giờ lẫn trong tương lai. Ta chúc mừng con đạt tới điểm nhận diện được rằng quả thực có một sự mệnh rộng lớn hơn đang chờ đón con, một sứ mệnh không dành riêng cho một tôn giáo nào mà vượt trên mọi tôn giáo vỏ ngoài. Vì đúng thực, các thành viên của bất kỳ tôn giáo nào hay vô tôn giáo cũng đều được chào đón như nhau trong Quả cầu Một của Maitreya – một khi họ cam kết bước đi trên con đường hợp nhất.      

Cho nên ta, Gautama, đến đây để cống hiến một món quà cho mọi con người tâm linh. Nếu con cho phép, ta sẽ neo trụ một phần của sự An bình của Phật vào luân xa đỉnh đầu của con, và nó sẽ ở lại với con chừng nào con còn kiên quyết với con đường khắc phục mọi dính mắc. Vì thế, bất cứ khi nào con cảm thấy mình phải đối mặt với một hoàn cảnh khó khăn hay một thương tích nan giải trong tâm lý mình, ta yêu cầu con hình dung là con đang ngồi giống như Phật ở luân xa đỉnh đầu của con, và luân xa đỉnh đầu mở lớn như đóa hoa sen nở rộ, và con nhìn thấy Hiện diện của ta đi xuống con, để Phật trong ta và Phật tánh trong con trở thành Một. Điều này sẽ đem lại an bình cho con và sẽ đặt con thẳng hàng lại với Hiện diện TA LÀ của con.  

Vậy thì ta, Gautma, niêm con trong tình yêu của Alpha và Omega. Ta niêm con trong danh của Cha, của Con, của Thánh linh và Mẹ Thiêng liêng, và ta niêm con trong An bình của Phật.

Nhận biết sự Tĩnh lặng Bất tận!

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 5/7/2005.

TA LÀ Phật nơi đỉnh đầu,  tĩnh tọa trong thiên bào. Và con sẽ nhìn thấy ta khi Ánh sáng Mẹ được nâng lên đỉnh đầu và ngàn cánh hoa sen mở ra để hiển lộ Hiện diện của ta. Ta đến đây để trao uy lực của tất cả các vị Phật có liên hệ với địa cầu cho phong trào mới của các vị Bảo hộ Ánh sáng Mẹ bởi vì, quả thực, việc bảo hộ cho Ánh sáng Mẹ quan trọng đến như vậy. Đó là chìa khóa chủ yếu để thị hiện Thời Hoàng kim.  

Tại sao thời gian được tạo ra và như thế nào

Có một mối quan hệ quan trọng giữa Mẹ và Phật. Phật giữ sự quân bình cho không gian, trong khi Mẹ giữ sự quân bình cho thời gian. Không gian là gì? Thời gian là gì? Không gian là không gian nơi hình tướng có thể được thị hiện từ hư vô. Thời gian là một cảm nhận khoảng cách. Bình thường con nghĩ về không gian như là một khoảng cách, nhưng thời gian cũng là một khoảng cách, bởi vì kỳ thực, có thể nói là thời gian không hiện hữu. Và tại sao thời gian không hiện hữu? Vì thời gian không thực.  

Thời gian là một cảm nhận khoảng cách so với vị trí trong Dòng sông Sự sống mà đáng lý con đã đứng nếu con không dấn sâu vào tâm thức nhị nguyên và tách mình ra khỏi dòng chảy của Dòng sông Sự sống. Dòng sông cứ tiếp tục chảy khi con bước ra khỏi sông. Và sông cứ chảy tiếp nữa. Và chỗ đứng của con trong dòng sông sẽ tiếp tục bị bỏ trống chừng nào con còn ở lại trên bờ sông của nhị nguyên.

Và đó là cách mà Ánh sáng Mẹ cho phép con tạo ra ảo ảnh tách biệt riêng của con. Thế nhưng Quy luật của Thượng đế quy định rằng ảo ảnh không thể là ảo ảnh mãi mãi, bởi vì Thượng đế thương yêu con, và ngài không muốn con đời đời bị kẹt lại trong nhà tù mà chính con đã dựng lên cho con. Và như vậy, thời gian trở thành một hệ lụy của việc con bước ra khỏi Dòng sông Sự sống.  

Do đó, ngay khi con bước ra khỏi dòng sông đó, kim đồng hồ bắt đầu quay, và con sẽ không thể duy trì ảo ảnh đó mãi mãi. Sẽ đến một thời điểm khi con phải lấy quyết định tối hậu rằng con sẽ phục vụ cho ai. Liệu con sẽ chọn cái chết của sự tự hủy diệt, hay là cái sống của sự tái nhập vào Dòng sông Sự sống? Và khi con lao mình vào dòng sống đó một cách vô điều kiện – là những điều kiện mà con đã sử dụng để biện minh cho việc ở lại trên bờ – thì con sẽ nhanh chóng bắt kịp lại vị trí chính đáng của con trong dòng sông Thượng đế.  

Và khi con về lại chỗ đó, con vượt khỏi thời gian – cho dù con vẫn duy trì sự tập trung vật lý vào địa cầu, con có thể thực sự vượt khỏi thời gian. Và đó là tại sao những ai đã đạt đến giác ngộ đều nhận ra là tất cả mọi thứ trên địa cầu chỉ là tấm màn của Maya, tấm màn ảo ảnh, bởi vì rốt cuộc nó không thực. Đằng sau tất cả những thứ đó là Dòng sông Sự sống, và họ biết phần lớn Bản thể của mình ở trong dòng sông.  

Phật tọa thiền hoa sen

Rất nhiều người trong số các con vẫn tự hỏi: “Sứ vụ của tôi trên địa cầu này là gì? Tại sao tôi ở đây? Tôi đã đến đây để đem lại gì?” Chìa khóa để tìm ra tại sao con ở đây là kết nối lại với Tĩnh lặng của Phật. Đây là điều mà ta ban tặng cho con – sự tĩnh lặng – sự tĩnh lặng của Phật vượt khỏi những xáo động đang diễn ra trong cõi giới này của thời gian, Biển Luân hồi.

Và do đó ta cho con hình ảnh sau đây để con hình dung, khi con thấy mình trong nhịp sống hối hả của chợ búa, và con nhận biết con bị phân tâm, hay căng thẳng hay trĩu nặng, con hãy bước sang một bên và nói: “À, tôi đang bị vướng vào bùn ở đáy hồ. Nhưng bây giờ tôi sẽ tìm ra điểm tĩnh lặng trong tim tôi, tôi sẽ tìm ra hạt giống của hoa sen, và tôi sẽ để cho nó nẩy mầm, gửi một cuống hoa lên mặt nước.”

Và con hình dung Ánh sáng Mẹ màu trắng dâng lên từ gốc lên đến đỉnh đầu, và khi nó tới đỉnh đầu, đóa hoa sen ngàn cánh nở ra. Và bây giờ con đã hết ở trong bùn vì con đang ngồi như là Phật – với Hiện diện của ta chồng lên con – và con đang nổi trên mặt nước. Con đang nổi trên Biển Luân hồi, và không có gì bên dưới mặt nước có thể chạm vào con, bởi vì mặt nước này lặng yên như biển thủy tinh.   

Đó là tĩnh lặng. Và thỉnh thoảng, con hãy dành thời gian bước ra ngoài để tận hưởng tĩnh lặng. Thế gian quá ồn ào. Con hãy tắt máy thu thanh. Tắt âm nhạc. Rút phích điện những chiếc máy làm tiếng động mà người ta đã phát minh ra để ngăn con trải nghiệm Tĩnh lặng Bất tận.    

Kết hợp Phật và Ki-tô

Con đã được nghe về những Ngọn lửa của Thượng đế và ta sẽ giảng dạy thêm một chút cho con. Nhiều người trong số các con đã thắc mắc làm thế nào có một lời dạy tâm linh kết hợp Phật với Ki-tô. Đâu là mối liên hệ giữa Phật và Ki-tô? Này con, Phật và Ki-tô là biểu tượng cho hai trách vụ tâm linh nhằm dẫn dắt cuộc tiến hóa của địa cầu đến cứu rỗi, đến giác ngộ.

Phật và Ki-tô làm điều đó hai cách khác nhau. Phật là đấng ngồi trên mặt Biển Luân hồi, cầm giữ quân bình và viễn quan, cầm giữ sự quân bình toàn hảo cho Ánh sáng Mẹ. Ki-tô là đấng đi xuống Biển Luân hồi đó, đến với những ai bị lạc lối trong vô minh và không có khả năng đặt ra những câu hỏi sẽ giải thoát họ. Và thày ban cho họ một ly nước lạnh nhân danh Ki-tô.   

Điều này không có nghĩa là thày trao cho họ giáo lý tâm linh tối thượng, bởi vì thật sự nhiều người chưa sẵn sàng nhận lấy đâu. Và như vậy, khi Giê-su nói rằng con được quyền đi vào xã hội để lay động những ai còn đang bị kẹt, thày không muốn nói là con phải cho họ giáo lý tâm linh cao nhất mà con có thể với tới. Con cần hòa điệu vào tâm hồn người đó và tự hỏi: “Điều gì sẽ giúp cho dòng sống này bước đi bước kế tiếp? Đây là ly nước lạnh mà ta sẽ tặng họ”. Đó là chức năng của Ki-tô.

Khi con áp dụng điều trên vào khái niệm Ngọn lửa Thượng đế có hai phương diện, con có thể nói rằng ngọn lửa Alpha cũng là ngọn lửa của Phật. Đây là ngọn lửa giữ cân bằng cho địa cầu. Còn ngọn lửa Omega là ngọn lửa của Ki-tô. Đây là ngọn lửa mà con đem đến cho những ai còn lạc lối trong vô minh hầu họ có thể thức tỉnh. Chắc con đã có nghe Ki-tô là Hoàng tử của Hòa bình. Vậy Phật là Hoàng đế của Hòa bình. Phật ngồi trên ngai, cầm giữ viễn quan cho vương quốc, chỉ đạo cho hoàng tử đi vào đời và giải phóng những ai bị sa vào bùn.   

Cho nên, ngọn lửa của Ki-tô là Lời đã hiện thân. Và Giê-su đã chẳng nói hay sao – cho dù thày mang danh là Hoàng tử của Hòa bình – thày đã chẳng nói hay sao: “Đừng tưởng rằng ta đến để đem bình an cho thế gian. Ta đến để đem một thanh gươm” (Matthew 10:34)? Vậy thanh gươm này của Ki-tô là gì? Đó là Lời, là Lời hiện thân chẻ đôi cái thực khỏi cái không thực, hầu con người thấy tự ngã của mình và sự không thực của tự ngã, nhờ vậy mới có thể tự do chọn lựa tách mình khỏi tự ngã. Đó là thanh gươm của Ki-tô. Và đó là tại sao, thực sự, Ki-tô đã không đến để đem lại an bình cho thế gian. Thày đã tới để lay chuyển những ai bị kẹt trong vô minh, kẹt trong kiêu hãnh, kẹt trong đạo đức giả, và thách đố họ vươn lên cao hơn.   

Thày đã đến để phân rẽ anh em với anh em, trong ý nghĩa là thày thà nhìn thấy con người xung đột – vì xung đột sẽ phơi bày tự ngã, phơi bày những điều tồi tệ nhất trong họ – hầu họ thấy được khía cạnh này của tự ngã trong họ. Thày thà nhìn thấy loại xung đột đó – xung đột dẫn đến thăng tiến – còn hơn là nhìn thấy mọi người thờ ơ, mê ngủ, như thể tê dại, bước đi trong cuộc sống như người mộng du.  

Và thật vậy, Ki-tô đến để quấy rầy, để khuấy động, để khiến cho con người tỉnh giấc thờ ơ. Thế nhưng, Ki-tô là Hoàng tử của Hòa bình bởi vì chỉ khi nào con sẵn sàng chiến đấu với tự ngã thì con mới đạt được hòa bình đích thực của sự giải phóng khỏi tự ngã. Làm sao có được hòa bình nếu con người còn bị kẹt trong tự ngã? Ki-tô đến để trao cho họ thanh gươm sẽ cho phép họ tách rời cái Ta Biết khỏi tự ngã. Và đó là sự khác biệt giữa những ngọn lửa Thượng đế của con. Con cầm giữ một sự quân bình cho địa cầu, nhưng con cũng đến đây để đem lại một thanh gươm và để là Hoàng tử Hoà bình đó – tức con sẵn sàng lay động những ai tưởng mình an bình nhưng chi là sự bình an giả trá.

Và như vậy, ta đến để đóng góp uy lực hoà bình của ta, uy lực tĩnh lặng, cho những ai sẽ bảo hộ Ánh sáng Mẹ. Bởi vì, thực sự, nếu con chưa bao giờ tiếp xúc với tĩnh lặng của Phật, làm thế nào con có thể bảo hộ Ánh sáng Mẹ đây? Con sẽ chỉ bị lôi cuốn vào thêm một cuộc chiến đấu nhị nguyên khác giữa những con người đắm chìm trong tự ngã của mình.