Tình thương và Minh triết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 4/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice. Thày đến đây để giảng về những khai ngộ mà con đối diện ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày. Con lưu ý là thày không nói rằng ở tầng một con phải vượt qua tất cả khuynh hướng dùng tình tương làm trò chơi quyền lực. Con cũng có thể bắt đầu nhận ra rằng tự ngã muốn tìm ra một cái gì tối thượng. Điều này thể hiện ý muốn kiểm soát của nó. Ví dụ, nó nghĩ nếu nó tìm ra được học thuyết tối hậu, thì nó có thể hoàn toàn kiểm soát hoàn cảnh, định mệnh của nó, thế giới, người khác và Thượng đế.

Đây là điều con đặc biệt cần chú ý khi con đối mặt các khai ngộ của minh triết. Thày Lanto, sư huynh yêu dấu của thày, đã tìm cách giúp con vượt qua khuynh hướng này ở Tia thứ Hai, nhưng nhiệm vụ của thày, niềm vui của thày là giúp con vượt qua nó ở Tia thứ Ba. Ở tầng khái ngộ thứ hai ở khóa nhập thất của thày, con đối diện với bài học dùng tình thương phối hợp với Tia thứ Hai của Minh triết.

6.1. Khuôn nếp của quan hệ tình yêu hiện nay

Đây là lúc con cần bắt đầu nhìn ra xu hướng, rất phổ biến trên thế giới, đặc biệt là ở thế giới phương Tây, muốn hiểu mọi thứ và cho rằng hiểu có nghĩa là hiểu bằng trí năng. Con cần hiểu ngụ ý của thày Lanto khi thày giải thích trong cuốn sách của thày về những giới hạn của cái trí, của trí năng, nhưng thày sẽ giảng thêm về trí năng và tình thương, đặc biệt là các mối quan hệ tình yêu.

Chúng ta đã bước vào một giai đoạn tiến hóa của hành tinh này và của loài người, khi các khuôn nếp quan hệ tình yêu cũ đang bị thử thách và thường bị phá vỡ. Ví dụ, con thấy ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là thế giới được gọi là phát triển, số ly hôn hiện nay nhiều hơn so với giai đoạn gần đây trong lịch sử. Điều này có nhiều lý do, nhưng lý do căn bản chính là để bước vào Thời đại Bảo bình, con không thể tiếp tục các khuôn nếp quan hệ của thời đại Song Ngư và trước thời đại Song ngư.

6.2. Hai cực nam và nữ

Mối quan hệ giữa nam và nữ trên hành tinh này đã hoàn toàn mất quân bình từ rất lâu. Con thấy trong truyền thống văn hóa gọi là truyền thống Do thái-Cơ đốc giáo, từ thời kinh Cựu Ước mối quan hệ giữa nam và nữ đã theo sát một khuôn nếp quy định người nữ tự bản chất thấp kém hơn người nam.

Con hãy nhìn câu chuyện sáng thế trong Cựu ước kinh. Đầu tiên, Thượng đế tạo ra người nam, và sau đó, như chợt nhớ, Thượng đế tạo ra người nữ để hỗ trợ và giúp đỡ người nam. Con có thực sự nghĩ sáng thế diễn ra như vậy? Nếu con nghĩ vậy, thì thày có thể đảm bảo với con rằng khi con đến tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày, nhận thức đó sẽ bị thách đố.

Các thày, những chân sư thăng thiên, đã từ lâu bày tỏ điều gì qua sứ giả này? Các thày đã giảng rằng Đấng Sáng tạo là một, không phân chia, không thể chia cắt, nhưng khi Ngài quyết định sáng tạo, hành động sáng tạo đầu tiên là tạo ra một đối cực gồm hai lực: lực lan ra và lực co lại, tương đương với nam tính và nữ tính. Con có thực sự nghĩ rằng con có thể tạo ra một đối cực bằng cách tạo ra một sắc thái trước và sau đó tạo ra sắc thái còn lại không? Con có thực sự nghĩ rằng trong một đối cực, một sắc thái vượt trội hơn săc thái kia? Trong một đối cực, cả hai cực được tạo ra cùng một lúc, và chúng được tạo ra trong một quan hệ cộng sinh (symbiotic) để cân bằng lẫn nhau.

Thày đã nói trong bài giảng đầu là Tánh linh đóng vai trò chính yếu trên trái đất theo nghĩa con phải tuân theo Sứ vụ Thiêng liêng của mình hơn là các yêu cầu của thế gian. Con không thể bắt Tánh linh tuân theo yêu cầu của thế gian. Lý do là trái đất là một bầu cõi chưa thăng thiên bị mất cân bằng rất nặng. Làm sao con giúp bầu cõi này thăng thiên? Con không giúp bầu cõi thăng thiên được bằng cách tuân thủ các điều kiện đến từ trạng thái tâm thức không thăng thiên, tâm thức tách biệt.

Đó là lý do tại sao Tánh linh phải đóng vai trò chính yếu, và đó là cơ sở cho câu Thánh kinh nói rằng người chồng là chủ gia đình. Câu này chỉ có nghĩa biểu tượng mà thôi. Nó không bao giờ có ý muốn nói người nam hơn người nữ. Nó không bao giờ có ý nói khía cạnh nam của đối cực Thiêng liêng cao hơn khía cạnh nữ, rằng phái nữ đã gây sa ngã và do đó bây giờ nên đổ tội cho phụ nữ. Nó không muốn nói phải chèn ép phụ nữ vào một vị thế thấp phục vụ đàn ông, vâng lời họ và im miệng trong nhà thờ.

6.3. Cân bằng thái cực nữ

Toàn bộ tâm thức chèn ép phụ nữ đã đến từ sa nhân. Họ thấy cơ hội tạo sự mất quân bình giữa hai giới tính sâu xa đến độ hai bên sẽ không bao giờ có được quan hệ bình đẳng trong đó người nam và người nữ có thể biểu lộ trọn vẹn đối cực Thiêng liêng. Sa nhân đã tạo ra một khuôn nếp khiến quan hệ tình yêu vật lý ở cõi vật chất hầu như không thể phát huy hết tiềm năng sáng tạo cao nhất của nó. Đây là điều cần được khắc phục trong thời đại hoàng kim.

Khi con ở tầng của khóa nhập thất của thày, con không cần khắc phục toàn bộ khuynh hướng này cùng một lúc, nhưng con cần biết đến nó. Con cần nhận ra là nếu con có quan hệ với một người khác giới tính, cả hai người chúng con cần thăng vượt đối cực giả, sự mất quân bình cho rằng phái nữ kém hơn phái nam.

Thày biết nhiều người trong chúng con đã lớn lên trong thời hiện đại. Các con thường cảm thấy cha mẹ mình bị kẹt trong một quan hệ cổ lỗ quy định một vai trò nhất định cho phụ nữ. Các con hiện đại hơn, cân bằng hơn. Thày không tranh cãi là các con cân bằng hơn cha mẹ mình. Hầu hết các con chắc chắn là thế. Điều thày muốn nói là vẫn còn nhiều thứ phải khắc phục liên quan tới quan hệ giữa hai giới tính.

6.4. Không thể sở hữu tình thương Thiêng liêng

Tình thương có khả năng quân bằng tuyệt vời. Không thể sỡ hữu được tình thương. Con có thể tóm tắt như vậy bài giảng đầu của thày nếu con nắm ngụ ý của thày. Hầu hết mọi người nghĩ rằng trò chơi quyền lực sở hữu và kiếm soát của tự ngã là sở hữu và kiểm soát điều gì đó trong cõi vật lý.

Tự ngã muốn sở hữu và kiểm soát một số đặc tính sáng tạo để nó có thể hủ hóa chúng và loại chúng ra khỏi thế gian này. Tự ngã muốn hủ hóa cái nhìn của con về tình thương để con không thể là cánh cửa mở cho tình thương Thiêng liêng chảy qua con. Tình thương Thiêng liêng này có thể triệt tiêu sự mất quân bằng trong mọi quan hệ trên trái đất, nhưng nó chỉ làm được khi nó được tuôn chảy tự do. Nếu con hủ hóa nó, nếu con tìm cách ép nó vào một khuôn đúc tư tưởng dựa trên tâm thức tách biệt thì tình thương không chảy tự do được. Lúc ấy nó không chữa lành với hiệu quả tối đa được. Làm sao tình thương chữa lành được khi con tìm cách ép nó vào chính cái hình tư tưởng đã khiến con cần chữa lành? Đây là hình tư tưởng mất quân bằng khiến con cần chữa lành. Nếu con tìm cách ép tình thương tuôn chảy theo hình tư tưởng mất quân bằng đó, thì con không có tình thương Thiêng liêng. Bất cứ cái gì chảy qua con sẽ không có quyền năng chữa lành tối đa.

Điều này có hợp lý chăng? Trí năng có hãnh diện khi dùng lý trí không? Qua cái Ta Biết, con cần học cách dùng lý trí chống lại cái tâm trí thức, phân tích và lý luận. Thày không muốn nói “chống lại” theo nghĩa con đánh nhau với tâm mình. Con dùng lý trí để tránh không bị hút vào những khuôn nếp do tâm tạo ra.

6.5. Khắc phục sự mất quân bằng giữa hai giới tính

Con thấy gì trong quan hệ nam nữ trong thế giới hiện đại? Nhìn bên ngoài, con thấy số hôn nhân chấm dứt bằng ly dị nhiều hơn bao giờ hết. Nhìn bề sâu hiện tượng này, con thấy có sự chuyển đổi trong sự vận hành của quan hệ giữa hai giới. Sự chuyển đổi này có nhiều khía cạnh, nhưng thực ra động lực là nhu cầu khắc phục nhiều ngàn năm mất quân bằng. Không phải chỉ riêng người nam tạo ra và duy trì sự mất cân bằng. Con đừng lầm tưởng rằng các người nam đang hiện thân đã tạo ra sự mất quân bằng và là thủ phạm duy trì nó.

Con đang phải đương đầu với những lực vượt lên trên cõi vật lý. Chúng đã tạo ra sự mất quân bằng và điều khiển việc duy trì nó xuyên qua những người đang hiện thân sẵn lòng là công cụ cho chúng. Điều cần xảy ra là con không chịu làm công cụ nữa vì con vượt lên trên cách quan hệ nam nữ vận hành. Con cần nhận ra sự bất quan bằng trong quan hệ nam nữ không phải là điều con có thể đổ lỗi cho người phái nam.

Kể từ thời câu truyện sa ngã trong Vườn Địa đàng trong Cựu ước kinh, chuyện gì đã xảy ra giữa phái nam và phái nữ? Có phải là người nam đã đổ lỗi cho người nữ làm cho họ sa ngã? Con có nghĩ rằng con sẽ tiến bộ nếu con tạo ra một văn hóa trong đó người nữ đổ lỗi cho người nam đã chèn ép người nữ? Làm sao con khắc phục đổ lỗi bằng cách đổ lỗi thêm nữa? Người nam đã không bắt đầu chu kỳ này. Họ trở thành nạn nhân của nó, như phụ nữ cũng là nạn nhân vậy. Con cũng cần nhận ra rằng phụ nữ đã đồng ý tùng phục điều này, dù họ hiếm khi ý thức điều đó.

Họ đã mang vai trò này suốt vài ngàn năm qua. Phụ nữ trên trái đất này đã chấp nhận xem mình thấp kém hơn dựa trên những khác biệt thể lý giữa cơ thể nam và nữ. Họ cũng đã chấp nhận mình thấp kém hơn dựa trên một lý thuyết triết học được các tôn giáo cổ vũ. Ngay cả bên phương Đông với những tôn giáo không dựa trên Cựu ước kinh, con vẫn thấy bất bình đẳng giữa các giới. Con vẫn thấy phụ nữ bị chèn ép và bị xem gần như là vô tích sự vì không dễ gả chồng cho con gái.

6.6. Đổ lỗi là một sự hủ hóa tình thương

Con không thể đổ lỗi là người nam đã tạo ra tình trạng này. Con không thể đổ lỗi cho riêng truyền thống Do thái-Cơ đốc. Con có thể đổ lỗi cho sa nhân, nhưng làm thế không thật sự hữu ích. Vấn đề với tâm thức bất quân bình nam nữ là nó dùng một hủ hóa tình thương khác, hủ hóa chính là sợ hãi, nhưng đổ lỗi là một trong những hủ hóa hàng nhì. Điều con cần làm là khắc phục khuynh hướng, nhu cầu đổ lỗi. Nếu con sẵn sàng, con làm điều này ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày. Lúc ấy con nhận biết được rằng đổ lỗi là sự hủ hóa tình thương.  

Con thấy gì trong thế giới hiện đại này? Con thấy kiến thức được mở rộng không thể tưởng tượng được, kiến thức về sự vận hành của mọi sự. Phần lớn kiến thức này đạt được bằng tư duy đường thẳng, phân tích và trí năng. Tư duy này chắc chắn có một số đặc tính tích cực. Con đừng bị lừa mà nghĩ rằng trí năng nhất thiết là kẻ thù của phát triển tâm linh. Nó chỉ là kẻ thù khi con dùng nó một cách mất cân bằng, là điều tự ngã và sa nhân muốn. Con có thể vượt lên trên điều này vì trí năng có thể chứng minh một điều kiện là đúng hoặc ngược lại. Trí năng rất giỏi trong việc tạo ra một cách nhìn đời mất cân bằng nhưng con có thể dùng lý luận của trí năng để phơi bày sự mâu thuẫn và mất cân bằng này. Sau đó, cái Ta Biết có thể bước ra khỏi nó. Thay vì đồng hóa với trí năng và cách nhìn đời của trí năng, con có thể xem trí năng chỉ vỏn vẹn là công cụ để hoàn thành một số phần vụ trong cõi vật chất.

Con có thể ngừng không dùng trí năng để suy luận về những gì vượt quá cõi vật chất vì con có thể nhận ra chân lý mà các nhà thần bí mọi thời đại đã biết. Chân lý đó là trí năng không bao giờ có thể cho con hiểu biết chính xác về thế giới cao. Đức Phật nhận ra điều này 2,500 năm trước đây, đó là lý do vì sao thày không nói về cõi trời nhưng dạy cách làm chủ tâm mình. Con có thể nâng cao tâm thức cho tới khi con trực tiếp trải nghiệm thế giới cao bằng một cách vượt quá hiểu biết và phân tích của trí năng.

Trong thế giới hiện đại con người đã gia tăng khả năng nhận biết, nhưng giống như câu nói cũ; “Nếu bạn chỉ có một cái búa, bạn nghĩ mọi vấn đề đều là cái đinh.” Nếu dụng cụ duy nhất mà con có là trí năng, con nghĩ mọi vấn đề phải giải quyết bằng cách phân tích. Con thấy chăng những gì đã xảy ra giữa người nam và người nữ? Con người đã có nhận biết cao hơn về quan hệ tình yêu. Điều này có nhiều điểm rất tốt và rất cần thiết.

Nhân loại cần phá vỡ quan hệ cũ, không quân bình giữa người nam và người nữ. Điều này chỉ xảy ra khi nhận biết được nâng cao, nhưng nó không thể dựa trên kiến thức trí năng mà thôi. Con thấy là trong thế giới phương Tây hiện đại, người nam và người nữ đã tìm cách phân tích để giải quyết các vấn đề trong quan hệ của họ. Có một lực ngầm là lực phát triển đã tạo nên nhiều vấn đề hơn trong các mối quan hệ.

6.7. Khó duy trì quan hệ mất cân bằng.

Ngày nay một quan hệ mất cân bằng khó duy trì, khó hơn nhiều so với thời thế hệ cha mẹ con. Hầu hết các con có thể nhìn về quá khứ và thấy rằng trong thế hệ cha mẹ mình, họ có thể ở với nhau trong hôn nhân 40 hay 50 năm. Lý do một phần là vì họ chấp nhận một trạng thái cân bằng giả tạo giúp họ sống với nhau mà không thách thức nhau. Dù kết quả là một sự hài hòa bề ngoài, nhưng nó không đem lại sự phát triển.

Ngày nay, trạng thái cân bằng giả tạo này khó duy trì, và đó là lý do tại sao nhiều người trong các con có vấn đề trong quan hệ tình yêu của mình. Một quan hệ không phát triển khó duy trì hơn. Một trong hai người bạn đường cảm thấy không thỏa mãn, mối quan hệ không đạt được tiềm năng cao nhất của nó, có điều gì đó cần phải thay đổi.

Lúc đó nhiều người trong các con làm gì? Con đọc một cuốn sách hay con đi gặp một người tư vấn, và con tìm cách hiểu bằng trí năng chuyện không ổn trong quan hệ của con để con thử tìm cách hàn gắn nó. Đây vừa là sức mạnh vừa là tai họa của thế giới Tây phương: khuynh hướng phân tích mọi thứ. Con nghĩ rằng con có thể hiểu nguyên nhân một sự việc bằng cách tìm ra các thành phần cơ bản của sự việc đó. Khi con thay đổi nguyên nhân, con cũng sẽ thay đổi hậu quả. Con nghĩ rằng nếu có vấn đề giữa người nam và người nữ trong quan hệ của họ, con cần phân nhỏ vấn đề ra từng thành phần nhỏ.

Giả dụ con có mối quan hệ giữa một người nam và một người nữ. Bây giờ con chú tâm vào người nam rồi con chú tâm vào người nữ. Con nói: “Đặc tính của người nam là gì? Đặc tính của người nữ là gì?” Con đi đến một lý thuyết nghe rất hay là “người nam đến từ Hỏa tinh và người nữ đến từ Kim tinh.” Sau đó, con phân tích một số đặc tính của người nam và con nói: “Người nam hành động như thế này, và nó ảnh hưởng người nữ như thế này. Người nữ hành động như thế này, và nó ảnh hưởng người nam như thế này. Nếu người nam học cách biết họ đang làm gì và điều họ làm ảnh hưởng người nữ như thế nào, thì họ có thể thay đổi để họ không tạo ra hậu quả tiêu cực nơi người nữ. Nếu người người học để biết chính họ, họ cũng có thể thay đổi, và như thế đôi bên có thể sống hạnh phúc mãi mãi với nhau.”

Con yêu dấu, điều rất quan trọng ở đây là con phải bước lên cao hơn và vượt quá điều mà trí năng lúc nào cũng muốn làm, đó là giàn dị hóa vấn đề thành các thành phần cơ bản của nó. Trí năng muốn tin rằng nó đã tìm ra điểm mấu chốt, nguyên nhân sâu xa. Khi nó hiểu được điểm này, nó cũng sẽ hiểu các khía cạnh khác của vấn đề.

Các nhà vật lý đã làm gì để hiểu thế giới vật lý? Đầu tiên họ nhìn vào các hình dáng bên ngoài. Sau đó họ thấy rằng mọi thứ được tạo ra ra từ vật chất. Vật chất được tạo ra từ phân tử. Phân tử được tạo ra từ nguyên tử. Nguyên tử được tạo ra từ các hạt hạ nguyên tử. Các nhà trí thức duy vật nói: “Bằng cách tìm ra các hạt hạ nguyên tử, chúng tôi đã thu nhỏ thế giới xuống thành các thành phần cơ bản của nó. Bây giờ vấn đề chỉ là hiểu cách các hạt hạ nguyên tử hoạt động và tìm ra hạt tối hậu, hạt-thượng đế. Khi đó chúng ta sẽ hiểu cách toàn bộ vũ trụ vận hành”. Nhưng sự thức không phải là như vậy.

6.8. Dùng trực giác để vượt quá trí năng

Trí năng có giới hạn cơ bản. Khi phân tích, giản dị hóa sự việc thành những thành phần cơ bản của nó, nó đánh mất cái gì? Nó đánh mất cái tổng thể. Có thể con đã nghe câu nói: “Tổng thể nhiều hơn các thành phần cộng lại.” Quan hệ giữa người nam và người nữ là một tổng thể và nó nhiều hơn người nam và người nữ, tâm lý của hai người. và sinh lý của hai ngời cộng lại. Nó nhiều hơn thế.

Bây giờ thày muốn con phân biện rõ ý của thày. Thày không nói phân tích các quan hệ hay phân tích tâm lý người nam và người nữ là điều sai hay vô ích. Thế giới hiện đại đã tiến bộ vì nó đã phân tích và cố gắng tìm hiểu mọi việc. Điều thày muốn chỉ cho con thấy là sự tiến bộ của thế giới hiện đại đã đạt tới tối đa những gì có thể đạt được bằng cách phân tích và giản dị hóa mọi sự việc. Điều cần cho thời đại Bảo bình – điều cốt yếu để thời đại Bảo bình trở thành thời đại hoàng kim – là con người học cách phân tích tới mức tối đa và sau đó dùng trực giác để đi xa hơn nữa.

Một số người đã hiểu được điều này. Einstein, chẳng hạn, đã hiểu được phần nào và do đó đã dùng trực giác để đạt một số đột phá. Ông không hiểu đầy đủ những gì thày nói ở đây, nghĩa là ông đã cho phép trí năng áp đặt một giới hạn trên khả năng trực giác của ông. Đó là lý do tại sao ông không hoàn tất được công việc của mình và không đưa ra được lý thuyết mà ông mong mỏi tìm ra.

Lý do một phần là vì ông không nhận ra là mơ ước về một lý thuyết tối hậu là mơ ước của trí năng chứ không phải là mơ ước của trực giác. Trực giác không có nhu cầu có cái tối hậu trong thế giới vật lý, vì nó tuôn chảy với Tánh linh. Nó biết là lực tối hậu, thực tại tối hậu là dòng tuôn chảy.

6.9. Phá vỡ các khuôn nếp phản ứng trong quan hệ

Không có điều gì đứng yên, vậy làm sao có điều gì tối hậu được? Thượng đế là tối hậu, nhưng ngay Thượng đế cũng không đứng yên. Thượng đế luôn luôn thăng vượt qua con. Vậy tại sao con, khi con là khía cạnh tự thăng vượt của Thượng đế, lại nghĩ rằng mình có thể đứng yên? Điều này không hợp lý. Sa nhân không thể thấy điều này, tự ngã của con không thể thấy điều này và trí năng của con không thể thấy điều này. Nhưng con có thể thấy được, khi con ý thức mình là nhận biết không bị ràng buộc. Điều này liên quan ra sao với quan hệ giữa người nam và nữ? Con có thể giảm thiểu người nam xuống một số đặc tính không? Con không thể làm được!

Điều con có thể làm được là giúp người nam và người nữ nhận ra: “Cái ta vỏ ngoài của tôi đã bị mắc kẹt trong một khuôn nếp. Khi người bạn đường của tôi làm hay nói một số điều, cái ta vỏ ngoài của tôi phản ứng một cách nào đó và điều đó có nghĩa là tôi cãi lại.” Con cũng có thể hiểu rằng khi con phản ứng và nói điều gì với người bạn đường của mình, thì người bạn đường cũng có một khuôn nếp khác khiến người đó phản ứng một cách nào đó. Điều này có nghĩa là cả hai chúng con đi vào một vòng xoáy hướng hạ kéo năng lượng của chúng con xuống.

Con có thể hiểu điều này, và nó rất hữu ích để con phá vỡ những khuôn nếp này – nếu con sẵn sàng phá vỡ chúng, nếu đôi bên sẵn sàng phá vỡ chúng. Nếu chỉ có một tronghai người bạn đường sẵn sàng phá vỡ khuôn nếp, thì mối quan hệ không nhất thiết thăng vượt được lên trên tầng mức đó.

6.10. Nhận tình thương là thuốc giải độc sợ hãi

Nói tóm lại, con sẽ không có một quan hệ thành công chỉ bằng cách phân tích mình và phân tích nhau. Con chỉ thành công khi nhận ra rằng tình thương phải luôn luôn tuôn chảy.

Điều gì đã thật sự khiến các mối quan hệ bị mắc kẹt trong những khuôn nếp giới hạn này? Đó là nỗi sợ mất mát của tự ngã, khiến nó muốn kiểm soát người bạn đường để nó không mất điều mà nó nghĩ nó chỉ có được xuyên qua người bạn đường. Tất cả con người trên trái đất đều phần nào bị ảnh hưởng bởi tâm thức tách biệt. Nếu con không bị ảnh hượng, con không thể ở lại trong xác thân này. Con càng xuống các tầng tâm thức thấp thì càng bị ảnh hưởng. Con càng bị ảnh hưởng bởi tâm thức tách biệt, thì con càng cảm thấy cô đơn. Con cảm thấy bị mắc kẹt trong một môi trường đầy đe dọa và quan hệ của con với môi trường dựa trên sợ hãi.

Mọi người đều biết từ bên trong con người mình là tình thương là thuốc giải độc cho sự sợ hãi. Nhiều người không biết điều này một cách ý thức, nhưng nó vẫn có mặt nơi các phần sâu của tâm. Điều này có nghĩa rằng con càng bị mắc kẹt trong sợ hãi thì con càng khao khát tình yêu.

Làm sao con có được tình thương? Khi còn nhỏ, nếu con may mắn thì có được tình thương từ cha mẹ hay ít ra từ một trong hai người. Nhiều trẻ em lớn lên với cha mẹ bị mắc kẹt ở dưới tầng tâm thức thứ 48. Khi một người ở dưới tầng tâm thức thứ 48, người đó không thể cho tình yêu một cách tự do. Con cái người đó sẽ không cảm thấy nhận được đầy đủ tình thương từ cha mẹ.

Phần kia của phương trình là nếu em nhỏ ở dưới tầng tâng thức 48, em sẽ không có khả năng nhận được tình thương một cách tự do. Dù cha mẹ cho em tình thương bao nhiêu chăng nữa, em sẽ không cảm thấy đủ. Tình trạng cơ bản là hầu hết mọi người lớn lên với cảm giác không nhận đủ tình thương nên họ cảm thấy thiếu hụt. Sau đó họ vào tuổi thanh thiếu niên, kích thích tố tác động và họ bắt đầu có cảm xúc tình dục. Dựa trên nền văn hóa chung, họ nghĩ rằng cách có được tình thương mà họ hằng mong ước là tìm được một người bạn đường khác giới và có với nhau một mối quan hệ thể xác, lãng mạn và tình dục.

6.11. Thiếu hụt tình thương

Hầu hết quan hệ tình yêu trên hành tinh này bắt đầu với tình trạng hai người bạn đường cảm thấy mình thiếu hụt tình thương. Cả hai nghĩ rằng ý nghĩa của mối quan hệ là nó sẽ lấp đầy sự thiếu hụt tình thương của mình. Làm sao nó làm được? Nó làm được nếu mình nhận được đủ tình thương từ người bạn đường. Bạn đường của con cũng thiếu hụt tình thương và anh hay cô ấy cảm thấy mình không nhận được đủ tình thương khi mình lớn lên. Thày hiểu rằng con lớn lên trong một nền văn hóa lệch lạc. Con lớn lên với một cái nhìn lệch lạc về quan hệ. Con lớn lên với kỳ vọng là người bạn đường của con có thể lấp đầy nhu cầu tình yêu của con. Thày hiểu rằng con có kỳ vọng này. Thày không đổ lỗi con về chuyện này. Thày chỉ hỏi con liệu kỳ vọng này có thực tế không. Liệu rằng người bạn đường của con có thể nào lấp đầy nhu cầu tình yêu của con không?

Người bạn đường của con đã lớn lên trong cùng nền văn hóa với con. Người bạn đường của con cũng có sự thiếu hụt, cũng cảm thấy là mình không nhận đủ tình thương. Nếu con bị thiếu hụt, và người bạn đường của con bị thiếu hụt, thì làm sao người đó có thể cho con tình thương mà con cần nếu người đó không có đủ tình thương trong trường năng lượng và luân xa của anh hay cô ấy?

Làm sao người bạn đường có đủ tình thương để cho con để con lấp đầy nhu cầu của mình? Làm sao hai người cùng thiếu hụt có thể giúp nhau vượt qua sự thiếu hụt này? Điều này có hợp lý không? Chắc hẳn trí năng cũng phải nhận ra kỳ vọng này thiếu thực tế? Nếu con bắt đầu một mối quan hệ mà trong đó cả hai bên đều đặt kỳ vọng không thực tế vào mối quan hệ, thì chỉ có thể có một kết quả xảy ra: cả hai đều sẽ thất vọng với mối quan hệ.

Bây giờ con lý luận theo kiểu nền văn hóa của con đã dạy con, là điều này có nghĩa là quan hệ của con có điều gì không ổn: “Nhu cầu tình thương của tôi không được người bạn đường lấp đầy. Vậy phải có điều gì không ổn rồi. Vì tôi không được điều gì tôi cần từ người bạn đường, vậy là người bạn đường của tôi có cái gì không ổn.” Bấy giờ, hai người đi tới giai đoạn, sau khi họ làm ngơ với sự thật rằng cả hai bên đều không hài lòng với mối quan hệ, nay họ bắt đầu nhìn nhận và công khai nói lên sự không hài lòng với mối quan hệ.

Sau đó họ đến thời điểm mà họ quyết định: “Chúng ta phải làm điều gì đó.” Họ làm gì? Họ tìm một cuốn sách, họ theo một khóa học, họ tìm đến một chuyên gia tư vấn. Họ bắt đầu có những cuộc nói chuyện làm kiệt sức: “Cô/anh đã làm điều này! Cô/anh đã không làm điều này! Cô/anh làm cho tôi cảm thấy thế này. Cô/anh làm cho tôi cảm thấy thế kia.”

Con đang tìm cách làm gì đây? Nếu con đang tìm cách nhận biết những khuôn nếp lệch lạc của chính mình để thay đổi chúng, thì đây là cơ hội để con hưởng lợi lạc từ các cuộc nói chuyện này. Nếu cả hai người bạn đường đều làm điều này, nếu cả hai đều sẵn sàng nhìn vào chính mình và thay đổi khuôn nếp của mình, thì họ sẽ đạt tiến bộ. Điều thường xảy ra là cả hai đều bước vào trò chơi quyền lực ngụy trang như tình yêu, như thày đã nói trong bài giảng đầu của thày. Con dùng trí năng để phân tích người bạn đường của mình, với mục đích khiến người bạn đường thay đổi và con thì không phải thay đổi.

6.12. Giải quyết sự thiếu hụt bằng cách tập trung vào tổng thể

Con yêu dấu, đây là trò chơi cơ bản của tự ngã: Không bao giờ nhìn vào cái đà trong chính mắt mình, luôn luôn nhìn vào mảnh dằm trong mắt người bạn đường, luôn luôn phóng chiếu là vấn đề ở bên ngoài, và giải pháp là người bạn đường phải thay đổi trong khi con thì không phải thay đổi. Hoặc con cảm thấy nếu con phải thay đổi, thì con chưa thể thay đổi nếu người bạn đường chưa thay đổi. Nếu người bạn đường thay đổi và cho con tình yêu mà con cần, thì lúc đó con sẽ tự động thay đổi. Có bao nhiêu người trong chúng con đã ở trong tình trạng này? Tất cả chúng con đều đã như vậy, và người sứ giả này cũng không ngoại lệ. Con có thể bước lên và nhận ra đây lại một ví dụ khác của trò chơi quyền lực, và con đang sử dụng tình yêu như cái cớ?

Ở mặt ngoài, con có thể cảm thấy và thành thật tin rằng con chỉ làm điều này vì con muốn mối quan hệ thành công. Con chỉ tìm cách giúp người bạn đường thay đổi để anh hay cô ấy có thể thoát ra khỏi các khuôn nếp lệch lạc. Con cũng có thể cảm thấy con đang tìm cách thay đổi chính mình, thoát ra khỏi khuôn nếp của mình. Một lần nữa, con hãy lưu ý. Con có thể tiến triển bằng cách phân tích mối quan hệ, cách vận hành giữa con và người bạn đường, và phân tích tâm lý của con và người bạn đường. Con có thể tiến triển bằng cách này, nhưng con sẽ không tiến triển tối đa và con sẽ không cứu vãn được mối quan hệ bằng cách chú tâm vào tiến trình phân tích và giản dị hóa vấn đề. Một quan hệ thành công, có sự sáng tạo tối đa, chỉ có thể dựa trên một điều: chú tâm vào tổng thể.

Con làm gì khi con phân tích nguời bạn đường của mình? Con tìm cách rút người đó xuống thành một số đặc tính, một số khuôn nếp trong tâm lý. Một chuyên viên tư vấn giỏi có thể cho con thấy một số khuôn nếp trong tâm lý của con và người bạn đường, nhưng các con đang làm gì? Các khuôn nếp đó hiện hữu trong tâm vỏ ngoài. Các khuôn nếp đó không ở trong cái Ta Biết vì cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, không phân biệt và không có khuôn nếp. Khi con rút mình và người bạn đường xuống thành những khuôn nếp trong tâm vỏ ngoài, chuyện gì xảy ra? Con chỉ thấy cây, và con không thấy khu rừng của cái Ta Biết là cánh cửa mở, là ngõ vào cho Hiện diện TA LÀ của con và người bạn đường.

Tự ngã của con và tự ngã của người bạn đường sẽ không bao giờ hợp nhau. Tâm vỏ ngoài của con và tâm vỏ ngoài của người bạn đường sẽ không bao giờ thật sự sáng tạo chung với nhau. Tâm vỏ ngoài của các con có thể tìm ra một sự cân bằng nơi đó không có xung đột. Hai tự ngã của chúng con có thể đi vào trạng thái cân bằng trong đó một người ở địa vị cao và người kia ở đia vị thấp. Điều này có thể cho chúng con một sự cân bằng quyền lực trong đó chúng con có thể sống chung mà không tranh chấp liên tục.

Nhiều người trên thế gian này gọi đó là một quan hệ thành công, thậm chí là hài hòa. Đây không phải là một quan hệ sáng tạo vì quan hệ sáng tạo chỉ xảy ra khi cả hai bên đều tìm cách trở thành cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của mình. Trở thành cánh cửa mở nghĩa là vượt qua những khuôn nếp trong tâm lý để con có thể là cái Ta Biết mà không bị tâm vỏ ngoài pha màu – và con giúp người bạn đường cũng làm như vậy. Con càng phân tích người bạn đường, con càng nắm giữ ý tưởng: “Ồ, anh ấy như thế này” hoặc “Anh ấy như thế kia” hoặc “Cô ấy như thế này” hoặc “Cô ấy luôn luôn phản ứng như thế kia.” Con càng làm thế thì con càng che mờ cái Ta Biết và sự tự do tuôn chảy của nó. Con càng phân tích thì con càng thiếu sáng tạo. Một lần nữa, phân tích có thể giúp vượt qua các khuôn nếp, nhưng một khi con đã vượt qua chúng, con cần đi bước kế tiếp và cho phép mỗi người được là như họ là.

6.13. Nhận tình thương từ Hiện diện TA LÀ của con

Con hãy so sánh điều thày vừa nói về sự thiếu hụt tình thương, nhu cầu có tình thương, và nhu cầu nhận tình thương từ người bạn đường. Con chỉ làm được điều này khi cả hai đều nhận ra mục đích của quan hệ giữa người nam và người nữ không phải là hai bên cho nhau tình thương. Mục đích là hai bên sáng tạo và thể hiện điều gì lớn hơn điều mỗi người có thể làm một mình vì tổng thể được phép trở thành lớn hơn sự gộp lại của các thành phần.

Con cũng cần nhận ra rằng, dù con cần tình thương, con sẽ không bao giờ nhận đủ tình thương từ người bạn đường hay từ bất cứ một con người nào khác. Con không thể nào nhận được đủ tình thương từ bên ngoài mình. Con chỉ có thể nhận được từ bên trong mình, từ Hiện diện TA LÀ của con. Không người bạn đường nào trên trái đất có thể yêu con như Hiện diện TA LÀ của con.

Nhiều người tâm linh đã bắt đầu vượt lên trên tình thương thế gian, nhưng họ vẫn nghĩ rằng nếu người bạn đường của họ thật sự tâm linh, người ấy phải có thể cho họ tình thương mà họ cần. Thày không nói rằng người bạn đường của con không được cho con tình thương khi chúng con sống với nhau trong quan hệ tình yêu. Chắc chắn là chúng con biểu lộ tình yêu cho nhau, nhưng nếu muốn mối quan hệ thành công thì cả hai bên phải vượt qua cảm giác thiếu hụt tình thương. Con không kỳ vọng và không đòi hỏi người bạn đường phải cho con tình thương, mà con chỉ có thể nhận được từ Hiện diện TA LÀ của con mà thôi. Con có thể nhận được tình thương từ người bạn đường, nhưng tình thương mà con cần để vượt qua tách biệt chỉ có thể đến từ Hiện diện TA LÀ của con.

Thiết lập sự nối kết với Hiện diện TA LÀ là trách nhiệm của mình con. Đây không phải là trách nhiệm của người bạn đường của con. Nó thậm chí không phải là trách nhiệm của vị thày của con, dù vị thày đó là một người đang có xac thân vật lý hay một chân sư thăng thiên. Nó là bổn phận của con.

Con cần biến trách nhiệm thành khả năng đáp ứng. Con làm điều mà thày nói trong bài giảng đầu của thày và con đặt ưu tiên đúng chỗ. Con nhận ra rằng tình yêu mà con mơ ước, tình yêu mà con thật sự cần, chỉ có thể đến từ Hiện diện TA LÀ của con, không phải từ người bạn đường. Con không kỳ vọng và không đòi hỏi người bạn đường cho con điều mà con không thể có được từ người ấy. Con không đổ lỗi cho người bạn đường đã không cho con điều mà, nếu người bạn đường có khả năng cho con, con cũng không có khả năng nhận.

Con hiểu chăng? Vấn đề không chỉ là việc người bạn đường không thể cho con tình thương mà con cần. Đó cũng là con không thể nhận tình thương đó từ bất cứ nguồn nào bên ngoài. Con chỉ có thể nhận nó từ Hiện diện TA LÀ của con.

6.14. Ngừng đổ lỗi người bạn đường của con

Chuyện gì xảy ra khi con gặp một người và bị tiếng sét ái tình? Con trải qua trạng thái hưng phấn, con cảm thấy mối quan hệ đang thành công và tình yêu đang tuôn chảy, và con đã rốt cuộc tìm được, con nghĩ thế, tình yêu mà con cần. Như hầu hết các con đã nhận ra, tiếng sét ái tình là một trạng thái ảo tưởng. Nó là một trạng thái hưng phấn. Nó giống như ma túy.

Khi con đang yêu, con tạm bỏ qua bên một số khuôn nếp của mình. Lúc đó con nhận được một chút tình thương từ Hiện diện TA LÀ của con. Con chỉ không biết là nó đến từ Hiện diện TA LÀ, và con nghĩ nó đến từ người bạn đường của con. Chuyện gì đã xảy ra sau đó, tại sao tình yêu đó phai nhạt đi? Vì Hiện diện TA LÀ biết con cần học điều gì. Con cần nhận biết một cách ý thức là tình yêu mà con cần chỉ có thể đến từ Hiện diện TA LÀ, để con bắt đầu chú tâm vào Hiện diện TA LÀ của con. Hầu hết mọi người không làm điều này trong quan hệ tình yêu vì họ không được giảng dạy đây là điều họ cần. Lúc ấy Hiện diện TA LÀ của con phải cắt đứt dòng tình thương. Nó phải cắt đứt không phải để trừng phạt con mà vì đây là cách duy nhất để con bắt đầu suy nghĩ tại sao con không nhận được tình thương mà con cần.

Vì những gì họ biết qua sự giáo dục khi lớn lên, hầu hết mọi người đi vào khuôn nếp đổ lỗi cho người bạn đường thay vì chú tâm thiết lập sự nối kết có ý thức với Hiện diện TA LÀ. Thày hoàn toàn hiểu điều này. Trong tâm thày chỉ có lòng trắc ẩn và đồng cảm với rất nhiều người không thể hành động tốt hơn vì họ không biết đúng hơn.  

Thày làm được gì ngoài chuyện cho con kiến thức để con biết đúng hơn? Thày hy vọng rằng các con nào mở tâm ra với giáo lý này và biết đúng hơn, sẽ hành động tốt hơn cho mình. Thày cũng hy vọng con sẽ lan truyền đến người khác là có quan niệm về quan hệ tình yêu khác với quan niệm bình thường.

6.15. Cân bằng giữa Alpha và Omega

Hạnh phúc tối hậu không đến từ một quan hệ tình yêu siêu phàm với người bạn đường toàn hảo trên trái đất. Hạnh phúc tối hậu chỉ đến khi con thiết lập quan hệ với Hiện diện TA LÀ của con. Con nhận ra Hiện diện TA LÀ là Alpha, khía cạnh nam của con người con. Cái Ta Biết là Omega, khía cạnh nữ của con người con. Rồi con cho phép Hiện diện TA LÀ làm chủ căn nhà của con, và con chấp nhận con là cực Omega ở thế giới vật chất, nối với cực Alpha của Hiện diện TA LÀ ở cõi tâm linh. Giờ đây con có được dòng chảy đúng đắn của hình số tám trong con người con (dòng chảy số tám theo chiều dọc), và sau đó con có thể thiết lập dòng chảy số tám sáng tạo nhất với người bạn đường trên trái đất này. Con không bao giờ có thể thiết lập dòng chảy số tám chiều ngang trước khi mỗi người trong hai chúng con đạt được một mức cao của dòng chảy số tám theo đường dọc.

Ý niệm người nam và người nữ hoàn toàn bình đẳng với nhau có nghĩa gì? Điều này chỉ thành tựu khi cả hai nhận ra quan hệ của mình với Hiện diện TA LÀ của mình. Họ nhận ra và trải nghiệm là Hiện diện TA LÀ ở trên cõi tâm linh và vượt lên trên mọi phê phán hay so sánh trên thế gian. Không có vấn đề mình giỏi hơn người khác. Không có vấn đề một người bạn đường cao cả hơn hay quan trọng hơn người kia.

Mỗi chúng con có Hiện diện TA LÀ của mình là một sinh thể tâm linh độc nhất. Mỗi chúng con có sứ vụ Thiêng liêng của mình. Cả hai chúng con đều quan trọng như nhau, và mối quan hệ chỉ được tiềm năng cao nhất khi con cho phép cả hai người hoàn thành sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Thày hiểu rằng đôi khi, qua sự nhận biết, con đi tới kết luận rằng Sứ vụ Thiêng liêng của con đòi hỏi những tình huống bên ngoài và những hành động quá khác thường, và do đó không thích hợp và không thiết thực để duy trì một quan hệ tình yêu. Đây cũng là một quan hệ thành công.

Một quan hệ thành công không có nghĩa là hai bên sống suốt đời với nhau. Nó là mối quan hệ mà hai bên giúp nhau trên hành trình cá nhân của mình tới một điểm nơi họ sẵn sàng đi bước kế tiếp. Nếu cả hai người nhận ra rằng bước kế tiếp trên hành trình của họ sẽ thành tựu tốt nhất nếu họ không sống chung với nhau trong một quan hệ tình yêu, đây cũng là một thành công.

6.16. Hôn nhân trọn đời?

Ý tưởng hôn nhân trọn đời từ đâu đến? Một phần nó đến từ thời xưa khi tình trạng an ninh rất thấp, đặc biệt là trong những xã hội mà người nữ không có cách chi để tự nuôi sống mình, khi chỉ có người nam mới có việc làm hay nghề nghiệp. Hôn nhân trọn đời là một dụng cụ xã hội thực tiễn, vì tốt hơn là người nam không bỏ vợ mình khi bà bắt đầu có tuổi và không thể nào đáp ứng thèm muốn tình dục của ông. Vì lý do đơn thuần thực tiễn, văn hóa thiết lập rằng người nam phải sống trọn đời với vợ mình.

Quan niệm này vẫn có giá trị trong những xã hội mà người nữ vẫn chưa có cách kiếm sống. Tất nhiên, những xã hội như thế nay đã lỗi thời. Trong thời đại hoàng kim, mọi xã hội trên trái đất cần tiến tới chỗ mà cả người nam lẫn người nữ đều có thể tự túc nuôi sống mình. Ngày nào chưa đạt được điều trên, thì chưa thể có nền văn hóa trong đó người nam có thể từ bỏ người nữ bất cứ lúc nào anh muốn. Mặt khác, thế giới công nghiệp hiện đại đã vượt khá xa tình trạng này, nên con cần nhận ra ý tưởng người nam và người nữ phải ở đời với nhau chỉ có thể đến từ sa nhân và tự ngã. Chúng muốn giam con ở một mức nào đó và ngưng sự tăng triển của con.

Nếu một người nam và người nữ có thể phát triển cùng với nhau trong quan hệ hôn nhân suốt cuộc đời thì họ nên ở lại với nhau. Nếu họ nhận ra sự phát triển của mỗi người đòi hỏi họ trôi chảy về những hướng khác nhau, thì họ nên trôi chảy về những hướng khác nhau. Thay vì đổ lỗi cho nhau hay cảm thấy tủi hổ về chuyện này, họ có thể chia tay trong tình thần tích cực và niềm biết ơn đã hỗ trợ nhau tới mức này.

Nếu con không làm được thì con lại bị mắc kẹt trong trò chơi quyền lực khác. Con vẫn còn bị mắc kẹt trong trò chơi muốn đổ lỗi cho người bạn đường của mình, và điều này có nghĩa là con chưa đạt những khai ngộ ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày. Tất nhiên, thày sẽ giúp con đạt những khai ngộ này trong bài giảng kế tiếp của thày, nói về liều lượng tình thương gấp đôi mà con nhận được ở tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày.

TA LÀ Paul người Venice.