17| Hãy mở tâm để trải nghiệm trực tiếp tình thương Thiêng liêng

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư thăng thiên Paul người Venice. Con có thể nghĩ rằng kết nối với các thày tâm linh là một việc khó khăn. Đối với nhiều người quả thật đấy là một điều khó làm, do đó các thày là các Thượng sư đã quyết định là nhiều người sẽ thấy dễ kết nối hơn với vị thày tâm linh qua một trong bảy tia và đặc tính Thiêng liêng của các tia.

Lẽ tự nhiên, Giê-su biết rõ là bài giảng của thày nhắm vào những người ở một tầng tâm thức nào đó, vì đa số không thể chuyển đổi và chấp nhận Ki-tô bên trong họ. Nhiều người sẽ thấy dễ hơn nếu họ tập trung vào một trong bảy tia và các đặc tính của tia này. Do đó, khi họ suy ngẫm, hòa điệu vào đặc tính của tia, đọc các bài chú và thỉnh của tia đó, có thể dùng cuốn sách của tia trong bộ Khóa học Tự điều ngự, thì họ sẽ dễ hòa điệu hơn, trước tiên là với đặc tính của tia và từ đó nhận ra là những đặc tính này được thể hiện và đại diện bởi một vị thày đặc thù, một vị chân sư đặc thù, là một trong các vị Thượng sư.

Nhằm mục đích này, các thày đã quyết định trao truyền một số bài giảng, lẽ tất nhiên không có mục đích thay thế các bài trong Khóa học Tự điều ngự hay các bài khác mà các thày đã giảng về một số tia đặc trưng. Các bài này được thảo ra đặc biệt để giúp các con hòa điệu với một tia sáng và đặc tính của nó. Lẽ dĩ nhiên, thày là chân sư đại diện cho đặc tính của Tia thứ Ba, thường được gọi và được xem là đặc tính của tình thương.

17.1. Tình thương Thiêng liêng khác tình thương nhân gian

Như thày Giê-su đã nói, nhìn theo một khía cạnh nào đó, thày Giê-su là vị chân sư dễ kết nối nhất, nhưng nhìn theo một khía cạnh khác, thày Giê-su là vị chân sư khó kết nối nhất vì những hình ảnh được phóng chiếu bởi Cơ đốc giáo. Giống như vậy, con cũng có thể nói tình thương là đặc tính của Thượng đế dễ kết nối nhất vì có ai trên trái đất mà không có ít nhất khái niệm về tình thương? Lẽ tất nhiên, con cũng có thể nói tình thương là đặc tính khó kết nối nhất vì hầu hết con người có thể có khái niệm về tình thương, nhưng đó không phải là tình thương Thiêng liêng. Họ có khái niệm về tình thương nhân gian đã được phóng chiếu lên trên tình thương Thiêng liêng.

Lẽ tất nhiên, nếu con bị bao trùm trong hình ảnh của tình thương dựa trên tình thương nhân gian, thì làm sao con hòa điệu và kết nối được với tình thương Thiêng liêng? Điều này không thể làm được. Một lần nữa, nếu quả thực con muốn hòa điệu với tình thương, trước hết con phải xem xét con đã bị ảnh hưởng bởi những hình ảnh nào của tình thương nhân gian, mà thậm chí ta có thể gọi là phản-tình thương, khi con lớn lên trong kiếp này hay có thể ngay cả từ những kiếp trước.

Nhiều người có hình ảnh về tình thương mà đáng lẽ phải gọi là làm chủ hay sở hữu thay vì là thương yêu. Họ nghĩ rằng thương yêu một người là một bổn phận cho nên khi con nói con thương ai đó, thì người kia phải có bổn phận với con. Nếu con có một quan hệ thương yêu với một người, cho dù đó là người phối ngẫu, hay cha mẹ hay con cái, thì con có bổn phận với người đó.

Con thấy là biết bao nhiêu người ở trong một quan hệ được gọi là thương yêu nhưng thực sự họ bị giam trong một loại trò chơi quyền lực trong đó cả hai bên tìm cách làm cho bên kia cảm thấy có bổn phận với mình. Chính họ cũng cảm thấy mình có bổn phận, cho nên họ tìm cách khiến người kia cảm thấy có bổn phận cho mình điều gì đó hay làm điều gì đó đáp ứng nhu cầu của mình. Tình thương này, lẽ tất nhiên, không phải là tình thương Thiêng liêng, vì tình thương Thiêng liêng không tìm cách làm chủ, không tìm cách sở hữu.

Tại sao con cần làm chủ một cái gì nếu con không cảm thấy thiếu thốn? Mọi mong muốn làm chủ phát xuất từ ảo tưởng thiếu thốn, và lẽ tất nhiên tình thương Thiêng liêng không bị giam trong ảo tưởng thiếu thốn. Do đó, tình thương Thiêng liêng không bao giờ có thiếu thốn. Nó là một dòng chảy miên viễn chảy từ đấng Sáng tạo tới cái được sáng tạo và đi vào cái được sáng tạo. Thày là đại diện cho tình thương Thiêng liêng nên làm sao thày có thể cảm thấy thiếu thốn? Thày cảm nhận dòng chảy liên tục của tình thương xuyên qua thày, biểu lộ tới mọi người và thày trải nghiệm dòng chảy này vô tận. Nó không bao giờ cạn kiệt.

Dù thày có cho con người trên trái đất bao nhiêu tình thương chăng nữa, thày vẫn không bao giờ cạn kiệt vì thày càng cho nhiều hơn thì thày càng nhận thêm nhiều hơn. Đó là tình thương. Lẽ tất nhiên, khi thày cho tình thương thì thày cho một cách tự do. Thày cho trong trạng thái tâm trung hòa mà các thày đã đề cập, thày không có ý muốn đạt được kết quả gì khi cho tình thương, thày không chờ đợi mọi người phải đáp ứng thế nào, họ phải làm gì hay không được làm gì với tình thương đó. Thày không có những ý muốn đó cho nên khi thày nhận được tình thương từ cao trong tự do, thày cũng cho tình thương trong tự do cho tất cả mọi người ở dưới. Thày không tạo ra trong tâm cấu trúc muốn làm chủ, muốn sở hữu, muốn kiểm soát cách người nhận làm gì với món quà của thày. Thày không thực sự cho một món quà, thày chỉ cho phép tình thương chảy xuyên qua thày.

17.2. Con có mở tâm đón nhận tình thương chăng?

Con có thể quán sát điều này. Con có thể quán sát xem con muốn tình thương nhân gian hay tình thương Thiêng liêng. Nếu con muốn tình thương Thiêng liêng thì việc đầu tiên con cần nhận ra là tình thương Thiêng liêng được trao tặng tự do cho tất cả ai muốn nhận nó. Đối với riêng cá nhân con, vấn đề không phải là tình thương Thiêng liêng có được trao cho con không? Câu hỏi duy nhất là con có nhận nó hay không nhận nó? Tình thương Thiêng liêng luôn được trao tặng – đây là một sự thật nhất định. Nhưng nhận tình thương không là một điều nhất định vì hầu hết, ngay cả những người tâm linh, từ chối tình thương vì nhiều lý do.

Việc đầu tiên luôn luôn là nhìn vào các ngã tiềm thức đang khiến con chối bỏ hay lờ đi không thấy tình thương. Một trong những ngã tiềm thức thông thường nhất là ngã nói rằng con không xứng đáng được thương yêu, con không xứng đáng được nhận tình thương Thiêng liêng. Có những ngã khác phóng chiếu rằng: “Ồ, tình thương Thiêng liêng rất đặc biệt.” Vì nó rất đặc biệt, nên tôi cũng phải đặc biệt mới nhận được nó. Tình thương Thiêng liêng không đặc biệt, nó vượt lên trên mọi nhãn hiệu. Nó chẳng đặc biệt mà cũng chẳng không đặc biệt. Không thể gán nhãn hiệu cho nó.

17.3. Tình thương vượt lên trên điều kiện

Một từ mà các thày thường dùng với tình thương Thiêng liêng là “vô điều kiện”. Đây chỉ là một từ khác mà tâm có thể bóp méo và phân tích và nói: Điều này nghĩa là gì? Các sa nhân sẽ luôn luôn phản đối: “Không có cái gọi là tình thương vô điều kiện, ngay cả tình thương của Thượng đế cũng có điều kiện, vì chẳng phải là chúng tôi đã bỏ ra bao nhiêu công sức trên hành tinh này và các bầu cõi trước để tạo ra Thượng đế giả, vị Thượng đế giận dữ có điều kiện ở trên trời? Chẳng phải là chúng tôi đã bỏ ra rất nhiều công sức để phóng chiếu đấy là vị Thượng đế duy nhất, vị Thượng đế thật duy nhất?” Đây là điều sa nhân sẽ luôn luôn khẳng định và do đó họ sẽ khẳng định là Thượng đế giận dữ có điều kiện ấy, tình thương của ông chỉ có thể có điều kiện và chỉ những ai hội đủ một số điều kiện nào đó (do sa nhân quy định) mới xứng đáng được nhận tình thương của Thượng đế.

Tình thương vượt lên trên các điều kiện, đặc biệt là những điều kiện có thể được quy định trên một hành tinh không tự nhiên như trái đất hay có thể được quy định bởi các sa nhân trong tư duy nhị nguyên. Bởi chưng, bất kỳ điều gì, bất kỳ điều kiện nào mà tư duy nhị nguyên có thể quy định, đều là một điều kiện tương đối trong khi một đặc tính thiêng liêng thì không tương đối. Vì nếu nó tương đối, thì nó không thể thiêng liêng. Đây là bí ẩn, thách đố cho các con chiêm nghiệm: sự khác biệt giữa tình thương nhân gian có điều kiện và tình thương Thiêng liêng, vượt lên trên các điều kiện.

Vì ảnh hưởng của người khác, con đã quá quen với khái niệm cho rằng để nhận được tình thương từ người khác, thì con phải hội đủ một số điều kiện. Đa số các con đã nhận được hình ảnh này từ cha mẹ, tuy không nhất thiết là họ phóng chiếu một cách ý thức hình ảnh này lên con. Họ chỉ giản dị có hình ảnh về tình thương có điều kiện này từ cha mẹ họ phóng chiếu và họ làm được gì khác ngoài việc truyền lại hình ảnh đó cho con? Họ không biết là có một cách thương yêu khác.

17.4. Thượng đế có điều kiện của tôn giáo có tổ chức

Con tìm được một tình thương khác với tình thương có điều kiện ở đâu trên thế giới? Chắc chắn con không tìm thấy nó nơi các tôn giáo coi mình phát xuất từ Abraham hay đa số các tôn giáo khác. Tôn giáo là gì? Tất cả những tôn giáo lớn, có tổ chức, được chính thức hóa, hệ thống hóa đều là dụng cụ của sa nhân để kiểm soát dân chúng. Làm sao một tôn giáo như thế có thể dạy về tình thương vô điều kiện hay cho tình thương này cho con người?

Con chỉ có thể có một tổ chức lớn có quyền lực trên con người nếu những người này nghĩ rằng giới lãnh đạo tổ chức rất đặc biệt và ở tầng mức cao hơn họ. Do đó, mọi người phải tuân theo một số điều kiện thì mới được các nhà lãnh đạo chấp nhận. Hình ảnh này được phóng chiếu tiếp tục lên tới vị Thượng đế giận dữ ở trên trời cho nên nhiều người ngày nay tin rằng tình thương của Thượng đế có điều kiện. Điều này tất nhiên là sự ngạo mạn, sự kiêu căng tâm linh của sa nhân tin rằng họ có thể quy định một Thượng đế và phóng chiếu hình ảnh đó. Sau đó, thậm chí họ còn ngạo mạn tin rằng Thượng đế tuân theo hình ảnh của họ, hình ảnh khô chết, hình ảnh có điều kiện. Rất ít người chịu suy nghĩ về hình ảnh vị Thượng đế có điều kiện và suy ngẫm xem nó thật sự có lý không. Nếu Thượng đế vượt quá thế gian, nếu Thượng đế đã sinh tạo thế gian, thì tại sao Thượng đế phải tuân thủ một hình ảnh được tạo ra trong thế gian?

17.5. Thượng đế vượt lên trên các hình ảnh nhân gian

Một hình ảnh có hình tướng. Con sống trong thế giới hình tướng. Con người nhìn các hình tướng thấy được trên trái đất, họ nhìn thấy các hình tướng của chính tâm lý của họ, tâm lý nhị nguyên, tâm tách biệt và họ dùng những hình tướng này để tạo dựng những hình ảnh và sau đó phóng chiếu những hình ảnh này ra ngoài. Họ phóng chiếu hình ảnh lên Thượng đế, nhưng nếu Thượng đế vượt lên trên hình tướng thì làm sao Thượng đế lại có thể tuân theo hay bị gò bó trong bất kỳ hình ảnh nào được tạo ra trong thế giới hình tướng?

Nếu Thượng đế là nguồn gốc của hình tướng thì há chẳng hợp lý sao là Thượng đế vượt quá hình tướng? Chúng ta không hoàn toàn chính xác khi nói Thượng đế vô hình tướng vì đấng Sáng tạo có cá tính, nhưng chắc chắn cá tính này vượt lên trên mọi hình tướng tìm thấy trong thế giới hình tướng. Làm sao hợp lý được khi con người trên hành tinh này, một hành tinh rõ ràng là lạc hậu, lại có thể tạo ra một hình ảnh về Thượng đế và Thượng đế sẽ tuân theo hình ảnh này? Lẽ tự nhiên, sa nhân sẽ nói đây không phải là một hình ảnh về Thượng đế vì Thượng đế chính là như vậy. Một lần nữa, con hãy nhìn vào hầu hết các thượng đế do các tôn giáo trên thế gian miêu tả và sẽ thấy vị Thượng đế này có hình tướng, Thượng đế này có điều kiện và tình thương của Thượng đế đó có điều kiện.

Khoa học cho con biết là mọi sự đều được tạo ra từ năng lượng. Năng lượng đã khoác vào hình tướng của những vật mà con thấy trong thế giới vật chất, mà con thấy được bằng giác quan hay bằng tâm. Các vật này đều có một hình tướng khác biệt phân biệt vật này với vật kia, nhưng năng lượng đã tạo mọi hình tướng từ đâu đến? Nó đến từ bên ngoài vũ trụ vật chất. Có lý chăng khi cho rằng năng lượng tạo hình tướng cũng có cùng hình tướng?

Chẳng phải có lý hơn là năng lượng vượt lên trên hình tướng? Nó hơn bất kỳ hình tướng nào mà con có thể thấy trong thế giới này. Do đó, một trong những năng lượng được dùng để tạo ra thế giới hình tướng là tình thương, tình thương Thiêng liêng, nhưng tình thương này vượt lên trên mọi hình tướng trong thế giới này. Ánh sáng trắng trong máy chiếu phim vượt lên trên những màu sắc trên màn ảnh. Ánh sáng này khoác vào màu sắc khi nó đi xuyên qua cuộn phim, nhưng ánh sáng trắng vượt lên trên những hình ảnh trên cuộn phim.

17.6. Con không nhận được tình thương qua ngã phản ứng

Nếu con muốn kết nối với tình thương Thiêng liêng, con phải bắt đầu bằng cách nhận ra là nó không tuân theo những điều kiện do con người quy định. Con phải sẵn sàng nhận chân rằng chuyện không thể tránh được là trong kiếp này và các kiếp trước, con đã tạo ra những ngã phản ứng lại những hình ảnh về tình thương có điều kiện, tình thương nhân gian, tình thương kiểm soát. Các ngã này không thể kết nối với tình thương Thiêng liêng, không thể hiểu thấu tình thương Thiêng liêng.

Một cái ngã không thể hiểu thấu khái niệm tình thương vô điều kiện. Nó không thể xử lý khái niệm này. Con không thể trải nghiệm tình thương Thiêng liêng xuyên qua một ngã như thế. Đó là lý do tại sao con cần phơi bày ngã, thấy ảo tưởng, buông bỏ nó. Lẽ tất nhiên đây là mục đích chính của giáo lý của các thày, đặc biệt là cuốn sách do thày trao tuyền trong khóa học tự điều ngự. Con có thể tiến triển trong công việc này bằng cách làm một bài thiền tập có vẻ giản dị, thậm chí có vẻ thô sơ vì nó không cần lý luận trí năng phức tạp nào.

17.7. Bài thiền tập về Tình thương

Bài thiền tập mà thày đề nghị giản dị như sau. Con ngồi trong tư thế thoải mái trong một căn phòng yên tịnh, con khép mắt lại và con nhắc nhẹ nhàng trong tâm câu thần chú:

Tình thương là, Tình thương là.

Con sẽ nhận thấy là trong con có thể khởi lên một phản ứng với câu đó. Có một cái tâm, một cái ngã muốn nói: “Tình thương là gì? Tình thương phải là cái gì đó. Nó không thể chỉ là, nó phải là cái gì đó. Nó phải có hình tướng. Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể nắm bắt và cầm giữ. Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể sỡ hữu, mô tả, phân tích. Tôi là cái tâm, công việc của tôi là giải thích và hiểu mọi việc, nhưng nếu cái đó không có đặc tính, thì đâu có gì để giải thích và hiểu? Hãy cho tôi một cái gì mà tôi có thể làm việc với nó. Bạn đã tạo ra tôi để tôi hiểu và giải thích mọi thứ cho bạn. Bạn không thể chỉ ngồi đó và nói: ‘Tình thương là,’ nó phải là cái gì đó.”

Nếu con chịu xem xét phản ứng này, thì nó có thể giúp con phơi bày một số những ngã tiềm thức đó. Vì lúc đó con có thể nói, à tâm của tôi nói tình thương phải là gì? Con hãy cho phép tâm con nói hết câu tình thương là và cho phép tâm con gán cho tình thương những đặc tính. Giờ đây con đã đưa tâm con vào tình trạng khó xử, vì khi tâm nói tình thương là thế này, thế nọ, thì con đã phơi bày một trong những ngã tiềm thức đang cầm giữ một hình ảnh do con người tạo ra về Thượng đế, về tình thương.

Lúc đó con có thể làm việc với ngã này cho tới khi con thấy nó và con có thể buông bỏ nó. Nếu tâm làm những gì nó được lập trình để làm, nếu nó nói hết câu, thì nó phơi bày ngã ra. Điều khôn ngoan nhất tâm có thể làm là lặng thinh nhưng tâm có thể lặng thinh chăng? Thường thì không đâu. Con thấy đây là một bài tập rất, rất giản dị, một bài thiền tập rất, rất giản dị, nhưng nó có thể vô cùng hữu hiệu. Nếu con muốn, con có thể dùng bài tập này để trải qua một giai đoạn trong đó con làm việc với những ngã đang cầm giữ những hình ảnh về tình thương có điều kiện, một điều kiện nào đó. Con có thể tới điểm mà con chỉ ngồi và lặp lại câu thần chú, “Tình thương là” và con bình an với vỏn vẹn Tình thương là.

Con không cần thêm phần cuối vào câu nói. Con không cần gán đặc tính lên tình thương. Con có thể cho phép tình thương là bất cứ cái gì nó sẽ là, cái “Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là.” Đây là lúc con có thể kết nối và trải nghiệm tình thương Thiêng liêng vượt lên trên mọi điều kiện. Nó là một năng lượng. Nó là một Hiện diện. Nó là một trạng thái tâm thức. Con không thể hiểu nó, không thể nắm bắt nó với tâm. Khi con bắt đầu trải nghiệm nó, thì con nhận ra chính vì tâm không thể nắm bắt nó, nên tâm cũng không thể gạt nó ra ngoài.

Tâm có thể khiến con chia trí và không tập trung vào tình thương Thiêng liêng nhưng nó không thể gạt tình thương Thiêng liêng ra ngoài vì các ngã tách biệt, các ngã tiềm thức chỉ có thể gạt ra ngoài những gì có đặc tính mà tâm có thể nắm bắt. Phin lọc nhận thức của con, như các thày đã gọi nó, chỉ có thể lọc ra những gì có đặc tính, chỉ có thể ngăn chận cái gì có đặc tính. Cái không có đặc tính mà tâm nhị nguyên có thể nắm bắt, cái đó sẽ đi xuyên qua rào cản của phin lọc nhận thức. Lúc ấy con có thể một lần nữa dùng bài thiền tập giản dị để vô hiệu hóa tâm đường thẳng muốn đặt tình thương vào một tiến trình đường thẳng, một thước đo đường thẳng với hai đối cực nhị nguyên, như tình thương chân thật. 

17.8. Chỉ có tình thương Thiêng liêng mới có thể khiến con mãn nguyện

Con hãy xem xét khái niệm đã thấm vào tâm thức tập thể: tình thương thật đối ngược với tình thương giả. Làm sao tình thương có thể thật hay giả? Tình thương có điều kiện có thể thật hay giả, nhưng tình thương Thiêng liêng làm sao có thể thật hay giả? Làm sao con có thể gán những khái niệm thật và giả lên một đặc tính thiêng liêng? Đây là điều mà tâm muốn làm, vì qua đó nó cảm thấy nó đang nắm quyền kiểm soát. Tâm cảm thấy vì nó kiểm soát được tình thương, nó có thể dùng tình thương để kiểm soát người khác, có được điều nó muốn và vượt qua được cảm giác thiếu thốn gắn liền với tâm tách biệt.

Một khi con bước vào tách biệt, con sẽ cảm thấy thiếu thốn vì con không nhận được các đặc tính thiêng liêng là điều duy nhất có thể thực sự khiến con mãn nguyện và lấp đầy tâm con. Ngã tách biệt không thể hiểu và nắm bắt điều này, nhưng cái Ta Biết lẽ dĩ nhiên hiểu được. Con có thể tới điểm con nhận ra và hoàn toàn chấp nhận là cách duy nhất khiến con mãn nguyện là nhận được một đặc tính thiêng liêng.

Nếu con muốn tình thương, con có nhận được bao nhiêu tình thương nhân gian cũng không thể thật sự thỏa mãn nhu cầu tình thương của con. Chỉ tình thương Thiêng liêng mới có thể thỏa mãn nhu cầu tình thương. Lẽ tất nhiên, tình thương Thiêng liêng không thể thỏa mãn nhu cầu tình thương của ngã tách biệt. Không gì có thể thỏa mãn nhu cầu tình thương của ngã tách biệt, nhưng cái Ta Biết có thể bước ra ngoài ngã đó và nhận ra ngã đang cố tìm kiếm điều không bao giờ thỏa mãn được.

Con có nhận bao nhiêu tình thương nhân gian chăng nữa, nó vẫn không thể thỏa mãn con. Tình yêu nhân gian có thể khiến con xao lãng một thời gian ngắn khi con đang yêu ai đó, nhưng sớm muộn thì tuần trăng mật cũng chấm dứt. Cái Ta Biết có thể tới điểm nhận ra: “Tôi sẽ không bao giờ thỏa mãn với cái này. Tôi chỉ có thể cảm thấy thỏa mãn, tràn đầy, mãn nguyện khi tôi trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.”

17.9. Bài thiền tập chấp nhận Tình thương

Một khi con đã làm xong bài thiền tập “Tình thương là,” thì thày đề nghị bước kế tiếp. Một lần nữa, con vào một phòng yên tĩnh, nhắm mắt lại và trong tâm con lặp lại câu thần chú, “Tôi chấp nhận tình thương.”

Một lần nữa, con có thể khám phá một phản ứng. Tâm có thể có nhiều phản ứng hay lý do vì sao con không thể giản dị chấp nhận tình thương. Một lần nữa, có thể có những điều kiện mà con hay thế gian cho rằng con phải hội đủ để có thể chấp nhận tình thương, và lúc đó con có thể làm việc với các ngã này. Con có thể tới điểm có thể lặp lại câu thần chú này, “Tôi chấp nhận tình thương”, và tiếp tục lặp lại cho tới khi con trải nghiệm nó.

Tâm con vẫn sẽ tìm cách xen vào vì nó sẽ nói: “À, ông thày nói nghe có vẻ hay, ông nói về tình thương, ông nói về tình thương vô điều kiện, nhưng tình thương vô điều kiện như thế nào? Cảm giác khi trải nghiệm tình thương vô điều kiện như thế nào? Nói cho tôi biết đi, bởi vì làm sao bạn có thể biết bạn đang nhận được tình thương vô điều kiện nếu bạn không thể mô tả nó, và ông ấy thì nói là tình thương này vượt quá các đặc tính, vượt quá hình tướng. Làm sao bạn có thể biết được bạn đã trải nghiệm nó?”

17.10. Tâm không thể nào trải nghiệm tình thương Thiêng liêng

Đây là điều tâm sẽ làm, đây là thủ thuật mà tâm dùng để khuynh loát con. Giải pháp cho điều có vẻ bí ẩn này rất ư giản dị. Con không cần có một hình ảnh trong tâm về cảm giác trải nghiệm tình thương Thiêng liêng sẽ như thế nào. Thày có thể bảo đảm với con là khi con trải nghiệm nó, con sẽ biết đây là tình thương Thiêng liêng. Con sẽ không có chút nghi ngờ là con đã trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.

Con không cần mô tả tình thương Thiêng liêng theo cách mà tâm có thể nắm bắt, vì con không trải nghiệm tình thương Thiêng liêng bằng tâm. Như các thày đã nói, tâm quan sát mọi vật từ một khoảng cách. Nó tạo ra một tâm ảnh và sau đó nó phóng chiếu rằng tâm ảnh chính là vật. Tâm muốn tạo ra một hình ảnh về trải nghiệm tình thương Thiêng liêng nghĩa là gì, cảm thấy nó như thế nào.

Con hãy bảo tâm con mô tả cảm giác khi ăn một trái táo và con sẽ thấy là tâm bị kẹt. Con có cần ai mô tả cảm giác khi ăn một trái táo chăng? Hay con có thể giản dị vào cửa hàng thực phẩm mua một trái táo và cắn một miếng? Tại sao con cần mô tả khi con có trải nghiệm trực tiếp? Cũng thế thôi với tình thương Thiêng liêng. Tại sao con cần mô tả cảm giác như thế nào? Con hãy mở tâm ra với trải nghiệm trực tiếp và thày có thể bảo đảm với con trải nghiệm này không thể nhầm lẫn được. Con không hề nghi ngờ con đã chạm gấu áo của chân sư và con đã trải nghiệm cái gì đó vượt lên trên tâm. Vì tình thương Thiêng liêng vượt lên trên tâm. Tâm không thể trải nghiệm nó.

Các thày muốn ngụ ý gì khi nói về tâm, tâm đường thẳng, tâm phân tích? Nếu thày hỏi con, tâm con ở nơi nào trong thân thể con? Chắc hẳn hầu hết các con sẽ chỉ vào đầu, vào bộ óc và nói chính bộ óc là cái đang suy nghĩ. Tâm nằm trong bộ óc và đây là một hình ảnh tiện dụng.

Lẽ đương nhiên, con không thể hiểu nó theo nghĩa đen vì tâm nhiều hơn bộ não, nhiều hơn sinh hoạt của bộ não. Tâm đường thẳng, lý luận, phân tích quá ăn khớp với não bộ và các chức năng của não bộ nên, khi con xem xét thân vật lý và năng trường của con, thì nói rằng tâm nằm trong đầu, trong não bộ là chuyện hợp lý.

Con trải nghiệm tình thương Thiêng liêng ở đâu? Không phải trong đầu mà nơi luân xa trái tim và nó không ở trong đầu. Tại sao con cần tâm đường thẳng suy nghĩ để trải nghiệm tình thương Thiêng liêng chứ? Con không thể suy nghĩ để tới được trải nghiệm tình thương Thiêng liêng, giống như con không thể suy nghĩ để tới được trải nghiệm hương vị trái táo. Trải nghiệm một đặc tính của Thượng đế không đến từ suy nghĩ về đặc tính đó. Vấn đề là cắn vào trái táo tình thương thay vì đứng đó và suy nghĩ sẽ cảm thấy thế nào khi cắn vào trái táo?

Ấy, tâm sẽ phản đối: “Nhưng giả dụ tôi không thể đơn giản cắn nếm tình thương? Cắn một miếng táo thì dễ, nhưng làm thế nào để cắn một miếng tình thương Thiêng liêng? Trái táo thì có hình tướng tôi nắm bắt được. Thày nói tình thương Thiêng liêng không có hình tướng. Vậy thì làm sao tôi cắn một miếng được?” Lại thêm một lần nữa và một lần nữa, con thấy tâm làm điều duy nhất nó có thể làm, đó là nắm bắt một hình tướng: “Hãy cho tôi cái gì tôi có thể cầm giữ.”

17.11. Vô hiệu hóa tâm

Một lần nữa, cái Ta Biết có thể nhận biết tâm và cách vận hành của tâm, và có thể quyết định tìm cách vô hiệu hóa tâm, bước ra ngoài tâm và đây chính là công dụng của câu thần chú: “Tình thương là.” Ta có thể coi nó như một công án, và như mọi công án mục đích của nó là làm cho tâm bị rối loạn, mờ tối và vô hiệu hóa. Con không thể suy nghĩ để tìm ra lời giải cho một công án vì lời giải cho một công án là một trải nghiệm vượt quá tâm suy nghĩ.

Khi con đã dùng câu thần chú “Tình thương là,” và “Tôi chấp nhận tình thương,” thì một số người có thể lợi lạc nếu gán ghép tình thương Thiêng liêng với một hình tướng con người (nếu con không thể nắm bắt và trải nghiệm tình thương Thiêng liêng như một đặc tính hoàn vũ). Lẽ tất nhiên, điều dễ nhất là con tập trung vào thày là Thượng sư của tia thứ ba.

17.12. Dùng bài chú như một thần chú

Con có thể đọc bài chú của thày, con có thể tìm hiểu sách của thày. Nếu con cảm thấy dễ kết nối hơn với một Đại thiên thần hay một Elohim thì con hãy làm thế, nhưng hầu hết mọi người sẽ cảm thấy dễ kết nối với vị Thượng sư hơn vì các thày gần người đang hiện thân trong cõi vật lý hơn. Các thày đang làm việc trực tiếp hơn với các con. Con cứ dùng bất cứ cách nào giúp con hòa điệu với thày. Một lần nữa, tâm sẽ nói: “Vâng, vậy hãy cho tôi một hình ảnh, cho tôi một chân dung. Chân dung của chân sư đó đâu?”

Con sẽ thấy là với các đợt truyền giáo trước có chân dung các chân sư và nhiều người dùng các chân dung này để hòa điệu với vị chân sư, ít nhất là hòa điệu phần nào. Dùng một tấm hình không nhất thiết là sai nhưng với các con trong đợt truyền giáo này, các con không cần hình ảnh vì đôi khi hình ảnh có thể ngăn chặn trải nghiệm vì con tập trung vào hình ảnh và do đó con cho tâm một cái gì đó để nắm giữ.

Thay vào đó, thày đề nghị con lấy bài chú của thày, con đọc hết bài chú và con tìm hai câu nào đặc biệt thu hút con và con dùng hai câu này như câu thần chú. Con chỉ lặp lại hai câu này trong tâm, con thiền quán về hai câu này, chiêm nghiệm chúng hay chỉ lặp lại mà không nghĩ về chúng. Khi con có ý tưởng khởi lên và con nhận biết mình đang suy nghĩ, thì con chỉ trở về với hai câu đó, bất kỳ hai câu nào mà cá nhân con đã chọn.

Thày sẽ không cho con một ví dụ vì thày không muốn bỏ bất cứ gì vào tâm con. Con đọc bài chú chậm rãi, quán chiếu nó và coi xem có hai câu nào nổi bật, rồi con dùng hai câu đó như câu thần chú để hòa điệu với thày. Thày là một vị chân sư dễ hòa điệu với vì tình thương ở khắp mọi nơi. Làm sao con tìm thấy được nơi nào không có tình thương? Thày đại diện tình thương Thiêng liêng trên địa cầu giống như Giê-su đại diện tâm Ki-tô.

Như Giê-su đã nói, con không thể tách biệt khỏi tâm Ki-tô vì làm sao con có thể tách biệt khỏi cái ở khắp nơi? Tình thương Thiêng liêng cũng vậy. Tình thương Thiêng liêng không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nó không bị gò bó vào một địa điểm đặc thù. Đây là một hình ảnh khác mà con cần vượt qua vì các sa nhân đã phóng chiếu điều gì từ rất lâu nay? Trên trái đất có những nơi linh thiêng. Có một số nơi đặc biệt và ở đó con có thể có một ngôi đền, một ngôi đền tình thương Thiêng liêng và nếu con tới đó, con sẽ trải nghiệm tình thương Thiêng liêng.

Đây lại là một ảo tưởng vì khi tình thương Thiêng liêng có khắp nơi, tại sao con cần tới một nơi đặc biệt? Người Cơ đốc giáo đã phóng chiếu vì Giê-su xuất hiện ở Israel, đấy phải là đất thánh, nhưng như Giê-su đã giải thích, đó là nơi con người bị mắc kẹt nhiều nhất trong tâm thức sa ngã. Con không thể quy định là một nơi nào đó trên trái đất có một sự tập trung cao của tình thương, vì tình thương không thể bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Tình thương ở khắp mọi nơi, nghĩa là con có thể hòa điệu với tình thương bất kỳ con đang ở đâu.

Tới đây thì thày đã trao cho các con những gì thày muốn trao. Các dụng cụ này trông có vẻ giản dị nhưng chúng hiệu quả vô cùng, nếu con sẵn lòng vô hiệu hóa tâm bằng cách khắc phục những ngã tách biệt luôn phóng chiếu ra ngoài

Tình thương bị tha hóa muốn kiểm soát. Tình thương Thiêng liêng không thể bị kiểm soát. Nếu con tìm cách kiểm soát nó bằng cách ép nó vào một hình tướng nào đó, nó sẽ lướt qua con, con sẽ không nhận thấy nó, con sẽ không trải nghiệm nó. Khi con có thể mở tâm ra đón nhận nó, nó sẽ tuôn chảy xuyên qua con. Không cần phải thắc mắc điều này vì đây là điều tình thương làm, đây là điều tình thương là: Một dòng chảy liên tục từ Tánh linh vào trong thế giới vật chất, để nhắc nhở thế giới vật chất, để đánh thức thế giới vật chất nhận ra Tình thương là. Do đó, TA LÀ tình thương và đây có thể là một câu thần chú khác mà con có thể sử dụng nếu con cảm thấy nó giúp ích con.

Trong tình thương lớn, trong lòng biết ơn lớn, thày niêm con trong Tia sáng Thứ ba của Tình thương Thiêng liêng mà THÀY LÀ cho địa cầu. TA LÀ Paul người Venice.

Tình thương và Tự do

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/1/2015, đăng ngày 9/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice, Thượng sư của Tia thứ Ba và thày tự do. Thày tự do vì thày đã vượt qua những hủ hóa của tình thương.

16.1. Khái niệm tình yêu tự do

Khi con tới tầng thứ bảy của khóa nhập thất của thày, thày sẽ cho con cơ hội để vượt qua một trong những hình thức hủ hóa tình thương phổ thông nhất trên trái đất. Đó là khái niệm đã trở nên rất phổ quát vào thập niên 1960, gọi là “tình yêu tự do”.

Trong nhiều trường hợp, tình yêu tự do có nghĩa là có quan hệ tình dục tự do với càng nhiều người càng tốt. Con có thấy chăng là, trong thập niên 1960, cũng có một phong trào kêu gọi cho phụ nữ nhiều quyền tự do và bình đẳng hơn? Cùng lúc, có khuynh hướng đề cào khái niệm tình yêu tự do.

Vào thời đó, tình yêu tự do thường có nghĩa gì? Trong thời đại trước, khi một người đàn ông cưới người phụ nữ mà y có quan hệ tình dục với, thì người phụ nữ được bảo vệ phần nào vì có một mối quan hệ ổn định. Theo quan niệm tình yêu tự do thì đâu là sự bảo vệ cho người phụ nữ? Phải chăng quan niệm tình yêu tự do chính yếu phục vụ người đàn ông, giúp họ biểu lộ động lực có tình dục với nhiều người đàn bà khác nhau mà không phải chịu trách nhiệm gì? Quan niệm này giải phóng phụ nữ hay áp đặt lên họ một hình thức bạo ngược mới, khi họ trở nên một đối tượng tình dục thay vì một người bạn đời?

Một điều lạ kỳ là phong trào tình yêu tự do cũng đã có một kết quả tích cực, vì nó đã khiến các khuôn mẫu cũ giữa hai giới bị phá vỡ. Như thày đã giảng trong các bài trước, tình hình trên trái đất đã đen tối đến độ đôi khi cần biện pháp quyết liệt để phá vỡ các khuôn mẫu cũ. Điều này không có nghĩa là các thày là chân sư thăng thiên ủng hộ các biện pháp này, nhưng chỉ có nghĩa là các thày nhận ra là có trường hợp không thể làm gì khác hơn. Các thày giản dị để con người phát biểu đến cùng cực các khuynh hướng mà họ có trong tâm thức họ, vì đằng nào thì họ cũng không nghe lời khuyên của các thày. Có lẽ con cũng nhớ lời dạy trẻ thơ: nếu không chịu nghe thì sẽ phải cảm nhận. Điều đáng tiếc là đây là cách mà nhiều người học hỏi. Họ chỉ học qua đau khổ. Họ không dễ dàng tiếp nhận lời chỉ dẫn Thiêng liêng.

Khi con nhìn phong trào tình yêu tự do, thì con có thể so sánh nó với câu ngạn ngữ phổ thông là không có bữa cơm nào miễn phí. Tình yêu tự do có thật tự do chăng? Con sống trong một thế giới trong đó mọi chuyện đều là năng lượng. Tất cả những gì con làm, con đều làm với năng lượng. Khi con có tình dục với nhiều người khác nhau, thì mỗi lần con đều trao đổi năng lượng. Khi con lấy năng lượng từ các người bạn tình dục và làm cạn kiệt nguồn năng lượng của mình, thì điều này giải thoát con hay là một gánh nặng? Trên đường dài, con có tự đốt cháy mình chăng khi con có tình yêu tự do?

Khi con quan sát những người đã thí nghiệm tột cùng trong thập niên 1960, thì con thấy rằng, khi họ vừa có tình dục với nhiều người vừa dùng ma túy, thì quả thật là họ đã tự đốt cháy họ. Luân xa của họ bị cạn kiệt. Họ bị kích thích quá độ và không thể đương nổi nữa. Cấu trúc năng lượng mỏng manh của luân xa bắt đầu suy sụp và luân xa không còn toàn vẹn nữa.

Nhiều người thuộc phong trào híp pi vào thập niên 1960 và sau đó đã phải bỏ Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Năng lượng của họ bị cạn kiệt đến độ không còn đủ năng lực hay sự toàn vẹn để giúp họ hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của họ. Chúng ta phải làm gì trước sự kiện tình thương trên trái đất quá dính liền với sinh hoạt tình dục?

Điều đầu tiên mà chúng ta phải nhận ra là các thày, các chân sư thăng thiên, đã thăng thiên. Điều này có nghĩa là các thày đã thăng vượt một tâm thức rất phổ quát trên trái đất. Các thày không sợ nói về tình dục. Các thày không ngại ngùng gì khi nói về vần đề này hay mọi vấn đề khác. Vì sao lại có quá nhiều người tâm linh, đặc biệt là đệ tử chân sư thăng thiên, đặc biệt là đệ tử chân sự thăng thiên tại Hoa Kỳ, lại không thể thảo luận thoải mái về tình dục? Con yêu dấu, tại sao lại như vậy? Điều này không thể tới từ cõi thăng thiên, phải vậy chăng?

Sự rụt rè này chỉ có thể có vì con vẫn còn bị ảnh hưởng bởi một khía cạnh đặc thù của tâm thức sa ngã muốn con dồn nén đòi hỏi tình dục và năng lực tình dục. Sa nhân muốn con cảm thấy xấu hổ khi nhìn nhận rằng mình có đòi hỏi tình dục và cơ thể mình có một số nội tiết tố và nhu cầu. Con không được công khai thảo luận những chuyện này mà phải giấu giếm chúng.

Đây là một sự hủ hóa đã có từ lâu đời. Con có nghĩ rằng sự dồn nén năng lực tình dục và tránh thảo luận về tình dục có trước thập niên 1960, đã do các chân sư thăng thiên chủ trương hay ủng hộ? Nếu con nghĩ như vậy thì con đã lầm rồi.

16.2. Năng lực tình dục không phải là nguyên nhân của sa ngã

Một số các con đã nghe hoặc đọc rằng Giê-su có ý định giải thoát phụ nữ khi thày hành đạo hai ngàn năm trước đây. Thày có thể cam quyết là Giê-su không bao giờ ngần ngại nói về tình dục, tuy rằng điều này khó làm trong bối cảnh văn hóa lúc bấy giờ. Chính Giáo hội Công giáo đã thực sự bắt đầu việc dồn nén năng lực tình dục và loại bỏ mọi thảo luận về tình dục. Giáo hội khiến ta tưởng tình dục là nguyên nhân của sa ngã. Ngay một số đệ tử chân sư thăng thiên vẫn tin điều này.

Làm sao tình dục lại có thể là nguyên nhân của sa ngã khi sa ngã xảy ra trong trong bầu cõi trước? Lúc đó, con người không có cơ thể với những đặc tính giống như cơ thể con người hiện nay trên trái đất. Trong những bầu cõi đó, năng lượng không thô đặc như hiện nay. Do đó, lúc đó không cần có giao hợp để tạo ra một trẻ sơ sinh.

Làm sao giao hợp có thể là nguyên nhân của sa ngã? Điều này đã không xảy ra. Chính những sinh thể rơi vào tâm thức sa ngã và việc họ chống đối Thượng đế và luật tự quyết đã là nguyên nhân của sa ngã. Họ không muốn con biết điều này nên họ tìm cách đánh lạc hướng với đủ mọi nguyên nhân khác. Cho rằng năng lượng tình dục, hành động giao hợp là nguyên nhân của sa ngã là một cách tiện lợi để đổ lỗi cho phụ nữ.

Điều phổ quát trên trái đất là đàn ông có thúc đẩy tình dục cao hơn nhưng họ lại nói chính phụ nữ đã quyến rũ họ. Đây chính là khuynh hướng của tự ngã luôn luôn phóng chiếu là vấn đề ở bên ngoài ta. Phụ nữ bị đổ lỗi đã quyến rũ đàn ông trong khi sự thực là chính đàn ông đã không làm chủ được thúc đẩy tình dục của họ. Họ không làm chủ được vì họ không được nói chuyện tự do về đề tài này, do nền văn hóa đã trở nên lệch lạc và xếp đề tài này thành điều cấm kỵ. Đây là một cực của tâm thức sa ngã, nhưng cực kia là tự do tình yêu và tự do tình dục. Hai cực này sẽ không dẫn con tới thiên đàng. Hai cực này sẽ không dẫn con tới thiên đàng nơi hạ giới.

16.3. Khác biệt giữa tình dục và tình yêu

Khi con tới tầng thứ bảy của khóa nhập thất của thày thì con nên chuẩn bị tình thần để thảo luận về tình dục. Con sẽ không đạt được khai ngộ ở tầng này nếu con không chịu xem xét đề tài tình dục và sự liên hệ của nó với tình yêu. Tình dục không đồng nghĩa với tình yêu. Con người có thể biểu lộ tình thương, ngay cả tình yêu giữa một người nam và một người nữ, mà không có tình dục. Thày không nói điều này thông thường, thày chỉ nói điều này khả thi.

Khi con bắt đầu tăng triển trên con đường tâm linh, thì ban đầu con sẽ qua một giai đoạn xáo trộn trong đó con bắt đầu nhìn vào một số điều mà con chưa quan tâm trước đó. Trong nhiều trường hợp, các điều này đã bị nền văn hóa nơi con lớn lên loại bỏ. Có bao nhiêu người trong các con đã lớn lên trong một khung cảnh có thể tự do nói chuyện về tình dục? Có rất ít. Khi con tới khóa nhập thất của thày, mình sẽ ngồi xuống trong một khung cảnh an toàn, thương yêu, và mình sẽ xem xét đề tài tình dục và tình yêu – và mình sẽ thảo luận đề tài này. Mình sẽ thảo luận đề tài này cho tới khi con có thể thoải mái nói về đề tài này ở cõi ê-the. Thày đang giảng bài này dưới dạng vật chất vì thày hy vọng con sẽ dùng được nó để mang xuống tâm ý thức của con những khai ngộ mà con đã trải nghiệm ở cõi ê-the.

Vì sao xem xét chủ đề tình dục lại quan trọng? Con rất cần học cách biểu lộ tình yêu một cách tự do. Vì tình dục đã trở nên quá đồng nghĩa và quấn bện với tình yêu, nên trên hành tinh này không thể nào biểu lộ tình yêu tự do nếu con không xem xét và vượt qua các hủ hóa tình yêu liên quan đến tình dục. Điều lý tưởng nhất là con có thể biểu lộ tình yêu một cách tự do với một người khác phái tính (và thật ra cùng phái tình cũng vậy) mà không khuấy động năng lượng tình dục hay sự thu hút giữa hai người. Đây cũng là một bước cần thiết để thành công trong mối quan hệ.

16.4. Thu hút tình dục và nghiệp quả

Chúng ta hãy thẳng thắn và nhìn nhận rằng con, như những người tâm linh khác, thường tiến triển rất nhanh. Con giải quyết nghiệp quả nhanh hơn những người không biết tâm linh và không có được giáo lý và các dụng cụ do các chân sư thăng thiên cung cấp. Trong thời trước, vào thời thế hệ cha mẹ của con, điều hay xảy ra là một người nam và nữ thu hút lẫn nhau và trở nên vợ chồng vì họ cần quân bình nghiệp quả với nhau. Trong nhiều trường hợp, họ cần cả một đời người để quan bình nghiệp quả đó. Với giáo lý và dụng cụ do các chân sư thăng thiên cung cấp, nếu con ở trong một quan hệ tạo nên bởi nghiệp quả, con có thể quân bình nghiêp quả này rất nhanh chóng. Bất cứ quan hệ nào mà con có trên trái đất đều một phần do nghiệp quả. Con không thể có quan hệ với một người trên trái đất mà không có nghiệp quả với người đó.

Chuyện gì xảy ra khi con bị thu hút bởi một người vì con có nghiệp quả cần quân bằng với người đó? Con cưới và có con với người đó. Sau một vài năm, sự mới lạ của mối quan hệ bị hao mòn đi. Con cũng cần làm nhiều công việc nhàm chán cần phải làm để nuôi con, để kiếm sống, vân vân, và bỗng nhiên sự mới lạ và thu hút biến mất. Cũng có thể là con đã quân bằng nghiệp quả đã khiến con tới với người kia. Lúc đó, một trong hai người (hay cả hai) gặp một người khác và con cảm thấy có nghiệp quả với người đó. Điều này hay khiến con có thu hút tình dục với người đó.

Lúc đó, con có nên ngưng mối quan hệ trước, bỏ rơi các con, khiến chúng phải chịu tất cả những hệ lụy khi cha mẹ chia tay, để đi với người bạn mới? Con có nên có con với người này, và sau vài năm con sẽ làm gì, khi nghiệp quả đã cân bằng, khi sự mới lạ đã hao mòn, và có một người mới mà con cảm thấy bị thu hút? Con có thể tiếp tục như vậy suốt đời, và một người có thể có bao nhiêu gia đình trong một kiếp sống? Bao nhiêu gia đình một người có thể bỏ rơi trong một kiếp sống mà không trở nên một gánh nặng?

Mẫu đồ của gia đình trong thời hoàng kim là tạo môi trường cho mọi người trong gia đình đạt được tối đa phát triển. Phát triển luôn luôn là mục đích cốt yếu. Mẫu đồ gia đình của thời hoàng kim không đòi hỏi hôn nhân phải kéo dài trọn đời hay cho tới khi các con trưởng thành. Sẽ có những trường hợp trong đó điều lợi ích nhất cho sự phát triển là hai người bạn đời chấm dứt hôn nhân, ngay cả khi đã có con với nhau. Theo mẫu đồ của thời hoàng kim thì chuyện này sẽ ít khi xảy ra vì đa số sẽ có một trình độ trưởng thành cao hơn khi có quan hệ tình yêu. Họ sẽ chỉ quyết định có con khi đã quyết định sẽ cùng nhau nuôi con và cho các con một môi trường ổn định. Môi trường này sẽ không giống những gì con thấy thời xưa khi con người ở lại với nhau mà không tăng triển, nhưng là một môi trường sinh động trong đó có cơ hội tăng triển.

Làm sao thực hiện được điều này? Con có thể làm được khi con nhất quyết tôn trọng mối quan hệ và nhất quyết nuôi con trong mối quan hệ đó. Chuyện gì xảy ra khi, sau vài năm, con gặp một người khác giới tính và cảm thấy bị thu hút bởi người đó? Điều này có nghĩa là con có nghiệp quả với người đó. Làm sao con cân bằng nghiệp quả này? Con có thể cân bằng nghiệp quả nếu con tách tình thương khỏi tình dục. Lúc đó, con có thể có một quan hệ thương yêu và biểu lộ tình yêu chân thật với người đó mà không có quan hệ tình dục, vì quan hệ tình dục tạo ra nhiều rắc rối. Điều này có nghĩa là con có một quan hệ thương yêu với người đó mà vẫn duy trì được hôn nhân, vì con không ngoại tình và do đó người chồng hay vợ của con không cảm thấy bị đe dọa.

16.5. Những dây năng lượng trong quan hệ tình dục

Đồng thời, con có thể giải quyết nghiệp quả với người mới mà không có quan hệ tình dục với người đó. Con sẽ tăng triển nhanh hơn so với tình trạng hiện nay khi một người bị thu hút bởi người khác vì có nghiệp quả với người đó, hai người có quan hệ tình dục với nhau và có thể có con với nhau. Khi có con với nhau, có quá nhiều dây năng lượng khiến phá vỡ chúng tạo nên căng thẳng.

Thiết lập một quan hệ là thiết lập một mạng dây năng lượng rất phức tạp giữa hai người. Những mối dây này càng phức tạp hơn khi hai người có con với nhau. Cắt đứt mối quan hệ luôn luôn là một mối căng thẳng, ít nhất là trên mặt năng lượng. Vì cắt đứt một quan hệ thường đi đôi với cảm xúc tiêu cực, nên căng thẳng lại thêm nữa. Thiết lập một mối quan hệ mới cũng là một nguồn căng thẳng, nhất là khi thời nay người bạn đời mới của con có con cái từ một mối quan hệ trước, và con cũng vậy. Như vậy có rất nhiều chuyện rắc rối có thể xảy ra. Thày đang không bàn về chuyện đúng hay sai. Thày chỉ giải thích cho con thấy những rắc rối xảy ra trên lãnh vực năng lượng. Trong thời hoàng kim, con người, đặc biệt là những người tâm linh, cần phải tìm ra một cách cân bằng nghiệp quả hay có một quan hệ với một người khác mà không ôm thêm những rắc rối do việc có quan hệ tình dục, hay có con chung với nhau.

16.6. Tình yêu mà không có tình dục

Bằng cách đó con sẽ có thể tăng triển nhanh hơn, và như vậy có nghĩa là con có thể có quan hệ một một người khác giới tính, hay cùng giới tính, mà không nghĩ rằng tình yêu chỉ có thể được biểu lộ bằng tình dục. Con cần tìm ra một cách biểu lộ tình yêu chân thật, là cách nhanh nhất cân bằng nghiệp quả, mà không ôm thêm những rắc rối do một quan hệ tình dục tạo ra, thường là nguyên nhân khiến quan hệ cũ tan vỡ.

Thày biết là có một số người tự coi mình rất tiến bộ sẽ nói: “Nhưng ta có nên cố gắng đạt được tình trạng lý tưởng chăng, trong đó con vẫn nhất quyết bảo tồn mối quan hệ cũ và nuôi con, đồng thời có quan hệ tình dục với người khác khi mình cảm thấy cần?” Thày không nói là điều này không thể làm được, nhưng thày muốn nói là điều này rất khó thực hiện, đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay của trái đất.

Có điều gì khác biệt khi con bước qua lằn ranh và có một quan hệ vật lý, tình dục. Hai bên liên hệ với nhau gần gũi hơn nhiều. Con có thể tránh tạo ra những hệ lụy nhưng đây là điều rất khó làm trong một môi trường như trái đất. Nếu con là người thực tế và thực tiễn, thì con sẽ nhận ra là con sẽ tiến triển nhanh hơn nếu con không có quan hệ tình dục với tất cả những người con có nghiệp quả cần cân bằng trong kiếp sống này.

16.7. Cân bằng nghiệp quả trong một quan hệ tình dục

Chắc con cũng hiểu, phải không con, là nếu con có nghiệp quả với một người khác giới tính, thì con không thể cân bằng nghiệp quả đó bằng cách lờ đi không có quan hệ với người đó hoặc có một quan hệ hời hợt trong đó hai bên chỉ lịch sự với nhau? Để cân bằng nghiệp quả, điều hay cần xảy ra là hai bên thảo luận một cách chân thật vì sao họ lại cảm thấy có sự thu hút. Có thể họ cần bày tỏ với nhau những chuyện sâu kín và cá nhân, và tự do biểu lộ tình thương cho nhau nhưng không đi tới giai đoạn vật lý, hay ít nhất là tình dục. Đây là cách nhanh nhất để cân bằng nghiệp quả và giải quyết mối quan hệ giữa hai người.

Thày không nói ở đây là con không nên có nhiều quan hệ tình yêu trong một kiếp sống, nhưng các con chắc cũng đều nhận ra là số quan hệ tình yêu mà con có thể có có giới hạn. Có một giá phải trả nếu con muốn có nhiều quan hệ tình yêu, đặc biệt là quan hệ tình dục. Đa số những người có nhiều bạn tình dục đã cạn kiệt năng lượng của họ và nhận năng lượng từ những người đó tạo nên một gánh năng cho họ. Đó là lý do vì sao thày nói là nếu con có thể tìm cách biểu lộ tình yêu mà không cần tới tình dục, thì con có thể cân bằng nghiệp quả và tiến triển nhanh hơn. Con không thể làm điều này nếu những người khác giới tính mà con bị thu hút đều trở nên quan hệ vật lý, tình dục. Đây là cách cao để có tình yêu tự do mà không phải là tình dục tự do.

Con muốn gì: tăng triển tối đa hay vui thú tối đa? Các thày nhìn nhận rằng năng lượng tình dục đã bị nền văn hóa Cơ đốc dồn nén trong hơn 1700 năm, do đó cần có một giai đoạn trong đó con người có một quan niệm tự do hơn về tình dục để giải quyết sự dồn nén đó. Để đạt mục đích này, một số người cần có nhiều người bạn đời trong một kiếp sống và có một số quan hệ trong đó trọng tâm là tình dục.

Các thày không nhất thiết chống việc con giải quyết việc dồn nén tình dục và các ham muốn tình dục của mình. Có những lúc các thày cũng đã làm như Giê-su khi thày nói với Giu-đa: “Bất kỳ chuyện con làm, hãy làm nhanh.” Nếu con có chuyện gì cần giải quyết, thì con cứ tiến hành và sau đó trở lại thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của con, hay ít nhất là các khía cạnh khác của Sứ vụ Thiêng liêng. Giải quyết các vấn đề chắc chắn thuộc vào Sứ vụ Thiêng liêng, nhưng có thể đây không phải là phần quan trọng nhất của sứ vụ phụng sự thế gian của con.

Nếu trong nhiều kiếp con đã sống trong một nền văn hóa bắt con dồn nén ham muốn tình dục và năng lượng tình dục, thì con có thể cần vượt lên trên điều đó, giải quyết vấn đề đó. Nếu con tìm được một người bạn đời có cùng ước muốn, và cả hai đều ý thức là các con chỉ giúp nhau giải quyết vấn đề này, thì đây có thể là một cách để các con tăng triển. Thày cực lực khuyên con nên giải quyết ham muốn và thúc đẩy tình dục với tối thiểu bạn đời. Con càng có nhiều bạn đời thì con càng cạn kiệt năng lượng. Đây giản dị là thực tế của hoàn cảnh hiện nay trên trái đất.

16.8. Một quan điểm tự nhiên hơn về tình yêu và tình dục

Ở khóa nhập thất của thày, thày muốn giúp con vượt qua ảo tưởng của tình yêu tự do và ảo tưởng tình dục cần phải dồn nén. Thày giúp con có một quan điểm tự nhiên về tình yêu và tình dục. Làm sao con có thể có một quan điểm tự nhiên về tình yêu khi con nghĩ tình yêu chỉ có thể được biểu lộ qua tình dục? Con hãy ngẫm xem là quan điểm phản tự nhiên về tình dục trên trái đất này đã tạo nên một gánh nặng khiến con không thể có một quan điểm tự nhiên về tình yêu nếu con nghĩ tình yêu và tình dục lúc nào cũng phải đi đôi với nhau. Bước đầu là con phải tách tình yêu khỏi tình dục. Sau đó, con có thể xây dựng một quan điểm tự nhiên hơn về tình yêu, và con dùng nó để xây dựng một quan điểm tự nhiên hơn về tình dục. Lúc đó, con được giải thoát khỏi quan điểm phản tự nhiên về cả tình yêu lẫn tình dục. Tình dục đương nhiên là một đề tài phức tạp. Thày không có ý định giảng giải đầy đủ về đề tài này ở đây. Thày chỉ muốn khuấy động trong tâm ý thức của con một số điều mà mình đã giải quyết ở tầng thứ bảy của khóa nhập thất của thày.

Mục đích của thày ở khóa nhập thất là giúp con biểu lộ tình thương một cách tự do hơn. Chương trình nhập thất của thày giúp con giải quyết các hủ hóa tình thương có mặt trên hành tinh này để con có thể tự do biểu lộ tình thương. Con có thể biểu lộ tình thương qua bất kỳ quan hệ nào. Con có thể tự do biểu lộ tình thương cho con cái, cha mẹ, bạn đồng nghiệp, bạn bè và người phối ngẫu của mình.

Thế gian rất cần có những người có thể tự do biểu lộ tình thương dưới bất kỳ hình thức nào thích hợp dựa trên bản chất vật lý của mối quan hệ. Thế gian rất cần những người biết sự khác biệt giữa điều thích hợp và không thích hợp, không dựa trên tiêu chuẩn cũ của sự dồn nén tình dục nhưng theo cái nhìn cao của điều gì giúp tăng triển.

16.9. Dòng chảy alpha và omega của tình thương

Các thày mong muốn là những học viên tới khóa nhập thất của Tia thứ Ba sẽ đạt được nhiều tiến bộ trong khả năng tự do biểu lộ tình thương. Một khi con vượt qua trở ngại biểu lộ tình thương, thì con cũng cần xây dựng khía cạnh Omega của việc tiếp nhận tình thương. Có lợi ích gì chăng khi con biểu lộ tình thương nhưng người kia không biết tiếp nhận tình thương? Làm sao con có thể giúp người khác biểu lộ tình thương một cách tự do hơn nếu con không biết tiếp nhận tình thương từ người đó?

Khi có sự tuôn chảy tự do giữa hai cực Alpha và Omega, thì sự sống mới nảy sinh – đó là cách năng lượng sáng tạo vận hành. Nguyên lý này đã tạo ra toàn thể thế giới hình tướng. Cách Alpha và Omega tương tác trong dòng chảy tự do của tình thương sinh ra sự sống mới, hình tướng mới, biểu hiện mới, và biểu hiện hữu hạn mới của Tánh linh vô hạn. Vì chúng là biểu hiện tự do nên không bị giam vào một khuôn nếp. Chúng được tự do tuôn chảy và trở nên hơn nữa. Chúng thuộc vào Dòng Sông sự Sống, chúng thuộc về động lực khiến toàn thể Dòng sông trở nên hơn nữa trong vũ điệu liên tục của Thượng đế.

Tình thương chỉ có thể biểu hiện khi được tuôn chảy. Không ai sở hữu tình thương, không ai sản xuất ra nó, ta chỉ có thể để nó tuôn chảy xuyên qua ta. Con càng là cánh cửa mở cho tình thương (con càng cho phép nó được biểu lộ tự do hơn xuyên qua con), thì càng có thêm tình thương được đem vào thế giới này xuyên qua các luân xa và cỗ xe linh hồn của con. Cỗ xe linh hồn không phải là cánh cửa mở cho tình thương, cũng không phải là các luân xa. Chính cái Ta Biết là cánh cửa mở cho tình thương, và cái Ta Biết càng ý thức nó là nhận biết thuần khiết, là cánh cửa mở, thì càng có nhiều tình thương tuôn chảy xuyên qua nó vào các luân xa và cỗ xe linh hồn. Một khi tình thương vào các luân xa và cỗ xe linh hồn thì nó sẽ được biểu hiện trong thế gian. Để tình thương có thể biểu hiện tự do, thì luân xa và cỗ xe linh hồn của con cần càng sạch càng tốt khỏi các hủ hóa khiến dòng tình thương bị giới hạn, ngăn chặn, hay lạc hướng.

Trong các thời đại trước, khi năng lực tình dục bị dồn nén thì dòng chảy tình thương bị giới hạn. Phong trào tình yêu tự do mở lối cho dòng chảy, nhưng nó bị đẩy lạc hướng thành năng lực tình dục. Thực sự không phải tình thương được biểu hiện, mà chỉ là các ham muốn thấp của thân thể vật lý, các ham muốn này tương tự như ham muốn của thú vật.

16.10. Biểu lộ động lực tình dục một cách trách nhiệm

Nếu con nhìn vào thú vật thì con thấy là chúng có động lực tình dục, nhưng hầu như không có thú vật nào có sinh hoạt tình dục nhiều bằng con người. Lý do một phần là vì con người có một trình độ tâm thức cao hơn nên không sống chỉ để thỏa mãn những động lực thú vật, tỷ dụ như động lực truyền giống. Con người có thể tìm thú vui trong bất kỳ sinh hoạt nào, kể cả sinh hoạt tình dục, và không có điều gì sai trái với điều này. Để tiếp tục hưởng thú vui tình dục thì con phải nhận ra rằng nếu ham muốn thú vật về tình dục vật lý không còn dính liền với nhu cầu truyền giống, thì sẽ không còn gì giới hạn nó ở cấp vật lý.

Điều này có thể dẫn đến bệnh ghiền tình dục khi con người không bao giờ có đủ tình dục và cảm thấy không trọn vẹn khi không ở trong, hay gần, trạng thái giao hợp khoái lạc, và điều này không thể xảy ra liên tục. Con cần nhận ra là khi thân thể vật lý và nhu cầu truyền giống không còn giới hạn động lực tình dục, thì cái tâm cao cần giới hạn nó để con tìm ra một thế quân bình giúp con sinh hoạt bình thường. Con có thể nghĩ là những người ghiền tình dục vui thú có tình dục, nhưng thực ra thì không phải vậy. Họ có một động lực bắt buộc họ phải làm theo, và hầu như lúc nào họ cũng không thỏa mãn vì đang không có tình dục hoặc không thỏa mãn khi đang có tình dục vì sau đó chuyện gì sẽ xảy ra khi họ lại cảm thấy trống trải trở lại? Làm sao họ lại có thể đáp ứng cơn ghiền?

Như một người tâm linh, con có thể định cho mình một mục đích chính đáng, đó là tới được điểm có thể biểu lộ động lực tình dục một cách trách nhiệm tức là không cản trở việc tăng triển, và không hạ năng lượng xuống hay làm cạn kiệt năng lượng. Con có một người bạn đời cũng có một trình độ trưởng thành và tự do, và con có thể có tình dục và vui thú sinh hoạt này, không phải như một thú vui thú vật, nhưng là một sự vui thú cao đến từ cảm nhận gần gũi, ngay cả hợp nhất, với một người khác.

16.11. Một hình thức hợp nhất cao

Các con chắc cũng biết là có mộ số vị thày ở phương Đông, như thày Padma Sambhava, đã dạy phương pháp tình dục tâm linh (tantric sex). Trong khuôn khổ bài giảng này, thày không khuyến khích các con học pháp này vì đây là một đề tài rộng lớn hơn nhiều. Thày chỉ nêu lên để chỉ cho các đệ tử chân sư thăng thiên thấy là dồn nén động lực tình dục không nhất thiết là cách duy nhất hay cao nhất để đạt được tiến bộ tâm linh. Con có thể giải thoat động lực này để tới điểm con có thể biểu lộ nó một cách quân bình, khiến cho tình dục trở nên vui thú theo nghĩa cao đồng thời giúp con thiết lập một sự gần gũi, hay hợp nhất, với một người khác. Đây có thể là một bước trên tiến trình bước ra ngoài cỗ xe linh hồn và tái lập sự nhận biết mình kết nối với một cái gì lớn hơn chính mình và mình là nhận biết thuần khiết.

Hình thức cao nhất của giao hợp tình dục chỉ có thể có được khi cả hai người bạn đời có một trình dộ nhận biết cao rằng mình là cái Ta Biết và mình là nhận biết thuần khiết. Nếu cả hai con giúp nhau bước ra ngoài tâm thức bình thường của mình và cả hai đều trải nghiệm giao hợp tình dục như một trạng thái nhận biết thuần khiết, thì lúc đó con đạt được mực tiêu của phương pháp tình dục tâm linh. Mục đích không phải là đat được khoái lạc cao nhất. Mục đích là đạt được mức hợp nhất cao nhất thông qua sự thuần khiết của nhận biết, khi mà ranh giới giữa con và người bạn đời tan ra và cái Ta Biết của một người tuôn chảy vào cái Ta Biết của người kia. Lúc đó các con hình thành hai cực cao và sáng tạo.

Khi hai chân sư thăng thiên họp lại để hoàn thành một mục đích, thì các thày hòa trộn hai sinh thể của mình. Các thày không có giao hợp tình dục, nhưng các thày hòa trộn sinh thể của mình. Chính nhờ sự hòa trộn này, khi các thày hình thành hai cực Alpha và Omega, mà các thày tạo ra một hình tướng mới, một kết quả mới, một xung lực năng lượng mới. Đây là cách cõi tâm linh vận hành. Con không thể hoàn toàn rập khuôn nơi cõi vật lý, nhưng con có thể cố gắng đạt được phần nào. Điều này có thể đạt được qua giao hợp tình dục. Nhưng nó cũng có thể đạt được không qua giao hợp tình dục.

Thày đang cho con một viễn kiến cao của một việc có thể đã khiến con hoang mang, tức là vì sao một số người, nay đã là chân sư thăng thiên, lại thực hành tình dục tâm linh. Như mọi chuyện khác, phương pháp tình dục tâm linh đã bị hủ hóa. Nó đã bị biến thành động lực để đạt được một kết quả vật lý. Nếu con có thể tách rời khỏi ý niệm hủ hóa này và tìm hợp nhất trong dòng chảy tự do, qua một biểu lộ tình thương, thì nó có thể là một dụng cụ giúp con đạt được tiến bộ tâm linh và tự do tình dục. Có phải chăng là thày nói là các đệ tử chân sư thăng thiên đều phải thực hành tình dục tâm linh? Dĩ nhiên là không.

Con có thể đạt tiến bộ tâm linh bằng cách khác, và đó là lý do vì sao các thày đã giảng dạy con đường tự điều ngự gồm giáo lý và phương pháp thỉnh cầu ánh sáng để giúp con đạt được cùng mục đích. Thày đương nhiên khuyên con theo học con đường tự điều ngự, nhưng thày cũng muốn cho con biết với tâm ý thức những điều mà thày thảo luận với con ở tầng ê-the của khóa nhập thất của thày. Con cần biết những khía cạnh của tình thương và tình dục để giải thoát mình khỏi những quan niệm lệch lạc hiện diện trong tâm thức tập thể, đang tìm cách dùng tình dục, nhưng cũng dùng cả tình thương, để ngăn chặn hay làm trệch hướng sự phát triển tâm linh của con.

Chỉ có người có hiểu biết mới có được tự do. Hiểu biết không những là quyền lực, nó cũng là chìa khóa đưa tới tự do. Con không có tự do bằng cách trốn tránh một sinh hoạt nào đó. Con chỉ có tự do khi nhận ra ảo tưởng đã sinh ra sinh hoạt đó và chọn lựa thăng vượt nó một cách tự do và hiểu biết. Đó chính là tự do, tự do trong hiểu biết.

16.12. Tốt nghiệp từ Tia thứ Ba

Ở khóa nhập thất của thày, thày mong muốn dẫn con tới điểm con đạt được tự do trong hiểu biết liên quan đến chủ đề tình thương. Bây giờ thì thày dẫn con tới buổi lễ tốt nghiệp khóa nhập thất bằng cách dẫn con tới một căn phòng đặc biệt. Trong phòng này, con sẽ được mời ngồi vào một chiếc ghế rất thoải mái, giống như ngai của nhà vua.

Một khi con an tọa, con sẽ thấy căn phòng mở rộng ra. Con không thấy các bức tường và chỉ thấy thế giới vật lý bao la. Sau đó, con thấy xa hơn nữa và thấy toàn thể vũ trụ bao la cùng với các bầu cõi khác. Đây là món quà chia tay mà thày muốn trao cho con, cảm nhận về sự bao la vô tận của tình thương tuôn chảy tự do xuyên qua mọi tầng của vũ trụ. Thày cho phép con trầm mình trong trải nghiệm đó bao lâu cũng được, nhưng sẽ có một lúc con tự nhiên bước ra khỏi trạng thái đó và nhận biết trở lại chính mình và cỗ xe linh hồn của mình trên trái đất. Đây là lúc thày có thể quàng tay vào vai con và dìu con ra khỏi cửa và bước vào một căn phòng có một luồng ánh sáng trắng chói lọi. Luồng ánh sáng trắng được tạo ra bởi vị Thượng sư và huynh đệ yêu dấu của thày là thày Serapis Bey, đang đợi con để dẫn con tới tầng khai ngộ kế tiếp ở khóa nhập thất của thày.

Lúc đó con chứng kiến điều cho các thày, các Thượng sư, một niềm vui mãnh liệt. Điều gì cho thày, một Thượng sư, niềm vui lớn nhất? Đó là đã dẫn được một đệ tử qua tất cả các tầng khai ngộ ở khóa nhập thất của thày. Lúc nào thày cảm thấy được niềm vui này? Khi thày chuyển con tới vị Thượng sư kế tiếp. Khi thày dẫn con tới thày Serapis, có một lúc hai thày nhìn vào mắt nhau và hai thày hòa trộn vào trạng thái hợp nhất của cõi thăng thiên. Không có gì cần nói với ngôn từ thế gian, nhưng cả một thế giới được diễn tả vượt lên ngôn từ. Thày Serapis cảm nhận được niềm vui của thày, và thày đáp ứng lại với niềm vui nhận con như đệ tử của thày. Niềm vui lớn nhất của thày Serapis là dẫn con qua các tầng khai ngộ ở khóa nhập thất của thày, nhưng thày chỉ có thể bắt đầu hành trình này khi con đã sẵn sàng vì con đã đạt hết các khai ngộ ở khóa nhập thất của Tia thứ Ba.

Có một lúc hai thày chia sẻ niềm vui vô hạn đó. Nếu con chú tâm thì con có thể thoáng thấy nó và cảm thấy niềm vui khi con biết rằng con là nguyên nhân của niềm vui của các thày. Cảm nhận này có thể sẽ cho con động lực để tiến bộ thêm nữa. Thày bảo đảm với con là con cần động lực này để đạt được những khai ngộ mạnh hơn trong khóa học của thày Serapis, vì các khai ngộ này có thể mạnh mẽ hơn các khai ngộ ở khóa của thày. Thày đương nhiên không muốn tiết lộ những gì đang chờ đợi con, vì chắc hẳn là các khai ngộ của Tia thứ Tư sẽ thú vị hơn khi mình không biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Thày đang đùa với con ở lúc cuối này, vì trong suốt các bài giảng thày không khôi hài bao nhiêu. Thày bảo đảm với con là thày khôi hài hơn ở khóa nhập thất của thày. Nhưng không dễ biểu lộ khôi hài trong một quyển sách, vì khôi hài là một đề tài dễ tạo xung đột trên trái đất. Các thày nói chung tránh khôi hài trong các quyển sách có thể tới tay nhiều người thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau. Thày bảo đảm với con là ở khóa nhập thất, các thày có thể vượt qua các trở ngại này, và sự thực là các khóa nhập thất vui vẻ hơn những gì con mường tượng khi đọc sách.

Thày chân thành hy vọng là sự biểu hiện tình thương của thày đối với con dưới một hình thức vật lý sẽ cho con cảm hứng mang xuống cõi vật lý những gì con đã học ở khóa nhập thất của thày trên cõi ê-the. Thày biết rõ là có người tìm ra và đọc quyển sách này mà không trải qua các khai ngộ trong các tầng nội tâm. Bất cứ ai cũng có thể đọc quyển sách này như một tò mò trí thức, hoặc họ cũng có thể đọc với mục đích chê bai. Thày cho rằng ít người đọc với mục đích này có thể đọc hết quyển sách. Và dù mục đích của họ có như thế, họ vẫn nhận được một cơ hội để chọn tình thương. Nếu họ quyết định không chọn tình thương, thì thày cũng biết là thày đã đạt mục đích của thày là cho quyển sách này ra đời.

Thày đã trình bày cơ hội để chọn tình thương. Thày hoan hỉ cho con tự do chọn lựa tuyêt đối, vì thày có tự do tuyệt đối thương yêu, tuôn chảy với tình thương và biểu lộ tình thương.

TA LÀ Paul người Venice. Ta là chân sư thăng thiên. Ta là Thượng sư của Tia thứ Ba, tia của tình thương vô hạn, không ràng buộc, không thể so sánh, vô điều kiện.

Tình thương và Phụng sự

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/1/2015, đăng ngày 8/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice, Thượng sư của Tia thứ Ba của Tình thương Thiêng liêng. Khi con tới tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày, con đối mặt với khai ngộ của tình thương phối hợp với Tia thứ Sáu của Bình an và Phụng sự. Trước khi con có thể phụng sự với tất cả khả năng của mình, con cần đạt được bình an, vậy chúng ta hãy xem xét những hủ hóa tình thương liên quan đến bình an.

14.1. Quan điểm thế gian về tình thương

Đa số các người đến khóa nhập thất của thày trên con đường tự điều ngự đã bị ảnh hưởng sâu đậm bởi quan điểm thế gian về tình thương. Trên trái đất ta thấy phản tình thương biểu hiện quá nhiều, đặc biệt là những biểu hiện của phản an bình và sự hung hãn của những người chơi trò quyền lực, lúc nào cũng sử dụng quyền lực và lạm dụng quyền lực. Vì trong nhiều kiếp con đã lớn lên và trải nghiệm điều này, là nạn nhân của những người quyền lực, nên điều tự nhiên là con tìm một cách sống khác. Sâu thẳm trong nội tâm, con cảm nhận là tình thương là cách khác đó. Con cũng thấy có một số triết lý có mặt ngoài kia nói rằng: “Tình thương thắng tất cả. Tình thương chữa lành hết mọi sự. Tình thương là tất cả những gì con cần,” và những quan điểm tương tự.

Nhiều người đã tin vào triết lý hiện diện trong tâm thức tập thể trên trái đất cho rằng tình thương đối nghịch với quyền lực vì tình thương lúc nào cũng dịu dàng, tử tế, màu hồng và mềm mại. Con nghĩ tình thương là bình an, theo nghĩa bình an là thụ động.

Các thày đã giảng là bình an không thụ động, chắc chắn không phải là giữ cho mọi người vui lòng, và tình thương cũng vậy. Con không thể cảm thấy bình an với tình thương nếu con không sẵn lòng biểu hiện tình thương qua mọi khía cạnh của nó. Tình thương có thể dịu dàng và tử tế, nhưng tình thương chỉ dịu dàng và tử tế khi con người cần những điều này để chữa lành một chấn thương hay một vết thương. Trên một hành tinh đầy chiến tranh như trái đất, con người rất cần tình thương dịu dàng này. Điều này không thể chối cãi. Thày không nói biểu lộ tình thương như vậy là sai.

Điều thày muốn nói là con không thể bình an khi biểu hiện tình thương nếu con không nhận ra là tình thương, cốt lõi của tình thương, là giúp con người thăng vượt và trở nên hơn nữa. Nếu con người cần một hành động của tình thương thẳng thắn hơn, nghiêm khắc hơn, cường độ hơn, thì đó là điều các chân sư thăng thiên sẽ trao truyền. Nếu con muốn an bình khi phụng sự trên con đường tự điều ngự, phụng sự tha nhân, con phải là cánh cửa mở cho sự biểu hiện trực tiếp hơn của tình thương.

14.2. Học những khía cạnh của tình thương

Mỗi một tia tâm linh đều có một dải tần số, như ta có thể thấy nơi các tia màu sắc. Đa số nghĩ tình thương màu hồng, nhưng thật sự dải tần số trải ra tới cường độ cao nhất, giống như tia laser, của lửa màu ngọc đỏ. Rất nhiều học viên khi tới tầng này của khóa nhập thất của thày nghĩ tình thương màu hồng. Rất nhiều người đã lớn lên với cha mẹ hoặc khuôn mặt uy quyền khác lạm dụng quyền lực, và đa số cho thái độ đó là không thương yêu.

Dĩ nhiên lạm dụng quyền lực là không thương yêu. Nhưng sự biểu hiện uy lực để thức tỉnh con và giúp con tiến lên cao hơn hay nhận ra là con cần ngưng các khuôn nếp tự phá hoại, không phải là lạm dụng quyền lực. Khi giúp con, như một trẻ thơ, bước ra ngoài các khuôn nếp tự phá hoại, là biểu lộ tình thương.

Con cần học phân biện giữa một biểu hiện uy lực đúng đắn và sự làm dụng quyền lực. Con có thể học điều này bằng cách học hỏi các khía cạnh khác nhau của tình thương. Nếu con chỉ thấy tình thương màu hồng, con sẽ không bao giờ nhìn nhận một biểu hiện đúng đắn của uy lực. Con sẽ thấy một biểu hiện uy lực thẳng thắn như một lạm dụng quyền lực, nhưng điều này không đúng. Khi con mở lòng đón nhận các khía cạnh màu ngọc đỏ của tình thương, thì con sẽ bắt đầu thấy là cường độ có khi cần thiết để giúp một người trèo ra khỏi vòng xoắn hướng hạ đang kéo người đó xuống.

14.3. Biểu hiện cường độ của tình thương

Chuyện gì xảy ra khi một người bị kẹt trong một vòng xoắn hướng hạ? Con có thể bước tới, cầu thỉnh năng lượng, tiêu hủy năng lượng đang vận chuyển vòng xoắn và qua đó khiến vòng xoắn chậm lại và giúp người đó có thể thoát ra khỏi nó. Con cũng có thể nhận ra là khi một người đang trong một vòng xoắn đi xuống, thì họ đang chuyển động. Nếu con có thể gia tốc sự chuyển động đó, thì con có thể giúp họ bay văng ra khỏi vòng xoắn.

Một số các con có lẽ đã trải nghiệm trong đời mình một trường hợp cha mẹ, người phối ngẫu, hay đạo sư đưa ra một nhận xét với cường độ cao đến độ lời đó cắt xuyên qua hàng rào phòng thủ thông thường của con. Lời nói đó khiến tâm con bị chấn động khiến con mở tâm đón nhận một thực tại cao hơn. Chỉ một nhận xét cũng đủ để kéo con ra khỏi khuôn nếp tự phá hoại và bước đi theo một hướng mới. Đó là tình thương. Đó là một biểu hiện tình thương. Nó có thể pha trộn với uy lực, nhưng trên căn bản đó là tình thương như một đối tác của sợ hãi.

Lạm dụng quyền lực lúc nào cũng bắt nguồn từ sợ hãi. Một biểu hiện uy lực đúng đắn vượt lên trên mức rung động đó. Nó rung động với tình thương, tình thương cường độ. Ta không nên nhầm cường độ và sự khe khắt. Cường độ không phải là khe khắt, mà là sự tự tại không lay chuyển. Tới đây thì chắc con đã thấy là tự ngã luôn luôn tìm cách kéo mọi sự xuống mẫu số chung thấp nhất và khiến con vui lòng. Có lúc cần cường độ để kéo con ra khỏi vòng xoắn giữ cho mọi người vui lòng, trạng thái tâm thức giữ cho mọi người vui lòng. Thày có nói là trong quan hệ phải có giao tiếp tự do, nhưng điều này không thể đạt được nếu các người liên hệ chưa đạt được các khai ngộ của Tia thứ Sáu và nhận ra là tình thương không phải lúc nào cũng bình an.

Con có quyền đối xử một cách cường độ với người bạn đời của con. Nếu con không cư xử vì sợ hãi, nếu cường độ của con dựa trên tình thương, thì điều này được phép làm trong quan hệ tình yêu. Trong quan hệ lý tưởng thì phải được phép. Trong một quan hệ, nếu một hay cả hai người bạn đời có thể đạt được cường độ nào đó, thì đó là một yếu tố quý giá trong mối quan hệ. Dĩ nhiên điều quan trọng là con sẵn sàng nhìn vào chính mình và nhận ra là mình cư xử với cường độ dựa trên tình thương hay lạm dụng quyền lực dựa trên sợ hãi. La lối người bạn đời vì mình giận dữ hay sợ hãi không giúp xây dựng mối quan hệ.

14.4. Giao tiếp tự do không phải là lạm dụng quyền lực

Có thể con cần dành một khoảng thời gian để con tự do phát biểu và người bạn đời của con học chịu đựng việc này. Sau đó con có thể xem xét những khuôn nếp mà con có, khiến chúng hiện rõ cho con và người bạn đời, để các con có thể tự do thảo luận chúng. Ở đây thày không muốn nói tới những khuôn nếp lệch lạc mà ta có thể thấy nơi rất nhiều quan hệ, nghĩa là một trong hai người bạn đời lên cơn bực bội và bắt đầu la hét, và người kia khép tâm lại và rút vào vỏ ốc của mình.

Nếu các con đã thiết lập được tự do giao tiếp thì con có thể cho phép một người biểu lộ bất cứ cảm xúc nào có trong tiềm thức. Mục đích là để các cảm xúc này phơi bày ra và qua đó bắt đầu chuyển hóa chúng, khám phá khuôn nếp và ảo tưởng đằng sau chúng, để có thể vượt thăng chúng. Mục đích của giao tiếp tự do không phải là để một người có thể biểu lộ mãi mãi cảm xúc dựa trên sợ hãi mà không bao giờ tìm cách giải quyết chúng.

Con yêu dấu, nếu con quan niệm tình thương là cái gì mềm mại, màu hồng và thụ động, thì câu nói “tình thương là tất cả những gì con cần” không đúng. Nhưng nếu con nắm vững tất cả mọi khía cạnh của tình thương, thì con có thể nói là tình thương là tất cả những gì con cần, vì lúc đó tình thương bao gồm tất cả bảy tia sáng với các đặc tính của chúng. Tất cả những gì con cần trong thế giới vật chất là bảy tia sáng. Con có thể thăng thiên khi con điều ngự cả bảy tia sáng. Nếu con điều ngự Tia thứ Tám của Tổng hợp và một số các tia bí mật thì còn tốt hơn nữa, nhưng con có thể thăng thiên khi con đạt được sự điều ngự bảy tia sáng. Bảy tia sáng là tất cả những gì con cần.

Nhiều quan hệ tình yêu bị kẹt trong một khuôn nếp trong đó hai người bạn đời cảm thấy lúc nào cũng cần phải dịu dàng. Điều này đặc biệt đúng khi hai người bạn đời đều là người tâm linh, đã tìm ra con đường tâm linh và đã thực hành trong một thời gian. Điều này lại đúng hơn nữa khi hai người đã học một số giáo lý Đông phương.

Giáo lý Đông phương khuyến khích con tìm về nội tâm. Các phương pháp như yoga, nhiều trường phái thiền, quán sát hay giữ chánh niệm đều có mục đích tìm sự tĩnh lặng nội tâm. Thày không nói các phương pháp này sai, nhưng nếu con đã chọn đầu thai vào phương Tây, thì con có thể suy ngẫm thấy rằng phương pháp Đông phương muốn con ngồi thiền trong hang động và giữ quân bình tâm linh bằng cách giữ tâm mình an bình, có thể không thích hợp với phương Tây.

Muốn thời hoàng kim được biểu hiện thì điều cần thiết là các người tâm linh khắp thế giới, kể cả ở phương Đông, có vai trò tích cực trong xã hội. Con cần đòi hỏi, và chứng minh qua gương sống của mình, một cách hành xử cao hơn là khuôn nếp không-bình an cũ. Đôi khi, điều cần xảy ra là có người biểu lộ bằng lời nói cường độ của ngọc đỏ. Đôi khi, trên diễn đàn công cộng, cần có người đứng lên, khiến mọi người phải chú ý, và phá tan màn mê chướng đang cản trở sự tiến bộ trong lãnh vực nào đó. Ai sẽ là người làm công việc này, nếu không phải là các người tâm linh? Ai sẽ làm việc này nếu con bị kẹt trong quan niệm lúc nào cũng phải trở về nội tâm, lúc nào cũng an lạc? Làm sao con thiết lập được một quan hệ bình an thật sự nếu con không vượt qua mọi yếu tố không-bình an và phản-bình an?

14.5. Các hủ hóa bình an

Thày đã nói gì trong các bài giảng trước? Mọi đức tính của Thượng đế đã bị sa nhân hủ hóa bằng cách thiết lập một đối cực tương đối, nhị nguyên. Điều này cũng xảy ra với đức tính bình an. Ở một đầu là hung hãn và chiến tranh. Ở đầu kia là một người hoàn toàn bình an và do đó thụ động. Đây không phải là Trung đạo. Đây không phải là con đường hoàng kim, trung dung của thời hoàng kim. Rất nhiều người tâm linh bị kẹt trong tư tưởng đây là cách họ phải cư xử, kể cả trong các mối quan hệ tình yêu.

Con thấy trường hợp các vợ chồng rất tâm linh và tham gia vào nhiều sinh hoạt tâm linh. Họ đã tới điểm mà nhiều cặp vợ chồng đã đạt được trên thế giới. Họ đã thừa nhận mình là ai, các vết thương và vấn đề mà họ có, và tránh khuấy động những vấn đề khó khăn. Họ đã đặt hài hòa và an bình như mục đích của mối quan hệ của họ tới độ điều này trở thành một ngăn trở thay vì động lực cho sự tiến bộ của họ.

Đây không phải là an bình thật sự vì an bình thật sự không tạo nên một tình trạng hòa bình đứng yên trên trái đất. Nó tạo nên một nền hòa bình năng động trong đó có tăng triển tối đa vì không có khái niệm xung đột kéo con người vào khuôn nếp tranh chấp. Những khuôn nếp này cướp năng lượng của con và đẩy con từ cao điểm sang hạ điểm khiến con mất đi an bình nội tâm và sự chú tâm vào Hiện diện TA LÀ của con.

Nếu hai chúng con là người tâm linh trong quan hệ vợ chồng thì các con nên sẵn sàng trực diện các vấn đề dù rằng làm như vậy sẽ nhất thời tạo bất hòa. Nếu các con sử dụng các dụng cụ tâm linh mà các thày đã cung cấp, các con sẽ có khả năng dần dần giải quyết các vấn đề đó. Lúc đó các con sẽ có một mối quan hệ chân thật hơn, và chắc chắn là trọng tăng triển hơn. Quan hệ này có thể sẽ giúp con thể hiện Sứ vụ Thiêng liêng của mình ở một mức cao hơn vì con có thể tự do biểu lộ những khía cạnh cường độ của tình thương. Cường độ này là chìa khóa của phụng sự thật sự.

14.6. Cần những người tâm linh trong xã hội

Tia thứ Sáu là tia của bình an và phụng sự, nhưng sa nhân đã hủ hóa khái niệm bình an bằng cách nói rằng những người trọng hòa bình theo nghĩa giữ cho mọi người vui lòng là những người phụng sự chân chính.

Nhiều người, ngay cả nhiều người tâm linh, cho rằng nếu muốn giúp đời thì họ phải tìm một việc làm trong một địa hạt phụng sự. Tỷ dụ như trong các ngành bác sĩ, y tá, giáo sư, từ thiện hay tương tự. Thày hoàn toàn không chỉ trích những người làm như vậy. Các người tâm linh rất cần trong các đia hạt này.

Thày chỉ muốn cho con thấy là nếu con nghĩ các người tâm linh chỉ nên làm việc trong các đia hạt này, thì con có thể đã dùng tâm ý thức đóng cửa việc thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Con đang phủ lên mình một lớp màn có thể khiến tâm đóng lại và không nhận ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Những người tâm linh cần thiết trong mọi lãnh vực của xã hội. Quả thật là có một số công việc con nên tránh, tỷ dụ như những việc dính tới tội ác, việc phi pháp hay việc khuynh loát người khác.

Ngay cả trong thương trường – là lãnh vực có khi có nhiều trường hợp hủ hóa – cũng có nhu cầu có người có khuynh hướng tâm linh đồng thời hiểu rõ thương trường từ bên trong. Những người này có thể là phương tiện để biểu hiện sáng kiến mới, họ cũng có thể có cường độ cần thiết để gióng lên tiếng nói trong một số trường hợp cá biệt (trong một thương vụ cá biệt nào đó) hoặc để giúp xã hội mở ra một đường hướng mới liên quan đến thương mại hay tiền tệ.

Xã hội cần một hệ thống tiền tệ mới, đây là một điều các thày đã nói tới. Hệ thống này sẽ không được hình thành chỉ với hành động thụ động. Cần có người cầm Ngọn lửa Hồng ngọc để chặt đứt sự đối kháng, sự đối kháng cực kỳ mạnh mẽ, để biểu hiện một hệ thống tiền tệ thực sự đem lại lợi ích cho quần chúng thay vì giới thượng lưu quyền lực.

14.7. Vượt qua phản ứng khi bị lên án

Khi con đến tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày, con đối diện một thử thách rất gay go. Con cần phải đối diện thử thách không bị ảnh hưởng bởi sự lên án của tâm thức sa ngã. Làm sao con giữ được tâm an bình trên một hành tinh như địa cầu khi sa nhân tới và lên án con một điều gì đó và con lập tức mất bình an? Khai ngộ đặc thù mà con đối diện ở khóa nhập thất của thày giúp con học đối phó với hoàn cảnh bị lên án là con không thương yêu vì con dám biểu hiện mình một cách tự do hơn.

Các thày sẽ dạy con làm sao thực hiện điều này. Các thày sẽ chỉ cho con thấy là con đã rơi vào một khuôn nếp phản ứng khi bị lên án. Các thày sẽ giúp con thấy phản ứng này từ đâu tới, và vòng xoắn năng lượng nào đã nuôi dưỡng nó. Các thày sẽ giúp con đi vào vòng xoắn đó, đi vào tận cùng nó và thấy ra ảo tưởng đằng sau nó. Lúc đó, con có thể nhìn phàm linh và nói: “Quỉ Xa-tăng, hãy đứng sau lưng ta. Mi không còn nắm được gì nơi ta nữa.”

Rất nhiều người thiện tâm đã làm việc phục vụ công chúng. Họ đã đứng lên tranh đấu cho một sự thay đổi nào đó, một ý mới nào đó. Họ đã gặp sự đối kháng không thể tránh được của những người bị kẹt trong tâm thức sa ngã. Không có địa hạt nào trên trái đất mà con có thể nêu lên một ý mới hay một thay đổi tích cực mà không va chạm những người bị kẹt trong tâm thức sa ngã muốn chống lại bất kỳ thay đổi nào.

Biết bao người đã găp sự đối kháng này và đã có một phản ứng chống đỡ hoặc đã phản ứng bằng cách nâng cao cường độ, có khi đi vào lạm dụng quyền lực. Một khi họ phản ứng như vậy thì những người trong tâm thức sa ngã sẽ lên án là họ không trọng hòa bình, không thương yêu, không tử tế, không thật sự phụng sự, chỉ tìm cách gây rối loạn – và nhiều lối lên án khác mà những người kẹt trong tâm thức sa ngã có thể tìm ra. Ta không cần phải liệt kê tất cả các lời lên án này ở đây vì có quá nhiều đến độ có thể viết kín nhiều quyển sách. Có rất nhiều người thiện tâm có trong Sứ vụ Thiêng liêng ý muốn đem lại thay đổi đã bị quá chấn động, rối loạn tâm và bất an đến độ họ rút lui khỏi việc phục vụ công chúng.

Ta đã thấy điều này xảy ra rất nhiều lần. Những người thiện tâm không thể chấp nhận sống trong khung cảnh lệch lạc, phán xét có mặt trong quá nhiều đia hạt trên trái đất. Con nghĩ tại sao những người tham gia chính trị lại cư xử như vậy? Có một phin lọc đã loại ra khỏi môi trường này tất cả những người tử tế và yêu thương cũng như là những người yêu thương cường độ. Không một người tích cực nào có thể chịu nổi môi trường chính trị trong nhiều quốc gia. Chỉ còn lại trong đó những người đã quá kẹt vào tâm thức sa ngã hay có quá nhiều tham vọng nên sẵng sàng chịu đựng mọi chuyện để nắm được quyền lực.

Đâu là chìa khóa để tránh phản ứng như vậy? Chìa khóa là hòa nhập với cốt lõi của tình thương, là động lực giúp con người vượt thăng và trở nên hơn nữa. Động lực này được cân bằng bởi sự tôn trọng quyền tự quyết. Điều hay khiến con nản chí khi con tham gia một công việc phụng sự công chúng là con có một viễn quan rõ ràng những gì cần cải thiện. Con gắng công đem lại một thay đổi vật lý nào đó. Khi con gặp những người đối kháng không chịu nhìn sự việc giống con, thì con có phản ứng chống đỡ. Tới một lúc thì con chán ngán bị đối kháng và lên án và con nói: “Vậy tôi sẽ để quý vị yên và quý vị có thể làm bất cứ gì quý vị muốn.”

14.8. Trình bày một cơ hội chọn lựa

Phản ứng trên của con chính là điều những người trong tâm thức sa ngã mong muốn. Họ đã hành xử nhiều lần như vậy trong quá khứ, và họ biết rất rõ cách đánh vào các điểm yếu và tạo nên phản ứng như trên. Để tránh rơi vào khuôn nếp này, con cần nhận ra là tình thương không mong cầu đạt được một kết quả vật lý trên trái đất này. Tình thương chỉ muốn đưa ra cho con người một chọn lựa tự vượt thăng. Khi con tham gia một địa hạt phụng sự công chúng và trình bày một ý mới hay một đề nghị thay đổi, con đã cho những người liên hệ một cơ hội chọn lựa giải pháp cao hay thấp.

Tâm ý thức của con có thể khiến con nghĩ là nếu họ không chọn giải pháp cao, thì công việc phụng sự của con đã thất bại. Thày là Thượng sư và thày không nhìn sự việc như vậy. Thày không thấy là cố gắng của con đã thất bại, vì con đã làm gì? Con đã cho con người một chọn lựa mà trước đó họ không có. Con đã buộc họ phải chọn lựa, vì đây là quyền của con theo luật tự quyết vì con đang đầu thai trong thế giới vật lý. Dù họ chọn giải pháp cao hay thấp, con đã làm công việc phụng sự.

Quả thật là nếu họ chọn giải pháp thấp thì các kết quả vỏ ngoài mà con cố gắng đạt sẽ không được biểu hiện. Nhưng sẽ vẫn có một kết quả vì họ tiến thêm một bước về hướng bị phán xử và về hướng bị loại ra khỏi trái đất [muốn biết thêm về đề tài này, xin đọc sách Vũ trụ quan về sự xấu ác]. Trên đường dài, các cố gắng của con sẽ có ảnh hưởng tích cực trên trái đất. Con đã có một đóng góp quý báu, và con nên thỏa mãn đã trình bày cho con người một chọn lựa, và để cho họ quyền quyết định. Bằng cách đó, con tránh trói buộc sự phụng sự của mình vào việc đạt được kết quả nào đó.

Con hãy nhớ lại điều thày giảng về sự thực, về chuyện tránh buộc người bạn đời của con nhìn đời giống như con, và cho phép vị đó nhìn đời theo cách của họ. Nguyên tắc đó cũng áp dụng vào việc phụng sự công chúng. Có thể có những người bị kẹt trong tâm thức sa ngã, hay họ ở một trình độ tâm thức thấp hơn nên không thể thấy ra viễn quan cao của con. Họ có quyền ở mức tâm thức hiện tại của họ. Con có quyền ở mức tâm thức của con. Con có quyền phát biểu viễn quan của con, nhưng họ cũng có quyền phản ứng lại sự phát biểu của con theo trạng thái tâm thức của họ.

Đúng thực là họ có quyền sử dụng viễn quan cao của con để thăng vượt trạng thái tâm thức của họ, nhưng nếu họ không chịu làm điều này, thì họ có quyền từ chối. Con không có quyền phản ứng tiêu cực khi người khác thực thi quyền tự quyết của họ. Con nên – và đây là trách nhiệm của con – có trạng thái tâm không đòi hỏi người khác lấy một chọn lựa nào đó. Con nên thỏa mãn đã cho họ cợ hội chọn lựa.

Đó là cách con phụng sự một cách cao: không phải qua việc tạo ra một kết quả vật lý, mà qua việc trình bày cho con người một cơ hội chọn lựa điều gì cao hơn trình độ tâm thức hiện nay của họ. Đó là tất cả những gì các thày, các Thượng sư, đang làm.

Nếu con nghĩ là các thày, bảy vị Thượng sư và Đại Thượng sư, đang ngồi trên đây lập ra kế hoạch tinh vi làm sao thay đổi từng chi tiết nhỏ trên cõi vật lý, thì con đã không hiểu các thày. Đúng thực là thày Saint Germain có một kế hoạch đem tới thời hoàng kim. Nhưng kế hoạch đó không đuợc khắc trên đá. Nó không được quy định vào chi tiết. Thời hoàng kim không thể được áp đặt trên nhân loại. Nó phải được chọn.

Thày Saint Germain có một kế hoạch làm sao trình bày cho nhân loại một số ý cao giúp nhân loại có cơ hội chọn lựa. Thày Saint Germain không đòi hỏi kết quả nào đó vào một ngày nào đó. Thày Saint Germain đã đạt được quả vị Phật. Thày biết rằng nếu thời hoàng kim không đuợc biểu hiện dưới một hình thức nào đó ngày hôm nay, thì chuyện đó có thể xảy ra ngày mai hay trong một thế kỷ.

14.9. Cân bằng hành động dứt khoát và kiên nhẫn

Có những lúc con cần cấp bách thay đổi cái gì đó trong đời mình. Có thể con cần cấp bách nỗ lực lên một trình độ tâm thức cao hơn trong một thời gian rất ngắn vì con cần phải thực hiện một thành phần nào đó của Sứ vụ Thiêng liêng của con ở một thời điểm nào đó. Cũng có thể con cần nâng cao cường độ để hội đủ điều kiện để thăng thiên trong kiếp này. Nhưng con đừng rơi vào cạm bãy của tư duy cuồng đại và nghĩ rằng một số thay đổi bên ngoài nhất định phải xảy ra vào một thời điểm nào đó. Nghĩ như vậy chỉ khiến con xa rời bình an. Điều đó sẽ khiến con không phụng sự dựa trên tình thương mà phụng sự dựa trên sợ hãi, khiến con càng ngày càng bực bội cho tới khi con bị kiệt sức và không chịu nổi nữa.

Đã rất nhiều lần các thày thấy một người có trong Sứ vụ Thiêng liêng việc đem lại thay đổi nào đó trong một lãnh vực nào đó của xã hội. Nhưng vì người đó bị rơi vào khuôn nếp mà thày đã mô tả và phản ứng lại tâm thức sa ngã, nên vị ấy rút lui khỏi lãnh vực đó. Nếu thay vì làm như vậy, vị ấy có cái nhìn đường dài hơn và kiên nhẫn hơn, thì vị ấy đã có thể đạt được thành quả lớn hơn trong một thời gian dài hơn. Có thể rằng vị ấy không đạt được đúng kết quả vị ấy hình dung khi quyết định rút lui, nhưng một số kết quả đáng kể cũng được thành tựu.

14.10. Vượt qua tâm thức bây-giờ-hay-không-bao-giờ

Thế giới không tiến triển bằng những bước nhảy vọt vĩ đại. Thế giới tiến bộ qua từng bước nhỏ. Mỗi người trong chúng con có mặt trên đời để đóng góp vào những bước nhỏ đó. Thỉnh thoảng, có một người đem ra một ý mới có ảnh hưởng sâu rộng hơn, nhưng đa số các con có mặt trên đời để giúp thế giới tiến lên qua những bước nhỏ. Điều này có nghĩa con cần kiên nhẫn. Con cần bình an. Con cần tránh rơi vào tư duy bực bội và nghĩ rằng: “Chuyện này phải xảy ra ngay bây giờ. Bây giờ hay không bao giờ!”

Chính tự ngã của con, sa nhân và phàm linh nội tại muốn con nghĩ như vậy. Có bao giờ con bước vào một tiệm bán xe và có một người bán hàng thiện nghệ muốn bán con một chiếc xe cũ? Các người bán hàng đó được huấn luyện để tạo ra một cảm giác khẩn cấp. Nếu con không ký hợp đồng ngay bây giờ, con sẽ làm mất đi cơ hội tuyệt vời mà họ nói họ đang cống hiến con. Vì sao con nghĩ con người tham gia chiến tranh? Đó là vì họ bị lừa là tình hình khẩn cấp nên có chuyện gì đó cần xảy ra ngay bây giờ! Con yêu dấu không bao giờ có tình trạng bây giờ hay không bao giờ!

Phương Đông có câu ngạn ngữ: “Người tới, người đi, nhưng ta tiếp tục mãi mãi”. Dòng Sông sự Sống tuôn chảy mãi mãi. Hoàn cảnh tới, hoàn cảnh đi, nhưng Dòng Sông sự Sống tiếp tục tuôn chảy. Một cơ hội mới sẽ hiện ra. Chắc chắn là có trường hợp không lấy cơ hội đưa đến hậu quả tại hại. Nhưng điều này không có nghĩa là cơ hội học hỏi đã bị mất, và đó là điều mà các thày là Thượng sư muốn chú tâm tới.

Thày có nói định nghĩa của quỷ Xa-tăng là gì? Đó là quan niệm Tánh linh phải quy thuận điều kiện đương thời của vật chất. Làm sao con thăng vượt các điều kiện đương thời? Con không thể thăng vượt chúng khi con rơi vào trạng thái bị chúng quá ảnh hưởng đến độ nghĩ rằng phải thay đổi chúng ngay lúc này. Chúng phải được thay đổi bằng cách duy nhất mà ngay lúc này con thấy chúng có thể thay đổi. Như vậy có nghĩa là người khác phải làm theo ý con muốn. Nếu họ không tự nguyện làm vậy thì họ phải bị ép buộc làm theo. Đây là lý do vì sao chiến tranh và xung đột bắt đầu. Đây là lý do vì sao đối thoại bị cắt đứt.

Con hiện đang có một viễn quan. Viễn quan đó không phải là viễn quan cao nhất. Nếu con tiến bộ trên con đường tu, con sẽ không có viễn quan đó suốt đời con. Rất có thể là ngay lúc này con có viễn quan đúng đắn về điều cần phải thay đổi, nhưng cũng có thể là con không có viễn quan cao nhất về cách nó phải thay đổi. Nếu con trình bày cho mọi người một cơ hội, như con thấy hiện nay, và họ chọn lựa không theo, thì con không nên bực bội. Con hãy trở về nội tâm. Con xem xét phản ứng của mình. Con tránh khuôn nếp tiêu cực. Con xin được hướng dẫn và chỉ thị để con thấy vấn đề từ một tầm nhìn cao hơn. Sau đó, con chờ cơ hội mới để trình bày đề nghị từ một viễn quan cao hơn, trưởng thành hơn.

Cùng lúc thì con cũng biết là hành tinh tiếp tục tiến triển, và nó tiến triển theo một vòng xoắn đi lên. Ngay cả những người đang chống đối con hiện nay cũng có thể bị bó buộc phải thay đổi. Khi có cơ hội mới, có thể họ sẽ sẵn sàng chấp nhận. Đột nhiên, tình hình được an bày khác hơn trước và có thể có lối mở mà trước đó không có. Nếu trước đó con có phản ứng dựa trên sức mạnh, dựa trên sợ hãi thì có thể con đã rút lui khỏi lãnh vực đó. Hoặc con đã tạo nên nhiều mâu thuẫn với những người liên hệ và họ đã đóng tâm không chịu nghe con nữa, và cơ hội thứ nhì cũng có thể bị mai một.

14.11. Xung đột là bây-giờ-hay không-bao-giờ. Bình an tiếp tục mãi mãi.

Xung đột hay xảy ra vì quan niệm bây giờ hay không bao giờ. Làm sao con có thể là một sứ giả hòa bình khi con có trạng thái tâm đó? Xung đột là bây giờ hay không bao giờ; bình an tiếp tục mãi mãi. Cơ hội đến, cơ hội đi, nhưng một cơ hội mất đi không biến đi mãi mãi. Bánh xe lại lăn và một cơ hội lại xuất hiện. Đây là cách con học phụng sự trong an bình.

Tình thương lúc nào cũng muốn thăng vượt, nhưng con không thăng vượt khi con có một viễn quan là có kết quả tối hậu cần được biểu hiện. Lúc đó dòng chảy của tình thương bị khóa lại. Nếu con ở bên ngoài tư duy bây-giờ-hay-không bao-giờ, tư duy tất-cả-hay-không-có-gì-cả, tư duy theo-tôi-hay-đi-chỗ-khác, thì con có thể ở trong dòng chảy của tình thương. Con chỉ cần đợi cơ hội kế tiếp.

Nếu con không được một cơ hội kế tiếp vì người khác vẫn tiếp tục chống đối, thì con hành động như thày đã từng giảng. Con chú tâm vào phản ứng của mình, và con có thể sẽ tới điểm biết là lúc này không phải là lúc giận dỗi bỏ đi khỏi lãnh vực này. Nhưng là lúc tuôn chảy tới mức phụng sự kế tiếp, bất kỳ hình thức phụng sự này là gì. Ngay lúc đó con có thể không thấy hình thức phụng sự này là gì, nhưng con chắc chắn không thấy nó nếu con ở trong tư duy tất-cả-hay-không-có-gì-cả.

Làm sao hai người có thể phụng sự nhau trong một mối quan hệ khi mỗi người có một quan niệm người kia phải thay đổi ra sao và mối quan hệ phải như thế nào, và cả hai đều có tư duy tất-cả-hay-không-có-gì-cả, bây-giờ-hay-không-bao-giờ? Phụng sự người khác là cho người đó cơ hội tăng triển, không phải là đạt được một kết quả bên ngoài. Con hãy kiên nhẫn với chính mình và với người bạn đời.

Nhiều người trong chúng con quá nóng nảy, hay quá chán chường với xung đột và nói: “Tôi cần an bình ngay bây giờ!” Ta chỉ có thể đạt an bình bằng kiên nhẫn. Không ai đã đạt an bình mà không qua cánh cửa kiên nhẫn, và điều này có khi đòi hỏi chịu đựng đau khổ lau dài. Con đau khổ bao lâu tùy thuộc vào con cần bao lâu để buông bỏ dính mắc vào kết quả bên ngoài. Con không thể đạt được bình an khi con còn dính mắc vào kết quả bên ngoài. Con yêu dấu, điều này không thể làm được.

Con có thể sẽ đạt dược một kết quả bên ngoài, nhưng con không tạo ra kết quả đó bằng cách dính mắc vào nó, vì con không phải là người tạo tác. Dòng chảy của Tánh linh, Dòng Sông sự Sống là người tạo tác. Con cung cấp chén thánh để dòng tình thương chảy vào, và con để tình thương làm công việc của nó. Lúc đó, con được bình an, bất kỳ kết quả vật lý là gì. Con được bình an khi con để tình thương tuôn chảy, và qua đó trình bày cho mọi người một cơ hội chọn lựa một con đường cao hơn, con đường của tình thương, con đường của bình an.

TA LÀ Paul người Venice.

Tình thương và Chân lý

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 7/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice. Điều gì xảy ra khi con tới tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày? Đây là điểm con gặp tình thương phối hợp với Tia thứ Năm, thường được gọi là tia của chân lý. Ông Pontius Pilate đã từng hỏi Giê-su: “Chân lý là gì?” Câu hỏi này đáng để chúng ta suy ngẫm.

12.1. Thực tại và cách chúng ta cảm nhận thực tại

Pontius Pilate đại diện cho một người có tâm thức ở dưới tầng thứ 48. Giê-su đại diện cho một người có tâm thức rất gần tầng thứ 144. Khi con tới gần tầng 144, con có thể biết đâu là chân lý. Khi con ở dưới tầng 48, con không thể nào biết chân lý. Khi con tới khóa nhập thất của thày, con không ở dưới tầng 48, nhưng con cũng không ở gần tầng 144.

Con có thể nào biết chân lý ở tầng tâm thức của con khi con tới khóa nhập thất của thày chăng? Con có thể biết một biểu hiện của chân lý cao hơn là lúc con ở dưới tầng 48. Con không thể biết trọn vẹn chân lý mà con biết được khi con tới gần tầng 144. Đây là một điều rất quan trọng mà con nên ghi nhớ. Vậy con biết được gì? Làm sao con thấy được chân lý khi con đang ở đâu đó giữa tầng 48 và 96 trên con đường tự điều ngự?

Con chỉ thấy chân lý xuyên qua cỗ xe tâm hồn là phương tiện con dùng để biểu hiện trong thế giới vật chất. Điều này không có nghĩa là con không thể trải nghiệm chân lý dưới hình thái trong sạch của nó. Cái Ta Biết của con có khả năng bước ra ngoài và không tự đồng hóa nó với cỗ xe tâm hồn. Giống như con có khả năng trải nghiệm tình thương vô điều kiện, thì con cũng có khả năng trải nghiệm chân lý vô điều kiện, nhưng chân lý vô điều kiện không có điều kiện.

Chúng ta cần thấy một khác biệt vi tế mà đa số người trên hành tinh còn không thể hiểu được. Họ không thấy sự khác biệt này là cần thiết, vì họ không thấy sự khác biệt giữa thực tại và cách họ cảm nhận thực tại. Họ nghĩ rằng điều mà họ thấy qua cỗ xe tâm hồn là thực tại, là chân lý, nhưng điều này không đúng, phải không con? Con đã bắt đầu vượt lên trên tầng 48 và con đã bắt đầu tách mình ra khỏi, không còn tự đồng hóa, với cỗ xe tâm hồn.

12.2. Cỗ xe tâm hồn không phải là kẻ thù của con

Đây là điều con cần phân biệt: cỗ xe tâm hồn không phải là kẻ thù của sự tăng triển tâm linh của con. Nó có thể là kẻ thù, và chắc chắn nó kẻ thù khi con ở dưới tầng 48. Khi con ở dưới tầng 48, cỗ xe tâm hồn, trong đó có tự ngã, kéo con xuống những khuôn nếp vị kỷ dựa trên sợ hãi. Con tìm cách bảo vệ tự ngã và cái ta phàm phu thay vì vươn lên trên tự ngã và các khía cạnh vị kỷ của tâm thức con người.

Tâm thức con người và tự ngã đặt lên trên cỗ xe tâm hồn một lớp phủ có pha màu. Khi con vượt lên trên tầng 48, con bắt đầu thoát khỏi khuynh hướng vị kỷ đó. Khi con vươn lên cao hơn nữa về hướng tầng 96 trên con đường tự điều ngự, con rũ bỏ những khuynh hướng đó thêm nữa. Nhưng không có nghĩa là lúc đó con đã rũ bỏ cỗ xe tâm hồn.

Mục tiêu của con đường tự điều ngự từ tầng 48 đến tầng 96 là giúp con phát triển khả năng sáng tạo để con có thể biểu lộ nó toàn vẹn hơn trong thế giới vật lý. Khi con biểu lộ khả năng sáng tạo, con cần một cỗ xe để biểu lộ nó. Con cần bốn thể phàm của con. Đó là lý do vì sao, cái Ta Biết, là trạng thái nhận biết thuần khiết, không thể biểu lộ sự sáng tạo. Đó là lý do vì sao cái Ta Biết cần tạo ra cỗ xe tâm hồn, trong đó có bốn thể phàm. Nó không cần phải tạo ra tự ngã, nhưng nó đã làm điều này trên trái đất vì hành tinh này rất dày đặc. Công việc chính trên con đường tự điều ngự là vượt lên trên tầm ảnh hưởng của tự ngã để làm chủ cỗ xe tâm hồn, thay vì để tự ngã làm chủ cỗ xe tâm hồn và kéo con vào những khuôn nếp dựa trên sợ hãi có mục đích bảo vệ tự ngã.

12.3. Cỗ xe tâm hồn được hình thành như thế nào

Thày đã có giảng là con cần ngưng trong lọc các phàm linh nội tại và rũ bỏ chúng, nhưng các phàm linh nội tại không phải là cỗ xe tâm hồn trong hình thức trong sạch của nó. Các phàm linh nội tại được tạo ra bởi các sợ hãi của tự ngã và cảm nhận méo mó của nó. Chúng được tạo ra dựa trên một ảo tưởng, là ảo tưởng nhị nguyên, nhưng con có thể thanh lọc chúng khỏi cỗ xe tâm hồn. Điều này không có nghĩa là cỗ xe tâm hồn có thể thăng thiên, nhưng có nghĩa là con có một cỗ xe trong sạch hơn giúp con biểu lộ chính mình trong thế giới vật chất.

Con đã hình thành cỗ xe tâm hồn của con như thế nào? Con đã hình thành nó dựa trên sự cá biệt mà Hiện diện TA LÀ của con sẵn có, vì nó được tạo ra với tính cá biệt này. Hiện diện TA LÀ của con có một khuôn đúc cá biệt độc nhất, khác với khuôn đúc của tất cả các sinh thể tự nhận biết khác trong thế giới hình tướng. Con đã tạo ra cỗ xe tâm hồn dựa trên tính cá biệt của Hiện diện TA LÀ của con tuy lúc đó con không hoàn toàn là Hiện diện TA LÀ.

Con cũng tạo cỗ xe tâm hồn dựa trên những trải nghiệm mà con kinh qua trong thế giới vật chất. Nếu con đã đầu thai trên trái đất một thời gian dài, và con chắc chắn đã làm điều này khi con sẵn sàng gia nhập khóa nhập thất của thày, thì tính cá biệt của con, của cỗ xe tâm hồn của con, đã bị ảnh hưởng bởi những trải nghiệm của con trên trái đất. Đời sống con người là như vậy. Tất cả chúng ta đã đi qua tiến trình này khi chúng ta đầu thai trên trái đất.

Công việc giữa tầng 48 và 96 là thanh lọc cỗ xe tâm hồn khỏi ảnh hưởng của tự ngã, nhưng không phải là loại bỏ cỗ xe tâm hồn hay tước tính cá biệt khỏi cỗ xe tâm hồn. Đây là công việc khi con vượt lên trên tầng 96, vì đó là giai đoạn con bắt đầu giải thoát cái Ta Biết khỏi những khía cạnh của cỗ xe tâm hồn không dựa trên sợ hãi.

Ta có thể nói là trong giai đoạn đầu, con xây dựng một cỗ xe tâm hồn trong sạch để con có thể dùng nó để biểu lộ chính mình, nhưng trong giai đoạn sau con bắt đầu ngưng không tự đồng hóa mình với cỗ xe tâm hồn để nhận ra mình là – con – Hiện diện, là một nối dài của Hiện diện. Cỗ xe tâm hồn chỉ là một cỗ xe giúp sự sáng tạo chảy xuyên qua vào thế giới vật chất. Con có thể nghĩ là ở trên tầng 96, con phá bỏ tính cá biệt và cỗ xe tâm hồn mà con đã xây dựng ở dưới tầng 96, nhưng điều này không đúng. Khi con tới tầng 144, con vẫn còn cá tính.

Con có thể thấy là Giê-su có một cá tính rõ rệt. Thánh kinh không mô tả điều này một cách trung thực, nhưng thày có một cá tính. Điều này không là một vấn đề vì thày không tự đồng hóa mình với nó. Có người có thể nhìn sự việc này và nói rằng đấng Ki-tô hiện thân không thể có cá tính như vậy, và dùng điều đó như lý cớ để chối bỏ thày. Một số người gặp gỡ Giê-su thời đó đã hành xử như vậy, nhưng đó là chọn lựa của họ, chứ không phải là trách nhiệm của Giê-su. Con có thể có một số khía cạnh của cá tính con người khi con thăng thiên, nhưng điều này không ảnh hưởng việc thăng thiên. Nó chỉ là một cỗ xe.

Vì sao thày lại giảng con những điều này? Vì nó liên quan đến các khai ngộ mà con sẽ đối mặt ở tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày. Một trong những hủ hóa tình thương mà con phải đối mặt ở khóa nhập thất của thày chính là khuynh hướng nghĩ rằng chân lý chỉ thể hiện theo một cách. Nếu con thực thương yêu ai và muốn giải phóng người đó, thì con phải giúp họ thấy chân lý.

Con yêu dấu, nếu con đứng nhìn mặt trời lặn về phương tây thì con có một tầm nhìn nào đó về thế giới. Nếu con quay người lại và nhìn về hướng khác, thì con không còn thấy mặt trời nữa, phải không con? Khi con, là cái Ta Biết, quay về bên trong và rút ra khỏi cỗ xe tâm hồn, thì con có thể ngước nhìn lên và thấy Hiện diện TA LÀ của con. Có thể con sẽ trải nghiệm chân lý vô điều kiện, nhưng con cũng sẽ trải nghiệm là chân lý vô điều kiện không thể biểu hiện qua ngôn từ, hoặc hình ảnh, lý thuyết hay triết lý.

Nếu bây giờ con quay đầu và nhìn ra thế giới vật chất qua con mắt cỗ xe tâm hồn thì chuyện gì sẽ xảy ra? Lúc đó con sẽ nhìn thế gian xuyên qua cỗ xe tâm hồn và tính cá biệt nội tại trong nó. Con có thể nhìn vào khái niệm chân lý xuyên qua cỗ xe đó, nhưng điều thày muốn con suy ngẫm là con không thể nào thấy được chân lý tuyệt đối và vô điều kiện xuyên qua cỗ xe tâm hồn của mình.

Ngay nơi đó chính là sự hủ hóa tình thương, khi ý muốn cái gì hơn nữa bị tâm thức sa ngã hủ hóa thành ý muốn cái gì tối hậu. Con có lòng khao khát tự nhiên muốn biết chân lý, nhưng khao khát đó bị hủ hóa thành khao khát muốn biết một chân lý tuyệt đối mà cỗ xe tâm hồn có thể hiểu được.

12.4. Sự thực cao hơn không phải là chân lý duy nhất

Đó là chỗ con tạo bối cảnh gây ra rất nhiều vấn đề trong quan hệ con người mà con có thể thấy trên trái đất, không những trong quan hệ tình yêu mà còn trong đủ loại quan hệ giữa con người. Con người tin rằng điều họ thấy xuyên qua cỗ xe tâm hồn của họ là một chân lý có ý nghĩa cao cả và tuyệt đối. Nhiều khi họ tin rằng một tôn giáo hay hệ thống triết học đã quy định chân lý trong thánh kinh của tôn giáo hay hệ thống đó. Nếu con chấp nhận tôn giáo đó thì con thấy chân lý, vì con chấp nhận những gì tôn giáo đó nói về thế giới, kể cả thế giới tâm linh. Điều này không đúng, vì bất kỳ tôn giáo nào được diễn tả bằng ngôn từ hay hình ảnh của thế gian chỉ có thể đưa ra một ước phỏng của chân lý. Các thày đã nhiều lần nói điều này. Giáo lý vỏ ngoài, ngay cả giáo lý vỏ ngoài mà chính các thày trao truyền, chỉ là phương tiện giúp con vượt lên trên chúng để dạt được kinh nghiệm nội tâm về cái gì không có điều kiện, không thể được diễn tả bằng ngôn từ hay hình ảnh, và chắc chắn là không thể bị hạn chế bởi ngôn từ và hình ảnh.

Thí dụ ta có hai người. Họ đều khao khát chân lý. Họ đều mong muốn tăng triển. Họ nhận ra là điều ngăn trở con người tăng triển là vì họ bị mắc kẹt trong ảo tưởng. Họ nhận ra cách để vượt qua ảo tưởng là nhận ra nó là ảo tưởng, nhưng họ vẫn có thể bị mắc kẹt trong bẫy vi tế của tâm thức sa ngã. Tâm thức sa ngã nói rằng muốn khắc phục dối trá, ta cần thấy chân lý. Điều đúng là muốn khắc phục một dối trá nào đó, ta cần thấy nó là một dối trá. Điều đúng là muốn nhận ra một ảo tưởng nào đó là một dối trá, ta cần thấy một biểu lộ cao hơn của sự thực, nhưng một biểu lộ cao hơn của sự thực không đồng nghĩa với “chân lý duy nhất” theo nghĩa tối hậu.

12.5. Khắc phục ảo tưởng của chân lý tối hậu

Lý do vì sao con bị kẹt trong một ảo tưởng không phải là vì con ngu dốt. Lý do là vì con đang ở một tầng tâm thức nào đó. Khi con nhìn qua phin lọc nhận thức ở tầng tâm thức đó, thì ảo tưởng giống như thật. Khi con chấp nhận ảo tưởng, đó là vì con thấy nó là sự thật.

Con không ở tầng tâm thức 144, con đồng ý chứ? Ở tầng tâm thức hiện tại của con, con không thể thấy chân lý tối hậu. Ta hãy giả thử là ở tầng tâm thức hiện tại của con, con nhận ra là trong một kiếp trước, khi con ở một tầng tâm thức thấp hơn, con đã chấp nhận một ảo tưởng. Ảo tưởng này đã nằm trong tiềm thức của con từ thời đó và nó ảnh hưởng con. Nó đã trở thành một phàm linh nội tại. Bây giờ thì con thấy phàm linh nội tại đó là giả. Con thấy nó là một khuôn nếp không xây dựng mà con muốn loại bỏ, và sau đó con thấy được ảo tưởng.

Vì sao bây giờ con thấy được một ảo tưởng mà trước kia con tưởng là sự thật? Đó là vì con đã lên một tầng tâm thức cao hơn. Con bây giờ thấy một điều mà trước kia con tưởng là sự thật, thực sự không phải là sự thật mà là một ảo tưởng. Lúc đó, con cần tránh không tin các sa nhân, các thày giả và tự ngã của mình khi chúng thì thầm vào tai con là con đã thấy được chân lý tối hậu. Trái lại, con cần khiêm nhường nhận ra là điều con đang thấy là điều mà con có thể thấy ở tầng tâm thức hiện nay của con, nhưng vì con vẫn ở rất xa tầng 144, nên con chưa thấy được bóng dáng của chân lý tối hậu. Điều con đang thấy thể hiện tầng tâm thức hiện tại của con, nó không phải là chân lý tối hậu.

Bây giờ con cần tiến thêm một bước nữa và nhận ra rằng điều con đang thấy không những là một biểu hiện của tầng tâm thức hiện tại của con, mà nó còn thể hiện cá tính của con, cá tính của cỗ xe tâm hồn của con. Khi con còn xác thân vật lý thì con sẽ không bao giờ thấy được chân lý tối hậu. Con sẽ luôn luôn thấy nó xuyên qua cỗ xe tâm hồn của mình.

Ở đây có hai khía cạnh mà con cần nhận ra. Ở bên dưới là cá tính của cỗ xe tâm hồn của con, và con sẽ giữ một phần cá tính đó cho tới khi con thăng thiên. Ở bên cạnh là con đường song song của tầng tâm thức của con, là một trong 144 tầng. Con càng tới gần tầng 144 thì nhận thức của con càng tinh khiết, nhưng nó vẫn là một nhận thức cá biệt.

12.6. Cạm bẫy nghĩ mình phải thuyết phục người khác

Khi con nhận ra điều trên thì con tránh rơi vào cạm bẫy đã quyến rũ rất nhiều người. Khi con thương yêu một người, muốn giúp người đó, và thấy họ đang bị kẹt trong một khuôn nếp, thì con nghĩ cách duy nhất để giúp họ là khiến họ thấy chân lý như con thấy. Con hãy nhìn lại những quan hệ của con với người khác và nhớ lại những trường hợp mà con thấy một người – có thể là một đồng nghiệp. người thủ trưởng, cha mẹ mình, con cái mình hay vợ chồng – cần phải thấy một điều mà con thấy nơi họ, nhưng chính họ lại không thấy được? Có phải chăng là tất cả chúng ta đã trải qua những trường hợp tương tự khi chúng ta đầu thai trên trái đất này? Các con có đang kinh nghiệm điều này ngay bây giờ chăng?

Bây giờ con hãy suy ngẫm một điểm vi tế khác nữa. Rất có thể là con có một cái nhìn chính xác là người kia cần vượt qua một khuôn nếp, và người đó đang không thấy khuôn nếp đó hay ảo tưởng đằng sau nó. Rất có thể con thấy rõ điều này, và có thể đúng là người đó cần phải thay đổi. Nhưng, người đó sẽ không thay đổi bằng cách thấy sự thật như con thấy.

Tại sao vậy? Đó là tại vì sự thật mà con thấy không phải là chân lý tối hậu và chỉ là một chân lý cá biệt. Nó là chân lý cá biệt của con, dựa trên cá tính của cỗ xe tâm hồn của con và trình độ tâm thức hiện tại của con. Điều con thấy không phải là chân lý. Thật ra con cũng không thấy tình trạng của người kia và mối quan hệ giữa con và người đó một cách khách quan và sáng suốt. Điều con thấy là một cảm nhận do cỗ xe tâm hồn con tạo ra. Con đang nhìn sự việc qua một cặp kính mờ, có pha màu. Điều này không có gì sai trái. Ngay lúc này, con không thể làm gì khác.

Điều mà thày muốn chỉ cho con thấy là người kia bình thường sẽ không thấy điều con cảm nhận, vì người đó có cá tính riêng của cỗ xe tâm hồn của họ và họ cũng có trình độ tâm thức riêng của họ. Người đó có thể có một trình độ tâm thức cao hơn hay thấp hơn trình độ của con. Nếu người đó ở trình độ tâm thức thấp hơn con, cũng không có nghĩa là người đó sẽ nâng tâm thức mình lên bằng cách nhìn thấy điều mà con thấy. Người đó vẫn cần thấy sự việc dựa trên cỗ xe tâm hồn của mình và trình độ tâm thức của mình.

12.7. Tự ngã ham muốn được phổ quát

Một hủ hóa phổ thông của tự ngã là nó không nhìn nhận là nó nhìn tất cả mọi việc như một cảm nhận cá biệt. Tự ngã khát khao biến cảm nhận cá biệt của nó thành một sự việc phổ quát bằng cách khiến người khác chấp nhận nó như “sự thực duy nhất”. Đây là điều thày mong giúp con thấy và chất vấn khi con tới tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày. Điều mà thày mong giúp con nhận ra là tầm nhìn của con sẽ luôn luôn mang tính chất cá biệt khi con còn hiện thân trong cõi vật chất. Điều mà một người khác thấy cũng luôn luôn mang tính chất cá biệt khi người đó còn hiện thân. Người đó sẽ không tăng triển bằng cách thấy sự việc như con thấy. Người đó sẽ tăng triển khi có một tầm nhìn sáng suốt hơn dựa trên cá tính riêng của họ.

Con lên một tầng cao hơn khi con có một tầm nhìn sáng suốt hơn, nhưng cỗ xe tâm hồn của con vẫn dựa trên tính cá biệt của Hiện diện TA LÀ của con. Phải chăng là thày đang nói là Hiện diện TA LÀ cũng có một tầm nhìn cá biệt về thế giới? Đúng vậy. Con sẽ có một tầm nhìn cá biệt cho tới khi con là một với tâm thức của đấng Sáng tạo. Và có khi còn cao hơn nữa, vì lúc đó con là một đấng Sáng tạo cá biệt. Con sẽ không có tầm nhìn nhị nguyên như khi con còn hiện thân, khi con chưa thăng thiên, nhưng tầm nhìn của con vẫn cá biệt. Làm sao có thể khác hơn được?

Cái gì khiến thày là Paul người Venice, mà không phải là Hilarion? Cái gì khiến thày khác thày Hilarion? Thày Hilarion và thày không là một. Các thày có thể hòa nhập và cộng tác năng lượng của mình khi con tới tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày, nhưng hai thày không phải là một. Thượng đế không muốn hai thày trở thành một. Khi hai thày tiến triển thêm trên con đường tiến hóa của mình, sẽ không có một điểm mà hai thày sẽ mất tính cá biệt của mình. Con có nghĩ rằng Alpha và Omega không có cá tính chăng? Dĩ nhiên là không phải vậy. Không ai mất đi cá tính của mình. Con nâng nó lên trình độ càng ngày càng cao hơn. Thày biết là tâm đường thẳng, tâm phân tích không dễ hiểu được điều này, nhưng con nên suy ngẫm với tâm thức hiện tại của con.

12.8. Hai người bạn đời sẽ không thấy bất kỳ chuyện gì hoàn toàn giống nhau

Điều thày có thể làm ở khóa nhập thất của thày là chỉ cho con thấy là cỗ xe tâm hồn của con ảnh hưởng cái nhìn của con về mọi chuyện trên thế gian này. Cái Ta Biết của con có khả năng bước ra ngoài phin lọc nhận thức của cỗ xe tâm hồn. Con có thể trải nghiệm một thực tại cao hơn, nhưng khi con nhìn về thế gian, khi con không nhìn về Hiện diện TA LÀ, thì con thấy sự việc xuyên qua phin lọc nhận thức của cỗ xe tâm hồn.

Người phối ngẫu trong quan hệ tình yêu của con sẽ không bao giờ – không bao giờ – nhìn đời giống y như con. Đây là một trong những nguyên do phổ thông nhất tạo xung đột trong quan hệ tình yêu. Con nghĩ, vì con đã được dạy dỗ để nghĩ như vậy, là con có sự thu hút với người bạn đời vì người đó rất giống con. Nhưng sự thực là con có sự thu hút với người bạn đời vì người đó có thể giúp con thấy điều gì đó nơi mình bằng cách phơi bày nó ra. Người đó phơi bày bằng cách nào? Bằng cách khiến con phản ứng lại điều họ làm, chứ không phải bằng cách khiến con thấy sự việc giống như họ thấy.

Thày biết là điều thày vừa nói không giúp các quan hệ tình yêu vận hành suôn sẻ. Đa số không có khái niệm là họ cần nhìn vào cách họ phản ứng lại người bạn đời của họ để khám phá ra những vấn đề tâm lý chưa giải quyết của họ. Thay vào đó, họ nghĩ rằng, trong một quan hệ tình yêu lý tưởng, hai người phối ngẫu nên nhìn sự việc y như nhau. Điều này sẽ không bao giờ xảy ra. Ngay cả nếu điều này có thể xảy ra, thì nó cũng sẽ không giúp con tăng triển.

Chuyện gì xảy ra khi thày hợp lại với thày Hilarion? Chuyện xảy ra là thày nhận ra là thày Hilarion không nhìn sự việc giống như thày. Vì thày là một chân sư thăng thiên, thày không thấy điều đó là một mối đe dọa. Thày nhận ra là thày Hilarion có một quan điểm khác, và điều này có thể giúp thày nhìn vấn đề một cách khác hơn và giúp thày thấy được một cách giải quyết rộng rãi hơn. Đây là sức mạnh của sự khác biệt. Khi thày thấy thày Hilarion nhìn tình hình khác thày, thì ý niệm bản ngã của thày được mở rộng. Thày Hilarion cũng mở rộng ý niệm bản ngã của mình khi thấy thày nhìn tình hình một cách khác.

Đây là trạng thái lý tưởng cho các quan hệ tình yêu trên trái đất. Nhưng điều này không xảy ra vì con người đã bị lập trình để tin một cách lệch lạc rằng, nếu muốn có một quan hệ hài hòa thì hai người bạn đời phải nhìn sự việc giống y như nhau. Nếu con muốn có một quan hệ hài hòa thì con cần nhận ra là cách con nhìn đời là một tầm nhìn cá biệt, và người bạn đời của con không nên nhìn sự việc giống như con và chấp nhận tầm nhìn của con. Người bạn đời của con nên mở rộng tầm nhìn cá biệt của vị ấy, nhưng tầm nhìn này phải được phép giữ cá tính của nó.

Nếu cả hai người trong quan hệ tình yêu đều chấp nhận điều này, và cho phép người kia phát triển theo cách của riêng họ, thì con có thể có một quan hệ hài hòa giúp cả hai tăng triển. Nếu một trong hai người bạn đời không nhận ra điều đó và tiếp tục đòi hỏi người kia phải nhìn đời theo ý mình, thì con không thể có một quan hệ hài hòa. Điều này giản dị không thể có được. Con có thể làm gì để khắc phục khuôn nếp lệch lạc này trong quan hệ tình yêu?

12.9. Phin lọc nhận thức khiến giao tiếp bị che mờ

Ở khóa nhập thất của thày, thày chỉ cho con thấy rõ điều gì xảy ra khi con ở trong một tình huống có sự bất đồng ý kiến hay quan điểm. Thày có thể chỉ cho con trên một màn ảnh cách con nhìn vào tình huống này. Thày có thể chỉ cho con thấy là quan điểm của con bị pha màu. Thày có thể chỉ cho con thấy bằng hình ảnh.

Nếu con muốn có một sự so sánh thô thiển, thì con hãy thử tưởng tượng một cảnh thiên nhiên rất đẹp. Thày cho con đeo vào một cặp kính màu. Con đã nhìn thấy quang cảnh trong khi không đeo kính và con nhìn thấy quang cảnh khi đeo kính, do đó con thấy được là cảm nhận cá biệt của con đã pha màu điều con thấy. Sau đó, thày cho con đeo một cặp kính khác, là cặp kính của người bạn đời của con, và lúc đó con thấy quang cảnh hiện lên ra sao cho người bạn đời của con. Con thấy là cặp kính của con đã loại bỏ một số khía cạnh của quang cảnh khiến con không thấy chúng. Cặp kính đó cũng nhấn mạnh một số khía cạnh khác, khiến chúng trở nên quan trọng hơn với con. Chúng ta có thể thấy kết quả qua một đồ hình: điều gì đã bị nhận thức của con loại đi, và điều gì đã được nhấn mạnh?

Sau đó, thày chỉ cho con thấy đồ hình của tình huống dưới mắt người bạn đời của con mà không có pha màu. Sau đó thày chỉ cho con đồ hình của cách con nhận thức: điều gì bị loại bỏ và điều gì được nhấn mạnh. Sau đó thày chỉ cho con thấy đồ hình của cách người bạn đời của con nhận thức: điều gì bị loại bỏ và điều gì được nhấn mạnh. Con có thể thấy là có một số trường hợp điều mà phin lọc nhận thức của con nhấn mạnh (tức là thấy quan trọng) lại bị phin lọc nhận thức của người bạn đời của con loại bỏ.

Làm sao mà hai con có thể hiểu nhau khi người bạn đời của con không thể thấy một điều mà con cho là rất quan trọng? Như con đã trải nghiêm nhiều lần, hai con nói mà như người kia không nghe. Tình trạng này giống như hai người đang không dùng cùng một ngôn ngữ. Các con có thể đang nói tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng La tinh, nhưng các con đang không dùng một ngôn ngữ giúp các con thông cảm. Bây giờ thì con thấy lý do vì sao, và khi con bắt đầu thể nhập ý nghĩa của điều đang xảy ra thì con bắt đầu thấy, một cách ý thức, cách cải thiện sự giao tiếp với người bạn đời của mình.

Để bắt đầu con cần vượt qua niềm tin lệch lạc là người bạn đời của con có thể nhìn đời giống như con. Sau đó con cần vượt qua niềm tin lệch lạc là mọi chuyện sẽ tốt hơn nếu người bạn đời của con nhìn đời giống như con. Sau đó con tiến tới tôn trọng sự việc người bạn đời của con không nhìn đời giống con là điều thuận lý, vì người đó lúc nào cũng sẽ nhìn đời xuyên qua phin lọc nhận thức của họ – và tầm nhìn này lúc nào cũng có tính cá biệt. Thay vì bắt đầu một trò chơi quyền lực nhằm ép người bạn đời của mình nhìn đời giống mình, thì con có thể tránh dùng áp lực. Chuyện gì hay xảy ra trong nhiều cuộc đối thoại giữa hai người bạn đời? Một trong hai người trở nên bực bội và muốn người kia nhìn đời giống mình. Sau đó, người đó tìm cách đổ lỗi hay khiến người kia cảm thấy tội lỗi, hay dùng một tình cảm nào khác dựa trên sợ hãi, để khiến người kia chấp nhận cảm quan của mình.

Phương pháp này có bao giờ thành công? Nó có bao giờ đưa tới một cuộc đối thoại xây dựng giữa hai người chăng? Câu trả lời dĩ nhiên là không, vậy tại sao con lại cứ muốn tiếp tục khuôn nếp này? Cách duy nhất để vượt ra khỏi khuôn nếp là tôn trọng sự việc người bạn đời của mình không nhìn đời giống mình là điều thuận lý. Điều thuận lý là người bạn đời của con nhìn đời theo cách của họ. Điều con có thể làm là nói cho người bạn đời cách con nhìn đời, cách con cảm nhận tình hình. Con cũng có thể tìm cách giúp người bạn đời của con thấy rõ họ thấy hay cảm nhận hoàn cảnh như thế nào.

12.10. Giúp hai người bạn đời giao tiếp rõ ràng

Con người thường không rõ họ đang thấy hay cảm nhận một hoàn cảnh như thế nào. Con có thể giúp người bạn đời của con thấy rõ, nhưng con không được tìm cách ép uổng người đó nhìn đời giống như con. Con cần phải lựa chọn muốn người bạn đời của mình nhìn đời giống mình, hay giúp người đó thấy rõ cảm nhận cá biệt của mình là gì.

Nếu con chọn giúp người bạn đời thấy rõ cảm nhận cá biệt của mình, thì đây là nền móng để tạo nên một mối giao tiếp xây dựng giữa hai người. Nếu cả hai người bạn đời đều chọn cách này, thì các con có được một mối giao tiếp xây dựng giúp con giải quyết sự căng thẳng và xung đột vì không ai muốn ép uổng người kia phải nhìn đời “giống mình”. Con có thể chấp nhận những khác biệt của nhau như một điều tích cực, một chất xúc tác giúp tăng triển.

Rất có thể là khi các con giúp nhau giao tiếp rõ ràng và tôn trọng ý mỗi người phát biểu, thì các con sẽ nhận ra hai người giản dị rất khác nhau. Lúc đó các con cần phải lựa chọn. Các con có thể xây dựng một quan hệ đựa trên sự tôn trọng khác biệt chăng? Các con có thể vượt qua ước muốn không thể đạt được muốn tìm một người bạn đời hoàn toàn giống mình và luôn luôn nhìn đời giống mình? Các con có thể chấp nhận một người bạn đời khác mình, và thấy điều này như một nguồn tăng triển và dùng nó một cách xây dựng? Cũng có thể là các con sẽ thành thực nhận ra là sự khác biệt giữa hai người quá lớn, và do đó hoặc các con không thể chung sống trong một quan hệ xây dựng, hoặc các con không thể hỗ trợ nhau thực hiện Sứ vụ Thiêng liêng của mình vì quá khác nhau.

Có thể là sau khi đã trao đổi với nhau rõ ràng, điều chính đáng là hai người chia tay và đi con đường riêng của mình. Lúc đó, các con có thể làm việc này một cách an bình và hài hòa hơn là nếu mối quan hệ tan vỡ vì giao tiếp lệch lạc.

Thày tìm cách giúp học viên đến khóa nhập thất của thày thấy rõ cách họ giao tiếp, cách họ cảm nhận sự thật và khả năng giao tiếp một cách cởi mở. Sau khi thày đã làm việc với người học viên một thời gian, thì thày tìm cách giúp người học viên thấy vấn đề thực, sâu thẳm trong sự giao tiếp giữa con người. Các học viên có khi khó hiểu được điều này.

Trước khi thày khai triển điều này, thì thày muốn nói như sau: Nếu cả hai vợ chồng có thể tới khóa nhập thất của thày cùng một lúc, và cả hai có cùng trình độ tâm thức, thì thày có thể làm việc đồng thời với cả hai người và giúp họ (khi họ ở trong trạng thái tâm ý thức) giải quyết nhiều chuyện trong quan hệ giữa họ. Nhưng thực tế là rất ít khi người vợ và người chồng cùng lúc ở cùng một trình độ tâm thức.

Khi con tới tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày, thì thường khi người bạn đời của con ở tầng tâm thức thấp hơn con, nhưng cũng có trường hợp hiếm hoi là vị ấy ở tầng tâm thức cao hơn. Điều này khiến người phối ngẫu của con khó chấp nhận điều mà con đã chấp nhận về việc giao tiếp, và do đó con cần phải kiên nhẫn và chịu đựng khi làm việc với người phối ngẫu của mình. Nếu con mang được xuống tâm ý thức những điều con học được ở khóa nhập thất của thày, thì con cũng không thể đòi hỏi người phối ngẫu của con, đang có trình độ tâm thức nhiều bước dưới con, phải cải thiện cách cư xử. Một lần nữa. con cần kiên nhẫn.

12.11. Vấn đề sâu thẳm trong sự giao tiếp giữa con người

Vấn đề sâu thẳm trong sự giao tiếp giữa con người là gì? Điều gì thường ngăn chặn sự giao tiếp giữa con người? Con có một tiêu chuẩn vỏ ngoài khiến con nghĩ rằng quan hệ hài hòa dựa trên sự giống nhau. Ở trình độ tâm thức hiện tại của con, còn ở xa dưới tầng 144, con vẫn còn nhiều thành phần của tự ngã, và tự ngã luôn luôn cảm thấy bị đe dọa bởi khác biệt.

Mục đích của con gồm hai khía cạnh. Khía cạnh “mục đích” là quan hệ hài hòa, và khía cạnh “làm sao” là cách để đạt mục đích. Con nghĩ con chỉ thực hiện được mục đích bằng cách biến người bạn đời giống mình, tìm một người bạn đời giống mình hay khiến người bạn đời nhìn đời giống mình. Con nghĩ rằng nếu cả hai người nhìn đời giống nhau, thì con sẽ có một quan hệ hài hòa. Nhưng trên thực tế, con sẽ có một quan hệ chết trong đó không có tăng triển.

Vấn đề trong quan hệ giữa con người là con tìm cách thiết lập một trạng thái thường trực có tính chất thiên đàng trong thế giới vật chất. Thực tế sâu thẳm, mà các thày tìm cách giúp con nhận ra trong khóa học này, là thế giới vật chất luôn luôn ở trong trạng thái chuyển tiếp – và điều này rất tốt!

Con hãy đón nhận sự chuyển tiếp! Con hãy đón nhận thay đổi. Con hãy trôi theo Dòng Sông sự Sống. Con đừng tìm cách ngưng bất kỳ điều gì trên trái đất ở một trạng thái nào đó. Con đừng tìm hạnh phúc nơi điều kiện vỏ ngoài của thế gian. Con hãy tìm hạnh phúc bên trong, bằng cách tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống.

Nếu con lúc nào cũng tìm cách giao tiếp dựa trên ý niệm tìm cầu hài hòa, thì rất có thể con sẽ tìm cách dùng áp lực để khiến người bạn đời của con nhìn đời giống con. Hoặc con rơi vào khuôn nếp khác cũng rất phổ thông trong sự giao tiếp giữa con người, là con không nói một điều nào đó vì con không muốn làm người bạn đời bực bội.

Vấn đề thực trong sự giao tiếp giữa con người, là hầu như con không bao giờ nói một cách tự do với người khác. Tình trạng này phổ quát trên trái đất đến độ học viên không thấy hay không tin là có thể giao tiếp một cách tự do với một người khác. Đây là kết quả của kinh nghiệm sống của con. Con gặp một người, con nói một chuyện mà con nghĩ hoàn toàn vô sự, và đột nhiên người kia cảm thấy bị va chạm và trở nên rất bực bội. Con ngồi đó và không hiểu tại sao người đó lại phản ứng như vậy.

Khi con đã trải nghiệm điều này nhiều lần với cha mẹ, anh chị em, thày giáo, vợ chồng hay con cái, thì con tạo một khuôn nếp khiến con không tin mình có thể tự do phát biểu. Con lúc nào cũng tìm cách lượng định xem người kia sẽ phản ứng ra sao trước khi con nói điều gì. Như vậy làm sao con có thể tự do giao tiếp?

12.12. Cố gắng đạt được tự do giao tiếp

Thày muốn cho con một mục đích khác. Khi con có một quan hệ tình yêu, con đừng đặt mục đích tạo một quan hệ hài hòa. Con hãy đặt mục đích cố gắng tạo điều kiện để cả hai có thể phát biểu tự do.

Con hãy tìm cách giúp nhau tới điểm cả hai người không phản ứng với nhau qua tự ngã. Con hãy đặt mục đích cho người kia tự do phát biểu mà không sợ phản ứng tiêu cực của con. Con hãy cho mỗi người quyền tự do ngôn luận.

Con hãy suy ngẫm về quyền tự do ngôn luận được coi là được hiến chương các nước dân chủ bảo đảm. Trong bất cứ xã hội nào, ngôn luận có thực sự tự do chăng khi con nói điều gì và bị một phản ứng tiêu cực khiến mình rất khó chịu? Con có thực sự được hoàn toàn tự do nói điều mình muốn nói? Thày không nói rằng có thể có một xã hội trong đó con người có quyền tự do nói bất cứ điều gì mình muốn mà không bị phản ứng từ một số người nào đó.

Thày cũng không nói rằng, trong một quan hệ giữa hai người, con có thể nói bất cứ điều gì con muốn mà không bị người kia phản ứng. Con có thể đặt mục đích cho mỗi người quyền tự do nói bất cứ gì họ muốn, và sau đó, cho người kia quyền tự do nói lại bất cứ gì người đó muốn dựa trên phản ứng của họ.

Nếu con cố gắng thì có thể tới điểm con không phản ứng dựa trên sợ hãi, dù người kia nói điều gì khiến con phản ứng. Điều con có thể làm là nói: “Vợ hay chồng tôi nói điều này. Tôi cảm thấy phản ứng này nơi tôi, nhưng thay vì biểu lộ phản ứng này bằng cách tỏ ra bực bội, tôi sẽ đứng lùi lại và mô tả phản ứng của tôi cho vợ hay chồng tôi.” Có điểm khác biệt giữa cảm thấy giận và phát biểu sự giận dữ đó bằng lời nói, và cảm thấy giận và bước ra ngoài cảm giác giận và nói với người vợ hay chồng: “Hãy để tôi mô tả tôi cảm thấy gì khi anh/em nói điều này.”

Khi con làm như vậy, thì con khiến cuộc giao tiếp đỡ căng thẳng. Một người phối ngẫu có thể nói bất cứ điều gì họ muốn và người kia không cần phải đè nén phản ứng, vì đây không phải là một khuôn nếp lành mạnh. Thay vào đó, con có thể mô tả phản ứng của mình, và con có tự do làm điều này. Điều này giúp người phối ngẫu nhận ra rằng, khi họ phát biểu cách nào đó thì họ tạo phản ứng nơi con. Lúc đó, con có thể nhìn phản ứng của mình và xem có cách nào để vượt qua nó.

Trong nhiều trường hợp, con sẽ thấy là người phối ngẫu của con hoàn toàn không biết là con đã phản ứng như vậy và tại sao con lại phản ứng như vậy. Người phối ngẫu của con không có ý định làm con giận dữ (hay có cảm xúc nào khác). Sau đó, các con có thể bắt đầu thảo luận chuyện gì đã xảy ra. Con có thể bắt đầu hỏi vì sao người phối ngẫu của con lại cần nói điều khiến con giận dữ. Khuôn nếp nào đã khiến cho người phối ngẫu của con nói chuyện đó? Người phối ngẫu của con phản ứng ra sao khi con giận dữ, khi con biểu lộ sự giận dữ? Con có thể dần dần xây dựng sự thông cảm khiến con không phản ứng lại nhau dựa trên nỗi sợ bị đe dọa hay bị hất hủi.

12.13. Kết quả của giao tiếp lệch lạc

Khi con giao tiếp lệch lạc và muốn người phối ngẫu của con nhìn đời giống mình, thì kết quả là gì? Thày đã nói là ước muốn khiến người phối ngẫu của mình nhìn đời giống mình là điều hoàn toàn không thể làm được, do đó điều đó sẽ không xảy ra. Con cảm thấy gì khi người phối ngẫu của con không nhìn đời giống con? Con cảm thấy bị hất hủi!

Khi con xây dựng phương thức giao tiếp tự do mà thày đã trình bày, con sẽ tới điểm cả hai người bạn đời không cảm thấy bị hất hủi khi không được hiểu. Con cũng có thể tới điểm bắt đầu thấy việc người bạn đời không nhìn đời giống mình là một điều lợi ích. Điều đó giúp con có một tầm nhìn rộng rãi hơn, và giúp con mở rộng ý niệm bản ngã của con và khả năng phản ứng một cách xây dựng.

Khi thày và học viên quan sát các mối quan hệ trên trái đất ở khóa nhập thất của thày, ta có thể thấy một cách dễ dàng vì sao sự giao tiếp giữa con người hay bị ngăn chặn. Có rất nhiều trường hợp hai người bạn đời ngồi đó và cảm thấy có sự căng thẳng giữa họ, và một hoặc cả hai ngậm miệng và không dám phát biểu những gì họ cảm thấy. Điều này chỉ khiến tình thế trở nên căng thẳng hơn. Nó tích lũy năng lượng sợ hãi vì khi con đè nén cảm xúc của mình thì con tạo ra năng lượng sợ hãi.

Tại sao con lại đè nén cảm xúc của mình? Con sợ phản ứng sẽ hướng tới con khi con phát biểu cảm xúc của mình, do đó chính sự sợ hãi đã đè nén cảm xúc của con. Con sợ sự phản ứng đến độ sự sợ hãi của con mạnh hơn cảm xúc của con do đó con đè nén cảm xúc. Điều này chỉ có tác dụng gia tăng sự căng thẳng. Nó tạo ra niềm uất hận đối với người bạn đời, vì con nghĩ rằng chính vì lỗi người đó mà con không phát biểu được cảm xúc của mình. Phải chăng đó là lỗi người bạn đời của con, hay đó chỉ là sự vận hành lệch lạc của các quan hệ trên trái đất, đã được tạo ra trong hoàn cảnh dễ đưa tới thất bại? Con có thể bắt đầu bước ra ngoài tiến trình này chăng, nhận biết nó một cách ý thức, và làm việc với nhau cho tới khi con cho phép mỗi người nói điều gì họ cần nói, và cho phép người kia nói điều người đó cần nói để trả lời? Thay vì phản ứng dựa trên sợ hãi chỉ có tác dụng tạo ra một vòng xoắn hướng hạ càng ngày càng ngăn trở sự giao tiếp giữa hai người, thì con có thể dần dần xây dựng một vòng xoắn hướng thượng mở rộng dòng chảy giao tiếp giữa hai người.

12.14. Quan hệ hài hòa và giao tiếp tự do

Con yêu dấu, có thể con mơ ước có một quan hệ hài hòa, nhưng nó không thể thành tựu bằng cách trấn áp sự giao tiếp. Quan hệ hài hòa không thể có được khi cả hai người bạn đời, hay ngay cả chỉ một người, không dám phát biểu tự do. Nếu con tới điểm cả hai người có thể phát biểu tự do, thì con có thể có một quan hệ hài hòa, nhưng con sẽ có một quan hệ giúp tăng triển. Khi con trao người kia quyền tự do, thì con cũng tự cho mình quyền tự do, và do đó căng thẳng tan biến. Phải chăng chính căng thẳng đã tạo ra bất hài hòa?

Con không xây dựng hài hòa bằng cách tạo sự giống nhau. Con xây dựng hài hòa bằng cách xây dựng giao tiếp tự do cho phép khác biệt được phát biểu tự do mà không tạo căng thẳng. Đó là điều các thày tìm cách dạy con ở tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày.

Người phối ngẫu của con có thể không ở cùng trình độ tâm thức với con, nhưng vị đó vẫn có thể chấp nhận một số ý mà thày vừa trình bày. Con có thể dùng các ý này trong tâm ý thức của con để cải thiện sự giao tiếp trong tất cả các mối quan hệ của con. Con có thể sẽ gặp trường hợp người kia không chịu thay đổi, nhưng đó sẽ chỉ là một cơ hội để con mở rộng khả năng giao tiếp tự do của mình. Và con sẽ rốt cuộc tuôn chảy về một tình huống khác.

Con có thấy chăng điều thày muốn dạy con ở đây? Con đừng tìm cách ép uổng khi ở trong một mối quan hệ. Con hãy làm việc để cải thiện chính mình, con hãy tiếp tục làm như vậy, bất kỳ người kia phản ứng ra sao. Lúc đó, con sẽ càng ngày càng buộc chặt mình vào Dòng Sông sự Sống cho tới ngày con có thể buông bỏ các mối dây ràng buộc con vào một cảnh huống và tuôn chảy đi, bất kỳ sự tuôn chảy này diễn đạt ra sao trên cõi vật lý.

Sứ vụ Thiêng liêng của con quan trọng hơn bất cứ quan hệ nào. Nếu cả hai người đều theo con đường tâm linh, thì họ phải có khả năng chấp nhận điều này cho cả hai người. Con không thể chờ đợi người bạn đời của con tạm ngưng hay hủy bỏ một phần quan trọng của Sứ vụ Thiêng liêng của người đó để duy trì một quan hệ mà con coi là đúng hay hài hòa. Nếu cả hai con đều thấy rõ Sứ vụ Thiêng liêng của mình, con sẽ thấy là cả hai người sẽ thực thi được Sứ vụ Thiêng liêng của mình trong lúc cả hai có quan hệ với nhau. Hoặc con thấy cả hai không thể thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của mình và vẫn có quan hệ với nhau, lúc đó các con sẽ chia tay trong sự hài hòa, hiểu biết và chấp nhận.

Khi con mở rộng tầm nhìn của mình và nhận ra tầm nhìn của mình không phải là chân lý tối hậu, con sẽ càng ngày càng tự do tuôn chảy và để người khác tuôn chảy. Đây là căn bản để bắt đầu phụng sự sự sống, thay vì nghĩ rằng sự sống phải phục vụ mình – hay đúng hơn là phục vụ tự ngã, và cảm nhận nhị nguyên, vị kỷ của nó. Dĩ nhiên, đây là đề tài của các khai ngộ ở tầng kế tiếp, tầng của tia thứ sáu.

Bây giờ thì thày chúc con chiêm nghiệm niềm vui của sự giao tiếp hoàn toàn tự do với một người khác. Đây có thể là một trải nghiệm rất mãn nguyện. TA LÀ Paul người Venice.

Tình thương và Tinh khiết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 6/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice, Thượng sư của Tia thứ Ba. Vì sao, ở tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày, việc con trải nghiệm tình thương vô điều kiện lại tối quan trọng? Vì sao việc con nhận biết có ý thức tình thương vô điều kiện và biết rằng mình được thương yêu vô điều kiện lại tối quan trọng? Các trải nghiệm này quan trọng vì chúng sửa soạn con đối mặt các khai ngộ ở tầng thứ tư là nơi năng lượng của tình thương phối hợp với Tia thứ Tư là tia của Tinh Khiết. Tinh khiết lúc nào cũng là một thách đố cho các đệ tử đang đi trên con đường tâm linh.

10.1. Những khai ngộ của Tia thứ Tư

Mục đích của ba tia đầu là chuẩn bị con đón nhận những khai ngộ về tinh thiết. Thách đố chính của tinh khiết là khi con gặp Tia thứ Tư, ánh sáng trắng xuyên suốt của nó phơi bày những bợn nhơ trong con người con. Rất có thể là khi con thấy những bợn nhơ mà trước kia con không thể hay không muốn thấy, con bị xáo trộn nhiều. Con bắt đầu cảm thấy là nếu con có nhiều bợn nhơ như vậy, làm sao con được cứu rỗi? Khi con đã trải nghiệm là tình thương của Thượng đế vô điều kiện, thì con biết là bất kể những điều bợn nhơ mà con khám phá trong con người mình, con không bao giờ mất tình thương vô điều kiện của Thượng đế.

Những bợn nhơ mà con khám phá chỉ có thể là điều kiện trong thế giới vật chất. Làm sao các điều kiện trong thế giới vật chất lại có thể khiến con không xứng đáng nhận tình thương vượt lên trên điều kiện và đến từ một cõi cao? Thày biết là con hiểu được điều này bằng trí năng, nhưng con sẽ không sẵn sàng đón nhận các khai ngộ của tầng thứ tư khi con chưa trải nghiệm tình thương vô điều kiện. Dĩ nhiên là thày sẽ không cho phép con đối diện các khai ngộ đó nếu con chưa sẵn sàng, vì con có thể rơi vào vòng xoáy hướng hạ của mặc cảm tự trách.

10.2. Nỗi đau đớn không thể tránh khi thấy bợn nhơ

Thày rất muốn giúp con đi con đường tu một cách suôn sẻ, nhưng thày phải nói là ở tầng thứ tư có một điều không thể tránh. Một trong những bợn nhơ mà con thấy trong con người mình chính là khuynh hướng lên án, phán xét và miệt thị mình. Con có khuynh hướng này nếu con đã sống và lớn lên trên trái đất. Không thể có cách nào khác vì hành tinh đã quá thấm đẫm tâm thức phán xét của sa nhân. Tất cả các con có khuynh hường này khi tới khóa nhập thất của thày. Không ai có thể tránh được.

Khi con khám phá là con có khuynh hường phán xét, một điều không thể tránh là con sẽ phán xét mình là đã có cái bợn nhơ đó. Con không hoàn toàn giải thoát khỏi tâm thức đó. Con yêu dấu, con có thấy chăng? Con có thấy cách chuyện này vận hành chăng? Làm cách nào để con tẩy sạch một bợn nhơ? Con phải bắt đầu bằng cách thấy có ý thức là mình có bợn nhơ đó. Lúc con thấy con có bợn nhơ thì con vẫn còn có nó; con chưa giải thoát khỏi nó. Khi con thấy con có một bợn nhơ, con sẽ có khuynh hướng phản ứng qua bợn nhơ phán xét chính mình. Ở tầng thứ tư của khóa nhập thất của thày, có một nỗi đau đớn không thể tránh được. Đúng ra, có một nỗi đau đớn không thể tránh được ở mỗi tầng trên con đường tu.

Chúng ta, những người đã từng đầu thai trên trái đất, chúng ta biết là chúng ta không thoải mái khi nhìn lại chính mình và thấy mình có bợn nhơ, thấy mình có một khuôn nếp tai hại cho chính mình. Con sẽ không bao giờ thoải mái khi con thấy điều này. Con sẽ bị chấn động, nhưng nếu con đã trải nghiệm tình thương vô điều kiện, thì con có thể bắt đầu tìm được cách để đối phó tích cực với sự chấn động này.

Chuyện gì xảy ra khi con trải nghiệm tình thương vô điều kiện? Phần nào của con, của tâm lý, con người của con trải nghiệm tình thương vô điều kiện? Con có nghĩ là tự ngã có thể trải nghiệm tình thương vô điều kiện chăng? Dĩ nhiên là không. Trí năng phân tích có thể trải nghiệm tình thương vô điều kiện chăng? Không đâu, vì nó sẽ muốn cho tình thương một số đặc tính để nó phân tích và phân loại. Tình thương vô điều kiện không có điều kiện vì nó vượt lên trên tất cả những gì có thể được quy định trên trái đất.

Chỉ có một phần trong con người con có thể trải nghiệm tình thương vô điều kiện, đó là cái Ta Biết. Con chỉ có thể trải nghiệm tình thương vô điều kiện khi cái Ta Biết bước ra ngoài cỗ xe gọi là tâm hồn, hay bốn thể phàm, tâm vỏ ngoài, tự ngã hay tên nào khác dùng để chỉ tổng hợp mà con dùng như một cỗ xe để biểu hiện trong thế giới vật chất. Khi con bước được ra ngoài nó, dù chỉ trong một khoảng khắc, đó là lúc con trải nghiệm sự vô điều kiện.

10.3. Cái Ta Biết không phản ứng

Một khi con đã trải nghiệm điều này một cách ý thức thì con có thể dùng kinh nghiệm đó để xem xét cách con phản ứng khi con phải đối đầu với điều gì đó mà con thấy trong tâm mình. Con có thể bắt đầu tự hỏi: “Cái gì đang phản ứng như vậy? Có phải là cái Ta Biết, là con người thực của mình, hay là một khía cạnh của tâm hồn là cỗ xe vỏ ngoài, hay là tự ngã, hay là một phàm linh nội tại, hay là một thói quen mà tôi đã tu bồi?” Đó là lúc con bắt đầu thấu hiểu lý do chính đã thúc đẩy các thày truyền giáo lý về cái Ta Biết. Sự thực trần trụi, thoạt tiên khó lĩnh hội, là cái Ta Biết không phản ứng lại bất cứ điều gì trên trái đất.

Chắc con có nghe câu chuyện Phật Thích ca ngồi tọa thiền dưới cội Bồ đề, và trước khi ngài nhập Niết bàn, thì ác ma Mara xuất hiện để cám dỗ ngài. Ác ma tìm đủ mọi cách để khiến ngài phản ứng, nhưng vì ngài đã hiểu thấu suốt là ngài là sự nhận biết thuần khiết và không là bợn nhơ nào của tâm phàm phu, nên ngài đã giữ tâm vững chãi và không phản ứng. Ngài không còn điều kiện nào trong tâm nên ác ma không có gì để khiến ngài phản ứng do có điều kiện.

Điều này thoạt tiên rất khó hiểu. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên không hiểu được chuyện này, và có khi họ còn dùng nó để chối bỏ ý niệm cái Ta Biết. Con dễ chối bỏ một điều gì nếu con không thích hệ quả của nó. Thày bảo đảm với con là tự ngã không muốn biết là cốt lõi con người không phản ứng lại bất cứ điều gì trên trái đất. Vì sao vậy? Tự ngã dùng cách gì để nắm bắt con? Băng cách khiến con phản ứng.

Con có thể nghĩ câu nói trên mâu thuẫn. Cái Ta biết không phản ứng lại bất cứ điều gì trên trái đất, nhưng tự ngã có thể nắm bắt con khi nó khiến con phản ứng. Làm sao lại có thể như vậy? Chuyện này có thể xảy ra vì cái Ta Biết không phản ứng khi nó biết nó là nhận biết thuần khiết, nhưng cái Ta Biết có thể nhập vào một phàm linh nội tại hay một phin lọc nhận thức. Lúc đó cái Ta Biết trải nghiệm thế giới xuyên qua phin lọc đó, và phin lọc phản ứng. Khi cái Ta Biết quên mình là nhận biết thuần khiết và tự đồng hóa với phin lọc, thì cái Ta Biết trải nghiệm là nó đang phản ứng.

Làm sao con trở nên giống Phật? Bằng cách bắt đầu nhận biết là, tuy có một tiến trình trong tâm con phản ứng lại thế giới bên ngoài, tiến trình này không phải là con. Con hơn thế. Khi con trong lọc cái Ta Biết khỏi tất cả ảo tưởng của màn huyễn Maya – ảo tưởng rằng con là cái này cái kia trên trái đất – thì lúc đó con nhận biết rằng con là nhận biết thuần khiết. Khi con biết con là nhận biết thuần khiết, con biết con không cần phản ứng lại bất cứ điều gì trên trái đất.

Thật ra con không phản ứng. Con trở nên một cánh cửa mở khi con trải nghiệm một điều kiện trên trái đất, nhưng con không phản ứng lại nó. Con để kinh nghiệm đó đi thẳng tới Hiện diện TA LÀ của con. Con cho phép Hiện diện trải nghiệm và xứ lý điều kiện đó, tạo ra một kinh nghiệm tích cực, nâng đỡ sự sống và bỏ nó vào căn thể của con. Con có thấy điểm khác biệt cơ bản chăng?

Khi cái Ta Biết quên nó là ai, nó tưởng nó là một sinh thể độc lập, tách biệt. Lúc đó, cái Ta Biết tưởng rằng nó phải phản ứng lại tất cả mọi chuyện trên trái đất, phải làm chuyện gì đó trên thế gian này, phải thành tựu điều gì, phải nhận lãnh trách nhiệm. Con tưởng con là người hành động, như Giê-su đã giảng mấy ngàn năm trước đây: “Tự ta không làm được điều gì cả.”

Khi cái Ta Biết tưởng nó là người hành động, nó tưởng nó là người phải xử lý mọi chuyện đang xảy ra trên trái đất. Con không cần phải xử lý bất cứ chuyện gì xảy ra trên trái đất. Con trải nghiệm nó, và con để kinh nghiệm đó lên tới Hiện diện TA LÀ và để Hiện diện TA LÀ xử lý kinh nghiệm. Và con chờ. Nếu cần có một phản ứng bên ngoài, thì con để nó tới từ Hiện diện thay vì quyết định với tâm vỏ ngoài phải đáp ứng làm sao.

10.4. Con không phải phản ứng ngay tức khắc

Một trong những cách chính mà sa nhân, tự ngã của con, và người khác dùng để giựt dây con là đẩy con vào tình thế khiến con cảm thấy: “Đây là một chuyện tôi phải phản ứng ngay bây giờ! Không có thì giờ bước ra ngoài tâm vỏ ngoài, để kinh nghiệm dâng lên Hiện diện TA LÀ, và đợi câu trả lời của Hiện diện một cách bình tĩnh và vô tư.” Những người đó muốn con nghĩ là con không có thì giờ. Con phải phản ứng ngay bây giờ. “Tôi muốn một câu trả lời ngay bây giờ. Quý vị phải phản ứng ngay bây giờ.”

Con có thấy chăng đây là cách quan hệ tình yêu vận hành? Nhiều người trong các con đã trải nghiệm có người bạn đời trở nên khó chịu và nóng nảy, và lúc đó điều gì khiến họ bực tức nhất? Họ bực tức nhất khi con làm ngơ, không phản ứng lại sự khó chịu của họ. Lúc đó họ trở nên khó chịu tột đỉnh. Vậy con làm gì khác đi? Con nhập vào tâm vỏ ngoài và phản ứng qua tâm vỏ ngoài.

Con yêu dấu, con hãy thành thật nhìn lại cuộc đời của mình và thấy có khi nào phản ứng lại một tình thế với tâm vỏ ngoài đã cải thiện tình hình chăng? Có phải chăng là những lúc đó, con chỉ tạo ra một phản ứng nơi người kia, dẫn tới một phản ứng khác nơi con? Không lâu sau, con đã tạo một vòng xoáy hướng hạ cuốn cả hai người và khiến cả hai đều không thể phản ứng với tình thương. Hai bên bị mắc kẹt trong phản ứng qua những vết thương tâm lý của mình, và cả hai bên không có khả năng kéo mình ra và ngưng tình trạng căng thẳng, tranh cãi hay khuôn nếp mà hai biên đang kẹt vào.

10.5. Con có quyền trì hoãn phản ứng

Con có quyền trì hoãn phản ứng lại một tình thế. Thày nhìn nhận có trường hợp con cần hành động nhanh chóng. Nhưng cũng có rất nhiều trường hợp con có thể nói: “Tôi rất tiếc nhưng tôi cần thì giờ để xử lý tình hình và tìm ra một đáp ứng dựa trên tình thương.” Người bạn đời của con có thể không thỏa mãn với câu trả lời này, nhưng con có quyền đứng ra ngoài và không phản ứng lại tình hình ngay lúc đó, đặc biệt nếu con cảm thấy một phản ứng cảm xúc đang dâng lên trong con, và con biết là con sẽ lặp lại một khuôn nếp cũ.

Nhiều quan hệ đã đổ vỡ khi cả hai người đi vào khuôn nếp phản ứng khi vòng xoáy khởi sự và không ai có thể ngưng được nữa. Một khi con bị cuốn vào vòng xoáy hướng hạ và cảm thấy mình phải phản ứng ngay lúc đó, thì không còn chỗ cho một phản ứng dựa trên tình thương. Lúc đó con – cả hai người – phản ứng qua bất cứ khuôn nếp hay phàm linh nội tại nào. Nếu muốn ngưng vòng xoáy, thì ít nhất một trong hai người phải bước ra ngoài vòng xoáy, nhìn tình thế từ bên ngoài và tìm một phản ứng khác.

Cũng có thể là giải pháp này không thành công. Người bạn đời của con có thể không thay đổi, nhưng con cũng đã gây dựng một động lượng giúp con tuôn chảy qua một tình thế khác. Con sẽ không bao giờ gặt hái kết quả xấu khi con dùng một phản ứng dựa trên tình thương. Con có thể không có được một phản ứng dựa trên tình thương từ người bạn đời của con. Trong ngắn hạn, con có thể có cảm tưởng là con càng biểu lộ tình thương thì người bạn đời của con càng khó chịu. Con cần hiểu lý do tại sao.

10.6. Phàm linh tăm tối được nuôi dưỡng bởi vòng xoáy tiêu cực

Có một thước đo mà con có thể áp dụng vào hầu hết mọi quan hệ. Khi cả hai bên đều bị mắc kẹt trong phản ứng dựa trên sợ hãi thì vòng xoáy không thể ngưng được. Nếu một trong hai người có thể bước ra ngoài vòng xoáy và tìm ra một phản ứng dựa trên tình thương, thì vòng xoáy bị thách thức. Nếu người kia phản ứng bằng cách trở nên khó chịu hơn nữa, thì con biết là người đó bị mắc kẹt trong một phàm linh nội tại đang không muốn người đó được tự do có một phản ứng dựa trên tình thương.

Nếu con có thể đáp ứng với người bạn đời của mình với tình thương và người đó khó chịu hơn với con, thì con biết có phàm linh nội tại, và cũng có thể có phàm linh bên ngoài và ác quỷ đang dùng người đó để lấy năng lượng của con. Các phàm linh tăm tối đó giản dị muốn vòng xoáy tiếp tục để cả hai người đổ năng lượng vào đó. [muốn có thêm chi tiết về đề tài này, xem quyển Vũ trụ quan về sự ác độc]

Một con người lúc nào cũng đáp ứng lại tình thương một cách tương đối tích cực. Phàm linh tăm tối thì dĩ nhiên không. Chúng sẽ làm chuyện mà chúng vẫn làm: tìm cách miệt thị tình thương. Khi người bạn đời của con phản ứng lại tình thương dựa trên sợ hãi, con biết người đó không phản ứng như một con người vì đang bị mắc kẹt trong một phàm linh. Trong đa số các quan hệ, cả hai người đều bị mắc kẹt trong phàm linh. Họ phản ứng qua phàm linh và đó là lý do vì sao vòng xoáy không thể bị cắt đứt. Khi một người có thể bước ra ngoài và người kia vẫn phản ứng một cách khó chịu, thì con biết người đó đang bị phàm linh tăm tối tạm thời làm chủ.

Lúc đó con có thể đọc lời kêu gọi để xin người bạn đời của con được giải thoát khỏi các phàm linh và tà lực đó. Nếu người bạn đời của con là người tâm linh, thì con có thể nói chuyện với người đó về chuyện đọc bài chú bài thỉnh khi người đó không khó chịu. Nhưng con không thể ép buộc người đó. Con cần cho người đó thời gian. Nhưng con có thể đọc bài chú bài thỉnh. Con có thể cố gắng luôn luôn phản ứng với tình thương – ngay cả khi người bạn đời của con khó chịu. Con có thể từ chối không bị ép phải theo các khuôn nếp cũ, và con đợi đến lúc con nhận được tín hiệu từ Hiện diện TA LÀ là đã đến lúc con đi tiếp cuộc đời mình. Lúc đó con đi tiếp cuộc đời mình và tha thứ.

10.7. Thăng vượt ký ức về bợn nhơ

Nếu con không đi tiếp cuộc đời mình và ở lại trong quan hệ, thì con và người bạn đời gặp thách đố kế tiếp. Ta hãy giả thử con nhận ra là có một khuôn nếp trong quan hệ giữa hai người. Cả hai người cố gắng thấy cái gì trong chính mình đã khiến mình phản ứng, và con thăng vượt khuôn nếp đó. Sau dó, con gặp thách đố kế tiếp về tinh khiết. Một khi con đã nhìn nhận là mình có bợn nhơ, đã nhìn vào bợn nhơ và thấy ảo tưởng đã tạo ra nó, thì con sẽ làm gì để vượt qua ký ức đã có bợn nhơ đó?

Trước hết, con phải thấy bợn nhơ. Sau đó, con phải sẵn sàng đi sâu vào nó và nhận ra ảo tưởng đã khiến con phản ứng với sợ hãi. Khi con đã thấy ảo tưởng và làm nó tan đi, con được giải thoát khỏi khuôn đúc. Lúc đó con có thể dùng các bài chú và bài thỉnh mà các thày đã cung cấp để tiêu trừ năng lượng mà con đã tha hóa. Một khi con đã tiêu trừ năng lượng, thì coi như con đã thoát khỏi bợn nhơ, nhưng con chưa thoát hoàn toàn vì con vẫn còn ký ức về nó.

Con hãy lấy thí dụ một quan hệ đã bắt đầu trở nên trưởng thành và có ý thức hơn. Con và người bạn đời đã có thể thảo luận về một số khuôn nếp trong quan hệ giữa hai người. Các con đã có thể giúp nhau thấy rõ hơn phản ứng của mình và nâng mình lên khỏi chúng. Lúc đó các con phải làm gì với ký ức các con có vấn đề đó trong quá khứ, và một người thì trước kia như thế này, và người kia thì trước kia như thế nọ?

Sự thách đố của tinh khiết, của Tia thứ Tư, không phải chỉ vỏn vẹn là thay đổi thái độ, cách cư xử, niềm tin và thanh lọc năng lượng. Nó còn bao gồm thanh lọc hoàn toàn tâm khỏi ký ức. Tha thứ quan trọng, nhưng tha thứ không trọn vẹn khi con chưa quên đi điều sai. Đây là thách đố lớn nhất của Tia thứ Tư: làm sao con xóa được ký ức?

Ở đây, thày không nói tới những quan hệ trong đó có những hình thức bạo hành hiển nhiên. Thày nói tới đa số quan hệ trong đó không có bạo hành vật lý, lạm dụng tình dục hay những hành động bạo hành tương tự. Các trường hợp này phức tạp hơn và đi quá khuôn khổ của bài giảng này. Thày muốn nói tới những quan hệ đã đi vào một khuôn nếp tiêu cực. Con phải làm gì khi con đã phá vỡ được khuôn nếp? Làm sao con quên được kỷ niệm cũ?

Tình thương vô điều kiện là yếu tố cơ yếu để làm điều này. Chuyện gì xảy ra khi con trải nghiệm tình thương vô điều kiện? Con nhận ra, hay ít nhất là con bắt đầu nhận ra, là nếu tình thương của Thượng đế vô điều kiện, thì bất cứ chuyện gì con đã làm trên trái đất, con có thể thoát khỏi nó. Đây là một điều nhiều người khó chấp nhận. Ngay cả các đệ tử chân sư thăng thiên cũng không chấp nhận hoàn toàn. Lý do là vì hành tinh này đã quá thấm đẫm với tính phán xét của sa nhân.

10.8. Bản chất của tâm thức phán xét

Bản chất của tâm thức phán xét là gì? Nó muốn con cảm thấy là, vì con đã làm một chuyện cực kỳ sai trái, con không thể được cứu rỗi, con không thể trở về với tinh khiết. Vì sao Giê-su lại nói là chỉ có người xuống từ thiên đàng mới có thể trở lên thiên đàng? Đó là vì “người” xuống từ thiên đàng là cái Ta Biết, và nó là nhận biết thuần khiết. Làm cách nào cái Ta Biết thăng thiên trở về với Hiện diện TA LÀ? Cách duy nhất là nó trở thành nhận biết thuần khiết trở lại, và không tự đồng hóa với bất cứ điều kiện nào trong cỗ xe tâm hồn.

Điều mà thế gian, ác quỷ trong thế gian, muốn con tin là vì cái Ta Biết đã nhập vào tâm vỏ ngoài và nhìn thế gian qua nó, nó không thể bước ra được nữa. Ý niệm này ảnh hưởng con ra sao? Nó khiến con chấp nhận ý niệm do sa nhân tạo ra, là nếu con muốn thăng thiên trở về thiên đàng, thì con cần kiện toàn cỗ xe tâm hồn. Con cần thanh lọc những gì tâm thức phán xét định nghĩa là bợn nhơ để rồi trong cỗ xe tâm hồn chỉ còn những gì được gọi là tinh khiết. Rất nhiều người đã bị lừa bởi ý niệm này – rất nhiều người.

10.9. Phán xét chính mình và người bạn đời

Tâm thức phán xét ảnh hưởng con ra sao? Nó khiến tâm con lúc nào cũng phán xét, lượng định và phân tích chính mình. Vì con người không chịu nổi điều này, đa số làm gì? Họ vào tâm thức mà Giê-su đã mô tả khi thày nói về cái đà trong mắt mình. Con không chịu được sự thường xuyên phán xét chính mình, nhưng con không ngưng được tâm thức phán xét, nên con hướng nó về phía người khác thay vì hướng về mình. Ai là người chính mà con hướng nó tới? Đó là người bạn đời của con trong quan hệ tình yêu. Cũng có thể có người khác bị phán xét, nhưng chắc chắn là người bạn đời của con chịu phần nặng nhất. Các con đều đã trải nghiệm là khi con đang yêu thì con không làm điều này.

Con có thấy chăng là khi con đang yêu, thì khuynh hướng phán xét được tạm thời bỏ qua bên? Có phải chăng là lúc đó con nghĩ con đã tìm ra người bạn đời lý tưởng sẽ khiến con toàn vẹn và cảm thấy mãn nguyện với chính mình? Khi trạng thái ảo tưởng này tồn tại, con không có nhu cầu phán xét người bạn đời. Khi tuần trăng mật kết thúc, như người ta thường nói, con trở lại các khuôn nếp cũ. Một ngày nào đó, con nhận ra là người bạn đời không đạt được hình ảnh lý tưởng mà con có về người ấy, người ấy sẽ không khiến con toàn vẹn, sẽ không khiến con cảm thấy mãn nguyện với chính mình. Lúc đó, con trở lại khuôn nếp hướng sự phán xét về phía người khác.

Rất nhiều người bị mắc kẹt trong khuôn nếp bất mãn với chính mình đến độ họ không chịu nổi. Họ đẩy lui cảm giác này đi để sinh tồn, phóng chiếu rằng nếu người khác có tật này tật nọ, thì mình không toàn hảo cũng không sao. Con hãy đứng lui lại và tự hỏi: “Cảm giác mình là người xấu, mình thiếu khả năng, không toàn vẹn từ đâu tới?”

Làm sao cái Ta Biết có thể không toàn vẹn hay xấu khi nó là nhận biết thuần khiết và không có điều kiện? Ý niệm mình xấu từ đâu tới? Nó tới từ tâm thức phán xét. Không phải là cỗ xe tâm hồn của con là người xấu hay người tội lỗi. Ý niệm con là người xấu hay người tội lỗi chỉ phát xuất từ tâm thức phán xét do sa nhân tạo ra. Con sẽ luôn luôn cảm thấy bất mãn với chính mình cho tới khi con nhận ra cái khiến mình bất mãn là một trạng thái tâm thức mà con đã nhận vào trong cỗ xe tâm hồn của mình. Con phán xét mình theo tâm thức đó, và con chỉ thấy được những điều khiến con bất mãn.

Con có thể làm điều mà rất nhiều người tìm tâm linh đã làm: tìm cách thanh lọc mình khỏi tất cả những gì bị giáo lý tâm linh coi là “xấu”. Con có thể ra sức đọc thật nhiều bài chú bài thỉnh – hay thanh lọc mình hay nhịn ăn hay làm điều này điều nọ – cho đến khi con cảm thấy là mình đã sống theo các điều kiện mà giáo lý cho là tinh khiết. Điều mà con sẽ khám phá sau khi làm xong công việc này là, tuy con có tiến bộ, nhưng con vẫn bất mãn với chính mình. Lý do là không phải các bợn nhơ đã khiến con bất mãn, mà là tâm thức phán xét dựa trên một tiêu chuẩn quy định thế nào là tinh khiết thế nào là bợn nhơ. Con sẽ chỉ ngưng không cảm thấy bất mãn với chính mình khi con tiếp cận sự tinh khiết vô điều kiện của Thượng đế. Một khi con trải nghiệm tình thương vô điều kiện, con có thể đi tiếp cuộc đời mình và nhận ra tinh khiết cũng có tính chất vô điều kiện.

10.10. Tia của gia tốc

Đó là lý do vì sao thày Serapis Bey đã gọi Tia thứ Tư là tia của gia tốc. Thày muốn tránh dùng từ tinh khiết, vì trong tâm trí đa số từ này đối ngược với bợn nhơ. Đa số coi tinh khiết như một đặc tính nhị nguyên. Thày Serapis Bey không coi tinh khiết là một đặc tính nhị nguyên, vì thày đã thăng vượt nhị nguyên khi thày trở nên một chân sư thăng thiên. Nhiều người coi tinh khiết là nhị nguyên, và con cần gia tốc vượt lên điều đó. Con có thể tìm ra cách áp dụng tình thương vô điều kiện và gia tốc quan hệ của mình ra khỏi ký ức tổn thương cũ và khuôn nếp cũ.

Thày nhìn nhận là rất ít quan hệ tình yêu tới được mức này khi đã đi vào một vòng xoáy hướng hạ – rất, rất ít. Lý do là có một sự bất quân bình quá lớn giữa hai phái tính trên trái đất. Có một đám mây thù nghịch và chống đối rất khó chọc thủng đã được tạo ra giữa người nam và người nữ.

Nếu con đã ở trong một quan hệ đã đi vào một khuôn nếp tiêu cực và con không thoát ra được, thì thày không muốn con cảm thấy buồn phiền. Thày muốn con tha thứ mình và nhận ra là hoàn cảnh trên trái đất này đã gây ra rất nhiều khó khăn cho con. Thày cũng giảng loạt bài này với hy vọng là những ai theo học khóa này sẽ có thể áp dụng lời thày giảng và gia tăng khả năng mang quan hệ tình yêu ra khỏi khuôn nếp và ký ức. Thày mong rằng những dụng cụ mà các thày cung cấp trong khóa học này sẽ giúp con thành công trong đời sống cá nhân và trong quan hệ lứa đôi. Đó luôn là mục đích của các thày.

Khi thày chỉ cho con thấy một bợn nhơ, con đừng dùng các bài giảng này để cảm thấy buồn bực với chính mình và bỏ cuộc. Con đừng cảm thấy mình sẽ không bao giờ được cứu rỗi vì con nhìn lại cuộc đời mình và thấy mình đã bị mắc kẹt trong khuôn nếp. Con nên dùng các bài giảng của thày để nhận ra rất khó duy trì một quan hệ thương yêu trên trái đất. Lúc đó, con có thể quyết định là nay con đã hiểu rõ, thì từ nay con sẽ hành xử đúng đắn hơn.

10.11. Trở nên tinh khiết sau khi thấy bợn nhơ

Làm cách nào con trở nên tinh khiết sau khi đã thấy mình có bợn nhơ? Con không thể làm được chuyện này! Thày có nói là các tà lực trong vũ trụ muốn con tin rằng một khi con đã có bợn nhơ thì con không bao giờ được cứu rỗi. Bây giờ thày sẽ nói một điều làm con chấn động: họ nói đúng đó.

Họ chỉ nói đúng theo nghĩa cái “ta” làm chuyện bợn nhơ không phải là cái Ta Biết. Đó là cái “ta” giả được tạo ra trong cỗ xe tâm hồn dưới hình thức một phàm linh nội tại. Cái “ta” đó không bao giờ thanh lọc được. Con sẽ không bao giờ cảm thấy tinh khiết khi con nhìn đời từ bên trong phàm linh đó. Làm sao con tự giải thoát khỏi phàm linh? Ở đây có thêm một điểm tế nhị khác.

Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên học giáo lý của các thày và nhận ra là họ có bợn nhơ trong các thể phàm của họ. Lẽ tự nhiên là họ muốn rũ sạch các bợn nhơ đó và họ nghĩ: “Tôi cần thanh lọc tâm và tâm hồn tôi khỏi bợn nhơ này.” Điều này có phần đúng. Trong bốn thể phàm của con, có một số năng lượng bị tha hóa bởi cái ta không trong sạch. Con cần thanh lọc các năng lượng này bằng cách thỉnh cầu ánh sáng, hướng nó về năng lượng bất toàn và nâng độ rung của năng lượng đó lên. Con không cần và không thể thanh lọc cái ta không tinh khiết. Khi con tìm cách thanh lọc cái ta không tinh khiết đó để khiến Thượng đế chấp nhận nó, thì con chỉ trói buộc mình vào cái ta không tinh khiết.

Điều con cần làm là thấy ảo tưởng đã tạo ra cái ta không tinh khiết. Một khi con thấy đó là một ảo tưởng, con sẽ tự nhiên thấy nó không có thật. Lúc đó, con có thể một cách ý thức bước ra ngoài nó bằng cách chú tâm vào sự kiện con là cái Ta Biết và con là nhận biết thuần khiết. Bất cứ điều gì con đã nhập vào chỉ là một phin lọc nhận thức. Nó khiến con thấy thế giới không tinh khiết hay thấy con không tinh khiết, nhưng con đã không trở nên không tinh khiết.

Khi con đeo một cặp kính mát và bước ra ngoài, mặt trời trông khác lạ. Sự việc con, trên trái đất, đeo một cặp kính mát có thay đổi mặt trời ở cách xa hàng triệu cây số chăng? Dĩ nhiên là không. Sự việc cái Ta Biết đeo vào một cặp kính là cái ta không tinh khiết có thay đổi Hiện diện TA LÀ chăng? Không đâu con. Sự việc con đeo vào một cặp kính có thay đổi con chăng, hay nó chỉ thay đổi cách con nhìn thế gian? Sự việc cái Ta Biết khoác vào một cái ta không tinh khiết có thay đổi cái Ta Biết chăng?

Mọi ác quỷ trên thế gian đều nói: “Có! Nó có thay đổi. Ngươi bị thay đổi khi ngươi khoác vào một cái ta không tinh khiết và đi vào thế gian. Ngươi hãy nhìn mình đã làm gì! Ngươi hãy nhìn hậu quả tai hại biết bao nhiêu! Dĩ nhiên là ngươi bị thay đổi! Ngươi không thể rũ áo bỏ đi như vậy. Chân sư đã nói dối ngươi! Chân sư nói ngươi chối bỏ những gì ngươi đã làm trong quá khứ!”

Thày không nói con chối bỏ những gì con đã làm trong quá khứ. Thày nói con nhìn vào những điều này một cách công khai và thành thật. Ác quỷ nói con là con không cần nhìn vào những gì con đã làm trong quá khứ vì con có một cách khác để thanh lọc mình và được cứu rỗi : “Giê-su sẽ trở lại và lấy đi cái ta không tinh khiết của ngươi. Ngươi không cần phải nhìn thấy nó.” Hay Krishna, hay đức Phật, hay ngọn lửa tím, hay cái gì khác sẽ làm chuyện này cho con.

Giê-su nói con hãy nhìn vào cái đà trong mắt mình. Khi con thấy nó, con cũng thấy là nó là một cái ta không thật chứ không phải cái Ta Biết. Đó là lúc, con, cái Ta Biết, có thể nói: “Bạn biết không, tôi đã làm xong công việc. Tôi đã thanh lọc năng lượng mà tôi đã tha hóa qua cái ta không tinh khiết. Tôi đã thấy cái ảo tưởng. Vì tôi đã làm xong công việc, tôi có thể bỏ đi. Tôi không cần thanh lọc cái ta không tinh khiết. Tôi không cần làm cho nó được Thượng đế chấp nhận trong mắt ngài , vì nó sẽ không bao giờ được chấp nhận. Ngươi, ác ma Mara, không có gì để nắm tôi. Tôi không cần phản ứng lại những gì ngươi làm. Tôi có thể giản dị để ngươi ở đó và bỏ đi, vì ông Hoàng của thế gian không thấy gì nơi tôi mà y có thể nắm, ít nhất là vào thời điểm này, vì tôi đã trở lại trạng thái tinh khiết khi tôi xuống đây. Tôi đã trở nên một đứa trẻ thơ, trở nên cái ta ngây thơ và tinh khiết đã xuống đây.”

Khi con tới giai đoạn này, một trong hai chuyện sẽ xảy ra trong quan hệ tình yêu của con: hoặc người bạn đời của con đáp ứng và chuyển hóa, và các con có thể bắt đầu gây dựng một vòng xoáy tích cực, hoặc người bạn đời của con từ chối không thay đổi, và lúc đó con trôi tiếp theo dòng cuộc đời của con. Khi con đã trở nên ngây thơ, con không thể tiếp tục quan hệ với một người miệt thị người ngây thơ. Điều này không thể xảy ra được. Sự ngây thơ là phần thưởng của chính nó vì nó là cánh cửa đưa tới niềm hân hoan vô tận.

10.12. Quét sạch bợn nhơ khỏi ký ức

Ở khóa nhập thất của thày, thày có thể chỉ cho con thấy bằng hình ảnh trên một màn ảnh những bợn nhơ trong con người con. Phần thấp của hào quang của con, trường năng lượng cá nhân của con, tạo hành cái mà các thày có gọi là vòng đai điện tử. Tất cả các năng lượng sợ hãi mà con tạo ra quy tụ tại đây. Đa số con người có khá nhiều xáo trộn trong vòng đai điện tử này. Nếu con thấy toàn bộ nó thì con có thể cảm thấy quá sức chịu đựng. Điều thày làm ở khóa nhập thất của thày là cho con thấy một phần nhỏ, sau đó chỉ con cách chú tâm vào một việc, thỉnh cầu ánh sáng để tẩy sạch năng lượng, sau đó trụ vào phàm linh nội tại, cái ta giả đó, và thấy ảo tưởng đằng sau nó. Sau đó thày chỉ cho con thấy cách nào buông bỏ chính cái ta đó và cảm giác con là cái ta đó và dính liền với nó mãi mãi.

Thày chỉ cho con thấy là sử liệu akasha có thể bị xóa, và do đó Thượng đế không còn nhớ tới bợn nhơ đó nữa. Nếu Thượng đế không nhớ nó, thì tại sao con lại nhớ nó? Câu hỏi kế tiếp là: “Nếu con đã tẩy rửa phản ứng của con đối với người bạn đời và những điều mà người đó đã làm trong quá khứ, tại sao con lại muốn nhớ những gì người đó làm?” Thày biết là tâm vỏ ngoài sẽ nói: “Chuyện gì xảy ra nếu người bạn đời của tôi chưa giải thoát mình khỏi khuôn nếp đó? Chuyện gì xảy ra nếu người đó vẫn còn những khuynh hướng cũ và vẫn tiếp tục hành xử như trước?”

Người bạn đời của con có thể đã không vượt lên trên khuôn nếp, nhưng một khi con đã tẩy rửa được nhu cầu phản ứng lại, thì bước cuối là buông bỏ ký ức về hành động của người đó, để mỗi ngày con gặp người đó với tâm hoàn toàn mới. Người bạn đời của con có thể sẽ tiếp tục bạo hành con, nhưng nếu con không phản ứng vì con đã thoát khỏi khuôn nếp phản ứng, thì nay con lại quên đi và mỗi ngày con gặp lại người ấy với tâm hoàn toàn mới. Khi con làm được điều này, thì con sẽ tới điểm mà con có thể giản dị tuôn chảy khỏi người bạn đời không chịu thay đổi.

10.13. Rời bỏ một quan hệ và tuôn chảy đi tiếp đời mình

Thày biết là nhiều người trong số các con cảm thấy khó rời bỏ một quan hệ tình yêu. Thày đã khuyên con không nên lấy quyết định bỏ đi bằng tâm vỏ ngoài. Đó là lý do thày đã giảng cách trong lọc chính mình và các phản ứng của mình đối với người bạn đời khi con tiếp tục có quan hệ với người đó. Con càng tinh khiết thì sẽ càng dễ tới điểm con không thực sự lấy quyết định bỏ đi. Con thấy đó như là bước hợp lý kế tiếp.

Nhiều người trong các con đã lấy quyết định chia tay, nhưng vì con chưa thanh lọc các khuôn nếp phản ứng, nên con cảm thấy rất khó lấy quyết định này. Con vật lộn với quyết định đó: “Quyết định này đúng hay sai? Tôi có thể làm gì hơn nữa chăng? Tôi có phải làm gì hơn nữa chăng?” Thông thường thì quyết định chia tay là quyết định đúng, nhưng có thể nó tới hơi sớm vì con chưa thanh lọc các khuôn nếp phản ứng của mình. Đó là lý do thày khuyên con nên cố gắng vượt qua các khuôn nếp phản ứng vì con sẽ tới điểm sẽ không còn vấn đề vật lộn với quyết định nữa. Con sẽ thấy tuôn chảy ra khỏi quan hệ là bước kế tiếp tự nhiên trong cuộc hành trình của con, và con sẽ làm được điều này với tâm bình an.

10.14. Tâm thức chết ảnh hưởng quan hệ ra sao

Có một khía cạnh của tâm thức phán xét mà sa nhân hướng về các mối quan hệ tình yêu đã đưa con người tới thất bại trong quan hệ tình yêu. Mục đích của sa nhân không nhất thiết là phá vỡ quan hệ tình yêu. Mục đích của sa nhân là chà đạp con bất kể chuyện gì xảy ra.

Họ không màng nếu con trọn đời ở lại trong một mối quan hệ hạn chế trong đó cả con và người bạn đời đều theo khuôn nếp giới hạn, hoặc con rời bỏ quan hệ và tạo khuôn nếp lên án mình hay nghi ngờ mình đã quyết định đúng hay không. Chỉ cần sa nhân chà đạp được con hay khiến cho con cảm thấy mình thấp kém, hay không tinh khiết, thì sa nhân mãn nguyện – thực ra thì họ không bao giờ mãn nguyện. Nhưng ít nhất họ cảm thấy họ có quyền lực và đã chứng minh lập luận Thượng đế đã sai lầm khi cho con quyền tự quyết.

Nhiều nền văn hóa đã từ rất lâu có tâm thức là quan hệ tình yêu phải kéo dài suốt đời: “Cho tới lúc cái chết chia cách chúng tôi.” Cái chết là gì? Đó là cái chết vật lý hay là tâm thức chết? Nhiều người đã chung sống trọn đời trên phương diện vật lý, nhưng cái chết đã chia cách họ từ lâu rồi vì cả hai đã theo một khuôn nếp khiến họ không tăng triển. Đó là tâm thức chết, và nó thực sự chia cách chúng con dù chúng con vẫn chung sống trên phương diện vật lý.

Mục đích thật của chân sư thăng thiên là sự tăng triển. Tới đây chắc con đã nhận ra là các thày, các chân sư thăng thiên, không coi trái đất là một hành tinh lý tưởng? Trái đất là một hành tinh rất thấp. Mục đích đầu thai xuống đây không phải là để trải nghiệm trạng thái thiên đàng trên hạ thế vì điều này không thể xảy ra với tâm thức tập thể hiện nay. Vậy một người tâm linh có mục đích gì khi đầu thai xuống đây? Đó là để nâng tâm thức mình lên, và qua đó nâng tâm thức tập thể lên. Con ở đây để đạt được mức tăng triển tối đa mà con có thể có trên trái đất, và sau đó rời khỏi nơi đây càng nhanh càng tốt bằng cách thăng thiên.

10.15. Mục đích tâm linh của các mối quan hệ

Mục đích của một mối quan hệ là gì? Đó là để có tăng triển tối đa, và sau đó tiếp tục con đường của mình. Điều này không có nghĩa là con cần bỏ đi theo nghĩa vật lý, nhưng có nghĩa là khi một người nam và nữ đến với nhau, họ có điều gì trong tâm lý mà họ cần giúp nhau giải quyết. Mục đích thật của một mối quan hệ là gì? Nó không phải để giúp nhau cảm thấy thoải mái. Nó không phải là để sống hạnh phúc cho tới khi đầu bạc răng long.

Vì sao các con thu hút nhau? Đó là vì người bạn đời có điều gì trong tâm lý khiến con phản ứng. Phản ứng của con cho thấy những vấn đề tâm lý chưa được giải quyết trong chính con. Người bạn đời của con là người thích hợp nhất để khui ra ánh sáng những gì trong con mà con không thể tự mình thấy. Khi hai người đến với nhau, mục đích cao của mối quan hệ là để mỗi người cho người kia thấy những gì họ không thể thấy. Khi họ đã mang ra ánh sáng yếu tố quan trọng nhất thu hút họ, thì mối quan hệ đã đạt được mục đích đầu. Kết quả cao nhất, dĩ nhiên, là mỗi người cũng giúp người kia vượt qua khuynh hướng đó.

Trong nhiều trường hợp, hai người bạn đời làm lộ ra cho nhau thấy những điều họ không muốn hay không thể thấy. Họ bị chấn động đến độ tuần tăng mật chấm dứt đột ngột, và có khi hôn nhân chấm dứt rất nhanh. Điều này không có nghĩa là mối quan hệ đã thất bại. Hai người vẫn có thể suy ngẫm về kinh nghiệm sau đó – nếu họ sẵn sàng làm điều này. Họ có thể học bài học và đi tiếp cuộc đời mình. Một mối quan hệ kéo dài dưới một năm cũng có thể đã thành công trong mục đích đầu.

Nếu hai người bạn đời có thể tăng triển sau cú chấn động đầu, thì họ có thể tiến tới thách đố tới. Sau đó, họ có thể tiến tới thách đố kế tiếp, và qua đó, hai người có thể xây dựng một mối quan hệ kéo dài trọn đời.

Trong thời đại hiện nay, nếu con là một người tâm linh quyết tâm đạt được mức tăng triển tâm linh cao nhất trong kiếp sống này, có thể đạt được thăng thiên trong kiếp này, thì chuyện con suốt đời có cùng một người bạn đời là điều khó xảy ra. Thường khi, tăng triển đối đa cần nhiều người bạn đời. Lý do là cường độ năng lượng trên trái đất quá cao. Để tăng triển tối đa, con cần trải qua nhiều tình huống để giải quyết những chuyện con cần giải quyết.

Các thày là chân sư thăng thiên không bao giờ coi một mối quan hệ đã thất bại. Các thày lúc nào cũng coi đó là một cơ hội. Con có thể nói: “Nhưng mối quan hệ kết thúc với một cuộc cãi vã lớn, và chúng con không học được bài học gì.” Thày sẽ nói: “Con chưa học được bài học. Nếu con sẵn sàng xin thày chỉ dẫn, thày sẽ giúp con học bài học. Lúc đó, người bạn đời của con có học được bài học hay không, là điều không quan trọng. Con có trách nhiệm về sự thăng thiên của chính mình, chứ không phải của người bạn đời của con.”

Bất cứ quan hệ nào chỉ đơn giản là một cơ hội. Có thể con đã không nắm lấy cơ hội, nhưng điều này không có nghĩa là con đã mất nó. Con chưa nắm lấy cơ hội, nhưng con có thể nắm lấy nó bất cứ lúc nào. Hai mươi năm sau khi một quan hệ chấm dứt, con vẫn có thể nắm lấy cơ hội.

10.16. Thày sẽ giúp con vượt qua mọi bợn nhơ

Làm sao thày có thể nói vậy? Bởi vì nếu con không nắm lấy cơ hội khi nó xuất hiện lần đầu, dĩ nhiên là con chưa giải quyết tâm lý của mình. Có nghĩa là con vẫn còn tâm lý chưa giải quyết trong con người mình. Con có thể trở ngược về hoàn cảnh lúc đó, nhớ lại và nói: “Ồ, tôi bây giờ thấy được điều mà lúc đó tôi không thấy. Hãy để tôi vượt qua chuyện này để nó không còn là một gánh nặng cho tôi nữa. Tôi không muốn phải mang gánh nặng này khi tôi đang trèo ngọn núi của cái ta. Tại sao tôi lại mang gánh nặng này lâu quá vậy? Tại sao tôi lại muốn mang nó thêm một giây đồng hồ nữa khi thày Paul người Venice đang đứng ngay cạnh tôi với nụ cười rạng rỡ và nói: ‘Con chỉ cần hỏi là thày sẽ giúp con ngay.’ Tôi sẽ nắm tay thày. Tôi sẽ vui vẻ nhận lãnh những gì thày cống hiến. Tôi sẽ nói: ‘Thưa thày Paul, xin thày giúp con trút gánh nặng này. Con chán nó lắm rồi!’”

Con yêu dấu, con thấy chăng, thày biết là con tinh khiết, thày biết là cái Ta Biết tinh khiết. Thày sẵn sàng giúp con vượt qua tất cả mọi bợn nhơ trong con người con. Tình thương có khả năng thanh lọc rất lớn.

Con sẽ không vượt qua tất cả mọi bợn nhơ khi con ở khóa nhập thất của thày, vì con đường tiếp tục với các khóa nhập thất của các Thượng sư khác. Khi con ở đây, thày sẽ cố gắng hết sức để giúp con vượt qua càng nhiều càng tốt để con sẵn sàng hơn khi con gặp các Thượng sư kia.

Thày không thấy bợn nhơ nào là thật, nhưng thày thấy con là thật. Thày chắc chắn biết TA LÀ thật. TA LÀ Thượng sư của Tia thứ Ba.

Tình thương và Tình thương

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice. Con bây giờ đã tới tầng thứ ba ở khóa nhập thất của thày, tầng của tình thương phối hợp với tình thương. Khi con có hai lần tình thương, thì con đối mặt với cái gì? Thứ nhất, con tới chỗ khai ngộ cần vượt qua trò chơi quyền lực tinh vi đằng sau mọi hình thức ganh đua. Con có thể tự hỏi, ganh đua dính dáng gì đến tình thương? Nó là một hình thức tình thương hủ hóa. Cốt lõi của tình thương là gì? Đó là ý muốn trở nên Hơn nữa, nhưng câu hỏi là: “Hơn cái gì?”

8.1. Bản chất của trở nên Hơn nữa

Từ nhiều năm nay, các thày đã giảng giáo lý về khái niệm trở nên hơn nữa, là hơn nữa. Các thày biết là khi tâm phân tích vỏ ngoài của con nghe câu này, nó chỉ có thể phản ứng một cách. Hơn nghĩa là hơn cái gì khác. Làm sao con biết con trở nên hơn nữa nếu con không so sánh với một trạng thái trước đó, khi con ít hơn?

Làm sao con đo được sự hơn nữa? Con có nghĩ chăng là có thể đo được Chân sư MORE bằng một tiêu chuẩn thế gian? Nhiều người trong các con nghĩ như vậy vì con chưa hòa điệu với Hiện diện của thày MORE, là một cái gì vượt lên trên so sánh. Hiện diện của thày cũng vậy, Hiện diện TA LÀ của con cũng vậy.

Có một sự khác biệt tế nhị nhưng cơ bản giữa trở nên hơn nữa bằng cách trôi theo Dòng Sông sự Sống và trở nên hơn nữa bằng cách so sánh với một điều nào đó trong vũ trụ vất chất, là một bầu cõi chưa thăng thiên. Khi con trở nên hơn nữa bằng cách trôi theo Dòng Sông sự Sống, con thăng vượt ý niệm bản ngã của mình. Con có so sánh mình với tiêu chuẩn nào chăng? Con so sánh mình với cái con là ngày hôm qua, một phút trước đây hay kiếp sống trước. Con nhìn lại và nói: “Tôi hơn cái gì tôi là trước đây.” Đây không phải là ganh đua. Đây là một hành động tự nhiên trong thế giới hình tướng: đo lường sự tiến triển của mình, đo lường mức tăng trưởng của ý niệm bản ngã của mình. Đây là một điều chính đáng, cần thiết, có ích. Nhưng khi con so sánh mình với người khác hay với một tiêu chuẩn thế gian, thì không có ích nữa. Đó là một sự hủ hóa của động lực trở nên hơn nữa, chính là cốt lõi của tình thương.

8.2. Sa nhân ganh đua với Thượng đế như thế nào

Sự hủ hóa này từ đâu tới? Hình thức ban sơ của nó đến từ lúc các sa nhân quyết định họ biết rõ hơn Thượng đế cách vận hành vũ trụ và cứu rỗi các dòng sống. Họ cũng quyết định, dù họ không hoàn toàn nhận ra điều này, là họ muốn ganh đua với Thượng đế. Con có thấy chăng, dựa trên những gì các thày đã giảng về sa nhân, là họ ganh đua với Thượng đế trong trò chơi quyền lực tối hậu? [đọc Vũ trụ quan về sự ác độc]

Ai làm chủ vũ trụ? Ai có quyền tối hậu quyết định ai được cứu rỗi và ai không được cứu rỗi? Tất nhiên là đấng Sáng tạo có quyền tối hậu. Các vị hợp nhất với đấng Sáng tạo và là thành viên của Hội đồng Nhân quả có quyền quyết định ai được cứu rỗi và ai không được cứu rỗi. Các vị đại diện đấng Sáng tạo này lấy quyết định dựa trên dòng sống đã thăng vượt chính nó như thế nào. Con có thăng vượt chính con tới điểm thăng vượt mọi sắc thái vị kỷ và bắt đầu phụng sự nâng tất cả lên? Nếu vậy thì con đã sẵn sàng thăng thiên lên cõi tâm linh và trở thành một chân sư thăng thiên. Nếu con chưa thăng vượt mọi sắc thái vị kỷ thì con chưa sẵn sàng. Đây không phải là một sự trừng phạt. Đây không phải là một bản án. Nếu con chưa sẵn sàng thì con không thể thăng thiên, giống như khinh khí cầu không thể bay lên không trung khi nó chưa đủ động lượng để khắc phục trọng lực kéo xuống của trái đất.

Sa nhân đã làm một điều hoàn toàn khác. Họ đã tạo ra một tiêu chuẩn và nói: “Con không xứng đáng được cứu rỗi nếu con không sống theo tiêu chuẩn này.” Họ đã tạo ra một đối cực giả, trong đó có tiêu chuẩn ở một bên và đối ngược với tiêu chuẩn ở bên kia. Lúc đó họ có thể so sánh người này với người kia dựa trên tiêu chuẩn và nói: “Người này đúng, người kia sai. Người này tốt, người kia xấu. Người này xứng đáng được Thượng đế cứu rỗi, người kia xứng đáng bị vĩnh viễn đày vào đia ngục.” Đây là khái niệm đằng sau sự ganh đua trên trái đất. Có nhiều người trên trái đất bị hoàn tòan vướng mắc vào sự ganh đua phù phiếm để đạt được vinh quang nào đó trên trái đất.

8.3. Ý chí cải thiện chính mình

Con cần phân biện một điều. Rất có thể xảy ra là toàn thể các dòng sống trên một hành tinh đi vào một trạng thái tâm thức khiến họ không cố gắng cải thiện chính mình. Con chắc có nghe nói về các hành tinh đã tự hủy diệt vì chiến tranh giữa cư dân. Nhưng cũng có hành tinh đã tự hủy diệt vì các cư dân đã đi vào một trạng thái tâm thức quá đồng nhất đến độ không một ai cố gắng thăng vượt ý niệm bản ngã của họ. Họ công nhận giá trị lẫn nhau trong một tình trạng kém xoàng. Ở một thời điểm trong quá khứ, trái đất đã có nguy cơ rơi vào một vòng xoáy hướng hạ như vậy. Đó là lý do vì sao nhiều loại dòng sống được phép đầu thai vào đây, trong đó có các sa nhân.

Nếu con muốn nâng tâm thức từ một tầng thấp lên một tầng cao, con cần ý chí, ý chí trở nên hơn cái mà con là trước đó. Khi con ở dưới tầng tâm thức 48, ý chí này cần một động lực. Con có thể có động lực gì khi con ở dưới tầng 48? Con có thể có lòng ham muốn vinh quang nào đó trên trái đất, ham muốn hơn người khác, thắng một giải thưởng, trở nên danh tiếng, trở nên một anh hùng, được người khác trọng vọng.

Khi con nhìn vào, tỷ dụ sinh hoạt thể thao, thì thày không nói tất cả hình thức ganh đua đều hoàn toàn sai một cách tuyệt đối. Có những thể tháo gia, qua nỗ lực tranh đua, đã trau dồi ý muốn thăng vượt chính mình và qua đó chuẩn bị để khám phá con đường tâm linh. Thày không nói là trên thiên đàng có tinh thần ganh đua, hoặc ganh đua nảy sinh từ Thượng đế, hoặc các thày chân sư thăng thiên chấp nhận và khuyến khích tinh thần ganh đua. Thày chỉ muốn nói là trên một hành tinh có trình độ tâm thức của trái đất, ganh đua là một dụng cụ cần thiết giúp con người có động lực cải thiện chính mình.

Ganh đua có thể giúp con người bước lên tầng 48 nơi họ khám phá cái gì cao hơn. Thày không nói là tất cả các thể tháo gia, hay tất cả những ai tham gia vào hình thức ganh đua nào đó, đều ở dưới tầng 48, nhưng thày xác nhận là đa số những người này ở dưới tầng 48. Chỉ có một số ít đã bước lên trên tầng 48 và tham gia tranh đua vì lý do khác, nhưng đa số chắc chắn ở dưới tầng 48 và động lực thúc đẩy họ tranh đua là để so sánh mình với người khác. Họ luôn luôn so sánh mình với người khác hay với một tiêu chuẩn, tỷ dụ như phá kỷ lục thế giới, thắng nhiều trận quần vợt nhất, kiếm được nhiều tiền nhất trong bộ môn của mình, hay bất cứ điều gì khác thúc đẩy con người.

8.4. Ganh đua trong quan hệ cá nhân

Vấn đề mà tinh thần ganh đua tạo ra có thể thấy rõ nhất trong quan hệ cá nhân. Kết quả cao nhất của bất cứ quan hệ cá nhân nào là gì, tỷ dụ như quan hệ đôi lứa, hay với cha mẹ, anh chị em, hay con cái? Kết quả cao nhất của bất cứ quan hệ giữa con người là gì? Đó là cả hai bên tới điểm họ làm việc để nâng người kia lên, đồng thời họ cũng đi trên con đường tu tâm linh để thăng vượt chính mình. Đó là kết quả cao nhất. Làm sao con bước lên được mức đó khi con ganh đua với anh chị em, hay ngay cả với cha mẹ, với người vợ người chồng, đồng nghiệp trong sở, hay bạn bè? Nếu con lúc nào cũng muốn hơn người, muốn có địa vị tương xứng với người khác hay hơn họ, thì làm sao con có thể rời bỏ tinh thần ganh đua để bước vào Tánh linh Sáng tạo?

Thày có giảng về quan hệ đôi lứa trong các bài trước, và bây giờ mình xem xét nó trở lại. Nếu con trở lại vai trò nam nữ cũ xưa, con thấy không có nhiều ganh đua giữa người đàn ông và người vợ. Người đàn bà đã được giáo dục để chấp nhận chỗ đứng của mình và thấy rằng không có ích gì để tranh đua với người đàn ông.

Tình thế đó có đưa tới một số quan hệ hữu ích. Những quan hệ đó không hữu ích theo ý nghĩa cao nhất, nhưng chúng hữu ích vì người đàn bà chấp nhận là người chồng có một sự nghiệp và một địa vị trong xã hội, và bà sẽ làm mọi chuyện để giúp chồng hoàn thành sứ mệnh đó. Ngược lại, người chồng tri ân sự hỗ trợ của người vợ, và làm mọi chuyện để giúp bà tìm những sở thích của mình và tiến triển. Có nhiều quan hệ hữu ích theo cách đó vì không có ganh đua giữa vợ chồng. Như thày có nói, dĩ nhiên quan hệ kiểu này dựa trên một sự đè nén bất quân bình đối với người phụ nữ là một điều không lành mạnh một cách tối hậu hay lâu dài. Thày không chấp nhận kiểu quan hệ này. Thày chỉ nêu lên như một thí dụ của kết quả khi không có ganh đua giữ vợ chồng.

Tình hình trong thời đại tân thời ra sao? Con có một tiến trình đã đem lại một số tiến bộ trong việc giải phóng phụ nữ và cho họ bình quyền. Mình có thể bàn cãi là tiến trình này có đem lại tự do và bình quyền trọn vẹn cho phụ nữ hay không, và thày là người đầu tiên cho rằng không, nhưng đây không phải là điều thày muốn nêu ra ở đây. Điều thày muốn nói là phong trào giải phóng phụ nữ và việc phụ nữ đi làm và có sự nghiệp đã tạo nên một sự ganh đua giữa vợ chồng đã khiền nhiều quan hệ đôi lứa đổ vỡ.

Trong nhiều nền văn hóa, con có tình trạng con trai được giáo dục với tinh thần ganh đua, khi chơi thể thao, kiếm tiền hay trong nhiều sinh hoạt khác. Đồng thời, con gái được giáo dục để có học vấn, công việc làm, sự nghiệp. Người con trai không nhận ra rằng y cưới một người vợ không giống mẹ y, là người chấp nhận chỗ đứng của mình. Y chờ đợi là người vợ sẽ làm mọi chuyện mẹ y đã làm trong nhà trong khi vẫn đi làm. Dĩ nhiên là điều này chỉ đưa tới xung đột.

Đồng thời, nhiều phụ nữ cảm thấy bị áp lực hai đằng. Họ cảm thấy họ phải ra ngoài xã hội, có sự nghiệp và làm những gì cần thiết để thành công trong sở làm, nhưng đồng thời cũng phải là người vợ, người mẹ, người nội trợ gương mẫu trong gia đình. Ai có thể làm được chuyện này? Chuyện này không thể làm được, chắc chắn là đàn ông không thể làm được.

Nhiều phụ nữ đã cố gắng, cố gắng rất nhiều để làm chuyện này và khám phá ra là họ không thể. Nhiều người đã mất tự tin. Nhiều người đã bị thất vọng hay chấn thương vì tiến trình này. Nhiều hôn nhân đã đổ vỡ do sự thất vọng của cả hai bên. Điều mà con thấy trong mấy chục năm vừa qua trong các nước kỹ nghệ tân tiến các vai trò truyền thống của hai phái nam nữ đã sụp đổ và con người đã gặp nhiều khó khăn để tìm ra một cách giao tiếp mới với nhau trong quan hệ hôn nhân.

8.5. Vượt qua tinh thần ganh đua

Khi con tới tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày, thày và các phụ tá sẽ giúp con nhìn lại chính mình và nhận ra con có vẫn còn bị tinh thần ganh đua ảnh hưởng hay không. Chúng tôi sẽ đặc biệt giúp con thấy liệu con có tinh thần ganh đua với người phối ngẫu, hay khuynh hướng ganh đua nếu con không có người phối ngẫu. Vượt qua tình thần ganh đua này là một điều cơ yếu, không những để con tiến triển tâm linh, nhưng cũng để con có một quan hệ lứa đôi hữu ích.

Chìa khóa để vượt qua tinh thần ganh đua này là gì? Nó nằm ở điểm chiêm nghiệm rằng chỉ có một sự “ganh đua” thật, đó là thăng vượt ý niệm bản ngã của mình. Con có thể so sánh với chính mình khi xưa và xem là mình có tiến bộ chăng, nhưng tiến bộ là gì? Tiến bộ không phải là có thêm kỹ năng, khả năng hay địa vị trong xã hội. Tiến bộ chắc chắn không ở con số trong chương mục ngân hàng của con. Điều quan trọng là con có phải là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ, và cánh cửa mở rộng bao nhiêu. Khi con nhận ra điều này, con thấy là so sánh mình với người khác, và đặc biệt với người phối ngẫu, là điều hoàn toàn vô nghĩa. Xem ai kiếm được nhiều tiền hơn có quan trọng chăng? Xem ai có địa vị cao hơn hay được nhiều trọng vọng hơn có quan trọng chăng? Những điều này không quan trọng nếu con nhận ra một chân lý sâu xa.

8.6. Một hủ hóa tình thương nguy hiểm

Sa nhân đã tìm cách hủ hóa tình thương bằng nhiều cách, nhưng có lẽ hình thức hủ hóa nguy hiểm nhất là quan niệm cho rằng phải sống theo một tiêu chuẩn thế gian mới xứng đáng được nhận tình thương của Thượng đế. Họ muốn con tin rằng có một Thượng đế trên thiên đàng và ngài là một Thượng đế thương yêu. Thượng đế thương yêu con, nhưng nếu con muốn nhận tình thương của Thượng đế, con phải xứng đáng. Và để xứng đáng, con phải sống theo một tiêu chuẩn do sa nhân quy định.

Con yêu dấu, điều này có hợp lý chăng? Sa nhân không có tình thương. Họ không thể tạo ta tình thương. Con không thể tạo ra tình thương; con chỉ có thể nhận nó từ bên trên. Con có thể dùng câu này như câu chú:

Con không thể tạo ta tình thương;
Con chỉ có thể nhận nó từ bên trên

Có lý gì chăng khi những người không có tình thương, đã quay lưng từ chối tình thương của Thượng đế, lại có thể quy định một tiêu chuẩn có khả năng khiến Thượng đế, một cách máy móc, sẽ cho con tình thương nếu con sống theo tiêu chuẩn đó? Thật hoàn toàn không có lý.

Thày có thể biện minh suốt ngày đêm để giúp trí phân tích của con lý luận và hiểu ra tình thương của Thượng đế là gì, nhưng thầy đã nói gì trong bài trước về trí phân tích? Nó không thể hiểu được cái vô tận vì nó luôn luôn so sánh. Nó so sánh mọi chuyện với những gì nó biết hay với một tiêu chuẩn, sau đó nó phân tích bằng cách chia ra từng phần nhỏ. Trên trái đất, con có thể lấy một hình thể và cắt nó ra từng phần nhỏ, và con có thể đi tới cái có vẻ là thành phần tối hậu, ít nhất là trong quang phổ tần số vật chất.

Nhưng tình thương không có tính chất vật lý! Nó không phải là một vật; nó không thể bị cắt ra thành phần nhỏ. Nó không có thành phần. Con có thể nói: “Nhưng tình thương cũng có sắc thái biểu hiện? Có phải chăng tình thương là cái này, là cái khác vân vân? Thày sẽ trả lời: “Tình thương không có thành phần. Tình thương không có biểu hiện.”

Chỉ khi tình thương bị bóp méo bởi tâm vỏ ngoài thì nó mới có đặc tính. Cái mà đa số gọi là tình thương hoàn toàn không phải là tình thương, và đó là vì họ đã pha màu tình thương. Tình thương mà con người biểu lộ hơn rất nhiều sự ác độc hay sợ hãi mà họ biểu lộ. Đúng thực là có những cảm xúc nhân gian có rung động cao hơn một số cảm xúc nhân gian khác. Một số điều con người gọi là tình thương có độ rung cao hơn sự giận dữ hay thù hận. Tuy nhiên, tình thương này là một cảm xúc nhân gian, so sánh, tương đối và không phải là tình thương thuần khiết – không phải là Tình thương Thiêng liêng.

Cái trí vỏ ngoài, phân tích sẽ không bao giờ hiểu được tình thương, bản chất thực của Tình thương Thiêng liêng. Cái trí vỏ ngoài muốn tình thương là một cái gì nó có thể xử lý bằng cách mô tả đặc tính, phân tích các thành phần, và so sánh với tiêu chuẩn của sự thực. Thày có thể tìm cách đưa ra lý lẽ vì sao tình thương, Tình thương Thiêng liêng, lại như nó là, nhưng trí vỏ ngoài của con sẽ có thể phản bác và đưa ra lý lẽ vì sao tình thương không thể như vậy được.

Tình thương Thiêng liêng như thế nào? Sự thực mà trí vỏ ngoài không thể hiểu, tự ngã không thể chấp nhận, là Tình thương Thiêng liêng hoàn toàn và tuyệt đối vượt lên trên mọi điều kiện. Ta có thể gọi nó là tình thương vô điều kiện vì nó là cách ngắn nhất để mô tả Tình thương Thiêng liêng. Nó vượt lên trên mọi điều kiện mà tâm thức tương đối và tách biệt có thể quy định. Đó là lý do tại sao không thể so sánh nó với bất cứ điều gì trên trái đất. Nó không thể bị đóng khung trong một tiêu chuẩn. Nó không thể bị đóng khung trong một định nghĩa.

8.7. Trải nghiệm tính chất vô điều kiện của Tình thương Thiêng liêng

Thày có thể cho con lý lẽ về điều này, nhưng thày sẽ không làm vậy vì khi con theo học khóa giảng này, con cũng tới khóa nhập thất của thày ban đêm. Ở khóa nhập thất của thày, thày có nhiều phương pháp giúp con trải nghiệm tình thương vô điều kiện, và khi con đã trải nghiệm thì không cần biện minh đúng sai. Câu hỏi là: “Kinh nghiệm tình thương vô điều kiện mà con có ở khóa nhập thất trên cõi ê-the là nơi có sự thuần khiết cao, con có thể nào chuyển nó xuống tâm ý thức của con chăng?” Tâm ý thức của con thường trụ ở cõi vật chất, là nơi có rung động thấp hơn cõi ê-the. Kinh nghiệm tình thương vô điều kiện trong tâm ý thức khó hơn rất nhiều.

Nhiều người trong các con đã trải nghiệm, ít nhất là chợt thoáng, tình thương vô điều kiện hay trạng thái tâm thức thuần khiết hay vô điều kiện. Nhiều người trong các con đã có trải nghiệm thần bí, và con chỉ cần nhận ra là các trải nghiệm này cho con thấy điều gì đó về tình thương. Con phải mở tâm và trái tim mình ra, bỏ qua bên những hình tư tưởng về tình thương cho đến khi con có trải nghiệm có ý thức về tình thương vô điều kiện.

Thày biết rõ là có người sẽ biện minh chống lại ý niệm Tình thương Thiêng liêng là tình thương vô điều kiện. Cũng có đệ tử chân sư thăng thiên, hay ít nhất là cựu đệ tử chân sư thăng thiên, sẽ biện minh chống lại ý niệm này. Khi con biện minh chống lại thì con sẽ đóng tâm vỏ ngoài không trải nghiệm được tình thương vô điều kiện một cách ý thức. Nếu con lựa chọn không trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng, thì thày tôn trọng lựa chọn của con, nhưng thày sẽ chất vấn tại sao con lại đặt mình thành một chuyên gia về tình thương? Làm sao con có thể là một chuyên viên về tình thương nếu con không chịu trải nghiệm sắc thái cao nhất của tình thương? Con yêu dấu, điều này có hợp lý chăng?

8.8. Tình thương Thiêng liêng không có điều kiện, không thể kiểm soát

Những người mong muốn tự tôn mình như chuyên gia hay khuôn mặt uy tín trên trái đất thường bị kẹt nhất trong tâm thức sa ngã. Họ muốn kiểm soát mọi thứ, và sa nhân chắc chắn là muốn kiểm soát tình thương. Họ muốn loại bỏ Tình thương Thiêng liêng. Họ muốn ngăn chặn tất cả những người tâm linh nhìn nhận, chấp nhận hay trải nghiệm tình thương vô điều kiện. Họ cực lực mong muốn con tin rằng tình thương có điều kiện và có thể được quy định bởi tiêu chuẩn của họ.

Các con yêu dấu, tình thương vượt lên trên ngôn từ, hình tướng, hình ảnh. Nó không thể quy định được. Nó không thể sở hữu được. Nó không thể kiểm soát được. Hoặc con là cánh cửa mở cho tình thương tuôn chảy qua con, hoặc con tự cắt đứt mình ra khỏi nó. Thày có nói gì về sự sở hữu? Con muốn cái đồng hồ dừng lại. Con muốn mọi chuyện đứng yên để con có thể sở hữu cái con nghĩ con cần sở hữu. Tình thương Thiêng liêng là gì? Tại sao nó là vô điều kiện? Vô điều kiện có nghĩa gì? Nó có nghĩa không bao giờ đứng yên. Nó luôn luôn tuôn chảy và thăng vượt chính nó. Đó là lý do vì sao nó không thể bị giam trong bất cứ hình tướng nào.

Tình thương là cái luôn luôn kéo con lên để con trở nên hơn nữa, thăng vượt chính mình, và càng ngày càng gần hơn sự hợp nhất với Hiên diện TA LÀ và sự thăng thiên. Nếu con nghĩ con có thể ngưng dòng chảy của tình thương, tạo ra một hình tư tưởng, phóng chiếu nó lên tình thương và nói: “Đây là tình thương”, thì con quả thực không biết tình thương là gì. Tình thương không thể bị giam. Không ai có thể sở hữu nó. Tự ngã sẽ không bao giờ chấp nhận điều này. Sa nhân sẽ không bao giờ chấp nhận điều này, trừ phi họ đạt được giác ngộ, là điều sa nhân có thể làm, nhưng tự ngã thì không.

Con không cần phải băn khoăn về điều này khi con đi trên con đường tự điều ngự. Điều con cần quan tâm là chân thành nhìn vào tâm mình, vào cách mình được dạy dỗ, vào cách mình đã bị điều kiện hóa để có một hình tư tưởng về tình thương. Con cần chất vấn những tiêu chuẩn để giải thoát tâm mình khỏi những hình ảnh này về tình thương. Bằng cách này, con mở tâm ý thức của mình để trải nghiệm điều mà tâm ê-the của con đã trải nghiệm.

8.9. Trải nghiệm có ý thức tình thương vô điều kiện

Trong cả hai trường hợp, chính cái Ta Biết là cái ta đã trải nghiệm. Nếu con, cái Ta Biết, muốn trải nghiệm tình thương vô điều kiện một cách ý thức, và giữ sự nhận biết ý thức của kinh nghiệm này, thì con cần phải tách mình ra khỏi cái tâm tách biệt. Con cần phải xa lánh các hình ảnh giả, các hình ảnh sa ngã, về tình thương. Thày không có ý định biện minh với cái ta vỏ ngoài và thuyết phục nó là tình thương thực sự vô điều kiện. Ý định của thày là giúp con có được, trong tâm ý thức của mình, một sự nhận biết có ý thức những gì con đã trải nghiệm ở khóa nhập thất của thày trên cõi ê-the.

Thày có thể làm gì ở khóa nhập thất để giúp con trải nghiệm tình thương vô điều kiện? Thày sử dụng cái máy mà thày đã đề cập tới, có khả năng phóng lên màn ảnh những gì có trong trường năng lượng của con ở các tầng tiềm thức. Thày có thể chỉ cho con thấy con đã hủ hóa tình thương như thế nào và dùng nó để xây tường giam tâm ý thức của con. Thày có thể chỉ cho con thấy điều này buộc con như thế nào với sa nhân, với tâm thức tập thể, với trung giới (astral plane).

Khi con thấy hình ảnh này, ban đầu con sẽ rất chấn động. Con sẽ bị chấn động khi con thấy bao nhiêu năng lượng từ Hiện diện TA LÀ bị chuyển về tình thương hủ hóa này. Con sẽ bị chấn động khi con thấy bao nhiêu năng lượng bị hút bởi các quỷ dữ và tà linh trong trung giới. Con sẽ bị chấn động khi con thấy các bồn chứa năng lượng bị hủ hóa. Con sẽ bị chấn động khi con thấy những sinh thể sấu xa và bất hòa sống trong các bồn chứa đó, đang giơ vuốt và móc bám vào trường năng lượng của con qua các hủ hóa tình thương đó. [đọc Vũ trụ quan về ác quỷ]

Khi con thấy các hình ảnh này ở cõi ê-the, thì con có động lực để nhìn vào tiềm thức của mình và khám phá những niềm tin đã khiến con hủ hóa tình thương. Con sẵn sàng nhìn vào các hình tư tưởng về tình thương đến từ tâm thức sa ngã mà con đã chấp nhận. Thày không chê trách con là đã chấp nhận chúng. Ai có thể lớn lên trên một hành tinh như trái đất, sống ở đây nhiều kiếp, mà không chấp nhận những hủ hóa tình thương đã thấm đẫm hành tinh này?

Thày không có ý định miệt thị con, và trên cõi ê-the con biết rõ điều này vì con trải nghiệm nó trực tiếp. Khi con đọc bài này với tâm ý thức, tâm vỏ ngoài của con không trải nghiệm Hiện diện của thày như khi thày đứng bên cạnh con trong thân xác. Khi con ở khóa nhập thất của thày trên cõi ê-the, con trải nghiệm Sinh thể của thày, Hiện diện của thày. Con biết, con trải nghiệm, là thày không chê trách con. Điều mà con cảm thấy từ thày chính là tình thương vô điều kiện chỉ muốn nâng con lên.

Khi thày chỉ cho con thấy con bị buộc vào các lực phản tình thương này, con không cảm thấy là thày đang chỉ trích hay miệt thị con. Con chỉ cảm thấy thày muốn con được tự do, nhưng con chỉ được tự do khi con thấy. Con phải thấy làm sao con bị buộc vào các lực phản tình thương. Con phải thấy vì sao con bị buộc vào chúng bởi các niềm tin sai lầm và hình tư tưởng về tình thương. Khi con cho là tình thương có điều kiện thì con buộc mình vào các sinh thể có điều kiện đã từ rất lâu xa rời Tánh linh.

8.10. Tự ngã sẽ chối bỏ tình thương vô điều kiện

Thày có nói về một quan hệ lứa đôi trong đó con chờ đợi người yêu sẽ cho con tình thương mà con cần. Thày có nói là con có trách nhiệm lấy tình thương đó từ bên trong mình, từ Hiện diện TA LÀ của mình. Con sẽ không thể nào lấy được tình thương đó, chấp nhận được tình thương đó, nếu con chưa bắt đầu quán chiếu và chấp nhận một cách ý thức là tình thương không có điều kiện.

Nếu con thấy Thượng đế có điều kiện, thì con sẽ chối bỏ tình thương vô điều kiện. Con sẽ không nhận ra nó là tình thương vì nó không đáp ứng các điều kiện của con, định nghĩa của con, về tình thương, và do đó con nghĩ nó là cái gì khác. Cũng có thể con cảm thấy bị nó đe dọa. Chắc chắn là tự ngã của con cảm thấy bị nó đe dọa. Nếu con đồng hóa mình với tự ngã, con sẽ chối bỏ tình thương.

Tại khóa nhập thất của thày trên cõi ê-the, có học viên khi cảm nhận tình thương của thày thì chối bỏ nó. Có lúc họ co rúm lại vì ghê rợn, và lúc đó thì thày chỉ cho họ thấy trên màn ảnh tác dụng của nó, nguyên do từ đâu và niềm tin đằng sau là gì. Thày có thể chỉ cho họ thấy chuyện gì xảy ra trong trường năng lượng của họ khi một tia tình thương vô điều kiện chảy vào nó. Thày có thể chỉ cho thấy là tự ngã co rúm vì nó cảm thấy ghê rợn tuyệt đối, thù ghét tuyệt đối chống lại tình thương này và làm đủ mọi cách để đẩy lui nó. Tự ngã tìm đủ mọi cách để thuyết phục con chối bỏ tình thương vô điều kiện. Khi học viên thấy rõ hình ảnh chuyện gì đang xảy ra, thì đa số thoát ra khỏi thái độ này ngay tức khắc trên cõi ê-the. Điều thày muốn đạt được qua quyển sách này, là nói với tâm ý thức của con, và giúp con chấp nhận chuyện đó một cách ý thức.

Khi con có một quan hệ lứa đôi thương yêu, thì đúng lý con phải nhận tình thương từ người bạn đời, nhưng con làm sao có được tình thương này khi con có quá nhiều điều kiện định nghĩa tình thương? Tại khóa nhập thất của thày, thày có thể chỉ cho con thấy là trong đa số quan hệ trên trái đất, một hay cả hai người phối ngẫu chối bỏ tình thương đến từ người kia. Đàn ông không đến từ Hỏa tinh và đàn bà không đến từ Kim tinh, nhưng vì tình trạng bất quân bình quá đáng giữa hai phái tính đã chi phối trái đất từ mấy ngàn năm nay, người con trai và con gái đã được giáo dục với quan niệm trái ngược về tình thương và cảm xúc, cách biểu lộ cảm xúc và cách đáp ứng lại cảm xúc. Trong rất nhiều quan hệ lứa đôi, người phụ nữ có nhiều tự do biểu lộ tình thương và biểu lộ một cách vô điều kiện hơn là người đàn ông, nhưng trong nhiều trường hợp người đàn ông không chấp nhận được tình thương này. Y đã được giáo dục để có một hình ảnh khác là tình thương phải biểu lộ như thế nào, và y không chịu nổi khi bà vợ biểu lộ tình thương một cách tự do hay biểu lộ một hình thức tình thương cao hơn.

Mặt khác, đa số phụ nữ có vấn đề lớn khi họ biểu lộ tình thương và cảm thấy nó không được đón nhận. Họ cảm thấy bị chối bỏ, không có giá trị, bị bỏ quên. Sau khi cảm thấy bị người chồng chối bỏ, người vợ bắt đầu cảm thấy người chồng không bày tỏ đủ tình thương với bà. Dĩ nhiên là người vợ được giáo dục để nghĩ là người chồng phải biểu lộ tình thương giống như bà, nhưng làm sao y làm vậy được khi y đã được giáo dục với một quan niệm hoàn toàn khác về tình thương? Do đó hầu như không thể tránh là cả hai sẽ thất vọng. Con thường thấy mô thức qua đó người vợ cảm thấy không được thương yêu đủ và bắt đầu lên án người chồng: “Anh không thương tôi nữa. Anh không thương tôi đủ. Anh không bao giờ biểu lộ tình thương. Anh không bao giờ nói anh thương tôi.”

Khi chuyện này xảy ra, thường người đàn ông phản ứng bằng cách cảm thấy mình không có khả năng ứng xử. Có thể y cũng nhận thấy là y không biểu lộ tình thương một cách tự do. Y cảm thấy người vợ thiếu cái gì mà y không cho được. Vì y không biết phải cho làm sao nên ý cảm thấy y thiếu khả năng và muốn người vợ ngừng đổ lỗi cho y. Y theo mô thức hoặc cố hết sức biểu lộ tình thương, và hy vọng như vậy sẽ đầy đủ, hoặc ý chối bỏ vấn đề và bắt đầu càng ngày càng rút lui khỏi người vợ, muốn vợ ngưng không nhiều cảm xúc như vậy.

Chỉ có một giải đáp cho tình trạng này, đó là cả hai vợ chồng đều qua tiến trình vượt qua những hủ hóa tình thương mà họ đã chấp nhận khi họ lớn lên. Họ phải bắt đầu chấp nhận tình thương vô điều kiện từ Hiện diện TA LÀ của họ. Khi con mở tâm đón nhận tình thương của Hiện diện TA LÀ, con cũng sẽ bắt đầu biết cách biểu lộ nó, nếu con muốn thử làm và tiếp tục thử làm.

8.11. Tình thương vô điều kiện không đứng yên

Thày có nói là tình thương không đứng yên, vậy làm sao con trải nghiệm tình thương khi con hiện thân trên trái đất? Một số người trong các con có thể trải nghiệm là con có thể đi vào trạng thái thiền định sâu hoặc trạng thái nhập một với tổng thể, và cảm thấy tình thương vô điều kiện từ Hiện diện TA LÀ của mình, từ một chân sư thăng thiên, hay từ Thượng đế. Con cũng trải nghiệm là con không thể duy trì tình thương này khi ở trong tâm thức và sinh hoạt bình thường, hằng ngày và thức tỉnh.

Tại sao vậy? Đó là vì, khi con trải nghiệm tình thương, đó là một món quà để con mở tâm ra và để tình thương tuôn chảy xuyên qua con. Con có thể có một trải nghiệm đích thực, thần bí về tình thương vô điều kiện, nhưng đó chỉ là để con có một ý niệm đo lường cùng với tâm cao là tình thương là gì. Sau đó, con cần tiến bước kế tiếp, giống như câu truyện ẩn dụ mà Giê-su đã nói về các gia nhân được cho tiền. Có hai gia nhân đã tăng trưởng số tiền được cho, còn một người thì đem chôn xuống dưới đất. Con không nên chôn tình thương xuống dưới đất, nhưng hãy dám biểu lộ nó.

Con không thể liên tục nhận tình thương nếu con không biểu lộ nó, nếu con không để nó tuôn chảy qua con. Cách duy nhất để liên tục trải nghiệm tình thương là để nó tuôn chảy xuyên qua các luân xa, tâm, con người, lời nói, hành động của con. Tình thương muốn được biểu lộ. Nó muốn tuôn chảy. Con không thể trải nghiệm tình thương vô điều kiện như một trạng thái đứng yên. Con có thể trải nghiệm nó thoáng qua, nhưng con không ưthể trải nghiệm nó liên tục. Con chỉ có thể trải nghiệm tình thương một cách liên tục như một dòng suối, một dòng chảy. Làm sao có dòng chảy trừ phi có một lỗ thoát để nó chảy qua, trừ phi có một chỗ để nó chảy tới?

8.12. Một mô thức bất hài hòa trong các quan hệ

Mục đích biểu lộ tình thương cho người vợ hoặc chồng không phải là để có được một phản ứng nào đó từ người này. Đây là một mô thức bất hài hòa nhất trong các quan hệ vợ chồng. Một trong hai người vợ chồng bắt đầu nhận biết thế nào là tình thương vô điều kiện và bắt đầu biểu lộ tình thương đó với ngời kia, nhưng nó không được chấp nhận như chờ đợi, có thể vì người đó chưa sẵn sàng chấp nhận tình thương vô điều kiện. Người đầu cảm thấy tình thương của mình bị chối bỏ. Cũng có thể người đó cảm thấy bị chối bỏ và lúc đó người đó ngưng dòng chảy của tình thương. Người đó cắt đứt tình thương. Người đó nối kết sự biểu lộ tình thương của mình với cách người kia đón nhận nó.

Con yêu dấu, đây là lúc con nhận ra tính ích kỷ không phải lúc nào cũng xấu. Con sẽ tới một điểm trên con đường tu nơi con cần một hình thức cao của tính ích kỷ, và nói: “Điều gì tốt nhất cho tôi? Điều gì tốt nhất cho sự phát triển tâm linh của tôi? Có phải điều tốt nhất cho tôi là sau khi tôi nhận được hồng ân của kinh nghiệm tình thương vô điều kiện, tôi cố gắng hết sức biểu lộ nó với người bạn đời của tôi? Khi người bạn đời của tôi không thể nhận nó giống theo quan điểm của tôi, thì tôi phản ứng bằng cách cắt đứt dòng chảy tình thương. Hành động này có thực sự tốt nhất cho tôi, cho sự phát triển tâm linh của tôi chăng?”

Con yêu dấu, câu trả lời dĩ nhiên là không! Hẳn là con cũng phải thấy như thế! Cái gì tốt nhất cho con? Điều tốt nhất cho con là con tách rời sự biểu lộ tình thương với cách người bạn đời của con tiếp nhận nó, hay không tiếp nhận nó. Con không để sự biểu lộ tình thương của con tùy thuộc vào trạng thái tâm và chọn lựa của người khác. Con tiếp tục biểu lộ tình thương, và con tiếp tục gia tăng khả năng biểu lộ tình thương của mình.

Nếu con làm vậy thì một trong hai chuyện sẽ xảy ra. Hoặc người bạn đời của con sẽ dần dần chuyển hóa và có thể nhận tình thương của con, hoặc con tiếp tục nâng tâm thức của mình cho tới lúc con không thể tiếp tục có quan hệ đó nữa. Con sẽ được dòng chảy của tình thương đưa con tới một quan hệ khác, nơi con có thể biểu lộ tình thương một cách tự do hơn và tình thương đó được tiếp nhận tự do hơn.

8.13. Hãy tự do biểu lộ tình thương

Một mô thức bất hài hòa khác là con bắt đầu biểu lộ tình thương và con chờ đợi người bạn đời phải đáp ứng bằng cách biểu lộ tình thương với con. Nhưng ngời bạn đời con có thể không sẵn sàng làm điều này, và cũng có khi vị ấy không muốn làm điều này. Con có thể tìm cách nói chuyện với người bạn đời về nhu cầu biểu lộ đồng thời tiếp nhận tình thương, nhưng nếu câu chuyện này không dẫn đến kết quả, thì con nên chú tâm vào việc gia tăng dòng tình thương tuôn chảy xuyên qua con, gia tăng khả năng là cánh cửa mở cho tình thương tuôn vào. Con hãy gia tăng khả năng biểu lộ nó bằng những cách càng ngày càng tế nhị và tự do hơn. Con càng tự do khi biểu lộ tình thương, thì con càng giải thoát mình khỏi mối liên hệ với một người hay tình thế khiến tình thương không thể được tự do biểu lộ. Con càng biểu lộ tình thương, con càng tạo thêm động lượng sẽ tăng dần tới lúc nó đủ để mang con ra ngoài tình thế đó sang một tình thế khác nơi tình thương có thể được biểu lộ tự do.

Thày có đang nói là con phải quyết định có ý thức, với tâm vỏ ngoài, là con phải bỏ người vợ hoặc chồng nếu vị ấy không thể tiếp nhận hay biểu lộ tình thương? Không, thày không nói vậy. Thày nói là con mở tâm ra đón nhận dòng chảy của tình thương vô điều kiện. Nếu con có điều kiện và áp dụng chúng vào việc người bạn đời phải tiếp nhận hay biểu lộ tình thương theo điều kiện nào đó, thì con không mở tâm ra đón nhận dòng chảy của tình thương vô điều kiện.

Con chớ nghĩ là con có thể dùng bài giảng này của thày như một cái cớ để bỏ người vợ hoặc chồng của con. Ít nhất con đừng nghĩ là con có thể đánh lừa thày khi con làm vậy. Con hãy chú tâm vào việc mở tâm đón nhận dòng chảy của tình thương vô điều kiện. Con hãy ở lại trong quan hệ cho tới khi con nhận được từ bên trên lời hướng dẫn không thể chối cãi là đã đến lúc tuôn chảy đi. Con đừng quyết định với tâm vỏ ngoài.

Đúng thực là con nên kháng cự khi tâm vỏ ngoài tìm cách dẫn con tới quyết định đó. Con hãy học cách nhận ra khi tự ngã đang ép con lấy một quyết định. Con hãy kháng cự nó bằng cách từ chối không lấy quyết định. Con hãy học cách nhận ra những chuyển dời vi tế trong nhận biết của mình, tỷ dụ như khi con cảm thấy là sợi dây buộc con vào bờ đã nhả ra. Con cảm thấy là con được tự do trôi theo dòng chảy của cuộc sống.

8.14. Quan hệ tình yêu là một thách đố lớn

Con yêu dấu, chắc con đã bắt đầu nhận ra là khi con đến khóa nhập thất của Tia thứ Ba của thày, một trong những điểm chính mà con cần cải thiện là các quan hệ tình yêu của con. Một trong những thách đố lớn nhất mà con phải đối diện trên con đường tu tâm linh là quan hệ tình yêu của con. Thày đã nêu lên sự kiện là trên hành tinh này, quan hệ giữa người nam và nữ đã bị hủ hóa, bị mất quân bằng đến độ rất khó mà có được một quan hệ cao, một quan hệ sáng tạo.

Có quá nhiều lực đang tìm cách phá hủy các mối quan hệ tình yêu vì đây là cách hiệu quả bậc nhất để trì hoãn sự tiến bộ tâm linh của con người. Đúng thực là có những cách hiệu quả hơn, tỷ dụ như khiến con người tham gia chiến tranh và bị chết hoặc bị thương cả thể xác lẫn tinh thần. Trong những hoàn cảnh sống mà con có thể gọi là “bình thương”, quan hệ tình yêu đã khiến nhiều người đình chỉ, hay có khi bãi bỏ hoàn toàn, việc phát triển tâm linh, khi họ đi vào một mô thức tàn phá, đánh nhau với vợ hay chồng hoặc tìm cách tiêu diệt khi không kiểm soát được người này.

Thày hoàn toàn không có ý muốn con trách cứ mình nếu con không thành công trong quan hệ tình yêu. Ngược lại, thày tìm cách để con đo lường cùng với thày là quan hệ tình yêu trên trái đất là một thách đố rất lớn. Có nhiều hành tinh khác nơi quan hệ tình yêu dễ dãi đến độ con không thể tưởng tượng được. Con hãy tha thứ mình nếu con đã có vấn đề trong quan hệ tình yêu. Con hãy cố tha thứ và kiên nhẫn với người bạn đời của mình.

8.15. Tha thứ người bạn đời và đi tiếp con đường của mình

Nếu con đã trải nghiệm quan hệ tình yêu đã chấm dứt, thì con nên nhận ra điều này: điều duy nhất mà con có thể làm là tiếp tục cuộc đời của mình. Để có thể tiếp tục cuộc đời của mình, con cần rút tỉa những bài học từ quan hệ đó. Con cũng cần tha thứ, cần giải thoát người bạn đời khỏi mặc cảm tội lỗi hay đổ lỗi.

Thày biết là tự ngã cũa con sẽ phản ứng và nói: “Nhưng người bạn đời của tôi đã làm điều này và điều kia. Làm sao tôi có thể tha thứ được?” Con không tha thứ để giải thoát người đó khỏi những cái móc dính mắc. Con tha thứ để giải thoát con khỏi những cái móc dính mắc, vì sa nhân sẽ có những móc trong tâm con nếu con không tha thứ.

Con cần nhận biết có ý thức là điều tốt nhất cho sự phát triển tâm linh của con là con tiếp tục cuộc đời mình sau khi một quan hệ tình yêu chấm dứt. Để con có thể tiếp tục cuộc đời mình, con cần tha thứ. Con cần tha thứ người bạn đời, nhưng con cũng cần tha thứ chính mình. Con cần buông bỏ.

Có một sợi dây thừng đang buộc con vào quá khứ, đang giữ con thuyền của con ở một nơi cuộn sóng trong Dòng sông sự Sống. Con hãy đi sâu vào thể cảm xúc của mình và cảm thấy là sợi dây thừng thắt lại thành cái gút. Con hãy tháo cái gút, cầm sợi dây thừng trong tay, và mở bàn tay ra để sợi dây trôi đi. Con hãy cảm thấy là con thuyền của thể phàm của con, của tâm hồn con, nay được tự do trôi theo dòng nước để rời khu cuộn sóng và tới một phần yên lặng hơn của dòng sông.

TA LÀ Paul người Venice, và điều thày thương yêu nhất là tình thương, Điều thày thương yêu nhất sau đó là con.

Tình thương và Minh triết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 4/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice. Thày đến đây để giảng về những khai ngộ mà con đối diện ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày. Con lưu ý là thày không nói rằng ở tầng một con phải vượt qua tất cả khuynh hướng dùng tình tương làm trò chơi quyền lực. Con cũng có thể bắt đầu nhận ra rằng tự ngã muốn tìm ra một cái gì tối thượng. Điều này thể hiện ý muốn kiểm soát của nó. Ví dụ, nó nghĩ nếu nó tìm ra được học thuyết tối hậu, thì nó có thể hoàn toàn kiểm soát hoàn cảnh, định mệnh của nó, thế giới, người khác và Thượng đế.

Đây là điều con đặc biệt cần chú ý khi con đối mặt các khai ngộ của minh triết. Thày Lanto, sư huynh yêu dấu của thày, đã tìm cách giúp con vượt qua khuynh hướng này ở Tia thứ Hai, nhưng nhiệm vụ của thày, niềm vui của thày là giúp con vượt qua nó ở Tia thứ Ba. Ở tầng khái ngộ thứ hai ở khóa nhập thất của thày, con đối diện với bài học dùng tình thương phối hợp với Tia thứ Hai của Minh triết.

6.1. Khuôn nếp của quan hệ tình yêu hiện nay

Đây là lúc con cần bắt đầu nhìn ra xu hướng, rất phổ biến trên thế giới, đặc biệt là ở thế giới phương Tây, muốn hiểu mọi thứ và cho rằng hiểu có nghĩa là hiểu bằng trí năng. Con cần hiểu ngụ ý của thày Lanto khi thày giải thích trong cuốn sách của thày về những giới hạn của cái trí, của trí năng, nhưng thày sẽ giảng thêm về trí năng và tình thương, đặc biệt là các mối quan hệ tình yêu.

Chúng ta đã bước vào một giai đoạn tiến hóa của hành tinh này và của loài người, khi các khuôn nếp quan hệ tình yêu cũ đang bị thử thách và thường bị phá vỡ. Ví dụ, con thấy ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là thế giới được gọi là phát triển, số ly hôn hiện nay nhiều hơn so với giai đoạn gần đây trong lịch sử. Điều này có nhiều lý do, nhưng lý do căn bản chính là để bước vào Thời đại Bảo bình, con không thể tiếp tục các khuôn nếp quan hệ của thời đại Song Ngư và trước thời đại Song ngư.

6.2. Hai cực nam và nữ

Mối quan hệ giữa nam và nữ trên hành tinh này đã hoàn toàn mất quân bình từ rất lâu. Con thấy trong truyền thống văn hóa gọi là truyền thống Do thái-Cơ đốc giáo, từ thời kinh Cựu Ước mối quan hệ giữa nam và nữ đã theo sát một khuôn nếp quy định người nữ tự bản chất thấp kém hơn người nam.

Con hãy nhìn câu chuyện sáng thế trong Cựu ước kinh. Đầu tiên, Thượng đế tạo ra người nam, và sau đó, như chợt nhớ, Thượng đế tạo ra người nữ để hỗ trợ và giúp đỡ người nam. Con có thực sự nghĩ sáng thế diễn ra như vậy? Nếu con nghĩ vậy, thì thày có thể đảm bảo với con rằng khi con đến tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày, nhận thức đó sẽ bị thách đố.

Các thày, những chân sư thăng thiên, đã từ lâu bày tỏ điều gì qua sứ giả này? Các thày đã giảng rằng Đấng Sáng tạo là một, không phân chia, không thể chia cắt, nhưng khi Ngài quyết định sáng tạo, hành động sáng tạo đầu tiên là tạo ra một đối cực gồm hai lực: lực lan ra và lực co lại, tương đương với nam tính và nữ tính. Con có thực sự nghĩ rằng con có thể tạo ra một đối cực bằng cách tạo ra một sắc thái trước và sau đó tạo ra sắc thái còn lại không? Con có thực sự nghĩ rằng trong một đối cực, một sắc thái vượt trội hơn săc thái kia? Trong một đối cực, cả hai cực được tạo ra cùng một lúc, và chúng được tạo ra trong một quan hệ cộng sinh (symbiotic) để cân bằng lẫn nhau.

Thày đã nói trong bài giảng đầu là Tánh linh đóng vai trò chính yếu trên trái đất theo nghĩa con phải tuân theo Sứ vụ Thiêng liêng của mình hơn là các yêu cầu của thế gian. Con không thể bắt Tánh linh tuân theo yêu cầu của thế gian. Lý do là trái đất là một bầu cõi chưa thăng thiên bị mất cân bằng rất nặng. Làm sao con giúp bầu cõi này thăng thiên? Con không giúp bầu cõi thăng thiên được bằng cách tuân thủ các điều kiện đến từ trạng thái tâm thức không thăng thiên, tâm thức tách biệt.

Đó là lý do tại sao Tánh linh phải đóng vai trò chính yếu, và đó là cơ sở cho câu Thánh kinh nói rằng người chồng là chủ gia đình. Câu này chỉ có nghĩa biểu tượng mà thôi. Nó không bao giờ có ý muốn nói người nam hơn người nữ. Nó không bao giờ có ý nói khía cạnh nam của đối cực Thiêng liêng cao hơn khía cạnh nữ, rằng phái nữ đã gây sa ngã và do đó bây giờ nên đổ tội cho phụ nữ. Nó không muốn nói phải chèn ép phụ nữ vào một vị thế thấp phục vụ đàn ông, vâng lời họ và im miệng trong nhà thờ.

6.3. Cân bằng thái cực nữ

Toàn bộ tâm thức chèn ép phụ nữ đã đến từ sa nhân. Họ thấy cơ hội tạo sự mất quân bình giữa hai giới tính sâu xa đến độ hai bên sẽ không bao giờ có được quan hệ bình đẳng trong đó người nam và người nữ có thể biểu lộ trọn vẹn đối cực Thiêng liêng. Sa nhân đã tạo ra một khuôn nếp khiến quan hệ tình yêu vật lý ở cõi vật chất hầu như không thể phát huy hết tiềm năng sáng tạo cao nhất của nó. Đây là điều cần được khắc phục trong thời đại hoàng kim.

Khi con ở tầng của khóa nhập thất của thày, con không cần khắc phục toàn bộ khuynh hướng này cùng một lúc, nhưng con cần biết đến nó. Con cần nhận ra là nếu con có quan hệ với một người khác giới tính, cả hai người chúng con cần thăng vượt đối cực giả, sự mất quân bình cho rằng phái nữ kém hơn phái nam.

Thày biết nhiều người trong chúng con đã lớn lên trong thời hiện đại. Các con thường cảm thấy cha mẹ mình bị kẹt trong một quan hệ cổ lỗ quy định một vai trò nhất định cho phụ nữ. Các con hiện đại hơn, cân bằng hơn. Thày không tranh cãi là các con cân bằng hơn cha mẹ mình. Hầu hết các con chắc chắn là thế. Điều thày muốn nói là vẫn còn nhiều thứ phải khắc phục liên quan tới quan hệ giữa hai giới tính.

6.4. Không thể sở hữu tình thương Thiêng liêng

Tình thương có khả năng quân bằng tuyệt vời. Không thể sỡ hữu được tình thương. Con có thể tóm tắt như vậy bài giảng đầu của thày nếu con nắm ngụ ý của thày. Hầu hết mọi người nghĩ rằng trò chơi quyền lực sở hữu và kiếm soát của tự ngã là sở hữu và kiểm soát điều gì đó trong cõi vật lý.

Tự ngã muốn sở hữu và kiểm soát một số đặc tính sáng tạo để nó có thể hủ hóa chúng và loại chúng ra khỏi thế gian này. Tự ngã muốn hủ hóa cái nhìn của con về tình thương để con không thể là cánh cửa mở cho tình thương Thiêng liêng chảy qua con. Tình thương Thiêng liêng này có thể triệt tiêu sự mất quân bằng trong mọi quan hệ trên trái đất, nhưng nó chỉ làm được khi nó được tuôn chảy tự do. Nếu con hủ hóa nó, nếu con tìm cách ép nó vào một khuôn đúc tư tưởng dựa trên tâm thức tách biệt thì tình thương không chảy tự do được. Lúc ấy nó không chữa lành với hiệu quả tối đa được. Làm sao tình thương chữa lành được khi con tìm cách ép nó vào chính cái hình tư tưởng đã khiến con cần chữa lành? Đây là hình tư tưởng mất quân bằng khiến con cần chữa lành. Nếu con tìm cách ép tình thương tuôn chảy theo hình tư tưởng mất quân bằng đó, thì con không có tình thương Thiêng liêng. Bất cứ cái gì chảy qua con sẽ không có quyền năng chữa lành tối đa.

Điều này có hợp lý chăng? Trí năng có hãnh diện khi dùng lý trí không? Qua cái Ta Biết, con cần học cách dùng lý trí chống lại cái tâm trí thức, phân tích và lý luận. Thày không muốn nói “chống lại” theo nghĩa con đánh nhau với tâm mình. Con dùng lý trí để tránh không bị hút vào những khuôn nếp do tâm tạo ra.

6.5. Khắc phục sự mất quân bằng giữa hai giới tính

Con thấy gì trong quan hệ nam nữ trong thế giới hiện đại? Nhìn bên ngoài, con thấy số hôn nhân chấm dứt bằng ly dị nhiều hơn bao giờ hết. Nhìn bề sâu hiện tượng này, con thấy có sự chuyển đổi trong sự vận hành của quan hệ giữa hai giới. Sự chuyển đổi này có nhiều khía cạnh, nhưng thực ra động lực là nhu cầu khắc phục nhiều ngàn năm mất quân bằng. Không phải chỉ riêng người nam tạo ra và duy trì sự mất cân bằng. Con đừng lầm tưởng rằng các người nam đang hiện thân đã tạo ra sự mất quân bằng và là thủ phạm duy trì nó.

Con đang phải đương đầu với những lực vượt lên trên cõi vật lý. Chúng đã tạo ra sự mất quân bằng và điều khiển việc duy trì nó xuyên qua những người đang hiện thân sẵn lòng là công cụ cho chúng. Điều cần xảy ra là con không chịu làm công cụ nữa vì con vượt lên trên cách quan hệ nam nữ vận hành. Con cần nhận ra sự bất quan bằng trong quan hệ nam nữ không phải là điều con có thể đổ lỗi cho người phái nam.

Kể từ thời câu truyện sa ngã trong Vườn Địa đàng trong Cựu ước kinh, chuyện gì đã xảy ra giữa phái nam và phái nữ? Có phải là người nam đã đổ lỗi cho người nữ làm cho họ sa ngã? Con có nghĩ rằng con sẽ tiến bộ nếu con tạo ra một văn hóa trong đó người nữ đổ lỗi cho người nam đã chèn ép người nữ? Làm sao con khắc phục đổ lỗi bằng cách đổ lỗi thêm nữa? Người nam đã không bắt đầu chu kỳ này. Họ trở thành nạn nhân của nó, như phụ nữ cũng là nạn nhân vậy. Con cũng cần nhận ra rằng phụ nữ đã đồng ý tùng phục điều này, dù họ hiếm khi ý thức điều đó.

Họ đã mang vai trò này suốt vài ngàn năm qua. Phụ nữ trên trái đất này đã chấp nhận xem mình thấp kém hơn dựa trên những khác biệt thể lý giữa cơ thể nam và nữ. Họ cũng đã chấp nhận mình thấp kém hơn dựa trên một lý thuyết triết học được các tôn giáo cổ vũ. Ngay cả bên phương Đông với những tôn giáo không dựa trên Cựu ước kinh, con vẫn thấy bất bình đẳng giữa các giới. Con vẫn thấy phụ nữ bị chèn ép và bị xem gần như là vô tích sự vì không dễ gả chồng cho con gái.

6.6. Đổ lỗi là một sự hủ hóa tình thương

Con không thể đổ lỗi là người nam đã tạo ra tình trạng này. Con không thể đổ lỗi cho riêng truyền thống Do thái-Cơ đốc. Con có thể đổ lỗi cho sa nhân, nhưng làm thế không thật sự hữu ích. Vấn đề với tâm thức bất quân bình nam nữ là nó dùng một hủ hóa tình thương khác, hủ hóa chính là sợ hãi, nhưng đổ lỗi là một trong những hủ hóa hàng nhì. Điều con cần làm là khắc phục khuynh hướng, nhu cầu đổ lỗi. Nếu con sẵn sàng, con làm điều này ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày. Lúc ấy con nhận biết được rằng đổ lỗi là sự hủ hóa tình thương.  

Con thấy gì trong thế giới hiện đại này? Con thấy kiến thức được mở rộng không thể tưởng tượng được, kiến thức về sự vận hành của mọi sự. Phần lớn kiến thức này đạt được bằng tư duy đường thẳng, phân tích và trí năng. Tư duy này chắc chắn có một số đặc tính tích cực. Con đừng bị lừa mà nghĩ rằng trí năng nhất thiết là kẻ thù của phát triển tâm linh. Nó chỉ là kẻ thù khi con dùng nó một cách mất cân bằng, là điều tự ngã và sa nhân muốn. Con có thể vượt lên trên điều này vì trí năng có thể chứng minh một điều kiện là đúng hoặc ngược lại. Trí năng rất giỏi trong việc tạo ra một cách nhìn đời mất cân bằng nhưng con có thể dùng lý luận của trí năng để phơi bày sự mâu thuẫn và mất cân bằng này. Sau đó, cái Ta Biết có thể bước ra khỏi nó. Thay vì đồng hóa với trí năng và cách nhìn đời của trí năng, con có thể xem trí năng chỉ vỏn vẹn là công cụ để hoàn thành một số phần vụ trong cõi vật chất.

Con có thể ngừng không dùng trí năng để suy luận về những gì vượt quá cõi vật chất vì con có thể nhận ra chân lý mà các nhà thần bí mọi thời đại đã biết. Chân lý đó là trí năng không bao giờ có thể cho con hiểu biết chính xác về thế giới cao. Đức Phật nhận ra điều này 2,500 năm trước đây, đó là lý do vì sao thày không nói về cõi trời nhưng dạy cách làm chủ tâm mình. Con có thể nâng cao tâm thức cho tới khi con trực tiếp trải nghiệm thế giới cao bằng một cách vượt quá hiểu biết và phân tích của trí năng.

Trong thế giới hiện đại con người đã gia tăng khả năng nhận biết, nhưng giống như câu nói cũ; “Nếu bạn chỉ có một cái búa, bạn nghĩ mọi vấn đề đều là cái đinh.” Nếu dụng cụ duy nhất mà con có là trí năng, con nghĩ mọi vấn đề phải giải quyết bằng cách phân tích. Con thấy chăng những gì đã xảy ra giữa người nam và người nữ? Con người đã có nhận biết cao hơn về quan hệ tình yêu. Điều này có nhiều điểm rất tốt và rất cần thiết.

Nhân loại cần phá vỡ quan hệ cũ, không quân bình giữa người nam và người nữ. Điều này chỉ xảy ra khi nhận biết được nâng cao, nhưng nó không thể dựa trên kiến thức trí năng mà thôi. Con thấy là trong thế giới phương Tây hiện đại, người nam và người nữ đã tìm cách phân tích để giải quyết các vấn đề trong quan hệ của họ. Có một lực ngầm là lực phát triển đã tạo nên nhiều vấn đề hơn trong các mối quan hệ.

6.7. Khó duy trì quan hệ mất cân bằng.

Ngày nay một quan hệ mất cân bằng khó duy trì, khó hơn nhiều so với thời thế hệ cha mẹ con. Hầu hết các con có thể nhìn về quá khứ và thấy rằng trong thế hệ cha mẹ mình, họ có thể ở với nhau trong hôn nhân 40 hay 50 năm. Lý do một phần là vì họ chấp nhận một trạng thái cân bằng giả tạo giúp họ sống với nhau mà không thách thức nhau. Dù kết quả là một sự hài hòa bề ngoài, nhưng nó không đem lại sự phát triển.

Ngày nay, trạng thái cân bằng giả tạo này khó duy trì, và đó là lý do tại sao nhiều người trong các con có vấn đề trong quan hệ tình yêu của mình. Một quan hệ không phát triển khó duy trì hơn. Một trong hai người bạn đường cảm thấy không thỏa mãn, mối quan hệ không đạt được tiềm năng cao nhất của nó, có điều gì đó cần phải thay đổi.

Lúc đó nhiều người trong các con làm gì? Con đọc một cuốn sách hay con đi gặp một người tư vấn, và con tìm cách hiểu bằng trí năng chuyện không ổn trong quan hệ của con để con thử tìm cách hàn gắn nó. Đây vừa là sức mạnh vừa là tai họa của thế giới Tây phương: khuynh hướng phân tích mọi thứ. Con nghĩ rằng con có thể hiểu nguyên nhân một sự việc bằng cách tìm ra các thành phần cơ bản của sự việc đó. Khi con thay đổi nguyên nhân, con cũng sẽ thay đổi hậu quả. Con nghĩ rằng nếu có vấn đề giữa người nam và người nữ trong quan hệ của họ, con cần phân nhỏ vấn đề ra từng thành phần nhỏ.

Giả dụ con có mối quan hệ giữa một người nam và một người nữ. Bây giờ con chú tâm vào người nam rồi con chú tâm vào người nữ. Con nói: “Đặc tính của người nam là gì? Đặc tính của người nữ là gì?” Con đi đến một lý thuyết nghe rất hay là “người nam đến từ Hỏa tinh và người nữ đến từ Kim tinh.” Sau đó, con phân tích một số đặc tính của người nam và con nói: “Người nam hành động như thế này, và nó ảnh hưởng người nữ như thế này. Người nữ hành động như thế này, và nó ảnh hưởng người nam như thế này. Nếu người nam học cách biết họ đang làm gì và điều họ làm ảnh hưởng người nữ như thế nào, thì họ có thể thay đổi để họ không tạo ra hậu quả tiêu cực nơi người nữ. Nếu người người học để biết chính họ, họ cũng có thể thay đổi, và như thế đôi bên có thể sống hạnh phúc mãi mãi với nhau.”

Con yêu dấu, điều rất quan trọng ở đây là con phải bước lên cao hơn và vượt quá điều mà trí năng lúc nào cũng muốn làm, đó là giàn dị hóa vấn đề thành các thành phần cơ bản của nó. Trí năng muốn tin rằng nó đã tìm ra điểm mấu chốt, nguyên nhân sâu xa. Khi nó hiểu được điểm này, nó cũng sẽ hiểu các khía cạnh khác của vấn đề.

Các nhà vật lý đã làm gì để hiểu thế giới vật lý? Đầu tiên họ nhìn vào các hình dáng bên ngoài. Sau đó họ thấy rằng mọi thứ được tạo ra ra từ vật chất. Vật chất được tạo ra từ phân tử. Phân tử được tạo ra từ nguyên tử. Nguyên tử được tạo ra từ các hạt hạ nguyên tử. Các nhà trí thức duy vật nói: “Bằng cách tìm ra các hạt hạ nguyên tử, chúng tôi đã thu nhỏ thế giới xuống thành các thành phần cơ bản của nó. Bây giờ vấn đề chỉ là hiểu cách các hạt hạ nguyên tử hoạt động và tìm ra hạt tối hậu, hạt-thượng đế. Khi đó chúng ta sẽ hiểu cách toàn bộ vũ trụ vận hành”. Nhưng sự thức không phải là như vậy.

6.8. Dùng trực giác để vượt quá trí năng

Trí năng có giới hạn cơ bản. Khi phân tích, giản dị hóa sự việc thành những thành phần cơ bản của nó, nó đánh mất cái gì? Nó đánh mất cái tổng thể. Có thể con đã nghe câu nói: “Tổng thể nhiều hơn các thành phần cộng lại.” Quan hệ giữa người nam và người nữ là một tổng thể và nó nhiều hơn người nam và người nữ, tâm lý của hai người. và sinh lý của hai ngời cộng lại. Nó nhiều hơn thế.

Bây giờ thày muốn con phân biện rõ ý của thày. Thày không nói phân tích các quan hệ hay phân tích tâm lý người nam và người nữ là điều sai hay vô ích. Thế giới hiện đại đã tiến bộ vì nó đã phân tích và cố gắng tìm hiểu mọi việc. Điều thày muốn chỉ cho con thấy là sự tiến bộ của thế giới hiện đại đã đạt tới tối đa những gì có thể đạt được bằng cách phân tích và giản dị hóa mọi sự việc. Điều cần cho thời đại Bảo bình – điều cốt yếu để thời đại Bảo bình trở thành thời đại hoàng kim – là con người học cách phân tích tới mức tối đa và sau đó dùng trực giác để đi xa hơn nữa.

Một số người đã hiểu được điều này. Einstein, chẳng hạn, đã hiểu được phần nào và do đó đã dùng trực giác để đạt một số đột phá. Ông không hiểu đầy đủ những gì thày nói ở đây, nghĩa là ông đã cho phép trí năng áp đặt một giới hạn trên khả năng trực giác của ông. Đó là lý do tại sao ông không hoàn tất được công việc của mình và không đưa ra được lý thuyết mà ông mong mỏi tìm ra.

Lý do một phần là vì ông không nhận ra là mơ ước về một lý thuyết tối hậu là mơ ước của trí năng chứ không phải là mơ ước của trực giác. Trực giác không có nhu cầu có cái tối hậu trong thế giới vật lý, vì nó tuôn chảy với Tánh linh. Nó biết là lực tối hậu, thực tại tối hậu là dòng tuôn chảy.

6.9. Phá vỡ các khuôn nếp phản ứng trong quan hệ

Không có điều gì đứng yên, vậy làm sao có điều gì tối hậu được? Thượng đế là tối hậu, nhưng ngay Thượng đế cũng không đứng yên. Thượng đế luôn luôn thăng vượt qua con. Vậy tại sao con, khi con là khía cạnh tự thăng vượt của Thượng đế, lại nghĩ rằng mình có thể đứng yên? Điều này không hợp lý. Sa nhân không thể thấy điều này, tự ngã của con không thể thấy điều này và trí năng của con không thể thấy điều này. Nhưng con có thể thấy được, khi con ý thức mình là nhận biết không bị ràng buộc. Điều này liên quan ra sao với quan hệ giữa người nam và nữ? Con có thể giảm thiểu người nam xuống một số đặc tính không? Con không thể làm được!

Điều con có thể làm được là giúp người nam và người nữ nhận ra: “Cái ta vỏ ngoài của tôi đã bị mắc kẹt trong một khuôn nếp. Khi người bạn đường của tôi làm hay nói một số điều, cái ta vỏ ngoài của tôi phản ứng một cách nào đó và điều đó có nghĩa là tôi cãi lại.” Con cũng có thể hiểu rằng khi con phản ứng và nói điều gì với người bạn đường của mình, thì người bạn đường cũng có một khuôn nếp khác khiến người đó phản ứng một cách nào đó. Điều này có nghĩa là cả hai chúng con đi vào một vòng xoáy hướng hạ kéo năng lượng của chúng con xuống.

Con có thể hiểu điều này, và nó rất hữu ích để con phá vỡ những khuôn nếp này – nếu con sẵn sàng phá vỡ chúng, nếu đôi bên sẵn sàng phá vỡ chúng. Nếu chỉ có một tronghai người bạn đường sẵn sàng phá vỡ khuôn nếp, thì mối quan hệ không nhất thiết thăng vượt được lên trên tầng mức đó.

6.10. Nhận tình thương là thuốc giải độc sợ hãi

Nói tóm lại, con sẽ không có một quan hệ thành công chỉ bằng cách phân tích mình và phân tích nhau. Con chỉ thành công khi nhận ra rằng tình thương phải luôn luôn tuôn chảy.

Điều gì đã thật sự khiến các mối quan hệ bị mắc kẹt trong những khuôn nếp giới hạn này? Đó là nỗi sợ mất mát của tự ngã, khiến nó muốn kiểm soát người bạn đường để nó không mất điều mà nó nghĩ nó chỉ có được xuyên qua người bạn đường. Tất cả con người trên trái đất đều phần nào bị ảnh hưởng bởi tâm thức tách biệt. Nếu con không bị ảnh hượng, con không thể ở lại trong xác thân này. Con càng xuống các tầng tâm thức thấp thì càng bị ảnh hưởng. Con càng bị ảnh hưởng bởi tâm thức tách biệt, thì con càng cảm thấy cô đơn. Con cảm thấy bị mắc kẹt trong một môi trường đầy đe dọa và quan hệ của con với môi trường dựa trên sợ hãi.

Mọi người đều biết từ bên trong con người mình là tình thương là thuốc giải độc cho sự sợ hãi. Nhiều người không biết điều này một cách ý thức, nhưng nó vẫn có mặt nơi các phần sâu của tâm. Điều này có nghĩa rằng con càng bị mắc kẹt trong sợ hãi thì con càng khao khát tình yêu.

Làm sao con có được tình thương? Khi còn nhỏ, nếu con may mắn thì có được tình thương từ cha mẹ hay ít ra từ một trong hai người. Nhiều trẻ em lớn lên với cha mẹ bị mắc kẹt ở dưới tầng tâm thức thứ 48. Khi một người ở dưới tầng tâm thức thứ 48, người đó không thể cho tình yêu một cách tự do. Con cái người đó sẽ không cảm thấy nhận được đầy đủ tình thương từ cha mẹ.

Phần kia của phương trình là nếu em nhỏ ở dưới tầng tâng thức 48, em sẽ không có khả năng nhận được tình thương một cách tự do. Dù cha mẹ cho em tình thương bao nhiêu chăng nữa, em sẽ không cảm thấy đủ. Tình trạng cơ bản là hầu hết mọi người lớn lên với cảm giác không nhận đủ tình thương nên họ cảm thấy thiếu hụt. Sau đó họ vào tuổi thanh thiếu niên, kích thích tố tác động và họ bắt đầu có cảm xúc tình dục. Dựa trên nền văn hóa chung, họ nghĩ rằng cách có được tình thương mà họ hằng mong ước là tìm được một người bạn đường khác giới và có với nhau một mối quan hệ thể xác, lãng mạn và tình dục.

6.11. Thiếu hụt tình thương

Hầu hết quan hệ tình yêu trên hành tinh này bắt đầu với tình trạng hai người bạn đường cảm thấy mình thiếu hụt tình thương. Cả hai nghĩ rằng ý nghĩa của mối quan hệ là nó sẽ lấp đầy sự thiếu hụt tình thương của mình. Làm sao nó làm được? Nó làm được nếu mình nhận được đủ tình thương từ người bạn đường. Bạn đường của con cũng thiếu hụt tình thương và anh hay cô ấy cảm thấy mình không nhận được đủ tình thương khi mình lớn lên. Thày hiểu rằng con lớn lên trong một nền văn hóa lệch lạc. Con lớn lên với một cái nhìn lệch lạc về quan hệ. Con lớn lên với kỳ vọng là người bạn đường của con có thể lấp đầy nhu cầu tình yêu của con. Thày hiểu rằng con có kỳ vọng này. Thày không đổ lỗi con về chuyện này. Thày chỉ hỏi con liệu kỳ vọng này có thực tế không. Liệu rằng người bạn đường của con có thể nào lấp đầy nhu cầu tình yêu của con không?

Người bạn đường của con đã lớn lên trong cùng nền văn hóa với con. Người bạn đường của con cũng có sự thiếu hụt, cũng cảm thấy là mình không nhận đủ tình thương. Nếu con bị thiếu hụt, và người bạn đường của con bị thiếu hụt, thì làm sao người đó có thể cho con tình thương mà con cần nếu người đó không có đủ tình thương trong trường năng lượng và luân xa của anh hay cô ấy?

Làm sao người bạn đường có đủ tình thương để cho con để con lấp đầy nhu cầu của mình? Làm sao hai người cùng thiếu hụt có thể giúp nhau vượt qua sự thiếu hụt này? Điều này có hợp lý không? Chắc hẳn trí năng cũng phải nhận ra kỳ vọng này thiếu thực tế? Nếu con bắt đầu một mối quan hệ mà trong đó cả hai bên đều đặt kỳ vọng không thực tế vào mối quan hệ, thì chỉ có thể có một kết quả xảy ra: cả hai đều sẽ thất vọng với mối quan hệ.

Bây giờ con lý luận theo kiểu nền văn hóa của con đã dạy con, là điều này có nghĩa là quan hệ của con có điều gì không ổn: “Nhu cầu tình thương của tôi không được người bạn đường lấp đầy. Vậy phải có điều gì không ổn rồi. Vì tôi không được điều gì tôi cần từ người bạn đường, vậy là người bạn đường của tôi có cái gì không ổn.” Bấy giờ, hai người đi tới giai đoạn, sau khi họ làm ngơ với sự thật rằng cả hai bên đều không hài lòng với mối quan hệ, nay họ bắt đầu nhìn nhận và công khai nói lên sự không hài lòng với mối quan hệ.

Sau đó họ đến thời điểm mà họ quyết định: “Chúng ta phải làm điều gì đó.” Họ làm gì? Họ tìm một cuốn sách, họ theo một khóa học, họ tìm đến một chuyên gia tư vấn. Họ bắt đầu có những cuộc nói chuyện làm kiệt sức: “Cô/anh đã làm điều này! Cô/anh đã không làm điều này! Cô/anh làm cho tôi cảm thấy thế này. Cô/anh làm cho tôi cảm thấy thế kia.”

Con đang tìm cách làm gì đây? Nếu con đang tìm cách nhận biết những khuôn nếp lệch lạc của chính mình để thay đổi chúng, thì đây là cơ hội để con hưởng lợi lạc từ các cuộc nói chuyện này. Nếu cả hai người bạn đường đều làm điều này, nếu cả hai đều sẵn sàng nhìn vào chính mình và thay đổi khuôn nếp của mình, thì họ sẽ đạt tiến bộ. Điều thường xảy ra là cả hai đều bước vào trò chơi quyền lực ngụy trang như tình yêu, như thày đã nói trong bài giảng đầu của thày. Con dùng trí năng để phân tích người bạn đường của mình, với mục đích khiến người bạn đường thay đổi và con thì không phải thay đổi.

6.12. Giải quyết sự thiếu hụt bằng cách tập trung vào tổng thể

Con yêu dấu, đây là trò chơi cơ bản của tự ngã: Không bao giờ nhìn vào cái đà trong chính mắt mình, luôn luôn nhìn vào mảnh dằm trong mắt người bạn đường, luôn luôn phóng chiếu là vấn đề ở bên ngoài, và giải pháp là người bạn đường phải thay đổi trong khi con thì không phải thay đổi. Hoặc con cảm thấy nếu con phải thay đổi, thì con chưa thể thay đổi nếu người bạn đường chưa thay đổi. Nếu người bạn đường thay đổi và cho con tình yêu mà con cần, thì lúc đó con sẽ tự động thay đổi. Có bao nhiêu người trong chúng con đã ở trong tình trạng này? Tất cả chúng con đều đã như vậy, và người sứ giả này cũng không ngoại lệ. Con có thể bước lên và nhận ra đây lại một ví dụ khác của trò chơi quyền lực, và con đang sử dụng tình yêu như cái cớ?

Ở mặt ngoài, con có thể cảm thấy và thành thật tin rằng con chỉ làm điều này vì con muốn mối quan hệ thành công. Con chỉ tìm cách giúp người bạn đường thay đổi để anh hay cô ấy có thể thoát ra khỏi các khuôn nếp lệch lạc. Con cũng có thể cảm thấy con đang tìm cách thay đổi chính mình, thoát ra khỏi khuôn nếp của mình. Một lần nữa, con hãy lưu ý. Con có thể tiến triển bằng cách phân tích mối quan hệ, cách vận hành giữa con và người bạn đường, và phân tích tâm lý của con và người bạn đường. Con có thể tiến triển bằng cách này, nhưng con sẽ không tiến triển tối đa và con sẽ không cứu vãn được mối quan hệ bằng cách chú tâm vào tiến trình phân tích và giản dị hóa vấn đề. Một quan hệ thành công, có sự sáng tạo tối đa, chỉ có thể dựa trên một điều: chú tâm vào tổng thể.

Con làm gì khi con phân tích nguời bạn đường của mình? Con tìm cách rút người đó xuống thành một số đặc tính, một số khuôn nếp trong tâm lý. Một chuyên viên tư vấn giỏi có thể cho con thấy một số khuôn nếp trong tâm lý của con và người bạn đường, nhưng các con đang làm gì? Các khuôn nếp đó hiện hữu trong tâm vỏ ngoài. Các khuôn nếp đó không ở trong cái Ta Biết vì cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, không phân biệt và không có khuôn nếp. Khi con rút mình và người bạn đường xuống thành những khuôn nếp trong tâm vỏ ngoài, chuyện gì xảy ra? Con chỉ thấy cây, và con không thấy khu rừng của cái Ta Biết là cánh cửa mở, là ngõ vào cho Hiện diện TA LÀ của con và người bạn đường.

Tự ngã của con và tự ngã của người bạn đường sẽ không bao giờ hợp nhau. Tâm vỏ ngoài của con và tâm vỏ ngoài của người bạn đường sẽ không bao giờ thật sự sáng tạo chung với nhau. Tâm vỏ ngoài của các con có thể tìm ra một sự cân bằng nơi đó không có xung đột. Hai tự ngã của chúng con có thể đi vào trạng thái cân bằng trong đó một người ở địa vị cao và người kia ở đia vị thấp. Điều này có thể cho chúng con một sự cân bằng quyền lực trong đó chúng con có thể sống chung mà không tranh chấp liên tục.

Nhiều người trên thế gian này gọi đó là một quan hệ thành công, thậm chí là hài hòa. Đây không phải là một quan hệ sáng tạo vì quan hệ sáng tạo chỉ xảy ra khi cả hai bên đều tìm cách trở thành cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của mình. Trở thành cánh cửa mở nghĩa là vượt qua những khuôn nếp trong tâm lý để con có thể là cái Ta Biết mà không bị tâm vỏ ngoài pha màu – và con giúp người bạn đường cũng làm như vậy. Con càng phân tích người bạn đường, con càng nắm giữ ý tưởng: “Ồ, anh ấy như thế này” hoặc “Anh ấy như thế kia” hoặc “Cô ấy như thế này” hoặc “Cô ấy luôn luôn phản ứng như thế kia.” Con càng làm thế thì con càng che mờ cái Ta Biết và sự tự do tuôn chảy của nó. Con càng phân tích thì con càng thiếu sáng tạo. Một lần nữa, phân tích có thể giúp vượt qua các khuôn nếp, nhưng một khi con đã vượt qua chúng, con cần đi bước kế tiếp và cho phép mỗi người được là như họ là.

6.13. Nhận tình thương từ Hiện diện TA LÀ của con

Con hãy so sánh điều thày vừa nói về sự thiếu hụt tình thương, nhu cầu có tình thương, và nhu cầu nhận tình thương từ người bạn đường. Con chỉ làm được điều này khi cả hai đều nhận ra mục đích của quan hệ giữa người nam và người nữ không phải là hai bên cho nhau tình thương. Mục đích là hai bên sáng tạo và thể hiện điều gì lớn hơn điều mỗi người có thể làm một mình vì tổng thể được phép trở thành lớn hơn sự gộp lại của các thành phần.

Con cũng cần nhận ra rằng, dù con cần tình thương, con sẽ không bao giờ nhận đủ tình thương từ người bạn đường hay từ bất cứ một con người nào khác. Con không thể nào nhận được đủ tình thương từ bên ngoài mình. Con chỉ có thể nhận được từ bên trong mình, từ Hiện diện TA LÀ của con. Không người bạn đường nào trên trái đất có thể yêu con như Hiện diện TA LÀ của con.

Nhiều người tâm linh đã bắt đầu vượt lên trên tình thương thế gian, nhưng họ vẫn nghĩ rằng nếu người bạn đường của họ thật sự tâm linh, người ấy phải có thể cho họ tình thương mà họ cần. Thày không nói rằng người bạn đường của con không được cho con tình thương khi chúng con sống với nhau trong quan hệ tình yêu. Chắc chắn là chúng con biểu lộ tình yêu cho nhau, nhưng nếu muốn mối quan hệ thành công thì cả hai bên phải vượt qua cảm giác thiếu hụt tình thương. Con không kỳ vọng và không đòi hỏi người bạn đường phải cho con tình thương, mà con chỉ có thể nhận được từ Hiện diện TA LÀ của con mà thôi. Con có thể nhận được tình thương từ người bạn đường, nhưng tình thương mà con cần để vượt qua tách biệt chỉ có thể đến từ Hiện diện TA LÀ của con.

Thiết lập sự nối kết với Hiện diện TA LÀ là trách nhiệm của mình con. Đây không phải là trách nhiệm của người bạn đường của con. Nó thậm chí không phải là trách nhiệm của vị thày của con, dù vị thày đó là một người đang có xac thân vật lý hay một chân sư thăng thiên. Nó là bổn phận của con.

Con cần biến trách nhiệm thành khả năng đáp ứng. Con làm điều mà thày nói trong bài giảng đầu của thày và con đặt ưu tiên đúng chỗ. Con nhận ra rằng tình yêu mà con mơ ước, tình yêu mà con thật sự cần, chỉ có thể đến từ Hiện diện TA LÀ của con, không phải từ người bạn đường. Con không kỳ vọng và không đòi hỏi người bạn đường cho con điều mà con không thể có được từ người ấy. Con không đổ lỗi cho người bạn đường đã không cho con điều mà, nếu người bạn đường có khả năng cho con, con cũng không có khả năng nhận.

Con hiểu chăng? Vấn đề không chỉ là việc người bạn đường không thể cho con tình thương mà con cần. Đó cũng là con không thể nhận tình thương đó từ bất cứ nguồn nào bên ngoài. Con chỉ có thể nhận nó từ Hiện diện TA LÀ của con.

6.14. Ngừng đổ lỗi người bạn đường của con

Chuyện gì xảy ra khi con gặp một người và bị tiếng sét ái tình? Con trải qua trạng thái hưng phấn, con cảm thấy mối quan hệ đang thành công và tình yêu đang tuôn chảy, và con đã rốt cuộc tìm được, con nghĩ thế, tình yêu mà con cần. Như hầu hết các con đã nhận ra, tiếng sét ái tình là một trạng thái ảo tưởng. Nó là một trạng thái hưng phấn. Nó giống như ma túy.

Khi con đang yêu, con tạm bỏ qua bên một số khuôn nếp của mình. Lúc đó con nhận được một chút tình thương từ Hiện diện TA LÀ của con. Con chỉ không biết là nó đến từ Hiện diện TA LÀ, và con nghĩ nó đến từ người bạn đường của con. Chuyện gì đã xảy ra sau đó, tại sao tình yêu đó phai nhạt đi? Vì Hiện diện TA LÀ biết con cần học điều gì. Con cần nhận biết một cách ý thức là tình yêu mà con cần chỉ có thể đến từ Hiện diện TA LÀ, để con bắt đầu chú tâm vào Hiện diện TA LÀ của con. Hầu hết mọi người không làm điều này trong quan hệ tình yêu vì họ không được giảng dạy đây là điều họ cần. Lúc ấy Hiện diện TA LÀ của con phải cắt đứt dòng tình thương. Nó phải cắt đứt không phải để trừng phạt con mà vì đây là cách duy nhất để con bắt đầu suy nghĩ tại sao con không nhận được tình thương mà con cần.

Vì những gì họ biết qua sự giáo dục khi lớn lên, hầu hết mọi người đi vào khuôn nếp đổ lỗi cho người bạn đường thay vì chú tâm thiết lập sự nối kết có ý thức với Hiện diện TA LÀ. Thày hoàn toàn hiểu điều này. Trong tâm thày chỉ có lòng trắc ẩn và đồng cảm với rất nhiều người không thể hành động tốt hơn vì họ không biết đúng hơn.  

Thày làm được gì ngoài chuyện cho con kiến thức để con biết đúng hơn? Thày hy vọng rằng các con nào mở tâm ra với giáo lý này và biết đúng hơn, sẽ hành động tốt hơn cho mình. Thày cũng hy vọng con sẽ lan truyền đến người khác là có quan niệm về quan hệ tình yêu khác với quan niệm bình thường.

6.15. Cân bằng giữa Alpha và Omega

Hạnh phúc tối hậu không đến từ một quan hệ tình yêu siêu phàm với người bạn đường toàn hảo trên trái đất. Hạnh phúc tối hậu chỉ đến khi con thiết lập quan hệ với Hiện diện TA LÀ của con. Con nhận ra Hiện diện TA LÀ là Alpha, khía cạnh nam của con người con. Cái Ta Biết là Omega, khía cạnh nữ của con người con. Rồi con cho phép Hiện diện TA LÀ làm chủ căn nhà của con, và con chấp nhận con là cực Omega ở thế giới vật chất, nối với cực Alpha của Hiện diện TA LÀ ở cõi tâm linh. Giờ đây con có được dòng chảy đúng đắn của hình số tám trong con người con (dòng chảy số tám theo chiều dọc), và sau đó con có thể thiết lập dòng chảy số tám sáng tạo nhất với người bạn đường trên trái đất này. Con không bao giờ có thể thiết lập dòng chảy số tám chiều ngang trước khi mỗi người trong hai chúng con đạt được một mức cao của dòng chảy số tám theo đường dọc.

Ý niệm người nam và người nữ hoàn toàn bình đẳng với nhau có nghĩa gì? Điều này chỉ thành tựu khi cả hai nhận ra quan hệ của mình với Hiện diện TA LÀ của mình. Họ nhận ra và trải nghiệm là Hiện diện TA LÀ ở trên cõi tâm linh và vượt lên trên mọi phê phán hay so sánh trên thế gian. Không có vấn đề mình giỏi hơn người khác. Không có vấn đề một người bạn đường cao cả hơn hay quan trọng hơn người kia.

Mỗi chúng con có Hiện diện TA LÀ của mình là một sinh thể tâm linh độc nhất. Mỗi chúng con có sứ vụ Thiêng liêng của mình. Cả hai chúng con đều quan trọng như nhau, và mối quan hệ chỉ được tiềm năng cao nhất khi con cho phép cả hai người hoàn thành sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Thày hiểu rằng đôi khi, qua sự nhận biết, con đi tới kết luận rằng Sứ vụ Thiêng liêng của con đòi hỏi những tình huống bên ngoài và những hành động quá khác thường, và do đó không thích hợp và không thiết thực để duy trì một quan hệ tình yêu. Đây cũng là một quan hệ thành công.

Một quan hệ thành công không có nghĩa là hai bên sống suốt đời với nhau. Nó là mối quan hệ mà hai bên giúp nhau trên hành trình cá nhân của mình tới một điểm nơi họ sẵn sàng đi bước kế tiếp. Nếu cả hai người nhận ra rằng bước kế tiếp trên hành trình của họ sẽ thành tựu tốt nhất nếu họ không sống chung với nhau trong một quan hệ tình yêu, đây cũng là một thành công.

6.16. Hôn nhân trọn đời?

Ý tưởng hôn nhân trọn đời từ đâu đến? Một phần nó đến từ thời xưa khi tình trạng an ninh rất thấp, đặc biệt là trong những xã hội mà người nữ không có cách chi để tự nuôi sống mình, khi chỉ có người nam mới có việc làm hay nghề nghiệp. Hôn nhân trọn đời là một dụng cụ xã hội thực tiễn, vì tốt hơn là người nam không bỏ vợ mình khi bà bắt đầu có tuổi và không thể nào đáp ứng thèm muốn tình dục của ông. Vì lý do đơn thuần thực tiễn, văn hóa thiết lập rằng người nam phải sống trọn đời với vợ mình.

Quan niệm này vẫn có giá trị trong những xã hội mà người nữ vẫn chưa có cách kiếm sống. Tất nhiên, những xã hội như thế nay đã lỗi thời. Trong thời đại hoàng kim, mọi xã hội trên trái đất cần tiến tới chỗ mà cả người nam lẫn người nữ đều có thể tự túc nuôi sống mình. Ngày nào chưa đạt được điều trên, thì chưa thể có nền văn hóa trong đó người nam có thể từ bỏ người nữ bất cứ lúc nào anh muốn. Mặt khác, thế giới công nghiệp hiện đại đã vượt khá xa tình trạng này, nên con cần nhận ra ý tưởng người nam và người nữ phải ở đời với nhau chỉ có thể đến từ sa nhân và tự ngã. Chúng muốn giam con ở một mức nào đó và ngưng sự tăng triển của con.

Nếu một người nam và người nữ có thể phát triển cùng với nhau trong quan hệ hôn nhân suốt cuộc đời thì họ nên ở lại với nhau. Nếu họ nhận ra sự phát triển của mỗi người đòi hỏi họ trôi chảy về những hướng khác nhau, thì họ nên trôi chảy về những hướng khác nhau. Thay vì đổ lỗi cho nhau hay cảm thấy tủi hổ về chuyện này, họ có thể chia tay trong tình thần tích cực và niềm biết ơn đã hỗ trợ nhau tới mức này.

Nếu con không làm được thì con lại bị mắc kẹt trong trò chơi quyền lực khác. Con vẫn còn bị mắc kẹt trong trò chơi muốn đổ lỗi cho người bạn đường của mình, và điều này có nghĩa là con chưa đạt những khai ngộ ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày. Tất nhiên, thày sẽ giúp con đạt những khai ngộ này trong bài giảng kế tiếp của thày, nói về liều lượng tình thương gấp đôi mà con nhận được ở tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày.

TA LÀ Paul người Venice.

Tình thương và Uy lực

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/1/2015.

TA LÀ chân sư thăng thiên Paul người Venice. Thày là Thượng sư của Tia thứ Ba bình thường được gọi là tia của tình thương.

Mục đích của thày trong loạt bài giảng này là tiếp tục công việc mà các thày đã khởi sự nhằm phơi bày cho những người đang hiện thân trong cõi vật chất những khai ngộ khi tu học với bảy Thượng sư. Những khai ngộ nhằm giúp con tạo động lực mang con tới tầng tâm thức thứ 96. Nó cũng sẽ mang con quá tầng này và đạt sự khai ngộ sẽ đưa con thực sự bước vào con đường của quả vị Ki-tô, thay vì sa ngã và dùng khả năng sáng tạo gây dựng tự ngã.

4.1. Hành trình vật lý và cá nhân

Khu nhập thất của thày tọa lạc ở miền Nam nước Pháp. Nó được gọi là Lâu đài của Tự do, là tên của tòa nhà là trung tâm điểm của khu nhập thất trong cõi vật lý. Các con có thể đi tới địa khu vật lý nơi một trong những khu nhập thất của các thày tọa lạc, nhưng con nên nhớ là khu nhập thất nằm trên cõi ê-the. Điều này có nghĩa là con phải hòa điệu với một rung động cao hơn rung động của cõi vật lý. Nếu con làm điều này dễ hơn khi con đi tới địa điểm vật lý, thì đi tới là điều tốt, nhưng con không phải tới địa điểm vật lý để có thể hòa điệu với rung động tâm linh. Thày phải nói là có nhiều trường hợp một người phải làm một cuộc hành trình vật lý để hoàn thành hành trình tâm thức tương ứng.

Đây là ý niệm được mô tả qua huyền thoại Odysseus làm cuộc hành trình Odyssey. Cuộc hành trình hào hùng này là biểu tượng của cuộc hành trình tâm thức, qua đó anh chạm trán các động lực trong tâm, hay là các phàm linh, theo từ ngữ các thày dùng hiện nay. Con cũng đang làm một cuộc hành trình tương tự. Có thể nó sẽ không bao giờ được viết thành một bản anh hùng ca và có thể không ai khác ngoài con biết đến nó, nhưng nó cũng quan trọng không kém. Thày sẽ không nói nó có một tầm quan trọng vĩ đại vì các thày đã giảng về tư duy cuồng đại [đọc Tự do khỏi bi kịch của tự ngã]. Nó là một hành trình quan trọng, không phải chỉ cho riêng con, vì con cũng khai phá một con đường trong tâm thức tập thể giúp cho những người khác dễ bước theo con đường tu hơn.

4.2. Cái Ta Biết lúc nào cũng tuôn chảy

Con đừng xem thường điều này, vì một hiểm nguy lớn nhất trên đường tu là cảm giác chán nản, cảm giác con đã bắt đầu quen thuộc với đường tu, quen thuộc với chỉ thị của chân sư thăng thiên. Con có thể trở nên quen thuộc với tầng tâm thức nào đó. Nhưng đó không phải là con trở nên quen thuộc, đó chính là tự ngã của con.

Cốt lõi của con người con là cái mà các thày đã gọi là cái Ta Biết. Nó được tạo từ bản thể của đấng Sáng tạo, và đấng Sáng tạo không bao giờ đừng yên, bất kể hình ảnh nào con có về ngài. Nó là một dòng sống tuôn chảy không ngừng. Cái Ta Biết không bao giờ đứng yên mà lúc nào cũng tuôn chảy. Tự ngã muốn ngừng giòng chảy của thời gian, ngừng vũ trụ vật lý, để có cảm tưởng nó đang nắm quyền kiểm soát. Khi cái Ta Biết đồng hóa nó với tự ngã, con nghĩ con cần phải nắm quyền kiểm soát, kể cả quyền kiểm soát việc tu hành. Khi con tới các mức khai ngộ ở khóa nhập thất của thày, con đến với một quan niệm băn khoăn có phải mình là thế này, các chân sư thăng thiên là thế này và con đường khai ngộ phải như thế này? Con có thấy chăng nguy cơ của việc truyền dạy một giáo lý vỏ ngoài là con tạo ra một hình tư tưởng là thày phải dạy chúng con như thế nào. Các thày đã lặp đi lặp lại điều gì? Điều giam con trong vũ trụ vật chất chính là những hình tư tưởng của con, quan niệm thế giới vận hành ra sao, Thượng đế ra sao và con như thế nào. Con cần thăng vượt các hình tư tưởng này! Con cần đi xa hơn chúng! Làm sao các thày có thể giúp con vượt quá hình tư tưởng mà con có về các thày và giáo lý nếu các thày thuận theo chúng, và qua đó xác nhận chúng và giữ con bị giam trong đó?

Đây là điều đoàn chưởng giáo giả sẽ làm. Họ sẽ nói: “Con đúng rồi. Con nay đã có giáo lý tuyệt đỉnh trên trái đất. Con chỉ cần tiếp tục làm theo suốt cuộc đời và con sẽ bảo đảm được thăng thiên.” Họ nói con vậy để phá hoại sự thăng thiên của con, và họ biết cách tốt nhất là khiến con bám víu vào tự ngã và cảm giác mình đang nắm quyền điều khiển.

Con có biết có bao nhiêu người đã tìm tới giáo lý chân sư thăng thiên trong thế kỷ vừa qua và cảm thấy họ đã tới đích. Họ đã về tới nhà; họ đã tìm ra giáo lý tuyệt đỉnh trên hành tinh này, giáo lý này sẽ dẫn họ thăng thiên. Họ đã dùng giáo lý để củng cố cảm giác của tự ngã là nó đang nắm quyền điều khiển. Họ cảm thấy rằng vì họ đã tìm ra giáo lý vỏ ngoài và pháp tu vỏ ngoài này, họ làm chủ con đường tu của họ.

Con yêu dấu, nếu con muốn làm chủ con đường tu của mình thì con đâu cần các chân sư thăng thiên nữa, phải không con? Con cần một hình ảnh khô chết của chân sư thăng thiên, và con cứ khẳng định nó là thày thật. Trong trường hợp này thày không thể giúp con. Không có chân sư thăng thiên nào có thể giúp con. Con còn không thể vào khóa nhập thất của Tia thứ Ba của thày nếu con còn bám víu vào các hình tư tưởng này.

Hình ảnh mà con cần đập tan ở bước khai ngộ đầu tại khóa nhập thất của thày là hình ảnh con có về tình thương. Nếu con sẵn sàng thăng vượt phần nào hình tư tưởng của mình, con có thể vào khóa nhập thất của thày.

Thày bảo đảm với con là con không thể tốt nghiệp khóa nhập thất của thày Lanto nếu con chưa chứng minh là con đã sẵn sàng thăng vượt phần nào các hình tư tưởng của mình. Thày cảnh báo ở đầu quyển sách này vì có người bắt đầu đọc quyển sách này dù chưa đọc hai quyển trước.

Thày không nói rằng không ai có thể đạt được những khai ngộ của hai tia đầu và sẵn sàng đón nhận những khai ngộ của Tia thứ Ba mà không đọc hai quyển sách đầu. Họ có thể đã đạt được những khai ngộ đó trong nội tâm, nhưng không có bao nhiêu người trong trường hợp này. Con nên khiêm tốn và đọc hai quyển sách đầu trước khi đọc quyển này, nhưng nếu con có trực giác mạnh là con sẵn sàng đọc quyển này thì thầy sẽ không cản ngăn con. Con hãy chắc chắn đây là trực giác đến từ nội tâm chứ không phải là niềm tự hào của tự ngã muốn chứng tỏ mình là một đệ tử cao cấp đã sẵn sàng nhận những khai ngộ về tình thương.

4.3. Khai ngộ về Tình thương và Uy lực

Chuyện gì xảy ra khi một học viên vào khóa nhập thất của thày? Khai ngộ đầu mà họ đối mặt là khai ngộ của tình thương phối hợp với uy lực của Tia thứ Nhất. Đây là một trong những khai ngộ khó khăn nhất cho những người đã hiện thân lâu đời trên trái đất. Ít có khái niệm nào bị con người hiểu lầm và lạm dụng nhiều như tình thương. Như các thày đã giải thích, mọi chuyện trên trái đất xoay vần chung quanh một trò chơi quyền lực. [đọc Tự do khỏi trò chơi của tự ngã] Đây là cốt lõi của tự ngã, là sự mong muốn cảm thấy mình đang nắm quyền điều khiển bằng cách khống chế người khác, điều kiện vật lý trên hành tinh, và ngay cả các chân sư thăng thiên và Thượng đế.

Các sa nhân đã tìm cách làm điều gì từ lần sa ngã nguyên thủy đã xảy ra từ quá lâu theo thước đo thời gian trên trái đất đến độ tâm trí con người không sao tưởng tượng được? Họ đã tìm cách điều khiển Thượng đế. Họ dùng mọi phương tiện để thực hiện ý đồ này, kể cả tình thương. Làm sao con có thể dùng tình thương để kiểm soát? Con chỉ cần nhìn vào trái đất và quan hệ giữa con người, cái mà con người gọi là quan hệ thương yêu.

4.4. Trình bày những khai ngộ của tình thương

Khi học viên tới khóa nhập thất của thày, đa số tin chắc họ đã biết tình thương là gì, cái gì không phải là tình thương, nó phải được biểu lộ như thế nào và nó không được biểu lộ như thế nào. Họ cũng khá tin tưởng vì họ là đệ tử chân sư thăng thiên có khá nhiều kinh nghiệm về con đường tu, nên họ biết khá rõ những khai ngộ mà thày sẽ cho họ. Chúng ta cần khắc phục điều này như bước đầu tiên. Thày không thể khai ngộ con về con đường của tình thương nếu con có ý định dùng những hình ảnh về tình thương của mình để áp đảo thày. Thày là thày, con là đệ tử. Thày đã đạt được những khai ngộ của tình thương. Do đó, thày trình bày những khai ngộ này cho con. Không phải là ngược lại.

Khi học viên tới khóa nhập thất của thày, họ thường rất kinh ngạc khi khám phá rằng thày không phải là một vị thày dịu dàng mà họ chờ đợi nơi một chân sư của tình thương. Thày không nói là thày không dịu dàng, nhưng thày không dịu dàng lúc ban đầu khi thày cho con các khai ngộ đầu của Tia thứ Ba. Thày cứng rắn, không nhượng bộ, không thỏa hiệp.

Nhiều học viên nghĩ rằng thày đang dùng quyền lực để áp đảo họ. Thày không làm vậy. Thày chỉ phản chiếu những gì họ phóng tới thày, và đa số học viên tới khóa của thày và phóng chiếu quan niệm sai lầm là tình thương là một trò chơi quyền lực. Thày không nói điều này như một lời đổ lỗi. Con hầu như không thể lớn lên trên hành tinh này mà không bị lập trình để dùng tình thương trong trò chơi quyền lực. Trò chơi quyền lực này quá phổ quát, quá lan tràn nên hầu như không thể lớn lên trên trái đất mà không bị nó ảnh hưởng.

Sự nghiêm nghị trong giọng nói của thày không có nghĩa là thày không chấp nhận con. Nó chỉ có nghĩa là thày cần phản chiếu điều mà con phóng tới thày, và cũng để chứng minh là, bất kể trò chơi quyền lực nào con đang chơi, nó không ảnh hưởng được thày. Thày sẽ không để con lừa thày và để con áp đảo thày, và con sẽ không áp đảo dược thày bằng vũ lực mà thôi. Và con cũng không thể áp đảo thày bằng bàn tay bọc nhung của khía cạnh mềm mỏng của tình thương.

Thày đã đạt được những khai ngộ của tình thương. Không có điều gì con mang theo con từ trái đất có thể lừa hay ép buộc thày phải quy phục trò chơi quyền lực của con. Thày không thể giải thoát con khỏi trò chơi đó nếu thày quy phục nó, phải không con? Đồng thời, thày cũng không thể giải thoát con khỏi nó nếu thày đối chọi lại con và tìm cách áp đảo con. Điều thày có thể làm là chứng minh là thày không thể bị lay chuyển, thày sẽ không bị lay chuyển, không một trò chơi quyền lực nào trên trái đất có thể lay chuyển thày được – dù nó đã ngụy trang là tình thương khéo léo tới đâu.

Khi học viên vượt qua sự chấn động ban đầu vì đã gặp một vị thày rất khác những gì họ tưởng tượng, thì chúng ta có thể tiến bước kế tiếp. Vì những học viên tới khóa này đã trải qua các khai ngộ của hai tia trước nên họ thay đổi tương đối không khó khăn. Khi con dùng tâm vỏ ngoài thì khó khăn hơn một chút. Thày cho con bài giảng này dưới một hình thức mà trí vỏ ngoài của con có thể đọc và nghiền ngẫm. Nếu con đọc quyển sách này và vẫn tiếp tục đọc, thì có lẽ là con đã thay đổi trong nội tâm. Con chỉ cần để nó thấm vào tâm vỏ ngoài để sẵn sàng nhìn một cách ý thức vào cuộc sống trên trái đất và nhận ra là con người dùng tình thương để chơi trò quyền lực với nhau.

Bước kế tiếp ở khóa nhập thất là thày dẫn học viên vào một phòng trong đó có một dụng cụ có thể gọi là một dụng cụ công nghệ. Con đã nghe các Thượng sư khác nói về các căn phòng có những dụng cụ tương tự. Thày có một cái máy đặc biệt hòa điệu để khám phá tình thương, rung động của Tia thứ Ba. Thày dùng máy này để chỉ, như một hình ảnh, cách con người sử dụng năng lượng của Tia thứ Ba. Khi thày nói năng lượng của Tia thứ Ba, thày muốn nói tới tình thương cũng như là sự hủ hóa tình thương. Thày có thể chỉ cho học viên thấy những hủ hóa tình thương trong trường năng lượng của họ. Đa số học viên còn không biết đây là sự hủ hóa. Đa số người trên trái đất không biết là tình thương đã bị hủ hóa, nhưng thày có thể chỉ rõ như hình ảnh.

Thày có thể chỉ rõ những tình huống khi người học viên tương tác với người khác, hay khi con người tương tác với nhau. Thày cũng có thể đi ngược dòng thời gian và chỉ những tình huống lịch sử trong đó những người nổi tiếng đã tương tác ra sao trong những biến cố lịch sử quan trọng. Thày có thể cho thấy họ đã dùng một hình thức hủ hóa của tình thương, và năng lượng tuôn chảy ra sao giữa những người đó. Thày có thể cho thấy một người đã dự trữ năng lượng tình thương hủ hóa trong tâm thức mình, và hướng nó vào tiềm thức của người khác để áp đảo hay thuyết phục họ. Qua sự áp đảo và thuyết phục đó, người kia tin rằng tình thương hủ hóa đó chính là tình thương.

4.5. Năng lượng hủ hóa của Tia thứ Ba

Đa số người trên trái đất không hiểu họ đã hủ thóa tình thương như thế nào, và vì sao họ làm vậy? Đó là vì họ đã coi tình thương hủ hóa là tình thương thực sự. Họ nghĩ năng lượng hủ hóa của Tia thứ Ba là tình thương thực sự. Các học viên rất chấn động khi thấy hình ảnh năng lượng bị hạ thấp dưới rung động của tình thương thuần khiết, khi thấy năng lượng thấp này được gọi là tình thương thực sự và đã được dùng trong trò chơi quyền lực để kiểm soát người khác.

Đối với học viên, đây là một thức tỉnh phũ phàng, nhưng điều may mắn là nó xảy ra ở khóa nhập thất của tình thương. Khi người học viên không còn mù quáng coi tình thương giả là tình thương thật, thì thày có thể cho y trải nghiệm tình thương thật, và đó là liều thuốc chữa lành sự chấn động khi y nhận ra phản tình thương. Phản tình thương có lẽ là sự hủ hóa được ngụy trang khéo léo nhất trên trái đất vì có rất nhiều người mong muốn tình thương, muốn thương yêu và muốn được thương yêu. Họ ngần ngại từ bỏ hình ảnh họ tưởng là tình thương thật, những điều họ đã bị điều kiện hóa để tin là tình thương thật, những điều họ đã bị lập trình để chấp nhận là tình thương thật.

Đa số học viên tới khóa nhập thất của thày, sau khi đã đạt được những khai ngộ của Tia thứ Nhất, đã vượt qua những hủ hóa tình thương hiển nhiên nhất. Nếu không họ đã không thể vượt lên trên tầng 48. Họ thường coi mình là người thương yêu, hay ít nhất là không bạo hành, không hung hãn – và họ quả thật như vậy. Họ đã có tiến bộ. Nếu con đang đọc bài này, thì con đã tiến bộ và vượt lên trên những hủ hóa tình thương hiển nhiên nhất. Nhưng con hãy cẩn thận và nhận ra rằng nếu con đã đạt được những khai ngộ của tình thương, thì con đã không có mặt ở khóa nhập thất của thày. Con vẫn còn phải đối mặt một số hủ hóa tình thương, nhưng chúng được ngụy trang rất khéo léo.

4.6. Quan hệ tình thương hủ hóa

Thày bắt đầu bằng cách chỉ cho học viên ở khóa nhập thất thấy những hủ hóa tình thương hiển nhiên nhất. Đó là những gì con thấy nơi những người ở dưới tầng tâm thức 48, là trường hợp của đa số trên trái đất. Con cũng có thể nhìn vào chính cuộc đời mình và thấy trong số những người con quen biết có ai có quan hệ được gọi là thương yêu nhưng có những hủ hóa hiển nhiên. Con có biết cặp nào trong đó người đàn ông và người đàn bà luôn luôn chơi trò quyền lực, tìm cách đàn áp người kia? Con có biết cặp nào trong đó một trong hai người đã chiếm đia vị thượng phong và người kia đã chịu khuất phục?

Những cặp đó có vẻ sống trong một quan hệ hài hòa và bình an vì một người đã đạt được địa vị thượng phong mà y muốn, và người kia đã chịu khuất phục. Con có thể thấy những người sống như vậy 20, 30, 40 năm hay lâu hơn thế trong một hôn nhân, nhưng kinh nghiệm đó có giúp họ tăng triển chăng? Không đâu con. Kinh nghiệm luôn luôn tranh chấp, cãi vã và cằn nhằn người bạn đường có giúp con tăng triển chăng? Không đâu con.

Con hãy nhìn quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Có bao nhiêu người trong số các con đã có cha mẹ muốn kiểm soát mình vì lý do nào đó? Có thể là cha mẹ con muốn con thành tựu những gì họ không làm được chính họ, có trình độ học vấn, làm những chuyện mà họ không thể làm được. Cũng có thể là họ muốn chèn ép con để con không hơn họ. Có những cha mẹ muốn con mình hơn mình, nhưng cũng có cha mẹ không muốn con mình bằng mình. Họ muốn chèn ép con họ. Cả hai mong muốn đều là hủ hóa tình thương. Cha mẹ đó tìm cách ép uổng con cái thay vì để nó khám phá nó là ai, khám phá Sứ vụ Thiêng liêng của nó và biểu lộ sứ vụ này thay vì biểu lộ một chờ mong hay khuôn đúc phàm phu do cha mẹ gán cho.

Có bao nhiêu bà mẹ đã nghĩ rằng – vì bà đã mang đứa con trong bụng, đã hạ sinh trong đau đớn, và hy sinh cuộc đời hay sự nghiệp để nuôi đứa con – nên đứa con nợ bà điều gì? Khi người mẹ nghĩ vậy, nguyên do sâu sắc thường là bà mẹ có nghiệp quả rất nặng với dòng sống của người con trong các kiếp trước. Hạ sinh đứa con và nuôi nó là cơ hội duy nhất để bà mẹ quân bình nghiệp quả đó. Làm sao đứa trẻ lại nợ bà mẹ nếu nó đã cho bà cơ hội để quân bình nghiệp quả? Làm sao đứa con của con lại nợ con khi nó cho con cơ hội để được giải thoát? Con sẽ được tự do không nếu con cảm thấy đứa con nợ mình? Không có đâu con. Con sẽ củng cố khuôn nếp đã khiến con tạo nghiệp từ quá lâu nay. Thượng đế ơi, các người này sẽ còn chơi trò quyền lực bao lâu nữa? Tới bao giờ họ mới thôi nói là họ thương yêu một người, nhưng thực sự chỉ tìm cách kiểm soát người đó trong tiềm thức?

4.7. Dùng tình yêu để tranh cãi và kiểm soát

Khi thày nói những điều này, có thể con trải nghiệm là tâm vỏ ngoài của con muốn tranh cãi với thày. Nhiều người đọc bài này sẽ nhận thấy là tâm vỏ ngoài của họ nêu ra nhiều câu hỏi và lập luận đối chọi. Thày không muốn bàn luận về những câu hỏi và lập luận đó. Điều thày muốn con nhận ra là tiến trình đang xảy ra trong tâm con.

Thày muốn con nhận ra là tâm vỏ ngoài của con đang chất vấn, tranh luận, tìm cách phủ nhận hay bác bỏ lời của thày. Con có nghĩ tại sao tâm vỏ ngoài của con lại tìm cách phủ nhận những lời đang nhằm giải thoát con? Đó là vì tâm vỏ ngoài đang chơi trò kiểm soát với con. Nếu con muốn chơi trò chơi kiểm soát với chính tâm vỏ ngoài của mình thì thày không phản đối. Luật Tự quyết cho con làm điều này, nhưng thày sẽ chất vấn con, con được lợi lạc gì khi tới khóa nhập thất của thày? Con đã sẵn sàng nhận khai ngộ về tình thương và uy lực chưa? Con có sẵn sàng nhận ra tự ngã tinh tế như thế nào trong việc sử dụng tình thương theo ý nó?

Đa số học viên tới khóa nhập thất của thày có thể dễ dàng thấy những người ở dưới tầng tâm thức 48 đã dùng tình thương để kiểm soát người khác. Đa số các con đã trải nghiệm chuyện này nơi cha mẹ hay những người quan trọng trong đời mình như người phối ngẫu, anh chị em, xếp tại sở làm, vân vân. Nhiều người trong số các con đã suốt đời thấy những lạm dụng quyền lực này.

Có người trong số các con đã nổi loạn chống lại những tình cảnh này và do đó rơi vào tình huống khó chịu. Những người thích chơi trò quyền lực không thích bị thách đó, phải không con? Họ sẽ luôn luôn làm điều gì? Họ sẽ tấn công con một cách rất cá nhân. Họ cảm thấy con đang muốn phá vỡ quyền lực của họ, và để trả đũa, họ sẽ dùng quyền lực để đập tan con. Đó là một trong những trò chơi lâu đời nhất trên trái đất.

Cái gì đằng sau trò chơi quyền lực? Tại sao con lại muốn kiểm soát? Đó là vì con sợ điều gì đó. Con sợ mất mát. Hủ hóa tối hậu, hay hủ hóa đầu tiên, của tình thương là sự sợ hãi. Con sợ cái gì? Khi con ở trong tình thương, khi con ở trong dòng năng lượng của tình thương, con không có sợ hãi, nhưng vì sao vậy? Đó là vì con biết, con trải nghiệm, là tình thương luôn luôn tuôn chảy. Làm sao con mất mát khi con luôn luôn tuôn chảy? Con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điểm này. Con hãy suy ngẫm điểm này và xem những cách nó áp dụng vào cuộc đời mình.

4.8. Nhận ra tự ngã đứng yên

Con hãy hồi tưởng thời quá khứ có công nghệ gọi là máy video thu hình hay máy video phát hình. Con có thể để một cuộn băng vào máy và phát một cuộn phim lên màn ảnh truyền hình. Cuộn băng quay trong máy, nhưng đôi khi nó ngưng hay bị kẹt và cuộn phim ngưng lại. Con yêu dấu, khi con xem một cuộn phim và nó đột nhiên ngưng lại, có phải là con tức khắc nhận ra là có gì trục trặc? Nếu con đang đi trên xe lửa và nó đột nhiên ngưng lại giữa đường, có phải là con nhận ra có gì không ổn? Nếu con đang ở trong máy bay và nó đột nhiên ngưng lại, thì chắc chắn là con biết có điều gì không ổn, vì chuyện gì sẽ xảy ra cho máy bay khi nó ngưng không bay về phía trước? Nó sẽ bắt đầu rơi xuống, rất nhanh.

Chuyển động là bản chất của cái Ta Biết, đừng yên là bản chất của tự ngã. Cái Ta Biết không cảm thấy sợ hãi khi nó di động, nhưng khi nó nhập vào tự ngã, nó thấy một hình ảnh hay có một cảm giác, là một chuyện có thể đứng yên, một điều kiện có thể được duy trì trong một khoảng thời gian. Lúc đó, nó đồng hóa với ý muốn của tự ngã muốn kiểm soát bằng cách sở hữu. Tự ngã muốn sở hữu vì nó nghĩ nếu nó sở hữu điều gì đó, nó có thể kiểm soát điều đó hay người đó.

4.9. Hủ hóa của tình thương và uy lực

Tình thương hủ hóa của Tia thứ Nhất là gì? Đó là sự sở hữu, khái niệm là mình có thể sở hữu điều gì đó trên trái đất. Chắc con cũng biết, như các thày đã giảng nhiều lần, là trái đất ở trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Trái đất là một trong những hành tinh thấp trong bầu cõi, được chỉ định là hành tinh cho những người ở tầng tâm thức đã đi rất xa vào tách biệt. Khi con người đã đi xa vào tách biệt, họ không thể tức khắc bước lên và bước ra ngoài trạng thái tách biệt. Họ không thể làm chuyện này bằng một cú nhảy. Khoảng cách quá xa.

Khi con người đã đi xa vào tách biệt, họ sợ sự chuyển động. Họ không cảm thấy sung sướng trong chuyển động. Họ sợ chuyển động, và điều này có nghĩa trái đất được thiết kế như một hành tinh nơi con có thể có cảm giác đang sở hữu điều gì. Điều này không có nghĩa là các chân sư thăng thiên chấp nhận sự sở hữu, nhưng có nghĩa là các thày dùng nó như một dụng cụ giúp con người trải nghiệm họ sở hữu một điều gì. Sau một thời gian, họ chán ngán trải nghiệm này và lúc đó họ sẵn sàng tới một trải nghiệm cao hơn.

Sở hữu không đến từ cõi tâm linh. Con có thể nói: “Nhưng thày Paul người Venice, thày có khu nhập thất này. Thày có sở hữu khu nhập thất này của thày chăng?” Không đâu con, thày không sở hữu nó. Ta có thể nói nó không là “của” thày, theo nghĩa chữ “của” dùng trong thế gian. Thày là vị chân sư hiện đang lãnh đạo khóa nhập thất này, nhưng thày không tạo ra nó. Nó được tạo ra rất lâu trước khi thày thăng thiên. Sẽ có một chân sư khác, có thể là một trong số các con đang bước trên con đường tu, sẽ lấy trách nhiệm lãnh đạo khóa nhập thất này, và thày sẽ đi làm việc khác. Trong cõi thăng thiên, con không sở hữu gì cả vì con đã trở thành một với Dòng sông sự Sống, và con nhận ra là dòng sông không đứng yên. Con không có ý muốn đứng yên.

Con hãy lấy thí dụ một người bị rơi vào một dòng sông chảy xiết. Thông thường thì người đó làm gì? Y sẽ cố bám lấy một vật gì đứng yên — tỷ dụ như một hòn đá giữa dòng sông, hay một cành cây rủ xuống. Y sẽ tìm cách bơi vào bờ để đi ra khỏi dòng sông tuôn chảy. Có cách nào khác chăng? Cách khác là nhận ra dòng sông không phải là kẻ thù của mình và trôi theo dòng chảy có thể rất thú vị. Con thấy có nhiều người thích ngồi trong một chiếc thuyền nhỏ hay chiếc bè và trôi theo dòng sông chảy xiết. Họ nghĩ trôi theo dòng nước là một trò chơi rất thú vị, nhưng vì sao lại như vậy? Đó là vì họ ngồi trong một chiếc thuyền họ nghĩ họ làm chủ, và họ nghĩ họ làm chủ tình hình. Sự sở hữu khiến con người ở một tầng tâm thức nào đó có thể trôi theo Dòng sông sự Sống nhưng vẫn nghĩ mình đang làm chủ tình hình.

4.10. Chất vấn cảm giác sở hữu

Các con có bắt đầu thấy tình hình tế nhị mà thày phải đối đầu khi con tới khóa nhập thất của thày? Thày biết là con đã lớn lên trên hành tinh này. Con có lẽ đã đầu thai trên hành tinh trong nhiều kiếp rồi. Thày biết tâm thức con bị ảnh hưởng bởi ý muốn sở hữu, muốn làm chủ tình hình. Thày biết rằng, khi con đi trên con đường tâm linh dưới hai tia đầu, con có cảm giác con một phần làm chủ sự tu tập của mình. Chân sư MORE và đức Lanto đã cho phép con duy trì cảm giác là con vẫn làm chủ tình hình, tuy một số khai ngộ của hai thày chắc đã khiến con chấn động. Con, hay đúng hơn tự ngã của con, vẫn có cảm giác làm chủ tình hình.

Khi con tới khóa nhập thất của thày, khai ngộ đầu tiên mà con phải đối diện là con phải bắt đầu chất vấn ý muốn sở hữu, làm chủ, ý muốn ấn định đường tu như thế nào hay phải như thế nào, ý muốn cho phép thày hướng dẫn nhưng con vẫn làm chủ tình hình. Con yêu dấu, thày hướng dẫn con làm chủ tình hình, nhưng con đây là cái Ta Biết chứ không phải tự ngã. Có nghĩa là thày phải hướng dẫn con đi quá tầm kiểm soát của tự ngã bằng cách chất vấn ý muốn làm chủ của nó.

4.11. Một số học viên kháng cự khai ngộ như thế nào

Đa số học viên ở khóa nhập thất của thày kháng cự điều này. Một số kháng cự rất mạnh bạo. Một số bỏ đi, ít nhất là trong một thời gian. Có một số học viên tới đây và được cho thấy là trong tiềm thức họ đã lạm dụng năng lượng tình thương vào trò chơi kiểm soát; họ quá chấn động và trở về với trò chơi kiểm soát. Họ từ chối rũ bỏ nó, biện minh rằng thày sai, rằng thày không thể là một vị thày chân chính nếu thày không bày tỏ tình thương, rằng thày không thể là Thượng sư của Tia thứ Ba nếu thày không bày tỏ tình thương.

Họ nổi giận bỏ đi và trở về với tự ngã của họ. Thường họ không nhớ chuyện này một cách ý thức, nhưng có khi họ cảm thấy ý muốn mãnh liệt chống lại một số điều kiện trên trái đất, chống lại một số người. Cũng đã có học viên tới đây và bị chấn động đến độ họ từ bỏ tâm linh trong một thời gian. Một số người kịch liệt chối bỏ tôn giáo và biện minh chống lại tôn giáo đã từ chối không đối diện khai ngộ đầu ở khóa nhập thất của thày.

Con là người đang đọc hay đang nghe bài giảng này, con có thể nhận thấy là tự ngã của con đang biện minh, đang phản ứng, đang cảm thấy kinh ngạc là vị Thượng sư của Tia thứ Ba lại có thể bất lịch sự, mạnh bạo như vậy – dưới con mắt của tự ngã của con. Điều con có thể nhận ra là những gì tự ngã thấy không phải là sự việc như nó . Tự ngã thấy hình ảnh mà nó phóng chiếu vào tấm gương.

Đâu là chìa khóa để bắt đầu nhận ra những trò chơi quyền lực trong đó con người dùng tình thương để thiết lập sở hữu và kiểm soát? Chìa khóa là con nhận ra cách con trải nghiệm thế giới bên ngoài không độc lập với tâm của mình. Những gì con cảm thấy đang phóng đến con, mà tự ngã bảo là đến từ thế giới bên ngoài hay từ người khác, thực ra là sự phản chiếu của những gì tiềm thức con phóng ra ngoài.

4.12. Các mối quan hệ bị trò chơi quyền lực chi phối

Có những người chơi trò chơi quyền lực một cách trắng trợn bằng cách dùng năng lượng của Tia thứ Nhất và áp đảo người khác, ép họ phải quy phục. Trò chơi quyền lực dùng tình thương hủ hóa thì khác. Những người dùng tình thương hủ hóa để chơi trò chơi quyền lực nghĩ là họ đang thương yêu.

Con nghĩ là con đang phóng ra tình thương. Khi điều trở về con không phải là tình thương, con nghĩ là người kia không thương yêu, hay vị thày tự gọi mình là Thượng sư Tia thứ Ba không thương yêu, hay Thượng đế không thương yêu. Nhưng thực sự chính là tự ngã con đang không thượng yêu. Nó nói nó đang thương yêu. Nó tạo bề ngoài đang thương yêu, nhưng đó không phải là tình thương đích thực. Đó là tình thương bị hủ hóa, một trong nhũng hủ hóa quá phổ thông trên trái đất đến độ đa số bị lập trình và tưởng đó là tình thương thực sự.

Thày phỏng đoán là hơn 90 phần trăm các quan hệ được gọi là thương yêu trên trái đất hoàn toàn bị chi phối bởi tình thương hủ hóa. Thày có nêu trường hợp cha mẹ nói mình thương yêu con mình nhưng muốn quyết định nó phải sống như thế nào. Cha mẹ này nghĩ họ làm vậy vì họ hiểu đời hơn đứa trẻ và biết đứa trẻ phải sống thế nào mới hạnh phúc và tránh được tai ương. Cha mẹ này tưởng đó là tình thương. Cũng có những người con đã quy thuận thái độ này của cha mẹ vì nghĩ rằng đó là tình thương. Thày không nói là con không nên nghe lời khuyên của cha mẹ mình. Con chỉ nên dùng lời khuyên này như một xúc tác để đi vào nội tâm và cảm nhận từ nội tâm là nó đúng hay sai, con có nên nghe theo hay không, hay con nên dẫn cuộc đời về một hướng mới.

4.13. Trách nhiệm hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng, khả năng đáp ứng

Con có một Sứ vụ Thiêng liêng không giống sứ vụ của cha mẹ, người phối ngẫu hay con cái. Con có quyền hòa điệu với sứ vụ của mình và hoàn thành nó, bất kể người khác muốn gì nơi con. Thày không nói con không có trách nhiệm với người khác, nhưng con có thấy chăng là tinh thần trách nhiệm đó được dùng trong trò chơi kiểm soát con? Con có trách nhiệm với con cái mà con đã đem vào thế gian này. Con có trách nhiệm giúp chúng có điều khiện tốt nhất khi chúng gia nhập xã hội, nhưng có phải vì vậy mà con ngưng Sứ vụ Thiêng liêng của mình vì con cái? Không, không phải vậy!

Các đứa con đã tình nguyện để con sinh ra chúng. Trong nội tâm chúng biết con là ai và Sứ vụ Thiêng liêng của con là gì. Các đứa con đó tình nguyện, ở tầng cao của tâm chúng, đi vào một tình huống vì chúng biết đó là một cơ hội cho chúng phát triển. Có thể là con làm một chuyện con biết thuộc về Sứ vụ Thiêng liêng của mình, nhưng con cái không đồng ý với tâm vỏ ngoài của chúng. Chúng phản kháng, chúng lên án con và nói con không phải là cha mẹ có trách nhiệm. Hoặc con làm một chuyện con biết thuộc Sứ vụ Thiêng liêng của mình, nhưng chuyện đó chấn động cha mẹ con và họ nói con không phải là người con có trách nhiệm. Hoặc con làm một việc khiến người phối ngẫu của mình ngạc nhiên và nói con không phải là một người phối ngẫu có trách nhiệm.

Trách nhiệm nghĩa là gì? Nó là khả năng đáp ứng. Nó có khía cạnh Alpha và khía cạnh Omega. Khía cạnh Alpha là con có thể đáp ứng khi Hiện diện TA LÀ của con gửi xuống khuôn đúc của một giai đoạn mới trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nếu giai đoạn mới này đòi hỏi con thay đổi cuộc sống bên ngoài của mình, thì con phải có khả năng đáp ứng nhu cầu đó. Khía cạnh Omega là con làm hết sức mình lo liệu hoàn cảnh thế gian của mình, kể cả những người khác. Có tinh thần trách nhiệm hoàn thành khía cạnh Omega không có nghĩa con xóa bỏ khả năng đáp ứng khía cạnh Alpha. Alpha quan trọng hơn Omega, không phải ngược lại.

4.14. Đòi hỏi Tánh linh phải quy thuận vật chất

Đây là tâm thức quỷ Xa-tăng, tiêu biểu bởi lời Giê-su nói với Peter (Phê-rô): “Hãy đứng sau ta, quỷ Xa-tăng”. Con không đòi hỏi Tánh linh quy thuận vật chất; đó là tâm thức quỷ Xa-tăng. Đời sống trên hành tinh này đã tạo ra quá nhiều niềm tin tương tự, tỷ dụ nếu con là một người con, một cha mẹ, một phối ngẫu, một nhân viên có trách nhiệm thì con phải khiến Tánh linh của mình quy thuận đòi hỏi của thế giới vật chất.

Nếu con sống như vậy thì con sẽ không vượt qua tầng tâm thức 48. Có nhiều người ở dưới tầng tâm thức 48 mà không hung hãn, ác độc hay có thể gọi là ham quyền lực. Nhiều người trong số này đã quy phục tâm thức cho rằng họ phải để Tánh linh của mình quy thuận vật chất, và đó là lý do vì sao họ không vượt lên trên tầng tâm thức 48. Họ đã khắc phúc được tính hung hãn. Họ đã khắc phục những khuynh hướng ác độc, và ngay cả những khuynh hướng vị kỷ, nhưng họ không bước vào con đường tâm linh được chỉ vì họ còn tin rằng họ cần khiến Tánh linh của mình quy thuận vật chất.

Con yêu dấu, con đã nhận ra chăng? Con đường tự điều ngự mà các thày giảng dạy qua loạt bài này sẽ giúp con ngưng không để Tánh linh của mình quy thuận vật chất. Con trở nên sẵn sàng trôi theo dòng với Tánh linh. Điều này không có nghĩa con quên đi hay tạm ngưng những trách nhiệm thế gian của mình. Không có nghĩa là con đột nhiên cuốn gói và rời hoàn cảnh sống hiện tại của con, tuy rằng cũng có thể con cần làm chuyện này, như Giê-su và đức Phật đã chứng minh. Con không nhất thiết phải làm vậy, vì chuyện này tùy thuộc hoàn cảnh cá nhân. Con có thể sống một cuộc sống bình thường, có liên hệ gia đình, và đi trên con đường khai ngộ. Nhưng nó nghĩa con sắp xếp ưu tiên đúng để đặt việc đáp ứng với Tánh linh là ưu tiên chính của con. Sau đó, đáp ứng nhu cầu vật chất sẽ xảy ra trong khuôn khổ của Tánh linh và của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Thày bảo đảm với con cách tốt nhất để là một người con, cha mẹ hay phối ngẫu có trách nhiệm là theo Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Nếu cha mẹ, người phối ngẫu hay con cái của con có thể chấp nhận điều này, thì con sẽ có một liên hệ cao hơn rất nhiều với họ. Nếu họ không chấp nhận Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì quan hệ của con với họ thực sự là gì? Con sẽ có một quan hệ bị trò chơi quyền lực chi phối vì con đã quy phục họ. Con đã quy phục sự sở hữu và kiểm soát của họ và tạm ngưng hay hủy bỏ Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Chắc con cũng hiểu là không ai có quyền đòi hỏi người khác tạm ngưng hay hủy bỏ Sứ vụ Thiêng liêng của mình để chiều theo ý họ? Con không có quyền này.

4.15. Vượt qua trò chơi tình thương chịu khuất phục

Làm cách nào con khắc phục toàn bộ tâm thức dùng tình thương hủ hóa để sở hữu và kiểm soát người khác? Điểm chính là con cần ngưng không dùng tình thương để sở hữu hay kiểm soát người khác. Vì con đã đạt được các khai ngộ với Chân sư MORE và Lanto nên con đã khắc phục được phần lớn khuynh hướng này.

Điều con đối mặt ở Tia thứ Ba là cảm giác con phải phục tùng những đòi hỏi của người khác. Đa số học viên tới khóa nhập thất của thày với thái độ như sau: “Tôi là một người tâm linh. Vì tôi là một người tâm linh, tôi phải bày tỏ tình thương. Nếu tôi thực sự thương yêu, tôi phải phục tùng và đáp ứng nhu cầu, mong muốn và đòi hỏi của người khác. Quan trọng hơn cả, tôi không được làm điều gì khiến người khác có thể tố cáo tôi không có tình thương.”

Con có thể nhìn lại đời mình và nhận ra con có bị kẹt trong trò chơi này chăng? Con có thể nhìn lại cuộc đời mình và nhận ra khuynh hướng làm quá sức để tránh không bị lên án là không thương yêu, không thương người, không là người tốt, không phải là con tốt, cha mẹ tốt hay vợ chồng tốt? Con có thấy chăng là nhiều người trong số các con có nỗi sợ mình không thương yêu?

Con có biết nỗi sợ này từ đâu đến chăng? Đó là tự ngã chơi trò chơi quyền lực với con. Nó tìm cách sở hữu con bằng cách khiến con nghĩ phải tùng phục hình ảnh của thế gian định nghĩa thế nào là người thương yêu. Điều tệ nhất có thể xảy ra cho con là con không xứng đáng với hình ảnh đó. Khi con tin trò bịp bợm đó của tự ngã, thì con nói gì với thày, Paul người Venice, thượng sư của Tia thứ Ba? Con nói: “Chân sư Paul, xin thày đừng thách đố hình ảnh mà tự ngã của con đã tạo ra. Xin thày đừng khiến con làm điều gì có thể khiến bị lên án là người không thương yêu. Xin thày đừng khiến con gây chấn động cho cha mẹ, vợ chồng, con cái của con hay người khác. Xin thày đừng khiến con làm hay nói điều gì khiến họ lên án con là không thương yêu. Con không chịu nổi điều này.”

4.16. Vấn đề tâm lý chưa giải quyết và lời kết án từ người khác

Làm sao thày có thể giúp con đi lên tầng cao hơn? Làm sao thày có thể giúp con đạt được khai ngộ đầu ở khóa nhập thất của thày? Con có thấy chăng là điều người khác lên án con có thể và cũng có thể không liên quan đến con? Điều họ lên án con có thể dựa trên quan sát chính xác là con có vấn đề tâm lý chưa giải quyết. Nhưng điều họ lên án cũng có thể không liên quan gì đến con. Nó phát xuất từ những vấn đề tâm lý chưa giải quyết trong tâm họ, và họ phóng chiếu những điều này lên con. Con cần hiểu rõ điều này để tự giải thoát mình khỏi những trò chơi quyền lực mà người khác dùng với con.

Thày biết rõ đây là một điểm cân bằng tế nhị. Con không thể nói: “Bất cứ khi nào có người lên án tôi, thì đó là vì họ phóng chiếu lên tôi những vấn đề tâm lý chưa giải quyết của họ, do đó tôi không cần đếm xỉa đến lời lên án đó. Tôi không làm gì sai cả.” Đó là một cách tự ngã con muốn con phản ứng: từ chối không nhìn vào chính mình. Cách thứ nhì mà tự ngã đánh bẫy con là quy phục những lời tố cáo đó của người khác và khiến cả cuộc đời con xoay vần chung quanh chuyện né tránh những lời tố cáo đó.

Một cách chính yếu để hủ hóa tình thương, để dùng tình thương trong trò chơi quyền lực, đó là lời đe dọa con phải là một người tốt, và điều tệ nhất, tội lỗi lớn nhất mà con có thể phạm là làm điều gì khiến người khác lên án con không thương yêu. Con có thể cảm thấy là tự ngã của con muốn con cảm thấy khi một người khác lên án con không thương yêu, thì người ấy nói đúng? Chắc hẳn phải có lý do vì sao họ lại lên án con. Chuyện này phải có nghĩa là con có sắc thái không thương yêu nào đó.

Con có thấy chăng là họ có thể đang phóng chiếu lên con một hình ảnh giả thế nào là người thương yêu? Con không có bổn phận quy thuận hình ảnh đó, con cũng không có bổn phần đáp lại lời buộc tội này. Con không cần phản bác lại. Con không cần lên án ngược lại các người đó, vì như vậy con lại rơi vào trò chơi quyền lực. Con không cần phải giải thích. Con không cần phải biện minh.

Điều con cần làm ở giai đoạn này của con đường tu của con là bắt đầu tiến trình để thày chỉ cho con là trong nội tâm con có thương yêu hay không. Con cần phải mở tâm vỏ ngoài ra để cho nó thấm xuống tới tâm ý thức của con. Mỗi đêm con xin được tới khóa nhập thất của thày trong lúc con đọc các bài thỉnh trong khóa học này. Con mở tâm ra đón nhận cái gì con chưa từng thấy trước kia. Con cần sẵn sàng chấp nhận là có thể con có sắc thái không thương yêu nào đó.

Có thể là con có một số vấn để tâm lý chưa giải quyết. Có thể là con có một thói quen là một trò chơi quyền lực. Có thể là con đang tìm cách dùng tình thương để kiểm soát người khác. Con cũng cần sẵn sàng chấp nhận là người chung quanh con cũng có thể đang làm điều này với con. Họ cũng đồng thời lên án con là con làm điều này với họ, vì họ đang phóng chiếu vấn đề tâm lý chưa giải quyết của họ. Con cần để ý cả hai khía cạnh. Con cần nhìn thấu cả hai khía cạnh để con không dùng tình thương hủ hóa trong trò chơi quyền lực chống lại người khác, và con không cho phép họ dùng nó trong trò chơi quyền lực chống lại con. Con có thấy chăng? Nếu con muốn đạt khai ngộ này, con cần khắc phục cả hai khía cạnh Alpha và Omega.

Con không cần phải hoàn toàn khắc phục điều này ở tầng khai ngộ đầu ở khóa nhập thất của thày. Khắc phục trò chơi quyền lực dùng tình thương không phải chỉ là một vấn đề dùng uy lực. Nó có bảy khía cạnh. Trong chuyện này có sự hủ hóa của cả bảy tia, và đó là lý do vì sao con cần được chỉ dẫn về các tia khác khi con tới các tầng đó ở khóa nhập thất của thày.

4.17. Buông trôi theo dòng chảy của Tình thương

Con đùng sợ hãi, con đừng chán nản. Con hãy sẵn sàng nhìn nhận là bài giảng này đã khiến con chấn động, nhưng ai bị chấn động? Đó là cái Ta Biết hay là tự ngã? Thày khiêm nhường góp ý là tự ngã, nhưng con đừng mù quáng tin lời thày. Con hãy cho phép mình hòa điệu để kinh nghiệm sự thật là gì.

Kết quả tối hậu ở tầng khai ngộ đầu ở khóa nhập thất của thày là con có một kinh nghiệm ý thức về những gì con thấy ở tầng bản sắc của tâm mình. Con trải nghiệm một cách ý thức tự ngã phản ứng ra sao trong khi cái Ta Biết thì lại cảm thấy nhẹ nhõm.

Cai Ta Biết không bao giờ kháng cự lại Dòng sông sự Sống. Tự ngã thì luôn luôn kháng cự. Khi cái Ta Biết nhìn đời qua phin lọc của tự ngã, nó vẫn không kháng cự, nó chỉ kinh nghiệm đời qua phin lọc của sự kháng cự của tự ngã. Khi con học cách nhận ra sự khác biệt giữa hai điểm này thì con đã tiến một bước lớn trên đường tu. Lúc đó con bắt đầu nhận ra uy lực tối hậu trong thế giới vật chất là buông trôi theo dòng chảy của tình thương.

TA LÀ Paul người Venice. TA LÀ chân sư thăng thiên và là Thượng sư của Tia thứ Ba của Tình thương Thiêng liêng.

Tia thứ Ba: Con luôn luôn xứng đáng nhận tình thương

Bài truyền đọc do Đại thiên thần Charity cùng với Paul người Venice, ngày 18/4/2009, qua trung gian Kim Michaels.

“Và dù ta nói với giọng của con người và của thiên thần, nhưng nếu không có lòng từ thiện, thì ta không là gì cả.” Con yêu dấu, những lời trên đáng suy ngẫm. Các con mới nghe một bản nhạc truyền đạt sự hùng vĩ của sự rung động của đại thiên thần. TA LÀ Charity (Từ thiện). Các con yêu dấu, thày đến đây để cho các con ý niệm từ thiện thực sự là gì.

Thực sự thì từ thiện không hẳn là chữ đúng, nhưng vì ngôn ngữ có giới hạn nên không có một từ nào bày tỏ một cách đúng đắn rung động đằng sau nó. Các con, dùng ngôn ngữ và sự hiểu biết của mình, có thể tìm ra một từ thích hợp hơn, và đúng thực, đó là “vô điều kiện tánh”. Đây là sự rung động được bày tỏ qua Tia thứ Ba, bình thường được gọi là Tia thứ Ba của Tình thương.

Tình thương, như nhiều từ khác, với thời gian đã mang một lớp vỏ nhị nguyên khiến nó trở nên hầu như vô dụng. Do đó, tình thương vô điều kiện, lẽ dĩ nhiên là một khái niệm thích hợp hơn. Nhưng tại sao không chỉ giản dị gọi là vô điều kiện tánh?

Dòng Sông sự Sống là gì? Nó là sự biểu lộ vô điều kiện của bất cứ đặc tính nào của Thượng đế. Không ai có thể nào tiến xa hơn trên con đường tâm linh mà không thực sự hòa điệu với sự rung động của vô điều kiện tánh – giống như con đã nghe thày Lanto giảng, hòa điều với sự rung động của minh triết.

Có rất nhiều người trong các phong trào tâm linh và tôn giáo hiểu được nhu cầu vươn lên trên lòng ích kỷ, tính vị kỷ và các hình thức biểu lộ thấp khác. Điều mà họ tìm cầu là hòa điệu với sự rung động của tình thương, nhưng đó là tình thương nhị nguyên là đối cực của sợ hãi, giận dữ, hận thù. Lẽ đương nhiên tình thương, theo nghĩa thiêng liêng, không có đối cực vì nếu nó có đối cực thì nó đã không thiêng liêng.

Như Chân sư MORE đã nói, sa nhân có ảo tưởng vĩ đại là họ đang chống đối Thượng đế. Ta chỉ có thể chống đối cái gì thuộc cõi nhị nguyên, do đó họ chỉ chống đối một hình ảnh khô chết của Thượng đế. Nhiều người không chống đối gì cả nhưng họ muốn đi vào tình thương. Nhưng nếu con muốn hòa điệu với một hình ảnh khô chết, thì làm sao con có thể chạm được tình thương thật sự? Như thày Lanto đã giải thích, điều này không thể xảy ra được.

7.1. Con hãy suy ngẫm vô điều kiện tánh

Do đó, ta cần suy ngẫm về vô điều kiện tánh. Vô điều kiện tánh. Đó thực sự là lý do vì sao các thày đã trao truyền khái niệm rằng ở một mức nào đó của con đường tâm linh, con cần ngưng ý muốn thay đổi chính mình. Cách duy nhất để vượt qua ảo tưởng cuối cùng của cái ta tách biệt là chấp nhận chính mình – một cách vô điều kiện – như gì con là.

Khi các thày giảng về hai tia đầu, con đã nghe về nhu cầu làm bước chuyển vọt này. Thày, cùng với thày Paul người Venice, tới đây để cho con tầm nhìn của Tia thứ Ba.

Làm sao con có thể tiến lên Tia thứ Tư của tinh khiết nếu con không hòa điệu với vô điều kiện tánh? Phải chăng chính điều kiện đã biểu hiện bợn nhơ trong tâm và thân thể con – ngay cả trong thân vật lý của trái đất, mà ta có thể thấy qua bao nhiêu sự bất quân bằng và thiên tai trong môi trường thiên nhiên?

Một lần nữa, không có công thức bí mật hay thần bí nào có tác dụng tự động. Khái niệm con không thể và không xứng đáng biểu lộ tình thương, khái niệm đó chính là vấn đề.

Tình thương là một lực vô điều kiện muốn được biểu lộ. Con không cần làm gì để trở thành cánh cửa mở cho vô điều kiện tánh biểu lộ. Có điều kiện nào mà con cần hội đủ chăng để biểu lộ cái vô điều kiện – tình thương vô điều kiện tự nó tuôn chảy và tuôn chảy và thăng vượt và tăng triển và biểu lộ, bất kể điều kiện như thế nào?

Một lần nữa, con có thấy chăng là điều này không thể xảy ra, điều này hoàn toàn phi lý và chỉ có cái ta tách biệt mới có thể tin như vậy? Con hơn cái ta tách biệt. Khi con còn nắm chặt khái niệm là con cần tới một trạng thái toàn hảo nào đó – trước khi con xứng đáng và có khả năng nhận lãnh tình thương của Thượng đế tuôn chảy xuyên qua con – khi con còn thấy mình tách biệt với dòng chảy của tình thương, thì tình thương không thể tuôn chảy. Nó sẽ không chấp nhận bất cứ điều kiện nào.

Con có quyền chấp nhận điều kiện cho chính mình. Nhưng con đừng rơi vào cạm bẫy của tâm thức vi tế của những sinh thể đã hoàn toàn tự đồng hóa với tâm thức nhị nguyên, và do đó đã cao ngạo tin rằng họ đang là một đối cực chống lại Thượng đế. Con không thể hạn chế Thượng đế, con không thể hạn chế tình thương, con không thể hạn chế sự biểu hiện của tình thương.

Hoặc con để nó tuôn chảy, hay nó sẽ tuôn chảy vòng quanh con. Không thể có cái gì ở giữa. Con có thể nghĩ có cái gì ở giữa, vì con người từ rất lâu đã tạo ra hình ảnh nhị nguyên, tương đối của tình thương, như là đối cực của hận thù, giận dữ, sợ hãi v.v.. Một số người đã trở nên thiện nghệ trong việc tạo một bề ngoài thương yêu và nhân từ.

Con có thể thấy ở nhiều nơi, ngay cả ở trung tâm chữa lành này, là có một số người đã rất thiện nghệ trong việc tạo một hình ảnh, như người đại diện một tổ chức thế gian. Hoặc con có thể tìm tới những người khiêm tốn suốt ngày đứng giúp người khác bước qua vũng nước chữa lành, và con có thể tìm thấy nơi họ một biểu lộ tình thương không gượng dối, không điều kiện. Biểu lộ này được tảy rửa trong ước muốn giúp người khác.

7.2. Khắc phục nỗi sợ bị ruồng bỏ

Tình thương không muốn sở hữu. Khi nó không muốn sở hữu, thì cũng có nghĩa nó không cần được đền đáp. Con hãy xem xét nỗi sợ biểu lộ tình thương vì sợ bị ruồng bỏ. Khi con có nỗi sợ bị ruồng bỏ, thì con chưa hòa điệu với sự rung động của vô điều kiện tánh. Khi tình thương được biểu lộ vô điều kiện, thì làm sao con có thể sợ bị ruồng bỏ?

Làm sao tình thương vô điều kiện có thể bị ruồng bỏ? Tình thương vô điều kiện tự nó đầy đủ. Nó vui sướng khi chỉ đơn giản được biểu lộ, khi nó tự biểu lộ, khi nó tuôn chảy.

Khi con nghĩ con phải biểu lộ tình thương cho một người mà thôi – và con muốn tình thương đó được người đó đón nhận, ngay cả là được đón nhận một cách nào đó – thì con đang không ở trong dòng chảy của tình thương vô điều kiện. Con đang hòa điệu với rung động thấp của tình thương có điều kiện. Con vẫn có thể có tình thương đối với một người khác, con vẫn có ý muốn biểu lộ tình thương đó, nhưng con chưa đạt tới tiềm năng cao nhất. Con sợ bị ruồng bỏ, hay con muốn sở hữu, hay được đền đáp một cách nào đó.

Khi con nghĩ con cần điều gì từ một người khác hay từ nguồn nào đó trong vũ trụ vật chất, thì con cảm thấy thiếu thốn. Con có tâm thức thiếu hụt. Con nghĩ con thiếu điều gì, và người nào khác phải tới để lấp đi sự thiếu hụt đó, lấp đi lỗ hổng đó, để con có thể trọn vẹn. Đó là một ảo tưởng.

Ngay cả khái niệm ngọn lửa song sinh – tức là có một người là ngọn lửa song sinh của con và do đó ngọn lửa song sinh đó là tình thương toàn hảo có thể khiến con trọn vẹn – đó cũng không phải là mức hiểu biết cao nhất. Ngọn lửa song sinh tâm linh thực sự của con là cái ta cao của con, là Hiện diện TA LÀ của con. Chỉ khi nào con hợp nhất với thì con mới đầy đủ, mới trọn vẹn.

7.3. Vô điều kiện tánh và sự chữa lành

Những điều trên soi sáng ra sao khái niệm chữa lành? Nó có nghĩa là con không thể tự chữa lành khi còn trong tâm thức cho rằng mình cần chữa lành. Con không thể trở nên trọn vẹn với tâm thức thấy mình không trọn vẹn.

Cách duy nhất để thoát ra khỏi thế tiến thoái lưỡng nan này là thăng vượt ảo tưởng là con không trọn vẹn. Điều này thoạt nghe giống như một thế tiến thoái lưỡng nan khác. Làm sao con có thể thăng vượt ảo tưởng mình không trọn vẹn khi mình đang cảm thấy mình không trọn vẹn?

Nhưng sự thực là con có thể làm được – khi con nhận ra sự kiện con là ai. Con là một sinh thể có tự nhận biết, và như Chân sư MORE đã giảng, con đã được ban cho quyền tự quyết hoàn toàn. Con có tự do sáng tạo mọi trải nghiệm mà con mong muốn trải nghiệm. Làm sao con tạo ra một trải nghiệm? Bằng cách khoác vào một bộ y phục, một vai trò, và nghĩ: “Đây là người TA LÀ”. Như các thày đã giảng, dù con có đồng hóa mình với ý niệm bản sắc tách biệt đó biết bao nhiêu chăng nữa, thì con vẫn là gì con là.

Con có tiềm năng nhận ra và thừa nhận con là ai. Con có tiềm năng nói: “Không phải là một lực bên ngoài – đây có thể là rắn, hay lực bên ngoài nào khác, cũng có thể là Thượng đế vỏ ngoài muốn trừng phạt tôi – đã khiến tôi rơi vào cảm nhận mình không trọn vẹn. Đó là kết quả của một số chọn lựa mà tôi đã lấy.”

Khi con nhận ra chính con đã chọn lựa rơi vào cảm nhận không trọn vẹn, thì điều hợp lý là con có quyền năng thay đổi những chọn lựa đó. Con có thể thay đổi chúng bằng chọn lựa khác đem con trở lại với trọn vẹn, hay đúng hơn, mang con ra khỏi ảo tưởng là con đã tách biệt khỏi sự trọn vẹn. Vì đúng thực, làm sao con có thể tách biệt khỏi cái vô điều kiện?

“Vô điều kiện” có nghĩa là có mặt khắp nơi. Con không thể tìm ra một chỗ nơi đó tình thương vô điều kiện của Thượng đế vắng mặt. Điều này không thể có được.

Con giống như con cá chối bỏ nó đang ướt. Thày cũng biết là loài cá thường được coi là không thông minh, nhưng tuy thế, con cũng thấy nếu một con cá nghĩ như vậy thì thật là lếu láo.

Lẽ dĩ nhiên, con nhận ra là tự ngã không khôn ngoan lắm – tuy nó nghĩ nó khôn ngoan, tuy có người nghĩ nó khôn ngoan. Đúng thực là con có thể, như một số người đã làm, man trá tạo cho mình một đia vị khiến nhiều người trong thế gian coi tự ngã của con khôn ngoan hay xuất sắc một lối nào đó. Tuy thế, khi con có thể bắt đầu cười tự ngã, thì con đã bắt đầu tách ra khỏi nó.

7.4. Vô điều kiện tánh trong quan hệ con người

Đúng thực là có nhu cầu nhìn nhận tình thương không phải là tình yêu lứa đôi trịnh trọng mà con thấy mô tả trong phim, kịch, sách hay tranh vẽ. Con yêu dấu, ta không nên nhìn tình thương với thái độ trịnh trọng.

Nếu con coi tình thương trịnh trọng, thì đó chỉ có thể là tình thương có điều kiện. Khi con hòa điệu với tình thương vô điều kiện của Thượng đế, con chỉ đơn giản trôi theo Dòng Sông sự Sống. Do đó, con chỉ cảm thấy vui mừng.

Con hãy xem xét tình cảnh con nghĩ con thương yêu một người khác, nhưng con không cảm thấy vui mừng. Con cảm thấy căng thẳng, con sợ bị ruồng bỏ, hay con cảm thấy người kia phải thương con trở lại và phải cư xử một cách nào đó. Con thực sự đang tìm cách – nếu con thành thật với chính mình – giới hạn người kia thay vì cho người kia tự do. Con có thấy chăng là tình thương vô điều kiện không bao giờ tìm cách giới hạn ai cả, mà chỉ muốn tất cả mọi người trở nên HƠN NỮA, và tự do trôi theo Dòng Sông sự Sống? Vậy làm sao con có thể tạo trong tâm hình ảnh là chỉ có một người duy nhất trên trái đất xứng đáng được nhận lãnh tình yêu của con, và con nhất định tình yêu này phải được đáp trả? Nếu không được vậy thì con rơi vào trạng thái kịch cỡm mà con thấy trong các vở kịch là con muốn chết thay vì bị ruồng bỏ. Con có thấy sự hài hước trong đó chăng? Đây đúng là một màn trong một hài kịch thiêng liêng, như người xưa nói, tuy đây không phải là sự thiêng liêng thực sự mà chỉ là một hình ảnh của sự thiêng liêng do con người tạo ra.

Con hãy cười sự trịnh trọng của mình khi con nghĩ tới tình yêu. Con hãy trút bỏ bộ áo diễn kịch của vai trò người tình trịnh trọng. Con hãy đơn giản trút bỏ nó! Con hãy trở nên người tình vui vẻ vì con nhận ra con là người yêu dấu của một người tình vĩ đại, là Người Tình Thiêng liêng thương yêu con như người yêu dấu của ngài.

Đúng thực là cái ta cao của con, Hiện diện TA LÀ của con, chính là Người Tình Thiêng liêng của con, thương yêu con như người con yêu dấu duy nhất. Nếu con muốn nhận được tình yêu cho chính cá nhân mình, con đừng nên tìm nơi một người khác vì không ai cho con được. Con hãy tìm nơi cái ta cao của con. Con hãy đầy đủ trong tình yêu đó.

Lúc đó con có thể, khi con đã hoàn toàn chào đón và chấp nhận sự đầy đủ đó, tiến thêm bước nữa và nhập một với dòng chảy của tình thương. Qua đó, con trở thành một với Người Tình Thiêng liêng, và nay con trở thành Người Tình Thiêng liêng đang hiện thân – là cánh cửa mở cho dòng chảy của tình thương. Con là cánh cửa mở cho lực thương yêu mọi sự sống và tìm cách nâng cao mọi sự sống. Lúc đó làm sao con có thể rơi vào cạm bẫy của ảo tưởng cho rằng tình yêu của con phải chuyên chú vào một người mà thôi?

Có phải chăng là thày đang nói là con không thể có môt quan hệ thương yêu giữa một người nam và một người nữ? Không, thày không nói vậy. Thày chỉ nói là con sẽ không bao giờ có một quan hệ thành công, một quan hệ thể hiện được tiềm năng cao nhất của nó, nếu con không tự giải thoát khỏi lớp vỏ của điều kiện tánh – và qua đó con cũng giải thoát người bạn đường của con. Quan hệ của con trở nên một quan hệ vui vẻ, vui đùa, tuôn chảy không bị gò bó bởi giới hạn, điều kiện, mong chờ, lên án, và cảm nhận tình yêu không được đáp trả.

7.5. Vì sao con muốn lên thiên đàng?

Như Chân sư MORE có nói, nếu cách con sống đời tâm linh không dựa trên sự vui mừng, thì tâm linh đâu có nghĩa lý gì? Vì sao con muốn lên thiên đàng nếu con nghĩ thiên đàng sẽ khiến con khổ sở? Vì sao con lại muốn có một quan hệ tình yêu nếu con nghĩ nó sẽ khiến con khổ sở?

Con hãy thay đổi nhận thức của mình. Con hãy bước ra ngoài điều kiện tánh và chào đón vô điều kiện tánh. Con có cảm thấy là con không thể buông bỏ tình yêu đối với một người nào đó? Đó chính là một điều kiện. Nếu con còn bám chặt nó, thì con sẽ khổ sở và có thể con cũng khiến người kia khổ sở luôn.

Lẽ dĩ nhiên, thày là biểu hiện của tình thương vô điều kiện của Thượng đế và thày thương yêu con vô điều kiện – dù con chọn muốn mình khổ sở. Tình thương của thày không có điều kiện, và do đó con sẽ nhận tình thương đó bất kể con nghĩ gì về chính mình. Dù con có nghĩ – vì điều gì con đã làm hay đã không làm – là con không xứng đáng nhận tình thương của thày, nhưng không phải vậy.

Nếu con không thể buông bỏ cảm nhận mình không xứng đáng – nếu con đã học pháp, đã đọc các bài nguyện, hay đã thực tập thiền hay các hình thức thực tập tâm linh khác mà vẫn cảm thấy bị kẹt trong một điều kiện nào đó – thì con có một chọn lựa cuối. Con hãy ngưng tìm cách thoát ra khỏi điều kiện, con hãy chào đón nó.

Chuyện gì xảy ra khi con đi vào một trạng thái rung động thấp, khi con chấp nhận một điều kiện nào đó? Con chấp nhận rằng, vì điều kiện đó, con không thể để cho tình thương tuôn chảy tự do và vô điều kiện. Nó phải được biểu hiện hay không được biểu hiện tùy theo một tiêu chuẩn nào đó. Đó chính là điều khiến con cảm thấy không trọn vẹn. Con khóa dòng chảy từ thể cao của con, dòng chảy của vô điều kiện tánh chảy xuống từ Hiện diện TA LÀ của con đang tìm cách nâng mọi sự sống lên. Đó chính là lý do vì sao con cảm thấy khổ sở. Con cảm thấy, vì điều kiện này hay điều kiện kia, con không thể thương yêu.

Do đó, con hãy thương yêu điều kiện đang khiến con nghĩ con không thể thương yêu. Con hãy thương yêu cảm nhận mình đang khổ sở. Nếu con có thể thương yêu điều mà nhiều người cho là không thể thương yêu, thì con không còn tách biệt với dòng chảy của tình thương. Chắc hẳn là một ngày nào đó, con sẽ thức tỉnh và nói: “Hay quá, tôi không còn khổ sở nữa.” Lúc đó, con hãy đi theo niềm hân hoan của mình.

7.6. Hãy nghĩ tới việc sử dụng uy lực của âm nhạc

Các thày, là đại diện của Tia thứ Ba, muốn lưu ý con về uy lực của âm nhạc. Hầu hết các con đã nhận ra là, trong suốt cuộc đời mình, có những bản nhạc nâng cao tâm hồn mình và giúp mình hòa điệu. Có thể là con không nhận ra điều này với tâm vỏ ngoài, nhưng các bài nhạc đó đã giúp con hòa điệu với một rung động bên ngoài tâm thức bình thường của con, qua đó giúp con hoà điệu với một rung động vượt quá điều kiện của con. Nếu con cảm thấy tâm hồn bay bổng qua âm nhạc, thì con hãy dùng âm nhạc. Con hãy tìm loại nhạc nâng tâm hồn con lên vì nó biểu lộ dòng chảy của Dòng Sông sự Sống.

Con đừng chỉ nghe những khúc nhạc đó khi con lái xe, rửa chén hay làm những việc tay chân khác. Con hãy thỉnh thoảng vào một căn phòng nơi con có thể ở một mình và không bị quấy rầy. Con hãy bắt đầu bản nhạc, tắt đèn, nằm xuống giường sao cho chỉ có tối thiểu trọng lực kéo thân thể con xuống. Sau đó con cho phép âm nhạc đưa con theo dòng chảy của nó cho tới khi con nhận ra mình tới không gian thiêng liêng của vô điều kiện tánh. Con bỗng nhiên nghe thấy đằng sau bài nhạc âm thanh của chính sự sống. Con yêu dấu, khi con nghe âm thanh đó, tiếng ngân của vũ trụ, con sẽ có được, một lần nữa, một sự đồng-đo lường, một trải nghiệm của tình thương thực sự khi nó vô điều kiện.

Con có thể dùng trải nghiệm này để có một cái nhìn khác về cuộc đời và thấy là điều kiện tánh lấy đi cảm giác nổi lềnh bềnh khi không có điều gì lôi kéo con về một điều kiện nào đó, một vai trò và bộ y phục trong màn kịch của vũ trụ vật chất. Đây không phải là trốn tránh – khi con dùng nó không để trốn chạy các vấn đề mà con đang phải đương đầu. Con dùng nó để có một tầm nhìn khác về các vấn đề của mình, để con nhận ra con không một với vấn đề. Con hơn nữa, vì con đã trải nghiệm là con hơn nữa.

Con có nghĩ chăng là người yêu kịch nghệ mà thày nói tới có thể nổi lềnh bềnh trong không gian kỳ diệu? Không đâu, vì y quá chìm đắm trong chính mình và các điều kiện của y, và không thể buông bỏ chúng. Nhưng con thì con có thể! Cái ta thật của con có thể trải nghiệm vô điều kiện tánh. Chỉ khi nào con đã trải nghiệm , thì con mới thật sự biết là có cái gì bên ngoài thế giới điều kiện. Chỉ khi nào con biết nó, thì con mới có thể tiến lên bước tới là nhập một với nó. Lúc đó con thấy mình trước tiên là đối tượng của tình thương của Người Tình Thiêng liêng, sau đó con nhập một với Người Tình Thiêng liêng và con thấy – con là cánh cửa mở của – tình thương muốn được biểu lộ đối với mọi sự sống. Đây là chìa khóa để vượt qua ý niệm tình thương giả, tình thương có điều kiện.

7.7. Thân thể không phải là kẻ thù của con

Con không thể giản dị ép mình phải thương yêu một người hay thương yêu căn bệnh của mình, hay ép tình thương của mình biểu lộ cách nào khác. Con chỉ có thể hòa điệu với trạng thái vô điều kiện và để nó tuôn chảy – để nó tuôn chảy.

Con yêu dấu, điều này nghĩa là gì? Khi con nghĩ về nó một cách trung thực, con sẽ thấy là có rất nhiều chuyện trên thế gian mà con không muốn thấy, con co rút lại trước chúng, con rút lui khỏi chúng, con mong muốn chúng không hiện hữu. Chắc chắn đây là điều hiểu được, khi ta thấy tình trạng của thế giới.

Tuy nhiên, thực tế là khi có điều gì con không muốn thấy, thì con nghĩ, con cảm thấy, con có cảm giác là con không thể biểu lộ tình thương với cái đó. Con cảm thấy là cái đó không xứng đáng được thương yêu. Con phải là vị quan tòa và phải giữ lại tình thương để nó không tuôn chảy qua con tới điều kiện đó hay người đó hay nhóm người thuộc tôn giáo hay chủng tộc đó, hay bất cứ cái gì khác phân chia con người.

Khi con bắt đầu khóa dòng chảy của tình thương, thì chuyện gì đương nhiên sẽ xảy ra? Con người của con, thể thấp của con, trở thành một hệ thống khép kín. Khi đặc tính này lan qua bốn thể phàm của con và tới thể vật lý, thì con bị bệnh.

Lúc đó con nghĩ là thân thể của con đang chống đối lại con. Con sợ không dám nhìn vào tình trạng thân thể, con mong muốn không thấy nó, con muốn chạy trốn nó, như thày Lanto đã giảng. Con nghĩ con không thể nào thương yêu điều đang tàn phá thân thể của con.

Con đang làm gì trong tiến trình này? Con đang nói là những tế bào bị ung thư, con không thể thương yêu chúng. Nhưng các tế bào này đang làm gì? Chúng đang trải bày một trạng thái tâm thức đã khiến con khóa dòng chảy của tình thương. Khi con nói là con không thể thương yêu các tế bào đang trải bày tâm thức đó, thì làm sao các tế bào đó có thể giải thoát chúng khỏi bệnh trạng đó?

Con phải nhận ra là tế bào không có sự tự nhận biết giống như con. Chúng chỉ có thể trải bày những gì được phóng chiếu lên chúng. Khi con phóng chiếu một hình ảnh không thương yêu khiến chúng mang một bệnh – hoặc bệnh ung thư hay bệnh nào khác – và sau đó con củng cố thêm bằng cách phóng chiếu hình ảnh khác là các tế bào đó phải bị tiêu diệt và bứng ra khỏi thân thể con – vì con không thương yêu chúng, có thể con tức giận hay thù hận chúng – thì làm sao các tế bào đó thoát được hai gánh nặng mà con đặt lên chúng?

Con là người duy nhất có thể phá được vòng lẩn quẩn đó. Con làm điều này bằng cách nhận ra là chính sự thiếu thốn tình thương đã khiến các tế bào của con trải bày thành căn bệnh. Cách chữa lành thật sự duy nhất là tái lập dòng chảy của tình thương – và con phải là người làm công việc tái lập đó. Con yêu dấu, con không cần phải thương yêu căn bệnh. Nhưng con cần thương yêu các tế bào để con thương yêu chúng thoát căn bệnh – thoát để tự do phơi bày trạng thái cao hơn của sự duy nhất, của sự khỏe mạnh toàn hảo.

Như thày Lanto đã giảng, ta có thể thấy minh triết ở khắp nơi. Có minh triết trong các tế bào của con. Chúng không có tự nhận biết, nhưng chúng có minh triết của Mẹ Thiêng liêng biết cách thể hiện sức khỏe toàn hảo – nếu chúng được phép trải bày đặc tính bên trong chúng. Có phải chăng là Thượng đế đã viết luật của ngài lên tạng phủ của con? Khi con thương yêu các tế bào tự do, chúng sẽ biết cách rũ bỏ bệnh ung thư hay các chứng bệnh khác và trải bày tình trạng khỏe mạnh tự nhiên của chúng.

7.8. Tình thương của thày lúc nào cũng sẽ có mặt

Thày đang ngưng lại để ghi nhận dòng tâm thức trở ngược về từ các con – các sợ hãi và nghi ngờ những gì các thày đã nói với con trong bài này và các bài trước. Thày đang hấp thụ tâm thức đó. Sự kiện con nghi ngờ lời thày, con sợ không dám đem ra áp dụng, không có nghĩa là thày không thương yêu con. Thày thương yêu con bất kể con phản ứng ra sao hay không phản ứng lại lời nói và sự rung động của thày. Tình thương của thày vô điều kiện, vượt thời gian. Nếu con không thể chấp nhận nó lúc này, thì con đừng lo lắng. Con không cần chê trách mình vì con không thể tức khắc chấp nhận điều con nghe thấy.

Thày muốn con biết là thày sẽ luôn luôn có mặt. Tình thương của thày sẽ luôn luôn có mặt. Nếu con không thể chấp nhận nó lúc này, thì bất cứ lúc nào con có thể chấp nhận nó, con đừng rơi vào cạm bẫy của ảo tưởng cho rằng vì con không thể chấp nhận thày trong quá khứ, thì con cũng không thể chấp nhận thày bây giờ, vì con không xứng đáng. Con đừng nên tạo ra thêm những lớp ảo tưởng bên trên ảo tưởng.

Con hãy nhớ lời thày: tình thương của thày vô điều kiện. Con không cần hội đủ điều kiện nào để xứng đáng nhận lãnh nó. Con chỉ có hai chọn lựa: hoặc con chấp nhận, hoặc con chối bỏ. Tình thương thày vô điều kiện, do đó nếu con chối bỏ nó, thày không bị ảnh hưởng bởi sự chối bỏ đó.

Thày sẽ tiếp tục thương yêu con vô điều kiện. Bất kể con lúc này chối bỏ tình thương của thày mạnh mẽ như thế nào chăng nữa, bất cứ lúc nào trong tương lai khi con quyết định trút bỏ bộ y phục, thì tình thương của thày vẫn có đó để con chấp nhận. Tự ngã của con muốn con nghĩ là không thể như thế. Nhưng sự thực là như thế.

Trong quá khứ đã như thế.

Trong tương lai cũng sẽ như thế.

Đó là sự thực về tình thương. Đó là tình thương thực sự. Nếu con muốn tách ra khỏi tình thương của thày, nếu con muốn chối bỏ nó, thì thày vẫn thương yêu con vì con chối bỏ thày. Bất kể con cảm nhận ra sao, con nghĩ gì, thày vẫn thương yêu con.

Tình cảm và tư tưởng là hình ảnh phù du đi qua tâm con người. Con hãy ngưng máy chiếu phim thì con sẽ thấy là màn ảnh cuộc đời vẫn trắng, bất kể hình ảnh nào đã được phóng chiếu lên đó. Cốt lõi con người con, cái Ta Biết của con, là một tấm màn trắng, có nghĩa là dù con được tạo ra với cá thể, con không được tạo ra với điều kiện. Con yêu dấu, con đã không được tạo ra với bất cứ điều kiện nhị nguyên nào.

Con được tạo ra với đặc tính cá biệt vô điều kiện. Thày biết rõ là tâm đường thẳng của con không thể thấu hiểu khái niệm này. Nhưng phải có một cách diễn tả bằng lời khiến con suy nghiệm, cho tới khi con tới điểm chuyển đổi nhận thức. Con nhận ra vô điều kiện tánh có thật, và các điều kiện không có thật, các điều kiện này chỉ đang che khuất tấm màn trắng bằng cách khiến con chú tâm vào những hình ảnh phù du không thể nào thỏa mãn con người thật của con, lòng khát khao tình thương thật của con.

Làm sao bất cứ tình thương nào đến từ cõi vật chất có thể thỏa mãn lòng khao khát tình thương bẩm sinh của con? Lòng khao khát bẩm sinh của con là lòng khao khát nhập một với cái con là, cái ta cao của con. Đó là lòng khao khát trầm mình trong Dòng Sông sự Sống bằng cách thực thi vai trò mà cái ta cao đã tạo ra cho con – đó là một người đồng sáng tạo và thể hiện nước Trời trong vũ trụ vật chất.

7.9. Hãy hòa điệu với tình thương

Lời của thày đến với các con qua trung gian một người đang hiện thân trong cõi vật chất, và điều không thể tránh được khi con hiện thân, là khả năng thương yêu của con có giới hạn. Chắc chắn là không ai đang hiện thân có thể đồng thời ở trong sự viên mãn của tâm thức thăng thiên – cũng là sự viên mãn của vô điều kiện tánh. Con hãy đừng chú tâm vào người sứ giả bên ngoài. Con hãy vượt quá hình tướng bên ngoài, con hãy vượt quá âm thanh của lời nói, con hãy vượt quá ngôn từ.

Con hãy theo ngôn từ như theo một dòng tâm thức dẫn tới sinh thể thật mà TA LÀ. Thày là một với đẳng cấp Tình thương Thượng đế, tình thương vô điều kiện và tất cả các sinh thể đang biểu lộ vô điều kiện tánh đó. Con hãy theo dòng tâm thức đó và nhận ra là khả năng thương yêu của thày quả thật vô biên. Thày có thể nhận lãnh và tiêu trừ bất cứ điều kiện nào mà con muốn buông bỏ. Như phần kết của bài truyền đọc này, thày cho con cơ hội buông bỏ vào dòng tâm thức của thày mọi điều mà con muốn buông bỏ. Con đã nói, với Chân sư MORE: “Đủ rồi, như vậy là đủ rồi”. Do đó, thày sẽ để vị sứ giả đọc những câu sau đây trong lúc con buông bỏ.

[Sứ giả đọc những lời dâng lên từ bên trong;]

Tình thương là một dòng suối tuôn chảy, một suối nguồn của vô điều kiện tánh, giống như dòng nước cứ chảy, chảy qua các tảng đá – ngay cả loại đá cứng nhất – và soi mòn chúng, từng chút từng chút một. Nó mềm mại hơn tảng đá rất nhiều, và tâm đường thẳng không thể hình dung là nó có thể soi mòn tảng đá. Nhưng, tình thương chính như thế. Nó tuôn chảy vô điều kiện, và nếu nó có vẻ như đang không chảy về đâu, nếu có vẻ là con người không nhận nó và không thay đổi, nó vẫn không ngừng chảy. Qua nhiều ngàn năm, nó sẽ soi mòn tảng đá rắn chắc của cái ta tách biệt.

Quả thật Người Tình Thiêng liêng sẽ không bao giờ bỏ rơi người yêu dấu, sẽ không bao giờ ngưng tuôn chảy, sẽ không bao giờ ngưng cho ra. Rốt cuộc các điều kiện khó khăn nhất sẽ bị soi mòn bởi dòng chảy của tình thương, dòng chảy vĩnh hằng, không thể ngăn chặn, vô điều kiện của tình thương. Phải chăng là các điều kiện đều được cấu tạo bởi các thành phần nhỏ hơn, như con biết tảng đá được cấu tạo bởi phân tử và nguyên tử, và nhỏ hơn nữa, bởi các hạt hạ nguyên tử li ti cấu tạo nguyên tử. Tình thương tuôn chảy có thể chỉ bứng đi được một hạt hạ nguyên tử của tảng đá, nhưng tuy thế, đó vẫn là một sự thay đổi.

Tình thương tuôn chảy không nản chí nhưng luôn luôn được khích lệ và do đó cứ tuôn chảy mãi và bứng đi một nguyên tử, và một nguyên tử nữa, và một nữa, và một nữa. Chẳng bao lâu, Dòng Sông sự Sống đục được một khe núi trong nền đá của tâm thức con người. Tuôn chảy, tuôn chảy, tuôn chảy mãi mãi. Con hãy thấy là ngọn núi hùng vĩ nhất cũng bị soi mòn dần dần bởi nước mưa mềm mại từ trời đổ xuống, như giọt nước mưa mềm mại của tình thương rơi xuống người chính đạo và người bất chính, sự xấu xa và sự tốt lành.

Với tình thương, không có gì chính đạo hay bất chính, không có gì xấu xa hay tốt lành. Tình thương tuôn chảy không điều kiện, hoàn toàn không có điều kiện nào. Với tình thương, điều kiện không có thực chất và không thường hằng. Tình thương biết rằng nếu nó tiếp tục tuôn chảy, thì nó sẽ soi mòn những điều kiện khó khăn nhất. Ngay cả những trái tim khô cứng nhất cũng sẽ bị soi mòn bởi dòng chảy không thể ngăn chặn của tình thương.

Một ngày nào đó. trái tim đó sẽ nhìn lại chính nó và nói: “Tại sao tôi cứ tách mình ra khỏi dòng chảy của tình thương? Tôi đã chán ngán kinh nghiệm tách biệt. Bây giờ tôi hiếu kỳ muốn biết tôi sẽ cảm thấy thế nào khi ở trong dòng chảy của tình thương.” Bỗng nhiên nó buông mình vào dòng chảy như đập vỡ nước – và bỗng nhiên Dòng Sông sự Sống bị ngăn chặn từ bao nhiêu kiếp được thoát ra như một bộc phát mà không điều kiện nào, không tự ngã nào – dù là tự ngã cường tráng nhất – có thể ngăn được. Cái ta thực của con tuôn chảy với tình thương và cảm thấy biết bao hân hoan, biết bao tự do khi thoát khỏi điều kiện. Giải thoát hoàn toàn, vô điều kiện.

[Đại thiên thần Charity tiếp tục:]

Vậy các con hãy hít vào [cử tọa hít vào]. Hãy nhận biết điều kiện và trút bỏ nó khi con thở ra [cử tọa thở ra].

Bây giờ các con hãy hít vào và giữ hơi thở, và khi các con thở ra thày sẽ hít vào. Hãy thở ra [cử tọa thở ra trong khi sứ giả hít vào].

Khi thày trao tình thương vô điều kiện, các con hãy hít vào và hít vào tình thương đó [sứ giả thở ra, cử tọa hít vào].

Bây giờ các con hãy trút bỏ, và thày sẽ hít vào điều kiện [cử tọa thở ra trong khi sứ giả hít vào].

Hãy hít vào tình thương [sứ giả thở ra, cử tọa hít vào].

Hãy trút bỏ (cử tọa thở ra trong khi sứ giả hít vào].

Hãy hít vào [sứ giả thở ra, cử tọa hít vào].

Các con bây giờ đã trải nghiệm hơi hít vào và thở ra của tình thương. Tuy thế, TA LÀ không giới hạn bởi không gian và thời gian, và các con có thể lặp lại sự thực hành này bất cứ lúc nào, chẳng hạn như sau khi nghe một bản nhạc đánh thức lại cảm nhận tuôn chảy nơi con.

Các thày, là đại diện Tia thứ Ba, ngợi khen các con đã sẵn sàng đi vào Hiện diện của các thày, và qua đó, tuy có thể các con không nhận ra, các con đã đôi phần tách mình ra khỏi các nỗi sợ của mình. Các con không thể ở trong Hiện diện của Tình thương Vô điều kiện mà vẫn hoàn toàn đồng hóa với nỗi sợ. Sự kiện các con ở đây chứng minh là các con không còn hoàn toàn đồng hóa với cái ta tách biệt. Thày khuyến khích các con đón nhận cái ta mới đó, nó biết con hơn nữa, vì con đã trải nghiệm sự hợp nhất với cái Hơn Nữa.

Các con được niêm phong, nhưng một lần nữa chúng ta lại thấy giới hạn của ngôn từ. Làm sao các con có thể được niêm phong trong cái vô điều kiện? Các con yêu dấu, các con hãy vượt quá ý tưởng muốn được niêm phong, và chỉ trong dòng chảy của tình thương vô điều kiện.