Chương này là bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama có tựa đề nguyên thủy “Tôn giáo có phải là một hình thức đạo Satan trá hình?” được trao truyền ngày 1 tháng 1, 2014, qua trung gian Kim Michaels.
Gautama TA LÀ. Đâu là chủ đề đứng đầu trong tâm của Phật vào ngày tốt lành này, ngày đầu tiên của Năm Mới? Tất nhiên đó là: Năm nay, năm 2014, sẽ đặt trọng tâm vào những khai ngộ của Tia thứ Hai, thường được gọi là Minh triết Thượng đế. Các khai ngộ này sẽ đem lại gì? Sẽ có ý nghĩa gì cho thế giới? Sẽ ý nghĩa thế nào với từng cá nhân các con, những người tâm linh?
Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xem xét sự khác biệt giữa tâm linh và tôn giáo. Dĩ nhiên là các thày, các chân sư thăng thiên, không ủng hộ “tôn giáo” như người đời trên địa cầu thường gọi tên như vậy. Tại sao các thày không ủng hộ tôn giáo? Bởi vì tôn giáo chia cách con người với Thượng đế của họ, với Phật, với trải nghiệm nội tâm về thực tại. Tôn giáo, như được biết đến trên trái đất qua các tôn giáo lớn đã chi phối các quốc gia, các nền văn hóa và văn minh, không thuộc về Thượng đế, không xuất phát từ Thượng đế, không đến từ cõi tâm linh.
Thày biết nhiều người sẽ ngỡ ngàng với câu nói này và sẽ phản đối. Họ sẽ bảo rằng chắc chắn tôn giáo của họ đến từ một mặc khải trực tiếp từ một nguồn gốc thiêng liêng. Thật vậy, có một số tôn giáo chính mạch tuyên bố là họ dựa trên mặc khải thiêng liêng đích thực. Thế nhưng các tôn giáo chính mạch này không dựa trên mặc khải thiêng liêng mà trên cách diễn giải của con người về mặc khải thiêng liêng. Và sự khác biệt nằm ngay ở đó.
Tâm linh – hay chúng ta có thể gọi là thần bí – khác với tôn giáo ở chỗ thần bí và tâm linh không tìm cách tách con ra khỏi Thượng đế của con, ra khỏi một trải nghiệm nội tâm trực tiếp về một trạng thái tâm thức cao hơn, thậm chí cả một trải nghiệm nội tâm trực tiếp về chính bản thể bên trong của con – sự nhận biết thuần khiết. Đây là khác biệt quan trọng hàng đầu, và đây là một trong những khai ngộ mà loài người sẽ đối mặt trong năm sắp tới, ngay cả trong nhiều năm sắp tới. Một chu kỳ mới đang ló dạng trên trái đất, và đã đến lúc cần nhiều người hơn – chắc chắn tất cả những ai trong số 10% dẫn đầu cùng nhiều người trong số 80% quần chúng – thức tỉnh để nhận ra sự khác biệt giữa tôn giáo và tâm linh, hay thần bí.
51.1. Cốt lõi của cách tiếp cận thần bí
Vậy đâu là cốt tủy của cách tiếp cận thần bí đối với tâm linh so với cách tiếp cận của tôn giáo? Tôn giáo dựa trên khái niệm vô cùng tinh tế rằng có một khoảng cách, một kẽ hở, một sự tách biệt giữa Tánh linh (Spirit) và vật chất, giữa con người và Thượng đế của họ, hay giữa con người và các sinh thể tâm linh ở một cõi cao hơn.
Nếu con là người chuộng triết học, con có thể bảo rằng sự kiện thày đang trao bài truyền đọc này qua trung gian một vị sứ giả mà con có thể nghe thấy qua một giọng nói bên ngoài, sẽ cũng cố cho niềm tin vi tế đó. Thật ra thày không bất đồng với câu của con – nếu con không hiểu sự khác biệt giữa tâm linh và tôn giáo.
Như thày đã tạo linh hứng cho sứ giả này nói lên sáng nay, tâm linh khi chưa được thể nhập trong nội tâm sẽ biến thành tôn giáo.
Chu kỳ mới vừa bắt đầu là một chu kỳ càng ngày càng cần nhiều người thức tỉnh để nhận ra khác biệt giữa một hình thức tâm linh dựa trên ảo tưởng khoảng cách – và thật ra còn duy trì ảo tưởng này – với nền tâm linh đích thực cố giúp mỗi cá nhân vượt qua khoảng cách và có được một trải nghiệm trực tiếp về sự hiện thực của một trạng thái tâm thức cao hơn, về thực tế của một cõi cao hơn, của những sinh thể tâm linh cao hơn, và họ trải nghiệm thực tại này trực tiếp bên trong họ.
51.2. Cách tiếp cận tâm linh mà Phật dạy
Tôn giáo thiết lập một số học thuyết và giáo điều, rồi nói: “Con tin điều này thì con sẽ lên Thiên đàng. Con phủ nhận điều này thì con sẽ xuống Địa ngục.” Làm như vậy sẽ đặt con người vào tình thế là họ phải chấp nhận hoặc bác bỏ một điều gì nằm ngoài họ, nằm ngoài tâm họ. Cách đây 2500 năm, thày đã cố dạy điều gì? Rằng con cần nhìn vào bên trong để điều ngự tâm mình, và con cần nhận ra chìa khóa của tâm linh là nâng cao tâm thức của mình. Đây không phải là chuyện đi theo một giáo điều vỏ ngoài.
Ngày nay con không biết chuyện này vì phần lớn đã bị lịch sử thất lạc, nhưng các nhà Bà la môn theo Ấn giáo đã chống đối thày kịch liệt cùng giáo lý của thày. Họ không đến nỗi cực đoan như những người chống đối Giê-su đã đóng đinh Giê-su trên thập tự giá, nhưng cũng gần như thế.
Khi thày còn hiện thân trên trái đất, họ đã làm đủ mọi cách để bôi nhọ thày trước công chúng. Nếu như thời đó có công nghệ truyền thông tốt hơn và nếu thày có thể truyền bá giáo lý của mình rộng rãi hơn, thì họ đã bôi nhọ thày gấp bội, như họ luôn luôn làm đối với những ai là đại diện chân chính của Ánh sáng. Thật vậy, có những người luôn tìm cách chống phá bất kỳ giáo lý nào có khả năng đánh thức con người nhận ra thực tại tâm linh ngược lại với ảo tưởng của tôn giáo.
51.3. Tại sao người ta chấp nhận tín ngưỡng của mình
Quả thực, khi con chấp nhận một giáo lý nằm ngoài con thì con đang làm gì chứ? Con đang tin vào một điều mà con chưa trải nghiệm được thực tại của nó ngay trong con. Một lần nữa, đây là một câu một số người sẽ phản đối, và ở đây chúng ta sẽ bàn đến những khía cạnh tinh tế hơn.
Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói rằng mọi người đều tin những gì họ tin là vì họ có một trải nghiệm nào đó về một thực tế khiến họ chấp nhận niềm tin này không phải là niềm tin mà là thực tế hay có thẩm quyền. Các nhà Bà la môn trong đạo Ấn, giống như các thày thông giáo và người Pharisi trong đạo Do Thái, hoàn toàn tin chắc tôn giáo của họ, cách diễn giải của họ, kinh điển của họ là thực. Nếu con nói với họ những gì thày vừa nói với con về sự khác biệt giữa tôn giáo và tâm linh, họ sẽ phản đối kịch liệt và quả quyết rằng họ đã có những trải nghiệm nội tâm cho họ thấy thực tại của đạo Ấn. Và điều này đúng.
Là một con người, con có nhiều nhu cầu tâm lý-tâm linh cơ bản thường không được văn hóa Tây phương công nhận. Một trong những nhu cầu này là con cần có một nền tảng để có thể hoạt động trong thế giới vật chất. Nếu con không có nền tảng tâm lý-tâm linh nào hết thì con không thể vận hành bình thường. Cuối cùng nó có thể dẫn con đến tình trạng bị trói chặt trong một chiếc áo tù, hay trong đủ loại hình thức tìm kiếm sự tê dại trong tâm trí qua các chất kích thích, các chất hóa học hay nhiều thứ khác. Con có thể lao vào một cuộc chạy đua bất tận để có thêm và thêm nhiều của cải vật chất hầu che đậy nỗi bất an bên trong mình.
Tất cả mọi người đều cần một nền tảng nào đó, một cái gì mà họ chấp nhận hay tin là thực. Làm thế nào con đi tới chỗ chấp nhận một quyển kinh hay một chủ nghĩa chính trị hay ngay cả một triết lý duy vật là thực? Ví dụ, làm sao có thể có những người tuyên bố là họ đã có những trải nghiệm nội tâm cho họ thấy Kinh thánh là lời của Thượng đế thốt ra từng chữ, trong khi một số khác thì tuyên bố họ cũng có những trải nghiệm nội tâm chỉ ra cho họ sự dối trá của tôn giáo và toàn bộ thế giới này là vật chất?
Câu trả lời cho bí ẩn này – mà thật sự không phải là một bí ẩn mà nhiều người đã suy ngẫm, nhưng dẫu sao là một bí ẩn cần được suy ngẫm bởi ngày càng nhiều người hơn – là quả thực, trải nghiệm nội tâm mà con có sẽ dựa trên trạng thái tâm thức hiện thời của con. Đây là điều thày giải thích trong những câu mở đầu Kinh Pháp cú.
51.4. Nhận thức và trạng thái tâm lý của con
Ở những tầng cao hơn của bản thể con có cái thày từng gọi là trạng thái tâm lý (mental state). Đây là cái mà các thày trong thuật ngữ hiện đại của các chân sư thăng thiên gọi là thể bản sắc của con (identity body). Trong thể bản sắc này, con đã chấp nhận một cách nhìn nào đó về cuộc sống, một ý niệm nào đó về mình là ai trong quan hệ với thế giới, có lẽ cả trong quan hệ với Thượng đế.
Hầu hết mọi người không nhận biết điều này một cách ý thức. Thật ra ngay cả hầu hết các đệ tử tâm linh, kể cả hầu hết học trò của chân sư thăng thiên, không nhận biết điều này một cách ý thức. Con cần bỏ ra nhiều nỗ lực để thanh tẩy trường năng lượng của mình, thanh tẩy luân xa của mình và thiền quán lẫn thiền định, để có thể phơi bày các niềm tin sâu xa về bản sắc của con. Đây là công việc mà con người phải làm trong những năm tới hầu vượt qua những khai ngộ sắp đến.
Trạng thái tâm lý này ở tầng bản sắc làm nảy sinh điều mà thày gọi trong Kinh Pháp cú là nhận thức (perception). Nhận thức là những ý tưởng, những niềm tin có ý thức, những cảm xúc, hay ít ra những cảm xúc là hệ quả, là kết quả của nhận thức. Khi con bước vào thế giới và nhận thức thế giới, con nhìn thấy thế giới. Nhận thức của con về thế giới được quy định bởi trạng thái tâm lý nằm ở cao hơn, tức là trạng thái trong thể bản sắc của con. Con không ý thức là nhận thức của mình bị nhuộm màu bởi trạng thái tâm lý của mình. Con tưởng nhận thức của con là thực vì con không biết nhận thức chỉ nảy sinh từ trạng thái tâm lý, nó cho con thấy một hình ảnh, một tâm ảnh. Nhưng con cứ nghĩ nhận thức cho con thấy thế giới như thế giới thực là.
Như các thày đã có mô tả, tâm con có bốn tầng, từ cao đến thấp: bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý. Ở tầng bản sắc, nhận thức và trạng thái tâm lý đan xen vào nhau, có nghĩa là con nhận thức thế giới dựa trên tâm thái (state of mind) cơ bản của con. Chẳng hạn con có thể nhận thức thế giới dựa trên ảo tưởng rằng con là một sinh thể tách biệt. Nhận thức này ở tầng bản sắc sẽ làm nảy sinh một tâm thái ở tầng lý trí, và tâm thái lý trí này không có khả năng phủ quyết hay chất vấn tâm thái hay nhận thức ở tầng bản sắc.
Chính tâm thái của con ở tầng bản sắc sẽ chi phối cách con nhìn thế giới ở tầng lý trí. Rồi đến lượt điều này tạo ra một tâm thái ở tầng cảm xúc, và một lần nữa, con không thể chất vấn tầng lý trí trong khi con tập trung vào tầng cảm xúc. Và cùng điều này lại xảy ra ở tầng vật lý. Con đường tâm linh là một tiến trình qua đó con gỡ tách bạch cốt lõi của tâm mình ra khỏi các tầng thấp, và con nhận biết rõ hơn những gì đang diễn ra trong tâm con. Trước hết, con nhận biết hành động của con khởi lên như thế nào từ cảm xúc, xong cảm xúc của con bắt nguồn như thế nào từ ý tưởng, và sau đó suy nghĩ của con được chế tạo như thế nào bởi ý niệm bản sắc. Như vậy con có thể gỡ mình ra khỏi ngã tách biệt và trở nên ý thức mình là một sinh thể tâm linh vô hình tướng.
51.5. Hãy chất vấn và mở rộng nhận thức
Nếu ở mức thể bản sắc con xem mình là một sinh thể tách biệt – tách biệt khỏi Thượng đế, tách biệt khỏi thế giới – thì con sẽ dễ mắc vào một trong những tôn giáo muốn củng cố hình ảnh có sự chia cách giữa Thượng đế và con người. Đó có thể là đạo Phật, đạo Ấn, đạo Hồi, đạo Cơ đốc hay bất kỳ đạo nào khác. Vì vậy, một người rất có thể có một trải nghiệm nội tâm – mà họ quả quyết là một trải nghiệm tâm linh hay thần bí – cho họ thấy tôn giáo của họ là thực, kinh sách của họ là thực, và họ tuyệt đối tin như vậy.
Thật là một thử thách lớn lao trên con đường tâm linh khi con tới mức hiểu ra, ở những tầng cao của tâm con, rằng nhận thức của mình không thể tin cậy được. Tất cả các con là người tâm linh đã bắt đầu đạt được cái hiểu này vì con biết giác quan vật lý của con không thể tin cậy. Đó là vì sao con cởi mở với ý tưởng là có gì đó vượt ngoài thế giới vật chất, vượt ngoài thế giới có thể phát hiện bằng giác quan. Mặc dù con chưa thấy được thế giới tâm linh, con vẫn cởi mở với sự hiện hữu của thế giới tâm linh vì con đã có một trải nghiệm nội tâm rằng vượt quá cõi vật chất còn có một cái gì khác, một cái gì vượt khỏi những gì hầu hết mọi người gọi là nhận biết bình thường của con người.
Con có thấy điều thày giải thích ở đây chăng? Có nhiều người sùng đạo tranh luận bất tận về giá trị của đức tin và tín ngưỡng, nhưng đức tin và tín ngưỡng không phải là yếu tố sẽ quyết định những gì con chấp nhận về cuộc sống. Yếu tố quyết định là nhận thức của con.
Con có thể nghĩ rằng con đã có một trải nghiệm cải đạo, và con đã cải đạo theo một tôn giáo nào đó, giống như một số người ở phương Tây tuyên bố là họ đã tìm thấy Giê-su. Con có thể nghĩ trải nghiệm này đã khiến con có đức tin, nhưng kỳ thực khía cạnh cốt lõi trong trải nghiệm này là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tâm con đã có thể kết nối với một cái gì vượt ra khỏi nhận thức bình thường của con. Con trải nghiệm một sự tương phản giữa nhận thức bình thường và một cái gì cao hơn. Cho nên “cái cao hơn” này có vẻ thực hơn trạng thái nhận biết bình thường của con.
Nếu con không hiểu rằng nhận thức vẫn có thể bị nhuộm màu bởi trạng thái tâm lý cao hơn của mình, thì con có thể nghĩ trải nghiệm của con là một trải nghiệm thuần khiết hay một trải nghiệm tối hậu. Rất nhiều người tâm linh và người mộ đạo, ngay cả nhiều học trò của chân sư thăng thiên, đã có được trải nghiệm chân chính về một cái gì vượt khỏi trạng thái tâm thức bình thường của mình. Thế nhưng họ không hiểu sự thật quan trọng hàng đầu rằng ngay cả một trải nghiệm chân chính cũng không nhất thiết là trải nghiệm tối hậu.
Trải nghiệm đó có thể vượt khỏi nhận thức bình thường của con, nhưng rất có thể nó vẫn không vượt khỏi trạng thái tâm lý bình thường của con. Chỉ khi nào con đã vươn tới một cấp độ nào đó trên đường tu thì con mới có khả năng chất vấn và mở rộng trạng thái tâm lý của mình.
51.6. Vượt xa hơn trạng thái tâm lý bình thường
Cho nên con thấy làm thế nào một người có thể bị ảnh hưởng, chẳng hạn bởi một nhà thuyết giáo hay một đạo sư có nhiều sức lôi cuốn, để có một trải nghiệm cải đạo. Họ bật ra khỏi mức nhận thức bình thường của họ và kinh nghiệm một cái gì có vẻ thực hơn, nhưng sau đó – bởi vì trải nghiệm thực tại này phát xuất từ một bối cảnh vỏ ngoài nhất định – họ lại lầm tưởng bối cảnh vỏ ngoài này phải có thực. Thế là bây giờ người đó bắt đầu chấp nhận bất cứ lời nào từ nhà thuyết giáo hay đạo sư, thay vì sử dụng trải nghiệm của mình làm điểm khởi đầu cho ngày càng nhiều trải nghiệm như thế, cho đến khi họ có được những trải nghiệm không dính liền với bất kỳ hệ thống niềm tin nào trên trái đất.
Thày vừa nói lúc nãy rằng tâm linh mà không thể nhập sẽ biến thành tôn giáo. Từ rất lâu, các chân sư thăng thiên đã trao truyền những giáo lý mà theo một góc nhìn nào đó, có thể gọi là giáo lý tâm linh vì mục đích những giáo lý này là để cho con một trải nghiệm nội tâm trực tiếp, để con tiếp xúc với một cái gì vượt khỏi tâm thái bình thường của con. Thế nhưng nếu con không dùng giáo lý cùng các dụng cụ mà các thày truyền dạy để vươn lên khỏi nhận thức của mình và bắt đầu chất vấn trạng thái tâm lý của mình, thì thật ra con không đang thể nhập lời dạy tâm linh.
Nếu thế thì lời dạy tâm linh sẽ lần hồi biến thành một tôn giáo vỏ ngoài mà con đi theo. Có thể điểm khởi đầu đã khiến con đi theo là sự kiện con có một trải nghiệm chân chính về một cái gì vượt khỏi nhận thức bình thường của con, nhưng con đã không đi xa hơn, con đã không nâng cao nhận thức một cách lâu bền và thường trực bằng cách tra vấn trạng thái tâm lý nằm ẩn bên dưới.
51.7. Chân sư là một vị thày, không phải là thần tượng để thờ phượng
Con yêu dấu, con chẳng thấy hay sao, các thày đây, các chân sư thăng thiên hoàn toàn không mong muốn giáo lý của mình bị biến thành một tôn giáo chính thống hay một tôn giáo chiếm ưu thế? Chuyện này hoàn toàn có thể xảy ra, như con có thể chứng kiến qua việc giáo lý mà thày giảng dạy cách đây 2500 năm đã bị biến thành một tôn giáo chính thống. Và giáo lý mà Giê-su giảng dạy cách đây 2000 năm cũng đã bị biến thành một tôn giáo chính thống.
Con hãy cẩn thận nếu ngày nào các chân sư thăng thiên và giáo lý của các thày trở thành chính thống. Khi đó con hãy cẩn thận, bởi vì chuyện gì có thể biến một giáo lý trở thành chính thống thay vì là cái nó đang là, tức là một giáo lý ngoại vi chỉ hấp dẫn được những ai sẵn sàng chất vấn nhận thức hay trạng thái tâm lý của mình?
Con yêu dấu, các thày là chân sư thăng thiên. Các thày không có bất kỳ mong muốn nào kiểm soát con. Các thày không có bất kỳ mong muốn nào xen vào giữa con và Thượng đế của con. Các thày không muốn con thờ phượng các thày trước mặt, hay trước cả, Đấng Sáng tạo. “Con chớ có thần thánh nào khác trước mặt ta.” Các thày không có mong muốn trở thành những vị thần đứng trước Đấng Sáng tạo trong tầm nhìn của con.
Tuy nhiên các thày cũng biết thứ bậc là một thực tế. Các thày biết là để đến được với Thượng đế, con cần đi qua một hệ thống thứ bậc, có nghĩa là các thày chính là mắt xích ở ngay bên trên con trong chuỗi thứ bậc này, và đó là tại sao con không thể đến với Thượng đế mà không đi qua các thày.
Có những người trên trái đất cho rằng các chân sư thăng thiên không cần thiết, và có lẽ các thày là những kẻ mạo danh chỉ tìm cách đặt mình vào vị thế đứng giữa con người với Thượng đế. Nhưng không phải các thày mà là Thượng đế đã đặt các thày vào vị thế này. Chẳng phải các thày muốn đứng giữa con người với Thượng đế, mà con như một người đầu thai trên trái đất, không thể bắt liên lạc trực tiếp với Đấng Sáng tạo mà không đi qua hàng ngũ thứ bậc của các chân sư thăng thiên cùng các sinh thể cao hơn.
Như các thày có giảng, con có thể dùng khả năng của cái Ta Biết để bước ra ngoài phin lọc nhận thức và ngay cả trạng thái tâm lý của con. Con có khả năng trải nghiệm Đấng Sáng tạo, nhưng điều này không xảy ra qua việc đi trực tiếp đến Đấng Sáng tạo không qua trung gian nào. Nó xảy ra qua việc con đi qua trung gian chuỗi thứ bậc. Có thể con không nhận thấy điều này. Có những người kinh qua những trải nghiệm chân chính về Đấng Sáng tạo mà không nhận ra là các trải nghiệm này đã được trợ giúp bởi hàng ngũ những sinh thể trong nguyên chuỗi liên kết giữa con người và Đấng Sáng tạo.
Lý do rất đơn giản. Các thày không có mong muốn chèn vào giữa con với Thượng đế của con. Nếu con có thể nâng cao tâm thức thì các thày sẽ trở nên trong suốt, và có thể con sẽ không thấy các thày. Điều này hoàn toàn phải lẽ thôi. Các thày không ở đây để nhận công.
51.8. Hòa điệu với các chân sư thăng thiên
Nhưng các thày ở đây để giúp loài người ý thức – bằng cách sử dụng các thày trong vai trò tự nhiên mà Thượng đế đã hoạch định – rằng con sẽ tạo thuận lợi cho chính mình có được những trải nghiệm tâm linh chân chính sẽ không chặn đứng bước tiến của con và biến con thành một tín đồ tôn giáo. Thay vào đó, các thày muốn con trở thành một nhà thần bí sẽ không bao giờ ngừng chân, không bao giờ thỏa mãn với bất cứ gì trong thế giới vật chất, thậm chí cả những giáo lý mà các thày trao truyền vào thế giới vật chất, bởi vì chúng chỉ là bàn đạp dẫn đến trải nghiệm trực tiếp.
Như sứ giả này cũng biết, ông đã có nhiều trải nghiệm chân chính tiếp xúc với các chân sư thăng thiên. Ông có thể nhìn lại trải nghiệm đầu tiên và thấy được đó là một trải nghiệm đích thực, nhưng nó vẫn bị nhuộm màu bởi nhận thức mà ông đã có vào thời điểm đó cũng như bởi trạng thái tâm lý của ông.
Thậm chí ông sẵn sàng nhìn nhận những gì ông có ngày hôm nay cũng bị nhuộm màu bởi nhận thức và trạng thái tâm lý hiện tại của ông. Chừng nào con còn đầu thai thì sẽ còn màu sắc nhuộm vào. Điều này không thể tránh được. Và nó cũng phải lẽ thôi, vì nó cho thấy là mọi người đều có tiềm năng tiếp xúc trực tiếp với các thày. Khi một người có thể bắt được mối liên lạc vượt ngoài thường tình này với các thày, thì không có gì cấm ai khác cũng đi tìm sự tiếp xúc nội tâm riêng của mình.
51.9. Tôn giáo và đạo Satan
Tôn giáo là gì, con yêu dấu? Ấy, sự thật phũ phàng là hầu hết các tôn giáo chính mạch trên trái đất đều là đạo Satan (Satanism) trá hình.
Làm sao thày lại có thể đưa ra một câu đáng sửng sốt như vậy? Thật là giản dị nếu con hiểu Satan là gì. Con yêu dấu, trong văn hóa phương Tây – dựa trên Kinh thánh và giáo lý đạo Cơ đốc, kể cả Sách Khải huyền (Revelation) – người ta có khái niệm Lucifer cùng khái niệm, hay tên gọi Satan.
Để thày cố cho con một thoáng nhìn ngắn gọn về sự khác biệt giữa Lucifer và Satan. Thật ra chúng tượng trưng cho hai khía cạnh lạm dụng, hai khía cạnh tha hóa, của những yếu tố cơ bản nhất của tạo hóa, cụ thể là hai lực được mô tả là âm và dương, cũng thường được gọi là nam và nữ, Alpha và Omega. Lucifer đã làm tha hóa khía cạnh nam, Alpha. Và Satan đã làm tha hóa khía cạnh nữ, Omega.
Đây là điều chúng biểu tượng. Không có nghĩa là chỉ có hai sinh thể đặc trưng này đã làm chuyện đó, nhưng xét theo bối cảnh văn hóa có mặt trong thế giới Tây phương, chúng ta có thể nói rằng Satan biểu tượng cho sự lạm dụng yếu tố nữ của sáng thế, và Lucifer biểu tượng cho sự lạm dụng yếu tố nam của sáng thế.
Khi một trong hai yếu tố này bị tha hóa trong con, con không thể tìm thấy cân bằng, con không thể tìm thấy Trung đạo. Và nếu con không tìm thấy Trung đạo thì con không thể đạt được tiến bộ tâm linh chân chính. Con không thể thăng thiên khỏi trái đất. Con không thể bước vào cõi cao, cho dù con gọi đó là Niết bàn, Thiên đàng hay bất cứ gì khác.
Tại sao thày lại bảo hầu hết các tôn giáo trên trái đất là đạo Satan trá hình? Bởi vì họ đã làm tha hóa khía cạnh nữ của sáng thế, lực nữ tính của tạo hóa. Đây là một khai ngộ sẽ rất thông thường trong năm sắp tới và cả sau đó. Đã đến lúc loài người cần bắt đầu hiểu minh triết của Đấng Mẹ, mà trong truyền thống thần bí của đạo Cơ đốc được gọi là Sophia Thiêng liêng. Có thể con có biết về quyển kinh gọi là Pistis Sophia trong đó khái niệm này được trình bày. Tuy nhiên cũng có những nguồn khác, cho nên hãy để thày cố gắng giải thích cho con thế nào là minh triết đích thực của Đấng Mẹ.
51.10. Minh triết của Đấng Cha và Đấng Mẹ
Minh triết của Đấng Cha là sự kiện con là một người đồng-sáng tạo cùng với Thượng đế. Con đã được ban cho quyền tự quyết. Trong khuôn khổ được thiết lập cho hành tinh trái đất, Định luật Tự quyết định rằng con có quyền thử nghiệm với quyền tự quyết của con. Định luật này cũng định rằng con sẽ gặt những gì con gieo – con sẽ tạo nghiệp. Con sẽ trải nghiệm chính những điều kiện mà con phóng chiếu ra ngoài qua việc sử dụng quyền tự quyết của mình để điều hướng các khả năng đồng-sáng tạo của tâm con.
Khía cạnh Alpha là sự kiện con là một người đồng-sáng tạo, con có ý chí tự do, và con có quyền thử nghiệm khả năng đồng-sáng tạo của mình trong môi trường con đã hiện thân.
Khía cạnh Omega, minh triết của Đấng Mẹ, là bất cứ chọn lựa nào con lấy đều mang hậu quả, và những hậu quả này có một độ bền, một tuổi thọ nào đó trong thời gian và không gian.
Điếu này có nghĩa là một khi con đã lấy một chọn lựa nào đó, con không thể ngay lập tức hủy bỏ nó bởi vì xung lực mà con đã phóng vào bốn tầng của vũ trụ vật chất sẽ tuần hoàn qua bốn tầng này và nó sẽ quay trở về con. Khi nó quay trở về, rất có thể nó sẽ hạn chế khả năng chọn lựa hoàn toàn tự do của con trong những điều kiện nghiệp chướng mới.
51.11. Sự tha hóa khía cạnh nam và nữ
Điều đã xảy ra trên trái đất là cả khía cạnh nam lẫn khía cạnh nữ đã bị tha hóa. Sự tha hóa của khía cạnh nam đã tạo ra – ngoài nhiều hậu quả khác – ảo tưởng rằng con có thể làm bất cứ gì con muốn, rằng không được có gì hạn chế sự tự do của con. Đây là điều con chứng kiến trong thế giới phương Tây nơi rất nhiều người đã từ bỏ tôn giáo truyền thống, tức là đạo Cơ đốc chính mạch. Họ không muốn bất kỳ giáo điều hay quy luật nào hạn chế cách sống của họ.
Thật sự, đây là một giai đoạn cần thiết trên con đường tâm linh, bởi vì nếu một linh hồn đã từng chấp nhận một tôn giáo vỏ ngoài chủ trương là con có thể tuân thủ quy luật để được lên thiên đàng, thì con cần phải trải qua một giai đoạn nổi loạn chống lại tâm thức đó trước khi con có thể lên một tầng mức cao hơn.
Dù sao thì chính việc phủ nhận bất kỳ hạn chế nào đối với tự do của mình – vốn là một sự tha hóa của Đấng Cha – sẽ dẫn con một cách tự nhiên đến sự tha hóa của Đấng Mẹ, qua đó con không làm sao hiểu được các chu kỳ của nghiệp báo. Vì vậy khi có sự cố xảy ra, con không hiểu nổi tại sao nó lại xảy ra và con oán giận. Một số người oán giận Thượng đế, một số người oán giận Đấng Mẹ, và điều này dẫn đến lòng thù hận cả Cha lẫn Mẹ.
Kịch bản này đem lại kết quả là giờ đây con người rơi vào tình trạng phải trải nghiệm là chọn lựa của họ bị hạn chế bởi thế giới vật chất, thế giới của Mẹ. Và bởi vì họ vẫn có mong muốn khác, vẫn có nhu cầu phải hiểu tình trạng của họ, cho nên các tôn giáo chính mạch mới bước vào vòng tha hóa của tâm thức Satan, đưa ra hai điều.
Thứ nhất, rằng con có thể dùng các điều kiện hiện hành trong thế giới vật chất để suy đoán và mô tả thực tại nơi cõi tâm linh. Hệ quả của trạng thái tâm thức này chính là điều con thấy trong nhiều kinh sách tôn giáo như Kinh Cựu ước chẳng hạn, qua đó người ta phóng chiếu các hình ảnh và đặc tính của tâm thức nhân phàm áp chồng lên Thượng đế. Người ta tạo dựng một Thượng đế nóng giận và phán xét ở trên trời, một Thượng đế sẽ ra tay tiêu diệt kẻ thù của họ hay sẽ biện minh để chính họ tiêu diệt kẻ thù – đàn ông, đàn bà lẫn trẻ con.
Đó là một cách tha hóa Đấng Mẹ, rằng Tánh linh có thể được nhận biết hay được định nghĩa dựa theo các điều kiện có mặt trong thế giới vật chất. Cách tha hóa kia của Đấng Mẹ là Tánh linh hoặc không thể tự biểu đạt trong thế gian, hoặc khi Tánh linh biểu đạt thì phải tuân theo các điều kiện có sẵn ở đây. Con thấy điều này trong truyền thống phương Tây qua việc Peter muốn ép Giê-su tuân theo hình ảnh trong chính tâm ông về những gì phải xảy ra hay không được xảy ra cho Ki-tô hiện thân. Và Giê-su đã phản ứng thế nào? “Satan, hãy lùi ra sau ta, vì ngươi cản trở ta. Ngươi chẳng quý gì những điều thuộc về Thượng đế mà quý những điều thuộc về con người.”
51.12. Ki-tô giúp con thăng vượt
Giê-su đại diện cho tâm thức Ki-tô hoàn vũ, là tâm thức được Tánh linh gửi xuống để giúp con thăng vượt tâm thức đã tạo nghiệp cho con. Đó là đấng giải thoát, vì đó là cách duy nhất để con thăng vượt chính tâm thức đã gây nên hoàn cảnh hiện thời của con. Đó là cách duy nhất để nhân loại thăng vượt chính tâm thức đã khiến họ tạo ra, như một tập thể, tình trạng hiện hành trên trái đất.
Vậy thì Ki-tô – hay bất kỳ vị đại diện chân thực nào của cõi tâm linh – đến đây để giúp con vượt ra khỏi nhận thức của con, vượt cả những điều kiện của thế giới vật chất. Nhưng Satan thì thầm vào tai mọi người là họ phải làm gì? Rằng họ phải ép buộc vị đại diện của Ki-tô tuân phục nhận thức của họ. Nhưng làm thế nào Ki-tô sẽ giúp con thăng vượt nhận thức của con nếu con đòi hỏi Ki-tô phải tuân phục nhận thức của con bằng không con sẽ không nghe theo Ki-tô?
51.13. Lucifer tha hóa Đấng Cha như thế nào
Đây là thế kẹt tiến thoái lưỡng nan mà nhiều người đã tạo ra cho mình. Nó không chỉ đến từ sự tha hóa Đấng Mẹ mà còn đến từ việc Lucifer tha hóa Đấng Cha liên quan đến quyền tự quyết. Hoặc nó phủ nhận là con có quyền tự quyết, hoặc nó phủ nhận là con vẫn còn quyền tự quyết sau khi con đã chọn lựa thiếu minh triết trong quá khứ.
Từ mấy năm nay các thày đã cố giải thích điều gì? Rằng con không thể chọn lựa mà không có khả năng đảo ngược chọn lựa này bằng một chọn lựa khác. Đây là điều Lucifer phủ nhận hay cố khiến mọi người phủ nhận. Y đã cố khiến mọi người tin rằng họ đã có thể lấy những chọn lựa không có cách nào cứu chuộc – chẳng hạn trong khái niệm tội tổ tông.
Một lần nữa, có một điểm vi tế ở đây. Đúng, con không thể khắc phục những chọn lựa mà con đã chọn với tâm thức nhân phàm bằng cách ở lại trong tâm thức nhân phàm. Rất nhiều kiếp trước đây, con đã chấp nhận một bản sắc nào đó về chính mình, và cái này đã trở thành tâm thái cao hơn của con ở tầng bản sắc. Nó đã quy định nhận thức của con về cuộc sống.
Nhận thức của con về cuộc sống không chỉ đơn thuần là các ấn tượng con nhận được từ giác quan. Nhận thức còn có một khía cạnh Alpha tức là khía cạnh chủ động, qua đó chính con cũng phóng chiếu ra ngoài, nhưng những gì con phóng ra dựa trên những gì con đã nhận vào.
Cho nên con thấy tình trạng là tập thể nhân loại đã tạo ra rất nhiều điều kiện gây giới hạn trên trái đất. Con thử lấy một cá nhân đang nhận thức các điều kiện có mặt trên trái đất mà xem. Dựa trên nhận thức này, y phóng ra một xung lực vào bốn tầng của vũ trụ vật chất – tấm gương vũ trụ. Điều này tạo ra nghiệp. Khi nghiệp quay trở lại, y sẽ phải đối phó với nó, và lẽ tự nhiên, y sẽ muốn thoát khỏi nó. Nhưng con không thể thoát khỏi nghiệp ở cùng mức nhận thức và cùng trạng thái tâm lý đã tạo ra nghiệp. Con sẽ chỉ tìm cách bù đắp hay trốn chạy, và điều này sẽ chỉ tạo thêm một nghiệp lực khác. Thế là bỗng nhiên, con rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ khi con cảm thấy như thể mình đang chết đuối trong Biển Luân hồi. Và đúng là như vậy, con đang chết chìm trong nghiệp báo của bản thân con lẫn nghiệp báo tập thể do toàn nhân loại tạo ra.
Phải, con không thể tự mình thoát ra được. Con cần đến Ki-tô. Con cần đến một trạng thái tâm thức cao hơn. Thế nhưng muốn Ki-tô giải thoát con, con phải chọn chất vấn nhận thức của con, trạng thái tâm lý của con. Con phải bỏ chúng lại và chấp nhận Ki-tô như là nhận thức cao hơn, thực tại cao hơn.
Tuy nhiên, do sự phối hợp giữa hai loại tha hóa, tha hóa Alpha lẫn Omega, tha hóa Cha Thiêng liêng lẫn Mẹ Thiêng liêng, nhiều người bị dính chặt vào nhận thức và trạng thái tâm lý của họ đến độ họ cứ cho rằng nhận thức hiện tại này có thực hơn những gì vị đại diện của Ki-tô cống hiến. Cho nên họ nói với vị đại diện Ki-tô: “Ông không thực. Ông là thày giả. Ông là đạo sư giả. Giáo lý của ông cũng giả.” Con yêu dấu, biết bao nhiêu lần các thày đã thấy người ta phản ứng như thế!
51.14. Không có trải nghiệm tối hậu
Trên thực tế ở mức nội tâm, nhiều người đã sẵn sàng đón nhận giáo lý của chân sư thăng thiên, nhưng họ vẫn chưa đạt tới điểm sẵn lòng, một cách ý thức, chất vấn nhận thức hiện thời của họ và ngay cả cảm nhận mà họ có về thực tại.
Con yêu dấu, chừng nào con còn đầu thai, con luôn luôn có khả năng đạt được một trải nghiệm thần bí cao hơn, thuần khiết hơn. Không thể có một trải nghiệm nào tối hậu trong khi con còn ở trên trái đất. Con có thể tìm thấy vô số đạo sư trên thế giới tuyên bố là họ đã đạt đến một trạng thái tâm thức hay một thẩm quyền tối hậu nào đó. Con cũng có thể tìm thấy vô số người khao khát tin vào lời tuyên bố này, cứ tưởng rằng nếu họ đi theo vị đạo sư toàn hảo kia thì sự cứu rỗi của chính mình phải bảo đảm.
Một lần nữa, đây lại là một giai đoạn cần thiết qua đó họ phải bước vào Trường đời Cay đắng và hứng chịu nhiều cú giáng vô cùng cay đắng – bị thất vọng và chán ngán các đạo sư giả – cho đến khi họ mở tâm ra với thực tại mà các thày giảng dạy, cụ thể là con phải bước vào bên trong rồi cứ tiếp tục bước vào sâu hơn nữa để tìm đến những trải nghiệm càng ngày càng cao. Đây là thực tại sâu hơn mà các thày, các chân sư thăng thiên, đang dạy và đã dạy từ rất lâu, nhưng chưa bao giờ lại dạy một cách rõ ràng và trực tiếp như bây giờ.
Vì vậy đối với những ai trong số các con cởi mở với lời dạy này, hãy xem như con đang có một cơ hội đặc biệt để đón nhận và thể nhập nó. Như vậy con có thể trở thành một người tiên phong sẽ mở đường xuyên qua khu rừng rậm của tâm thức tập thể, giúp cho người khác càng ngày càng dễ bước chân theo, cho đến khi chính họ cũng lên được ngọn núi nơi có Phật mà TA LÀ đang ngồi, cùng với bao nhiêu vị Phật, bao nhiêu chân sư thăng thiên đã đạt đến mức tâm thức Phật.
51.15. Hãy nhìn quá nhận thức của mình
Con yêu dấu, các thày trao nhiều giáo lý có vẻ không mấy rắc rối, nhưng các giáo lý này có nhiều tầng lớp. Con có thể hiểu ở nhiều cấp độ khác nhau – ít nhất 144 cấp độ khác nhau cho những ai đang đầu thai.
Nhận thức là – luôn luôn vẫn là và luôn luôn sẽ là – thử thách lớn nhất trên con đường tâm linh. Nhận thức, khi phối hợp với cảm nhận là nó thực, chính là kẻ lừa dối lớn nhất cho các học trò tâm linh. Như thày đã nói, một trong những nhu cầu cơ bản của con người là phải có gì đó mà họ nghĩ là thực, nếu không thì họ không thể hoạt động. Nếu con không nghĩ trái đất là thực hay mặt trời sẽ mọc vào buổi sáng, làm sao con có thể hoạt động trong đời sống hàng ngày đây?
Thế nhưng khi con lên đến các tầng cao hơn của đường tu tâm linh, điều tuyệt đối quan trọng là con phải bắt đầu chất vấn nhận thức của con. Các thày không muốn con trở thành một kẻ hoài nghi, ngờ vực mọi chuyện và tin rằng không có gì là thực. Các thày cũng không muốn con trở thành một kẻ bất khả tri (agnostic) cho rằng con người không bao giờ có thể biết được cái gì là thực. Con không thể biết điều gì là thực từ một khoảng cách, nhưng con có thể trải nghiệm điều gì là thực.
Các thày không muốn con chất vấn nhận thức của mình bằng trí năng, mà các thày mong muốn con bước vào một tiến trình gồm có hai phần. Phần đầu là con dùng các lời dạy, các bài thỉnh, các bài chú, để chất vấn, để xem xét, để biết rõ hơn nhận thức của mình. Và đồng thời con dùng các dụng cụ của các thày để đi tìm một trải nghiệm nội tâm trực tiếp của một trạng thái nhận biết cao hơn, ngay cả nhận biết thuần khiết mà con có khả năng đạt được. Khi con có trải nghiệm này, con vẫn biết điều gì đó là thực, nhưng các thày chỉ yêu cầu con nên rất thận trọng để không bao giờ nghĩ rằng con đã có được trải nghiệm tối hậu hay tối thượng. Chừng nào con còn đầu thai thì không có chuyện tối hậu.
Các thày cũng yêu cầu con suy ngẫm thật kỹ lưỡng để tách rời trải nghiệm nội tâm về thực tại ra khỏi bất kỳ bối cảnh bên ngoài nào, kể cả cơ thể vật lý và nhân cách vỏ ngoài của con, cái mà nhiều người gọi là hồn, hay một chủ nghĩa tôn giáo nào đó hay ngay cả giáo lý vỏ ngoài của các chân sư thăng thiên. Bất kỳ giáo lý vỏ ngoài nào được biểu đạt bằng ngôn từ chỉ có thể là một sự phỏng chừng. Đó chỉ có thể là một cách mô tả thực tại chứ không là chính thực tại.
51.16. Bất kỳ giáo lý nào cũng bị bối cảnh văn hóa ảnh hưởng
Ngôn từ vốn gắn liền với nền văn hóa nơi nó được sử dụng. Lời nói được văn hóa phú cho những ý nghĩa rất tinh tế, đôi khi mập mờ nước đôi. Nếu con không hiểu điều này thì con có thể bị dính mắc vào một lời dạy nhất định, một cách diễn đạt nhất định.
Những gì thày trao cho con qua trung gian sứ giả này là một giáo lý chân chính, nhưng thày cũng có thể trao một giáo lý tương tự về những khái niệm tương tự theo một cách hoàn toàn khác trong một bối cảnh văn hóa hoàn toàn khác. Thày không thể làm vậy qua sứ giả này vì ông đã lớn lên trong một bối cảnh văn hóa đặc trưng, và do đó ông đã quen dùng từ ngữ theo một cách nào đó. Nhưng nếu thày có một sứ giả đã lớn lên trong một bối cảnh văn hóa khác hẳn, thì thày có thể đưa ra cùng lời dạy này theo một cách khác sẽ có vẻ rất kỳ lạ, thậm chí có vẻ sai lạc, đối với những ai đã lớn lên trong văn hóa Âu Tây. Thế nhưng nó lại có vẻ tuyệt đối ổn thỏa và sâu sắc đối với những người trong nền văn hóa khác đó.
Điều này không có nghĩa là con cần hạ thấp tầm quan trọng của một lời dạy nào đó đã giúp con mở rộng nhận biết, cho dù lời dạy này hay một lời dạy khác. Cũng không có nghĩa là con cần nghi ngờ sự xác thực của mọi lời dạy, mà chỉ có nghĩa là con không nên biến lời dạy thành một mục đích tự đủ và tôn thờ nó như một hình tượng khô chết mà con đặt trước trải nghiệm nội tâm trực tiếp. Trải nghiệm nội tâm trực tiếp này không phải về một cách mô tả cao hơn, mà về điều gì đó vượt khỏi mọi mô tả, mọi loại ngôn từ – và đó là nhận biết thuần khiết.
Sự thật cao nhất là cái vô hình tướng. Cái vô hình tướng vượt khỏi mọi hình tướng. Đó là Phật tánh, là cội nguồn của mọi hình tướng nhưng không bao giờ có thể giam hãm trong hình tướng. Thật sự nếu con thể nhập được những lời dạy mà thày vừa trao trong bài giảng tương đối ngắn này, con sẽ trở thành điều nhiều người gọi là giác ngộ, mặc dù con cũng thấy được sự phù phiếm của việc gán ghép bất kỳ nhãn hiệu nào lên chính mình.
51.17. Hình tư tưởng cho năm 2014
Hình tư tưởng mà thày mong muốn cho con trong năm 2014 sắp tới là như sau. Ở trung tâm trái đất có một hình dạng Phật đang ngồi. Không phải là một hình dạng Phật mà con thường thấy với bề mặt nhẵn nhụi. Đây là một hình dạng Phật được tạo thành từ một viên kim cương với rất nhiều mặt cắt.
Mỗi mặt của hình dạng Phật ba chiều này tỏa rạng ánh sáng đến một quốc gia cụ thể trên mặt địa cầu. Cho năm 2014, hình dạng Phật tỏa ra một ánh sáng màu vàng hoàng kim, ánh sáng của Tia thứ Hai là minh triết cho tất cả mọi nước. Mỗi nước nhận được một mặt độc đáo phù hợp với mức tâm thức hiện tại ở đó cùng các khai ngộ mà nước này cần vượt qua trong năm tới và nhiều năm sau đó.
Cho nên nếu con muốn vượt qua khai ngộ cá nhân của mình lẫn khai ngộ của quốc gia mình, con hãy dành ra một chút thì giờ quán chiếu về vị Phật bằng kim cương muôn mặt này ở ngay trung tâm trái đất. Bởi vì TA LÀ vị Phật đó. Và ta cầm giữ cân bằng cho trái đất, vì quả thật TA LÀ Chủ tể Thế gian. Gautama TA LÀ.