15 | Cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Guru Ma qua trung gian Kim Michaels, ngày 18/4/2014.

Hiện diện TA LÀ của con có đáp án cho mọi vấn đề con phải đối mặt trên trái đất, nhưng nếu con không hòa điệu được với Hiện diện TA LÀ của con thì con không cảm nhận được đáp án đó. Chìa khóa cốt yếu để thực sự bắt đầu hòa nhập với Hiện diện của con là nhận ra sự khác biệt cơ bản giữa Hiện diện TA LÀ của con và khái niệm của con về vị đạo sư. Con thấy không, khái niệm về vị đạo sư có thể rất, rất ích lợi nhưng khái niệm về vị đạo sư hàm ý, qua chính định nghĩa của nó, là con “ở đây” như một cá nhân khác biệt và vị đạo sư thì tách biệt khỏi con.

Đó là lý do tại sao vị đạo sư có ích cho con vì vị đạo sư không ở trong phin lọc nhận thức của con, không bị đui mù bởi những gì làm con đui mù. Vị đạo sư có thể cho con những hướng dẫn không đến từ bên trong phin lọc nhận thức của con và khi con làm theo hướng dẫn, nó giúp con vượt quá phin lọc nhận thức của mình. Như vậy, theo định nghĩa, con cần xem vị đạo sư như đứng bên ngoài con, ít nhất là bên ngoài ngã tách biệt của con.

15.1. Quan hệ của con với Hiện diện TA LÀ của con

Hiện diện TA LÀ của con không phải là đạo sư của con, Hiện diện TA LÀ là không phải người dạy con. Hiện diện không có mục đích dạy con bất cứ điều gì. Ngay cả một vị chân sư thăng thiên cũng là một sinh thể bên ngoài con. Thày đã nói là khi con chưa thăng thiên, con thường có một hình ảnh khô cứng, sùng bái về các chân sư thăng thiên. Con phải rũ bỏ hình ảnh này khi con thăng thiên và con tìm cách càng lúc càng nhập một với Hiện diện của các chân sư.

Ngay cả ngay sau khi thày thăng thiên, thày thấy mình là một sinh thể cá biệt. Thày thấy chân sư MORE và Saint Germain là những sinh thể cá biệt. Thày có thể hoàn toàn nhập một với Saint Germain – và đấy là một trải nghiệm tuyệt vời – nhưng thày vẫn biết là thày đang hòa nhập với một sinh thể cá biệt. Con sẽ luôn luôn coi một chân sư thăng thiên như khác biệt với mình, ngay cả sau khi con trở thành một chân sư thăng thiên.

Vậy thì làm sao con trở thành một chân sư thăng thiên? Ấy, lúc đầu, khi con tìm thấy giáo lý các chân sư thăng thiên và bắt đầu nghe nói về Hiện diện TA LÀ, con không thể tránh coi Hiện diện TA LÀ ở ngoài con. Khi cái Ta Biết nhìn mọi sự từ bên trong phin lọc nhận thức của một ngã tách biệt, thì quả thực Hiện diện TA LÀ ở bên ngoài ngã tách biệt. Hiện diện TA LÀ ở cõi tâm linh.

Một chân sư thăng thiên như chân sư MORE hay Giê-su, luôn luôn giữ vai trò vị thày của con, nhưng Hiện diện TA LÀ không được tạo ra để là vị thày của con. Hiện diện TA LÀ của con không phải là vị đạo sư ở bên ngoài con. Con thăng thiên cách nào? Bằng cách nhập một với Hiện diện, nhưng có một sự khác biệt vi tế hầu như không nắm bắt được cho tới khi con tới các tầng cao nhất của 144 tầng tâm thức.

Như thày đã nói, thày là một chân sư thăng thiên. Thày có thể nhập một với Saint Germain, nhưng thày biết thày đang nhập một với một sinh thể cá biệt. Khi con thăng thiên, khi con tới tầng 144 và nhảy bước vọt lượng tử cuối cùng, thì con nhập một với Hiện diện TA LÀ của con. Con không nhập một với Hiện diện của con như con nhập một với Saint Germain hay một vị chân sư thăng thiên khác.

Thày là một sinh thể khác biệt với Saint Germain. Thày có thể nhập một với Saint Germain và bước ra khỏi sự hòa nhập với Saint Germain nhưng hai thày vẫn là những sinh thể khác biệt. Khi con ở tầng 144 và nhập một với Hiện diện TA LÀ của con, con không hòa nhập với một sinh thể khác biệt. Con hòa nhập là một với chính mình. Hiện diện TA LÀ của con không phải là vị đạo sư của con. Hiện diện TA LÀ của con là con. Giáo lý vi tế này chỉ nắm bắt được khi con hoàn toàn hiểu và trải nghiệm, qua nhiều thoáng chốc, tính chất nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết.

15.2. Quyết định của Hiện diện TA LÀ của con

Trước khi con hiện thân lần đầu vào một bầu cõi dày đặc hơn, Hiện diện TA LÀ của con ở trên cõi tâm linh. Nó nhìn xuống và quyết định nó muốn phụng sự như một người đồng sáng tạo bằng cách phóng chiếu một phần của nó, một nối dài của nó xuống một cõi dày đặc và mang vào một thân xác nơi đó. Qua đó, nó sẽ trải nghiệm cõi này từ bên trong và sẽ giúp đồng sáng tạo cõi này, nâng cõi này lên cao để trở thành một phần viễn hằng của cõi tâm linh. Như thày đã nói, chuyện này có thể không xảy ra trong vũ trụ vật chất này. Nó có thể xảy ra ở một bầu cõi trước nhưng cơ chế vận hành cũng giống vậy.

Hiện diện TA LÀ gửi một nối dài của chính nó, nối dài này trở thành cái mà bây giờ các thày gọi là cái Ta Biết nhưng trước kia các thày gọi nó là cốt lõi của hồn (core of the soul). Khi gọi nó là cái Ta Biết và xem nó là nhận biết thuần khiết, thì điểm quan trọng là nó quả thực không có hình tướng, không có đặc tính. Nó có nhận biết nhưng không có đặc tính cá biệt khiến nó tách biệt với Hiện diện TA LÀ.

Chúng ta có thể nói ngay cả câu nói “Hiện diện TA LÀ gửi một nối dài của nó xuống thế giới vật chất” là một cách mô tả thô thiển. Một cách hay hơn là nói rằng Hiện diện TA LÀ tập trung chính nó vào thế giới vật chất, không phải là toàn thể chính nó nhưng một phần, một phần nối dài, của nhận biết của nó vào thế giới vật chất. Nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết có nhận biết về chính nó như một sinh thể cá biệt. Nó có ý chí tự do. Nó có thể quyết định muốn tập trung chính nó nơi nào.

Lúc đầu, nó quyết định đi vào một vai trò đã được quy định sẵn, có thể là trong Trường Bí giáo của Maitreya hay một trường bí giáo khác, và nó xem coi nó cảm thấy thế nào khi đóng vai trò đó. Qua vai trò đó, qua ngã đó, cái Ta Biết biểu lộ chính nó trong cõi vật lý hay trong trường bí giáo. Khi cái Ta Biết quyết định thử nghiệm tâm thức nhị nguyên, đã được gọi là hoa trái của hiểu biết về thiện và ác, thì nó mang vào những vai trò không do vị thày tâm linh quy định mà do sa nhân, các thày giả quy định.

15.3. Cỗ xe tâm hồn mang vẻ tâm linh

Qua tiến trình này, cái Ta Biết bắt đầu xây dựng cỗ xe tâm hồn. Như thày đã nói, cỗ xe tâm hồn có thể trở thành một cấu trúc rất phức tạp, rất tinh xảo và nó có thể mang vẻ rất, rất tâm linh. Cái Ta Biết tới điểm bắt đầu nhận ra có cái được gọi là thăng thiên và nó hình thành ý muốn thăng thiên. Chuyện này xảy ra vì giữa hai kiếp đầu thai, con quyết định con muốn theo đuổi mục đích thăng thiên. Khi con xuống hiện thân, có nhiều xác suất nhận biết ý thức của con chụp lấy khái niệm thăng thiên, khái niệm chân sư thăng thiên và con đường tâm linh dẫn tới thăng thiên.

Nhiều đệ tử vẫn còn tin rằng mục đích của con đường dẫn tới thăng thiên chỉ là kiện toàn ngã vỏ ngoài. Thày đã tìm cách giải thích không phải là như thế. Con cần buông bỏ ngã vỏ ngoài và con làm thế bằng cách nhìn vào những thành phần tạo nên ngã vỏ ngoài – là các phàm linh tạo nên ngã vỏ ngoài – và con vứt bỏ những quyết định, những ảo tưởng đã tạo nên chúng.

Chuyện xảy ra khi con vứt bỏ càng ngày càng nhiều những phàm linh đó, càng ngày càng nhiều những ảo tưởng đó, và con đạt tới tầng tâm thức 144? À, điều xảy ra là con bắt đầu xoay chuyển ý niệm bản ngã của con. Khi con ở các tầng thấp hơn của đường tu thì con hoàn toàn đồng hóa mình với ngã vỏ ngoài. Con nghĩ: “Tôi là người có tên này, tôi đến từ gia đình này, tôi sống ở quốc gia này, tôi sống trong xã hội này, tôi hành nghề này, tôi là chủng tộc này, tôi là sắc tộc này, tôi là phái tính này, tôi là cái này, tôi là cái nọ, tôi là cái kia nữa.” Con cho phép tất cả những điều vỏ ngoài đó quy định con và con hoàn toàn đồng hóa mình với chúng.

Khi con biết tới con đường tâm linh thì con nhận ra: “Ố, tôi là nhiều hơn mấy cái vỏ ngoài này và quả thực tôi muốn càng ngày càng nhập một với cái ta tâm linh của tôi.” Tùy con nhìn cái ta tâm linh này là gì, con vẫn xem nó là cái gì ở bên ngoài con, và khi con bắt đầu rũ bỏ những thành phần của ngã vỏ ngoài, thì con bắt đầu xoay chuyển bản sắc của mình. Thay vì nói: “Tôi là cái này, tôi ở dưới này trong cõi vật chất,” thì con bắt đầu nói: “Ồ, tôi là cái TA LÀ ở trên kia trong cõi tâm linh.” Con tới điểm bắt đầu có trải nghiệm ý thức về Hiện diện TA LÀ hay nhận được cảm nhận nội tâm từ Hiện diện.

15.4. Hiện diện TA LÀ không bảo con phải làm gì

Ở giai đoạn này có một khác biệt vi tế mà con cần nhận biết. Khi nhận biết điều này thì con sẽ dễ thực sự hòa điệu với Hiện diện của con hơn rất nhiều. Vị đạo sư sẽ nói chuyện với con và đôi khi con cảm thấy đây là một giọng nói bên ngoài đang nói với con. Nếu con có một đạo sư vật lý thì lẽ tất nhiên con nghe vị ấy nói với con với giọng nói vật lý. Ngay cả vị thày thăng thiên của con hay cái Ta Ki-tô của con sẽ thường đến với con như một giọng nói từ bên ngoài, một ý tưởng từ bên ngoài hay một Hiện diện bên ngoài đang hướng dẫn con. Trong nhiều trường hợp, các hướng dẫn này được diễn tả bằng lời.

Con cũng có thể không nghe thấy các hướng dẫn như một giọng nói bên trong đầu con, nhưng con vẫn có thể cảm nhận: “À, tôi phải làm điều này đây.” Con rõ ràng trải nghiệm sự hướng dẫn như đến từ ngoài con. Thày đã nói gì về Hiện diện TA LÀ của con? Hiện diện của con không phải là đạo sư của con. Thày biết rõ có nhiều đệ tử, ngay cả trong số các đệ tử của thày và chính thày nữa khi còn hiện thân, sẽ cảm thấy: “Ồ, tôi nhận được hướng dẫn này từ Hiện diện TA LÀ của tôi,” “Hiện diện TA LÀ của tôi bảo tôi làm điều này.” Thực sự không phải thế. Nếu con trải nghiệm sự hướng dẫn đến từ ngoài con, thì nó không đến từ Hiện diện TA LÀ của con, nó đến từ vị thày của con. Vị ấy có thể là vị thày nội tại là cái Ta Ki-tô của con hay một chân sư thăng thiên. Có thể con không nghe thấy sự hướng dẫn như một giọng nói bên ngoài mà con nhận được nó trong tâm mình nhưng con vẫn trải nghiệm nó đến từ đâu đó bên ngoài con. Nhiều, rất nhiều đệ tử đã phóng chiếu một hình ảnh khô chết lên Hiện diện TA LÀ và nghĩ rằng mình đã nhận được hướng dẫn từ Hiện diện TA LÀ, nhưng quả thực nó đến từ sinh thể đang là đạo sư bên ngoài của con. Lời hướng dẫn này vẫn có thể chân chính và trong nhiều trường hợp đây là một lời hướng dẫn chân chính. Chỉ là nó không đến từ Hiện diện của con.

Có một giai đoạn trên đường tu khi chuyện con nghĩ hướng dẫn đến từ Hiện diện của con là chuyện hoàn toàn không sao cả. Khi con tiến lên các tầng cao hơn về hướng tầng 144, thì con quả thực cần xoay chuyển nhận biết của mình. Con cần nhận ra mục đích của vị thày khác với mục đích của Hiện diện TA LÀ. Mục đích của vị thày là cho con hướng dẫn để giúp con nâng cao tâm thức, bước đi trên con đường tâm linh trên trái đất, làm những gì con cần làm trên trái đất, kể cả việc hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con, quân bằng nghiệp quả, vân vân.

Đây là vai trò của vị thày, nhưng đây không phải là vai trò của Hiện diện TA LÀ của con. Vai trò của Hiện diện TA LÀ đơn giản là có mặt với con như một Hiện diện, như khung tham chiếu tối hậu của con để nhận rõ cái thật và cái không thật, không những trong thế giới vật lý mà đặc biệt trong thế giới nội tâm của con. Thày vừa nói chuyện gì xảy ra? Con xoay chuyển ý niệm bản sắc của con xa ra khỏi ngã vỏ ngoài và tiến về Hiện diện. Mục đích của Hiện diện là gì? Mục đích của nó là giúp con xoay chuyển ý niệm bản sắc đó và nhận ra con có một bản sắc khác không phải là ngã vỏ ngoài.

Khi nhận biết của con mở rộng hơn, con bắt đầu cảm nhận Hiện diện của con nhưng con không nghe thấy Hiện diện của con như một tiếng nói từ ngoài. Con bắt đầu cảm nhận Hiện diện của con như một Hiện diện nội tại. Nó không cho con hướng dẫn, giáo lý. Nó cho con một khung tham chiếu về bản sắc thật của con là gì. Khi con cảm nhận được điều này, con có thể so sánh cảm nhận này với những gì đến từ ngã vỏ ngoài, từ các phàm linh. Con có thể biết ngay lập tức: “Cái phàm linh này, cái tiếng nói này, không phải là cái tôi là. Tôi hơn thế; tôi là cái TA LÀ ở trên kia!”

Có thể là con chưa trải nghiệm Hiện diện của con trọn vẹn và rõ ràng, nhưng con cảm nhận có cái gì ở đó nhiều hơn ngã vỏ ngoài. Hiện diện TA LÀ của con cho con cảm nhận đó. Đây là vai trò của Hiện diện, và đây là lý do tại sao con cần xoay chuyển. Nếu con phóng chiếu lên Hiện diện là Hiện diện phải giống như vị đạo sư, phải giống tiếng nói từ ngoài thì con không thể đi xa hơn một tầng nào đó. Con không thể lên tới tầng 144 ngày nào con còn xem Hiện diện TA LÀ như một tiếng nói bên ngoài hay một sinh thể bên ngoài.

Con cần rũ bỏ hình ảnh này, hình ảnh khô chết này để con không giơ hình ảnh này lên trước vị Thượng đế thật là Hiện diện của con. Chính Hiện diện TA LÀ của con nói chuyện với con từ bụi cây bốc lửa lúc đầu, nhưng sau này trên đường tu không còn bụi cây nữa, không còn tiếng nói nữa, không còn gì đang bốc cháy, chỉ có Hiện diện. Khi con tới tầng 144, bước cuối cùng của con là buông bỏ chính cốt lõi của ngã vỏ ngoài và ở đây một lần nữa có một sự khác biệt vi tế.

15.5. Cái ta cuối cùng con phải lột bỏ trước khi thăng thiên

Khi cái Ta Biết lần đầu tiên đầu thai, thày có nói là nó mang vào một ngã vỏ ngoài, một vai trò đã được quy định sẵn và nó dần dần bồi đắp thêm vai trò này. Điều đầu tiên cái Ta Biết mang vào là cảm nhận nó là một sinh thể cá nhân cá biệt. Nó có một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm khác với ý niệm bản ngã quả cầu của Hiện diện TA LÀ.

Hiện diện TA LÀ không phải là đấng Sáng tạo, nó không có nhận biết của Thượng đế. Nếu con đang hiện thân trên trái đất thì Hiện diện TA LÀ của con không phải là một sinh thể tiến hóa cao so với các Sinh thể Hoàn vũ và đấng Sáng tạo. Nó có tiềm năng phát triển tới nhận biết trọn vẹn của Thượng đế nhưng nó chưa đạt tới đó. Sự thực là nó gửi con xuống để giúp nó phát triển hầu nó đạt được các trạng thái tâm thức cao hơn. Hiện diện TA LÀ của con sẽ vẫn tiếp tục tăng triển sau khi con thăng thiên và sự việc con xuống cõi vật chất sẽ giúp Hiện diện TA LÀ của con tăng triển.

Khi con mới xuống, con bỗng nhiên nhận ra: “TÔI LÀ, do đó tôi có thể suy nghĩ và tôi có thể nhận biết điều gì đang xảy ra trong thế giới vật chất.” Sau đó con mang vào cảm nhận con là một cái ta cá biệt, cá nhân, tách biệt. Nếu lúc đó con nhận biết trọn vẹn Hiện diện của con thì con sẽ thấy mình tách biệt khỏi Hiện diện. Con ở dưới này, Hiện diện ở trên kia.

Khi con vươn lên về hướng tầng tâm thức 144, con dần dần buông bỏ cảm nhận có khoảng cách giữa con và Hiện diện. Khi con ở tầng 144, để có thể thăng thiên con phải lột bỏ cái cốt lõi của ngã tách biệt. Cốt lõi này vượt xa hơn cái mà chúng ta trong giáo đoàn gọi là kẻ ngụ trên ngưỡng cửa. Nó thực sự vượt quá cái mà trong đa số trường hợp được gọi là tự ngã. Hay chúng ta cũng có thể nói nó chính là cốt lõi của tự ngã. Nó không phải là kẻ ngụ trên ngưỡng cửa vì kẻ này là một phàm linh mà con có thể lột bỏ và có lúc con tới điểm con quả thực đã lột bỏ tất cả mọi phàm linh. Con đã vứt bỏ hết mọi phàm linh nhưng con vẫn còn cảm nhận cốt lõi con là một sinh thể tách biệt khỏi Hiện diện.

Khi con ở tầng 144 và hoàn toàn sẵn sàng thăng thiên thì con lột bỏ cảm nhận cuối cùng tách biệt khỏi Hiện diện đó và con trở thành một với Hiện diện. Con có thể cần suy ngẫm điều này. Thày hoàn toàn nhận biết là nhiều người sẽ phản đối giáo lý này, chất vấn nó, thậm chí còn xem nó là hư giả. Khi thày còn hiện thân thì thày không thể nắm bắt được giáo lý này. Thày sẽ chối bỏ là con mất hết mọi ý niệm bản ngã vì thày vẫn cảm thấy phải có một phần của cỗ xe tâm hồn có thể được Thượng đế chấp nhận vì có bao nhiêu việc vỏ ngoài mà thày đã hoàn thành trên trái đất. Do đó, chắc chắn phải đem được phần ngã kiện toàn đó lên vương quốc.

15.6. Chuyện gì xảy ra cho cái Ta Biết

Ngay cả người sứ giả này đã biết khái niệm cái Ta Biết từ nhiều năm vẫn phải vật lộn với giáo lý trên. Chuyện gì thực sự xảy ra cho cái Ta Biết khi con thăng thiên? Nó biến mất chăng?

Tới đây thì ngôn từ không đủ để mô tả thực tại. Thày đã nói gì trước đây? Hiện diện TA LÀ tập trung chính nó như cái Ta Biết, nó tập trung chính nó như một cái ta trụ vào một nơi. Cái ta trụ vào một nơi này được cho quyền tự quyết nên nó lấy nhiều quyết định dưới này trong hành trình của nó. Khi nó buông bỏ khía cạnh cuối cùng của ngã tách biệt, nó buông bỏ quyền tự quyết của nó, nó buông bỏ nhận biết trụ vào một nơi của nó. Nó trở lại thành Hiện diện tập trung như sự toàn bộ của nó.

Con có thể nói cái Ta Biết trở thành một với Hiện diện TA LÀ, hòa nhập lại vào Hiện diện TA LÀ, buông bỏ ý niệm bản sắc, cá thể, sự hiện hữu của nó. Tất cả những chữ này đều thích ứng nhưng con cần chú ý một điểm. Các chữ này đều đặt trọng tâm vào cách cái Ta Biết trải nghiệm bởi vì điều cái Ta Biết đã làm trong suốt hành trình của nó là trải nghiệm thế gian như một cái ta cá biệt, trụ vào một nơi. Cái Ta Biết đã tin rằng: “Tôi là một sinh thể cá biệt và tôi đang trải nghiệm cái tôi đang trải nghiệm.”

Nhưng con có thể nói là thực sự chưa bao giờ có một sinh thể cá biệt. Con có thể nói chưa bao giờ có một cái Ta Biết bởi vì trong suốt hành trình đó lúc nào cũng chỉ là Hiện diện TA LÀ tập trung chính nó vào một điểm. Không phải là cái Ta Biết đã từng làm mọi điều. Đó là lý do tại sao Giê-su đã nói: “Chính ta không thể làm gì cả.” Giê-su cũng có thể nói: “Ta không có cái ngã riêng, nó là một ảo tưởng.”

Đây là một ảo tưởng mà con không thể đơn giản buông bỏ khi con chưa tới tầng 144. Nếu con buông bỏ nó thì con còn không thể đi từ từng 143 lên tầng 144. Con cần một cỗ xe để leo lên cầu thang xoắn ốc của con đường đưa tới thăng thiên. Con cần cảm nhận có cái “ta” đang hội đủ điều kiện, đang thăng lên, đang vươn lên qua các tầng của vũ trụ vật chất và các tầng tâm thức có thể có được ở đây.

Khi con lên tới đỉnh thì con cần vứt bỏ cỗ xe cuối cùng này, cái ý niệm có một cái ta đang đi trên hành trình. Con bắt đầu trở lại nhận biết mình là Hiện diện tròn đầy. Hiện diện bây giờ hơn là khi cái Ta Biết đi xuống. Những trải nghiệm của cái Ta Biết, những quyết định nó đã lấy, đã thăng vào Căn thể. Do đó, Hiện diện TA LÀ bây giờ hơn trước. Con hơn trước.

Con không thăng thiên cho tới khi cái Ta Biết buông bỏ ý niệm nó là cái Ta Biết và trở lại thành Hiện diện tròn đầy. Ở điểm này, Hiện diện TA LÀ xoay chuyển nhận biết của nó. Nó không còn tập trung như là cái Ta Biết dưới này, giờ đây nó tập trung như là một sinh thể thăng thiên.

15.7. Một sự xoay chuyển kỳ diệu

Một lần nữa từ ngữ không đủ để diễn tả. Bất cứ điều gì thày nói ở đây sẽ bị tự ngã áp chồng lên một suy diễn tùy theo tầng tâm thức của con. Suy diễn này có mục đích giữ con mắc kẹt trong ngã vỏ ngoài khiến con quyết định: “Ồ, một phần của ngã vỏ ngoài của tôi mà tôi không thể buông bỏ được, mà tôi không cần buông bỏ, mà tôi không nên buông bỏ.”

Khi con tiến lên cao hơn trên đường tâm linh, mọi chuyện sẽ dễ dàng cho con hơn bội phần nếu con nhận ra rằng thăng thiên có nghĩa là buông bỏ khía cạnh cuối cùng của ngã tách biệt, ngay cả ý niệm con là một ngã tách biệt.  Ở các tầng cao hơn của đường tu, con bắt đầu thấy một cách ý thức nhu cầu buông bỏ một số thành phần của ngã vỏ ngoài. Con không thể buông bỏ được cho tới khi con thấy và thấy ngã tách biệt không phải thật sự là con vì con cảm nhận được Hiện diện: “À, tôi là là cái TA LÀ trên kia, không phải là cái ta nhỏ bé dưới này!”

Con tiếp tục làm như vậy, con tiếp tục có nhận biết: “À, đây chỉ là cái ta nhỏ bé dưới này mà tôi đang trải nghiệm và từ trước tới giờ tôi đã trải nghiệm cuộc sống xuyên qua ngã nhỏ bé này. Nhưng nó chỉ là một phàm linh, nó chỉ là một thành phần khác của ngã vỏ ngoài. Bây giờ tôi đã thấy đây là ngã vỏ ngoài, tôi cũng nhận biết tôi là nhiều hơn ngã vỏ ngoài vì tôi là cái TA LÀ ở trên kia.” Con tiếp tục làm thế khi con lên cao hơn và cao hơn, nhưng khi con tới tầng 144, con thấy: “Ồ, thậm chí tôi còn không phải là cái ta ở dưới này. Tôi không tách biệt khỏi cái TA LÀ ở trên kia vì cái TA LÀ trên kia không ở “trên kia”. Nó ở đây – hay tôi đang ở đó – vì đâu có tách biệt. TÔI Hiện diện.”

Đây là một sự xoay chuyển tâm thức kỳ diệu tuyệt vời. Thày ước chi có thể mô tả xoay chuyển này bằng lời cho con, nhưng thày quá dư biết ngã vỏ ngoài của con sẽ lạm dụng khi thày cố gắng mô tả nó. Nó là một sự giải thoát kỳ diệu. Bỗng nhiên, Hiện diện TA LÀ của con ý thức rằng nó là một chân sư thăng thiên, một sinh thể thăng thiên. Đây là một sự chuyển hóa kỳ diệu khi trải nghiệm nó. Khi con trải nghiệm nó, khi con trải nghiệm nó xong, con có thể nhìn lại. Ngay cả trước khi con trải nghiệm nó, con cũng quay nhìn lại. Một trong những điểm quan trọng lúc đó là khi con vươn lên cao hơn, hướng tới tầng 144, con bắt đầu nhìn vào tất cả những phàm linh đó và buông bỏ chúng. Rồi con nhìn lại cuộc đời con.

15.8. Nhìn mọi chuyện là cơ hội để tăng triển

Ví dụ như khi con xem xét một phàm linh đặc thù, con nhìn xem mình trải nghiệm cuộc sống như thế nào qua phàm linh đó. Con có thể thấy là mình lấy một số quyết định xuyên qua phin lọc của phàm linh này. Con nhìn vào những hậu quả của quyết định đó, con thấy là những hậu quả này rất khó chịu đối với con, quyết định của con cũng có thể gây ra đủ loại hậu quả, đủ loại khổ đau cho người khác. Con thấy rõ ràng là, nhìn theo một nhãn quan nào đó, con có thể nói những quyết định này sai, không đúng. Con cũng nhận ra rằng chúng không phải là sự biểu hiện của con người mà con thật là. Chúng chỉ là sự biểu hiện của phàm linh đó, của ý niệm bản ngã tách biệt đó.

Con cũng thấy rằng dù chuyện gì xảy ra, dù hậu quả là gì chăng nữa, đấy vẫn là một cơ hội cho con tăng triển. Đúng đấy, có thể con đã làm gì đó xuyên qua một phàm linh nào đó và hành động của con tạo khổ đau cho người khác, nhưng không phải hành động của con tạo ra khổ đau. Sự kiện là những người này trải nghiệm hành động của con xuyên qua phin lọc của một phàm linh đặc thù của họ, xuyên qua ngã vỏ ngoài đặc thù của họ.

Điều tạo khổ đau cho con là con trải nghiệm hành động của mình xuyên qua phin lọc nhận thức của cùng phàm linh đã khiến con làm những gì con làm. Con hành động dựa theo phin lọc nhận thức của một phàm linh, và sau đó con trải nghiệm và phê phán chính hành động của mình và phê phán mình xuyên qua cùng phin lọc nhận thức đó. Đó là lý do tại sao con cảm thấy đau khổ dữ dội như vậy ngày nào con còn ở trong phin lọc nhận thức.

Khi con thấy phin lọc không thực, khi con tách mình ra và không đồng hóa với phin lọc này, con cũng thấy, như thày đã nói trong bài giảng trước, là bất cứ gì xảy ra trên trái đất chỉ trải bày những điều trẻ em chơi trên bãi cát. Mọi chuyện rốt cuộc đều không thực. Tất cả những năng lượng được dùng để tạo nên mọi chuyện đều có thể chuyển hóa được.

Con trải nghiệm là con đã từng chuyển hóa năng lượng bị một phàm linh tha hóa và do đó con biết năng lượng này không còn nữa. Và sẽ tới điểm con nhìn những gì con đã làm xuyên qua phàm linh đó và con hoàn toàn không ân hận. Tất cả những mặc cảm tội lỗi, xấu hổ, ân hận, cảm thấy mình ngu xuẩn, mình đã làm lỗi, mình là kẻ tội đồ, mình vô giá trị, con bỗng nhiên nhìn ra là tất cả những mặc cảm này đều chỉ là sản phẩm của chính phàm linh đã hành động như thế.

15.9. Khi con rốt cuộc ngừng phán xét bản thân

Con phán xét hành động của mình xuyên qua chính phàm linh đã khiến con hành động như vậy để làm gì chứ? Thay vào đó con có thể với lên tới Hiện diện của con và trải nghiệm Hiện diện nhìn hoàn cảnh như thế nào. Con trải nghiệm là Hiện diện của con không hề có bất cứ phán xét nào của phàm linh. Hiện diện hoàn toàn không có chút phán xét bởi vì đối với Hiện diện nó chỉ là một trải nghiệm mà Hiện diện có thể dùng để quy định con là ai một cách tích cực.

Con có thể nói là khi cái Ta Biết trải qua tiến trình bước đi trên đường tâm linh để đi tới thăng thiên, thì cái Ta Biết nhìn vào một phàm linh, nhìn vào những hành động đã làm xuyên qua phàm linh đó, cái Ta Biết trải nghiệm cuộc sống như thế nào qua phàm linh đó, và sau đó nó tới kết luận ý thức là: “Tôi không là như thế. Tôi là hơn thế.” Cái Ta Biết tập trung vào hành động đã làm, điều gì không tích cực, điều gì không phải là biểu hiện cao nhất của con người mà nó là. Cái Ta Biết tập trung vào: “Tôi không phải là cái này.” Trải nghiệm này là của cái Ta Biết. Hiện diện TA LÀ có một trải nghiệm hoàn toàn khác với cái Ta Biết. Hiện diện không nhìn vào lỗi lầm, nó không hề có bất cứ cảm xúc tiêu cực nào. Nó còn không nghĩ: “Tôi không là như vậy.” Quả thực Hiện diện trải nghiệm toàn bộ hoàn cảnh một cách hoàn toàn tích cực. Nó không nói: “Điều này sai quấy” hay “Tôi không phải là người này.” Nó biến mọi chuyện thành một kinh nghiệm tích cực và sau đó nó nói: “Ồ, tôi là cái này,” một cách tích cực.

Ví dụ, con có thể có kinh nghiệm cái Ta Biết đồng hóa nó là người tội đồ. Có thể con đã bị ảnh hưởng bởi quan niệm tội đồ của Cơ đốc giáo, có thể con đã làm điều gì đó mà Cơ đốc giáo quy định là tội lỗi. Có thể con đã chấp nhận cho mình: “Ồ, tôi thực là người tội đồ. Tại sao tôi làm thế? Đáng lẽ tôi không được làm thế. Tôi quá sai trái khi làm thế.”

Đây là một phàm linh. Khi phàm linh này được tạo ra, có một khía cạnh của phàm linh khiến con làm điều tội lỗi, và sau đó có khía cạnh khác của phàm linh được tạo ra cùng một lúc phán xét con khi con hành động như thế. Chúng đều là thành phần của phàm linh đó. Hay chúng là hai phàm linh riêng biệt nảy sinh từ cùng một quyết định, tùy con muốn diễn tả thế nào qua ngôn từ. Hiện diện TA LÀ của con nhìn vào trải nghiệm này và nói: “Tôi là người đồng sáng tạo có quyền tự quyết và tôi có thể chọn hơn nữa. Tôi chọn lựa tôi là thế này; tôi chọn lựa biểu hiện mình cách này.”

15.10. Ý nghĩa của tất cả những vật vã của con là gì?

Con có thấy chăng là lúc đầu, trước khi con bước trên con đường tâm linh một cách ý thức, thì cái Ta Biết của con xây dựng một ngã vỏ ngoài, sinh diệt, tách biệt? Khi con tìm thấy con đường tâm linh và ý thức về con đường thì con bắt đầu dần dần phá vỡ cái ngã mà con đã gày dựng. Con xây dựng một ngã tách biệt cho tới khi con bị mắc kẹt trong đó đến độ con không chịu nổi nữa. Sau đó con kêu lên xin giải cứu. Con tiếp xúc với một vị thày tâm linh chân chính và con bắt đầu con đường dẫn con trở về trạng thái thanh khiết của lúc ban đầu khi con mới xuống đầu thai, nhờ con đã phá vỡ ngã vỏ ngoài.

Khi con tiến tới những tầng cao hơn của con đường, cái Ta Biết bắt đầu nghĩ: “Tất cả chuyện này có ý nghĩa gì? Tại sao tôi phải trải qua cái mớ rối rắm này, xây dựng cái ngã vỏ ngoài ghê khiếp này và trải qua tất cả những kinh nghiệm kinh khủng này, để rồi giờ đây tôi lại phải phá vỡ trở lại ngã vỏ ngoài này. Tại sao Thượng đế lại gạt gẫm tôi như thế?”

Điều con không nhận ra là trong khi con xây dựng ngã tách biệt, ngay cả khi con đi xuống những tầng tâm thức từ tầng 48 xuống tới tầng thấp nhất có thể có trên trái đất, thì Hiện diện TA LÀ của con có một trải nghiệm hoàn toàn tích cực. Nó dùng mỗi trải nghiệm của cái Ta Biết để quy định chính nó một cách tích cực. “Tôi là cái này. Tôi là thế này. Tôi làm điều này. Tôi biểu hiện mình như thế này.” Khi cái Ta Biết xoay chuyển và bắt đầu phá vỡ ngã vỏ ngoài, thì Hiện diện TA LÀ của con giản dị tiếp tục trải nghiệm tích cực của nó.

Mọi chuyện xảy ra “dưới này” được Hiện diện TA LÀ của con biến thành một kinh nghiệm tích cực giúp nó quy định chính nó, quy định chính nó là thế nào như một sinh thể thăng thiên. Hiện diện TA LÀ của con đang xây dựng bản sắc của nó như một chân sư thăng thiên trong khi con, cái Ta Biết, đang ở trong trạng thái không thăng thiên. Mọi chuyện con đã trải nghiệm, mọi việc con đã làm chỉ giúp xây dựng bản sắc tích cực của con như một chân sư thăng thiên.

Minh triết và Tự do

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 16/3/2014.

Lanto TA LÀ, và TA LÀ tự do. Thày tự do vì thày biết thực tại.

Cấp khai ngộ thứ bảy tại khóa nhập thất ở Royal Teton hiển nhiên là về tự do. Tự do liên quan thế nào với minh triết? Có những người sẽ nói, con chỉ có thể tự do khi con có minh triết cao nhất, minh triết tối hậu. Có những người cũng sẽ nói, tự do chỉ đến được khi con chấp nhận minh triết cao nhất.

16.1. Tính không thực của các hệ thống tin tưởng nhị nguyên

Con có thể lấy gần như bất cứ hệ thống tin tưởng nào và con sẽ thấy là những người theo hệ thống đó một cách đường thẳng sẽ nói rằng những ai biết rõ hệ thống – những ai chấp nhận các học thuyết, giáo điều và minh triết của hệ thống – là người tự do. Mọi người khác đều đã làm nô lệ cho sự ngu dốt, cho ác quỷ hoặc bất kỳ kẻ thù nào mà hệ thống đã quy định. Quả thực là một kẻ thù, nhưng kẻ thù lại không thực. Kẻ thù đó không phải là kẻ mà hầu hết các hệ thống tin tưởng trên địa cầu gán ghép, tức là đối nghịch của điều thiện, đối nghịch của Thượng đế. Như các thày đã giảng dạy nhiều lần, tâm thức nhị nguyên tạo ra hai đối cực chỉ hiện hữu trong thế tương đối với nhau. Cả thiện lẫn ác được định nghĩa bởi hầu hết mọi hệ thống tin tưởng đều nảy ra từ cùng tâm thức nhị nguyên.

Ngay cả khi hệ thống tin tưởng gán cho điều thiện một cái nhãn gọi là Thượng đế, thì đó cũng không thực là Thượng đế – Thượng đế vô hình tướng, siêu việt – mà chỉ là một ông thần đã được hệ thống định nghĩa và phú cho một hình tướng. Tất nhiên, chính hệ thống cũng đã được quy định bởi những kẻ đã rơi vào tách biệt, nghĩa là hàng ngũ giả trá của các thày giả trên địa cầu. Chúng đã dùng tâm thức nhị nguyên để định nghĩa một hệ thống, định nghĩa Thượng đế bên trong hệ thống, rồi nâng hệ thống đó lên vị thế thẩm quyền tối hậu bằng cách tuyên bố nó nắm giữ định nghĩa tối hậu về Thượng đế.

Bất cứ khi nào con nghĩ con có thể định nghĩa được Thượng đế bằng ngôn từ trên hành tinh địa cầu, thì con cũng chứng tỏ là con không có minh triết đích thực. Con chỉ có minh triết giả hiệu, tương đối, nhị nguyên, nơi con tạo ra hệ thống của riêng con để định nghĩa minh triết. Một hệ thống như vậy cống hiến một số lợi thế, đặc biệt cho những ai ở dưới tầng tâm thức thứ 48. Nếu con muốn cảm thấy mình hơn trội người khác, nếu con muốn cảm thấy chỉ có nhóm mình sẽ được cứu rỗi và mọi người khác sẽ đều bị đày xuống địa ngục vĩnh viễn, thì quả là con cần một hệ thống như vậy. Nhưng khi con trở thành đệ tử của chân sư thăng thiên và đặt mục tiêu là leo từ tầng tâm thức 48 lên tới tầng 96, con không thể tiếp tục bám vào cái nhìn đó về minh triết, bám vào ý muốn định nghĩa một minh triết tối hậu nào đó. Con không thể tự do biểu đạt minh triết nếu con luôn luôn phải so sánh nó với một cái gì được định nghĩa bằng ngôn từ.

16.2. Là cánh cửa mở cho Tánh linh Minh triết 

Thày đã nói đâu là chìa khóa tối hậu để thật sự biết được minh triết? Đó là phải vượt khỏi mọi hệ thống ngôn từ trên địa cầu và – trong nội tâm mình – hòa điệu với Tánh linh của Minh triết. Khi con chưa chiêm nghiệm được tánh linh này – như cái Ta Biết làm được khi nó bước ra ngoài phin lọc nhận thức của tâm vỏ ngoài – thì con vẫn chưa biết được minh triết. Nếu con không biết minh triết, tại sao con lại muốn áp đặt lên người khác một cái gì chỉ có thể là một quan điểm giới hạn? Tại sao con lại muốn tự xưng làm quan tòa phán xét người khác?

Tất nhiên, con có thể tự xưng mình là quan tòa đó, nhưng khi đó con không thể thực sự là một đệ tử của chân sư thăng thiên. Con có thể tự xưng là một học trò của chân sư nắm giữ minh triết cao trội về một giáo lý nào đó của chân sư, nhưng con không là một đệ tử đích thực. Con là một trong số những đệ tử giả. Con chỉ sử dụng một giáo lý vỏ ngoài của chân sư được biểu đạt thành lời để xác nhận cái nhìn của con về con đường giả trá.

Tất nhiên, các thày không bị lừa đâu. Ai đó trên địa cầu có thể bị lừa. Chắc chắn các thày biết là có nhiều người tự xưng mình là đệ tử của các thày và đã tự lừa dối, cũng như đã lừa dối người khác, để mà tưởng rằng họ có minh triết cao trội nào đó của chân sư. Nếu con đang sử dụng minh triết của con làm vũ khí chống lại người khác, thì con chứng tỏ là con chỉ có minh triết vỏ ngoài. Con vẫn chưa áp chặt vào tánh linh, cho nên con không tự do. Làm sao con biết được bằng tâm vỏ ngoài Tánh linh Minh triết muốn biểu đạt như thế nào xuyên qua con trong một tình huống nhất định? Nếu mỗi khi minh triết được biểu đạt xuyên qua con, con luôn đòi hỏi là nó phải được so sánh với một hệ thống vỏ ngoài và phải tuân thủ hệ thống đó, thì con đâu cho tánh linh khoảng trống nào để mà biểu đạt?

Con có thể nói: “Nhưng tôi đã có một giáo lý của chân sư thăng thiên trao truyền qua một sứ giả được bảo trợ. Nhất định đó phải là một giáo lý có giá trị chứ.” Quả thực, chắc hẳn đó là một giáo lý giá trị. Nó có giá trị vào lúc được ban ra vì đó là một biểu đạt của Tánh linh Minh triết hay một tánh linh nào khác vào thời điểm đó. Nó cũng được ban ra cho một trình độ tâm thức nào đó. Rất có thể là nó vẫn có giá trị cho những ai ở mức tâm thức đó và thấp hơn, nhưng làm sao con biết được Tánh linh Minh triết sẽ quyết định, sẽ mong muốn, biểu đạt những gì ngày hôm nay, xuyên qua con hay một ai khác?

16.3. Các chân sư thăng thiên làm việc như thế nào với các tổ chức

Các thày thường xuyên nhìn thấy những người bảo mình là đệ tử của chân sư thăng thiên, tu tập theo một tổ chức hay một giáo lý của chân sư mà họ đang dùng làm giáo lý chủ yếu. Họ tin giáo lý đó là có giá trị. Thường khi, họ tin đó là giáo lý chân chính duy nhất, ít ra là cao nhất. Các đệ tử này thường bảo rằng những sứ giả đến sau tổ chức của họ không thể là sứ giả chân chính. Họ thường trích dẫn một lời dạy nào đó từ giáo lý trước, hay từ sứ giả trước, hay từ văn hóa bao quanh tổ chức trước, và bảo đó là lời dạy tối hậu vì sẽ không có gì đến sau.

Con yêu dấu, con nghĩ tại sao các thày – các chân sư thăng thiên – lại khởi sự bày tỏ trực tiếp khoảng một thế kỷ trước đây qua trung gian một số vị sứ giả? Con nghĩ tại sao các thày lại bỗng nhiên bước vào tầm chú ý của công chúng trong khi các thày vẫn ở ẩn trong các thế kỷ trước? Đó là vì có một định luật huyền bí không cho phép các thày xuất hiện dưới mắt công chúng khi mà tâm thức loài người chưa nâng tới mức cần thiết. Khi sự chuyển vọt này xảy ra và tâm thức được nâng đủ, các thày đã được Hội đồng Nhân quả cho phép biểu lộ một cách công khai, và các thày đã làm vậy ngay lập tức.

Những phản ứng đầu tiên mà các thày nhận được là gì? Đó là phản ứng từ tín đồ các tôn giáo chính thống, họ nói: “Nhưng tại sao các thày lại xuất hiện với lời tiết lộ mới mẻ khi mà kinh điển chúng tôi đã ghi ra mọi thứ là chân lý tối thượng rồi, đã chứa đựng tất cả mọi điều cần phải nói rồi?” Các thày đã nghe câu này từ tín đồ Cơ đốc giáo. Các thày đã nghe từ tín đồ Hồi giáo. Các thày đã nghe từ tín đồ Do thái giáo. Các thày đã nghe từ tín đồ Phật giáo, Ấn độ giáo, Lão giáo, và tất cả mọi môn phái trong các phong trào tâm linh. Tại sao các thày lại bắt đầu bày tỏ công khai vào thế kỷ thứ 19? Bởi vì các thày có nhiều điều hơn để nói cho nhân loại, các thày có một chương trình tiết lộ tuần tự, liên tục. Phải, các thày đã bảo trợ một số tổ chức và sứ giả. Và phải, các tổ chức và sứ giả này đã chính đáng khi họ còn truyền đạt lời tiết lộ tuần tự mới, nhưng rồi đợt truyền pháp đã phải ngừng lại vì lý do này hay lý do khác.

Có nghĩa chăng là các chân sư thăng thiên không còn gì để nói nữa? Các thày đã có những đệ tử của chân sư thăng thiên sử dụng cùng y chang cách lý luận như các tín đồ tôn giáo chính thống để đả phá vị sứ giả đến sau sứ giả của mình. Thế con có nghĩ các thày mong muốn đệ tử rơi vào cùng khung tư duy như các tín đồ chính thống hay cực chính thống kia hay không? Con có nghĩ là các thày muốn con đóng tâm mình lại đối với những tiết lộ tuần tự liên tục, và cứ bám chặt vào một tổ chức hay một sứ giả nhất định? Không, các thày không muốn vậy. Các thày muốn con bước tới khi con sẵn sàng bước tới.

Điều này không có nghĩa là con phải bước tới ngay bây giờ. Một lần nữa, các thày không tìm cách lôi kéo mọi người đi theo giáo lý của chân sư thăng thiên, và cũng không tìm cách khiến ai nấy tu tập theo một lời dạy nhất định nào của chân sư, kể cả lời dạy này đây. Mà điều này có nghĩa là các thày muốn đệ tử của mình cởi mở với sự chỉ đạo từ bên trong mỗi người. Nếu con nhận được chỉ đạo là nên nhìn xa hơn một lời dạy vỏ ngoài, hay xem đến một lời dạy mới, các thày muốn con đi theo chỉ đạo nội tâm đó thay vì quyết định với tâm vỏ ngoài: “Ồ không thể nào, các thày không thể nào còn gì để nói thêm nữa vì chuyện này đã được giảng dạy trong giáo lý trước rồi.”

Khi con làm vậy, con đang không làm theo lời thày nói ở cuối bài giảng trước. Con đã không cho các thày làm thày, và con đã không chấp nhận mình làm trò. Con nghĩ con đã trở thành bậc thày có thể bảo chân sư phải nói gì hay không được nói gì, nói khi nào và nói cách nào. Đây không phải là một thái độ xây dựng nếu con muốn vươn lên khỏi mức tâm thức hiện tại của con. Đó chắc chắn không phải là một thái độ xây dựng nếu con muốn vươn lên cấp thứ bảy của Tia thứ Hai, thậm chí vượt lên trên mà bước vào khai ngộ của Tia thứ Ba.

16.4. Tự do trong Tánh linh Minh triết

Để vươn lên cấp thứ bảy và vượt qua cuộc khai ngộ ở đó, con cần đạt được tự do về mặt minh triết. Điều này có nghĩa là, trước tiên, con tự do bước tới khi Tánh linh Minh triết đưa con đi tới. Con không sử dụng tâm vỏ ngoài hay một lời dạy vỏ ngoài nào đó để hạn chế, giới hạn, hạ thấp Tánh linh Minh triết. Khi con cảm thấy sự thúc đẩy nội tâm để bước tới thì con bước tới. Con liên tục tìm cách gia tăng sự hòa điệu của con với tánh linh. Đây là tự do, đây là điều mà các thày mong muốn nhìn thấy nơi đệ tử. Các thày không đang nói là con cần quyết định với tâm vỏ ngoài là mình sẽ bỏ lại một lời dạy trước và bước theo một lời dạy khác, mà thày nói là con cần vượt khỏi tâm vỏ ngoài, cần cảm nhận và biết được từ bên trong là tánh linh đang thúc đẩy con bước tới về đâu.

Tự do là một trong những khái niệm khó nắm bắt nhất, như thày Saint Germain đã giảng mấy lần. Tự do là thách đố tối hậu, ít ra cho tới khi con vượt qua khai ngộ của tầng thứ 96. Tự do hoàn toàn tự do, thế nhưng tự ngã và hàng ngũ giả trá của những kẻ mạo danh muốn gì? Chúng muốn tự do chỉ có thể tự do theo sự quy định của các điều kiện trên hành tinh. Tất nhiên điều này không đúng. Con sẽ không tự do thật sự cho tới khi con trở thành một với Tánh linh Minh triết, và con sẽ không trở thành một với tánh linh đó nếu con muốn ép uổng nó vào một khuôn khổ được thiết kế trên trái đất. Giản dị là tánh linh sẽ không tuân thủ, cũng như Tánh linh Minh triết sẽ không tuân thủ mọi nỗ lực của con nhằm ép uổng nó vào một khuôn khổ nhất định.

Khi con đến với khai ngộ của tia thứ bảy tại khóa nhập thất của thày, dĩ nhiên là con chưa đạt đến tầng tâm thức thứ 96. Không ai chờ đợi con ở mức đó. Không ai chờ đợi con đã đạt tới tầng 144 và sẵn sàng thăng thiên. Nghĩa là không có cách chi con có thể nắm bắt được minh triết cao nhất. Bất kỳ giáo lý vỏ ngoài nào mà con đã chấp nhận ở điểm này là giáo lý mà con có khả năng nắm bắt ở mức tâm thức hiện thời của con, là giáo lý mà con đã phát hiện trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con, chẳng hạn nền văn hóa và nơi con đã lớn lên. Đó là giáo lý tốt nhất cho con ngay lúc này, dựa trên trình độ tâm thức và hoàn cảnh vỏ ngoài của con. Các thày không hề mong muốn con tự ép mình từ bỏ một giáo lý nào đó hay ôm lấy một giáo lý khác.

Điều các thày thật sự mong muốn là con đạt được tự do để nhận đón giáo lý mà con hiện có, và sử dụng nó tốt nhất hầu tăng trưởng thêm nữa. Các thày mong muốn con tự do khi con tiếp nhận, học hỏi, thực hành và sống theo giáo lý mà con có, giáo lý đang hấp dẫn con trong hoàn cảnh hiện tại của mình cho dù giáo lý đó là gì – một giáo lý của chân sư thăng thiên, của một tôn giáo khác hay một giáo lý tâm linh nào khác. Ngay cả nếu con không theo một giáo lý nào, các thày cũng không bảo con nên ép mình tìm theo một giáo lý nào đó. Các thày muốn con cảm thấy mình tự do khi học hỏi, thể nhập và sống đúng với minh triết mà mình đang có. Con chỉ có thể thực sự tự do học hỏi, thể nhập và áp dụng một giáo lý nếu con không tìm cách ép buộc bản thân bằng tâm vỏ ngoài.

16.5. Thể nhập một giáo lý tâm linh nghĩa là gì 

Con có nhớ thày nói gì về bước nhảy lượng tử, là bước nhảy cần thiết trước khi chim con có thể bước ra khỏi tổ và cất cánh bay lên lần đầu? Nếu con cố gượng ép bằng tâm vỏ ngoài hầu tuân thủ một lời dạy hay một giáo điều, một bộ quy tắc hay ngay cả một phương pháp tu tập vỏ ngoài, thì con sẽ không tự do cho phép tánh linh đưa con đi tới. Điều này có nghĩa là con sẽ không thể thực sự thể nhập và áp dụng giáo lý mà con đang có. Nếu con thành thật nhìn vào các phong trào tâm linh và tôn giáo, đâu là một trong những vấn đề chủ yếu mà con thấy được? Chính là vấn đề rất nhiều người nói mà không làm được. Họ có một giáo lý, chẳng hạn họ biết là Giê-su đã dạy mình phải chìa má bên kia. Việc nhận giáo lý trong tâm vỏ ngoài là một chuyện, còn việc thực hành, sống đúng theo giáo lý trong những hoàn cảnh bất ngờ là chuyện khác. Nhiều người cảm thấy mình đã nắm chắc được một lời dạy và đã có thể sống theo lời dạy đó, nhưng khi một tình huống bất ngờ xảy đến, thì bỗng nhiên, họ không thể áp dụng lời dạy được nữa. Con để ý ở đây, thày đang không mỉa mai hoặc chê bai. Thày chỉ nói ra sự thể một cách thẳng thắn. Thày không lên án, và thày không nói ra để khơi lên trong con bất kỳ cảm giác thiếu sót hay tội lỗi nào. Thày nói ra vì thày mong con nhìn ra một cách ý thức là khi con không thể làm đúng theo lời nói, khi con không thể thực hành một lời dạy, đó là vì con chưa tự do để thể nhập được lời dạy. Con chưa tự do vì con còn cố dùng tâm vỏ ngoài để ép buộc tánh linh của con phải tuân thủ một giáo lý hay một bộ quy tắc vỏ ngoài.

Con thử suy ngẫm xem việc sống thực với một giáo lý tâm linh có nghĩa là gì. Con có hai cách nhìn vấn đề này. Cách mà hầu hết mọi người đều dùng là định nghĩa một giáo lý vỏ ngoài, định nghĩa một bộ quy tắc hành xử, xong dùng tâm vỏ ngoài để tự ép mình phải tuân thủ các quy tắc đó. Họ cho rằng chỉ có việc định nghĩa, “Phải làm cái này, không được làm cái kia,” và nếu họ tuân thủ cách hành xử bên ngoài thì họ sẽ làm đúng theo lời nói, họ sẽ sống đúng theo lời dạy. Nhưng tại sao con lại cần một lời dạy vỏ ngoài chứ?

Là một người cởi mở với giáo lý của chân sư thăng thiên, con cũng cởi mở với khả năng là con có thể đạt tới điểm thăng thiên khỏi địa cầu. Như thày vừa giải thích, thăng thiên là bước nhảy lượng tử tối hậu khi con phải vứt bỏ mọi luật lệ, hạn chế, giới hạn và mọi điều tin tưởng từ trái đất. Con phải buông bỏ tất cả những thứ đó. Nếu con vẫn còn cố ép buộc mình phải áp dụng một bộ quy tắc vỏ ngoài, thì làm sao con có thể thăng thiên? Điều các thày cứ cố giảng và lặp đi lặp lại là thăng thiên là một tiến trình hợp nhất với tánh linh, nhưng làm sao con có thể hợp nhất qua trung gian tâm vỏ ngoài là cái tâm khởi lên từ tâm thức tách biệt? Làm sao con có thể giải quyết một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề? Làm sao con có thể hợp nhất qua tâm thức tách biệt? Làm sao cái ngã sinh diệt, tự ngã, có thể đưa con lên trạng thái thăng thiên?

Đó là tại sao thày bảo rằng sự phát triển tâm linh không phải là một tiến trình đường thẳng. Không phải là chuyện định ra một bộ quy tắc xong phải sống gượng theo đó, mà là chuyện đạt đến một sự nhìn nhận nội tâm, một chứng ngộ nội tâm. Đâu là nhìn nhận nội tâm mà con cần đạt đến? Biết bao người tâm linh trên địa cầu tin là giáo lý đặc thù của họ đã định ra một bộ luật lệ quy định những điều kiện để xứng đáng vào được cõi tâm linh, vào được nước trời, vào được trạng thái thăng thiên hay bất kỳ cách định nghĩa nào của họ. Nhưng một giáo lý đích thực sẽ không nói vậy. Một giáo lý đích thực nói rằng khi con hợp nhất với tánh linh mà con là, con sẽ trong Nước Trời, bởi vì tánh linh đó chính Nước Trời, và Nước Trời là một trạng thái hợp nhất với tánh linh.

Tâm vỏ ngoài của con cho rằng chỉ có vấn đề mình cố sống theo luật lệ vỏ ngoài, nhưng kỳ thực, vấn đề là mình phải tự giải phóng khỏi giới hạn vỏ ngoài. Vấn đề là con cần nhận ra con chính là cái mà các thày gọi là cái Ta Biết, một sinh thể vô hình tướng. Con không hề được định nghĩa bởi bất kỳ hình tướng nào trên trái đất, và do đó con không phải sống theo bất kỳ hình tướng nào trên trái đất hầu bước vào Nước Trời. Con phải tách mình ra khỏi sự đồng hóa với mọi hình tướng và bước vào sự hợp nhất với tánh linh mà con thật là.

16.6. Làm thế nào sống thực với một giáo lý tâm linh 

Để sống đúng theo một lời dạy tâm linh, con cần những gì? Chẳng hạn, lấy lời của Giê-su dạy con chìa má bên kia. Làm thế nào con sẽ sống thực, sống đúng với lời dạy này và đáp lại mọi sự xảy ra trên địa cầu một cách bất bạo động? Con có thấy chăng là con không bao giờ có thể làm được qua ngã tách biệt? Ngã tách biệt là tách biệt, có nghĩa là nó cảm thấy bị đe dọa bởi những chuyện của thế gian. Nó bị những chuyện thế gian đe dọa vì nó là một thể sinh diệt, có khả năng bị thế gian làm hại. Nhưng Hiện diện TA LÀ của con hiện hữu nơi một cõi cao hơn. Nó không cảm thấy bị đe dọa bởi bất kỳ điều kiện nào trên điạ cầu vì nó biết rõ nó không thể bị những điều kiện này làm tổn thương. Hiện diện TA LÀ không có vấn đề gì sống thực với lời dạy chìa má bên kia. Nó sẽ chìa má bên kia như một cách thể hiện chính bản chất của nó.

Các thày đã ban ra lời dạy – và đây là một lời dạy rất quan trọng – rằng cái Ta Biết hiện hữu ở giữa Hiện diện TA LÀ và ngã vỏ ngoài. Câu hỏi thực sự ở đây là: Làm thế nào cái ta thật của con, cái Ta Biết, có thể sống thực với lời dạy chìa má kia? Liệu con có thể làm được bằng cách đồng hóa với ngã vỏ ngoài hay không? Không thể được, vì ngã vỏ ngoài không bao giờ sống thực được với lời dạy đó. Điều mà ngã vỏ ngoài có thể làm được là tạo ra một tâm ảnh, nói rằng: “Tôi không được làm một số hành vi bạo lực.” Xong con tự ép mình phải sống theo tâm ảnh đó bằng cách nhịn không có hành vi bạo lực, và con có thể làm vậy thành công nếu con không phải đương đầu với những điều kiện chấn động khiến con bị mất thế cân bằng của con.

Ví dụ, nhiều tín đồ đạo Cơ đốc có thể tỏ ra bất bạo động, ôn hòa và bình tĩnh miễn là họ ở trong tình huống mà họ cảm thấy hoàn toàn kiểm soát được. Nhưng thử đặt họ vào một tình huống chấn động, con sẽ thấy họ bắt đầu bị lung lay trong quyết tâm chìa má bên kia. Rất dễ xảy ra những tình huống khi họ không thể làm đúng theo lời nói được nữa, vì tình huống quá khác với những gì họ kiểm soát được. Tâm vỏ ngoài luôn tìm cách đạt được một điều gì đó qua sự kiểm soát, nhưng như các thày đã giảng, mọi chuyện con làm trên địa cầu đều trở thành xung năng lượng được phóng ra tấm gương vũ trụ và được tấm gương này phóng ngược trở về, nhân lên gấp mấy lần.

Chính do con tìm cách đạt được bất bạo động qua sự kiểm soát mà con đã gửi ra một xung năng lượng sẽ được tấm gương gửi trả về dưới hình thức những tình huống gay gắt hơn tình cảnh hiện thời của con. Chỉ là một vấn đề thời gian trước khi những gì được tấm gương phóng trở về sẽ gay gắt hơn khả năng kiểm soát bằng tâm vỏ ngoài, và con đánh rơi mất quyết tâm chìa má kia ra. Thế là con có hành vi bạo lực, và tất nhiên, tự ngã và hàng ngũ giả trá của những kẻ mạo danh sẽ đứng ngay ở đó, và giờ đây chúng muốn con phải cảm thấy tội lỗi vì con đã không làm đúng những gì con nói. Thế là con bị rơi vào vòng xoắn ốc đi xuống cố hữu khi con cố tự biện minh và càng cố tự kiềm chế mình hơn nữa. Cuối cùng, tất cả biến thành một nỗi căng thẳng to lớn đến độ, không sớm thì muộn, con sẽ phải chịu thua và thốt lên: “Tôi không thể làm thế này được nữa.”

Các thày thà thấy đệ tử nhận ra là có một phương thức hay hơn, và phương thức hay hơn đó là nhận ra mình là cái Ta Biết. Con có sự chọn lựa rút mình ra khỏi sự đồng hóa với tâm vỏ ngoài, với ngã tách biệt. Thay vào đó, con có thể đi vào hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Giờ đây, con không bất bạo động do đã tự ép mình phải làm theo ý tưởng vỏ ngoài, mà do con cho phép Hiện diện biểu đạt xuyên qua con, và ngay trong bản chất của nó, Hiện diện vốn là bất bạo động.

Đó chính là cách con làm đúng theo lời nói. Đó là cách sống thực với lời dạy, bằng cách cho phép cái Ta Biết tự tháo gỡ ra khỏi sự đồng hóa với ngã vỏ ngoài, và chuyển ý niệm bản sắc của mình vào sự đồng hóa với Hiện diện TA LÀ. Con đang trở thành cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ biểu đạt xuyên qua con, và đây thật là cách duy nhất để con làm đúng theo lời nói, cách duy nhất để hội nhập, thể nhập và thể hiện hoàn toàn một lời dạy tâm linh. Con không hề có ý muốn thể hiện giáo lý tâm linh vỏ ngoài.

Mục tiêu của con không phải là biết rõ và tuân thủ một bộ quy tắc vỏ ngoài. Mục tiêu của con là chỉ sử dụng giáo lý tâm linh như một cái thang để leo về hướng hợp nhất với tánh linh, rồi con cho phép tánh linh biểu lộ qua con.

16.7. Leo lên hợp nhất với tánh linh

Các thày thừa hiểu là ở cấp khai ngộ này, con chưa thể hoàn toàn làm được như vậy. Các thày không đòi hỏi điều đó nơi con. Điều mà các thày yêu cầu là con hãy xem xét những lời dạy này, ngay cả bằng tâm ý thức, và con thử nhìn xem con cần những gì để nhảy bước lượng tử trong nhận biết ý thức, hầu chuyển hẳn trọng tâm của mình ra khỏi việc tuân thủ giáo lý vỏ ngoài. Thay vào đó, con chuyển trọng tâm vào việc tìm kiếm trước tiên vương quốc Thượng đế, để tất cả mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con khi con tìm hợp nhất với tánh linh. Và con đặt điều đó làm mục tiêu vỏ ngoài, mục tiêu ý thức của con.

Thày cũng thừa hiểu là con không thể lập tức nhảy vào hợp nhất với tánh linh, nhưng khi con đến với cấp khai ngộ thứ bảy dưới Tia sáng thứ Hai, con có khả năng nhận ra minh triết cao hơn không phải là chuyện đem một giáo lý tâm linh ra áp dụng theo kiểu bao nhiêu người đã từng làm trong quá khứ. Minh triết cao hơn mà con có thể bước lên là nhận ra mục tiêu của một giáo lý tâm linh là nhập một với tánh linh đứng đằng sau giáo lý. Khi con đặt điều này làm mục tiêu của con, con sẽ tự do hơn rất nhiều. Con không phải ép mình tuân thủ một cách diễn giải đường thẳng về giáo lý vỏ ngoài cùng những quy tắc của nó. Con sẽ ngạc nhiên cảm thấy mình nhẹ nhõm hơn hẳn khi mình không còn phải cưỡng bức bản thân – không chỉ cách hành xử vỏ ngoài mà cả suy nghĩ lẫn cảm xúc của mình.

16.8. Khác biệt giữa giáo lý thực và giả

Có khi nào con lùi lại để tự kiểm điểm và nhìn xem mình đã sử dụng một giáo lý tâm linh để cưỡng ép ý tưởng, cảm xúc cùng cách hành xử của mình vào một số khuôn nếp do giáo lý ấn định? Liệu con đã cho phép mình cảm thấy độ căng thẳng mà chuyện này gây ra cho con? Thày biết rõ cái ngã vỏ ngoài, hàng ngũ giả trá của những kẻ mạo danh và nhiều người khác nữa sẽ nói gì về lời dạy này. Chúng sẽ bảo: “Đây nhất định là lời dạy giả trá, vì chẳng phải giáo lý đã dạy rằng nếu bạn bền bỉ thực hành giáo lý thì chắc chắn bạn sẽ đạt được mục tiêu tối hậu hay sao?” Nhưng giáo lý có bảo vậy đâu – trừ khi đó là một giáo lý giả trá.

Một giáo lý đích thực của chân sư thăng thiên sẽ nói, nếu con bền bỉ và luôn luôn nỗ lực thăng vượt mức tâm thức hiện thời của con, thì con sẽ hội đủ tư cách để thăng thiên. Đây là tất cả những gì một giáo lý tâm linh đích thực có thể nói. Một giáo lý đích thực không thể hứa hẹn là bằng cách tuân theo luật lệ và nghi thức vỏ ngoài, hoặc tin vào một giáo lý vỏ ngoài, thì con sẽ tự động đủ tư cách thăng thiên. Một giáo lý đích thực chỉ có thể được ban ra từ cõi thăng thiên, và một sinh thể đã thăng thiên biết rõ con cần gì để thăng thiên. Sinh thể đó biết rõ là cuối cùng, con sẽ phải thăng vượt mọi giáo lý vỏ ngoài, mọi hình ảnh cũng như mọi tin tưởng biểu đạt qua ngôn từ.

Con phải buông tất cả và đi vào hợp nhất với tánh linh không thể bị giam cầm trong ngôn ngữ. Tánh linh có thể biểu hiện qua ngôn từ, nhưng nó không thể bị giới hạn trong bất kỳ lời biểu đạt nào. Nó luôn luôn là nhiều hơn những gì có thể được biểu đạt, và con chỉ có thể hợp nhất với tánh linh bằng cách vươn tới cái nhiều hơn đó vượt khỏi ngôn từ. Khi con tập trung sự chú ý vào ngôn từ, trên cơ bản con đang nói với tánh linh: “Hãy để mặc cho tôi yên, vì tôi muốn cảm thấy cao trội khi tôi làm theo giáo lý vỏ ngoài này.” Con có toàn quyền lấy quyết định đó. Thày chỉ có thể bênh vực cho quyền của con, nhưng thày cũng cần nói là khi làm vậy, con đã đánh mất Tánh linh Minh triết mà TA LÀ.

Con không thể là đệ tử của thày nếu con chối bỏ tánh linh mà TA LÀ. TA LÀ Lanto. Thày là Thượng sư của Tia sáng thứ Hai. Thày có thể biểu đạt qua ngôn từ như thày đã làm qua quyển sách này. TA LÀ bên trong ngôn từ, nhưng thày cũng là nhiều hơn ngôn từ. Nếu con cho là con có thể cầm quyển sách này và tìm hiểu nó, rồi tìm hiểu và tìm hiểu nó thêm nữa, rồi thực hành các dụng cụ, rồi sẽ hợp nhất với tánh linh, thì con lầm rồi. Con chỉ đến được hợp nhất với thày bằng cách thăng vượt giáo lý và dụng cụ vỏ ngoài. Con sử dụng giáo lý và dụng cụ để hòa điệu với tánh linh. Điều mà biết bao người sùng đạo đã làm suốt các thời đại là dựng lên một giáo lý vỏ ngoài, tôn nó lên là cao siêu, xong tìm cách ép uổng Thượng đế – họ cưỡng ép tánh linh – phải tuân theo và đồng thời cũng xác nhận giáo lý vỏ ngoài đó. Một lần nữa, đây lại là cái ngã tách biệt muốn áp đặt mọi thứ. Con nghĩ xem tự ngã và ngã tách biệt có bao nhiêu xác suất cưỡng ép được tánh linh vào trong một khuôn đúc? Trên địa cầu quả là có rất, rất nhiều người tin vào những lời dối trá do sa nhân lan truyền bảo rằng tánh linh có thể bị bắt buộc phải tuân thủ. Từ rất lâu, các sa nhân đã tin rằng một ngày nào đó, chúng sẽ có khả năng tạo ra áp lực to lớn đến độ chính Thượng đế cũng phải tuân theo định nghĩa của chúng về Thượng đế.

Khi con đến cấp thứ bảy tại khoá nhập thất ở Royal Teton, con cũng đạt đến điểm nhảy được một bước lượng tử và chiêm nghiệm được sự sai lầm của cái nhìn đó. Con có khả năng nhìn ra là Tánh linh Minh triết sẽ không bao giờ tuân thủ một giáo lý vỏ ngoài biểu đạt qua lời nói. Nó sẽ luôn luôn là nhiều hơn, và con sẽ chỉ biết được tánh linh bằng cách vượt qua ngôn từ và nhập một với tánh linh. Điều này con có khả năng biết được. Con có khả năng biết được trong tâm ý thức, và khi con biết, con có thể tự do.

Bất kể giáo lý mà con đang áp dụng ở mức hiện thời của con là gì, con hãy đón nhận nó. Hãy học hỏi, thực hành, nhưng trước tiên hết, con hãy nỗ lực thể nhập nó, nỗ lực sử dụng giáo lý vỏ ngoài để với tới tánh linh vượt khỏi giáo lý. Nếu con chịu làm vậy, bất cứ giáo lý vỏ ngoài nào cũng sẽ đưa con lên cao hơn. Nó sẽ đưa con đến điểm cao nhất trên đường tu mà nó có thể. Rồi sau đó nếu con vẫn nỗ lực hợp nhất với tánh linh, con sẽ nhận được sự chỉ đạo nội tâm cho con biết con nên đi về đâu tiếp theo sau, có thể là một giáo lý vỏ ngoài nào khác, hoặc cũng có thể là con sẵn sàng đi sâu vào bên trong và thiết lập mối liên hệ trực tiếp với cái Ta Ki-tô của con, Hiện diện TA LÀ của con cùng các chân sư thăng thiên.

16.9. Phối hợp bước đường thẳng với bước nhảy lượng tử

Tại khóa nhập thất Royal Teton, thày đã thiết lập một căn phòng đặc biệt để đón nhận các đệ tử đã bắt đầu nắm bắt khai ngộ của cấp thứ bảy. Thày sẽ không đưa họ vào trước khi họ thực sự nắm bắt được khai ngộ này, mà chỉ sau đó. Như một phần thưởng, thày sẽ dẫn họ vào căn phòng và cho họ thấy hành tinh địa cầu có thể được chiêm ngưỡng như một tấm thảm đẹp tuyệt đến chừng nào. Nó gần giống như một tấm bản đồ, và nó cho con thấy có một mục tiêu mà con cần đạt đến. Mục tiêu này gần giống như một ngọn núi, và tấm thảm cho con thấy có nhiều con đường khác nhau dẫn đến núi. Nó cũng cho thấy không có đường nào dẫn thẳng đến núi, vì mỗi con đường đều có một số chặng nhất định nơi con phải vượt qua một vực sâu, một ranh giới nào đó.

Trên hầu hết cuộc hành trình, con sẽ đi bộ, nhưng có một số điểm con không thể vượt qua bờ bên kia bằng đường bộ. Có thể là một con sông, hay một hẻm núi thật sâu. Có thể là một đầm lầy hay một khu rừng rậm. Nhưng con không thể đi bộ mà vượt qua được. Con phải tìm cách khác. Con phải nhảy một bước lượng tử, như thày đã chỉ. Con có thể tiến khá xa bằng cách đi bộ, nhưng nếu con gặp một con sông, đi bộ mãi sẽ không giúp con đâu. Con cần một phương tiện vận chuyển khác. Con cần một con thuyền, hay khi con tới hẻm núi, có thể con sẽ cần một cây cầu hay một sợi dây để mà lướt qua.

Ý của thày là ở mức này, đệ tử có thể thấy được là đường tu không phải là một hành trình thuần đường thẳng, mà là sự phối hợp của những bước đường thẳng với những bước nhảy lượng tử. Có những lúc con đi bộ qua một loạt những bước đường thẳng, nhưng cũng sẽ có lúc con phải nhảy lượng tử để sang được bờ bên kia. Nếu con không nhảy lượng tử mà cứ đi bộ mãi, cuối cùng con sẽ chỉ đi lòng vòng mà thôi, như con cũng dư biết người nào đi bộ trong sa mạc mà không có cột mốc cũng sẽ đi lòng vòng như vậy.

Khi đệ tử nhìn thấy tấm thảm, họ thường vô cùng hứng khởi. Họ thấy được vẻ đẹp sâu xa của con đường tâm linh. Họ thấy được đằng sau tất cả mọi điều kiện mà mình đã phải đối mặt, có một hành trình tuyệt vời dẫn mọi người trở về nhà. Có nhiều đệ tử đã phải đương đầu với nhiều tình cảnh vô cùng gian khó trong đời sống vỏ ngoài của mình, nhưng khi họ đến được mức này của khóa nhập thất, thày có thể chỉ cho họ thấy là cho dù hoàn cảnh của họ có thể xấu xa, ô trọc, đáng ghét đến đâu đi nữa, thì tất cả vẫn có thể được biến thành những viên đá lót đường để giúp họ tiến bước. Tất cả mọi hoàn cảnh đều có thể được sử dụng để đẩy con lên cao hơn khi con thăng vượt hoàn cảnh vỏ ngoài và chạm được tánh linh đằng sau.

Tánh linh luôn luôn đứng đằng sau mọi thứ. Lời gian dối của ngã vỏ ngoài và các thày giả là bảo rằng có những điều kiện trên địa cầu xấu xa, nhục nhã, hèn hạ, vô nhân và phản tâm linh đến độ con không thể nào tìm được tánh linh trong đó. Về mặt minh triết, hàng ngũ giả trá sẽ muốn con tin rằng con phải tuân thủ một lời biểu đạt vỏ ngoài của minh triết, và do đó, con không bao giờ có thể chạm được Tánh linh Minh triết. Tất cả những gì con cần là minh triết vỏ ngoài, và nó sẽ đưa con tới điểm đích cuối cùng. Khi con nhìn ra đó chỉ là một ngõ cụt và không có chút thực thể nào, con tự do nhận đón minh triết dưới một dạng cụ thể, nhưng con cũng nhận ra mục tiêu thực sự là chạm được tánh linh. Cho dù hoàn cảnh vỏ ngoài, hay dạng vỏ ngoài của biểu đạt minh triết có là gì đi nữa, thì mục tiêu thật sự vẫn là chạm được minh triết.

16.10. Bước tới khai ngộ của Tia thứ Ba 

Một khi con nhận ra điều này, con sẽ tự do xuôi chảy với Tánh linh Minh triết. Sau đó, thày sẽ đưa con vào một cuộc hành trình nơi con sẽ, trong một khoảng thời gian, chiêm nghiệm cảm giác mình đang xuôi chảy với Tánh linh Minh triết. Hành trình sẽ không dài lắm, vì mục đích không chỉ để tận hưởng cuộc xuôi chảy với minh triết, mà thực sự là để vượt qua vực sâu sẽ dẫn con từ khai ngộ của Tia thứ Hai đến khai ngộ của Tia thứ Ba cùng với vị bào huynh yêu dấu của thày, Paul người Venice, đang chờ đón con tại Chateau de Liberty. Sau đó thày Paul sẽ đưa con qua các khai ngộ, bảy cấp khai ngộ dưới Tia thứ Ba của Tình thương Thượng đế.

Thật là một niềm vui rất lớn cho thày khi một đệ tử đã sẵn sàng. Con có thể nghĩ là thày sẽ muốn giữ lại trong tu viện của thày những đệ tử nào đã vượt qua mọi cấp khai ngộ. Đó là cách suy nghĩ của người phàm phu. Tâm phàm phu sẽ cho rằng mục đích của thày, chân sư của Tia thứ Hai, là nâng học viên qua tất cả các khai ngộ trong khóa nhập thất của thày để sau đó được tận hưởng thành quả công khó của mình. Thày sẽ muốn phô trương những học trò giỏi nhất của mình và cảm thấy tự hào là mình đã dẫn họ đi xa đến chừng này. Đó là điều mà một thày giả sẽ làm, nhưng thày không là một thày giả. Thày là chân sư.

Mục đích duy nhất của thày khi dạy dỗ một học trò là đưa học trò đó tới mức xa nhất trong trách vụ của thày, và sau đó giúp người đó bước đi tiếp lên mức khai ngộ kế tiếp. Không phải khi nhìn thấy học trò vượt qua mức khai ngộ tối hậu mà thày có được niềm vui và lòng thỏa nguyện cao nhất, mà là được thấy người đó tiếp tục bước tới, rồi được Paul người Venice chào đón ở bên kia. Đó chính là niềm vui tột cùng của thày. Thày cũng biết là sau khi con đạt đến tầng khai ngộ thứ 96, con sẽ dễ dàng trở về với thày nếu con muốn thế, nhưng thày không có nhu cầu và cũng không có mong muốn sở hữu bất cứ ai hay bất cứ gì, bởi vì thày tự do.

Thày không xuôi chảy cùng với Tánh linh Minh triết, vì TA LÀ Tánh linh Minh triết. Điều này nghe có vẻ là một sự phân biệt vô nghĩa ở mức tâm thức hiện thời của con, nhưng trước khi con thăng thiên khỏi địa cầu này, con sẽ hiểu được ý nghĩa đầy đủ của câu thày vừa nói. Con sẽ nhận ra là chính con cũng Tánh linh Minh triết cũng như tánh linh của cả sáu đức tính kia của Thượng đế. Thậm chí con sẽ biết con là một tánh linh vượt khỏi các tia sáng nhưng một sự phối hợp của tất cả các tia sáng – và con còn là hơn thế nữa, bởi vì tia sáng thì có hình tướng, nhưng tánh linh thì vượt khỏi hình tướng.

Và chình thày cũng là thế, cho dù thày khoác vào một hình dạng nào đó để con có một cái gì mà nắm lấy ở mức tâm thức hiện thời của con. Nhưng con hãy đừng nghĩ thày có thể bị giới hạn trong hình tướng mà thày đã khoác lấy. Mặc dù thày không phải là Chân sư MORE, nhưng thày là một chân sư, và TA LÀ nhiều hơn (more). TA LÀ Lanto, Chủ tể của Tia sáng thứ Hai. Nhưng thày là nhiều hơn Thượng sư, vì thày là tánh linh không thể diễn tả thành lời. Khi nào con biết được, ngộ được, rằng con cũng không thể diễn tả được thành lời, thì con sẽ biết thày.

Minh triết và An bình

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 15/3/2014.

TA LÀ chân sư thăng thiên Lanto. Thày đến để giảng dạy về những khai ngộ mà con đối mặt ở cấp học thứ sáu dưới Tia sáng thứ Hai của Minh triết Thượng đế. Cấp thứ sáu tương ứng với Tia sáng thứ Sáu, thường được gọi là tia sáng của an bình hay tia sáng của phụng sự. Làm sao con có thể phụng sự đích thực nếu con không phụng sự trong tâm an bình? Và làm sao con có thể an bình nếu con không có minh triết để biết được điều gì là thực và điều gì không thực, điều gì quan trọng và điều gì không quan trọng?

Thày đã nói trong các bài giảng trước về niềm tin tưởng quá phổ biến trên địa cầu cho rằng phải có một minh triết cao trội hay tối hậu, một chân lý tuyệt đối nào đó. Khi con nhìn khái niệm minh triết từ tâm nhị nguyên, là tâm dựa trên sự tách rời khỏi duy nhất, thì con chỉ có thể nhìn minh triết một cách mà thôi. Con xem minh triết như cái tạo ra sự phân chia, vì con nghĩ minh triết đích thực đứng riêng khỏi minh triết giả trá, minh triết cao siêu đứng riêng khỏi minh triết thấp kém, minh triết tuyệt đối đứng riêng khỏi minh triết tương đối. Tuy nhiên, sự thật là bất cứ gì được biểu đạt bằng ngôn từ đều là minh triết tương đối. Điều này nghĩa là gì?

14.1. Khai ngộ thứ sáu dưới Tia thứ Hai

Điều các thày cố cho học viên thấy ở cấp thứ sáu của khóa nhập thất của thày là một minh triết dưới dạng ngôn từ – bất kỳ dạng ngôn từ nào – sẽ không đưa con đến trạng thái thăng thiên. Thày có nói là các thày cho hiện lên trên một màn ảnh những gì xảy ra ở mức năng lượng. Ở cấp khai ngộ thứ sáu, các thày mời các học viên vào thư viện để họ chọn ra quyển sách mà họ xem là minh triết cao trội nhất, hoặc ít ra, một dạng minh triết chân chính và có giá trị. Khi họ trở về với một quyển sách hay một bộ kinh, các thày cho họ xem điều gì xảy ra ở mức năng lượng nếu họ sử dụng những lời biểu đạt đó về minh triết.

Các thày có thể cho họ thấy là đường tu giống như một cầu thang hình xoắn ốc. Các thày cho họ thấy ngay lúc này họ đang đứng ở điểm nào trên cầu thang. Các thày cho thấy con đường ánh sáng dẫn họ lên cao cho đến tầng thứ 144. Xong các thày cho thấy là cách biểu đạt minh triết mà họ đã chọn có thể đưa họ lên cao hơn trên cầu thang, nhưng chỉ tới một tầng nào đó thôi. Các thày cho thấy là khi họ tới tầng đó, tiến bộ của họ sẽ ngừng lại như thế nào, và từ điểm đó trở đi, những năng lượng tuôn chảy qua bản thể của họ không thể chuyển thành những bước tiến xa hơn trên đường tu được nữa.

Lý do đơn giản là giờ đây họ đã đạt tới mức cao nhất mà lời dạy cụ thể đó đã được ban ra cho mức đó. Con không thể nào lên cao hơn bằng cách bám níu lấy giáo lý vỏ ngoài và cứ khăng khăng muốn cho ánh sáng chảy xuống từ Hiện diện TA LÀ của con phải xác nhận và chiều theo giáo lý vỏ ngoài. Hiện diện TA LÀ luôn luôn tận tụy muốn con tăng trưởng lên cao chót vót cho tới khi con thăng thiên, và cả sau đó nữa. Một khi con đã đạt tới mức tăng trưởng tối đa có thể đạt được với giáo lý đó, Hiện diện TA LÀ sẽ trao cho con cả ánh sáng lẫn những ý tưởng vượt lên trên giáo lý.

Điều này không có nghĩa là con nhất thiết phải vứt bỏ giáo lý đó đi, nhưng con phải sẵn lòng để cho Hiện diện TA LÀ của con dẫn con vượt xa hơn giáo lý. Điều này có thể đòi hỏi con phải tìm một giáo lý được ban ra cho một mức tâm thức cao hơn. Có thể sẽ cần thiết là con không có giáo lý, hoặc tạm thời không có giáo lý trong một thời gian. Thậm chí cũng có thể là con sẽ giữ lại một giáo lý nào đó và tiếp tục sử dụng làm nền tảng, nhưng Hiện diện TA LÀ sẽ đưa con đi xa hơn hầu con có thể phát triển một tầm hiểu sâu sắc hơn những gì được giáo lý đó biểu đạt qua ngôn từ.

Hiện diện TA LÀ sẽ chỉ có thể đưa con lên cao hơn nếu con sẵn sàng tra vấn giáo lý. Nếu con không sẵn sàng làm vậy, nếu con không sẵn sàng nhìn xa hơn, Hiện diện TA LÀ sẽ tiếp tục gửi ánh sáng xuống cho con, nhưng giờ đây ánh sáng sẽ trở thành một yếu tố làm xáo trộn sự an bình và cân bằng nội tâm của con. Nó sẽ làm xáo trộn ý niệm mà con đã tạo dựng, là ý niệm rằng mình sẽ được cứu rỗi vì mình tuân thủ giáo lý cao nhất. Có một áp lực bên trong sẽ không ngừng dâng lên, và con sẽ làm một trong hai điều: hoặc là con sẽ thăng vượt giáo lý vỏ ngoài – hay ít ra thăng vượt cách tiếp cận giáo lý vỏ ngoài – hoặc là con sẽ làm y như con thấy quá nhiều tín đồ các tôn giáo đã làm trên địa cầu, là biến giáo lý vỏ ngoài đó thành một vũ khí để hạ thấp người khác và nâng cao chính mình.

14.2. Hãy thăng vượt ngôn từ, chứ đừng bám víu 

Con sẽ thấy nhiều người nhảy vào trò chơi nhị nguyên khi họ tìm cách xác lập giáo lý của mình, xác lập tôn giáo, triết lý chính trị hay triết lý khoa học của mình là cao trội. Họ rơi vào tình trạng giao tranh với người khác. Họ tin chắc, bởi vì họ nắm giữ chân lý vượt trội, rằng họ phải đập tan những chân lý giả trá kia, họ phải khiến cho người khác tuân thủ. Mong muốn thay đổi một cái gì bên ngoài mình không là gì khác hơn một lớp ngụy trang. Con sẽ không thăng thiên được cho dù con có khiến cho toàn thể nhân loại trên địa cầu đi theo một hệ thống tín ngưỡng nhất định.

Lý do thật đơn giản. Con sẽ chỉ đạt được trạng thái thăng thiên bằng cách đi xa hơn bất kỳ mọi cách biểu đạt nào trên địa cầu – bất kể lời dạy mà con nắm là lời nói của Thượng đế hay một bài truyền giảng của chân sư thăng thiên được diễn đạt qua một sứ giả được bảo trợ. Như thày đã có nói, một khi lời dạy được biểu đạt bằng ngôn từ, nó hết là Tánh linh Hằng sống của Minh triết. Con sẽ không thăng thiên bằng cách bám vào một lời biểu đạt. Con sẽ thăng thiên bằng cách thăng vượt ngôn từ và trở thành một với tánh linh. Trước hết, con trở thành một với tánh linh đằng sau mỗi tia trong bảy tia sáng. Sau đó con trở thành một với Hiện diện TA LÀ, là tánh linh cá nhân của con.

Các thày có thể cho thấy trên màn ảnh điều gì xảy ra cho năng lượng khi nó bám mắc vào một giáo lý vỏ ngoài. Con hãy lưu ý một sự khác biệt tinh tế. Có một giai đọan khi việc tuân thủ một giáo lý vỏ ngoài sẽ giúp con tăng trưởng, giúp con bước lên cao hơn trên cầu thang xoắn ốc. Nhưng cũng sẽ tới một điểm khi giáo lý vỏ ngoài không thể đưa con lên cao hơn, cho dù giáo lý vỏ ngoài đó là gì. Con có hiểu điều thày đang nói hay không? Con có nắm được điều này với sự tỉnh giác vỏ ngoài, với tâm ý thức của con hay không? Thày có thể cam đoan với con là nhiều đệ tử cảm thấy rất khó khăn nắm được điều này, ngay cả trong nhập thất của các thày khi tâm vỏ ngoài của học viên không đến nỗi bị tô màu. Thật là quan trọng con nắm bắt được điều này với tâm vỏ ngoài của con.

Không có lời đạy nào bằng ngôn từ tương ứng với tầng tâm thức thứ 144. Không có lời dạy nào bằng ngôn từ tương ứng với tầng 143 hay 142. Đến một điểm – và thày sẽ không nói là điểm nào – con đạt tới một mức tâm thức mà từ đó trở đi, không một lời giáo lý nào có thể đưa con lên cao hơn. Ở điểm đó, con phải đi xa hơn ngôn từ và bắt liên lạc trực tiếp với tánh linh đằng sau lời giáo lý. Nếu con không thiết lập được mối liên lạc này, con sẽ không thể lên cao hơn. Điều này là để đảm bảo là con không thể đi xa hơn một tầng nào đó mà vẫn duy trì một số yếu tố của tâm thức tách biệt, là tâm thức nhị nguyên, là mong muốn hạ thấp người khác hầu năng cao chính mình.

Khi một đệ tử nắm được thực tế này, một gánh nặng rất lớn được trút bỏ khỏi vai người đó. Bỗng nhiên con cảm thấy một niềm an bình bao la, vì giờ đây con biết mình không còn phải đi tranh đua với những hệ thống tín ngưỡng khác nữa. Đệ tử hiểu ra là trên địa cầu có nhiều hệ thống tín ngưỡng có khả năng đưa con lên những tầng tâm thức cao hơn, và dù con có đi theo cái nào trong số những hệ thống chính đáng đó thì thật sự không quan trọng lắm, miễn là con vẫn tăng trưởng. Con không thể dùng tâm vỏ ngoài của con – ít ra là cho tới khi con đạt một mức tâm thức rất cao – để mà phán đoán người khác là họ có đang tăng trưởng hay không, hay họ nên đi theo giáo lý vỏ ngoài nào.

14.3. Con không thể cưỡng ép hợp nhất 

Con hãy nhìn một cách trung thực những phong trào tâm linh mà con đã tìm thấy và đã tham gia. Con thử nhìn xem có bao nhiêu trong số đó có một ý thức độc quyền là họ có giáo lý cao nhất hay vị đạo sư cao nhất, và họ cần đi cải đạo thế giới theo quan điểm của mình. Con thử nhìn xem con người bị căng thẳng như thế nào khi rơi vào tư duy đó. Một đằng, nó mang lại cho tự ngã một cảm giác cao trội rất lớn do mình là môn đồ của tín ngưỡng tối thượng, nhưng đằng khác, nó lại đặt mình vào thế xung đột liên tục với những ai không ở trong giáo lý đó.

Điều gì xảy ra khi con thấy mình trong thế xung đột với người khác? Con không thể hợp nhất với họ, phải không con? Mà mục đích của đường tu là gì? Đó là với lên khía cạnh Alpha của hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, hợp nhất với tánh linh, và sau đó, con với ra theo chiều ngang để cố thiết lập sự hợp nhất với người khác.

Làm sao con có thể hợp nhất với người khác nếu con cố ép họ phải bước vào một giáo lý nào đó? Điều này không thể làm được. Sự hợp nhất không thể cưỡng ép. Đó là trạng thái tự nhiên xảy ra khi con vươn lên cao hơn tâm thức vũ lực, và con quyết định ý thức bước vào hợp nhất. Con không thể lấy được quyết định này khi con còn tìm cách ép buộc người khác, hay thậm chí ép buộc chính con. Các thày muốn cho học viên thấy rằng khi con nghĩ là có một dạng minh triết cao trội hơn, thì không những con đang tìm cách ép buộc người khác mà thật ra con cũng ép buộc chính con. Con phải cố gượng sống theo giáo lý vỏ ngoài đó. Con phải tuân thủ giáo lý vỏ ngoài, thường khi là nghĩa đen của từng chữ, một cách đường thẳng. Và đây là điểm nơi chúng ta có thêm một lằn ranh chia cắt. Con sẽ không lên được cấp khai ngộ thứ bảy tại khóa nhập thất của thày cho tới khi con vượt qua khai ngộ này.

Chúng ta đã bàn về một con đường tu tâm linh. Chúng ta đã bàn tới việc con bước đi trên đường tu từ một mức tâm thức nào đó, ngày càng cao hơn cho đến khi con đạt mức cao nhất và có thể thăng thiên. Chúng ta đã so sánh đường tu như một cầu thang xoắn ốc, và con biết rất rõ là với một cầu thang xoắn ốc, con có thể đi lên bằng cách bước lên từng bực một. Đây là một tiến trình vô cùng đường thẳng. Con đang ở bực này, con nhấc một chân và đặt nó lên bực kế tiếp. Xong con nhấc chân kia và kéo nó lên, và bây giờ con đang đứng ở bực cao hơn. Xong con lại làm lại y chang, và con đứng ở một bực cao hơn nữa. Con có thể tiếp tục làm vậy với từng bực, cho tới khi con lên tới bực cao nhất của cầu thang. Con đường khai ngộ là một loạt những bực đường thẳng như vậy, nhưng con không vượt qua cuộc khai ngộ mà mỗi bực thang tượng trưng bằng cách ở trong trạng thái tâm thức đường thẳng. Con chỉ khai ngộ bằng cách vượt khỏi dạng tư duy đường thẳng, vượt khỏi tâm đường thẳng.

14.4. Bước nhảy lượng tử trong tâm thức 

Hẳn con đã nghe nói về khái niệm bước nhảy lượng tử. Bước nhảy lượng tử là gì? Đó là một bước chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái tiếp theo. Có thể nói, một con ấu trùng tự biến thành một cái kén, rồi sau một thời gian nó tự biến thành một con bướm. Nếu con nhìn con ấu trùng, con không thể nói là có một sự tiến triển đường thẳng từ giai đọan ấu trùng sang giai đoạn kén, cũng như không có tiến triển đường thẳng từ kén thành bướm. Sự tiến hóa của kén thành bướm không phải là một tiến trình lôgíc, đường thẳng và cần thiết. Đó là một bước nhảy lượng tử từ kén thành bướm. Con thử nhìn một tổ chim và thấy một quả trứng trong đó. Con có thể làm như khoa học đã làm là quan sát phôi chim lớn lên như thế nào trong trứng. Phôi ngày càng lớn và phát triển đầy đủ hơn cho tới ngày nó mổ vỏ trứng chui ra, và bây giờ nó bước đi như một con chim con thay vì là cái phôi trong trứng. Nhìn từ bên trong, đây không phải là một tiến triển đường thẳng. Chim con phải làm một bước nhảy lượng tử trong tâm thức hầu có thể đập vỡ vỏ trứng và bước ra giai đọan kế tiếp.

Con nhìn vào tổ chim và thấy chim con ngày càng lớn hơn. Nó mọc thêm lông và cũng mọc cánh dài hơn. Con nhìn chim con ngồi vỗ cánh trong tổ, nhưng một con chim con ngồi vỗ cánh trong tổ không phải là một con chim bay. Nó cần gì để bay? Nó cần nhảy một bước nhảy lượng tử trong tâm thức, và từ giây phút nó rời tổ, nó không còn là một con chim chưa thành mà là một con chim đã thành.

Các thày đang cố giúp con bước đi trên đường khai ngộ bằng cách mô tả con đường này là một sự tiến triển đường thẳng từ mức tâm thức thấp lên mức cao hơn. Các thày cố dắt tay học viên, dẫn qua các khai ngộ, đưa ra các bài tập và trao truyền các lời dạy minh triết, để đưa người đó đến một điểm sẵn sàng vượt qua khai ngộ và vươn lên mức tâm thức kế tiếp.

Mặc dù các thày cố đưa con đi lên một cách tuần tự, con không thể thực sự di chuyển từ mức này sang mức kế tiếp trong một tiến trình đường thẳng. Mỗi lần con đã sẵn sàng ở một mức và có tiềm năng bước lên mức sau, con phải nhảy một bước lượng tử trong tâm thức. Các thày có giảng trước đây là con phải để cho ý niệm cái ta mà con đang có ở mức đó chết đi. Trong một khoảnh khắc vượt ngoài thời gian, con không còn ý niệm cố định về cái ta, rồi sau đó con được tái sinh trong một ý niệm cao hơn về cái ta. Hầu hết mọi người đều không ý thức được điều này trong tâm thức tỉnh giấc của mình, nhưng con đã trải qua nhiều lần trong đời mình rồi. Rất nhiều khúc ngoặt quan trọng trong đời sống là những biến cố khi con nhảy một bước lượng tử trong tâm thức. Hầu hết đều không nhận thức điều này với tâm ý thức. Họ thực hiện bước chuyển hóa mà không ý thức là ý niệm cái ta cũ đã chết đi và họ đã tái sinh trong một ý niệm cái ta mới. Đó là bởi vì tâm con tạo ra một cảm nhận liên tục.

Chúng ta có thể nói rằng cảm nhận liên tục này là khía cạnh cơ bản, cốt lõi của tự ngã. Chúng ta có thể nói rằng khi con đạt đến tầng thứ 144, cuộc khai ngộ mà con đối mặt ở đó là con phải buông bỏ mọi cảm nhận liên tục thì con mới thăng thiên. Cuộc thăng thiên không phải là một tiến triển đường thẳng từ trạng thái tâm thức chưa thăng thiên, mà là một bước nhảy lượng tử vượt lên khỏi nó. Đây là bước nhảy vọt lượng tử tối hậu mà con có thể thực hiện trong vũ trụ vật chất, và đó là tại sao các thày đang cố đưa con đi qua 144 bực nhảy lượng tử nhỏ hơn để chuẩn bị cho con nhảy bước tối hậu. Ở cấp thứ sáu này, con cần nhảy một bước lượng tử, vì con nhận ra là hoặc minh triết có thể giúp con tăng trưởng, hoặc nó có thể trở thành cái bẫy tối hậu sẽ cản trở sự tăng trưởng của con.

14.5. Vượt qua sự phán xét giá trị để đạt an bình 

Đức Phật đã trả lời như thế nào khi có người nhìn thày tĩnh tọa Niết bàn và hỏi: “Thày là gì?” Ý họ muốn hỏi: “Thày là một người hay một vị thần?” Đức Phật trả lời ra sao? Thày không bảo thày là một người, thày không bảo thày không phải là một người. Thày không bảo thày là một vị thần, thày cũng không bảo thày không là một vị thần. Thày trả lời: “Ta tỉnh thức”. Con để ý những gì mà thày cũng không bảo. Thày không bảo: “Ta là một người đạo Phật” và cũng không bảo: “Ta là một vị Phật.” Thày đang cố truyền đạt điều gì khi nói: “Ta tỉnh thức”? Thày cố truyền đạt là thày đã đi vượt xa khỏi trạng thái tâm thức cần đến một nhãn hiệu cho mọi thứ. Đây là chìa khóa của an bình.

Khi con nhìn cuộc sống qua tâm thức nhị nguyên và tách biệt, con phải dán nhãn cho mọi thứ mà con nhìn thấy, mọi thứ đang xảy ra. Điều này thật là tự nhiên. Tự thân nó không có gì sai trái, bởi vì đây là cách thức con tăng trưởng từ tầng tâm thức này đến tầng sau. Con đang nhận ra là cho tới giờ con có một điều tin tưởng nào đó. Con nhận ra là có một bực nằm cao hơn tin tưởng đó, và con quyết định buông bỏ cái cũ và ôm lấy cái cao hơn.

Điều mà tự ngã và thày giả cố làm là khiến cho con bỏ thêm vào tiến trình dán nhãn đó một sự phán xét giá trị. Tự ngã nói: “Cái này thiện, cái kia ác, Cái này tối thượng, cái kia tệ mạt.” Nếu con nói: “Cái này trắng và cái kia đen,” thì con đang dán nhãn. Con đang phân biệt giữa hai hình tướng, nhưng bảo trắng hay đen không phải là bảo tốt hay xấu. Băng tuyết trắng, than đá đen. Có nghĩa lý gì chăng nếu bảo than là ác và tuyết là thiện? Tuyết trắng có thể làm chết người trong khi than đen có thể đốt lên để sưởi ấm và cứu mạng sống.

Các thày muốn chỉ ra cho con thấy là ở mức này, điều hoàn toàn có thể chấp nhận được là con lấy một câu nói minh triết hay một giáo lý vỏ ngoài, và nhận nó là cỗ xe mà mình đã chọn làm phương tiện tăng trưởng. Tuy nhiên, điều không chấp nhận được ở mức này là con giữ lấy sự phán xét về giá trị và bảo rằng giáo lý này hay hơn mọi giáo lý khác, và con phải tiếp tục bám lấy nó cho tới cuối đường tu.

Có lẽ con hiểu được bằng tâm vỏ ngoài một sáng ngộ vô cùng thâm sâu? Các thày đã từng thấy nhiều học trò tìm được một giáo lý mà các thày đã ban ra trong hơn thế kỷ qua, qua đó các thày tiết lộ công khai về sự hiện diện của mình là chân sư thăng thiên. Các thày đã nhìn họ tìm thấy một lời dạy cụ thể được truyền đạt qua một sứ giả hay một tổ chức cụ thể, và các thày thấy họ lý luận rằng giờ đây chắc hẳn mình đã tìm ra giáo lý tối hậu. Các giáo lý mà các thày đã ban ra đều có giá trị. Tuy mức độ thuần khiết có khác nhau và được nhắm tới những trình độ tâm thức khác nhau, nhưng giáo lý có giá trị và hiện vẫn còn giá trị.

Nhưng nhiều đệ tử ly luận rằng không phải đó chỉ là một giáo lý giá trị, mà là giáo lý tối hậu, và vì vậy mọi người phải cải đạo sang giáo lý đó. Họ cho rằng mục đích của các thày, các chân sư thăng thiên, thực sự là cải đạo mọi người trên địa cầu để ai ai cũng ý thức đi theo giáo lý của chân sư. Điều này hoàn toàn không đúng.

Cũng có những học trò tin rằng chỉ có những ai đã, với tâm ý thức, chấp nhận sự hiện hữu và giáo lý vỏ ngoài của chân sư thăng thiên thì mới được phép đến dự khóa nhập thất của các thày về đêm. Tại khóa nhập thất nơi đây ở Royal Teton ngay trong lúc này, thày có học viên đến từ khắp mọi nơi trên thế giới, mọi nền văn hóa, mọi tôn giáo, trong số đó có cả nhiều người không theo một tôn giáo công truyền nào. Thày có học trò là người theo thuyết bất khả tri (agnostic), người vô thần hay người duy vật trong tâm vỏ ngoài của họ.

Các thày là chân sư thăng thiên, không quyết định công việc của mình dựa trên tín ngưỡng và hành vi vỏ ngoài của học trò. Các thày nhìn vào các điều kiện nội tâm của dòng sống và lượng định từ đó: Liệu dòng sống có sẵn sàng cho cuộc khai ngộ mà thày, Lanto, cống hiến ở cấp thứ nhất tại khóa nhập thất Royal Teton hay không? Nếu được vậy, học viên sẽ được chào đón nhập học trong thể vi tế của mình. Và khi họ đến đây, thày không có ý là họ luôn luôn phải cần công nhận sự hiện hữu của chân sư thăng thiên, hoặc một giáo lý hay một tổ chức vỏ ngoài nào đặc biệt, rồi phải tuân thủ giáo lý đó hay gia nhập tổ chức đó.

Các thày có nhiều học viên nhập thất đang đi theo đường tu tâm linh, nhưng ở cấp này nếu học viên đến từ một nền văn hóa, một tôn giáo hay một hệ thống tín ngưỡng bên ngoài – hay họ là người vô tôn giáo, vô tín ngưỡng – thì điều này hoàn toàn chấp nhận được. Miễn là học viên đi theo con đường khai ngộ thì rất có thể người đó sẽ biểu lộ được tiến bộ của mình, mức tâm thức tinh tấn của mình, qua rất nhiều nền văn hóa hay tín ngưỡng bên ngoài khác nhau.

14.6. Để đạt an bình, đừng cố cải đạo người khác 

Đây là một thực tế có thể rất khó chấp nhận cho các học trò của chân sư thăng thiên, đặc biệt là trong tâm ý thức. Khi con chấp nhận nó rồi thì con sẽ thấy mình trút bỏ được một gánh nặng to lớn. Con sẽ nhận ra là quả thực con đã bị mắc kẹt trong ý tưởng là mình phải cải đạo người khác, do ý tưởng đó đã dựng lên một khoảng cách giữa con và người khác và tạo ra một sự căng thẳng. Con là người cảm thấy sự căng thẳng này nhiều hơn người kia có thể cảm được, vì tất nhiên, con trải nghiệm nó ở bên trong tâm con, và con yêu dấu, tâm chính là nơi căng thẳng được tìm thấy. Người kia cũng có thể bị căng thẳng, nhưng căng thẳng của họ nằm trong tâm họ. Tăng trưởng của con trên đường tu không tùy thuộc vào họ có vượt qua được căng thẳng của họ hay không, mà tùy thuộc vào con có vượt qua được căng thẳng nội tâm của chính con hay không.

Điều con cần làm ở cấp này, cấp thứ sáu của Tia thứ Hai, là con cần nhận biết sự căng thẳng, xong con cần nỗ lực buông nó ra một cách ý thức. Khi con buông căng thẳng đó ra, con sẽ dễ dàng hơn để thể hiện con người mà con là, và trình bày niềm tin cùng hiểu biết tâm linh của con. Con không làm chuyện đó với mục đích cải đạo người kia hay chứng minh là họ sai. Con chia sẻ những gì con tin, những sáng ngộ mà con đạt được, và tại sao và làm thế nào con đã đạt được những sáng ngộ đó. Con chia sẻ với mục đích chia sẻ, chứ không phải với mục đích cải đạo hay cưỡng ép. Con không tìm cách hạ thấp, dãn nhãn hay phán xét giá trị của niềm tin người kia. Con chỉ chia sẻ niềm tin của con, và con có thể làm vậy trong tình thương, niềm vui và nhiệt tình – là cách tốt nhất sẽ chuyển hóa người khác.

Làm sao con có thể an bình được nếu con nghĩ là con phải cải đạo người khác theo dạng minh triết cao trội của con? Làm sao con có thể an bình nếu con nghĩ con chỉ đạt được mục tiêu đó qua cách tiếp cận dựa trên sợ hãi, hay bằng cách xé nát tín ngưỡng của họ, khiến họ tin rằng tín ngưỡng của họ sai lầm và sẽ đẩy họ xuống địa ngục? Làm sao con có thể hợp nhất với người khác nếu con tin là họ sẽ bị xuống địa ngục trừ khi họ chấp nhận quan điểm của con, cách biểu đạt vỏ ngoài của con về minh triết? Con chỉ có thể hợp nhất với người khác khi con hợp nhất với Tánh linh của Minh triết. Con giúp người khác hợp nhất với Tánh linh của Minh triết thay vì cố buộc họ phải tuân theo một cách biểu đạt vỏ ngoài về minh triết.

Điều rất đúng là khi đức Phật đưa ra câu nói: “Ta tỉnh thức”, thày biết rõ là nhiều người trên địa cầu sẽ không coi đó là lời gì quan trọng. Họ sẽ không nhận ra là họ đang không tỉnh thức. Ho không muốn thức dậy. Họ muốn ở mãi trong trạng thái không tỉnh thức vì đó là trải nghiệm mà họ muốn có. Đức Phật không có mục đích cải đạo tất cả mọi người trên trái đất để họ đi theo một minh triết hay một tôn giáo vỏ ngoài. Thày biết rõ là chỉ có một số mới hiểu được.

Con cũng nên biết như vậy. Con không phải cải đạo hay thuyết phục tất cả mọi người. Con không phải hợp nhất với tất cả mọi người, bởi vì rất nhiều người vẫn còn bám mắc vào tâm thức tách biệt đến độ họ không muốn đụng tới chuyện hòa nhập với con hay với bất kỳ ai khác. Con chỉ cần chia sẻ sự Hiện diện của con, bản thể của con, minh tríết và sáng ngộ của con, rồi tìm cách hợp nhất với những ai hiểu được, những ai biết trân quý, vì chính họ cũng đã đi đến một số sáng ngộ giống như con.

14.7. Hãy an bình với mức tâm thức hiện thời của mình 

Đừng lo đến chuyện cải đạo người khác theo một giáo lý hay một tổ chức vỏ ngoài của chân sư thăng thiên. Con hãy nỗ lực một cách ý thức để từ bỏ tin tưởng đó đi và tự cho phép mình là người mà mình là, tự cho phép mình an bình và biết rằng khi mình là người mà mình là thì cũng đủ lắm rồi. Tất cả những gì con cần phải làm ở cấp này của đường tu là chia sẻ con người mà con là. Tất nhiên, con vẫn có ý tiếp tục vươn lên cao hơn và cao hơn nữa, nhưng con không thể, khi con đến với cấp khai ngộ thứ sáu của Tia thứ Hai, bước lên cấp kế tiếp cho đến khi con an bình với nơi con đang đứng và chia sẻ sáng ngộ của mình ở mức tâm thức đó – và chỉ cần vậy là đủ. 

Chắc con nghĩ là thày đang tự mâu thuẫn, ít ra là tâm vỏ ngoài của con đang nghĩ như vậy. Con nghĩ thày đang bảo con tiếp tục vươn lên cao hơn trong tâm thức, và con nghĩ điều này nghĩa là con không thể thỏa mãn với nơi mình đang đứng và xem đó là đủ. Dĩ nhiên, con nghĩ đúng. Con không thể vươn lên cao hơn nếu con không mong muốn nhiều hơn những gì con đã có, cao hơn mức tâm thức nơi con đang đứng. Thày đã nói gì về bước nhảy lượng tử?

Cấp khai ngộ thứ bảy không phải là một tiến triển đường thẳng từ cấp thứ sáu, mà là một bước nhảy lượng tử vọt lên trên. Con sẽ không thể nhảy bước lượng tử đó cho tới khi con làm hòa với sự kiện mình đang đứng ở cấp thứ sáu, là khai ngộ của an bình. Con sẽ không thể vươn lên cấp thứ bảy cho tới khi con an bình với minh triết mà mình đang có và không tìm cách sử dụng nó với vũ lực để tạo ra xung đột.

Con sẽ bước lên cấp thứ bảy khi con buông bỏ mong muốn áp đặt lên người khác một cách biểu đạt nhất định về minh triết, và như vậy con tự giải phóng để được bình an trong minh triết mà mình đang có. Khi con bình an trong minh triết mà con có, con cũng bình an với việc từ bỏ minh triết đó. Con có thể nhìn thày, Lanto, nhìn thẳng vào mắt thày và nói: “Thưa chân sư, con muốn nhiều hơn. Con muốn mức khai ngộ kế tiếp, nhưng con an bình nơi con đang đứng, và con để cho thày quyết định xem khi nào con sẵn sàng.”

Khi con quyết định là con sẽ để cho thày quyết định thay vì tự phán đoán chính mình với tâm vỏ ngoài, thì con đã sẵn sàng đi bước kế tiếp. Khi nào con còn chưa sẵn lòng để cho thày làm thày và con làm đệ tử, thì con vẫn chưa sẵn sàng. Con có thể ngồi trên bở tổ chim vẫy cánh với tất cả sức bình sinh nhưng con sẽ không bay bổng lên được. Con sẽ không có bình an nội tâm để biết được là khi mình tự đẩy mình ra khỏi tổ chim, đôi cánh sẽ có thể giữ mình bay bổng trên không trung.

Lanto TA LÀ, và TA LÀ sự an bình trong minh triết mà TA LÀ.

Minh triết và Viễn quan

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 14/3/2014.

TA LÀ chân sư thăng thiên Lanto. Thày đến để giảng về những khai ngộ mà con đi qua ở cấp khai ngộ thứ năm tại khóa nhập thất Royal Teton. Dĩ nhiên, đây là mức của Tia sáng thứ Năm, thường được gọi là tia của sự thật, tia chữa lành hay tia của viễn kiến. Điều thày muốn con biết đến ở đây là có một yếu tố của Tia thứ Năm nói chung chưa được biết đến, ngay cả đối với học trò của các chân sư thăng thiên.

12.1. Luân xa Mắt thứ ba 

Tất nhiên, Tia thứ Năm có liên hệ đến cái gọi là con Mắt thứ ba ở điểm giữa hai lông mày. Người ta bảo rằng khi luân xa này được linh hoạt, con đạt được khả năng nhìn thấy những thứ mà mắt vật lý không thể nhìn thấy. Nhiều người tâm linh đã nghe kể chuyện có người đã mở được mắt thứ ba và nhìn được hào quang cùng một số hiện tượng khác. Nhiều người còn cho rằng khả năng này rất đáng thu hoạch và là một chỉ dấu thành tựu tâm linh. Kỳ thực, có thể nó không là chỉ dấu thành tựu tâm linh chút nào, như con thấy rõ nơi rất nhiều người gọi là ngoại cảm trên thế giới. Họ có thể có một số khả năng bắt sóng được một cái gì đó vượt khỏi cõi vật chất, nhưng họ thường không đủ trưởng thành tâm linh để biết được cách sử dụng như thế nào.  

Có một yếu tố của Tia thứ Năm, tia của viễn kiến tâm linh, mà ít người biết đến. Tất nhiên con biết rõ từ bản thân cũng như từ kinh nghiệm, có bao người trên thế giới vô cùng gắn bó với khái niệm chân lý. Như thày đã có giảng, người ta thường cho rằng có một cách diễn đạt minh triết, một hệ tư tưởng hay một hệ thống tín ngưỡng là chân lý cao trội, hay minh triết cao trội. Có nhiều học trò của chân sư thăng thiên bị quá dính mắc vào một giáo lý vỏ ngoài đến độ họ không thể theo kịp các thày khi các thày cứ tiếp tục rải truyền Lời Hằng sống, là dòng chảy liên tục sẽ không bao giờ ngừng lại cho đến khi con người cuối cùng thăng thiên khỏi trái đất.

12.2. Giấc mơ công thức bí mật 

Khi học viên đến cấp khai ngộ thứ năm tại khóa nhập thất của thày, họ thường nghĩ giờ đây chỉ có việc đi vào thư viện của các thày và phát hiện quyển sách bí mật chứa đựng một công thức bí mật sẽ bỗng nhiên trao cho họ những khả năng siêu phàm đó. Con nhìn xem có bao nhiêu người trên thế giới cứ chạy đuổi theo hũ vàng ở cuối cầu vồng. Một số đuổi theo hũ vàng trong nghĩa đen dưới hình dạng của cải vật chất, nhưng con nhìn xem có bao nhiêu người tầm đạo cũng đuổi theo một hũ vàng theo nghĩa ẩn dụ khi họ cố giành được một loại kiến thức, hay một công thức, hay một khả năng nào đó vượt khỏi bình thường. Đây là một trở ngại to lớn cho các đệ tử trên đường tu tâm linh mà không sớm thì muộn con cần phải lột bỏ. Vậy thì tại sao con không lột bỏ nó ngay tại đây ở khóa nhập thất của thày tại Royal Teton?

Các thày hoàn toàn có khả năng giúp con đạt được minh triết sẽ cho phép con bác bỏ cuộc săn đuổi khả năng siêu phàm mà tự ngã đã bày ra. Thày đã nói gì về tự ngã? Nó tìm kiếm sự an toàn tối hậu. Nếu bỗng nhiên con có được một loại công thức hay khả năng siêu nhân nào đó, thì có phải là nó sẽ cho con và tự ngã của con một cảm giác an toàn? Thế nhưng nếu con đạt được khả năng đó và nó cho tự ngã con một cảm giác an toàn, thì liệu con sẽ thực sự tinh tấn tâm linh hay không? Ngược lại là đằng khác, nó sẽ cản trở bước tiến tâm linh của con và dẫn con vào ngõ cụt.

Các thày có nhiều học trò đến khóa nhập thất đã lạc vào một ngõ cụt như vậy, hoặc là họ đã thu hoạch một kiến thức hay khả năng nào đó, hoặc là họ mơ ước làm được chuyện đó. Và họ đến, tưởng rằng các thày sẽ giúp họ có được khả năng siêu phàm. Và dĩ nhiên, họ cũng nghĩ là chân lý có thể được diễn tả bằng ngôn từ, và phải có cách tìm ra một lời biểu đạt là chân lý tuyệt đối. Tại khóa nhập thất Royal Teton, các thày có một thư viện chứa đựng tất cả mọi giáo lý tâm linh đã từng được truyền giảng trên trái đất. Nó cũng hao hao như Thư viện Alexandria danh tiếng thuở trước nhưng rộng lớn hơn nhiều. Thư viện của các thày trở ngược về những nền văn minh từ lâu đã bị lãng quên. Con hẳn có nghe nói tới thời Atlantis và Lemuria, nhưng thư viện của các thày đi ngược trở về tới những nền văn minh chưa từng bao giờ có tên.

Khi có ai tìm kiếm chân lý cách đó, tìm kiếm chân lý tối hậu được biểu đạt qua lời nói, các thày đưa họ vào thư viện đó và bảo họ: “Vào đây, con hãy bỏ ra bao nhiêu thì giờ cũng được để tìm ra chân lý đó, và khi nào con tìm thấy điều gì, con cho các thày biết nhé.”  Họ háo hức nhảy vào thư viện. Lúc đầu, họ vô cùng hào hứng, gần như bị choáng ngợp bởi lượng sách trong thư viện, vì thật sự có hàng triệu quyển trong đó. Họ chọn ra một vài quyển và đọc ngấu nghiến. Họ vô cùng phấn khích, tưởng rằng mình đã tìm ra một biểu đạt rất cao của chân lý.

Nhưng rồi họ tìm ra một quyển khác hình như cũng có thẩm quyền rất lớn, một chiều sâu và minh triết cũng tuyệt vời, và họ lại đọc. Cứ thế hết cuốn này tới cuốn khác, dù ít hay nhiều đến đâu thì cũng sẽ tới một điểm khi họ bắt đầu nhận ra là có quá nhiều cách khác nhau để biểu đạt chân lý, đều có vẻ có giá trị, đều có vẻ có thẩm quyền, nhưng tất cả đều khác nhau một chút, và có khi thì khác nhau rất nhiều.

Lần hồi học viên bị dồn tới chỗ bực dọc khi họ không biết phải tin cái nào. Có lẽ chính con cũng nhận diện được trạng thái này trong đời con, hay ít ra nơi nhiều người trên thế giới đã đi theo thuyết bất khả tri (agnosticism) do cuộc chiến không giải quyết được giữa khoa học và tôn giáo. Họ không biết phải tin vào gì nữa, hay họ tin là chẳng có chân lý nào tối hậu. Liệu thày có đang bảo là các thày muốn học trò của chân sư thăng thiên đi theo thuyết bất khả tri hay chăng? Không phải trong nghĩa phàm phu, nhưng các thày mong muốn con đạt tới điểm nhận ra, như thày đã có đề cập, rằng không một câu nào bằng ngôn từ có thể là chân lý tối hậu.

12.3. Con nhìn thấy gì khi mở mắt thứ ba   

Đó là một nhận thức hoàn toàn cơ yếu trên đường tu. Vậy con sẽ làm gì đây? Khi một học viên đạt tới điểm thất vọng này, các thày có thể nhập cuộc và giúp người đó. Tại sao các thày lại để cho họ đạt tới cao điểm thất vọng đó? Bởi vì khi họ mới đến nhập thất, họ tin chắc nình nịch là phải có một chân lý tuyệt đối, và họ không sẵn sàng lắng nghe khi các thày bảo họ là chuyện đó không phải. Họ cần phải trải nghiệm tuyệt vọng trước khi họ mở tâm ra để nhận lấy những gì mà các thày sẽ cho họ tiếp theo.

Sau đó các thày đưa học viên vào một căn phòng đặc biệt nơi các thày hiển thị lên một màn ảnh những gì con thật sự thấy được với con mắt thứ ba mở tối đa. Có những nhà ngoại cảm trên thế giới ở những mức độ mở mắt thứ ba nhiều hay ít, nhưng rất ít người trong hiện thân đã mở được tối đa con mắt thứ ba.

Và như vậy, các thày chiếu lên màn hình những gì con có thể thấy được nếu mắt thứ ba của con mở ra toàn diện. Các thày cho thấy khi con đưa ra một câu nói bằng ngôn từ, những lời đó thật sự không phải là lời vật lý. Như con cũng biết từ khoa học, không có gì gọi là vật chất vật lý. Vật chất chỉ đơn giản là một dạng năng lượng dày đặc hơn, và đó là tại sao con thọ nhận được bằng giác quan vật lý. Khi con có khả năng nhìn bằng con mắt thứ ba đã linh hoạt, con thấy được năng lượng đằng sau vật chất, con thấy được dòng chảy của năng lượng đằng sau hình dạng vỏ ngoài. Bấy giờ các thày có thể lấy bất kỳ câu nói nào, cho nó chạy qua một bộ máy đặc biệt, hơi giống như máy tính nhưng tân tiến hơn bội phần, và hiển thị lên màn ảnh năng lượng do lời nói tạo ra.

Nếu con muốn một minh họa cụ thể, con thử hình dung một chương trình máy tính mà con sử dụng để thu và chỉnh sửa âm thanh. Âm thanh được lưu trữ dưới dạng những bít gồm có số một và số không trên ổ đĩa của máy tính, nhưng trên màn ảnh, nó hiện ra như là những làn sóng hay đường vẽ lên lên xuống xuống. Bây giờ con có thể vặn âm thanh lên và thấy sóng hiện trên màn ảnh. Con có thể thay đổi một số yếu tố và sóng cũng thay đổi theo. Nó cũng từa tựa – tuy sơ khai hơn rất nhiều – những gì con sẽ thấy tại nhập thất Royal Teton. Các thày cho học viên thấy là khi con lấy một câu nói đút vào máy, trên màn ảnh sẽ hiện ra dòng năng lượng do câu nói tạo ra.       

Các thày cho thấy là dòng năng lượng có thể đi lên hay đi xuống, hay giản dị đứng yên tại chỗ. Các thày cho thấy là có rất nhiều điều giảng dạy trong các địa hạt tâm linh, chính trị, khoa học hay tôn giáo có mặt trên địa cầu thực sự tạo ra một dòng năng lượng đi xuống. Nếu con đọc và nhập tâm những lời đó, hoặc nếu con đọc lớn trên đài phát thanh hay truyền hình, những ai nghe được sẽ trải nghiệm một dòng chảy đi xuống trong năng trường của mình.

Các thày cũng cho thấy tuyệt đại đa số những loại nhạc, lời nói, tin thời sự được truyền thông trên đài phát thanh, truyền hình hay qua internet, đều sản xuất ra những làn sóng năng lượng “bơi đứng” – nếu có thể gọi như vậy. Chúng trồi lên ngụp xuống, nhưng chúng không dứt khoát đi lên hay đi xuống. Chúng cứ đứng yên một chỗ, nhảy múa tại chỗ. Các thày cũng cho thấy có những câu nói tạo ra một dòng chảy hướng thượng. Tất nhiên, đây là những câu nói sẽ nâng cao tâm thức của con. Nhưng sau đây mới là phần hấp dẫn. Bất cứ câu nói nào bằng ngôn từ được thốt ra trong vũ trụ vật chất chỉ có thể sản xuất một xung năng lượng với tầm hạn chế.   

12.4. Các bài truyền đọc có một mục đích đặc biệt 

Nếu ngay bây giờ con đang ở một trình độ tâm thức nào đó và con nghe hay đọc được bài truyền đọc này, rất có thể bài này sẽ nâng cao mức tâm thức của con. Nó tạo ra một xung lực đi lên, một xung năng lượng hướng thượng, sẽ nâng cao trạng thái tâm thức của con – nếu con hòa điệu vào với nó và cho phép mình được nâng lên. Tất nhiên, con cũng hoàn toàn có thể đọc hay nghe bài truyền đọc này mà không hòa điệu với nó, hoặc con từ chối để cho mình được nâng cao hơn mức tâm thức hiện tại của mình. Nhưng đối với những ai sẵn lòng, bài truyền đọc có thể đưa con lên cao hơn mức hiện tại, trừ khi tất nhiên là con đã ở sẵn một mức cao hơn trình độ mà bài này nhắm đến.

Điều mà các thày có thể cho con thấy là bất kỳ một câu nói nào cũng được đưa ra cho một tầng tâm thức nào đó. Bất kỳ câu nói nào cũng được đưa ra cho một trong 144 tầng tâm thức hiện diện trên địa cầu. Mục đích của bài truyền đọc này là để chạm được những ai ở cấp khai ngộ thứ năm của Tia thứ Hai, và cống hiến cho con một xung năng lượng có khả năng đưa con lên cấp thứ sáu. Câu này không được đưa ra cho tầng tâm thức thứ 144, và nó cũng không có ý là chân lý tối hậu. Nó không có ý nâng con từ mức hiện thời của con lên thẳng tới tầng 144. Nó chỉ nhằm mục đích nhấc con lên một bậc, và điều này nó sẽ làm được.

Chuyện gì xảy ra nếu con lại nghĩ bài truyền đọc này là một biểu đạt tối hậu về chân lý? Điều mà các thày có thể thị hiện trên màn ảnh là dòng năng lượng do bài này tạo ra sẽ đưa con lên tới một mức nào đó, nhưng rồi nó sẽ bắt đầu chạy vòng tròn. Từ đó trở đi, con sẽ dẫm chân tại mức này. Vì năng lượng chảy vòng tròn, con sẽ cảm giác có lúc lên lúc xuống. Trong vòng tròn, khi năng lượng chảy xuống phía này, con có cảm giác đi xuống, và khi nó chảy lên phía kia, con có cảm giác đi lên.

Điều này quan trọng vì nó cho con thấy chuyện gì xảy ra cho nhiều đệ tử tâm linh khi họ tìm thấy một giáo lý nhất định. Như thày đã nói, bài truyền đọc này cốt ý nhấc con lên một nấc. Trên thế giới có nhiều giáo lý tâm linh nhắm vào nhiều trình độ tâm thức, và chúng có thể đưa con lên mấy nấc. Bất kỳ giáo lý nào trên thế giới cũng chỉ có một tầm hiệu nghiệm giới hạn. Không thể nào khác được. Thày không thể đưa ra một lời dạy cho tầng 144 sẽ hấp dẫn một người ở tầng thứ 10. Người này sẽ không cách chi nắm bắt được lời dạy đó.

Một giáo lý chỉ có thể chạm được một tầm giới hạn, có nghĩa là ngay cả khi một giáo lý đưa con lên mấy tầng tâm thức, nhất định sẽ tới một điểm khi con không thể lên cao hơn. Khi đó, giáo lý bắt đầu giống như một con sóng chạy vòng vòng trên đại dương. Điều này có nghĩa là có những điểm nơi con sẽ đi xuống trong tâm thức cho dù con vẫn tuân thủ giáo lý. Có thể con không để ý thấy mình đi xuống, nhưng rồi lại tới một điểm khi năng lượng lại chảy ngược lên và con có cảm tưởng đi lên. Nếu con để ý thấy mình đi lên, con sẽ tưởng là giáo lý vẫn đang giúp con tăng trưởng. Đây là lý do tại sao một số đệ tử có thể ở lại với một giáo lý vỏ ngoài nhiều năm trời, nhiều thập niên, thậm chí nhiều kiếp sống, cho tới khi họ chán ngấy và nhận ra là mình cần tìm kiếm cái gì đó có thể dẫn mình lên mức kế tiếp.

Đây là một cơ chế vô cùng quan trọng mà con cần hiểu rõ với tâm ý thức vỏ ngoài của con, vì nó có thể tránh cho con bước vào ngõ cụt mà rất, rất nhiều đệ tử đã bước vào do nghĩ mình phải trung thành với một giáo lý vỏ ngoài, một đạo sư vỏ ngoài hay một tổ chức vỏ ngoài. Khi học viên nhìn ra điều này, thực sự nắm bắt được điều này, thì dường như họ trút được một gánh nặng ngàn cân. Giờ đây họ nhìn ra là họ có thể buông bỏ một giáo lý, đạo sư hay tổ chức mà không bị phản ứng tiêu cực.

12.5. Khi đệ tử nhận ra là không có giáo lý nào tối hậu 

Điều xảy ra với nhiều đệ tử trên thế giới là họ tìm được một giáo lý nào đó. Trong một thời gian họ rất nhiệt tình, nghĩ rằng nó sẽ cho mình sự an toàn tối hậu mà tự ngã thèm khát. Khi tìm được giáo lý, đạo sư, tổ chức đó, họ nghĩ là mình đã tìm được hũ vàng ở cuối cầu vồng. Họ cho rằng họ chỉ cần ở lại đó và tiếp tục làm cùng những thứ đó, thì một ngày kia họ sẽ thăng thiên, sẽ nhập được Niết bàn hay bất kỳ mục tiêu nào khác.

Sau một thời gian, họ đạt tới một điểm khi họ không thể đi lên cao hơn với giáo lý đó, và giờ đây họ bắt đầu chạy vòng vòng. Đối với một số đệ tử nhạy bén, sẽ có một điểm khi họ nhận ra quả thực họ đang chạy vòng vòng và chẳng đi tới đâu. Nếu họ không hiểu được là giáo lý đó không bao giờ được trù liệu để đưa họ lên cao hơn mức đó, thì rất có thể họ sẽ tức giận, oán trách. Có thể họ cảm thấy là đạo sư hay giáo lý kia đã hứa hẹn suông. Trong một số trường hợp, quả là đạo sự đã hứa hẹn suông. Nhưng trong nhiều trường hợp khác, đơn giản là tự ngã của đệ tử đã khiến cho họ diễn giải giáo lý như một lời hứa suông. Nhưng kỳ thực nó không hứa suông, mà chỉ cách diễn giải đã khiến cho nó sai lầm, bởi vì tự ngã, tất nhiên, luôn tìm đường thoát dễ dãi nhất, là một sự cứu rỗi bảo đảm, tự động.

Điều gì xảy ra cho rất nhiều đệ tử như vậy? Sâu bên trong và vượt khỏi mức ý thức của tâm, họ biết là họ phải rời bỏ giáo lý cũ và bước về phía trước. Nếu tâm vỏ ngoài của họ vẫn còn vấn vương với giáo lý đó hay những lời hứa hẹn của giáo lý đó, thì trong nhiều trường hợp, cách duy nhất để họ thoát ra được là họ chợt hiểu giáo lý đó không phải là tối hậu. Họ hiểu ra là nó giả trá, và họ tức giận buộc tội đạo sư hay giáo lý kia là đã hứa suông.

Vấn đề với phản ứng này là nó sẽ kéo đệ tử bước ngược trở xuống cầu thang tâm thức. Có rất, rất nhiều đệ tử tìm được một giáo lý và sử dụng giáo lý đó để vươn lên mấy tầng tâm thức, thế rồi vì tức giận đã rơi xuống mấy tầng, có khi còn thấp hơn cả mức tâm thức trước khi họ theo giáo lý. Nhiều người bị lạc vào ngõ cụt. Nhiều người trở thành như kẻ không còn tin vào gì nữa, cho rằng không có lời dạy nào là hiệu nghiệm, không có vị đạo sư nào là chân chính. Nếu con hiểu điều thày đang nói ở đây, nếu con có thể nắm vững điều này trong tâm ý thức của con, thì con sẽ hiểu ra là một giáo lý chỉ nhắm đưa con tới một mức nào đó thôi.

Một khi giáo lý đã làm xong phận sự, đây là lúc con cần hòa điệu với điều này. Thật ra đây là trách nhiệm của con hòa điệu với điều này, rồi con cần lấy quyết định tiến bước. Khi đệ tử sẵn sàng thì thày xuất hiện. Khi con sẵn sàng buông bỏ giáo lý hiện hữu và mở tâm ra để nhận sự chỉ đạo nội tâm từ cái ta Ki-tô cùng các chân sư thăng thiên, con sẽ nhận được chỉ đạo đó. Nếu con hòa điệu tâm vỏ ngoài của con, thì trong tâm vỏ ngoài con sẽ biết là con đã nhận được. Con sẽ có thể bước tới mà không có phản ứng tiêu cực, không cảm thấy như mình bị lạc lõng trong một khoảng trống không. Để tới được điểm này, con phải buông ra.

12.6. Nhìn ra những cái móc trong tâm thức mình 

Các thày cho các học viên thấy trên màn ảnh một tấm hình của năng trường của họ. Họ đứng trước một máy scan, và các thày chiếu lên màn ảnh những chỗ trong tâm thức họ có những cái móc buộc họ lại với một giáo lý trên địa cầu. Đây chính là điều khiến cho “một nhà bị chia xé nhau” [Matthew 12:25]. Nó lôi kéo họ ra mọi hướng, hoặc nó kéo họ rơi xuống cầu thang. Có một điều gì đó mà họ đã không buông ra, khiến họ không thể xuôi chảy cùng với Dòng sông sự Sống vì hình như con thuyền của họ có một chiếc neo đang giữ chặt thuyền lại ở vị trí cũ hay đang lôi thuyền đi ngược dòng. Hoặc nó khiến cho thuyền nằm tréo trên dòng chảy, khiến cho nước bị khuấy động, đập tung toé.

Khi đệ tử nhìn ra chuyện này và cắt đứt sợi dây trói buộc, họ thấy rõ là họ tự do đến chừng nào. Vấn đề khó khăn ở đây là con sẽ không thực sự được tự do cho tới khi con cũng nhìn ra trong tâm ý thức và lấy quyết định ý thức cắt đứt sợi dây. Điều mà các thày có thể làm tại khóa nhập thất Royal Teton là giúp con nhìn ra những dây buộc mà con mang và cắt đứt ở mức thể bản sắc, lý trí và cảm xúc. Điều mà các thày không thể làm được tại khóa nhập thất là giúp con cắt đứt ở mức tâm ý thức. Đây là công việc mà con phải làm một cách ý thức trong tâm nhận biết bình thường, tỉnh táo của con. Tất nhiên, công việc này sẽ dễ hơn hẳn một khi đã làm ở ba cõi trên, nhưng nó vẫn đòi hỏi ở con một sự tỉnh giác ý thức, một nỗ lực ý thức và một quyết định ý thức.

Khi con đã cắt đứt các ràng buộc này một cách ý thức, con sẽ có một cảm giác tự do rất mới, một cảm giác được chữa lành khỏi những vết thương và mâu thuẫn cũ. Tự ngã và các thày giả không muốn con cắt đứt các sợi dây này. Đó là tại sao họ sẽ cố khiến con cảm thấy là con phải giữ lòng trung thành, giống như con phải đóng tâm ý thức lại trước những sáng ngộ mà con đã gặt hái ở các thể cao của tâm con. Họ ráo riết tìm cách khiến con bám chặt vào những gì con đang có mà không chịu bước tới.

Khi con chưa bước tới thì làm sao con có thể thật sự được chữa lành? Khi con chưa chữa lành những phân rẽ lôi kéo tâm con ra tứ phía, thì làm sao con đạt được viễn kiến cao hơn là dấu ấn của Tia thứ Năm? Nếu con không đạt được viễn kiến đó, làm sao con có thể cảm thấy mình trọn vẹn? Và nếu con không cảm thấy trọn vẹn, làm sao con có thể là cánh cửa mở để chữa lành tha nhân? “Thày thuốc, hãy chữa lành chính mình,” câu tục ngữ nói vậy. Điều mà các thày có thể cho con thấy là làm cách nào sử dụng minh triết để chữa lành vết thương của con, chữa lành cho người khác, bằng cách dùng lý lẽ với người khác và với chính con.

12.7. Sử dụng bài truyền đọc đề tăng triển một cách ý thức 

Đâu là mục đích của bài truyền giảng này cùng những bài truyền giảng khác từ thày và các Thượng sư khác? Đó là trao cho con những dụng cụ để con lý luận với chính mình ở mức tâm ý thức. Khi con tìm hiểu một bài truyền đọc, có hai điều xảy ra. Con sẽ nhận được ánh sáng tâm linh, và ánh sáng này bắt đầu tạo ra biến đổi trong năng trường của con.

Con cũng sẽ nhận được kiến thức vỏ ngoài dưới dạng ngôn từ. Vấn đề là con sẽ làm gì với những ngôn từ đó. Một số học viên sẽ chỉ đọc qua và nói: “Ừ nhỉ, chuyện này thật thú vị.” Một số khác sẽ nghiên cứu chăm chú hơn, và thậm chí một số khác còn học thuộc lòng một số câu, nghĩ rằng nếu mình ghi nhớ từng câu thì chắc hẳn mình đã học được bài học. Một trong những bài học mà thày mong muốn con học là con hãy đọc một bài truyền đọc cho tới khi con gặp một số câu gây ra hai loại tác động. Hoặc câu đó khuấy lên trong con khiến con cảm thấy mình đã chạm được gấu áo của một thực tại cao hơn, hoặc nó khuấy lên một phản ứng trong con khiến con cảm thấy muốn kháng cự lại. Khi con có cảm giác kháng cự này, đó là cơ hội cho con sử dụng giáo lý để lý luận với chính mình. Con có thể, với tâm ý thức, khảo sát xem kháng cự đó là gì.

Vì tất nhiên, con thừa hiểu là một cuốn sách như thế này chỉ có thể trình bày một cách chung chung. Thày không thể nói riêng cho từng đệ tử sẽ đọc sách này trong tương lai. Chính con mới có nhiệm vụ liên kết cuốn sách này với hoàn cảnh cá nhân của mình. Khi con cảm thấy có sự kháng cự hay có thắc mắc chưa giải đáp liên quan đến một câu trong sách, thì con có trách nhiệm khám phá xem kháng cự đó có nghĩa là gì. Con tự đặt một số câu hỏi. Con cố hòa điệu với câu văn. Con cố nhìn từ mọi góc cạnh và nói: “Nhưng lỡ lời nói này chính xác? Vậy thì có nghĩa là gì? Làm thế nào nó sẽ giúp tôi thoát ra được đây? Khi đọc câu này, tôi có sợ hãi gì không? Tôi có ngờ vực gì không? Thắc mắc nào nảy lên trong tâm tôi?”

Xong con tra vấn từng vấn đề, con cố nhìn khắp chung quanh rồi đi sâu hơn và sâu hơn nữa. Con đang dùng lý luận với chính mình để làm sáng tỏ khía cạnh nào của tự ngã, phàm linh nào trong tâm thức, đang chống cự lại câu viết. Làm như vậy, con có khả năng phơi bày ra phàm linh, nhưng con cũng có thể phơi bày niềm tin đã tạo ra phàm linh, cái ảo tưởng nhị nguyên cụ thể đã tạo ra phàm linh. Khi con làm vậy, con có thể đạt đến một điểm, như thày đã có đề cập, khi con nhìn thấy, con chiêm nghiệm được ảo tưởng. Và khi con chiêm nghiệm được ảo tưởng, con sẽ buông bỏ nó một cách tự nhiên, tức thì và không chút khó nhọc nào.

Đây là trách nhiệm của con với tư cách là đệ tử của chân sư thăng thiên. Con không thể chờ đợi việc đọc một cuốn sách là đủ được. Ngay cả con cũng không thể chờ đợi việc thực tập các bài thỉnh là đủ được. Chắc chắn là chúng có tác dụng, nhưng không có gì có thể đi ngược lại quyền tự quyết của con. Phải đến một lúc con nhìn vào cái xà, cái phàm linh trong mắt con một cách ý thức và cố tình. Con nhìn vào các ảo tưởng, và con sẽ tiếp tục xem xét chúng từ nhiều góc độ khác nhau, tra vấn chúng với đủ loại câu hỏi, cho đến khi con nhìn ra cái tin tưởng cốt lõi nằm đằng sau ảo tưởng. Khi con nhìn thấy nó trong ánh sáng của sự thật Ki-tô, con nhận ra là nó không thực, nó là một ảo tưởng. Ngay khi đó, buông nó ra sẽ không khó khăn gì cho con.

12.8. Được chữa lành nhờ buông ảo tưởng là mình không trọn vẹn 

Đây cũng là một yếu tố của Tia thứ Năm là tia chữa lành. Con cần gì để được chữa lành? Con cần buông bỏ trạng thái không lành lặn. Nếu con không buông bỏ cảm nhận là con không lành lặn, con sẽ không thể bước vào trạng thái tâm nơi con lành lặn, nơi con trọn vẹn. Con không thể buông bỏ căn bệnh hay ảo tưởng cho đến khi con nhận ra là nó không thực. Con không thể thấy được điều này nếu con không nhìn qua tâm Ki-tô, nhưng con sẽ không tự động có được tâm Ki-tô. Con chỉ có thể đạt được tâm Ki-tô bằng cách thách đố các ảo tưởng một cách ý thức và có hệ thống, bước vào những vùng sâu thẳm cho tới khi con phát hiện điều tin tưởng mà cá nhân con đã chấp nhận một lúc nào đó trong quá khứ, và bây giờ nó đã trở thành một cái neo giữ chặt chiếc thuyền của con lại và ngăn không cho thuyền xuôi chảy với Dòng sông sự Sống.

Đây là cái mà trong đạo Phật gọi là con thuyền Bát nhã, con thuyền minh triết, và khi con leo lên thuyền, con sẽ có thể giữ tay lái giữa biển Luân hồi cho đến khi con đến được bờ bến xa hơn. Bờ bến xa hơn thường được người đạo Phật xem là một trạng thái tối hậu, Niết bàn. Nhưng bờ bến xa hơn đối với mức tâm thức đặc thù của con là khi con vượt qua khai ngộ sẽ đưa con lên tầng kế tiếp. Không chỉ có một “bờ bến xa hơn” duy nhất. Bờ bến xa hơn là cái bến kế tiếp, cái tầng kế tiếp, và cứ thế con leo lên bước kế tiếp cho tới khi con đạt đến tầng 144, là khi con nhảy bước lượng tử cuối cùng vào trạng thái thăng thiên.

Sự trọn vẹn sẽ đến khi con từ bỏ cảm nhận mình thiếu sót, và một trong những bước to lớn để tiến tới trọn vẹn là con buông giấc mơ tìm được một chân lý tối hậu, hay công thức tối hậu, hay khả năng tối hậu nào đó. Không có gì trong thế giới vật chất là tối hậu. Không có gì là cuối cùng. Không có gì là kết liễu. Mọi thứ đều là Dòng sông sự Sống không ngừng tuôn chảy. Nếu con có thể thực sự thể nhập được sự thật này, con sẽ khiến cho đường tu khai ngộ của con dưới bảy tia sáng dễ dàng hơn bội phần. Thay vì cảm thấy mình là kẻ thất bại triền miên vì mình đã không đạt được trạng thái tối hậu, con có khả năng cảm thấy mình đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác mỗi lần mình vượt qua một cuộc khai ngộ.

12.9. Các chân sư thăng thiên không phán xét con 

Các thày đã từng thấy những học trò theo học một giáo lý của chân sư thăng thiên suốt 30, 40 năm trời hoặc nhiều hơn nữa. Họ đã siêng năng học tập giáo lý. Họ đã siêng năng cầu thỉnh ngọn lửa tím hay đọc bài chú cho các tia khác. Họ đã làm tất cả đúng theo tiêu chuẩn vỏ ngoài, nhưng toàn bộ hành trình của họ là một cuộc vật lộn. Họ đã lắng nghe và chấp nhận giáo lý về đường tu khai ngộ, nhưng họ vẫn tập trung tâm trí vào mục đích cuối cùng, cho dù là thăng thiên hay cái gì khác. Họ đã quá tập trung vào mục tiêu cuối cùng này đến độ họ có cảm tưởng là nếu mình chưa đạt được thì mình sẽ thiếu sót, mình sẽ bất xứng, mình không thể được các chân sư chấp nhận.

Các thày không phán xét con theo cách mà con tự phán xét. TA LÀ Lanto, TA LÀ Thượng sư của Tia sáng thứ Hai. Vai trò của thày không phải là đưa con đến mức khai ngộ tối hậu. Vai trò của thày là dẫn con từ mức này lên mức sau, xuyên qua bảy cấp được biểu tượng qua các khai ngộ của Tia thứ Hai, rồi giao phó con cho vị bào huynh yêu dấu của thày, Paul người Venice, sẽ dẫn con đi tiếp qua các khai ngộ của Tia thứ Ba.

Liệu con có thực sự nghĩ là thày, Lanto, nhìn con như một học trò bất xứng? Toàn bộ thời gian con kinh qua các khai ngộ của khóa nhập thất này, thày đã nhìn con trong ánh sáng tích cực. Thày nhìn con như một đệ tử đã đạt được thắng lợi vượt qua bảy cuộc khai ngộ dưới thày MORE và Tia thứ Nhất. Thày nhìn con như đã đạt được một thắng lợi quan trọng ngay cả trước khi con bước vào khóa nhập thất của thày, rồi khi con vượt mức khai ngộ đầu tiên, con đã đạt thêm một thắng lợi nữa, và cứ thế. Khi con tới khai ngộ chót trong khóa này, con sẽ đoạt được điều mà thày xem là thắng lợi cao nhất ở mức khai ngộ của thày, và thày vui mừng gửi con lên tầng kế tiếp.

Thất bại ở đâu? Thiếu sót ở đâu? Con là học trò toàn hảo khi con bước đến, không phải là con toàn hảo, không phải là con thành tựu mức tâm thức cao nhất, nhưng con đã bước qua các khai ngộ của Tia thứ Nhất trước khi con nhập khóa của thày. Đó không là thắng lợi hay sao? Làm sao con có thể cảm thấy mình bất xứng khi con đã đi qua các khai ngộ khó khăn và nghiêm ngặt của Tia thứ Nhất? Thày MORE đã không gửi con đến với thày nếu con chưa vượt qua khai ngộ, và điều đó, thày cam đoan là một thắng lợi. Thày sẽ không gửi con đến với Paul người Venice cho tới khi con vượt qua khai ngộ của Tia thứ Hai, và điều đó là một thắng lợi nữa.

Con hãy ngừng đeo đuổi hũ vàng ở cuối cầu vồng, vì thày nói với con, cũng như thày Maitreya đã nói trong sách, không những không có hũ vàng nào cả, mà cầu vồng cũng chẳng có luôn. Cầu vồng sẽ không ngừng dời đi trước mặt con, y hệt như củ cà rốt treo lủng lẳng trước mũi con lừa của truyện ngụ ngôn. Con sẽ không bao giờ bắt kịp. Con sẽ không bao giờ bắt kịp cầu vồng, con yêu dấu, vì cầu vòng chỉ hiện thực từ một góc độ nào đó. Nó không có hiện hữu cố định hay khách quan. Nó chỉ tương đối trong quan điểm của con, và con sẽ luôn luôn nhìn thấy nó với một khoảng cách. Nếu con lại gần, con sẽ không còn thấy nó nữa, vậy thì làm sao con biết được nó kết thúc ở đâu?

Con hãy từ bỏ cuộc tìm kiếm chân lý tối hậu. Hãy nhận ra những câu nói của thày qua ngôn từ chỉ có thể đưa con lên tới một mức nào đó, và sau đó con cần phải mở chính con ra để nhận được lời dạy kế tiếp, câu kế tiếp, chỉ dấu kế tiếp, trải nghiệm kế tiếp. Hãy sẵn lòng chiêm nghiệm Tánh linh Sự thật vượt khỏi câu nói về sự thật. Đây là dấu ấn của những đệ tử tiến bộ nhanh chóng, vượt qua cấp khai ngộ thứ năm của Tia thứ Hai.

TA LÀ Thượng sư của Tia thứ Hai. Thày sẽ làm hết sức để giúp con vượt qua khai ngộ này, nhưng thày không thể vượt qua thay cho con, vì nó đòi hỏi một quyết định với tâm ý thức. Trước khi con lấy quyết định tự nguyện đó, con phải sẵn lòng dùng lý luận với chính mình, và tra vấn xem tại sao tự ngã của con lại tìm kiếm chân lý tối hậu. Đâu là tin tưởng cụ thể mà cá nhân con đã chấp nhận khiến con dễ bị ý tưởng đó tấn công, là ý tưởng phải có cách tìm ra một chân lý tối hậu hay một khả năng tối hậu? Con hãy buông nó ra, con yêu dấu, rồi sau đó con có thể bước lên cấp khai ngộ thứ sáu dưới Tia thứ Hai. Thày sẵn lòng và sẵn sàng chào đón con bước vào cấp khai ngộ này. Lanto TA LÀ.

Minh triết và Tinh khiết 

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 13/3/2014.

TA LÀ chân sư thăng thiên Lanto. Thày đến để chia sẻ một số ý nghĩ về các khai ngộ mà học viên đi qua ở cấp thứ tư của khóa nhập thất tại Royal Teton. Đây là những khai ngộ trong Tia sáng thứ Tư, là minh triết được thể hiện qua sự tinh khiết hay gia tốc. “Tinh khiết” có nghĩa là ý định tinh khiết, và điều mà các thày mong giúp đệ tử đạt được ở cấp này là sự rõ ràng trong ý định khi sử dụng minh triết.

Học viên đến khóa nhập thất của thày thường có ý muốn điển hình rất thịnh hành trên địa cầu, là ý muốn do tự ngã châm ngòi khi nó đi tìm sự an toàn trong thế gian này. Những ai bị mù quáng bởi ý muốn này sẽ cố tìm một loại minh triết mà họ có thể nâng lên vị thế bất khả sai lầm. Nếu minh triết của mình không thể sai lầm thì an toàn của mình cũng phải tối đa – tự ngã lý luận như thế. Có nghĩa là học viên có xu hướng sử dụng minh triết để xác nhận những gì khiến cho tự ngã cảm thấy an toàn. Nhiệm vụ khó khăn mà thày phải đối diện ở cấp này là làm sao cho học viên thấy được cái nhìn này thật là rỗng tuếch.

Thày cố giúp học viên nhìn ra điều này phi lôgíc tới chừng nào, đạo đức giả đến chừng nào. Những ai bị mắc kẹt trong mong muốn chứng thực tự ngã sẽ quả quyết là mình dùng minh triết với động cơ cao thượng nhất. Họ tin rằng họ nắm được cách biểu đạt minh triết tuyệt đối, không thể sai lầm, và vì lợi ích của một đại nghĩa nào đó, thậm chí có thể là đại nghĩa của chính Thượng đế, mà họ tìm cách ép buộc minh triết của họ lên người khác.

Họ nhất định là họ có dạng minh triết tuyệt đối, nhưng kỳ thực, minh triết của họ hoàn toàn tương đối. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào những gì mà tự ngã của họ đã chấp nhận cùng ý niệm an toàn mà tự ngã đã tạo dựng. Như các thày đã nói nhiều lần, tự ngã không bao giờ có thể tìm thấy sự an toàn tuyệt đối. Nó cố xây dựng an toàn trong thế gian này, nhưng đó luôn luôn sẽ là một căn nhà xây trên cát bởi vì không có gì trong thế gian này có thể bất biến. Tất nhiên, trong cõi tâm linh cũng không có bất biến, và vì thế, giấc mơ có được một trạng thái toàn hảo hay an toàn tĩnh tại nào đó chỉ là một giấc mơ hão huyền. Điều này, tất nhiên, tự ngã sẽ không bao giờ thấy được.

10.1. An toàn tuyệt đối trong Dòng sông sự Sống 

Tuy nhiên, cái Ta Biết thì có khả năng trải nghiệm điều này bằng cách chiêm nghiệm nhận biết thuần khiết. Qua đó, nó nhận ra rằng bản chất của nó chính là một trạng thái an toàn tuyệt đối – không theo nghĩa là không thay đổi, mà theo nghĩa luôn luôn tự thăng vượt. Hay đúng hơn có thể nói, cốt lõi của bản thể của con là cái bất biến – tức là sự nhận biết – và một khi con nối kết với nhận biết bất biến này, con sẽ tìm thấy an toàn trong sự vượt thăng liên tục những biểu thị vỏ ngoài của nhận biết, là cái mà nhận biết chú tâm vào. Do đó, con không cần phải dừng dòng chảy của Dòng sông sự Sống hầu cảm thấy an toàn, mà con cảm thấy an toàn khi con xuôi chảy với nó. Đây là sự an toàn tuyệt đối hay tối hậu, nhưng là an toàn qua tự thăng vượt, an toàn luôn luôn tuôn chảy.

Thày đã nói gì về Dòng sông sự Sống? Nó luôn luôn thăng vượt chính nó. Thày đã nói gì về Minh triết Thiêng liêng? Nó luôn luôn thăng vượt chính nó. Vì vậy, không có gì đứng yên – chắc chắn nguồn suối của minh triết hằng sống không đứng yên. Điều này, một lần nữa, có nghĩa là cuộc tìm kiếm của tự ngã là chuyện vô vọng khi nó cố tạo ra một cách biểu đạt minh triết tĩnh tại, không bao giờ có thể thay đổi, không bao giờ có thể bị đe doạ, không bao giờ có thể bị lật đổ. Như các thày đã có giải thích qua định luật thứ hai của nhiệt động học, bất cứ gì mà trở thành một hệ thống đóng kín sẽ bắt buộc phải tan rã, bởi vì các mâu thuẫn nội tại sẽ gia tăng hỗn loạn bên trong khiến nó phải tan vỡ.

10.2. Khai ngộ ở cấp thứ tư của Tia thứ Hai 

Thực tế là nếu càng cố duy trì sự an toàn vỏ ngoài cho tự ngã, thì học viên sẽ phát ra càng nhiều xung năng lượng phóng về tấm gương vũ trụ. Các xung năng lượng này sẽ được gửi trả về dưới hình thức những điều kiện sẽ đe dọa cảm giác an toàn của học viên, và khi đó, học viên sẽ phải phóng ra xung lực mạnh hơn nữa để chống chọi lực phản hồi, và tất nhiên điều này chỉ khiến cho cường độ phản hồi càng mạnh hơn thôi. Cuộc “chạy đua vũ trang” cứ tiếp diễn như thế cho đến khi học viên bị tan vỡ bởi áp lực căng thẳng và không thể tiếp tục.

Dĩ nhiên, các thày sẽ cố giúp cho học viên nhìn ra sự sai lầm của cách thức này trước khi họ gục ngã trong căng thẳng, nhưng cũng có một số học viên đến nhập thất của thày phải kinh qua tiến trình tan vỡ đó. Họ nhận ra là mình không sao đủ sức mạnh, đủ uy lực, để chống chọi lại những mối đe dọa cho an toàn của mình. Vậy con phải làm gì đây? Con phải buông ra, con phải từ bỏ. Không có bước nào khác.

Gia tốc của Tia thứ Tư không giống như công việc tích tụ. Con có thể nghĩ là nếu con cần phát ra một xung năng lượng để chống lại cái gì đang phóng tới mình, thì con sẽ cần tích tụ ngày càng nhiều quyền năng hơn, nhiều quyền năng vật lý, vật chất hơn. Nhưng như thày đã nói, tích tụ nhiều quyền năng hơn chỉ có nghĩa là con tạo ra một xung lực vũ bão hơn sẽ phóng vào con trong tương lai.

Gia tốc có nghĩa là con vượt lên trên việc tích tụ quyền năng ở một mức độ nào đó vì con đã gia tốc độ rung của mình lên một mức cao hơn, nơi con sẽ không còn cảm thấy những năng lượng thấp mà con đã tạo ra trong quá khứ khi chúng được tấm gương vũ trụ gửi trở lại. Chúng sẽ chạy xuyên thẳng qua con. Chúng không đáng kể gì với con. Chúng không dính dáng gì đến kinh nghiệm sống của con. Đây là gia tốc đích thực. Có an toàn trong đó, theo nghĩa là con vượt lên trên quá khứ.

10.3. Ngay cả giáo lý của chân sư cũng tương đối 

Để giúp đệ tử vượt qua mức khai ngộ này, các thày tìm cách giúp họ nhìn ra là minh triết, các hệ tư tưởng do tự ngã tạo ra – và do loài người cũng như các thày giả tạo ra – thực sự là tương đối, mặc dù chúng được tuyên bố là tuyệt đối. Chúng tương đối vì chúng tùy thuộc vào tâm thức nhị nguyên, và do đó chúng tương đối so với một đối cực. Cho mỗi biểu đạt của minh triết xuất phát từ tâm thức nhị nguyên, sẽ có một đối cực. Điều này không mấy dễ hiểu cho hầu hết học viên cho dù là các thày đã dẫn dắt họ qua từng bước – như thày đã có giải thích – là ngôn từ có thể được diễn giải và bị hiểu lầm như thế nào. Họ vẫn khó lòng nắm bắt được, và nỗi khó khăn này cũng dễ hiểu thôi.

Thày đã nói là bất kỳ biểu đạt nào của “minh triết” đến từ tâm thức nhị nguyên đều có một đối cực. Điều đó đúng, nhưng cũng đúng là bất kỳ biểu đạt nào của minh triết đến từ chân sư thăng thiên cũng có một đối cực. Sự khác biệt ở chỗ khi minh triết biểu đạt qua tâm thức nhị nguyên, tự thân nó đã chứa sẵn đối chọi, vì cách tâm thức nhị nguyên nhìn thế giới đã sẵn mâu thuẫn.

Những gì các thày ban ra nơi cõi thăng thiên không chứa đựng mâu thuẫn nội tại, nhưng hiển nhiên khi các thày giảng dạy giáo lý, những thày giả và học trò của họ sẽ nghĩ ra cách đối chọi lại giáo lý đó, và như vậy bất kỳ biểu đạt nào bằng ngôn từ cũng có một đối nghịch. Bất cứ biểu đạt nào bằng ngôn từ cũng có thể bị phủ nhận, bị vô hiệu hóa hay phế bỏ, hay ít ra là bị phản bác bởi một câu nói khác cũng dùng ngôn từ. Đây là hệ quả tất yếu khi tâm thức tập thể trên địa cầu còn quá thấp đến độ hầu hết mọi người vẫn bị đui mù bởi tâm thức nhị nguyên. Khi con nhìn giáo lý của chân sư thăng thiên qua phin lọc nhận thức của ngã vỏ ngoài, của ngã tách biệt, thật là dễ cho con tìm được một đối nghịch cho giáo lý đó.

Con vẫn có thể chấp nhận giáo lý đó, nhưng kỳ thực con đang tìm cách dùng nó để xác nhận nhu cầu an toàn của tự ngã bằng cách nâng nó lên, và cũng nâng cách biểu đạt giáo lý đó lên, một vị thế không thể sai lầm. Thày vừa nói gì? Thày vừa nói là con không bao gìờ nên tập trung vào ngôn từ đến độ con quên mất tánh linh đằng sau ngôn từ. Điều cơ yếu là con nối kết với Hiện diện của thày, với dòng chảy của minh triết, Tánh linh Minh triết hằng sống. Con sẽ không làm được vậy nếu con lấy một biểu đạt minh triết nào đó bằng ngôn từ và nâng nó lên vị thế không thể sai lầm, nghĩa là con sẽ không bao giờ muốn thay đổi nó, hay con không bao giờ muốn vượt xa hơn nó. Đó không phải là gia tốc, mà chỉ là một nỗ lực xây đắp một khối tích tụ có vẻ là có thẩm quyền. Mục đích của các thày là cho đệ tử thấy mọi biểu đạt của minh triết phát xuất từ tâm thức nhị nguyên, hay đã được diễn giải qua tâm thức nhị nguyên, đều tương đối.

Ngay cả học trò của chân sư thăng thiên cũng đã sử dụng giáo lý của các thày để tạo dựng một thế giới quan tương đối. Điều này quan trọng ở chỗ cái gì tương đối thì không thể là minh triết tuyệt đối. Học viên thường khó lòng hiểu điều này vì họ còn quá dính mắc vào mong muốn của tự ngã xây dựng sự an toàn tối hậu. Học viên cần một sự điều chỉnh to lớn để khắc phục vấn đề này. Thật sự, học viên cần bắt đầu trải nghiệm nhận biết thuần khiết thì mới chiêm nghiệm được là mình có khả năng tìm thấy sự an toàn nội tâm đó, thay vì an toàn vỏ ngoài của một hệ thống tin tưởng tuyệt đối hay không thể sai lầm.

Ngay cả nhiều học trò của chân sư thăng thiên cũng bám vào niểm tin rằng nếu mình là thành viên của một tổ chức nào đó hay tuân theo lời dạy của vị sứ giả cao nhất, thì mình được đảm bảo sẽ thăng thiên. Họ thật không sẵn lòng buông bỏ tin tưởng này, và đó là tại sao một số bị kẹt lại trong những tổ chức không còn sứ giả hoạt động hay không còn nhận được dòng chảy của lời hằng sống. Họ bám vào những giáo lý được đưa ra trong quá khứ, và mặc dù những giáo lý này vượt thời gian và vẫn còn giá trị, đó không phải là sự biểu đạt của tâm thức mà các chân sư hiện có ngày nay. Các thày đã tự thăng vượt rất nhiều lần từ khi giáo lý cũ được đưa ra, nhưng hiển nhiên, lời biểu đạt thì không thể tự thăng vượt, đặc biệt là khi nó được nâng lên vị thế một lời nói toàn hảo không thể sai sót. Đối với các học viên sẵn lòng buông bỏ nhu cầu an toàn vỏ ngoài này, các thày có thể giúp họ tiến một bước rất lớn để thấy được mọi lời biểu đạt là tương đối.

10.4. Mô tả bằng ngôn từ không là chiêm nghiệm trực tiếp 

Ngôn từ mang ý nghĩa khác nhau đối với mỗi người, cho nên ngôn từ phải được diễn giải. Các thày đã từng dùng ví dụ sau đây, nhưng thày sẽ dùng lại lần nữa. Tưởng tượng là con đang đứng trên bờ biển với một người mù bẩm sinh. Cả hai đều nhìn về chân trời và con có nhiệm vụ mô tả cảnh mặt trời lặn cho anh mù kia. Bình thường con sẽ cố gợi lên một điều gì mà anh ta đã trải nghiệm, nhưng anh chưa từng nhìn thấy gì bằng mắt. Con sẽ mô tả cảnh hoàng hôn như thế nào cho anh mù đó? Con có thể làm chuyện đó qua ngôn từ, nhưng anh ta sẽ rút tỉa được điều gì? Anh sẽ chỉ rút tỉa được một lời mô tả hoàng hôn.

Lời mô tả đó có thể rất hay, rất chính xác, nhưng đối với người khiếm thị, đó chỉ là lời tả chứ không là sự chiêm nghiệm trực tiếp. Khi các thày trao cho con minh triết từ cõi thăng thiên, các thày chiêm nghiệm được Tánh linh Minh triết. Khi các thày diễn dịch chiêm nghiệm đó thành lời, nó trở thành một lời tả tánh linh chứ không phải là tánh linh. Đây không phải là vấn đề vị sứ giả có tài tình hay không, mà chỉ đơn giản là hậu quả không thể tránh của việc diễn dịch một trải nghiệm thành lời nói. Lời nói chỉ có thể truyền đạt một mô tả. Khác biệt là gì? Khác biệt là con chỉ cần đến lời tả khi con không chiêm nghiệm trực tiếp. Một lời tả chỉ cần thiết khi có một khoảng cách, có một tách biệt giữa con và kinh nghiệm. Con, là người đang đầu thai, giống như anh mù kia chưa bao giờ chiêm nghiệm Tánh linh Minh triết. Các thày đang cho con một sự mô tả về tánh linh đó bằng ngôn từ, nhưng trong tâm con, nó vẫn chỉ là một lời tả. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là chính sự kiện con tách biệt khỏi tánh linh khiến con chỉ có thể nắm bắt được lời tả về tánh linh. Con càng tập trung vào lời tả thì thực sự nó sẽ càng đóng tâm con lại khỏi kinh nghiệm trực tiếp.

10.5. Mục đích của việc giảng dạy tâm linh 

Mục tiêu của các thày khi giảng dạy không phải để đệ tử có được một lời mô tả tuyệt vời về tánh linh. Mục tiêu của các thày là cho đệ tử một kinh nghiệm tánh linh trực tiếp. Thày là Thượng sư của Tia sáng thứ Hai. Thày không màng đến chuyện có đệ tử trên địa cầu có lời mô tả tinh xảo nhất về Tia thứ Hai. Thày quan tâm để làm sao có những đệ tử trên địa cầu có khả năng mở tâm ra hầu Tánh linh Minh triết xối xuống vào tâm họ, và họ chiêm nghiệm được tánh linh khi tánh linh biểu đạt xuyên qua họ. Đó là điều thày muốn.

Thày không muốn những học viên chụp lấy một lời biểu đạt rồi sử dụng để đóng chặt tâm mình lại khỏi kinh nghiệm. Thày muốn con nắm lấy lời mô tả và dùng làm bàn đạp để mở tâm ra cho kinh nghiệm trực tiếp. Đây là mục tiêu của thày. Làm thể nào con đạt được điều đó? Bằng cách khắc phục sự dính mắc của con với một lời biểu đạt minh triết nhất định và nhận ra rằng một biểu đạt minh triết chỉ là một sự mô tả, và nó chỉ có giá trị khi con dùng nó để mở tâm ra và trực tiếp kinh nghiệm tánh linh đằng sau ngôn từ. Khi con tới được điểm này, khi con ngộ ra điểm này, con mới sẵn sàng bước đi bước kế tiếp. Con sẽ cần gì để làm cánh cửa mở cho Tánh linh Minh triết chảy qua con?

Thế nào là một tánh linh? Một lần nữa, con lại có những hình ảnh giả trá về Thượng đế do các tôn giáo lớn trên thế giới tạo dựng, miêu tả Thượng đế là một đấng toàn hảo, tĩnh tại, ngồi ở trên trời. Nhưng Thượng đế không tĩnh tại. Thượng đế là tánh linh không ngừng tuôn chảy, không ngừng tự thăng vượt – đó là Đấng Sáng tạo. Làm thế nào con biết được tánh linh? Không phải là qua một sự mô tả mà con có thể nhìn từ xa. Con sẽ biết được tánh linh khi con khắc phục khoảng cách giữa tánh linh và con, khi con bước vào chứng ngộ tánh linh, khi con trở thành cánh cửa mở để tánh linh tuôn chảy qua con.

Làm thế nào con cho phép tánh linh tuôn chảy qua con? Con sẽ không thể làm được nếu con bám vào một lời biểu đạt cố định và đòi hỏi tánh linh phải phù hợp hay phải chứng thực cho lời biểu đạt này. Nếu con áp đặt một hạn chế trên tánh linh thì làm sao con sẽ trải nghiệm được dòng chảy của tánh linh? Nếu con bảo rằng tánh linh không cần chảy mà cần xác nhận một lời biểu đạt, thì con đã đánh mất tánh linh rồi.

10.6. Con hãy tự gia tốc vượt khỏi mọi lời biểu đạt 

Thày đã nói bất kỳ cách biểu đạt nào về minh triết đến từ tâm thức nhị nguyên đều tương đối. Một biểu đạt về minh triết đến từ tâm thức nhị nguyên tùy thuộc vào một biểu đạt khác về minh triết cũng đến từ tâm thức nhị nguyên. Cho dù con có phóng chiếu một cái là giả và cái kia là thật, một cái là sai và cái kia là đúng, thì cũng không có chút thực tế gì trong đó. Cả hai cách biểu đạt sẽ không giúp con tự gia tốc lên cao hơn mức nhị nguyên.

Và đây là điểm mà con cần tinh tế hơn hầu hết mọi người và ngay cả hầu hết học trò của chân sư thăng thiên. Một biểu đạt về minh triết đến từ cõi thăng thiên cũng chỉ tương đối. Ngay cả một bài giảng được các thày truyền đọc qua trung gian một sứ giả được bảo trợ cũng không lả một lời biểu đạt tuyệt đối về chân lý. Đó là một biểu đạt tương đối, nhưng một biểu đạt đến từ tầm mức của các thày không tương đối so với một đối nghịch trong cõi vật chất. Nó tương đối so với tánh linh, và do đó nếu con đi theo biểu đạt của các thày để vượt quá ngôn từ, con sẽ tìm thấy tánh linh. Chứ nếu con lấy một biểu đạt nhị nguyên và đi theo nó và vượt quá ngôn từ, con cũng tìm thấy một tánh linh, nhưng một tánh linh nằm trong phổ tần số vật chất, và cái này thì không thể giúp con vượt thăng lên cõi thăng thiên.

Khi con đi theo lời biểu đạt đến từ một chân sư thăng thiên cho tới cội nguồn của nó, con sẽ tìm thấy chân sư đó và tánh linh của vị đó, và điều này có thể giúp con tự gia tốc khỏi mức nhị nguyên. Đây là điểm khác biệt. Đây là khía cạnh Alpha của câu nói bảo rằng ngay cả một bài truyền giảng từ chân sư thăng thiên cũng tương đối, nhưng cũng có một khía cạnh Omega. Bất kỳ biểu đạt nào mà các thày ban ra đều tùy thuộc vào mức tâm thức nơi con người bị mắc kẹt. Nó được điều chỉnh cho phù hợp với mức tâm thức này vì các thày không có mục đích ban ra một lời biểu đạt tối hậu hay bất khả sai lầm về minh triết. Các thày biết rõ điểu này không thể thực hiện được qua ngôn từ.

Mục đích của các thày là đưa ra một biểu đạt về minh triết phù hợp với con người ở một mức tâm thức với một hộp tư duy nhất định, và họ nhận được những gì họ cần để tự gia tốc ra khỏi hộp tư duy đó. Các thày không cố ban ra cho mọi người những gì sẽ đưa họ tới giai đoạn tối hậu, mà chỉ cố dẫn đắt họ vượt qua một bước. Đây chính là tinh túy của con đường khai ngộ. Ở cấp thứ tư của khóa nhập thất của thày, khai ngộ tối hậu mà con cần kinh qua là nhận ra bản chất của con đường khai ngộ.

10.7. Tinh túy của con đường khai ngộ 

Khi con ở một tầng cấp nào đó, cho dù là thứ 48 hay thứ 2 hay thứ 142, mối quan tâm của con không phải là vượt qua thử thách cuối cùng hay đạt được minh triết cuối cùng nào đó. Nhiệm vụ của con là đặt chân lên bực kế tiếp của cầu thang vòng xoáy ốc. Nhiệm vụ của con là vượt qua cuộc khai ngộ tiếp theo sau, đưa con lên mức ở ngay trên mức hiện thời của con. Để làm vậy, con cần đạt được minh triết sẽ thách đố hộp tư duy hiện thời của mình để con tự gia tốc vượt lên trên. Đây là minh triết cao nhất. Minh triết cao nhất luôn luôn là minh triết mà con có thể nắm bắt với mức tâm thức hiện tại nhưng vẫn có khả năng gia tốc con lên mức kế tiếp. Đó, con yêu dấu, chính là minh triết tối hậu, nhưng minh triết này hiển nhiên vẫn tương đối so với mức tâm thức hiện thời của con và mức tâm thức ở ngay bên trên.

Nếu con muốn, con có thể nói rằng một mức minh triết tối thượng. Đó là mức mà con có thể nhận được ở tầng tâm thức thứ 144 sẽ gia tốc con lên trạng thái thăng thiên. Đâu có ích lợi gì trao cho con minh triết đó ở tầng 55 khi con không có cách chi nắm bắt được? Con sẽ không có cách nào sử dụng được vì con không thể liên kết nó với mức tâm thức hiện hữu của con. Con cần có một dạng minh triết tương ứng với mức tâm thức hiện hữu của mình hầu con có thể liên kết nó với hoàn cảnh hiện thời, và đồng thời cũng tương ứng với mức kế tiếp hầu con có thể gia tốc tới mức đó.

10.8. Hãy từ bỏ mong muốn một giáo lý tối hậu 

Nếu con muốn vượt được khai ngộ của Tia thứ Tư tại khóa nhập thất Royal Teton, con cần từ bỏ mong muốn của tự ngã nhằm đạt được một dạng minh triết tối hậu nào đó rồi chạy quanh khoa trương minh triết vượt bực của mình cho người khác. Đó là một mong muốn hoàn toàn vô ích, một tìm kiếm hão huyền. Con có thấy chăng? Con có nắm được hay chăng? Con có đang cảm thấy sự chống đối của tự ngã, và có thể cả của các thày giả, đang gào lên để bảo con những gì thày đang dạy con nhất định phải là giáo lý giả trá, rằng con không được chấp nhận kẻo nó sẽ kéo con xuống địa ngục? Cái này nhất định phải đến từ một kẻ trong hàng ngũ tà đạo mạo danh chân sư thăng thiên.

Đây là điều mà chúng sẽ phóng vào con, và đã có nhiều đệ tử cho phép tâm ý thức của mình quay sang trạng thái sợ hãi. Họ bác bỏ chính những ý tưởng khả dĩ sẽ đưa họ lên tầng tâm thức kế tiếp. Có nhiều học trò của chân sư thăng thiên bám víu vào niềm tin rằng một lời biểu đạt nào đó, một sứ giả hay một tổ chức nào đó đã đưa ra những lời dạy tối thượng. Tất nhiên, điều này cũng phải như vậy thôi, vì các đệ từ này còn cần sống qua trải nghiệm đó thêm một thời gian nữa. Họ cần đi đến chỗ cùng cực của trải nghiệm đó trước khi họ chán ngấy và buông nó ra. Thày không chờ đợi mọi người sẽ nắm được lời dạy này của thày, và thày chỉ đưa nó ra cho những ai đã sẵn sàng, vì họ sẵn sàng vượt qua khai ngộ ở cấp thứ tư, sẵn sàng nắm bắt và chấp nhận khai ngộ đó với tâm ý thức của mình.

Thật con sẽ nhẹ nhõm làm sao khi con buông được mong muốn đi tìm giáo lý tối thượng, vì khi đó con cũng thăng vượt được lòng sợ hãi nhận phải giáo lý giả trá. Có quá nhiều đệ tử, cho dù là theo học chân sư thăng thiên hoặc một giáo lý tâm linh hay tôn giáo nào khác, sợ hãi nhận phải tư tưởng giả trá đến độ họ không dám xem đến cả những ý tưởng chính đáng. Tâm họ không mở ra. Họ khép kín đối với bất cứ gì vượt ra ngoài hệ thống tin tưởng mà họ đã nâng lên vị thế cao trội và bất khả sai lầm.

Con yêu dấu, con có thấy sự trớ trêu không? Nếu con biết đến sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên và chấp nhận là các thày có thật, con chẳng nhận ra được là các thày đã thăng thiên hay sao? Các thày hiện hữu nơi cõi thăng thiên. Làm thế nào để mà thăng thiên? Bằng cách thăng vượt mọi thứ trên địa cầu. Vậy thì nghĩa lý gì khi bảo các thày là chân sư thăng thiên mà phải tuân theo một hệ thống tin tưởng trên địa cầu? Nghĩa lý gì khi bảo các thày là chân sư thăng thiên mà phải tuân theo một hệ thống tin tưởng mà các thày đã đưa ra cho loài người trong quá khứ?

Làm sao con có thể lấy những bài giảng cũ của các thày truyền đọc qua trung gian một sứ giả chính đáng, rồi sử dụng làm vũ khí để chống lại mọi sứ giả tương lai? Con đang dùng giáo lý đó làm vũ khí chống lại chính các thày để ngăn cản các thày chạm được con với một biểu đạt cao hơn của minh triết phù hợp với thời đại hôm nay hay một mức tâm thức cao hơn. Chuyện này có nghĩa lý gì không? Nghĩa lý gì khi con quá sợ hãi những tư tưởng giả trá, sợ hãi hàng ngũ tà đạo và bọn thày giả, đến nỗi con đóng chặt tâm con không cho vị thày nào vào, thậm chí cả những vị thày chân chính là chân sư thăng thiên?

10.9. Khác biệt giữa đệ tử thật và giả 

Một lần nữa, đây là vấn đề động cơ, vấn đề gia tốc ý định của con. Đâu là ý định của con khi con thu hoạch minh triết? Có phải là để con xác nhận tự ngã và nhu cầu an toàn của tự ngã, hay là để thăng vượt mức tâm thức hiện thời của con? Nếu con muốn thăng vượt mức tâm thức hiện thời, con chỉ có thể làm được bằng một cách: bắt liên lạc trực tiếp với những vị thày tâm linh vượt trên mức hiện thời của con.

Đây là một khía cạnh khác nữa của con đường khai ngộ mà con cần hiểu. Tiếc thay, có nhiều người tâm linh, và ngay cả nhiều học trò của chân sư thăng thiên, tin rằng nếu họ có thể thu hoạch một lời biểu đạt cao trội về minh triết thì công thức đó, lời nói đó, bản văn đó, lời kinh đó, sẽ tự động phóng họ lên một mức tâm thức cao hơn.

Điều này chưa từng đúng bao giờ. Đây là điều mà những kẻ mạo danh trong hàng ngũ tà đạo và những ai theo học chúng luôn tìm kiếm, bằng phép thuật, để đạt được sự điều ngự tự động, là sự điều ngự giả trá của những kẻ tìm cách chiếm đoạt thiên đàng bằng vũ lực, bởi vì họ không sẵn lòng để cho ngã tách biệt của họ chết đi, để cho những cái ngã phát xuất từ tự ngã chết đi. Họ không sẵn lòng nhìn vào cái xà nơi mắt mình, và họ tưởng họ có thể đạt được quyền năng phi thường mà không cần từ bỏ tự ngã, là những quyền năng để họ chế ngự hay khoa trương với người khác.

Đây không phải là những đệ tử chân chính, vì đệ tử chân chính sẽ muốn nâng mình lên trước tiên, nhưng cũng muốn nâng cao mọi sự sống. Đây là những đệ tử chân chính của Ki-tô, và khi con nâng cao ý định của con, con sẽ không thu hoạch minh triết để minh chứng cho nhu cầu an toàn của tự ngã. Con không thu hoạch minh triết để khoa trương với người khác. Con không thu hoạch minh triết để đạt được quyền năng phi thường sẽ khiến người khác nể phục mình hay đạt được những thứ mà con muốn trong cõi vật chất. Con đi tìm minh triết sẽ giúp con gia tốc chính mình lên mức tâm thức kế tiếp, nhưng cũng sẽ giúp con tạo cảm hứng cho người khác muốn gia tốc theo. Con cố gắng tự nâng cao và nâng cao người khác, và như vậy con cũng nâng cao mọi sự sống. Đây là động cơ đích thực để thu hoạch minh triết.

Con không tìm cách đạt được một minh triết tối thượng, tuyệt đối nào đó. Con tìm cách đạt được minh triết sẽ hữu ích cho con thăng vượt mức của con, nhưng cũng hữu ích cho người khác nhận lấy cảm hứng mà thăng vượt chính mức của họ, bất kể con gặp những ai trong khi con đầu thai trên địa cầu. Điều này có nghĩa là con không chạy quanh đem minh triết cao siêu của mình đập lên đầu mọi người rồi bắt họ phải chấp nhận.

Con nhìn mọi người một cách cởi mở và trung thực, và con xét xem họ đang ở đâu trên mặt tâm thức. Rồi con tìm cách trao cho họ một điều gì đó sẽ đưa họ lên một nấc cao hơn – không phải hai trăm nấc cùng một lúc trong một bước nhảy khổng lồ, mà chỉ một nấc cao hơn. Khi họ đã bước lên nấc đó, con có thể cho họ nhiều hơn, nhưng con không cho họ tất cả một lượt. Đó không phải là minh triết. Đó là điều mà người ta làm khi bị đui mù bởi tự ngã, khi chỉ có hai lựa chọn, hoặc là tất cả hoặc không có gì. “Hoặc bạn phải nhận lấy toàn bộ hệ thống tin tưởng cao siêu của chúng tôi, hoặc bạn sẽ bị xuống địa ngục,” như người đạo Cơ đốc đã đập lên đầu mọi người khác suốt bao nhiêu thế kỷ, đến độ ngày càng có nhiều người chán ứ, khiến họ bác bỏ toàn bộ tánh linh đứng đằng sau đạo Cơ đốc, tức là chính Giê-su.

Làm thế nào con có thể nhận được minh triết của một chân sư thăng thiên nếu con không vượt xa hơn ngôn từ và chiêm nghiệm tánh linh của chân sư – là tánh linh hằng sống, không ngừng tuôn chảy, không ngừng thăng vượt của chân sư? Làm thế nào con sẽ chứng nghiệm tánh linh hằng sống đó nếu con đòi hỏi tánh linh phải phù hợp với những cách biểu đạt cũ qua những ngôn từ nay đã đóng băng trong vật chất? Một khi lời nói được thốt ra, nó liền đóng thành băng, nhưng tánh linh thì không bao giờ đóng băng. Con muốn gì: một biểu đạt bằng ngôn từ đóng băng hay nguồn suối hằng sống của tánh linh?

10.10. Trên đường tu không có thử nghiệm nào thất bại 

Đây là sự lựa chọn của con ở cấp thứ tư. Đôi khi học viên phải mất một thời gian rất, rất dài để chọn lựa là họ có muốn tánh linh nhiều hơn mọi thứ khác hay không. Khi rốt cuộc họ chọn lựa, họ nhận ra là bằng cách gia tốc ý định của mình và sẵn lòng không ngừng gia tốc ý định của mình, họ cũng tự gia tốc khỏi các thày giả, khỏi những kẻ mạo danh trong hàng ngũ tà đạo và giáo lý giả trá.

Nếu con không ngừng nỗ lực tự gia tốc thì đâu có vấn đề gì nếu con lỡ chấp nhận một giáo lý giả trá? Vì sau đó con sẽ nhìn ra là nó giả trá, và khi con thấy là nó giả trá, con đã tự gia tốc và đạt được phân biện. Giờ đây con biết rõ cái gì không đem lại kết quả. Hẳn con đã nghe câu chuyện về Thomas Edison khi ông tìm kiếm vật liệu thích hợp cho bóng đèn điện. Ông đã khám phá ra một ngàn cách không nên sử dụng để chế tạo bóng đèn điện. Mỗi thử nghiệm đó không hề là thử nghiệm thất bại mà là thử nghiệm thành công. Nó khiến ông nhận ra: “À! Cách này không được.”

Thế nào là tiến trình thăng thiên? Đó là khi con khám phá ra một ngàn cách để không trở thành một chân sư thăng thiên. Bởi vì mỗi lần con phát hiện một cách không khiến con trở thành chân sư thăng thiên, con đã bước cao hơn một bực. Cuối cùng thì con đến mức con có thể phát hiện cách độc nhất để trở thành chân sư thăng thiên – thì lúc đó, con một chân sư thăng thiên.

Trên đường tu thăng thiên, không có chuyện thử nghiệm thất bại. Cho dù nó có đem lại kết quả hay không, con có thể học hỏi từ đó và tự gia tốc lên một mức tâm thức cao hơn. Đó chính là dấu ấn của một đệ tử chân chính, chứ không phải là con đòi hỏi sự bảo đảm là con sẽ thăng thiên nếu con đi theo giáo lý vỏ ngoài này hay đạo sư vỏ ngoài nọ. Không, con sẵn lòng thử nghiệm vì con bắt đầu nhận ra chìa khóa để thăng thiên là bắt liên lạc với tánh linh, là trở thành cánh cửa mở cho tánh linh, là trở thành một với tánh linh.

Thế nào là một chân sư thăng thiên? Thày là Thượng sư của Tia sáng thứ Hai, không phải vì thày đã học hỏi Tia thứ Hai và có những kiến thức từ xa về Tia thứ Hai. Thày là Thượng sư của Tia thứ Hai vì thày là một với tánh linh của Tia thứ Hai. Do đó, thày là Tia thứ Hai. Thày đã tự nâng mình lên tới mức thày không còn xem mình là một với Tia thứ Hai, vì thày là Tia thứ Hai!

Thày vị đại diện của Tia thứ Hai cho địa cầu. Không có ai khác. Không có tánh linh nào tuôn chảy qua thày. Thày chính là tánh linh đang tuôn chảy, và tánh linh của thày sẵn lòng tuôn chảy qua con nếu con chịu mở con ra cho dòng chảy sẽ giúp con thăng vượt mức hiện tại của con, cho dù mức đó là gì, bằng cách con thách đố hộp tư duy hiện thời của mình.

Nếu con sẵn lòng bị thách đố thì thày cũng sẵn lòng thách đố. Cả hai chúng ta có thể chảy lên một mức cao hơn, chúng ta có thể gia tốc lên một mức tinh khiết cao hơn, một biểu đạt minh triết luôn luôn tinh khiết hơn nữa. Thày là tánh linh của Tia thứ Hai. TA LÀ Lanto!

Minh triết và Tình thương

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 12/3/2014.

TA LÀ Lanto và thày thương yêu con. Có lý do nào khác mà thày lại ở với hành tinh địa cầu nếu thày không thương yêu con? Thày thương yêu các dòng sống khác đang hiện thân trên địa cầu. Thày thương yêu chính hành tinh nảy, và thày thương yêu viễn kiến cùng hoạch định cho hành tinh này được giữ trong tâm các chân sư thăng thiên – trong thời đại này, chân sư Saint Germain.

Thày là một sinh thể thăng thiên. Con hãy nhìn trong giây lát khoảng mênh mông của vũ trụ vật chất. Nghĩ xem có bao nhiêu tinh tú, bao nhiêu thiên hà, bao nhiêu hành tinh. Thật là vô số kể. Bây giờ con thử tưởng tượng con có một phi thuyền không gian cho phép con đi chơi tự do khắp đây đó trong vũ trụ vật chất. Liệu con sẽ ở lại với hành tinh nhỏ bé này, hay con sẽ đi khám phá những chân trời xa xôi kia? Đó, thày có thể cam đoan với con là cõi tâm linh còn rộng lớn hơn gấp bội, và có những chân trời thú vị hơn gấp bội vũ trụ vật chất để con khám phá. Khi con thăng thiên, toàn bộ khoảng bao la này của cõi tâm linh sẽ mở ra cho con. Con có thể đi gần như bất cứ nơi đâu nếu con thật chuyên cần. Vậy thì tại sao một chân sư thăng thiên lại chọn ở lại với địa cầu? Chỉ có thể có một lý do mà thôi: tình thương.

8.1. Con có thể chứng minh bất cứ quan điểm nào

Như thày có nói trong bài giảng trước về minh triết, điều các thày muốn cho học viên thấy là con có thể tranh luận chống hay thuận bất kỳ quan điểm nào. Bằng cách loại bỏ bằng chứng trái ngược, con có thể minh chứng bất kỳ điều gì mà con muốn. Con có thể chứng thực bất kỳ tin tưởng nhị nguyên nào để thỏa mãn tự ngã, thỏa mãn những ai nhìn qua phin lọc nhận thức của một vai trò nhất định. Có những người trên trái đất nghi ngờ sự hiện diện của các chân sư thăng thiên. Có những người trên trái đất nghi ngờ động cơ của các thày khi ở lại với địa cầu. Có những người bảo rằng đáng lý các thày phải đi nơi khác thay vì ở lại địa cầu.

Họ hoàn toàn chắc chắn là họ đúng, vì họ nhìn các thày qua một phin lọc nhận thức nhất định. Thậm chí có cả những học trò của chân sư thăng thiên tuy chắc chắn là các thày có thật, chắc chắn là các thày có lý do chính đáng để ở lại với địa cầu, nhưng lại cố ép các thày vào cho vừa một cái hộp tư duy nhất định. Một lần nữa, nếu con cứ chọn mãi thì con sẽ tìm ra một giáo lý nào đó của chân sư chứng thực gần như bất cứ điều gì mà con muốn tin. Liệu con có muốn tin là các chân sư giống như những phiên bản nhỏ của một thượng đế giận dữ trên trời mà cả ba tôn giáo độc thần đã đề xướng từ hàng ngàn năm nay? Nếu vậy thì con sẽ tìm ra một số lời dạy dường như xác nhận quan điểm đó, nhưng các thày là nhiều hơn hẳn quan điểm đó. Các thày nhiều hơn hẳn bất kỳ quan điểm nào. Điều các thày muốn đệ tử thấy được ở giai đoạn thứ nhì của khai ngộ tại Royal Teton là một khi con đã tạo ra một hộp tư duy đóng kín, nó sẽ lọc bỏ đi bất cứ bằng chứng trái ngược nào, và như vậy nó trở thành một hệ thống kín mít, một vòng tròn kín mít, một lời tiên đoán bắt buộc thành hiện thực.    

8.2. Thoát khỏi hộp tư duy – bằng tình thương hay bằng vũ lực

Con sẽ không có cách nào thoát khỏi hộp tư duy khi con còn nhìn cuộc sống qua phin lọc nhận thức đã tạo ra chiếc hộp ngay từ đầu. Con không thể tra vấn nhận thức từ bên trong phin lọc nhận thức. Con phải dùng khả năng của cái Ta biết khi nó tự phóng chiếu ra ngoài hộp tư duy và phin lọc hiện thời của con. Cái gì sẽ thúc đẩy cái Ta Biết làm như vậy? Trong Trường đời Cay đắng, rồi đây con sẽ đạt tới một điểm khi trường đời trở nên quá đỗi cay đắng và con bị cuộc đời đánh gục, bị tuyệt vọng đến độ con sẽ sẵn lòng nhìn ra ngoài hộp tư duy để trốn khỏi nỗi đau.

Ở khóa nhập thất tại Royal Teton, các thày không có ý định bắt con phải trải nghiệm khổ đau cho tới khi nỗi đau nhức nhối đến độ con phải quyết định tìm cách thoát thân. Các thày không ở đây để cống hiến cho con một cách thoát thân, và do đó sẽ tới một điểm ở cấp khai ngộ thứ ba khi con sẽ không thể tiến xa hơn cho tới khi con tự phát huy một động lực dựa trên tình thương. Con phải yêu thương một cái gì đó nhiều hơn là hộp tư duy của con. Con phải yêu thương một minh triết cao hơn, nhiều hơn minh triết do phin lọc nhận thức quy định.

Nếu con không có tình thương này, con sẽ không thể bước tiếp. Điều các thày muốn làm ở cấp khai ngộ thứ ba là chỉ cho đệ tử thấy là con đã có sẵn tình thương này ở đâu đó trong chính con. Khi con bước vào bên trong đủ sâu, con sẽ nhận ra dòng sống của con là sự yêu thương một cái gì vượt khỏi hộp tư duy hiện thời của mình. Tình thương này đã có mặt trước khi con tạo ra hộp tư duy khi con bước vào vai trò hiện tại của mình. Chính tình thương này đã khiến cái Ta Biết hiện thân trong vũ trụ vật chất. Con có tình thương muốn nhìn thấy sáng tạo của Thượng đế trải bày ra. Con yêu thương Hiện diện TA LÀ của con cùng các đức tính của Thượng đế mà con đã cá thể hóa (individualize). Con yêu thương việc biểu hiện các đức tính đó của Thượng đế và thấy ánh sáng đó tỏa vào bóng tối của cõi vật chất.

Đây là động lực mà các thày cố giúp con tái khám phá. Chắc chắn con đã tái khám lại phần nào động lực đó khi con đi qua các khai ngộ của Tia thứ Nhất, nhưng các thày giúp con bước vào sâu hơn và nối kết lại với tình thương đã đem con đến hành tinh này. Các thày giúp con nhìn ra làm cách nào con có thể biểu hiện tình thương với nhiều minh triết hơn, nhiều phân biện hơn. Ở mức khai ngộ của Tia thứ Ba trong khóa nhập thất này, các thày muốn giúp con nhìn ra là khi minh triết được biểu lộ qua tình thương, một cái gì thật mới sẽ đột nhiên thức dậy trong con. Con bắt đầu nhận ra là những việc làm khôn ngoan của con người trên trái đất không do tình thương thúc đẩy, hay đúng hơn, không do Tình thương Thiêng liêng thúc đẩy, mà do sự yêu mến phàm phu. Con người sử dụng trí khôn đó để phán đoán, kể cả sự phán đoán giá trị mà tự ngã, các sa nhân và thày giả đều ưa thích.

8.3. Phân biện Ki-tô và sự phán đoán phàm phu  

Minh triết bị tha hóa bởi tình thương giả trá này, là loại tình thương chiếm hữu và kiểm soát, cho nên nó không còn là Minh triết Thiêng liêng nữa. Minh triết Thiêng liêng đích thực đem lại cho con tính phân biện, nhưng phân biện này không dính dáng gì tới phán đoán phàm phu.  Đây là một điểm mà hầu hết các đệ tử chưa hề nghĩ tới bao giờ. Họ chưa bao giờ nghĩ tới là có sự khác biệt giữa phân biện Ki-tô và phán đoán khởi lên từ tâm phản-Ki-tô. Từ một quan điểm hời hợt, người ta quen thói nghĩ rằng khi mình dùng một tiêu chuẩn công phu để lượng định một tình huống hoặc một người hoặc một ý tưởng, thì mình đang thực hành phân biện. Thậm chí nhiều người còn tưởng đó là phân biện Ki-tô.

Con hãy nhìn xem, nhiều tín hữu Cơ đốc tin chắc giáo hội của mình nắm giữ cách diễn giải Kinh thánh đúng đắn duy nhất, và giáo điều cùng thế giới quan của giáo hội mình nhất định phải dựa trên cái mà họ gọi là phân biện Ki-tô – nếu họ dùng thuật ngữ này. Họ tin chắc tuyệt đối là họ đang phán xét một cách công chính vì họ đã có lời diễn giải chân chính về lời dạy của Ki-tô. Kỳ thực, cái họ có là sự diễn giải của con người phàm phu dựa trên tâm phản-Ki-tô về lời dạy của Ki-tô. Họ đã áp đặt một hình tượng giả trá lên lời dạy của Ki-tô, và họ dùng hình tượng này để phán xét mọi tôn giáo khác, mọi ý tưởng, mọi cách diễn giải khác về Kinh thánh cũng như người khác.

Họ phán xét các tôn giáo khác và những ai không có tôn giáo, nhưng họ phán xét cả những người đồng đạo Cơ đốc của họ. Trong nhiều hội thánh nhỏ như thế, đặc biệt tại Hoa Kỳ, các thành viên tin chắc mình là người đặc biệt, ngay cả so với mọi tín đồ Cơ đốc khác. Họ là người nắm giáo lý chân chính. Họ là những người chắc chắn được lên thiên đàng, hoặc chắc chắn sẽ nhận ra Giê-su khi thày trở lại trong lần tái lâm. Và khi Giê-su tái lâm, họ chắc chắn mình sẽ được chứng thực là những người duy nhất nắm giữ lời dạy chân truyền của Ki-tô. Tất nhiên đây không phải là phân biện Ki-tô.

Tiếc thay, thậm chí có cả những học trò của chân sư thăng thiên cũng tin mình có phân biện Ki-tô, dựa trên giáo lý do các chân sư thăng thiên truyền giảng. Nhưng như thày đã nói, điều mà các thày đưa ra là lời nói, mà lời nói thì tha hồ diễn giải. Họ diễn giải lời nói của các thày dựa trên phin lọc nhận thức hiện thời của họ. Chuyện hoàn toàn có thể xảy ra là họ lấy một lời dạy của chân sư để tạo dựng một cái hộp tư duy cũng hoàn toàn kín mít y như hộp tư duy của nhiều nhóm Cơ đốc cực chính thống.

Các thày đã thấy chuyện này xảy ra trong hơn thế kỷ qua khi truyền giảng một cách công khai. Các thày vẫn thấy chuyện này xảy ra ngày hôm nay khi có những nhóm tin chắc mình là những đệ tử cao cấp nhất của chân sư thăng thiên trên địa cầu, bởi vì họ đã lấy một giáo lý nhất định, biến nó thành hộp tư duy khép kín rồi sử dụng để phán xét Lời Hằng sống mà các thày vẫn liên tục truyền rải cho những ai có tâm rộng mở để làm sứ giả cho Lời Hằng sống.

Đó không phải là phân biện Ki-tô, và đó là điều con cần nhìn thấy ở cấp khai ngộ thứ ba tại nhập thất Royal Teton. Cho tới khi con chiêm nghiệm được – trong nghĩa đen – sự khác biệt trong độ rung giữa phân biện Ki-tô và sự phán đoán phàm phu, con không thể tiến bước. Con không thể vượt qua cuộc khai ngộ của cấp thứ ba, là khai ngộ của minh triết biểu hiện qua tình thương.

8.4. Tình thương Thiêng liêng không hạn chế quyền tự quyết

Tình thương không phán xét. Tình thương Thiêng liêng thì không phán xét, nhưng đúng là tình thương của con người hoàn toàn dựa trên một sự phán xét. Con chỉ việc nhìn khắp thế giới xem người ta tiếp cận đề tài hay khái niệm tình thương như thế nào. Hãy xem có bao nhiêu người, trong quan hệ cá nhân, tìm cách sở hữu hay kiểm soát người mà họ nói họ yêu. Họ có thể cho đó là vì lợi ích của người kia, nhưng làm sao là lợi ích cho được nếu họ cố cưỡng ép quyền tự quyết của người đó? Có bao giờ Thượng đế đã bổ nhiệm con làm quan tòa để xét xử người khác phải dùng quyền tự quyết của họ như thế nào hay không?

Đôi khi các thày phải cứng rắn một chút với học viên. Đôi khi các thày phải cho họ thấy là trong lúc tỉnh táo, họ đang sử dụng tình thương có điều kiện, tình thương chiếm hữu, trong quan hệ với người khác. Xong các thày cho họ thấy một mối quan hệ cụ thể và cách họ cư xử với một người nào đó, và các thày hỏi họ tại sao họ lại làm thế này hay thế kia. Họ luôn luôn nghĩ ra được một lý lẽ tại sao điều họ làm lại cần thiết cho ích lợi của người kia. Và đôi khi các thày phải chất vấn học viên: “Con có thể trưng ra cho thày xem bản hợp đồng mà con đã ký với Thượng đế giao cho con nhiệm vụ phán xét người đó? Đâu là tờ giấy chứng minh là con lãnh trách nhiệm về sự cứu rỗi của người đó?”

Có khi điều này khiến học viên ngừng lại và suy nghĩ. Tất nhiên, họ nhận ra là họ không hề có bản hợp đồng đó. Tại sao họ đã dựng lên ý tưởng là họ có trách nhiệm về sự cứu rỗi của người khác và họ phải xử sự như thể họ có quyền sở hữu gì đó trên người đó?

Nếu con muốn vượt qua khai ngộ ở cấp thứ ba, con phải ngừng tìm cách sở hữu người khác. Thày đang chực nói là con phải chuyển trọng tâm của con vào việc sở hữu chính mình, nhưng tất nhiên, nói như vậy sẽ dễ dàng bị hiểu lầm. Thật vậy, có nhiều người đã thăng vượt được mong muốn sở hữu người khác, họ vẫn tìm cách sở hữu chính mình cũng như tâm mình, nhưng họ làm vậy từ góc nhìn của tự ngã. Điều họ làm thực sự là tìm cách đặt tự ngã vào địa vị kiểm soát tâm họ, ý tưởng của họ, cảm xúc của họ, ý niệm bản sắc của họ. Thay vì con tìm cách sở hữu tâm con, thà là con buông bỏ mọi nhu cầu sở hữu bất cứ gì trên địa cầu.

8.5. Con không thể giam hãm Phật tánh trong hộp tư duy

Thế nào là minh triết đích thực? Thày đã nói rằng minh triết cao nhất là biết mọi sự sống là một, bởi vì mọi thứ đều là Phật tánh. Đây là điều mà đức Phật đã giảng dạy bao nhiêu năm về trước – 25 thế kỷ, quả là rất lâu trước đây. Con nhìn xem người ta đã làm gì với lời dạy của Phật. Họ đã biến nó thành một đồ vật. Con có thể tìm thấy nhiều môn phái tin rằng họ sở hữu lời dạy của Phật.

Con yêu dấu, lời dạy của Phật là gì? Đó phải chăng là một học thuyết vỏ ngoài nào đó được diễn tả bằng lời? Nếu sự chứng ngộ nằm ở trung tâm đạo Phật rằng tất cả đều là Phật tánh, thì hệ quả chẳng phải là lời dạy của Phật cũng là Phật tánh hay sao? Những lời dạy đó cũng mang Phật tánh ở bên trong.

Vậy thì Phật tánh là gì? Người ta nghĩ Phật tánh là một trạng thái toàn hảo nào đó, và họ nghĩ nếu cái gì toàn hảo thì nó không thể thay đổi. À, đây là vấn đề trung tâm của hiện hữu con người. Vấn đề trung tâm là như sau: Con đang nỗ lực đạt được một trạng thái toàn hảo mà con cho là không thay đổi, hay là con nỗ lực đạt đến sự hợp nhất với Phật tánh?

Con thấy đó, Phật tánh là thay đổi không ngừng. Phật tánh là tự thăng vượt không ngừng. Phật tánh không bao giờ đứng yên một chỗ. Nó luôn luôn thăng vượt chính nó. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con không thể sở hữu Phật tánh. Con không thể kiểm soát Phật tánh. Con không thể tạo ra một cái hộp tư duy và bảo là Phật tánh được chứa trong hộp. Trước cả khi con có thể tạo ra hộp tư duy, Phật tánh đã tự thăng vượt một tỷ lần rồi.

8.6. Mắt Thượng đế chỉ có thể thấy sự duy nhất

Chỉ có tự ngã con người mới muốn tạo ra một trạng thái toàn hảo không thay đổi, vì nó tin rằng khi nó có thể tạo ra trạng thái toàn hảo đó thì nó sẽ được chấp nhận trong mắt Thượng đế. Như các thày đã giảng dạy nhiều lần, kể cả trong những quyển sách nền tảng của Giê-su về tự ngã, tự ngã sẽ không bao giờ được chấp nhận trong mắt Thượng đế, bởi vì mắt Thượng đế chỉ nhìn thấy duy nhất, trong khi mắt của tự ngã thì chỉ thấy tách biệt.

Mắt Thượng đế thấy thực tại rằng mọi sự sống đều là Dòng sông của Sự Sống không ngừng chảy. Mắt của duy nhất sẽ không bao giờ thấy được tự ngã, vì tự ngã đứng riêng ra khỏi duy nhất và do đó nó không có thật. Mắt của duy nhất chỉ thấy được cái có thật. Con mắt của tách biệt chỉ thấy được cái không thật, và hai cái này thì không bao giờ gặp nhau. Chỉ có sự gặp nhau khi cái Ta Biết bước ra khỏi phin lọc nhận thức của tự ngã và chiêm nghiệm sự duy nhất, chiêm nghiệm chính nó là Phật tánh, là một với Dòng sông sự Sống không ngừng tự thăng vượt. Đây là minh triết. Minh triết được biểu đạt qua tình thương khi con nhận ra rằng con muốn cái gì nhiều hơn là những ảo tưởng của hộp tư duy và phin lọc nhận thức của con. Con muốn chính nguồn suối hằng sống, chứ không muốn một sự diễn đạt nào đó của minh triết, cho dù cao siêu nhưng cố định.

Trên thế giới có những người đã tìm ra một lời dạy tâm linh cụ thể nào đó. Họ đã nâng lời dạy đó lên địa vị cao siêu với thẩm quyền hơn trội. Họ tin chắc là nếu họ cứ đi theo lời dạy đó, thực hành mọi điều được quy định trong đó, hay được quy định bởi tổ chức vỏ ngoài tuyên bố sở hữu lời dạy, thì họ sẽ được bảo đảm cứu rỗi, sẽ bước vào thiên đàng, trở thành giác ngộ, nhập niết bàn, hoặc bất kỳ mục tiêu nào đặt ra.

Thậm chí có cả những học trò của chân sư thăng thiên cũng nắm lấy giáo lý của chân sư rồi đưa lên địa vị ưu việt và bất khả sai phạm, và như vậy họ cũng đã nhét lời dạy vào một hộp tư duy đóng kín. Họ không còn tai để mà nghe thấy và mắt để mà nhìn thấy lời dạy hằng sống là chính các thày. Các thày là một với Phật tánh, và các thày không ngừng thăng vượt chính mình, có nghĩa là giáo lý của các thày cũng không ngừng tự thăng vượt.

8.7. Hộp tư duy là tình thương bị tha hóa

Chỉ có tình thương mới giúp con giữ liên lạc với các thày khi các thày cứ tiếp tục tự thăng vượt và cũng thăng vượt những giáo lý đã ban ra trong quá khứ, kể cả quá khứ gần đây. Con hãy để ý sự khác biệt vi tế. Một giáo lý do chân sư thăng thiên truyền qua một sứ giả được bảo trợ là một giáo lý chính đáng. Nhưng ngay lúc giáo lý này được trao ra và biểu đạt trong cõi vật chất, các chân sư thăng thiên đã tự thăng vượt rồi và đồng thời cũng thăng vượt giáo lý đó. Điều này không có nghĩa là nó không có giá trị, mà có nghĩa là nếu con muốn giữ liên lạc với các thày, con không thể biến giáo lý thành một hộp đóng kín. Con dùng nó làm nền tảng để thăng vượt ý niệm cái ta của con cũng như bất kỳ cách diễn giải nào về giáo lý.

Thế nhưng điều con chứng kiến trong các tổ chức của chân sư thăng thiên cũng như mọi tổ chức tâm linh và tôn giáo khác, là một tiến trình lọc lựa. Thường khi, sẽ có đa số đệ tử muốn lấy giáo lý và biến nó thành hộp tư duy đóng kín. Khi làm vậy thì họ cũng tạo ra một văn hóa tổ chức là một hộp đóng kín. Thậm chí họ còn có thể đẩy ra rìa những ai không chấp nhận văn hóa đó cùng thế giới quan đó. Và thiểu số còn lại là những đệ tử cởi mở không chấp nhận hiện trạng này sẽ bỏ đi, để tìm một sứ giả khác hay một tổ chức khác, hoặc họ sẽ thiết lập sự tiếp xúc nội tâm của riêng mình với các thày để nhận được xung lực và lời dạy trực tiếp từ các thày. Đây là Dòng sông sự Sống. Đối với những đệ tử muốn ở lại trong hộp, họ có tình thương dưới dạng tha hóa. Suốt ngày họ sẽ quả quyết là họ yêu các chân sư và họ cũng yêu giáo lý của chân sư. Đúng là họ yêu các thày, nhưng một cách chiếm hữu. Họ quyết định là họ đã đạt đến một điểm ổn định trên đường tu nơi họ cảm thấy vô cùng thoải mái, và họ muốn các thày phê chuẩn điểm ổn định đó và sự kiện họ ngồi lại. Họ muốn các thày phải chui vào hộp tư duy của họ. Đây có lẽ là tình thương, nhưng chắc chắn chỉ là tình thương phàm phu chiếm hữu đã gây ra không biết bao nhiêu vấn đề trên hành tinh này khi người ta cố cưỡng ép người khác mà lại tưởng mình đang làm vậy với ý định tốt đẹp nhất, thậm chí với cả thẩm quyền cao nhất.

8.8. Con muốn đứng lại hay con muốn thăng vượt?

Giê-su nói: “Nếu con yêu ta, hãy thi hành các điều răn của ta.” Điều răn quan trọng nhất của Giê-su là gì? “Ai muốn cứu sự sống của mình thì sẽ mất, còn ai vì ta mà sẵn sàng mất sự sống của mình thì sẽ tìm thấy”, tức là tìm thấy sự sống vĩnh hằng trong sự tự thăng vượt liên tục. Sự sống mà Giê-su nói đến là tự thăng vượt liên tục. Đây là sự sống mà Ki-tô hằng sống cống hiến cho loài người đang đầu thai. Nếu con không dự phần vào thân và huyết của Ki-tô, con không thể có sự sống trong con, bởi vì con cố giam hãm tánh linh của mình trong một cái hộp tư duy được quy định trên địa cầu.

Tánh linh của con không thể nhét vừa trong hộp, cho nên nó phải rút lui, nó phải giữ lại ánh sáng và sự sống của nó khỏi phàm ngã của con. Nếu tánh linh không làm vậy thì con sẽ tạo ra rất nhiều nghiệp quả khi con biểu hiện ánh sáng đó qua phin lọc nhận thức và hộp tư duy của con, khi con dùng ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ để cưỡng ép người khác, và như vậy con ngày càng tạo thêm nghiệp cho mình. Thật là một ân huệ khi Hiện diện TA LÀ giữ lại ánh sáng hầu hạn chế khối nghiệp quả mà con gây ra khi con cố ép buộc người khác, ép buộc các chân sư thăng thiên, ép buộc toàn bộ vũ trụ hay thậm chí cả Thượng đế vào hộp tư duy của con – như các sa nhân đã cố làm từ rất lâu nay. Sẽ tới một điểm trong khai ngộ tại khóa nhập thất Royal Teton khi con phải đối mặt với sự cần thiết tuyệt đối là xét xem con thương yêu những gì. Có gì con yêu hơn hộp tư duy hiện tại của con? Nếu thế, con phải hòa điệu với cái đó và tự hỏi một câu vô cùng nghiêm túc: “Tôi có muốn kết hợp nhiều hơn với cái mình yêu thương, hay tôi muốn dùng những lý lẽ toàn hảo dựa trên hộp tư duy hiện thời của mình để lập luận chống lại sự hợp nhất đó?” Con phải đạt đến điểm khi con thấy được sự chọn lựa mà con đối mặt giống như phải chọn giữa sống và chết. Liệu con có muốn tiếp tục chứng thực hộp tư duy của mình, hay là con muốn sự kết hợp lớn hơn với những gì con yêu thương hơn cái hộp? Con không thể có cả hai.

8.9. Con không thể ăn hết cái bánh mà lại còn bánh

Đây là khai ngộ mà con đối diện ở cấp ba: Con không thể ăn hết cái bánh mà lại còn bánh. Con hãy suy ngẫm minh triết ẩn giấu trong câu nói dân gian đó, nghe tưởng quá đơn giản. Con có một miếng bánh. Con có thể hoặc ngồi đó, nhìn bánh và hưởng thụ cảm giác mình sở hữu một miếng bánh, hoặc con có thể  ăn bánh và mất đi cảm giác sở hữu miếng bánh. Đâu là công dụng của bánh? Phải chăng là để con trưng bày nó trong tủ kính rồi đi vòng vòng khoe với tất cả bạn bè cùng thân nhân: “Hãy nhìn miếng bánh tuyệt vời này mà tôi sở hữu”. Hay là công dụng của bánh là để con mời bạn bè cùng thân nhân đến, song giống như Giê-su bẻ thân mình cho môn đồ, con cũng bẻ bánh ra cho mọi người? Con chia cho mỗi người một miếng bánh. Con để họ ăn bánh, và đúng vậy, con đã mất chiếc bánh. Con mất đi cảm giác sở hữu chiếc bánh, nhưng thay vào đó con được gì? Con được sự hợp nhất với dòng chảy của Dòng sông sự Sống. Con được sự hợp nhất bởi vì cái mà con đã tự do nhận được thì con cũng tự do cho ra, và như vậy con có tự do nhận được nhiều hơn.

Sự chọn lựa là như sau: Con có thể lấy giáo lý tâm linh hiện thời của con, đặt nó vào tủ kính và đi vòng vòng với niềm hãnh diện về giáo lý tuyệt vời con đang trưng bày trong tủ. Hay con có thể bẻ giáo lý ra và ăn vào, và do đó con sẽ mất đi ý niệm vật sở hữu. Nhưng con nhập vào dòng chảy liên tục của dòng sông giáo huấn luôn luôn tự thăng vượt đang xối xuống từ các chân sư thăng thiên.

Con có thể đứng lại tại chỗ bên ngoài dòng chảy, hay con có thể nhập một với dòng chảy. Con không thể làm cả hai. Con không thể làm cả hai, con yêu dấu. Tất nhiên, tự ngã và các thày giả rất thèm muốn con tin là con có thể ăn bánh mà vẫn sở hữu miếng bánh. Họ muốn con tin rằng con vẫn vững chân tiến bước về ngày thăng thiên của con miễn là con tiếp tục học giáo lý của chân sư thăng thiên. Nếu con đã tìm thấy một vị sứ giả chân chính vẫn tiếp tục đưa ra giáo lý thì làm sao con lại đứng tại chỗ được? Nhưng con vẫn có thể đứng lại tại chỗ nếu con không thực sự thể nhập giáo lý và cho phép nó dẫn con vượt khỏi hộp tư duy của con.

Ngay cả một lời dạy hằng sống đang tuôn chảy cũng có thể bị sử dụng để xác nhận hộp tư duy của mình, vì hộp tư duy sẽ lọc bỏ đi những khía cạnh của lời dạy có thể thách đố nó. Nếu con không dùng lời dạy để giúp cái Ta Biết bước ra ngoài hộp tư duy, thì thật sự con sẽ dùng lời dạy để khiến cho hộp tư duy đông đặc lại cùng với niềm tin là chiếc hộp sẽ đưa con lên thiên đàng.

Bao nhiêu lần các thày sẽ phải nhắc lại rằng thăng thiên không phải là tiến trình xây đắp một cái hộp tư duy cho nó trở thành hoàn hảo đến độ Thượng đế sẽ phải chấp nhận nó vào cõi thăng thiên? Thăng thiên là một tiến trình mà qua đó con lột bỏ mọi khía cạnh của các hộp tư duy xuất phát từ tách biệt, cho đến khi con trở về với trạng thái ngây thơ nguyên thủy của con, nghĩa là vô tướng. Khi con thăng vượt mọi hình tướng bảo con là cái này hay cái nọ, thì con sẽ là cái mà con luôn luôn là, tức là sinh thể vô tướng đã từng giáng thế. Như Giê-su đã nói: “Chưa hề có ai trở lên trời, trừ ra đấng từ trời xuống.” Chỉ có cái Ta Biết trinh nguyên, vô tướng, đã đi xuống từ cõi tâm linh mới có thể thăng lên trở lại. Đây là một bí ẩn đáng để suy ngẫm, mặc dù nó hơi vượt quá cấp ba tại khoá nhập thất Royal Teton này nhưng vẫn là một ý tưởng con nên giữ trong tâm.

8.10. Thăng vượt mọi sở hữu nếu con muốn thăng thiên

Cái Ta Biết mở rộng nhận biết của nó bằng cách hiện thân, nhưng nó không làm vậy bằng cách xây dựng một ý niệm bản ngã tách biệt. Con không ở đây để xây dựng một cái ngã tách biệt tinh xảo đến mức nó thoả mãn một chuẩn mực tối hậu nào đó và được phép lên thiên đàng. Con ở đây là để xây dựng một ngã tách biệt hầu con trải nghiệm cuộc sống xuyên qua nó trong một thời gian, rồi con thăng vượt ngã này, và con cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con thăng vượt mọi loại ngã mà con có thể nghĩ ra và xây dựng trong thế gian này. Con nhận ra là con đã xong xuôi chuyện trải nghiệm thế gian này. Con đã thăng vượt tất cả mọi ngã mà con có thể nghĩ ra như là những cách hữu ích để trải nghiệm thế giới hình tướng này. Giờ đây con đã sẵn sàng trở về với vô tướng, và chính trong trạng thái vô tướng này mà con thăng thiên.

Cũng tựa như người ta nói về thân thể vật lý, con đã bước vào thế gian này trần trụi thì con ra đi cũng y như vậy. Con không thể đem theo sở hữu với con, nhưng con có thể đem theo một thứ. Cái mà con đem theo với con không phải là cái ngã tách biệt con đã tạo dựng, mà là sự chứng đạt được lưu trữ trong căn thể của con (causal body). Căn thể này, con sẽ đem theo với con, và nó sẽ giúp con trên cuộc hành trình nối tiếp như một chân sư thăng thiên.

Con sẽ không trở thành một chân sư thăng thiên cho đến khi con thăng vượt mọi khía cạnh của ngã tách biệt. Bất cứ gì con nghĩ là mình sở hữu phải được thăng vượt. Con phải từ bỏ cuộc sống này để đi theo Ki-tô, và để làm vậy, con phải yêu Ki-tô nhiều hơn bất cứ gì khác trong thế gian. Như Giê-su đã nói: “Ai yêu cha mẹ hay anh chị em hơn ta thì không đáng cho ta.” Thật đúng là như thế. Nếu con yêu bất cứ khía cạnh nào của ngã tách biệt nhiều hơn Ki-tô – Ki-tô nghĩa là sự tự thăng vượt liên tục – thì con không xứng đáng làm đệ tử của Ki-tô, vì con không sẵn sàng từ bò tất cả để theo chân Ki-tô trong sự tự thăng vượt liên tục của Dòng sông sự Sống.

8.11. Yêu sự biểu hiện cá thể Thiêng liêng của con

Tình thương là động lực mạnh mẽ nhất, vì tình thương chính là sự tự thăng vượt. Con hiện hữu vì Đấng Sáng tạo của con muốn là nhiều hơn. Con hiện hữu trong một thế giới có hình tướng vì Đấng Sáng tạo của con muốn là nhiều hơn. Chính con cũng trở thành nhiều hơn bằng cách đồng hóa trước hết với một hình tướng, rồi sau đó thăng vượt hình tướng đó. Không phải hành động đồng hóa khiến con trở thành nhiều hơn, mà là hành động buông bỏ sự đồng hóa. Buông bỏ là yêu thương đích thực, trong khi tìm cách sở hữu là tình thương giả trá.

Các thày cố chỉ ra cho đệ tử là họ cần từ bỏ mong muốn sở hữu thế giới quan, minh triết, cái hộp tư duy mà họ đang có ở mức hiện thời. Các thày cố đưa họ chạm được cái mà họ yêu nhiều hơn sự an toàn của hộp tư duy. Thày đã có nói đến sự yêu thương Ki-tô, vì ở mức cá nhân, Ki-tô thật sự là sự biểu hiện của cá thể Thiêng liêng của con.

Thày đã có nói đến các hình dạng kỷ hà lý tưởng. Thật vậy, Hiện diện TA LÀ của con là gì? Đó là một hình kỷ hà lý tưởng, một hình kỷ hà phức tạp tinh vi, và khi con bắt đầu nhìn hé thoàng một khía cạnh nhỏ của hình dạng đó, con sẽ cảm thấy tình thương muốn biểu lộ hình dạng đó trong thế gian. Con sẽ thấy việc này không thể làm được qua phin lọc nhận thức và hộp tư duy hiện thời của con. Con có chọn lựa giữa việc biểu đạt cá thể trong Hiện diện TA LÀ, hay bám chặt vào hộp tư duy của mình.

Khi đệ tử đến điểm thấy được điều đó, và họ thấy hộp tư duy đang hạn chế họ như thế nào, thì con sẽ thấy luân xa tim của họ sáng rỡ lên với cường độ của ngọn lửa màu hồng ngọc, là ngọn lửa cho họ quyết tâm muốn thiêu sạch – trong nghĩa đen – một khía cạnh nhất định của hộp tư duy bằng một tia laser, hầu biểu đạt cá thể thiêng liêng của mình nhiều hơn. Đây là lúc họ cảm thấy tình yêu thiêng liêng xối chảy qua mình. Khi mục đích hàng đầu của con là biểu hiện cá thể thiêng liêng được cất giữ trong Hiện diện TA LÀ của mình, thì con đâu còn nhu cầu nào nữa để kiểm soát người khác? Đâu còn nhu cầu phải tự kiểm soát và thích nghi với một chuẩn mực vỏ ngoải nào đó trên trái đất?

Con không cần gì từ người khác để thể hiện cá thể Thiêng liêng của con. Con không cần gì từ trái đất để thể hiện cá thể Thiêng liêng của con. Con không cần đến điều kiện nào trong thế giới vật chất để thể hiện cá thể Thiêng liêng của con. Con sẽ không bao giờ thể hiện được cá thể Thiêng liêng của mình trừ khi con đạt đến điểm là con sẽ cứ làm bất kể mọi điều kiện ngoại cảnh.

Quá nhiều đệ tử đến với các thày với thái độ là khi điều kiện ngoại cảnh thuận lợi thì họ mới thể hiện được tâm Ki-tô của mình. Đâu là bài học của sự hiện thân của Giê-su? Hãy nhìn vào cuộc đời của thày! Dựa trên cái nhìn vẻ vang mà đạo Cơ đốc đã dựng lên, con có thể nghĩ Giê-su đã có những điều kiện lý tưởng. Nhưng con hãy nhìn vào đời của thày! Đâu là ý nghĩa câu chuyện thày sinh ra nơi máng cỏ khi nhà trọ không còn chỗ? Đâu là ý nghĩa câu chuyện thày sinh ra ngoài hôn nhân vì cha mẹ thày phải chạy trốn khỏi Ai cập, rồi thày lớn lên trong hoàn cảnh khiêm tốn? Toàn bộ đời thày là để cho thấy rằng ngay cả trong những hoàn cảnh hèn mọn và dường như bất lợi nhất, con người vẫn có khả năng thể hiện Ki-tô, thể hiện Phật tánh và cá thể thiêng liêng.

Để thể hiện cá thể thiêng liêng của mình, con cần gì? Con không cần phải cố tạo ra trước tiên những điều kiện lý tưởng trong đời mình, mà con cần sẵn lòng biểu hiện cá thể thiêng liêng đó cho dù các điều kiện vỏ ngoài mà con phải đương đầu có là gì. Đây là tình thương. Khi con nhìn vào các điều kiện trên địa cầu mà không nhìn xuyên qua phán đoán của ngoại tâm và tự ngã, con không đánh giá các điều kiện đó là kém lý tưởng và nói: “Tôi không thể biểu hiện bất cứ điều gì thiêng liêng được trong hoàn cảnh này. Hoàn cảnh này không xứng đáng để biểu hiện thiêng liêng.”

8.12. Vượt qua khai ngộ nhờ tình thương vô điều kiện

Tình thương là khi con nhận bất kỳ điều kiện nào mà con đối mặt, rồi tìm ra cách biểu hiện cái gì nhiều hơn, cái gì thiêng liêng trong hoàn cảnh đó. Đó là khi con nhân ta-lăng lên cho sinh sôi nhiều hơn, và đó cũng là khi con sẽ được trao cho nhiều hơn để mà biểu hiện. Có những người cứ ngồi đó với một giáo lý tâm linh, họ hiểu phần nào đường tu tâm linh là gì, nhưng họ cứ ngồi chờ cho một số điều kiện lý tưởng hiện ra, và khi đó họ sẽ, tự dưng và tự động, biểu hiện được Ki-tô hay điều gì đó tâm linh. Nhưng có những người bước vào bất kỷ hoàn cảnh nào mình gặp mà vẫn tìm ra cách biểu hiện một thực tại cao hơn trong tình huống đó.

Đấy chính là những người đã nhân ta-lăng lên gấp bội thay vì chôn kỹ dưới lòng đất. Đó là những người sẽ vượt qua khai ngộ ở cấp thứ ba tại khóa nhập thất Royal Teton, là sự sẵn sàng biểu hiện tình thương trong bất cứ điều kiện nào, ngay cả khi nó có vẻ không xứng đáng với tình thương, ngay cả khi có vẻ tình thương không thể biểu lộ được trong hoàn cảnh đó. Con biểu lộ tình thương ngay cả với những người dường như không xứng đáng được thương yêu, dường như không muốn được thương yêu, dường như không sẵn sàng nhận thương yêu.  Con biểu lộ tình thương ngay cả khi người ta miệt thị con, hay miệt thị tình thương của con, ngay cả khi họ chà đạp nó dưới chân và chế nhạo nó một cách thấp hèn nhất. Con vẫn biểu hiện những gì đến với con từ bên trong. Con đang là mặt trời, là cánh cửa mở cho mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con chiếu rọi xuyên qua thế giới vật chất. Đó chính là vai trò của con. Đó là lý do tại sao con ở đây.

Khi tình yêu của con lớn đủ để con có thể biểu hiện Thiêng liêng cho dù người ta có làm gì với nó, thì con đã phát huy được động lực dựa trên tình thương. Con đã vượt qua khai ngộ của cấp ba và con có thể bước sang cấp bốn. Khi đó, con đã phát huy được tính không phán xét, cho phép con gia tốc các động lực của mình lên một mức thuần khiết cao hơn, là nơi con có ý định trong sạch.

Tất nhiên đây sẽ là chủ đề của bài giảng tới của thày. Ngay bây giờ, thày sẽ để yên cho con suy ngẫm câu hỏi này: “Liệu con muốn bánh, hay con muốn ăn bánh và nhập vào Dòng sông sự Sống?” TA LÀ Lanto!

Minh triết và Giác ngộ

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 11/3/2014.

TA LÀ chân sư thăng thiên Lanto, và thày đến trao cho con chìa khóa để hiểu các khai ngộ ở cấp thứ nhì sau khi con bắt đầu tiến trình khai ngộ trong khóa nhập thất Tia sáng thứ Hai. Cấp đầu là khi con sử dụng minh triết qua Tia thứ Nhất của uy lực, và theo lẽ tự nhiên, cấp thứ nhì là sử dụng minh triết qua Tia thứ Hai của minh triết. Vậy thì đây là một liều minh triết nhân đôi. Khai ngộ con đi qua ở cấp này là con cần học thêm về minh triết có thể được sử dụng và lạm dụng như thế nào.

6.1. Minh triết không phải là một cuộc tranh tài 

Thày có nói với con là các thày sắp xếp các học viên vào nhiều nhóm, xong để yên cho họ dùng minh triết để khống chế lẫn nhau cho tới khi chán chê. Ở cấp kế tiếp này, các thày lại xếp mọi người vào từng nhóm, nhưng bây giờ thày đưa ra một vấn đề cụ thể, rồi để họ nghĩ ra những luận cứ ủng hộ hay chống đối vấn đề. Một lần nữa, thật là đáng kinh ngạc khi thấy nhiều học viên háo hức muốn chứng tỏ là mình khôn ngoan, biện luận giỏi giang đến chừng nào. Trên địa cầu, con đã bị lập trình đến độ con tưởng rằng cuộc sống là một cuộc tranh đua. Nếu con khai ngộ trong Tia thứ Hai của minh triết thì nhất định phải có một cuộc tranh đua để xem ai là người minh triết nhất, ai là người có lý lẽ hay nhất, thuyết phục nhất. Thế nhưng tại khóa nhập thất Royal Teton, mục đích của các thày khác hẳn. Các thày không tìm cách dạy đệ tử đưa ra lập luận hay ho nhất địa cầu, mà tìm cách giúp họ thăng vượt chính cái trạng thái tâm thức tin rằng có một lập luận tối hậu.

Con thử nghĩ xem con đã bị lập trình như thế nào bởi các cơ chế của thế gian này, đặc biệt là các cơ quan tôn giáo và giáo dục. Con đã bị lập trình để suy nghĩ rằng phải có một minh triết tối hậu ở đâu đó, một tiêu chuẩn tối hậu qua đó tất cả mọi thứ đều được đo lường. Bất cứ gì không phù hợp với minh triết tối hậu đó phải sai lầm và cần bị phán xét.

Bất cứ ai đồng ý với minh triết sai lầm đó cũng phải bị phán xét y như vậy, thể theo bất kỳ hệ thống tin tưởng nào mà họ đã chọn và chấp nhận. Chẳng hạn, nếu con là một tín hữu đạo Cơ đốc, con sẽ bảo những ai không đồng ý với phiên bản minh triết của con chắc chắn phải là phản Ki-tô. Họ chắc chắn thuộc về ác quỷ, xứng đáng bị đày xuống địa ngục. Thượng đế muốn họ xuống địa ngục. Ít ra Thượng đế muốn họ cút khỏi địa cầu, và rất có thể ngài sẽ cần con giúp một tay để tiêu trừ họ biến khỏi mặt đất.

Đã bao nhiêu lần con thấy khuôn nếp này tái diễn trong lịch sử? Có bao nhiêu nơi trên thế giới ngày nay con thấy người ta tin là mình có một dạng minh triết cao trội hơn, và nó cho phép mình, bắt buộc mình, phải giết hại đồng loại? Có bao nhiêu nơi tại phương Tây, tuy con không thấy nhiều người sẵn lòng giết hại nhau, nhưng con vẫn thấy những kẻ trong giới học thuật sẵn sàng tranh luận và tranh luận và tranh luận, cốt là để hủy hoại về mặt tâm lý những ai không chịu chấp nhận hiểu biết của mình là hơn trội?

6.2. Khai ngộ thứ nhì trên Tia thứ Hai 

Điều xảy ra với các nhóm tại khóa nhập thất Royal Teton là các thày để yên cho mọi người tranh cãi cho tới khi họ ngán ngẩm, chán ngấy chuyện cãi nhau. Các thày quan sát từng nhóm. Các thày thấy rõ khi có những cá nhân ngày càng giữ im lặng nhiều hơn. Thay vì năng nổ bày tỏ minh triết của mình, giờ đây họ im lặng. Họ ngồi đó, họ lắng nghe, họ quan sát. Các thày thấy được tâm họ đang bắt đầu mở ra. Họ bắt đầu tự hỏi làm thế nào mà dường như ai nấy không thể nào giải quyết một cuộc thảo luận hay tranh cãi. Làm thế nào mà mặc dù lời biện luận được xây dựng hay ho biết mấy, luôn luôn có cách dựng lên một lời phản biện đối chọi lại? Làm thế nào người ta có thể bám giữ lý lẽ của mình mà không sao nhìn được bất cứ gì khác? Hay có chăng một điều gì vượt khỏi những lý lẽ đó mà người ta cần nhìn thấy?

Và đúng vậy, con yêu dấu, đây là lúc các đệ tử khởi sự mở tâm ra với bước khai ngộ kế tiếp. Ở điểm này, các thày đưa một số học viên ra ngoài. Các thày vẫn để yên cho những ai muốn tiếp tục cứ việc tranh luận mãi trong nhóm, và bây giờ lại có thêm người mới nhập vào, những dòng sống vừa mới đến nhập cuộc tranh luận, và chuyện này cứ tiếp diễn cho đến khi chính họ cũng chán ngấy. Đối với những đệ tử đã bắt đầu mở tâm ra, các thày dẫn họ vào một lớp học đặc biệt có một màn hình lớn để các thày chiếu lên cho họ thấy những gì xảy ra ở tầm mức năng lượng. Các thày có thể cho họ thấy rõ những gì thực sự xảy ra trong năng trường của họ khi họ hăng say tranh luận. Các thày có khả năng minh họa để họ nhìn thấy tận mắt cách ánh sáng tuôn chảy như thế nào từ Hiện diện TA LÀ của họ vào bốn thể phàm. Xong các thày cũng cho thấy các thày có thể phóng ra một xung lực minh triết đặc thù từ cõi thăng thiên vào tâm của một đệ tử nhất định. Qua họa đồ và hình ảnh, các thày cho thấy hình dạng của xung lực, cũng như sự cấu tạo của xung lực gồm những thành phần ví như các dạng kỷ hà lý tưởng mà nhà hiền triết Plato đã có giảng dạy.

Đây là những hình kỷ hà cơ bản, không đến nỗi đơn giản như hình tam giác, hình vuông hay hình tròn, mà phức tạp hơn. Khi con ngắm chúng với thị giác, con có thể thấy được vẻ đẹp, sự hài hòa, sự cân bằng, và con thấy chúng có khả năng tương tác với bất kỳ hình kỷ hà nào khác ở tầm mức thuần khiết mà không phá hủy, không triệt tiêu, và cũng không tạo ra mô hình giao thoa tiêu cực nào. Các thày giờ đây có thể chỉ rõ bằng họa đồ chuyện gì xảy ra khi xung lực minh triết cấu tạo bằng hình kỷ hà thuần khiết đó đi xuống thể bản sắc của một đệ tử. Các thày minh họa chính xác chuyện gì xảy ra khi hình thuần khiết của minh triết bắt đầu tương tác với hình kỷ hà trong thể bản sắc của đệ tử. Tất nhiên, những hình đạng này được định đoạt bởi mức tâm thức của đệ tử. Và vì mức tâm thức này không được cao lắm do tính chất đệ tử được khai ngộ, cho nên hiển nhiên sẽ có một hiện tượng giao thoa được thiết lập giữa các hình kỷ hà trong bản sắc thể của đệ tử với các hình dạng trong xung lực thuần khiết của minh triết.

Điều này có nghĩa là ngay từ trong thể bản sắc, xung lực minh triết nguyên thủy đã bị phần nào chặn nghẽn, phần nào bóp méo. So với thuần khiết ban đầu, con sẽ khó lòng nhận ra được cái đi xuống trí thể của đệ tử. Các thày cho thấy cái đi ra từ bản sắc thể xuống trí thể và bắt đầu tương tác với hình kỷ hà được lưu trữ nơi đây. Một lần nữa, sự tắc nghẽn, giao thoa, bóp méo lại xảy ra. Rồi các thày cho thấy cái đi ra từ trí thể xuống cảm thể, và cũng vậy, xung lực lại bị pha loãng, biến đổi thêm. Khi cuối cùng xung lực đi vào tâm ý thức của con thì nó đã bị mất chất đến độ gần như không còn dính dáng gì đến xung lực thuần khiết ban đầu nữa.

Khi các học viên lần đầu tiên nhìn thấy tận mắt điều đó, họ luôn luôn bị sốc. Họ bị sốc là mình không có khả năng vận chuyển một xung lực minh triết thuần khiết qua bốn thể phàm của mình để ít ra tâm ý thức còn bắt được một vài đặc tính của xung lực nguyên thủy. Mục đích của các thày không phải là để gây sốc cho con. Chấn động của con chỉ đơn giản là thực tế không thể trốn chạy rằng tâm con đã bóp méo đến chừng nào những gì được gửi xuống từ Hiện diện TA LÀ và cõi thăng thiên. Ở mức này của đường tu, sự biến dạng thật to lớn, cho nên cú sốc của con cũng to lớn như thế.

Tất nhiên, các thày sẽ giúp đệ tử đương đầu với cảm giác kinh ngạc này, vì các thày muốn nói rõ là điều đó hoàn toàn tự nhiên, và họ không có gì thua kém phần còn lại của nhân loại. Thật ra thì họ vượt trội hơn, vì tâm họ đã mở rộng hơn đa số mọi người trên trái đất. Tâm họ mở rộng hơn để hộp tư duy của họ có thể được thách thức và khuếch trương.

6.3. Vai trò của con làm biến dạng minh triết như thế nào

Mục đích thực sự của bài thực tập nói trên là để con thấy trên địa cầu không có minh triết nào là cao siêu hơn. Đầu tiên, các thày chỉ cho con thấy trong thể bản sắc là con đã khoác lấy một ý niệm bản sắc nào đó. Các thày đã từng nói đến tiến trình đầu thai và so sánh nó với tiến trình bước vào một nhà hát, mặc lên một bộ trang phục cùng với trang điểm để đóng một vai nhất định trong một vở kịch. Đây là điều xảy ra ở mức bản sắc. Đôi khi trong quá khứ, và thường thì trong quá khứ rất xa xôi, con đã nhìn vào các điều kiện đương thời của địa cầu, và mặc dù các điều kiện này thật bất toàn, con cũng đã quyết định khoác lấy một vai trò nhất định, một ý niệm bản sắc nhất định. Vai trò mà con đảm nhận khá phức tạp, nhưng để minh họa cho điều mà thày muốn giải thích ở đây, hãy cho phép thày giản dị hóa phần nào.

Giả dụ như vào thời trung cổ, con quyết định khoác lấy vai trò của một người lính Thập tự chinh Cơ đốc giáo. Cho dù động cơ của con có là gì, con quyết định là con muốn trải nghiệm cuộc đời làm một người lính Thập tự chinh đi sang Đất thánh chiến đấu để giành lại thành Jerusalem khỏi tay người Hồi giáo. Khi con mặc vào bộ trang phục này trong thể bản sắc của con, có một số khía cạnh của vai trò đó đã được ấn định bất di bất dịch, được cho là đương nhiên và không thể đặt lại thành vấn đề. Điều quy định vai trò chiến binh Cơ đốc là con không được chất vấn những giáo điều và nhân sinh quan của Giáo hội Công giáo. Những điều này hoàn toàn không thể đặt lại vấn đề.

Nếu con, với tư cách là cái Ta Biết, đứng ra ngoài vai trò đó, con có thể thấy được là Giáo hội Công giáo chỉ đưa ra một cái nhìn về thực tại trong số nhiều cái nhìn khả dĩ, và cái nhìn đó không phải là minh triết tối hậu: nó có thể được tra vấn bằng nhiều cách. Nhưng khi con bước vào bộ trang phục đóng vai trò chiến binh Cơ đốc, con không thể thấy được điều đó nữa, y hệt như khi con đeo cặp kính màu vàng thì con không thể thấy được màu trời xanh dương. Cặp kính đã thay đổi những gì mắt con nhìn thấy. Và cũng vậy, vai trò mà con khoác vào nơi thể bản sắc cũng thay đổi cách con nhìn cuộc sống. Con không thể thấy khác được.

Tất nhiên trong tư cách là cái Ta Biết, con có khả năng nối kết lại với sự thật rằng con là sự nhận biết thuần khiết, con có thể tạm thời bước ra ngoài vai trò đã chọn và trải nghiệm một thực tại nhiều hơn là những gì con nhìn thấy từ trong vai trò. Nhưng nếu con không làm được vậy thì con sẽ – trong nghĩa đen – trải nghiệm cuộc sống xuyên qua phin lọc nhận thức của vai trò đó. Bất kỳ xung lực nào đến từ cõi thăng thiên qua trung gian Hiện diện TA LÀ cũng sẽ hoàn toàn bị bóp méo bởi những hình kỷ hà đã quy định vai trò. Trước khi bất kỳ xung lực nào từ Hiện diện TA LÀ đến được tâm ý thức của con, nó sẽ bị vai trò đó biến dạng đi, khiến tâm ý thức chỉ trải nghiệm một xung lực sẽ xác nhận và chứng thực thế giới quan mà con thấy xuyên qua phin lọc nhận thức của vai trò.

Một khi đệ tử bắt đầu nhận ra điều này, họ sẽ phần nào dễ thấy hơn sự kiện là không hề có một lập luận tối hậu nào. Họ hiểu ra tại sao họ thường không thể dùng lý lẽ với người khác, tại sao họ không thể thuyết phục người khác là mình đúng và người kia sai. Trở lại với ví dụ cuộc Thập tự chinh, một bên con có các chiến binh Cơ đốc, và bên kia là người Hồi giáo cũng đang chiến đấu một cuộc thập tự chinh để thiết lập tôn giáo mình là vượt trội. Trong cõi tâm linh, không hề có dòng sống nào là dòng sống Cơ đốc, và cũng không có dòng sống nào là dòng sống đạo Hồi. Không có một sinh thể nào ở cõi thăng thiên xem mình là Cơ đốc hay Hồi giáo. Làm tín đồ Cơ đốc hay tín đồ Hồi giáo chỉ là một vai trò được quy định trên trái đất, và vai trò này bắt đầu nơi cõi bản sắc. Con không thực sự cái đó. Đó là một vai trò mà con đã bước vào, và một khi con bước vào thì con sẽ nhìn thế gian xuyên qua phin lọc nhận thức của vai trò.

6.4. Phin lọc nhận thức loại bỏ thông tin 

Con yêu dấu, phin lọc nhận thức làm gì? Giả thử con có một bộ lọc đặt vào vòi nước trong bếp để lọc nước uống. Bộ lọc làm gì? Đúng vậy, nó chặn lọc một số thứ và để cho những thứ khác chảy qua. Đây chính là bản chất và chức năng của bộ lọc. Cũng vậy, khi con bước vào một vai trò trong thể bản sắc, con mang một bộ lọc sẽ chặn lại một số thứ và để cho những thứ khác đi qua. Ở mức này, các thày chỉ cho đệ tử thấy rằng do bản chất của phin lọc nhận thức, nó sẽ lọc ra tất cả những gì đi ngược lại vai trò.

Nếu con đã bước vào vai trò chiến binh Thập tự chinh Cơ đốc, phin lọc nhận thức của con sẽ lọc bỏ đi bất kỳ xung lực nào, hiểu biết nào, minh triết nào, sáng ngộ nào đi ngược lại thế giới quan của đạo Công giáo thời trung cổ. Nếu có ai đang đầu thai đưa ra lập luận, chẳng hạn, rằng đạo Cơ đốc không phải là tôn giáo chân chính duy nhất và đạo Hồi mới chân chính do tiên tri Mohammed đã nhận được thẩm quyền này kia nọ từ Thượng đế, thì con sẽ nghe được lập luận đó bằng tâm ý thức, nhưng khả năng để cứu xét lập luận đó sẽ hoàn toàn bị phin lọc nhận thức của con chi phối. Nếu con đã bước vào vai trò chiến binh Cơ đốc, con sẽ không thể cân nhắc một cách trung lập, khách quan. Con đã khoác vào một phin lọc nhận thức, nhưng nó không ngăn cản con nghe được lập luận, mà nó sẽ lọc bỏ ra mọi ý niệm rằng lập luận đó có thể hữu lý. Thậm chí, con sẽ không thể thấy bất kỳ giá trị nào trong lập luận vì mọi giá trị và tính chất xác thực của lập luận đã bị lọc ra. Con chỉ thấy được những điều sai sót mà thôi. Con chỉ thấy được là nó sai lầm, giả trá.

6.5. Sự vô ích của lập luận 

Khi các thày đưa lên màn hình những gì xảy ra ở mức năng lượng khi hai chiến binh Cơ đốc và Hồi giáo đối đầu trong tranh luận, các học viên tương đối dễ dàng thấy được cả hai bên đều tham dự vào một chuyện hoàn toàn vô ích là cố thuyết phục, cải đạo lẫn nhau. Các thày cho thấy người đạo Cơ đốc đưa ra lập luận thuận Cơ đốc như thế nào. Các thày cho thấy ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của người đó bị lọc bỏ như thế nào xuyên qua các hình kỷ hà nằm trong bản sắc thể, và điều này tạo ra một cảm giác xác thực, chính đáng cho cái thế giới quan cấu tạo hình kỷ hà ở mức bản sắc. Rồi các thày cho thấy khi chiến binh Hồi giáo đưa ra lập luận của mình, mặc dù chiến binh Cơ đốc nghe được từng lời nói với tâm ý thức, nhưng xung lực năng lượng đã thực sự bị lọc bỏ ở các tầng tình cảm, lý trí và bản sắc. Và cái đi xuống tâm ý thức là cảm nhận rằng lập luận kia hoàn toàn vô giá trị, bởi vì mọi ý niệm giá trị đã bị loại bỏ bởi phin lọc nhận thức.

Thật không có cách nào một bên có thể thuyết phục bên kia khi cả hai người đều ở mức tâm thức này, khi họ đều không có sự nối kết nào, kinh nghiệm nào về nhận biết thuần khiết. Điều này các đệ tử đều rất dễ thấy. Và vì thế, cũng rất dễ cho họ xét lại đời mình và thấy được họ đã đâm đầu vào những cuộc tranh cãi với người khác thường xuyên như thế nào. Trong nhiều trường hợp, đây không cứ là tranh luận về triết lý để xem hệ thống tư tưởng nào đúng hơn, mà nó có thể là chuyện cãi vã giữa vợ chồng, con cái và cha mẹ, là khi con tranh luận về những vấn đề quan hệ và đời sống hàng ngày. Một lần nữa, các thày cho thấy chính phin lọc nhận thức khiến con tin rằng con tuyệt đối có lý, và nó cũng lọc bỏ mọi tính chất hữu lý trong lập luận của người kia.

Các thày cho con thấy là thực sự những loại thảo luận và tranh cãi như vậy không mang lại kết quả nào. Con chỉ sử dụng năng lực, thời gian và chú ý một cách vô ích mà thôi. Đó là tranh cãi để mà tranh cãi, và nó xuất phát từ tự ngã muốn có cảm giác an toàn tối hậu là được người khác cho mình là đúng. Tự ngã thèm khát muốn con nhảy vào những tranh luận như thế và cứ tranh luận hoài hoài, bởi vì đó là cách thức mà tự ngã và phàm linh trong tâm thức con được nuôi béo bằng năng lượng từ Hiện diện TA LÀ đã bị bóp méo và hướng vào tranh luận vô bổ.

Đây là một khai ngộ khó khăn đối với đa số đệ tử vì họ thấy rõ bao nhiêu năng lực, thời gian và chú ý đã bị họ phí phạm trong những tranh luận không có hy vọng đem lại thành quả xây dựng nào. Họ luôn luôn cảm thấy hối tiếc, ân hận vì nhận ra là mình chỉ có một lượng thời gian, năng lực và chú ý giới hạn khi mình đầu thai trong cõi vật lý. Cho nên tại sao lại đem dùng vào chuyện phù phiếm?

6.6. Làm thế nào thảo luận có thể đem lại ích lợi 

Sau giây phút sự thật và hối tiếc bắt buộc phải xảy ra, các thày cho đệ tử thấy là, thật ra, các lý lẽ đưa ra đã không hoàn toàn vô ích. Việc đầu thai trên địa cầu trong hoàn cảnh hiện tại có nghĩa là con đảm nhận một vai trò, một trang phục nào đó. Con đã hoạch định để đóng vai trò đó cho tới khi con chán ngấy trải nghiệm đó và mong muốn một cái gì hơn. Trong hầu hết trường hợp, những vai trò hiện được quy định trên địa cầu đều có một khía cạnh không thể tránh là khiến con xung đột với người khác. Con cần kinh qua một lượng tranh cãi nào đó trước khi con chán chê rồi bắt đầu tra vấn vai trò của con. Nhìn rộng hơn, các cuộc biện luận đó đã không hoàn toàn lãng phí vì chúng đưa con ngày càng gần hơn tới điểm chán ứ, và khi đó con sẽ mở tâm ra một cách tiếp cận khác. Con sẵn lòng tra vấn cách tiếp cận của mình, tra vấn vai trò của mình, tra vấn phin lọc nhận thức của mình.

Liệu đây có phải là cách duy nhất để nhìn cuộc sống? Liệu việc liên tục tranh cãi với người khác có thực là cách sống duy nhất? Liệu tranh luận có là một chức năng của cách tôi nhìn cuộc sống? Nếu tôi đã chán tranh luận với người khác, có phải cách duy nhất để thoát khỏi trạng thái này là tôi khởi sự nhìn vào chính mình, khởi sự tra vấn cách nhìn đời của mình, phin lọc nhận thức của mình?

6.7. Vai trò của con thu hút người khác cùng các trải nghiệm

Các thày cũng có thể chiếu lên màn ảnh một loại bản đồ, như thày đã từng đề cập, nơi con có thể nhìn vào trái đất, và như một bức ảnh chụp từ vệ tinh về đêm, con thấy những khu vực có nhiều ánh đèn là các thành phố lớn và vùng phụ cận. Các thày có thể cho thấy sự nối kết năng lượng giữa mọi con người, và con thấy là con sẽ thu hút những ai có cùng mức tâm thức như con, cùng vai trò như con.

Nếu con đã đảm nhận một vai trò được ấn định là đối lập với ai đó, chắc chắn con sẽ thu hút những người như vậy trong đời con. Nếu con đã khoác lấy vai trò người chiến binh Cơ đốc, hiển nhiên vai trò này được định ra để chống lại một người đạo Hồi. Vai trò sẽ không thật nghĩa lý gì nếu không có ai làm đối thủ. Rất nhiều những vai trò mà con tạo ra hôm nay phức tạp hơn hẳn, tinh tế hơn hẳn, nhưng ngay trong bản chất, chúng đã chứa sẵn một đối thủ nào đó sẽ chống lại con, để con có dịp tranh luận với họ và cãi qua cãi lại.

Miễn là con còn ham muốn trải nghiệm này thì thật chẳng có gì sai trái cả. Nhưng một khi con đã chán ứ trải nghiệm đó, cách duy nhất để con thoát ra là con bắt đầu chất vấn xem con có thực sự cần đóng vai trò đó mãi hay không, hay con là cái gì nhiều hơn vai trò, và do đó con có thể bắt đầu bước ra khỏi vai trò và nhìn cuộc sống khác hơn.

6.8. Cuộc thập tự chinh để chứng thực tự ngã 

Tới đây, đệ tử có thể bước đến một khúc ngoặt quan trọng trên đường tu. Con có thể bắt đầu đặt vấn đề liệu con có thực sự và thực lòng mong muốn tiếp tục cuộc thập tự chinh để chứng thực tự ngã của mình hay không. Trong nhiều trường hợp, cuộc thập tự chinh để chứng thực tự ngã này đã được ngụy trang như lòng vị tha để phục vụ cho một chính nghĩa cao cả nào đó. Trong một số lời dạy khác, các thày đã có nói đến tư duy cuồng đại. Giê-su, bào huynh yêu dấu của thày, đã viết một quyển sách thật thâm sâu về kịch tính của tự ngã, và cách mà tư duy cuồng đại tạo ra bi kịch với người khác như thế nào [Xem quyển Freedom from Ego Dramas]. Các thày có thể cho đệ tử thấy là trong nhiều trường hợp, chính họ có thể sử dụng một giáo lý tâm linh, thậm chí giáo lý của chân sư thăng thiên, trong cuộc thập tự chinh để thuyết phục người khác là giáo lý của mình đúng đắn. Khi con nhìn vào sâu hơn, con sẽ thấy đây chỉ là một cải trang, một ngụy trang của tự ngã muốn chứng thực chính nó.

Ở giai đoạn này, điều cần thiết là cho hoc viên thấy là họ có thể dùng cả lời dạy của chân sư thăng thiên để tiến hành cuộc thập tự chinh chứng thực tự ngã. Không có một học viên nào ở mức này đã không từng làm chuyện đó, sống qua chuyện đó. Việc con kinh qua giai đọan này là điều hoàn toàn tự nhiên. Khi đệ tử sẵn sàng với mức khai ngộ này, các thày có thể cho thấy là điều này hoàn toàn tự nhiên ở mức hiện thời của con trên đường tu. Khi lần đầu tiên con tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên, việc con trở nên nhiệt tình là chuyện hoàn toàn tự nhiên, phải phép.

Thật vậy, giáo lý của chân sư giải thích nhiều điều không được các tôn giáo chính mạch hay các triết lý duy vật giải thích, và do đó hiểu biết của con đã tăng thêm. Con thấy được nhiều điều mà trước đây con không thấy. Con tìm được nhiều lời giải đáp. Thật là tự nhiên khi ở khởi đầu, con nức lòng đến độ con ước gì ai ai cũng hiểu ra được như con thì có phải địa cầu này sẽ cải tiến biết mấy? Một số vấn nạn sẽ biến mất, và sẽ có hòa bình, thông cảm lớn hơn giữa loài người.

Điều quan trọng là con hiểu được cảm nhận đó của con không hoàn toàn sai đâu. Nếu mọi người trên trái đất mà chấp nhận một lời dạy của chân sư thăng thiên, thì quả là sẽ có sự thông cảm, cộng tác và hòa bình rộng lớn hơn. Chuyện đó không thành vấn đề; tuy nhiên, điều mà các thày muốn chỉ ra cho học viên ở mức này là khi con tham gia vào các cuộc tranh luận mà thày đã minh họa cho con, ngay cả giáo lý của chân sư thăng thiên cũng sẽ không thuyết phục được người khác để họ đi ngược lại phin lọc nhận thức của họ. Giáo lý của chân sư thăng thiên sẽ không hiệu nghiệm hơn giáo lý của Hồi giáo để thuyết phục một chiến binh Cơ đốc, bởi vì giáo lý của chân sư thăng thiên, mặc dù chứa đựng nhiều minh triết và xác thực hơn mọi giáo lý khác hiện có mặt trên địa cầu, vẫn được diễn đạt bằng ngôn từ.

Đây là điểm thày đã đề cập trong bài giảng trước. Ngôn từ chỉ là ngôn từ. Ngôn từ cần được diễn giải, và khi con diễn giải một số lời nói xuyên qua phin lọc nhận thức của con, phin lọc sẽ lọc bỏ đi tính xác thực của bất cứ lời nào đi ngược lại thế giới quan của con – bất kể lời đó đến từ cõi thăng thiên hay từ Kinh thánh, kinh Koran, hay từ một khám phá hay báo cáo khoa học nào. Phin lọc nhận thức sẽ lọc bỏ tính xác thực của bất kỳ lập luận nào đi ngược lại phin lọc cũng như vai trò đã định ra phin lọc.

6.9. Làm thế nào đệ tử vượt qua phin lọc nhận thức 

Thật là tuyệt vời cho một vị thày khi các đệ tử cuối cùng hiểu ra được điều này, thực sự nắm bắt được sự thật này! Con có thể thấy họ trút bỏ được một gánh nặng ngàn cân. Thay vì mang trọng trách phải thay đổi thế giới bằng cách cải hóa mọi người, giờ đây họ có thể bắt đầu buông xả cái ách nặng nề mà các sa nhân cùng thày giả đã đeo lên cổ họ. Nhiều đệ tử tưởng cái ách này là do các chân sư thăng thiên áp đặt. Họ tin là chính các thày đã muốn họ đi khắp nơi để cải hóa mọi người theo lời dạy của chân sư, chính các thày muốn họ đi khắp nơi đấu tranh hầu chứng tỏ rằng các giáo lý và tư tưởng khác đều lầm lẫn. Khi đệ tử cuối cùng hiểu ra và chấp nhận đó không bao giờ là mục tiêu của các thày, thì con thấy họ bỗng nhiên đứng dậy thẳng hơn. Họ cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Họ nhìn lại đời mình và chợt hiểu: “Ồ, tôi có bao giờ phải làm tất cả những chuyện đó đâu. Không phải là các chân sư muốn tôi kinh qua tất cả những tranh luận và xung đột đó, mà chỉ là tự ngã và các thày giả.”

Đó là lúc họ bắt đầu có cái nhìn khác về các thày. Như thày đã nói trong bài giảng trước, con không nhìn thày như TA LÀ. Khi con nhận ra là thày không là vị thày muốn con đi khắp nơi giao chiến vì quan điểm và dùng giáo lý chân sư để đập phá thành trì kiên cố bao quanh tâm mọi người, thì con mới bắt đầu có mối quan hệ khác hơn với thày. Gần như đây là lần đầu tiên đệ tử có thể nhìn thày với tâm cởi mở. Con có thể thấy có gì đó vừa bật lên trong tâm họ, và họ nghĩ: “Thật cái ông chân sư Lanto này là ai đây?”

Họ nhận ra là cho tới giờ, họ vẫn nhìn thày xuyên qua một phin lọc. Họ vẫn nghĩ rằng bằng cách nào đó, thày đang cố ép họ phải làm gì đó, thày đang muốn họ làm gì đó. Bây giờ họ có thể cởi bỏ cái phin lọc đó ra và nhìn thày trong nhận biết trung hòa hơn. Và tất nhiên, đây chính là giây phút mà thày chờ đợi. Như mọi chân sư thăng thiên khác, thật là điều tự nhiên khi thày muốn chia sẻ Hiện diện của thày. Thày luôn luôn vui mừng, hạnh phúc và biết ơn khi có dịp chia sẻ một biểu thị trọn vẹn hơn của Hiện diện của thày cho một đệ tử hay một nhóm đệ tử.

6.10. Nhập vào kết hợp với vị thày 

Làm thế nào con vượt qua khai ngộ của Tia sáng thứ Hai? Không phải bằng cách ngồi nghe thày nói như thể thày là một ông giáo đứng trên bục dạy dỗ con bên dưới. Con sẽ vượt qua khai ngộ của Tia thứ Hai bằng cách nhập vào kết hợp với thày. Con không thể kết hợp với thày khi con còn nghĩ thày đang bắt ép con, rằng con phải làm một số việc vì thày khắt khe. Tại sao con lại muốn kết hợp với một thày giáo như thế? Tại sao con muốn kết hợp với bất kỳ thày giáo nào?

Khi các học viên lần đầu tiên đến khoá nhập thất của thày, họ thực sự không đến với một thái độ khả dĩ có thể học được từ thày. Họ đến với nhu cầu khống chế người khác bằng minh triết. Con có nghĩ là họ chỉ làm chuyện này với các học viên khác thôi? Không đâu, con sẽ ngạc nhiên khi con biết có bao nhiêu học viên đến khóa này với mong muốn lôi kéo thày vào một cuộc tranh luận. Họ có định kiến trước về thày phải như thế nào trong cương vị Thượng sư của Tia thứ Hai, rằng Tia thứ Hai phải như thế nào, minh triết của Tia thứ Hai phải như thế nào, minh triết tối hậu phải như thế nào. Họ thường nhảy vào tranh luận để cố chứng minh những điều đó cho thày – đúng hơn, họ tranh luận một mình, bởi vì thày không tham dự vào chuyện đó. Hoặc thày sẽ giữ im lặng, và điều này sẽ khiến họ bực mình, hoặc thày cố vô hiệu hóa những câu hỏi của họ, sự phóng chiếu của họ, bằng cách đặt ra một câu hỏi.

6.11. Giảng dạy bằng cách đặt câu hỏi 

Hẳn con cũng biết nhà hiền triết Hy lạp cổ Socrates nổi tiếng vì ông không thực sự giảng dạy, mà ông chỉ đưa ra câu hỏi nhằm giúp học trò làm sáng tỏ quan điểm và chất vấn định kiến của chính mình. Socrates đã không phát minh ra phương pháp này, vì nó đã được các chân sư của Tia thứ Hai sử dụng từ rất lâu đời, và tất nhiên tất cả các tia sáng khác cũng đã sử dụng, bởi vì luôn luôn có một phin lọc nhận thức cần được chất vấn, phải không con?

Và tất nhiên, các thày cũng có một số đệ tử ở cấp thứ nhì (minh triết và giác ngộ) muốn tranh luận với thày ở một mức nào đó vì họ nghĩ thày đang áp đặt một số hạn chế lên họ, một số điều mà họ phải tuân thủ. Họ háo hức muốn cho thày thấy họ minh triết đến chừng nào, họ giỏi dùng lý lẽ đến chừng nào, họ giỏi bẻ cong một ý tưởng hay một hệ thống tin tưởng đến chừng nào, hầu chứng thực chính họ và tự ngã của họ.

Tất nhiên, điều này khiến thày không thể dạy họ bất cứ điều gì. Họ đang cố dạy dỗ thày, nhưng hiển nhiên là họ chưa thăng thiên, phải không? Thật có ít hy vọng là thày sẽ học được điều gì đó từ họ mà thày chưa trải qua trong quá trình tu tập để hội đủ tư cách thăng thiên. Một học viên cần nhiều thời gian để nhìn ra lập luận chỉ là lập luận, ngôn từ chỉ là ngôn từ, và lời nói không bao giờ đem lại thành quả quyết định. Điều này khiến học viên nhận ra: “Nhưng tôi chỉ đang tranh luận. Tôi đang tranh luận với người khác. Thậm chí tôi tranh luận cả với thày, nhưng nó không bao giờ dẫn tới một kết quả dứt khoát nào cho tôi, vì nó không khiến tôi chuyển dời tâm thức mình lên một mức cao hơn. Tôi không đang nhảy vọt từ mức hiện thời lên mức kế tiếp. Thật ra, tôi càng tranh luận thì sẽ càng khiến cho mức tâm thức hiện tại của mình đặc cứng lại.”

6.12. Các thày thăng thiên không muốn trội hơn 

Khi đệ tử nhận ra điều này, có một sự chuyển đổi, và đây là lúc họ bắt đầu nhìn thày một cách mới. Họ hiểu ra: “Chân sư Lanto thật không đang tranh luận với tôi. Thày thật không đang cố thuyết phục tôi bất cứ điều gì. Thày không đòi hỏi tôi phải chứng minh là tự ngã của mình đúng, chứng minh thế giới quan của mình đúng. Thày đang làm gì nhỉ? Thày là loại sinh thể gì nhỉ?” Đó là lúc đệ tử có thể khởi sự vượt ra ngoài cái nhìn truyền thống của địa cầu về ý nghĩa của một vị thày. Họ nghĩ là thày phải đứng đó trên bục cao trong lớp học và dạy dỗ học trò ở bên dưới. Và thày sẽ trao truyền cho họ những kiến thức mà họ sẽ nhận lấy, sẽ ghi nhớ và đọc lại thuộc lòng cho thày – và nhờ vậy họ sẽ được điểm cao.

Thày giáo trên địa cầu làm gì chứ? Phải, đa số thày giáo trên địa cầu trở thành thày giáo vì họ muốn cảm thấy trội hơn học trò. Họ tham gia vào việc giảng dạy để chứng thực tự ngã của mình. Những gì họ dạy cho học trò – những ý tưởng, niềm tin, kiến thức mà họ dạy – cũng là một tiến trình vĩ đại nhằm chứng thực một số hệ tư tưởng nào đó trên địa cầu. Một thày giáo tại chủng viện Công giáo sẽ tìm cách minh chứng thế giới quan Công giáo. Một giáo sư đại học sẽ tìm cách minh chứng thế giới quan duy vật – thường thường là vậy. Đây là chuyện chứng thực tự ngã được đưa lên quy mô toàn cầu, nhưng nó vẫn là nó thôi: sự chứng thực tự ngã. Nếu con loại bỏ đủ số bằng chứng đi ngược lại tự ngã thì con luôn luôn có thể chứng minh là tự ngã của con đúng, phải không?

Đây là điều các đệ tử bắt đầu nhìn ra, và khi họ bắt đầu nhìn ra, họ cũng nhận ra là thày không phải là loại thày đó! Thày không có nhu cầu chứng thực chính mình. Thày không có nhu cầu chứng thực một giáo lý nào đó được biểu đạt bằng ngôn từ. Thày muốn đưa đệ tử lên mức kế tiếp hầu đệ tử không còn tham gia vào tranh luận với mục đích chứng thực tự ngã, vì đệ tử nay đã gắn chặt mình vào việc sử dụng minh triết một cách cao hơn, là cách dựa trên tình thương. Có thể có một tình thương đối với người khác, nhưng cũng có thể có một tình thương đối với minh triết, không phải một cách biểu đạt nào đó bằng ngôn từ, mà một sự phối hợp tinh vi những hình dạng kỷ hà thuần khiết.

Cho tới giờ, các đệ tử chỉ mới nhìn thấy được minh triết biểu đạt bằng lời, nhưng khi họ bắt đầu thấy được mọi tranh luận bằng lời đều vô ích thì một lúc nào đó, ít ra họ sẽ thấy thoáng hiện ra minh triết vượt khỏi mọi lời nói, minh triết của những hình dạng kỷ hà thuần khiết. Khi đệ tử nhìn ra được như vậy, con sẽ thấy mắt họ sáng lên. Ồ, bây giờ, ngay bây giờ, họ vừa chạm được gấu áo của vị thày! Ngay bây giờ họ vừa nhìn thấy rằng chân sư Lanto là nhiều hơn một thày giáo đang phun ra lời nói, lặp lại những lý lẽ và quan điểm định sẵn.

Thày là một vị thày hằng sống. Thày không đầy ắp những từ ngữ. Thày đầy ắp những hình dạng kỷ hà thuần khiết đang dâng lên sùng sục từ vùng sâu kín nhất của Bản thể thày, tựa như dòng suối dâng trào từ nguồn cội trái đất, là dòng nước thanh khiết, dòng nước mang lại sự sống, là nước hằng sống của minh triết! TA LÀ cái đó. TA LÀ chân sư Lanto! Con hãy cố bắt kịp ta.

Minh triết và Uy lực

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 10/3/2014.

TA LÀ chân sư thăng thiên Lanto. Thày được biết đến như là Ngài Lanto, và thật vậy, thày là Ngài hay Thượng sư của Tia sáng thứ Hai của Minh triết Thượng đế. Tuy nhiên, thày không muốn sử dụng tên “Ngài” vì nó đã bị lạm dụng bởi cả các phong trào thế tục lẫn một số phong trào tôn giáo trên địa cầu. Thày không phải là một vị chúa tể đứng trên đầu con. Thày không nhìn con như chính con nhìn con. Thày không nhìn chính mình như là con nhìn thày.

Thày đã là một chân sư thăng thiên trong một thời gian rất dài nếu đo theo thời gian trái đất, mặc dù trong thời gian vũ trụ thì chưa đầy một chớp mắt. Thày tự xem mình chỉ mới bước vào cõi tâm linh, cho dù nếu đo theo thời gian của trái đất thì đó là một thời gian rất dài. Do đó, thày đã thăng lên tới mức tâm thức Phật, và ở mức này, thày thấy được thực tại mà thày Gautama đã giảng dạy rằng tất cả đều là Phật tánh.

Thày thấy Phật tánh nơi chính mình, và khi thấy Phật tánh nơi chính mình, thày cũng thấy Phật tánh nơi con, cho dù con chưa thấy được. Cho nên mục đích của thày, mục đích duy nhất của thày, là đánh thức con đến mức con cũng thấy được Phật tánh nơi con, Phật tánh nơi tất cả mọi thứ bao quanh con, và cả Phật tánh nơi thày, hầu con biết được rằng thực sự chúng ta là bình đẳng, như mọi sinh thể tự nhận biết đều bình đẳng trong thực tại của ánh sáng Minh triết Thượng đế.

4.1. Minh triết tối hậu

Thế nào là minh triết tối hậu? Con hãy nhìn xem từ bao thời đại, loài người đã cố đạt được minh triết, nhưng minh triết tối hậu là thấy mọi sự sống là một, thấy tất cả đều là Phật tánh, và vì thế, sự khác biệt trong hình tướng không có nghĩa là khác biệt về giá trị. Thế thì giá trị là một khái niệm hoàn toàn giả tạo được tạo nên bởi tâm, một cái tâm đã tách ra khỏi thực tại của minh triết, đã tạo ra ảo tưởng rằng nó tách biệt khỏi Phật tánh, rằng Phật tánh không ở nơi nó ở, rằng có một chỗ ở riêng biệt mà tâm tách biệt đã tạo ra và đóng chặt Phật tánh ra ngoài.

Tới một lúc trên con đường phát triển tâm linh của con, con sẽ thấy được sự nực cười của lời tuyên bố rằng có thể có cái gì tách riêng khỏi Phật tánh. Con sẽ thấy Phật tánh là tất cả và ở trong tất cả, và nếu không có Phật tánh thì không có tạo vật nào được tạo ra. Không gì có thể đứng riêng khỏi cái ở mọi nơi, cái vô điều kiện, cái thâm nhập tất cả. Tuy nhiên, thày hoàn toàn hiểu được là khi con đến khóa nhập thất của thày trên hành trình từ tầng tâm thức thứ 48 đến 96, con chưa thể thấy được điều này. Con chưa kinh nghiệm được Phật tánh, và tại sao chứ? Bởi vì con vẫn còn nhìn cuộc sống qua phin lọc nhận thức tương ứng với mức tâm thức hiện thời của con, và điều này tất nhiên cũng bình thường thôi.

4.2. Gỡ bỏ các phin lọc nhận thức của phản minh triết

Là một vị thày, vai trò của thày là giúp con đâm thủng tấm màn của phản minh triết, tấm màn do tâm tách biệt tạo ra, là tâm nhị nguyên, tâm của rắn, tâm sa ngã – hay bất cứ tên gọi nào mà con muốn gọi. Tất nhiên, các thày là chân sư thăng thiên chỉ dùng những từ đó vì các thày biết khi con còn sống trên địa cầu và nhìn mọi vật qua tâm đường thẳng, con cần một cái tên. Nhãn hiệu kỳ thực phát xuất từ tâm tách biệt. Còn các thày thì không cần đến nhãn hiệu, vì các thày kinh nghiệm thực tại của Phật tánh, là nhất tâm.

Các thày tức khắc có thể cảm thấy được khi có gì tách biệt khỏi tâm đó. Đối với các thày, tất cả những gì tách biệt, trong một nghĩa nào đó, đều giống như bóng tối vậy. Nó hoàn toàn không thực; nó hoàn toàn là một điều mà con cần vượt qua. Đối với các thày, không có chuyện đặt ra những ánh sắc đậm nhạt, những sự định giá cho rằng loại bóng tối này tốt hơn loại bóng tối kia. Cả hai đều không thực. Vì là ảo tưởng cho nên cả hai cần được bỏ lại.

Đó là vai trò của các thày. Để giữ vai trò đó, các thày cần phải đi vào, nhìn vào con, nhìn vào tâm trạng của con, nhìn vào phin lọc nhận thức đặc thù của con, nhìn vào các tin tưởng cốt lõi cấu tạo phin lọc nhận thức của con, rồi các thày cần xem đến cách giải quyết các tin tưởng đó. Khi con đạt đến một tầng tâm thức nào đó, con nhìn cuộc sống xuyên qua một phin lọc nhận thức, nhưng con có cho phép thày bàn sâu hơn không? Thày muốn gợi ý với con là khi con leo từ tầng tâm thức thứ 48 đến 96, ở mỗi bước mà con leo, con sẽ lột bỏ một phin lọc nhận thức cụ thể, một lớp vỏ cụ thể của phin lọc đó.

Khi con ở tầng 48, con nhìn cuộc sống qua những phin lọc nhận thức của tầng 48. Mỗi phin lọc trong số 48 phin lọc đó tượng trưng cho một bậc trên cái thang xoắn ốc của khai ngộ dẫn con từ tầng tâm thức thứ 48 đến 96. Thày không nói là khi con ở tầng 96, con sẽ không còn phin lọc nhận thức nào nữa, vì con sẽ khởi sự một tầng cấp mới nữa, một lớp vỏ nữa, khi con đi muốt 48 phin lọc nhận thức giữa tầng 96 và 144.

Sẽ rất hữu ích cho con nếu con biết – và chắc chắn con sẽ học được điều này khi con đến khóa nhập thất của thày – rằng vai trò, tiến trình mà con đi qua chính là sự lột bỏ từng phin lọc nhận thức một. Điều này sẽ giúp con hiểu, khi con ở một tầng tâm thức nào đó, rằng con không thể lập tức lột bỏ tất cả mọi phin lọc nhận thức mà con đang nhìn xuyên qua. Có thể là con còn 40 cái phin lọc mà con đang nhìn qua. Con không thể lột bỏ cả 40 cái đó cùng một lúc. Nếu điều này xảy ra, con sẽ mất đi ý niệm bản sắc của con, con sẽ mất hết phương hướng, con sẽ mất cảm giác liên tục, con sẽ mất ý niệm bản ngã của mình. Con không thể nào lập tức chuyển vọt từ một ý niệm bản ngã vô cùng phàm phu lên ý niệm về cái ta của cá thể trụ neo nơi Hiện diện TA LÀ của con. Điều này không thể làm được; con cần bước từng bước một, lột bỏ từng phin lọc nhận thức một.

Điều này tạo cho con một tinh thần kiên nhẫn, như thày Giê-su có nói: “Trong kiên nhẫn, con giữ được linh hồn mình.” Khi một đệ tử mới đến khóa nhập thất của thày để khởi sự tiến trình thăng thiên dưới sự hướng dẫn của Tia sáng thứ Hai, đệ tử đó thường phần nào thiếu kiên nhẫn. Đây là chuyện tự nhiên thôi, vì con vừa mới vượt qua các khai ngộ, bảy lớp khai ngộ, dưới sự chỉ đạo của chân sư MORE yêu dấu của thày, cũng như của tia sáng thứ nhất của Uy lực và Ý chí Thượng đế. Con cần trau dồi một ý chí, một sự quyết tâm nào đó, con cần có một uy lực nào đó thì mới vượt qua được những khai ngộ đó. Điều này tự nhiên và cũng đúng đắn thôi, nhưng một trong những sáng ngộ quan trọng nhất mà con học được về đường tu tâm linh là con đường này có nhiều giai đoạn. Điều gì giúp con vượt qua một giai đoạn nào đó sẽ không giúp con vượt qua giai đoạn kế tiếp.

4.3. Thử thách tại khóa nhập thất Tia sáng thứ Hai

Thày có nhiều đệ tử đến với khóa Nhập thất tại Royal Teton nghĩ rằng họ có thể dùng uy lực đó để vượt qua các khai ngộ của Tia thứ Hai. Họ đã lấy trớn từ Tia thứ Nhất và họ nghĩ họ đã nắm vững uy lực đó. Họ tưởng sẽ chỉ là chuyện sử dụng quyền năng của mình, nghị lực của mình, động lượng của mình, quyết tâm của mình, rồi xông vào học hỏi và học hỏi cho đến khi mình tìm thấy quyển sách bí mật, sáng ngộ bí mật, minh triết bí mật, sẽ phóng mình lên điều ngự Tia thứ Hai. Hỡi con yêu dấu, đây quả là một thách đố cho thày. Trong một nghĩa nào đó, đúng là các thày mong muốn loại học trò như thế, háo hức học hỏi, háo hức cầu tiến, thế nhưng chính sự háo hức này sẽ khiến họ rất khó lòng tinh tấn hơn, đặc biệt trong Tia thứ Hai của Minh triết Thượng đế.

Thách đố lớn mà các thày phải đối mặt trong tư cách là chân sư thăng thiên, chính là sự kiện các thày đã thăng thiên. Các thày đã gỡ bỏ mọi phin lọc nhận thức của con người trên địa cầu. Các thày đã vươn lên một giai đoạn tâm thức cao hơn. Các thày phải đối diện với một thách thức vô cùng tế nhị khi giúp các con đi qua cùng tiến trình đó để vươn lên mức tâm thức của các thày.

Thách thức là các thày không thể cho con một cái nhìn chính xác về sự khác biệt giữa trạng thái tâm thức của con và trạng thái tâm thức thăng thiên. Giản dị là con không thể hiểu thấu được tâm thức thăng thiên như thế nào khi con còn nhìn cuộc sống qua vô số phin lọc nhận thức của con. Các thày không thể cho con một cái nhìn chính xác về sự khác biệt đó, về khoảng cách đó, giữa hai trạng thái tâm thức thăng thiên và chưa thăng thiên. Nếu các thày truyền đạt được điều này cho con thì con sẽ nản lòng thôi. Con sẽ nghĩ chuyện đó gần như vô vọng bởi vì khoảng cách to lớn đến độ dường như con không thể bù lấp nổi.

Tất nhiên là chuyện đó không bất khả thi đâu, nhưng khi con đi từ mức tâm thức phàm phu thấp kém lên đến trạng thái tâm thức thăng thiên, thì quả thực đó là một sự chuyển hóa khó tin hoàn toàn. Để minh họa cho con một cách đường thẳng, con hãy tưởng tượng có hai người bị đui mù từ khi lọt lòng mẹ. Đột nhiên, một người được ban cho khả năng thị giác và nhờ vậy thấy được thế giới y như con đang thấy. Hãy tưởng tượng người đó phải mô tả thế giới mình vừa khám phá ra cho người kia hiểu được.

Hãy tưởng tượng con phải tả chân thế giới mà con đang nhìn cho một người mù bẩm sinh chưa bao giờ thấy được thế giới con đang thấy, một thế giới mà con coi là hoàn toàn đương nhiên. Cũng vậy, khoảng cách giữa hai trạng thái tâm thức thăng thiên và chưa thăng thiên cũng to lớn đến độ không một lời nào có thể diễn tả sự khác biệt để người chưa thăng thiên có thể hiểu được.

4.4. Các chân sư thăng thiên giao tiếp như thế nào

Ngay lúc này, con đang nghe hay đang đọc những lời phát xuất từ thày nơi cõi thăng thiên. Con có thể cho rằng thày đang đứng đây ở một cõi cao hơn, hoặc có thể thày đang ngồi ở cõi cao này và đang thốt ra những lời nói mà sứ giả tiếp nhận được rồi biểu đạt qua giọng nói trong cõi vật lý. Nhưng không phải vậy đâu con. Thày không đang ngôi đây thốt ra lời nói, bởi vì ở cõi thăng thiên, các thày không giao tiếp qua lời nói. Các thày giao tiếp một cách khác hẳn đến độ con không làm sao mường tượng được với tâm chưa thăng thiên. Có thể nói là các thày giao tiếp qua tư tưởng, nhưng nói vậy cũng không chính xác bởi vì tư tương của con khác hẳn với cách các thày suy nghĩ.

Cách giao tiếp của các thày toàn diện và bao trùm tất cả. Các thày không chỉ giao tiếp qua tư tưởng mà qua cả tình cảm, cảm thọ, trải nghiệm. Trong lúc này khi thày trao cho con bài truyền đọc này, quả thực là thày đang thị hiện sự Hiện diện của thày tại một địa điểm cụ thể của cõi tâm linh thấp và cõi ê-the cao. Thày đang tập trung tinh túy của thày, tinh túy của tâm thày, nơi một “địa điểm” – theo danh từ mà con thường dùng. Thày đang biểu lộ một xung lực có thể được hướng về bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất, là các tầng bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý. Rồi thày hướng xung lực này vào bốn tầng trong tâm của sứ giả, và xung lực sẽ lần lượt đi xuống các tầng bản sắc, lý trí và cảm xúc của sứ giả, cho tới khi nó xuống đến tầng tâm ý thức nơi nó được biểu đạt qua những lời nói mà con nghe hay đọc được. Nơi bốn tầng của thế giới vật chất, lời nói đã được phú cho những lớp quần áo, bởi vì cái mà thày gửi ra không phải là lời nói mà là một phương thức giao tiếp toàn diện.

4.5. Hãy với lấy cái tinh túy sâu xa đằng sau lời nói

Con đã quá quen thuộc, con đã bị lập trình, đến độ con chờ đợi sự giao tiếp sẽ diễn ra dưới hình thức lời nói. Thử thách lớn nhất cho thày là thày phải nói bằng lời mà con có thể nghe thấy hay đọc được, bởi vì nếu không thì con sẽ không thể nắm bắt bất cứ xung lực nào từ mức tâm thức của thày. Điều mà thày mong muốn truyền đạt cho con thật ra không phải là lời nói, hay cái ý nghĩa mà tâm đường thẳng gán cho lời nói đó. Điều mà thày cố truyền đạt cho con là một sự chiêm nghiệm, một cái nhìn hé thoáng, về sự giao tiếp toàn diện mà thày đang phóng ra từ mức tâm thức của thày đến mức tâm thức của con.

Chính sự trải nghiệm nội tâm, thần bí, toàn diện này sẽ biến đổi tâm thức của con; không phải lời nói và cũng không phải ý nghĩa. Con có thể nghĩ, thật là vô nghĩa khi thày dùng lời nói để bảo con không nên chú ý đến lời nói, thế nhưng thày không đang bảo con không nên chú ý đến lời nói hay ý nghĩa. Thày muốn nói là con không được dành độc quyền sự chú ý của con cho lời nói và ý nghĩa của lời nói. Con cần dành một phần sự chú ý của con để vượt xa hơn lời nói, hầu con có thể chiêm nghiệm được, cho dù chỉ trong một thoáng, bản chất toàn diện và bao trùm tất cả của sự giao tiếp của thày.

Mục đích chính của loạt sách này là trao cho con những dụng cụ để con nắm bắt được, trong ngoại tâm của con, một số đặc tính tối thiểu của một tia sáng nào đó, hầu con có thể hoà điệu với tia sáng đó, và khi tâm con rời thân xác trong giấc ngủ, con có khả năng du hành đến khóa nhập thất của các thày nơi cõi ê-the. Con cần hiểu rằng khi con rời thân xác – và xin con lưu ý, thày đang không dùng từ “con” một cách giới hạn – con cũng đem theo con những phin lọc nhận thức của con. Điều này có nghĩa là khi con gia nhập lớp học trên cõi ê-the, con chờ đợi sẽ gặp một số điều mà con vẫn quen thuộc trên địa cầu.

Con có bắt đầu hiểu được thử thách mà thày phải đối mặt? Nhiệm vụ của thày là giúp con vượt ra ngoài phin lọc nhận thức của con, nhưng khi con đến nhập học thì con lại đến với phin lọc nhận thức, và con kỳ vọng là ở một mức độ nào đó, thày sẽ xác thực nhận thức của con về cuộc sống. Khi con đạt tới một tầng tâm thức nào đó, chẳng hạn tầng thứ 58, các thày không thể đập vỡ tất cả mọi phin lọc của con. Ở mức đó, nhiệm vụ của thày không phải là đập vỡ tất cả mọi phin lọc, mà chỉ là cố giúp con vượt qua cái phin lọc tương ứng với nấc tâm thức đó hầu con có thể bước lên nấc kế tiếp.

Khi con đến với khóa nhập thất, các thày sẵn sàng giúp con gỡ bỏ phin lọc tương ứng với mức tâm thức hiện thời của con, nhưng đây là câu hỏi chủ yếu: “Thế con có sẵn sàng buông bỏ phin lọc đó hay không?” Đây là câu hỏi tối quan trọng, và thày đưa nó ra ngay lớp học đầu tiên bởi vì nó sẽ định đoạt khả năng con bước vào nhập thất tại Royal Teton và khởi sự học tập dưới sự hướng dẫn của thày.

4.6. Minh triết không phải là một vũ khí

Trong số các học viên, có một tỷ lệ nào đó bị mắc kẹt trong một vùng đất hoang. Họ đã qua được các khai ngộ của Tia thứ Nhất nhưng họ lại quá nhiệt tình trong việc áp dụng quyền năng đến nỗi họ không thể chuyển tiếp sang các khai ngộ của Tia thứ Hai. Họ lao vào, và họ gồng mình để cố vượt qua minh triết, vượt qua khai ngộ của Tia thứ Hai. Họ giống như rất nhiều sinh viên nhập đại học khắp thế giới, cứ tưởng rằng nếu mình chỉ lo học, chất đầy và lập trình tâm mình với tất cả hiểu biết đó – kiến thức đó, khả năng ghi nhớ và học thuộc lòng đó – thì mình sẽ thi đậu. Nhưng đây không phải là cách vận hành của khóa nhập thất Tia thứ Hai.

Minh triết Thượng đế không phải là sự khôn ngoan nhân thế. Nếu con đến với khai ngộ Minh triết Thiêng liêng mà lại phóng chiếu hình ảnh của hiểu biết phàm phu, thì con sẽ không thể thực sự tham gia vào cuộc khai ngộ. Đó là tại sao bước đầu tiên mà thày dẫn con đi qua là giúp con gỡ bỏ cái phin lọc nhận thức vô cùng phổ biến trong thế gian cho rằng minh triết có thể được sử dụng làm vũ khí.

Tiếc thay, có khá nhiều học viên đã củng cố cho phin lọc nhận thức này khi họ đi qua các khai ngộ của Tia thứ Nhất. Chân sư MORE biết rõ vấn đề này. Thày MORE cố gắng hết sức để giúp đệ tử đừng tăng cường phin lọc lạm dụng minh triết đó, nhưng thày ấy không có nhiều chọn lựa, bởi vì ở tầng 48 hay 52, con chưa sẵn sàng gỡ bỏ phin lọc nhận thức này. Con sẽ chưa sẵn sàng cho tới khi con đến với Tia thứ Hai và mức khai ngộ đầu tiên của Tia thứ Hai.

Chân sư MORE không thể thực sự dẫn con qua cuộc khai ngộ này. Thày MORE dư biết con mang phin lọc đó, và thày chỉ có thể cố giúp con tránh tăng cường nó mà thôi, nhưng một số đệ tử lại không nghe theo. Họ sử dụng uy lực, sử dụng động lượng mà họ đã đạt được trong khai ngộ của Tia thứ Nhất để củng cố phin lọc đó. Và bây giờ khi họ đến với khóa nhập thất của thày đây, thì họ chờ đợi là họ sẽ tìm thấy một số điều minh triết, họ sẽ học tập thật siêng năng đến độ họ trở nên tốt đẹp hơn, giỏi giang hơn, thông minh hơn, hiểu biết hơn các đệ tử khác.

Họ hành xử y như con thấy rất nhiều người hành xử trên thế giới. Họ hành xử như con thấy các nhà trí thức hành xử mọi lúc, khi họ biến cuộc thảo luận thành một loại tranh tài để xem ai là người khôn ngoan, thông minh nhất, ai là người có khả năng ứng đáp tài tình nhất. Nhất định phải có một phe đối lập, nhất định phải có điều gì đúng và điều gì sai. Và những ai biết được cái đúng thì phải khống chế những kẻ không có hiểu biết đó, khống chế những kẻ không có cùng cái nhìn về cuộc sống và do đó bắt buộc phải sai lầm, phải giả trá, phải thuộc về ác quỷ. Những kẻ này bắt buộc phải là kẻ lừa dối, có chủ ý đánh lừa, khuynh loát người khác, và chúng ta phải khống chế họ bằng minh triết của chúng ta.

4.7. Lời nói là dụng cụ để thăng vượt

Đó là những gì con có thể thấy xảy ra trong thế gian. Đó là một cách phản ứng rất phổ biến, có đúng không con? Có thể là con đã nhận ra chính con, hoặc ít ra một số người trong giới tâm linh đã tham gia vào trò khống chế người khác như vậy? Trong số các con, có bao nhiêu người tin rằng sự hiểu biết tâm linh của mình – cho dù nó đến từ các chân sư thăng thiên hay từ những giáo lý hay vị thày khác – cao siêu hơn mọi người khác? Một lần nữa, đây là một thách đố mà các thày phải đối diện. 

Thày không đang nói là minh triết mà các thày trao cho con không thực, không đúng, không có giá trị, tuy nhiên đây không phải là minh triết tối hậu, bởi vì minh triết tối hậu vượt khỏi mọi ngôn từ. Nó toàn diện, nó bao trùm tất cả, nó là một sự chiêm nghiệm. Điều mà thày trao cho con, điều mà các thày trao cho con qua các giáo huấn này, chỉ là ngôn từ, và khi ngôn từ được diễn dịch, bản chất toàn diện, bao trùm tất cả của nó bị phần nào đánh mất. Điều này không có nghĩa là lời nói không đáng giá gì cả, nhưng lời nói chỉ là dụng cụ để con thăng vượt. Khi con lấy một lời điễn đạt, cho dù là từ Kinh thánh hay từ một bài truyền đọc của chân sư thăng thiên, rồi con biến nó thành một chân lý tuyệt đối, thì con đã đánh mất minh triết, Minh triết Thiêng liêng. Con đã thu được sự hiểu biết nhân thế, hiểu biết phàm phu, nhưng thật sự nó khó lòng thay thế được hiểu biết đích thực. Đây là điều mà con cần bắt đầu nhận ra ở mức khai ngộ đầu tiên tại khóa nhập thất Royal Teton.

4.8. Khai ngộ thứ nhất tại Nhập thất Royal Teton

Các thày nhận các học viên, sắp xếp vào từng nhóm, xong yêu cầu học viên thảo luận về một đề tài nào đó. Lúc đầu, các thày chỉ yêu cầu họ thảo luận dựa theo những gì họ đã biết sẵn. Một câu hỏi được đặt ra, ví dụ: “Làm thế nào con người có thể biết được một điều gì? Làm thế nào con biết được điều con biết là thực, là đúng, là hữu lý?” Đây là câu hỏi mà các nhà hiền triết đã từng tranh luận từ hàng bao thế kỷ. Sẽ hữu ích cho con nếu con đã có nghiên cứu đôi chút về triết học và tìm hiểu xem các triết gia nói gì về đề tài này, bởi vì đây chính là việc mà con sẽ làm ở cấp đầu của khóa nhập thất.

Sau khi các học viên đã thảo luận sơ khởi dựa trên hiểu biết sẵn có, thày yêu cầu họ vào thư viện của thày để tìm xem các triết gia trên thế giới đã cố giải quyết vấn đề này như thế nào. Sau đó thày yêu cầu mỗi người hãy chọn ra một triết gia, rồi họ lại tụ lại để thảo luận chung quanh ý tưởng của các triết gia đó. Xong thày yêu cầu các học viên cứ tiếp tục thảo luận. Thày không đưa ra hướng dẫn hay trợ giúp nào. Và tất nhiên, các học viên lao vào công việc này một cách vô cùng sốt sắng, và sốt sắng nhất là những người đã mang theo động lượng của uy lực để chuyển vào minh triết.

Các học viên này chọn ra một triết gia mà họ tin là có cái nhìn đúng đắn, là nắm được chân lý duy nhất, rồi họ liên tục đưa ra luận cứ dựa theo chân lý của triết gia này, như thể sự thật của vị ấy thực sự là cách nhìn cao nhất về vấn đề này, như thể đó thực sự là sự thật tuyệt đối vậy. Họ tranh luận với nhau, nhưng các học viên khác cũng cho rằng triết gia của mình mới nắm giữ chân lý cao nhất cho nên họ cũng ngồi lại, và cứ vậy dần dần có một số phe nhóm hình thành. Trong nhiều trường hợp, các học viên khởi sự với nhiều quan điểm khác nhau, nhưng dần dà một số quan điểm bị loại bỏ, và cuối cùng chỉ còn lại hai phe chính đối đầu với nhau.

Con sẽ thấy khi con nghiên cứu triết học, hầu như trong mọi vấn đề đều có hai trường phái tư tưởng chính yếu. Một là Cha, một là Mẹ; một là sự tha hóa của Cha và một là sự tha hóa của Mẹ; lực lan ra và lực co lại. Các thày cứ để yên cho họ tranh cãi cho thỏa thích, và thày có thể nói với con là thật may mắn làm sao khi các thày, những vị thày hướng dẫn tại khóa Nhập thất Royal Teton, đã đạt được tâm Phật.

Thật là đáng kinh ngạc khi chứng kiến các học viên ngồi đó tranh cãi với nhau lâu đến như vậy trước khi họ hiểu ra là có lẽ đã đến lúc họ phải tìm một cách tiếp cận nào khác hơn cho vấn đề, bởi vì không có phe nào có khả năng thuyết phục được phe kia là mình đúng. Nếu có học viên nào bắt đầu đặt lại vấn đề tự thân cuộc tranh luận, đặt lại vấn đề tự thân cái tư duy đã dẫn tới tranh luận, thì học viên đó đã sẵn sàng tiến sang bước kế tiếp.

Đôi khi khóa học khởi sự với một nhóm đệ tử khá đông. Các thày cứ để yên cho họ tranh luận và thay phiên nhau trình bày quan điểm của mình, và các thày chỉ quan sát mà thôi. Khi có một đệ tử bắt đầu chất vấn chính cuộc tranh luận, chất vấn khuôn khổ tư duy đằng sau cuộc tranh luận, thì lúc đó các thày có thể kéo đệ tử đó ra ngoài. Đệ tử này có khả năng đi lên mức kế tiếp, là mức nơi khai ngộ về minh triết không còn được biểu đạt qua uy lực, mà minh triết được biểu đạt qua chính Tia sáng thứ Hai của minh triết.   

4.9. Các học viên không qua được khai ngộ đầu tiên

Còn đối với các học viên nào không chất vấn cuộc tranh luận, các thày sẽ để yên cho họ tiếp tục tranh luận. Thường chuyện này có thể kéo dài khá lâu, nhưng lần lượt các đệ tử sẽ từ từ được kéo ra ngoài, và trong nhiều trường hợp, cuối cùng sẽ chỉ còn lại đúng hai học viên. Đây chính là hai người đã trở thành kẻ lãnh đạo phe nhóm của mình, là hai người đã phát biểu về minh triết với nhiều uy lực nhất và cũng là hai người tin chắc nhất rằng mình đúng, rằng chỉ có thể có một chân lý duy nhất mà thôi. Và đó chính là tại sao họ lại biện luận quan điểm của mình hùng hồn đến như vậy.

Con sẽ ngạc nhiên khi thấy những học viên hùng hồn như thế có thể tiếp tục tranh luận lâu đến như vậy. Con sẽ ngạc nhiên khi thấy họ nhiều lần trở vào thư viện, tra khảo sách vở để tìm ra cho bằng được cái lý lẽ tối hậu. Và quả thật, điều đã từng xảy ra là các học viên này tới mức không chịu thua nhau, giận dữ nhau, rồi họ bỏ đi, không phải chỉ bỏ khóa nhập thất này, mà bỏ hẳn luôn cả tiến trình khai ngộ.

Một số đã rơi xuống tầng tâm thức ở dưới tầng 48 tương ứng với tầng của họ, bởi vì họ đã không thể buông nhả nỗ lực sử dụng minh triết để khống chế đối thủ của mình. Điều này không xảy ra thường lắm nhưng nó có thể xảy ra, bởi vì ở mỗi tầng tâm thức giữa 48 và 96, con có khả năng rơi xuống tầng đối xứng ở dưới tầng 48. Điều này xảy ra khi con tha hóa cuộc khai ngộ ở mức tâm thức hiện thời của con qua sự tức giận hay sợ hãi, hay một cảm xúc tiêu cực nào khác. Con cứ biểu lộ cảm xúc này ngày càng cực đoan hơn mà không sẵn lòng tra vấn xem có cách nào khác hơn, có cách nào không dẫn đến bực dọc.

Thày muốn con biết là nếu con nhìn vào các sinh hoạt công cộng trên trái đất này, con sẽ thấy trong thời đại hôm nay có những con người tương tự như thế. Con sẽ tìm thấy họ trong giới truyền thông, trên chính trường cũng như trong các lãnh vực khoa học, các tổ chức giáo dục như viện đại học chẳng hạn. Họ là những người ham mê tranh luận trí thức. Họ thường xem mình có kiến thức và hiểu biết cao siêu, nhưng đây là sự hiểu biết nhân thế, hiểu biết nhị nguyên. Hiểu biết như vậy không bao giờ giải quyết được việc gì. Thày có thể nói với con là một số người hiện đang viết lách về một đề tài nào đó, đã làm chuyện này từ lâu lắm rồi. Có thể họ đang viết sách để biện bác chống lại một quan điểm nào đó, nhưng họ không vừa mới bắt đầu làm chuyện này trong kiếp này đâu. Họ đã làm chuyện này từ nhiều kiếp trước rồi.

Ngày nay có những người đang đầu thai trong các giới trí thức đã từng đầu thai làm thày thông giáo và người Pha-ri-si cách đây 2000 năm. Vào thời đó, chính họ đã sử dụng sự khôn ngoan phàm phu của họ để biện bác chống lại Giê-su khi thày đứng trước mặt họ như đấng Ki-tô Hằng sống. Một số người đầu thai ngày nay cũng chính là người Bà la môn Ấn giáo thuở trước đã biện bác chống lại Gautama khi thày xuất hiện trước mặt họ trong xác thịt. Họ biện bác rằng đức Phật làm sao có lý được khi bảo tất cả đều là Phật tánh, bởi vì lời này đi ngược lại kinh điển của họ thời đó, cho nên họ phải đem tất cả nghị lực và tài ba trí thức ra để mà bác bỏ.

4.10. Trải nghiệm Tánh linh của Minh triết

Đó chính là khuôn nếp lạm dụng minh triết qua quyền năng. Con nâng cao một lời diễn đạt thành một dạng minh triết cao hơn, rồi con phóng chiếu nó ra để bắt buộc tất cả mọi thứ phải tuân thủ minh triết này. Thậm chí con còn phóng chiếu ra để buộc cả Phật Hằng sống lẫn Ki-tô Hằng sống cũng phải tuân theo phin lọc nhận thức của con. Phật Hằng sống và Ki-tô Hằng sống đã đến đây để giúp con thoát ra khỏi hộp tư duy kín mít của phin lọc nhận thức của con. Cái hộp bị đóng kín vì con đã lấy một lời tuyên bố về minh triết rồi vận dụng quyền năng để nâng nó lên địa vị tuyệt đối. Lời tuyên bố minh triết của con có thể hoàn toàn hữu lý, nó có thể đúng, nhưng nó không phải là cách duy nhất để mô tả thực tại. Nó không phải là chân lý duy nhất, bởi vì không hề có chân lý duy nhất. Bất kỳ lời diễn đạt nào cũng chỉ là một cách mô tả, nhưng điều này không có nghĩa là mọi lời diễn đạt đều thực hoặc có giá trị như nhau. Có những lời diễn đạt lầm lẫn, nhưng cũng có nhiều hơn một lời diễn đạt là thực, đúng, hữu lý và hữu ích. Diễn đạt chỉ là diễn đạt; nó chỉ là những cách mô tả có khả năng giúp con thăng vượt ngôn từ và đạt được sự chiêm nghiệm toàn diện về Tánh linh của Minh triết, là tánh linh đã nảy sinh ra Lời, nhưng lại là nhiều hơn lời nói, nhiều hơn hình tướng.

Hỡi con yêu dấu, đây là sự khác biệt giữa những ai vượt qua được khai ngộ đầu tiên của Tia thứ Hai và những ai bị rớt lại. Những học viên này sẽ phải tiếp tục lạm dụng quyền năng của mình bằng cách cố nâng một lời diễn đạt lên thành chân lý tuyệt đối tối thượng mà mọi người trên địa cầu phải tôn trọng, tuân thủ và thờ phượng. Chính đó là thử thách đầu tiên trong các khai ngộ của Tia thứ Hai. Một khi con qua được các khai ngộ của Tia thứ Nhất, con cũng sẵn sàng vượt qua thử thách này ở mức nội tâm. Nhiều người đọc đến đây cũng đã qua được cuộc khai ngộ ở mức nội tâm. Nhưng câu hỏi chủ yếu ở đây là: “Liệu ngoại tâm của con đã hòa điệu được với tinh tấn nội tâm của con hay chưa?”

Liệu con đã nhận ra được, với ngoại tâm ý thức của con, rằng mọi cách diễn đạt bằng ngôn từ chỉ là môt cách khả dĩ để mô tả thực tại vượt khỏi mọi ngôn từ? Đó không là chân lý duy nhất. Đó không là cách diễn đạt duy nhất, và do đó con không được biến nó thành một chiếc hộp tư duy đóng kín. Nếu con đóng hộp tư duy con lại, thì thày, Lanto, sẽ không thể dạy con. Nếu vậy thì con cần đi về và học hỏi từ Trường đời Cay đắng, nơi con sẽ giao chiến với người khác và tiếp tục xung đột như thế trong nhiều kiếp đầu thai nữa, cho đến khi con sẵn sàng chấp nhận rằng một lời diễn đạt nào đó, cho dù hay ho đến đâu, cũng chỉ là một cách mô tả cái mà thực sự không có lời nào có thể mô tả được.

Ngay cả Lời của Thượng đế cũng không thể nắm bắt hết sự viên mãn của Thượng đế. Ngay cả lời nói của Lanto cũng không thể nắm bắt được sự viên mãn của tánh linh mà TA LÀ. Nếu con cho rằng con có thể biết được thày qua lời nói, thật là con chưa biết thày chút nào. Nhưng nếu con sử dụng lời nói của thày như một phương thức để hòa điệu chiếc máy thâu thanh của tâm con với Hiện diện của thày, thì thày sẽ chia sẻ Hiện diện của thày với con. Và như vậy con sẽ vượt qua cuộc khai ngộ nhằm gỡ bỏ phin lọc nhận thức đầu tiên của con trên Tia sáng thứ Hai của Minh triết.

TA LÀ Lanto. TA LÀ một tánh linh. TA LÀ nhiều hơn tất cả những gì có thể biểu đạt qua lời nói, và thày khao khát chia sẻ với con cái nhiều hơn đó. Trước khi thày có thể làm được vậy, con phải sẵn lòng từ bỏ bất cứ lời diễn tả nào mà con cho là sẽ mô tả thày, hay mô tả Thượng đế, hay mô tả thực tại tâm linh, hay mô tả cuộc sống trên địa cầu. Con hãy dùng những từ này mà thày trao cho con để con mở tâm ra một chiêm nghiệm hoàn toàn vượt khỏi ngôn từ. Lanto TA LÀ. “Lanto” chì là một từ. “TA” chỉ là một từ. “LÀ” chỉ là một từ. TA LÀ nhiều hơn. Con hãy biết thày là cái nhiều hơn đó thì con cũng sẽ biết con là cái nhiều hơn.

Phân biện thực với không thực

Bài giảng của chân sư thăng thiên Lanto qua trung gian Kim Michaels, ngày 9/3/2014.

TA LÀ chân sư Lanto, Thượng sư của Tia sáng thứ Hai. Tia thứ Hai thường được xem là tia sáng của Minh triết Thượng đế. Khi thày nói “Minh triết Thượng đế”, có bao nhiêu người sẽ chú tâm vào từ “minh triết” mà quên mất từ “Thượng đế”? Nhiều người nghĩ rằng minh triết có nghĩa là trí tuệ thế gian, bởi vì làm sao họ có được một khung tham chiếu nào khác hơn để mường tượng ra Minh triết Thượng đế? Nhiều người đã ôm giữ một tượng thờ làm hình ảnh về Thượng đế, và ngay cả khi họ nghĩ đến một minh triết vượt khỏi trí tuệ con người, thì họ cũng chỉ nhìn thấy được một minh triết được gán ép vào hình ảnh giả trá đó về Thượng đế, là hình ảnh mà họ đã thờ phượng từ nhiều thế kỷ, nhiều thiên niên kỷ đã qua, thậm chí từ trước cả lịch sử ghi chép.

Quả vậy, có thể nói rằng vấn đề chủ yếu trên địa cầu là hình ảnh giả trả về Thượng đế mà con người đã có từ khi các thiên thần sa ngã nguyên thủy đi xuống trái đất này lần đầu tiên. Chúng đã truyền bá hình tượng riêng của chúng về một ông thần ở bên ngoài, với bất kỳ hình dạng nào mà chúng có thể sử dụng để quyến rũ con người vào thời đó.

Làm sao con có thể biết được Minh triết Thượng đế nếu con không biết đến cả Thượng đế, nếu con nghĩ rằng Thượng đế có thể nằm gọn trong cái hộp tư duy nhỏ xíu đã được tạo ra ở đây trên địa cầu, hay đã được tạo ra ở ngoài địa cầu bởi các sinh thể sa ngã khi chúng cho rằng chúng có thể điều khiển vũ trụ giỏi hơn Thượng đế? Thày có thể đoan chắc với con là nếu các thiên thần sa ngã đã được giao phó nhiệm vụ điều hành vũ trụ, thì từ lâu, vũ trụ đã tự hủy diệt qua cơ chế được mô tả trong định luật thứ hai của nhiệt động học. Có một sức mạnh sẽ phá vỡ bất kỳ hệ thống nào chứa đựng mâu thuẫn nội tại, bởi vì hệ thống đó dựa trên trí tuệ giả trá do tâm thức nhị nguyên tạo dựng – cái mà các thày đã gọi là tâm rắn [serpentine mind, hay tâm lý luận quanh co].

3.1. Một lời mời đặc biệt tham dự lớp nhập thất tại Royal Teton 

Với tư cách là Thượng sư Tia thứ Hai, thày đến đây để đề nghị với con là nếu con đọc các bài thỉnh trong quyển sách này, con sẽ được mời tham dự một khóa tu học đặc biệt tại Nhập thất của thày ở Royal Teton. Điều này sẽ giúp những ai đã sẵn sàng, những ai sẵn lòng nhìn xuyên thấu trí khôn của rắn, nhìn xuyên thấu cái cơ chế mà qua đó những sinh thể đã bước ra sau tấm màn nhị nguyên nghĩ rằng họ có khả năng tạo ra định nghĩa riêng của họ về minh triết. Lần hồi, tùy theo mức tâm thức của con, con sẽ được chỉ dẫn để giải phóng tâm con cho không còn những ý tưởng vi tế đã được sa nhân cài đặt vào tâm thức tập thể trong nỗ lực gài bẫy loài người vào niềm tin phổ biến nhất trên địa cầu – là niềm tin rằng: “Chúng tôi nắm sự thật tuyệt đối. Chúng tôi biết cái gì là thực, chúng tôi biết cái gì là chân, chúng tôi biết Thượng đế có hiện hữu hay không, và Thượng đế đó như thế nào.” Thượng đế đó hiện hữu như được mô tả trong tôn giáo của chúng tôi. Hoặc Thượng đế đó không hề hiện hữu theo tôn giáo của chúng tôi là chủ nghĩa duy vật.

Đây là một lời mời đặc biệt dành cho những ai sẵn lòng đọc các bài thỉnh trong quyển sách này và sau đó, trước khi đi ngủ, thỉnh cầu mình được đưa tới khóa Nhập thất tại Royal Teton nằm bên trên rặng núi Teton, tiểu bang Wyoming tại Hoa Kỳ. Ngọn núi cao nhất trong rặng nui này mang tên Royal Teton, và đó chính là nơi con sẽ tìm thấy những cánh cửa bằng vàng mở vào khu nhập thất.

Trong quá khứ, các thày đã từng mô tả những cánh cửa đó là cánh cửa to lớn bằng đồng, nhưng qua thuật giả kim của tánh linh và biết bao nhiêu người tâm linh trên địa cầu đã tới đây nhập thất, các thày đã nâng cấp thành cửa vàng ròng.

Các thày muốn báo trước cho tất ai những ai sẽ tới tham dự rằng đằng sau cánh cửa, con sẽ tìm thấy Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim cháy rực sáng trên bàn thờ ở đại sảnh nơi trung tâm khu nhập thất. Con có thể hình dung đại sảnh như một khoảng không gian rộng lớn với một mái vòm khổng lồ bên trên, to lớn hơn mọi mái vòm khác mà con từng thấy trong các công trình kiến trúc nổi tiếng khắp thế giới. Mái vòm này không có cột chống, mà nó được giữ trên cao bởi những tia ánh sáng rực rỡ đến độ chúng cầm giữ được mái vòm. Tất nhiên, mái vòm không được cấu tạo bằng một chất vật lý, nhưng chất liệu của nó vẫn dày đặc hơn ánh sáng đang cầm giữ nó trên cao.

3.2. Ánh sáng cầm giữ cả vũ trụ vật chất 

Điều này tượng trưng cho sự kiện tất cả mọi thứ đều được chống giữ nhờ ánh sáng. Tất cả mọi thứ thị hiện như một chất hữu hình trong vũ trụ vật chất đều thực sự lơ lửng trên một nền tảng ánh sáng. Có một câu chuyện vui rất xưa kể rằng có một vị thày kia ở phương Đông bảo rằng toàn bộ vũ trụ vật chất nằm trên mu một con rùa. Và khi có người hỏi: “Thế ở dưới con rùa là gì?” thì vị ấy trả lời: “Chỉ toàn là rùa với rùa cho tới tầng thấp nhất.” Tất nhiên câu chuyện cần được hiểu trong truyền thống khôi hài của Thiền Phật giáo luôn luôn tìm cách tạo bối rối cho tâm đường thẳng. Không có chuyện một con rùa chống giữ cho cả vũ trụ, nhưng quả là ánh sáng chống giữ cho cả vũ trụ vật chất, và đúng vậy, chỉ toàn là ánh sáng từ trên xuống dưới. Dù con có đi theo hướng nào thì rốt cuộc con cũng đạt tới Bản thể của Đấng Sáng tạo.

Mục đích thật sự của việc tham gia khóa Nhập thất Royal Teton gồm có hai phần. Trước hết là để khiến cho cái tâm trí thức đường thẳng – tâm phân tích – bị bối rối. Cái tâm đó khao khát muốn biết mọi sự, khao khát khả năng đặt mọi khía cạnh của cuộc sống, mọi khía cạnh của Thượng đế, vào trong kho dữ liệu của nó. Nó muốn phân loại tất cả mọi thứ mà nó gặp và mỗi phân loại phải được gán cho một cái nhãn trong kho dữ liệu. Đây là mục tiêu ngàn đời của tâm phân tích, bởi vì chỉ khi làm xong chuyện này thì nó mới cảm thấy đã tròn phận sự. Chỉ có khi đó thì tự ngã mới cảm thấy là nó đã nắm được chính con, cũng như đời sống của con, dưới quyền kiểm soát của nó – bởi vì con đã nhận lấy một nhãn hiệu cho chính mình.

Mục tiêu đầu tiên khi đến Nhập thất Royal Teton là các thày sẽ giúp con đập vỡ những cái nhãn mà con đã tự gán lên mình, gán lên Thượng đế, gán lên mọi khía cạnh của cuộc sống trong cõi vật chất. Các thày giúp con nhìn ra là con có khả năng vượt xa hơn, vượt ra ngoài các giới hạn mà con người đã áp đặt lên mình từ ngàn đời. Các giới hạn này đã không ngừng được tăng cường trong tâm thức tập thể, khiến cho nhiều người thời nay không tin nổi là khi Ki-tô bước chân trên địa cầu, thày đã thực hiện những phép lạ không làm sao thực hiện được trong khuôn khổ những định luật gọi là luật tự nhiên. Hay họ không làm sao tin nổi rằng khi chính thày bước chân trên mặt đất trong kiếp hiện thân chót của thày, người ta có thể nhìn thấy ánh rực sáng của ngọn lửa ba nhánh của thày tỏa xuyên qua da thịt vật lý.

Nhiều người trong thế giới ngày nay sẽ lập tức bác bỏ những chuyện như vậy, và đây là bằng chứng rõ ràng cho thấy tâm thức tập thể đã bị ô nhiễm đến chừng nào bởi những niềm tin gây giới hạn nhằm hạ thấp uy lực của Thượng đế bên trong con. Như Giê-su từng nói: “Với con người thì chuyên đó không thể, nhưng với Thượng đế thì chuyện đó có thể, bởi vì với Thượng đế mọi chuyện đều khả dĩ.” Tất cả mọi thứ đều khả dĩ.

Những gì con có thể hình dung và chấp nhận đều có thể được thị hiện như một hiện thực vật lý. Ánh sáng của Mẹ – Ánh sáng Mẫu-Vật – sẽ trải bày ra bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó với một cường độ đủ mạnh. Những gì con nhìn thấy hôm nay trong cõi vật chất không là gì hơn một hình ảnh do tâm thức tập thể phóng chiếu ra. Những gì con nhìn thấy trên địa cầu được phóng chiếu bởi tâm thức tập thể của các cư dân của địa cầu, trong quá khứ lẫn trong hiện tại. Khi nào con phóng chiếu ra một hình ảnh khác thì sự thị hiện vỏ ngoài cũng sẽ thay đổi, tùy theo các chu kỳ của bốn tầng của vũ trụ vật chất.

3.3. Minh triết Thượng đế không trí thức 

Có ích lợi gì mà trao cho con một minh triết sẽ thỏa mãn trí thức của con và cho con cảm giác mình là một đệ tử tâm linh cao cấp nếu minh triết đó không thách thức các giới hạn mà con đã chấp nhận cho chính con? Liệu con có nghĩ rằng các thày – là các vị thày tâm linh của nhân loại – ngồi ở đây để đổ trí tuệ thế gian xuống cho đệ tử của mình hầu đệ tử ngày càng trở nên khôn ngoan hơn trong nghĩa thế gian? Con chẳng nhận ra hay sao rằng các thày đã từng là những vị thày từ rất lâu rồi, và một số thày đã thăng thiên hàng bao thế kỷ trước? Các thày đã từng theo dõi vô số đệ tử, vào thời các thày còn hiện thân lẫn sau đó. Các thày đã thấy họ bước đến, họ muốn nhận được minh triết và họ muốn được người đời nghĩ họ minh triết đến chừng nào. Họ trông chờ các thày sẽ trao cho họ minh triết để họ có thể bước ra ngoài kia và thoả mãn nhu cầu của tự ngã muốn được chứng nhận và cảm thấy là phần nào mình cao trội hơn người khác.

Tất nhiên, các thày đón nhận tất các mọi đệ tử, đặc biệt tại Nhập thất Royal Teton, là một trong những khóa nhập thất tiên khởi nơi mọi người đến nhập môn khi họ sẵn sàng tiếp nhận một giáo lý cao hơn. Các thày phải thỏa mãn bất kỳ mong muốn nào của đệ tử khi họ đến đây lần đầu. Điều các thày tìm kiếm là những người đã đạt tới mức họ sẵn lòng nhìn nhận các giới hạn của trí tuệ thế gian. Họ sẵn lòng nhìn ra là phải có cái gì hơn chuyện trí thức hóa, hơn chuyện bàn cãi triết lý về khía cạnh này của định luật vũ trụ hay khía cạnh nọ của cõi tâm linh. Khi đệ tử đạt đến mức đó, các thày sẽ cống hiến cho họ một con đường cao hơn tại khóa nhập thất để họ vượt lên xa hơn. Lần hồi họ sẽ bắt đầu nhận ra mục tiêu thứ hai – mục tiêu đích thực – của việc tham dự khóa Nhập thất Royal Teton, là để họ chạm được gấu áo của chiếc Áo choàng Giác ngộ Hoàng kim – tức là Ngọn lửa Giác ngộ – và chứng được nó như là một năng lượng, một rung động vượt khỏi mọi thứ trên địa cầu.

3.4. Dạy dỗ một tân đệ tử tại Royal Teton 

Nếu các thày đưa ngay các đệ tử nhập môn vào đại sảnh trung tâm nơi Ngọn lửa Giác ngộ hằng cháy, thì họ sẽ bị thiêu đốt. Cảm nhận mà họ vẫn mang là mình kiểm soát được mọi chuyện, sẽ bị vỡ tan đến mức họ trải qua một cuộc khủng hoảng bản sắc nghiêm trọng. Các thày không cho phép các tân đệ tử tiếp cận với ngọn lửa. Thậm chí các thày không cho phép họ bước vào đại sảnh có chứa ngọn lửa cho đến khi họ sẵn sàng. Họ phải chứng tỏ là họ sẵn lòng buông bỏ mọi tư tưởng trí thức, triết lý, sẵn lòng chất vấn tất cả các niềm tin hiện có, và họ làm được điều đó mà không đánh mất ý niệm bản sắc, đánh mất nền tảng cuộc sống của họ.

Khi nào họ chứng tỏ được sự sẵn lòng này thì khi đó các thày sẽ cho phép họ bước vào đại sảnh. Lúc đầu, họ sẽ được ngồi dọc theo tường trong hội trường, họ sẽ ngồi trên ghế và quan sát ngọn lửa từ xa. Họ sẽ chỉ đơn giản ngồi đó và nhìn từ xa, rồi lần hồi họ làm quen với rung động của Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim. Sau một thời gian tùy theo khả năng cùng sự sẵn lòng của mỗi cá nhân, họ có thể tiến lại gần hơn. Họ sẽ từ từ đến gần và gần hơn nữa cho tới khi họ có khả năng bước đến hàng rào vòng tròn bao quanh cái bệ nơi có ngọn lửa bùng cháy.

3.5.  Chùm lửa vàng kim trong ngọn lửa ba nhánh của tim

Các đệ tử sẽ có thể quỳ xuống ở một khoảng cách nơi họ gần như có thể chạm tay được ngọn lửa. Họ sẽ được hấp thụ Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim một cách lần hồi, với cường độ ngày càng gia tăng, cho đến khi ngọn lửa nhảy ra khỏi bệ, nhập vào tim họ, nhập vào căn phòng mật thất của trái tim, nơi nó trở thành chùm lửa màu vàng kim chói rực trong ngọn lửa ba nhánh. Đây là lúc con là một đệ tử của Ki-tô có khả năng phân biện Lời sự Thật một cách chính trực, và con biết được đâu là thực, đâu là không thực, chỉ bằng cách đơn giản là so sánh tất cả những gì con gặp trên trái đất với sự rung động của Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim nơi căn phòng mật thất trong tim con. Đây chính là thước đo tối hậu về cái thực và cái không thực, về chân và giả – vượt lên trên cả đúng và sai, vì cái này là một khái niệm đã bị tâm của rắn lạm dụng đến mức nó gần như trở thành vô nghĩa.

Hẳn là một cái gì chân thực, và đó là Ngọn lửa Giác ngộ. Bằng cách giữ lấy Ngọn lửa Giác ngộ đó làm khung tham chiếu cho con, và vì ngọn lửa được neo trụ ngay giữa tim con, con sẽ có khả năng nhận ra cái không thực vì con thấy nó không phải là ngọn lửa, nó không rung động đồng nhịp với ngọn lửa. Mục tiêu mà các thày đặt ra tại Nhập thất Royal Teton là nâng cao đệ tử đến mức họ neo trụ được Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim nơi tim mình, hầu họ có thể bước ra ngoài và toả rạng ánh giác ngộ đó trong xã hội. Và họ sẽ giúp đem lại Thời đại Hoàng kim của Saint Germain, vì thực sự thời đại này phải được xây dựng trên nền tảng của khả năng phân biện giữa trí tuệ giả trá của tâm rắn với minh triết cùng sự giác ngộ đích thực của Ngọn lửa Thượng đế. Thày, Lanto, đã từ nhiều thế kỷ hỗ trợ bào huynh Saint Germain yêu dấu của thày trong nỗ lực đem lại Thời Hoàng kim trên trái đất. Cả hai thày gần gũi hơn bao giờ hết, nhưng sự gần gũi của hai thày chỉ có thể tương xứng với sự sẵn lòng mà các đệ tử đang đầu thai sẽ dành ra để hiện thân Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim cùng ngọn lửa của các tia sáng khác.

Thày đã hé mở cho con thấy những khai ngộ mà con có thể cố gắng vươn tới. Thày cam đoan với con rằng các bài chú của Tia thứ Hai và các bài thỉnh trong quyển sách này là những dụng cụ hữu hiệu nhất hiện có trong bát cung vật lý (physical octave) để hòa điệu với Tia thứ Hai và Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim. Các bài này cũng là phương thức hay nhất để đảm bảo con có thể đến được Nhập thất Royal Teton mỗi đêm hầu con tham gia vào các khai ngộ đó. Xuyên qua các bài chú và bài thỉnh, con sẽ có thể lần hồi xây dựng động lượng cần thiết để đem Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim vào cõi vật chất, hầu cơ thể vật lý và tâm vỏ ngoài của con có thể chịu được sự hiện diện của rung động đó trong căn phòng mật thất nơi tim con.

Thày, Lanto, trao cho con cơ hội bằng vàng này, và các thày sẽ dõi nhìn sự sẵn lòng của con để nhân lên gấp bội những ta-lăng mà con được ban cho, cũng như sự sẵn lòng của mọi người khắp thế giới để hòa điệu với động lượng được tạo ra bởi tất cả những ai đọc thỉnh cho Tia thứ Hai cùng các tia sáng khác.

3.6. Một đợt truyền pháp quan trọng để thăng vượt động lượng cũ

Qua việc phổ biến những bài chú và bài thỉnh cho tất cả bảy tia sáng, các thày đang ban cho con một đợt truyền pháp chủ yếu, một cơ hội quan trọng để mọi người tâm linh trên địa cầu thăng vượt động lượng cũ của mình. Con có thể cho rằng các bài chú và bài thỉnh nghe thật đơn giản, thậm chí nông cạn. Có người còn gọi đó là những bài đồng dao cho trẻ con, nhưng thày nói với con, giống như mọi chuyện khác, các thày đã làm phận sự của mình khi trao cho con một dụng cụ. Không thể bảo đảm được hiệu quả của dụng cụ này trong cõi tự quyết, nhưng điều các thày có thể bảo đảm với con là dụng cụ sẽ hiệu quả tùy theo con sẵn lòng nhân các ta-lăng lên tới chừng nào. Điều này tùy thuộc ở con, tùy thuộc vào tất cả mọi người tâm linh trên địa cầu, liệu các con sẽ tận dùng công cụ này đến chừng nào, và con sẽ nhân lên được chừng nào động lực nguyên thủy mà các thày ban ra.

Nếu có đủ số người tham gia vào việc đọc chú và đọc thỉnh cho bảy tia sáng, quả thật chúng ta có tiềm năng chứng kiến một cuộc đột phá to lớn. Bỗng nhiên chúng ta sẽ có những người hiện đang đầu thai biểu tượng cho mỗi tia trong số bảy tia sáng, thậm chí cả Tia thứ Tám của sự hội nhập. Nhân loại sẽ thực sự có khả năng đem lại một cách tiếp cận mới cho tất cả mọi vấn đề mà con gặp trên địa cầu, dựa trên sự kiện khung tham chiếu của bảy tia sáng có thể giúp quyền năng cho loài người thăng vượt những vấn đề cụ thể đã khởi sinh từ sự tha hóa các tia sáng.

Không có gì trong vũ trụ vật chất có thể được sinh tạo mà không do bảy tia sáng, và điều này có nghĩa là không có một giới hạn nào có thể được sinh tạo mà không là sự tha hóa của một tia sáng. Khi con người đầu thai thỉnh cầu ánh sáng thuần khiết của một tia sáng nhất định, ánh sáng đó sẽ tiêu hủy sự tha hóa đó. Các đặc tính của tia sáng sẽ cho con người niềm sáng ngộ mà họ cần để thăng vượt niềm tin đã tạo ra tha hóa. Một khi năng lượng tha hóa và niềm tin tha hóa được thăng vượt, vấn đề sẽ không còn nữa. Con người sẽ có khả năng kích hoạt sự thị hiện thuần khiết của tia đó, và đột nhiên con sẽ bắt đầu chứng kiến những tiến bộ vượt bực trong xã hội.

Những năm sau năm 2012 có thể được xem là một cơ hội mới, một trang giấy mới, một khởi đầu mới cho nhân loại. Có một tiềm năng to lớn để xây dựng nền tảng cho một thời đại hoàng kim. Tiến trình này phải bắt đầu với một số đệ tử sẵn lòng thăng vượt các động lượng cũ của mình trên mỗi tia sáng, hầu họ đạt tới điểm trở thành cánh cửa mở. Đây chính là cơ hội mà con có thể nắm lấy khi con sử dụng quyển sách này cùng những quyển khác trong nguyên bộ này.

Vậy thày nói: Con hãy được niêm trong Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim mà thày, Lanto, cầm giữ cho địa cầu – Ngọn lửa Giác ngộ Hoàng kim mà TA LÀ.