Giáo lý căn bản về cái chết thứ nhì

Hỏi: Con không hiểu rõ việc linh hồn bị cái chết thứ nhì, bị xóa bỏ vĩnh viễn. Năng lượng không thể bị xóa bỏ – và linh hồn là năng lượng, vậy con xin thày giảng cho con rõ hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, đăng ngày 16/11/2012.


Mọi thứ có hình tướng đều được tạo ra từ bản chất của Thượng đế, hay năng lượng của Thượng đế; đó là cái chúng tôi gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Thượng đế đã tạo ra một khoảng rung động liên lục, và con sống trong một phần nhỏ của khoảng này, gọi là vũ trụ vật chất, hay là bát cung (octave) vật lý. Vũ trụ vật chất được tạo ra từ năng lượng xuất phát từ cõi tâm linh. Độ rung của năng lượng này được hạ xuống cho đến khi nó rung động trong quang phổ của các tần số của vũ trụ vật chất. Năng lượng thấp không thể ảnh hưởng năng lượng cao.

Khi các khoa học gia nói – qua định luật thứ nhất của nhiệt động học – là năng lượng không thể được tạo ra hay bị hủy hoại, thì họ đúng nếu ta theo sát nghĩa, nhưng sự thực hơn thế. Thượng đế đã tạo ra mọi năng lượng, và Thượng đế chắc chắn có thể hủy hoại chúng. Tuy nhiên, một sinh thể trong một cõi nào đó – tỷ dụ như vũ trụ vật chất – không thể tạo ra hay hủy hoại năng lượng trong cõi đó hay trong các cõi cao hơn.

Bây giờ chúng ta cần thêm một điểm là mọi hình tướng được tạo ra từ năng lượng của Ánh sáng Mẫu-Vật. Tuy nhiên, mỗi hình tướng được tạo ra bởi một hình tư tưởng được đè chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật cho tới khi ánh sáng thể hiện ra hình tướng. Vậy bây giờ ta thấy là hình tướng được tạo ra TỪ năng lượng, nhưng nó được tạo ra BỞI tâm thức.

Như chúng tôi đã giảng trong các bài khác, cái Ta Biết được sinh tạo trong cõi tâm linh. Nó không có hình tướng, không có thực chất vật chất, và đó là lý do vì sao nó không thể bị hủy diệt hay bị ảnh hưởng bởi bất cứ các rung động thấp nào trong cõi vật chất. Đó là lý do vì sao chúng tôi gọi nó là “nhận biết thuần khiết”. Nói cách khác, cái Ta Biết là tâm thức được tạo ra với mục đích đồng sáng tạo bằng cách đè chồng hình tư tưởng lên năng lượng.

Do đó, khi cái Ta Biết đi xuống, nó bắt đầu dùng năng lượng để đồng sáng tạo ra hình tướng. Câu hỏi mà ta cần đặt ra là nó pha màu các năng lượng này ra sao. Trong hoàn cảnh lý tưởng, cái Ta Biết tạo ra hình tư tưởng dựa trên ý niệm là nó nối kết với cái gì lớn hơn chính nó và với ý muốn nâng cao mọi thứ mà nó gặp gỡ. Lúc đó, các hình tư tưởng này sẽ dâng lên và trở thành một phần của căn thể (causal body) của nó. Năng lượng được pha màu bởi các hình tư tưởng đó cũng sẽ dâng lên, và một phần sẽ được lưu trữ trong căn thể (và sẽ tạo ra một động lực (momentum) tích cực), và phần khác sẽ được nhân lên bởi Hiện diện TA LÀ và gửi trả lại về con. Điều này có nghĩa là con sẽ gia tăng khả năng sáng tạo của mình.

Nhưng cái Ta Biết cũng có thể quyết định đi vào cái mà chúng tôi gọi là tâm thức tách biệt hay nhị nguyên. Để làm điều này, trước tiên nó phải tạo ra hay chấp nhận một hình ảnh của chính nó như là một sinh thể tách biệt tách rời khỏi cội nguồn của nó. Một khi cái Ta Biết bước vào một cái ta tách biệt như vậy, thì nó sẽ tạo ra hình tư tưởng dựa trên ý niệm tách biệt thay vì ý niệm kết nối với tổng thể mà nó có trước kia. Những hình ảnh này không thể dâng lên vào căn thể. 

Thêm nữa, tất cả các năng lượng bị pha màu bởi các hình ảnh đó cũng không thể dâng lên, và do đó chúng sẽ không được nhân lên bởi Hiện diện TA LÀ. Đó là lý do vì sao dòng sống của con trở nên một hệ thống khép kín, và con có thể sẽ rốt cuộc cạn hết năng lượng sáng tạo. Lúc đó, chọn lựa duy nhất của con là lấy năng lượng từ cõi vật chất (thay vì nhận năng lượng từ cõi tâm linh), có nghĩa là con phải lấy năng lượng từ người khác. Lúc đó, con trở nên một ma cà rồng hút năng lượng.

Vậy bây giờ thì câu hỏi kế tiếp là những năng lượng thấp đó đi đâu – vì khoa học đã nói đúng là khi con bước vào cái ta tách biệt thì con không thể hủy diệt năng lượng đã bị pha màu qua ý niệm bản ngã đó? Và câu trả lời là các năng lượng đó sẽ bắt đầu tích tụ nơi mà chúng ta có thể gọi là cái ta tách biệt hay cái ta thấp. Một số giáo lý tâm linh đã dùng từ linh hồn (soul) để gọi phần này của bản thể của con, vì các giáo lý này không có quan niệm cái Ta Biết và cũng không phân biệt tâm thức và năng lượng.

Điểm quan trọng là khi cái Ta Biết tự nhận nó là một sinh thể tách biệt, thì nó không thể bỏ lại đằng sau ý niệm bản ngã đó, và nó cũng không thể bỏ lại đằng sau hay chuyển hóa các năng lượng đã bị pha màu bởi cái ta đó. Điều này cũng có nghĩa là cái Ta Biết không thể thăng thiên khi xác thân vật lý chết đi, và do đó nó cần đầu thai trở lại.

Con hãy ghi nhận là điều mà nhiều giáo lý gọi là nghiệp (karma) bao gồm các hình tư tưởng được tạo ra qua cái ta tách biệt và những năng lượng đã bị pha màu bởi cái ta đó. Các năng lượng có thể được tái chỉnh qua một tiến trình tương đối máy móc, nhưng thăng vượt các hình tư tưởng đòi hỏi một tiến trình có ý thức trong đó con quyết định đào thải các hình ảnh cũ và các quyết định đã tạo ra chúng.

Bây giờ thì con cần nhận ra là cái Ta Biết là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, là phần nối dài của một chân sư thăng thiên, là một phần nối dài của một sinh thể cao hơn nữa, cứ tiếp tục như vậy để sau cùng là phần nối dài của đấng Sáng tạo. Chỉ có một cái tâm duy nhất, một tâm thức duy nhất, và tất cả các sinh thể có tự nhận biết đều là phần nối dài của nó, một cá thể của nó. Mục đích của tiến trình tạo cá thể là để cho mỗi đốm sáng từ tâm của đấng Sáng tạo có tiềm năng tăng trưởng sự tự nhận biết của mình cho tới khi nó vươn lên tới cùng tầng tâm thức với đấng Sáng tạo. Lúc đó, con trở thành một đấng Sáng tạo có thể tạo ra một thế giới hình tướng của mình.

Ta có thể nói là đấng Sáng tạo đã cho con thuê một phần của tâm của ngài. Con có quyền tự quyết, và do đó con có thể làm bất cứ gì con muốn với phần đó, và đấng Sáng tạo còn chịu cho phép sinh thể của ngài bị giam cầm trong một hình tướng thấp, nếu đó là điều con muốn đồng sáng tạo. Tuy nhiên, đấng Sáng tạo không muốn là một phần của tâm ngài bị giam cầm trong một hình tướng thấp một cách vĩnh viễn.

Chuyện có thể xảy ra với cái Ta Biết là nó có thể dần dà tự đồng hóa hoàn toàn với cái ta tách biệt mà nó đã tạo ra. Lúc đó, nó tạo ra một vòng xoắn hướng hạ trở thành một lực tự củng cố. Cái Ta Biết càng ngày càng tạo thêm hình tư tưởng dựa trên tách biệt, và khi nó còn nhìn đời qua các hình ảnh đó, thì nó tin tưởng tuyệt đối nó là một sinh thể tách biệt. Nói cách khác, cái Ta Biết nhìn xuyên qua quá nhiều lớp ảo tưởng nên nó thực sự không thể chất vấn thế giới quan cơ bản của nó.  Nó cũng không thể thoát ra khỏi cái ta tách biệt và trải nghiệm nó là nhận biết thuần khiết. Trong cái bây giờ và ở đây, cái Ta Biết là cái nó nghĩ nó là, là cái nó thấy nó là.

Cái Ta Biết cũng tạo ra càng ngày càng nhiều năng lượng thấp, và các năng lượng này tạo sức hút từ tính lên cái ta tách biệt. Do đó, khi cái Ta Biết còn tự đồng hóa với cái ta tách biệt, thì nó cũng cảm thấy sức hút này, và sự kiện này lại càng khiến nó tin mình là một sinh thể tách biệt. Sức hút đó cũng khiến nó khó trải nghiệm nó là nhận biết thuần khiết. Cái Ta Biết thực sự ở trong một vũng nước xoáy đầy năng lượng thấp cứ càng ngày càng kéo nó xuống thêm, đồng thời trói nó vào vòng xoắn hướng hạ tập thể do các dòng sống đang bị kẹt trong tư duy tách biệt tạo ra trên hành tinh này. Một khi vòng xoắn hướng hạ này tới một điểm có tính quyết định, thì nó trở thành môt lực tự củng cố vì cái Ta Biết không thể ngưng vòng xoắn này khi nó còn tự đồng hóa với cái ta tách biệt.

Như ta đã giảng, cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, và nó không thể bị biến đổi bởi bất cứ cái ta hay năng lượng nào trong cõi vật chất. Cái bị biến đổi không phải là cái Ta Biết mà là hình ảnh của nó về chính nó. Do đó, cái Ta Biết có thể bất cứ lúc nào rút mình ra khỏi cái ta tách biệt và trải nghiệm trở lại nó là nhận biết thuần khiết. Một khi nó có kinh nghiệm này, nó có được một khung tham chiếu giúp nó dần dà phân rã cái ta tách biệt. Tuy nhiên, điểm khó khăn là một khi cái Ta Biết bị kẹt trong vòng xoắn hướng hạ, thì nó chỉ có thể thoát ra khi nó nhìn nhận là toàn bộ cái ta tách biệt mà nó đã tạo ra chỉ là một ảo tưởng. Và khi cái ta tách biệt đó được sinh tạo dựa trên lòng kiêu hãnh, thì đây là một chuyện rất khó làm, nhất là khi cái Ta Biết tin rằng nó đã tạo ra một cái ta tốt lành và rất tinh vi – có thể còn biết rõ hơn Thượng đế cách điều hành vũ trụ.

Trong một số bài giảng khác chúng tôi có nói về hậu quả của tư duy nhị nguyên khiến con nghĩ rằng con có khả năng làm thần nhân trên thế gian và có thể quy định thế nào là đúng hay sai dựa trên viễn quan của mình. Do đó, khi con tạo ra một cái ta tách biệt nghĩ rằng nó biết chân lý tối hậu, thì con rất khó thoát ra khỏi nó, vì con phải nhìn nhận là tất cả những gì con đã tạo ra – kể cả ý niệm tự tôn mà con đã xây dựng – hoàn toàn là một ảo tưởng không dính dáng gì đến thực tại của Thượng đế.

Trong các bài giảng của chúng tôi về các bầu cõi, con sẽ thấy là có một số sinh thể đã sa ngã trong một bầu cõi trước và tiếp tục sa ngã trong bầu cõi sau cùng này. Do đó, họ có một động lực phủ nhận rất lâu dài và họ tuyệt đối tin rằng một ngày nào đó họ sẽ chứng minh được là Thượng đế sai và họ đúng. Đấng Sáng tạo thật sự rất kiên nhẫn với các dòng sống đó, nhưng giống như mọi thứ khác trong thế giới hình tướng, cơ hội mà họ có sẽ có lúc chấm dứt. Và đây là điều mà chúng tôi gọi là cái chết thứ nhì, để phân biệt nó với cái chết “đầu” chỉ lúc xác thân vật lý chết đi và dòng sống tái sinh. Cái chết thứ nhì – mà ta cũng có thể gọi là cái chết cuối cùng – chỉ lúc cơ hội tái sinh ở bất cứ nơi nào trong thế giới vật chất vĩnh viễn chấm dứt.

Với cái chết thứ nhì, tất cả năng lượng bị tha hóa do dòng sống tạo ra được chỉnh hóa lại và trở lại trạng thái thuần khiết. Nhưng năng lượng đó sẽ được hoàn trả về kho năng lượng hoàn vũ thay vì trở về căn thể của Hiện diện TA LÀ. Các hình tư tưởng do cái ta tách biệt tạo ra sẽ bị xóa bỏ. Nhưng đây là kết quả của một tiến trình đặc biệt. Thay vì cái Ta Biết nhìn vào các hình tư tưởng và quyết định thay thế quyết định đã tạo ra chúng, thì Hiện diện TA LÀ sẽ làm công việc này. Điều này có nghĩa là tiến trình học hỏi xảy ra ở cấp Hiện diện, và do đó một số trải nghiệm sẽ vẫn được tồn trữ trong căn thể.

Còn cái Ta Biết thì nó hoàn toàn nhập trở lại vào Hiện diện TA LÀ, như là nó đã chưa bao giờ hiện hữu. Hiện diện TA LÀ có thể quyết định gửi một cái Ta Biết khác xuống dựa trên các trải nghiệm của nó, nhưng cái Ta Biết này sẽ không giống y như cái trước. Do đó, ta có thể nói là với cái chết thứ nhì, một dòng sống đặc trưng đã hoàn toàn bị xóa bỏ và mất đi.