Cơn hoảng loạn

Hỏi: Một vài năm trước đây, vợ con bị cơn hoảng loạn đầu tiên. Cơn ấy rất dữ dội. Con ở gần cô ta lúc đó. Cô không đụng đậy được, không giải thích được gì và kiệt sức. Con cảm thấy có cái gì trơn tuột và rất khó chịu chạy dọc xuống lưng con. Nó giống như nỗi kinh hãi mãnh liệt và nỗi sợ hãi thâm nhập.  Con bị cú sốc vì chưa bao giờ bị một cái gì giống như thế trước đây. Chúng con đã cố giải quyết vấn đề này nhiều năm nhưng con e rằng con không giúp được vợ bao nhiêu vì những điều kiện như thế không tự nhiên đối với con và đối với chúng con khó hiểu được nguyên nhân và khó tìm những phương pháp trị liệu hữu hiệu. Nhiều người dân Ukraine có những triệu chứng tương tự từ khi có chiến tranh. Xin các chân sư thăng thiên cho chúng con một cái nhìn bao quát về vấn đề này và phương thức giải quyết.


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Kazakhstan 2023. Đăng ngày 3/11/2023.

Tuy các cơn hoảng loạn (panic attack) luôn luôn do tà lực tạo ra, thày không nói là chúng luôn luôn do sa nhân trực tiếp tạo ra cho dù nếu con lần theo tà lực thì con cũng tới sa nhân. Nhưng có nhiều tà lực nơi cõi tình cảm liên tục tìm cách áp đảo tình cảm con người và khiến họ rơi vào trạng thái mà con có thể gọi là hoảng loạn. Với người trong thế gian thì không có cách hữu hiệu nào để giải quyết hoảng loạn. Nếu con mở tâm với con đường tâm linh và giáo lý chân sư thăng thiên, thì chắc chắn con có thể nhận ra đây là tà lực và con cần xem hoảng loạn là sự tấn công của tà lực và con đọc các bài thỉnh Đại thiên thần Michael và Astrea, Shiva và chính thày để kêu gọi các thày bảo vệ, trói buộc tà lực, bảo vệ người bị tấn công, bảo vệ hào quang và thể tình cảm của người đó. Sau đó, dài hạn hơn, con cần giải quyết tâm lý của người đó và hỏi tại sao người đó dễ bị tấn công kiểu đó?

Con có thể nói là tà lực liên tục phóng năng lượng thấp tới tất cả mọi người, nhưng không phải ai ai cũng bị choáng ngợp và bị hoảng loạn. Luôn có một nguyên nhân tâm lý giải thích tại sao một người nào đó dễ bị tà lực áp đảo. Lẽ tất nhiên có một ngã tách biệt được tạo ra trong một kiếp sống trước khi người đó gánh chịu một chấn thương tâm lý (trauma) nặng nề. Và khi con đã bị một chấn thương tâm lý rất nặng như thế thì con luôn lo sợ là một chuyện tương tự có thể xảy ra nữa. Và đấy là nguyên nhân tại sao con dễ bị tà lực dùng nỗi sợ của con để tìm cách khống chế con.

Con cần nhìn vào tâm lý mình để phơi bày tại sao con có ngã tách biệt này, đặc tính của nó là gì, niềm tin đằng sau ngã là gì và sau đó con làm việc để giải quyết ngã này. Ngay cả ngành tâm lý truyền thống cũng có thể giúp con thấy rõ những điều này nhưng quả thực con không thể giải quyết hữu hiệu cơn hoảng loạn trừ khi con dùng những phương tiện tâm linh để bảo vệ con và cắt đứt con khỏi các tà lực nơi cõi trung giới. Lẽ tất nhiên, những điều ở trên áp dụng không những cho người dân Ukraine mà cũng áp dụng cho bất cứ ai đã từng gánh chịu chấn thương tâm lý như thế. Nếu con là người thích tâm linh thì dứt khoát là con nên dùng các dụng cụ tâm linh để bảo vệ trường năng lượng của con khỏi sự tấn công dữ dội của các tà lực này. Nếu người tâm linh có thể chấp nhận những ý trên và chấp nhận giáo lý khá giản dị này, chúng có thể có tác động lớn đến sự tăng triển tâm linh của họ. Bởi vì tuy nhiều, nhiều người tâm linh không bị hoảng loạn hay cảm thấy bị choáng ngợp nhưng sự tăng triển tâm linh của họ vẫn bị trì hoãn bởi ảnh hưởng của tà lực có khả năng khiến họ rơi vào phản ứng mất quân bình. Một phản ứng mất quân bình không nhất thiết có nghĩa là con cảm thấy sợ. Nó có thể có nghĩa là con chối bỏ, con chối bỏ là không có lý do gì cho con sợ hãi bởi vì “Mọi chuyện đều tốt đẹp cả”, như rất nhiều người tâm linh thường nói. Nhưng con nhìn hành tinh đấy và con nhận ra rằng mọi chuyện không tốt đẹp trên trái đất. Và nếu con không có biện pháp gì để ngăn chặn tà lực, thày có thể bảo đảm với con là tà lực sẽ không tự ngăn chặn đâu.

May mắn là gì?

Hỏi: Trong một bài truyền đọc gần đây nhân buổi hội thảo trực tuyến Phục sinh, Mẹ Mary nói rằng chúng ta không thể tiên đoán chắc chắn bất cứ gì xảy ra trên địa cầu. Lý do là vì trong những tình huống can dự đến nhiều người, có một làn sóng nghiệp quả tạo ra nhiều kịch bản khác nhau cho sự tương tác trải bày. Vì vậy tương lai không thể biết được cho đến khi nó xảy đến. Trong những lãnh vực đòi hỏi việc tiên đoán những sự kiện tương lai không thể biết trước, như đầu tư chẳng hạn, liệu kỹ năng chuyên môn có thể đem lại thành công đều đặn không? Hay sự thành công trong các lãnh vực này chủ yếu là sự may mắn? Nói rộng hơn, thế nào là một quan niệm xây dựng về may mắn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 27/7/2023.

Đầu tiên chúng ta hãy nhìn đến sự may mắn. Điều người ta gọi là may mắn chính là sự trải bày của những sự kiện không thể đoán trước. Nghĩa là không thể nào tiên đoán một cách chắc chắn kết quả của một sự việc sẽ ra sao, như đầu tư chẳng hạn. Nhưng tất nhiên, con có thể tăng xác suất sự kiện xảy ra, chẳng hạn khi con nâng cao hiểu biết về lãnh vực đầu tư. Nhưng con cũng có thể bước vào một tâm thái cởi mở đối với một thành quả tích cực.

Trên thế giới có nhiều người giảng dạy là không có chuyện may mắn, mà trái lại con cần phóng chiếu ra kết quả mà con mong muốn. Nhiều người đã cố thử thị hiện đồ vật bằng cách làm theo những lời chỉ dẫn đủ loại về phương pháp thị hiện. Chẳng hạn nhiều người đã dùng bản đồ kho báu hay một số kỹ thuật khác, đôi khi gần giống như ma thuật đen, để gia tăng vận may của mình qua việc cưỡng bách sự việc xảy ra. Hiển nhiên, đây không phải là điều các thày khuyên con làm như một đệ tử của chân sư thăng thiên.

Nhưng chắc chắn con có thể ảnh hưởng đến các sự kiện tích cực trong đời mình bằng cách, trước tiên, làm việc với tâm lý của mình và giải quyết một số vấn đề tâm lý khiến con xua đuổi một số thành quả. Ví dụ, nhiều người tâm linh có một thái độ tiêu cực đối với tiền bạc từ nhiều kiếp trước. Trong tiềm thức, họ đẩy xa tiền bạc vì họ tin rằng tiền bạc là phản tâm linh. Nếu con giải quyết những cái ngã như vậy, con sẽ không còn đẩy nó ra xa nữa, nhưng đồng thời con cũng không cố kéo nó vào đời con. Con có thể bước vào tâm thái cởi mở, tâm thái trung hòa, nhưng con chờ đợi là một điều tích cực sẽ xảy ra. Theo một nghĩa nào đó, đây không phải là chuyện chế tạo một kết quả, mà đúng hơn là thu hút kết quả đến với con. Đây sẽ là một cách khả thi để gia tăng điều mà nhiều người gọi là may mắn. Không phải các thày đặc biệt bảo con phải coi may mắn là nền tảng cho cuộc sống, nhưng con có thể bước vào một tâm thái đón nhận triển vọng một kết quả tích cực sẽ xảy ra thay vì xua đẩy nó đi.

Khi con hiểu những gì các thày đã trao cho con về đường tu tâm linh, con có khả năng bước vào một tâm thái không dính mắc với một kết quả đặc thù. Con làm điều con cảm thấy là một điều xây dựng trong một tình cảnh đặc thù, nhưng thay vì bị cuốn hút vào một kết quả nhất định như trường hợp những kẻ ra sức thị hiện, con mở tâm ra đón nhận môt kết quả tốt đẹp, kết quả tốt nhất có thể, nhưng con cho phép các chi tiết được quyền mơ hồ. Con cởi mở với mọi khả năng, và con đi vào một tâm thái biết ơn đối với bất cứ gì xảy ra, luôn luôn cố gắng sử dụng nó tốt nhất.

À, nhiều người thông thạo các kỹ thuật thị hiện sẽ bảo rằng làm theo cách này là sai trật vì con phải càng rõ ràng càng tốt. Con cần phải rõ ràng trong những gì con muốn vũ trụ đem lại cho con, nhưng đây không phải là cách tiếp cận cao nhất. Và lý do, như ta vừa giải thích, là vì mọi tình huống trong thế gian đều vô cùng phức tạp. Có những sóng xác suất ảnh hưởng đến kết quả của một tình huống nhất định và con không thể tiên đoán các sóng này một cách chắc chắn. Cho nên nếu con phóng chiếu: “Tôi muốn kết quả chính xác là như thế này,” thì thường thường con sẽ bị thất vọng vì đơn giản kết quả đó không thực tế dựa trên các điều kiện nghiệp quả của tình huống.

Điều đáng tiếc xảy ra đối với nhiều người toan cưỡng ép thị hiện là họ thường bị thất vọng, và sau một thời gian nhiều người bị chán nản rồi lý luận rằng tất cả chỉ là chuyện hồ đồ, là chuyện không tưởng, là chuyện “úm ba la” của giới Thời Mới hay bất cứ gì khác. Các thày muốn cho con một con đường dài hạn khả thi hơn mà qua đó con có thể cải thiện hoàn cảnh đời con. Và nếu con dùng các giáo lý, đặc biệt về ngã tách biệt, con sẽ có thể đạt được những cải thiện đáng kể trong đời mình. Nhưng luôn luôn, điều khôn ngoan là con nên có một thái độ đón nhận triển vọng trong sự biết ơn thay vì đòi hỏi một kết quả nhất định.

Về linh hồn của tổ tiên và phong thủy mồ mả

Hỏi: Ở Hàn quốc có một niềm tin là linh hồn của tổ tiên nơi cõi trung giới có thể gây bệnh tật cho con cháu hay có thể ảnh hưởng đến vận may của con cháu tùy theo địa thế phong thủy của ngôi mộ. Những hiện tượng này có đến từ các tổ tiên thực sự hay từ ma quỷ trá hình hay từ một loại thần linh nào đó? Các chân sư khuyên chúng con nên dùng các bài chú, bài thỉnh nào để cắt đứt những rung động hay sự can thiệp không cần thiết của tổ tiên? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 8/7/2023.

Một lần nữa, điều này tùy thuộc vào cách con sử dụng và định nghĩa các từ. Con định nghĩa “tổ tiên thực sự” như thế nào? Điều chúng ta có thể nói là nói chung khi một người qua đời, họ sẽ đi về một tầng cõi nơi họ có khả năng đi tới dựa trên mức tâm thức của họ. Ở nơi đó, họ sẽ kiểm điểm lại kiếp hiện thân đã qua, rồi họ bắt đầu chuẩn bị cho kiếp hiện thân kế tiếp. Trong nhiều trường hợp, kiếp đầu thai kế tiếp sẽ diễn ra trong một môi trường khác chứ không trong cùng một gia đình, thậm chí có thể không cùng một quốc gia.

Nói chung thì tổ tiên đều bước đi tiếp con đường riêng của họ. Và một khi họ đã rời khỏi xác thân, hầu hết mọi dòng sống không còn cùng sự gắn bó với gia đình như các thành viên của gia đình có thể cảm thấy đối với người quá cố. Hiển nhiên là có một số nền văn hóa duy trì sự gắn bó như vậy, hay có truyền thống thờ cúng tổ tiên đến mức nó có thể ngăn cản một số dòng sống bước đi tiếp. Họ trở thành cái được gọi là những hồn không xác, thường khi bị vướng kẹt nơi cõi trung giới và họ không thể bước đi tiếp. Những hồn không xác như vậy có thể ảnh hưởng đến thể cảm xúc, thể lý trí và thể bản sắc của những người đang hiện thân, nhưng họ không có khả năng ảnh hường cơ thể vật lý hay mang lại điều xui xẻo hay bệnh tật. Đây chỉ đơn giản là mê tín dị đoan.        

Một lần nữa, vấn đề là khi có chuyện gì xảy ra cho ai đó thì người ta muốn giải thích là chuyện này không phải là do lỗi mình, cho nên một số nền văn hóa phóng chiếu vấn đề vào tổ tiên. Nhưng điều này không thực tế.

Tuy nhiên có một số người có thể bị ảnh hưởng bởi một người thân quá cố đã trở thành một hồn không xác không thể bước đi tiếp, đặc biệt là – tất nhiên – nếu họ có sự dính mắc. Nếu con có dính mắc với bà ngoại của con và dính mắc này ngăn cản bà bước đi tiếp, thì bà ngoại con – như một hồn không xác – có thể tìm cách ảnh hưởng con để khiến con buông bỏ dính mắc hầu linh hồn có thể bước tiếp.

Các loại bài thỉnh, bài chú tốt nhất mà con có thể đọc là các bài cho Astrea để thày cắt đứt cho con được tự do, hay cắt đứt để tổ tiên con được tự do bước đi tiếp. Và tất nhiên, chính con cũng cần xét xem con có sự gắn bó, dính mắc nào đối với người thân trong gia đình hay không, xong con buông nó ra và cho phép họ bước tới.

Không dính mắc nhưng không thờ ơ

Hỏi: Câu này con xin hỏi Phật Gautama hay một vị chân sư nào khác. Xin thày vui lòng giải thích khác biệt giữa sự không dính mắc, sự vô cảm thờ ơ và trạng thái tâm thức trung hòa? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Phục sinh 2023. Đăng ngày 15/5/2023.

Không dính mắc chỉ là một từ khác cho trạng thái tâm thức trung hòa. Trung hòa có nghĩa là gì? Có nghĩa là không có gì có thể kéo con về bất cứ hướng nào. Con có thể chọn lựa đặt chú ý của mình về một hướng nào đó nhưng không có gì có thể lôi kéo được con. Tại sao không có gì lôi kéo được con? Vì con không có dính mắc. Tại sao con không có dính mắc? Vì con không có một ngã tách biệt, một ngã tiềm thức nào mong cầu một kết quả đặc thù hay tránh né một điều gì trên trái đất. Còn sự thờ ơ, tất nhiên, là khi con thụ động, tâm con thụ động.

Có lẽ chúng ta nên bước lui lại một chút và nhìn xem ta đã nói gì cách đây 2500 năm, Giê-su đã nói gì cách đây 2000 năm và các thày nói gì ngày hôm nay. Đúng thật là khi con nhìn vào, đặc biệt là những lời dạy ta đã trao truyền 2500 năm về trước trong kiếp hiện thân Phật Gautama, thì một số Phật tử đã diễn giải là nếu con đạt được trạng thái không dính mắc đó, cực lạc đó, tam muội đó (samadhi), niết bàn đó (nirvana) cho dù người ta gọi đó là gì, thì nói chung con trở nên vô cảm thờ ơ. Con không quan tâm đến bất cứ gì trên địa cầu. Không có chuyện gì con muốn làm, cho nên con rút ra khỏi xã hội, con ngồi trong tu viện hay hang đá và con thiền quán về Thượng đế bởi vì con không quan tâm bất cứ chuyện gì trong thế gian. Đây là một diễn giải sai lạc về những gì ta đã dạy, những gì Giê-su đã dạy, những gì các thày ngày nay giảng dạy.

Nói chung con có thể nói, con là một sinh thể tâm linh, Hiện diện TA LÀ của con là một sinh thể tâm linh. Hiện diện TA LÀ của con ở cõi thăng thiên, hay đúng hơn, nó không là một chân sư thăng thiên nhưng chắc chắn nó ở cõi tâm linh, cho nên Hiện diện TA LÀ của con có khả năng trải nghiệm cõi tâm linh. Tại sao nó lại muốn gửi một phần của nó – cái Ta Biết – xuống một thế giới hình tướng và đặc biệt một hành tinh như trái đất? Tại sao chứ?

À, Hiện diện TA LÀ không gửi con xuống thế gian để con có một trải nghiệm tâm linh vì nó có thể có trải nghiệm này ở ngay cõi tâm linh rồi, cho nên nó gửi con xuống thế gian để trải nghiệm thế gian. Nhưng làm thế nào con trải nghiệm được thế gian nếu con ngồi trong hang núi Himalaya, thiền quán về Thượng đế và bỏ mặc thế gian? Đó không phải là lý do con tồn tại, lý do con đang ở trong thế gian. Con ở trong thế gian là để có những trải nghiệm, và những trải nghiệm này bao gồm cả những công việc con làm, và chắc chắn con năng hoạt trong thế gian. Nếu Hiện diện TA LÀ không muốn trải nghiệm thế gian thì việc gì nó phải mất công đem một phần của nó vào một xác thân vật lý? Nó đã có thể rút lại phần này và tập trung vào việc tăng triển ở cõi tâm linh, và tất nhiên đây là điều con sẽ làm sau khi con thăng thiên, nhưng dù sao thì con cũng hiểu ý ta muốn nói.

Mục đích con hiện thân trong cõi vật lý là để tham gia vào lý duyên khởi, và thế gian chính là lý duyên khởi này. Con nếm nhiều trải nghiệm, con làm nhiều công việc, con nêu gương cho người khác thấy là mình có khả năng khắc phục sự dính mắc với thế gian, cho nên mình có thể ở trong thế gian mà vẫn an bình. Làm thế nào con ở trong thế gian mà vẫn an bình? Bằng cách vượt qua các dính mắc của mình và bước vào tâm thái trung hòa.

Nhưng trung hòa không có nghĩa là con không làm gì. Con vẫn có thể tham gia vào một hoạt động vỏ ngoài và đồng thời ở trong một tâm thái trung hòa. Chỉ có nghĩa là trải nghiệm của con sẽ khác hơn mà thôi. Kỳ thực con có thể vui hưởng hoạt động đó, bởi vì khi con ở trong một tâm thái dính mắc thì con không thể tận hưởng việc tham gia vào hoạt động vì con luôn luôn chú tâm vào thành quả của hoạt động – cho đến khi con biết rõ thành quả là gì thì con không thể thực sự vui hưởng hoạt động. Đây chính là câu ngạn ngữ quen thuộc khi người ta bảo rằng điểm đến không quan trọng mà là hành trình, kết quả không quan trọng mà là tiến trình.

Khi con bước vào tâm thái trung hòa, con có thể vui hưởng tiến trình sống trong kiếp hiện thân cho dù con có đạt được hay không đạt được thành quả vỏ ngoài. Con không có vai trong tấn tuồng muốn cái này phải xảy ra hay cái kia không được xảy ra, con không ở trong tấn tuồng cuồng đại muốn cái này phải xảy ra hay cái kia không được xảy ra trong thế gian. Nhưng con không thờ ơ vô cảm, con không thụ động, con không chỉ ngồi đó mà không làm gì hết.

Làm thế nào khiến thời gian đi nhanh hơn hay chậm hơn 

Hỏi: Xin thày vui lòng giải thích làm thế nào khiến cho thời gian gia tốc hay đi chậm lại? Điều này có khả thi không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Phục sinh 2023. Đăng ngày 15/5/2023.

À, thời gian là gì? Tùy theo con định nghĩa thời gian.

Đây là một đề tài rộng lớn hơn những gì ta muốn đào sâu ở đây, nhưng thực tế là thời gian là một cấu trúc của tâm. Phần nào nó dựa trên ảo tưởng tách biệt, phần nào trên tâm đường thẳng.

Con có thể nói giống như nhiều người vẫn nghĩ – nhiều người tâm linh vẫn nghĩ – là khi con sinh ra đời, con có một tuổi thọ nhất định mà các thày đã gọi là tuổi thọ tự nhiên của con. Có nghĩa là con có thể sống đến 70 tuổi chẳng hạn xong con qua đời. Nhưng các thày cũng có giải thích là nếu con lạm dụng quyền tự quyết của người khác, làm một số hành vi nào đó, thì con có thể gia tốc thời gian theo nghĩa là con sẽ qua đời sớm hơn. Nhưng nếu con chân thành nỗ lực tự thăng vượt và khắc phục các khuôn nếp của mình, con có thể khiến thời gian chậm lại cho nên con sẽ sống lâu hơn.

Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là như một đệ tử tâm linh, con có phần nào khả năng làm cho thời gian chậm lại, theo nghĩa là con có thể ở lại kiếp hiện thân lâu hơn so với tuổi thọ tự nhiên của cơ thể con. Nhưng đồng thời con cũng gia tốc thời gian, theo nghĩa là con sẽ đạt đến các tầng tâm thức cao nhanh chóng hơn là con có thể nếu con không bước trên đường tu tâm linh.

Về đề tài làm chậm thời gian, con có thể nghĩ là ta đã không trả lời câu hỏi của con, nhưng đó là vì tâm thức tách biệt lẫn tâm đường thẳng phóng chiếu ra rằng thời gian là một thực tại khách quan – thời gian có một sự tồn tại khách quan nào đó. Nhưng không phải vậy đâu, đó là một trải nghiệm chủ quan do tâm chế tạo. Điều xảy ra trên hành tinh địa cầu là tuyệt đại đa số mọi người đang hiện thân ở đây đã chấp nhận cùng một cái nhìn về thời gian: Họ nghĩ đó là một sự vật bên ngoài, họ nghĩ nó đường thẳng – nó chỉ có thể đi về một hướng mà thôi và nó phải không ngừng đi tới.

Nhưng nếu con ở trong một trạng thái thiền định sâu, nếu cái Ta Biết của con bước ra ngoài tâm vỏ ngoài và trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết, thì kỳ thực đối với con, thời gian ngừng lại.

Con cũng biết là đôi khi con có cảm tưởng thời gian như trôi chậm lại: “Đến khi nào mới hết ngày làm việc đây?” Lần khác, con nhìn ngược lại một ngày trôi qua và con nghĩ: “Chà, làm sao xảy ra quá nhiều chuyện chỉ trong một ngày?” Trên đường tu tâm linh, thông thường con nhìn lại 10, 20, 30 năm trước – là thời điểm con bắt đầu cất bước trên đường tu – và con cảm thấy mình đã kinh qua biết bao thay đổi, biết bao tiến bộ, đến độ con tưởng như thể mấy kiếp sống đã trôi qua. Bước chân trên đường tu là cách hay nhất để con khiến cho thời gian chậm lại hay nhanh lên.

Nhưng dĩ nhiên nếu con thấy vấn đề này quan trọng, con có thể suy nghiệm về bí ẩn của thời gian. Con có thể xem các lời dạy mà các thày đã trao truyền về điều này, và con có thể tự giải thoát, ít ra bắt đầu tự giải thoát khỏi tâm đường thẳng. Nếu con nhìn xem khoa học nói gì, thì khoa học bảo là không gian hiện hữu. Khoa học bảo là trái đất quay quanh chính nó và nó cũng quay quanh mặt trời. Đó là điều hầu hết mọi người đều nghĩ đến. Con biết là khi con đứng trên mặt trái đất thì con đang di chuyển nhanh kinh hồn trong không gian, vì khi trái đất quay thì cơ thể con quay theo trong không gian, và vì trái đất cũng quay quanh mặt trời cho nên con cũng quay theo một cách khác nữa. Thật sự nếu con nhìn cơ thể con trong không gian tuyệt đối, con đang di chuyển theo một hình xoắn ốc.

Nhưng điều mà ít người nghĩ đến là chính Thái dương hệ cũng di chuyển trong không gian. Và vì Thái dương hệ di chuyển một cách tương đối so với các hệ mặt trời khác, và các mặt trời di chuyển tương đối so với toàn bộ dải thiên hà, và thiên hà thì di chuyển tương đối so với các thiên hà khác trong vũ điệu toàn vũ vĩ đại này, cho nên nếu con bảo: “À đây là không gian tuyệt đối, tôi đang theo dõi quỹ đạo của cơ thể tôi bay ngang qua khoảng không gian này,” thì con sẽ thấy đây là một hình dạng vòng xoắn ốc vô cùng phức tạp. Quỹ đạo này có thể được mô tả bằng toán học, vì các nhà toán học đã khám phá ra phương trình cơ bản cần thiết, chỉ có điều là họ chưa đem ra áp dụng.

Ý ta muốn nói ở đây là thời gian là một hàm số của không gian và sự chuyển động. Sự chuyển động trong không gian là điều tạo ra ảo tưởng thời gian. Và con có thể suy nghiệm điều này. Con có thể suy ngẫm làm thế nào giải thoát tâm con khỏi nhu cầu ám ảnh cưỡng chế của tâm đường thẳng muốn nhìn tất cả mọi thứ trong sự chuyển động đường thẳng: Thời gian chỉ có thể đi theo một hướng, thời gian phải không ngừng đi tới, rồi có vấn đề nhân và quả, vân vân. Và từ đó con có thể nhận ra là trái đất hay chính con đang chuyển động qua không gian, nhưng sự chuyển động này vô cùng phức tạp, nó không đường thẳng, nó không thẳng tắp theo một đường.

Con đang chuyển động trong vũ điệu vũ trụ vô cùng phức tạp này mà ta đã gọi là lý duyên khởi, và các thày thì gọi là Dòng sông sự Sống. Và khi con suy nghiệm sự thể này, con có thể đạt tới điểm con bắt đầu trải nghiệm nó. Khi đó, con sẽ trải nghiệm là thời gian hết quan trọng. Không có thời gian.

Ý nghĩa của trinh tiết

Hỏi: Mẹ Mary yêu dấu, xin thày vui lòng tiết lộ bí mật về mục đích của trinh tiết nơi các thiếu nữ trong đạo Cơ đốc. Người ta rất coi trọng trinh tiết và áp đặt nhiều cấm đoán, luật lệ đối với các cô gái ngay từ tuổi thơ ấu. Tại sao thiếu nữ bị phái nam dụ dỗ, bị thúc ép để có quan hệ tình dục trước hôn nhân?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Phục sinh 2023. Đăng ngày 15/5/2023.

Tùy vào tiền kiếp của mỗi người, nhưng hầu hết trẻ em đều sinh ra với một ân sủng trong sáng, ngây thơ nào đó. Nói cách khác, con có thể bảo là ở tuổi thơ ấu, có một phần nào đó của quá khứ, của nghiệp chướng, của năng lượng tha hóa, của động lượng mà con đem theo từ tiền kiếp sẽ được giữ lại, để trong tuổi thơ ấu con có cơ hội tạo ra một cách tiếp cận mới cho cuộc sống trong kiếp này. Nhìn từ nhãn quan này, con có thể nói là nhiều đứa trẻ khởi sự cuộc sống với một nét hồn nhiên, một năng lượng thuần khiết nào đó.

Không phải tất cả mọi trẻ em đều như vậy, tùy vào tiền kiếp và tùy vào tâm lý em bị thương tổn và phức tạp đến chừng nào, nhưng hầu hết các em đều như vậy. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là em có một năng lượng nào đó, một ánh sáng tâm linh nào đó, và khi em lớn lên, có nhiều yếu tố có thể khiến em đánh mất năng lượng này, đánh mất sự hồn nhiên này. Trong số đó có quan hệ tình dục. Không có nghĩa là em phải mất sự hồn nhiên trong một quan hệ tình dục, nhưng đây là một trong những yếu tố sẽ lấy đi sự hồn nhiên của em. Một yếu tố khác là rượu, ma túy, thuốc lá, bạo hành cùng nhiều thứ nữa.

Trong số các sa nhân đầu thai và suốt một thời gian rất dài, người ta đã đề ra một khái niệm là việc quan hệ tình dục với trẻ em hay với thanh thiếu niên còn trinh trắng có thể đem lại nhiều ánh sáng hơn. Và tất nhiên, các sa nhân bị cắt đứt khỏi nguồn ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của chúng, sẽ phải đoạt ánh sáng theo chiều ngang từ một ai khác trong thế gian. Chúng tìm kiếm điều này qua quan hệ tình dục với trẻ em, và ngay cả trong số các trẻ em đó thì chúng tìm kiếm trẻ em còn trinh trắng vì ở lần đầu tiên sa nhân có thể cướp được nhiều ánh sáng hơn. À, ta không bảo là con sẽ tự động đánh mất tất cả hồn nhiên tuổi thơ của mình lần đầu tiên con quan hệ tình dục, nhưng nếu con quan hệ lần đầu với sa nhân thì xác suất rất cao là con sẽ mất đi phần lớn. Nếu con quan hệ với một người không phải là sa nhân thì sự thể không đến nỗi như vậy. Nhưng sa nhân rất lão luyện trong việc rút năng lượng của người khác, cho nên nếu đứa trẻ có quan hệ đầu tiên với một sa nhân thì em sẽ đánh mất hầu hết, nếu không nói là tất cả, sự ngây thơ và năng lượng của em.

Điều sa nhân đã làm suốt các thời đại là chúng xây dựng đủ loại chủ nghĩa kín đáo – nếu có thể gọi như vậy – nhằm mục đích tạo cơ hội cho chúng đoạt ánh sáng này qua quan hệ tình dục với trẻ em hay thanh thiếu niên, đặc biệt những em còn trinh trắng. Và chúng cũng đã cố dùng đủ mọi cách để truyền bá, biện minh cho cách hành xử này. Con có thể tự hỏi tại sao một số linh mục Công giáo đã mắc vào vòng xoáy lạm dụng tình dục trẻ em như vậy, và câu trả lời là cách hành xử này bắt nguồn từ sa nhân cùng cách rút năng lượng của chúng. Không có nghĩa là tất cả các linh mục Công giáo đã lạm dụng trẻ em đều là sa nhân, nhưng chắc chắn họ đã phần nào bị chiếm hữu bởi những sa nhân đang đánh cắp năng lượng của linh mục ngay trong khi chúng cũng đánh cắp năng lượng của trẻ em.

Trong nhiều tôn giáo suốt chiều dài lịch sử đã có khái niệm xem trinh tiết là hệ trọng. Con có thể nói là một đằng, có mong muốn bảo vệ trẻ em khỏi bị quan hệ tình dục quá sớm hay thậm chí có quan hệ với sa nhân. Có một khía cạnh nhân từ trong đó mà nhiều nước dân chủ thế tục hiện đại đã bỏ quên khi các nước này cho rằng việc cho trẻ em ở mọi lứa tuổi quyền tự do quan hệ tình dục nếu các em muốn, có thể đem ra bàn cãi– vì tất nhiên, đây là một điều mọi kẻ ấu dâm đều mơ ước.

Con thấy một phần trọng điểm của cái nhìn truyền thống là để bảo vệ trẻ em, nhưng đồng thời lại có một yếu tố khác xen vào ở đây là người ta đặt thêm trọng điểm vào việc giữ gìn trinh tiết lâu hơn hầu sa nhân có cơ hội đoạt lấy. Và ở đây có sự phối hợp của cái lành mạnh lẫn cái không lành mạnh.

Điều chúng ta có thể nói là việc quan hệ tình dục quá sớm có thể tai hại cho đứa trẻ. Điều này cũng tùy thuộc phần nào vào người đối tác. Nếu có hai em quan hệ với nhau ở tuổi vị thành niên thì sự mất mát sẽ không đến nỗi nghiêm trọng nếu cả hai đều ở trong một trạng thái tâm thức tốt lành. Tuy nhiên, việc giữ gìn trinh tiết lâu hơn vẫn có giá trị, chẳng hạn nếu em trao trinh tiết cho một người yêu chân thành trong một mối quan hệ dài hạn nghiêm túc thay vì xem tình dục là một chuyện hời hợt như nhiều người thường làm. Và chắc chắn ta sẽ nói là tình dục trước tuổi vị thành niên thật không lành mạnh cho bất cứ ai.

Sa nhân tinh vi vô cùng. Trong một vài tôn giáo cổ xưa như đạo Cơ đốc, đạo Do Thái, đạo Hồi, xã hội do nam giới thống trị – một xã hội dựa trên người cha làm trưởng tộc. Như các thày đã giải thích nhiều lần, sa nhân tận dụng sự kiện này vì đối với sa nhân đàn ông dễ kiểm soát hơn phụ nữ. Và người ta tạo ra ý niệm: “Phái nữ có mặt là để phục vụ cho phái nam thỏa mãn tình dục, và người vợ luôn luôn phải quan hệ tình dục với chồng bất cứ khi nào chồng muốn, vân vân.” Một lần nữa điều này bắt nguồn từ sa nhân vì trong bất kỳ loại xã hội nào, các sa nhân đầu thai đều muốn chiếm lấy địa vị có quyền làm bất cứ gì chúng muốn, và sự thể này được xã hội chấp nhận và bào chữa. Đây là điểm mà con cần nhìn thấu suốt trong bất kỳ hoàn cảnh nào trong xã hội, cho dù đó là chuyện tôn giáo hay chuyện gì khác như một chế độ chính trị, bất kể.    

Con có thể nói là trong nhiều hoàn cảnh đã có một ý muốn tốt lành là bảo vệ con người, nhưng sa nhân sẽ luôn luôn tìm cách khuynh đảo ý muốn đó để phục vụ quyền lợi của chúng. Mục đích là để chúng có thể lạm dụng và trốn tránh hậu quả trong khi quần chúng nói chung thì không thể.

Khác biệt giữa tỏa rạng vào tâm thức tập thể và phóng chiếu tâm lý  

Hỏi: Các chân sư có thể vui lòng nhận xét về sự khác biệt giữa việc tỏa rạng vào tâm thức tập thể và việc phóng chiếu tâm lý.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. Đăng ngày 27/1/2023.

Có nhiều cách để mô tả sự việc này. Một sự phóng chiếu tâm lý có thể được xem là một phóng chiếu nhằm can thiệp vào tâm người khác hầu ảnh hưởng đến quyền tự quyết của họ. Có thể có những người – chẳng hạn thành viên trong gia đình con – phóng ra một số cảm xúc, một số ý tưởng hay ngay cả một ý niệm bản sắc vào tâm con, hầu khiến con tự đồng hóa với một nhóm người hay khiến con ở lại trong nhóm đó. Nếu vậy thì đó là một sự phóng chiếu tâm lý vì ý định là để ảnh hưởng tâm con, hạn chế quyền tự quyết của con và giữ con trong một tâm thái nhất định.

Khi các chân sư nói đến việc tỏa rạng vào tâm thức tập thể, chúng tôi không muốn nói đến việc ảnh hưởng đến những chọn lựa mà người khác có thể có. Chúng tôi muốn nói đến việc trao cho họ một chọn lựa, giải thoát họ để họ tự do lấy một chọn lựa mà hiện thời họ không thể lấy vì có những điều họ không thể nhìn thấy.

Khi chúng tôi toả rạng một ý tưởng, hay khi con đọc bài chú bài thỉnh, hay khi con lắng nghe một bài truyền đọc, thì chúng tôi không đang tìm cách ép buộc con người phải lấy một chọn lựa được định sẵn. Chúng tôi cố gắng toả rạng một ý tưởng khiến cho người đó nhìn ra là kỳ thực họ có một số tùy chọn mà họ không thể nhìn thấy trước đó.

Điều này không có nghĩa là chúng tôi đang ảnh hưởng những gì họ chọn lựa mà chỉ mở rộng các chọn lựa mà họ có thể nhìn thấy, và như vậy chúng tôi trao cho họ một sự chọn lựa tự do hơn. Đây là cách giản dị và cơ bản nhất để giải thích điều này.

Tâm thức quả cầu

Hỏi: Các chân sư yêu dấu, chúng con biết là các thày có tâm thức quả cầu (spherical consciousness) và con muốn hiểu tâm thức này biểu hiện thế nào trong hành động. Các thày nhìn trật tự thế giới như thế nào qua tâm thức quả cầu? Con cũng biết một tâm thức đường thẳng thật khó lòng nắm bắt được điều này. Có lẽ cũng giống như cố giải thích mạng internet là gì cho một người thời Trung cổ. Làm thế nào phát triển tâm thức quả cầu? Có thể nào so sánh nó với thần giao cách cảm, khả năng thấu thị, khả năng thông suốt mọi sự hay không? Có phải là khả năng cảm được người khác đang cảm thấy gì? Sự đồng cảm? Khả năng sáng tạo bằng tư tưởng để thay đổi diễn biến ngoại cảnh? Có thể nào phát triển tâm thức quả cầu trên trái đất một khi đạt đủ tâm thức Ki-tô hay tâm thức Phật?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 về Ukraine. Đăng ngày 5/12/2022.

Tất cả những thứ con nói đến – những cái gọi là khả năng siêu nhiên – không thuộc về trạng thái tâm thức quả cầu. Như con cũng đoán, thực tế là con không thể nắm bắt tâm thức quả cầu với một tâm thái đường thẳng. Ngay cả con cũng không thể hiểu bằng tâm thái đường thẳng. Khi nói đến tâm thức quả cầu, hoặc con trải nghiệm được, hoặc con không trải nghiệm được. Nhưng nếu con cố hiểu nó là gì bằng tâm đường thẳng thì con sẽ không đến gần hơn với trải nghiệm đó. Kỳ thực trong nhiều trường hợp, làm như vậy đã cản trở nhiều người có được trải nghiệm, vì họ quá chú tâm vào việc cố hiểu nó với tâm đường thẳng phân tích, quá chú tâm vào việc dán nhãn và mô tả, đến độ họ không thể có được trải nghiệm. Và tất nhiên, chỉ sự trải nghiệm trực tiếp mới xoay chuyển được tâm thức của con.

Nói vậy rồi, thật ra nhiều người trên thế giới và nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã bắt đầu phát triển được tâm thức quả cầu. Có thể nói tâm thức quả cầu là một tiến trình lâu dài, và khởi đầu của tâm thức quả cầu thực sự là khi con nhìn nhận là có điều gì đó để hiểu hay nắm bắt vượt khỏi tầm hiểu hiện thời lẫn tầng tâm thức hiện thời của con. Nói cách khác, các thày đã có nói về tâm trở thành một hệ thống khép kín, tự củng cố, tự chứng thực. Và cách giản dị nhất để diễn tả là bảo rằng cái tâm đó hiển nhiên không phải là tâm thức quả cầu. Khi tâm con đóng chặt nhưng con tưởng là con biết mọi chuyện, con không mở tâm ra để nắm bắt nhiều hơn những gì con biết, thì con không đang trải nghiệm tâm thức quả cầu.

Nhưng một khi con xoay chuyển và nhận ra có gì đó vượt khỏi mức tâm hiện thời của con, vượt khỏi thế giới quan hiện thời của con, thì con đang bắt đầu tiến vào tâm thức quả cầu. Con đang khuếch lớn tâm thức của con để nhận biết có gì đó nằm ngoài tâm con. Ngay cả việc lượng định là con không được làm tới người khác những gì con không muốn người khác làm tới con, cũng là một phần trong các giai đoạn đầu của tâm thức quả cầu. Con có lòng trắc ẩn với người khác. Con công nhận quyền hạn của người khác. Có một số giai đọan khác nhau qua đó con nhận biết càng ngày càng rõ hơn là có gì đó vượt khỏi tâm con, và tất nhiên con có thể nhận biết như vậy khi con đang đầu thai.

Con không thể trải nghiệm hoàn toàn những gì một chân sư thăng thiên trải nghiệm, nhưng con có thể ngày càng đến gần hơn với sự nhận biết rộng lớn là có gì đó vượt khỏi bốn thể phàm, vượt khỏi tâm vỏ ngoài của con. Con nhận biết là có nhiều hơn để hiểu, và trên hết, con không ngừng mở rộng thêm ra, mở rộng nhận biết một cách lần hồi, từng bước một. Có thể nói là tất cả khởi sự với nhận biết đó, rằng có gì đó vượt khỏi mức hiện thời của con. Và sau đó, vấn đề chỉ còn là con sẵn lòng vươn lên cao đến đâu và mở rộng đến đâu để nhận biết những gì vượt khỏi tâm thức đường thẳng của con.  

Các thày có giảng là khi con hiện thân hay ngay cả khi con khởi sự như một dòng sống mới, con có một ý niệm nhận biết hạn hẹp, cục bộ, nhỏ như cái chấm. Con chỉ chú trọng đến chính mình và môi trường lân cận xung quanh con. Tâm thức quả cầu vượt quá sự tập trung vào bản thân, nó mở rộng ý niệm bản ngã của con, nhưng nó cũng nhận ra là luôn luôn sẽ có điều gì đó vượt khỏi ý niệm bản ngã mà con có khi chưa thăng thiên.

Tâm thức quả cầu không phải là một khả năng siêu nhiên nào đó, mà là một sự nhận biết rộng lớn hơn vượt khỏi bản ngã. Có nhiều người bước vào giáo lý tâm linh nghĩ rằng: “Ồ, tôi muốn có khả năng đó. Tôi muốn mình có thể thị hiện bất cứ gì mình muốn, mình có thể thay đổi thế giới, mình có thể hiểu biết mọi chuyện.” Nhưng đây không phải là tâm thức quả cầu, và việc gắng sức đạt được khả năng này thường sẽ chặn đứng người đệ tử, bởi vì tại sao họ lại muốn vậy chứ? Là vì họ vẫn tự xem mình là một sinh thể tách biệt, họ vẫn muốn sự nhận biết hay khả năng làm những chuyện siêu nhiên đó trong tư cách một sinh thể tách biệt, để họ có thể nâng bản thân họ lên như một sinh thể tách biệt trong tâm họ hay trong tâm người khác.

Nhưng chừng nào con còn cố đạt những khả năng đó như một sinh thể tách biệt thì thật vậy, đó không phải là quả vị Ki-tô. Đây là con đường tay trái khi con cố trở thành một pháp sư ma thuật đen với một vài kỹ năng thao tác sự vật. Nhưng đây không là quả vị Ki-tô và chắc chắn cũng không phải là nhận biết quả cầu. Con chỉ càng ngày càng bị kẹt hơn vào ý niệm bản ngã tách biệt cục bộ.

Điều gì sẽ quyết định kiếp sống tới?

Hỏi: Phật giáo Tây Tạng dạy rằng ý nghĩ cuối cùng trước khi qua đời sẽ quyết định kiếp đầu thai sắp tới của mình. Điều này có vẻ hơi không thỏa đáng đối với con. Chẳng hạn, nếu một người đã tu tập trên con đường tâm linh nhiều năm trời nhưng trước khi rời thân xác họ lại cảm thấy một nỗi sợ chết mãnh liệt, thì điều này sẽ ảnh hưởng kiếp đầu thai tới của họ như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 về Ukraine. Đăng ngày 5/12/2022.

Phật giáo Tây Tạng mang mốt số yếu tố điển hình của cái mà các thày đã gọi là con đường vỏ ngoài, con đường máy móc. Con có thể nhìn vào sự kiện họ có những chiếc bánh xe cầu nguyện có ghi những lời cầu nguyện. Thay vì trì tụng lời kinh trên bánh xe, họ lại quay bánh xe và cho rằng làm như vậy sẽ cân bằng nghiệp quả của họ. Họ cũng tạo nên ý tưởng là họ cần bỏ ra cả đời chuẩn bị tâm trí cho giây phút lâm chung vật lý, để họ có thể có những ý nghĩ sẽ đảm bảo một kiếp hiện thân tối hảo cho kiếp sau.

Tất nhiên con nói đúng hoàn toàn khi con bảo rằng điều sẽ quyết định kiếp sống tới của con không phải là ý nghĩ cuối cùng trước khi xác thân qua đời, mà là tổng thể trạng thái tâm thức của con. Tất cả những tiến bộ mà con đã đạt được trong kiếp này là điều sẽ định đoạt nơi con sẽ đi đến bằng từ trường sau khi con rời xác thân, và những tiến bộ con đạt được giữa hai kiếp hiện thân sẽ định đoạt hoàn cảnh mà con sẽ sinh trưởng trong kiếp sống tới – nếu có.

Như các thày đã giải thích rất nhiều lần, vấn đề chủ yếu là con giải quyết tâm lý của con. Trong Phật giáo Tây Tạng không đề cập nhiều đến việc giải quyết tâm lý – và cũng tương tự như vậy trong đạo Cơ đốc chính mạch cùng hầu hết các tôn giáo chính mạch khác. Đây là một chỉ dấu cho thấy là Phật giáo Tây Tạng, mặc dù những lời khẳng định được đưa ra, hoàn toàn xa rời giáo lý nguyên thủy của ta trên nhiều mặt, cũng như xa rời các giáo lý mà các chân sư thăng thiên trao truyền ngày hôm nay.

Những nguyên nhân của vô sinh

Hỏi: Xin thày giúp chúng con có tầm hiểu cao hơn về vô sinh (không có khả năng sinh sản) ở cả nam lẫn nữ? Xin thày chia sẻ một số lời khuyên thiết thực để đem lại quân bình cho bốn thể phàm, và làm cách nào hỗ trợ việc đồng sáng tạo một đứa bé cho cả nam lẫn nữ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary, nhân Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Hồi phục nền Dân chủ. Đăng ngày 14/11/2022.

Vô sinh có những nguyên nhân vật lý cũng như những nguyên nhân phi vật lý. Tất nhiên là có thể có những yếu tố di truyền gây ra vô sinh, có thể có những sự mất quân bình hóa học trong cơ thể, có thể có điều mà con gọi là bệnh tật trong cơ thể có thể gây ra vô sinh.

Ở mức sâu xa hơn, có thể có những lý do tâm linh mà chúng ta có thể gọi là lý do tâm lý cho vô sinh. Trong một vài trường hợp, lý do chỉ giản dị là vì việc có con không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của người muốn làm cha mẹ. Họ bị ngăn chặn trong việc thụ thai một đứa bé trong thể vật lý. Trong một số trường hợp – rất ít – họ có thể mong muốn có con trong tâm ý thức nhưng bị tâm tiềm thức ngăn chặn. Nhưng có rất nhiều trường hợp vô sinh đi ngược trở về những kiếp trước và một tâm lý chưa giải quyết.

Có những gia đình đã từng tái đầu thai cùng với nhau rất nhiều lần – cùng những linh hồn, cùng những dòng sống – nhưng họ lại không tăng trưởng khi đầu thai với nhau. Cho nên có thể có trường hợp càng ngày càng có tình trạng vô sinh trong các thế hệ mới để khiến họ không thể tiếp tục đầu thai trong cùng gia đình.

Cũng có trường hợp những người đã từng xâm hại trẻ em trong kiếp trước, và vì vậy họ bị nghiệp lực ngăn chặn không cho có con. Có những trường hợp cha mẹ không muốn có con vì đủ loại lý do khác nhau, cho nên ở tầng tiềm thức có một điểm nghẽn ảnh hưởng đến cơ thể vật lý cùng khả năng thụ thai.

Nếu con là một người tâm linh, tất nhiên con có thể sử dụng các dụng cụ của chân sư thăng thiên để chữa lành bất kỳ ngã tách biệt nào, bất kỳ tâm lý nào chưa được giải quyết từ tiền kiếp, và điều này sẽ hiệu quả trong một số trường hợp – nhưng không phải trong mọi trường hợp. Bởi vì như ta vừa nói, nếu việc có con không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì con thật sự không thể làm được gì nhiều để tạo ra khả năng sinh sản vật lý.

Còn đối với những ai không tâm linh, họ không thể làm được gì nhiều, và ta cũng không thể khuyên nhủ được gì nhiều vì họ không cởi mở với một giải pháp tâm linh.

Đương đầu với tuổi già

Hỏi: Con có ý chí muốn sống, tuy vậy con không thích sống trong đau đớn thể xác cũng như trong nỗi sợ hãi những gì đi kèm với tiến trình chết trên trái đất. Những người đau ốm, làm thế nào họ bước chân được trên đường tu khi họ bị bệnh tật hay bệnh kinh niên, khi hầu hết nếu không muốn nói là tất cả sự chú ý của họ đều dồn vào việc điều trị cơ thể vật lý? Người ta bảo rằng lìa đời dễ hơn sinh ra đời. Thế nhưng nếu khi làm vậy, chúng con phải chịu nhiều năm trời đau đớn, làm thế nào chúng con có thể kiên trì để mà tinh tấn khi niềm an ủi duy nhất mà chúng con tìm cầu là thoát khỏi cơn đau và bước ra ngoài thân xác? Một số học trò của các chân sư thăng thiên đã lớn tuổi và không còn được hưởng sức khỏe tương đối nữa.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Sự phục sinh của dân chủ. Đăng ngày 11/11/2022.

Lẽ tự nhiên, ta hoàn toàn thông cảm hoàn cảnh của con và cũng là hoàn cảnh của nhiều người. Và lẽ tự nhiên, ta có lòng từ bi. Tuy nhiên, thực tế là trong hiện trạng của địa cầu với độ dày đặc hiện nay của vật chất lẫn độ dày đặc của tâm thức tập thể, sẽ có những người, kể cả những người tâm linh, phải chịu nhiều loại bệnh tật trong tuổi già.

Các chân sư đã đề cập đến điều này nhiều lần, rằng có thể có một số lý do – ngay cả không phải là do nghiệp chướng cá nhân của con – nhưng có một điều gì đó mà con đã nhận vào, và con đang giữ sự cân bằng tâm linh cho trái đất, vân vân.

Điều ta khuyên con làm là con hãy tự giải thoát ra khỏi một số chờ đợi mà có thể con đang có về thế nào là một người tâm linh. Một số các con đã tự đẩy mình vào tình cảnh cảm thấy mình phải nỗ lực thật nhiều, chẳng hạn phải đọc bao nhiều bài thỉnh bài chú, và càng ngày con sẽ càng cảm thấy khó lòng nào chu toàn được vì cơ thể của mình không cho phép.

Con hãy thoát ra khỏi những chờ đợi đó, hầu con làm tất cả mọi thứ con có thể làm mà không cảm thấy đó là gánh nặng. Con cũng có thể xoay chuyển và nhận ra rằng một căn bệnh, cho dù đau đớn hay khó chịu đến chừng nào, cũng có thể được xem là một cơ hội để giải quyết toàn bộ tâm thức của con chung quanh cơ thể vật lý. Khi con nhìn con người sống trên trái đất, con thấy nhiều người bị dính mắc vào thân xác của mình, dính mắc với sự kiện mình phải trẻ trung, phải mạnh khỏe, phải cường tráng và có khả năng làm được bất cứ gì mình muốn với một cơ thể. Và nếu con không thể làm được như vậy thì ta khuyên con nên xoay chuyển. Con có thể học các giáo lý mà các chân sư đã ban truyền. Con cũng có thể tìm đến những giáo lý khác nhấn mạnh đặc biệt đến cách khắc phục sự dính mắc với xác thân, sự lệ thuộc vào xác thân, xoay chuyển sự nhận biết của con về xác thân.

Ta cũng khuyên con nên sử dụng các dụng cụ mà các thày đã ban truyền về cách cải sửa tâm lý của mình trong các vấn đề sâu xa hơn. Những quyển sách mà con hiện đang dùng trong chương trình canh thức hiện nay, con hãy học hỏi từng quyển một. Hãy xem xét thái độ của mình đối với cơ thể, đối với cõi vật lý của con, và hãy nhìn ra rằng rốt cuộc, một khi con sẵn sàng thăng thiên thì không những con sẽ bỏ lại cái thân xác vật lý mà con đang có bây giờ, mà con cũng sẽ bỏ lại bất kỳ khả năng nào để bước vào một thân xác vật lý mới. Nếu con quyết tâm thăng thiên, điều sẽ vô cùng xây dựng cho con là con nỗ lực khắc phục mọi dính mắc đối với thân xác vật lý. Và tất nhiên, sự dính mắc này chỉ có thể ngụ trong những cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra, thường thường trong nhiều tiền kiếp. Con hãy sử dụng tất cả thời gian con có, tất cả sự chú ý con có, để làm công việc này. Con hãy thỉnh sự giúp đỡ của các thày. Hãy sử dụng các dụng cụ để thỉnh cầu các thày giúp con nhìn ra những gì con có thể nhìn thấy về cơ thể vật lý.

Con hãy nỗ lực chuyển đổi thái độ của mình. Hãy tự hỏi: “Cái gì ngăn cản tôi bỏ lại không chỉ thân xác vật lý này mà cả mọi khả năng đầu thai trong vật lý? Liệu tôi có thực sự sẵn sàng thăng thiên hay không? Hay liệu tôi vẫn còn một cái ngã nào đó đang bám chặt lấy việc ngụ trong một xác thân vật lý, và ngã này có thể ngăn cản tôi bỏ lại địa cầu vĩnh viễn và toàn diện?”

Con hãy làm công việc này. Tìm cách phơi bày những cái ngã đó rồi giải thoát cho mình được tự do, không dính mắc với cơ thể càng nhiều càng tốt. Và chính khi con làm như thế thì việc đương đầu với bệnh tật, đương đầu với nỗi đau, cũng sẽ dễ dàng hơn. Và do đó nó sẽ cho con một cuộc sống thoải mái hơn trong những năm cuối cùng của kiếp sống này.

Trung thành với lãnh đạo và vấn đề nghiệp quả

Hỏi: Nếu con là một người ái quốc và hỗ trợ người lãnh đạo nước con nhưng lãnh đạo đó là một sa nhân, thì liệu con có sẽ chịu chung cùng nghiệp với ông ấy hay không? Con có trao năng lượng của con cho ông ấy hay không? Và khi con là đệ tử của chân sư thăng thiên và con nâng cao tâm thức của mình, con có góp phần vào việc gia tốc hành tinh hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô. Đăng ngày 19/6/2022.

Chúng ta hãy bắt đầu với câu hỏi đầu tiên. Nếu con là một người yêu nước và con trung thành với người lãnh đạo của nước con, thì dù người đó có là sa nhân hay không là sa nhân, con vẫn sẽ gánh chịu một phần của nghiệp chướng do người đó tạo ra. Đây chính là cách thức mà hết lần này đến lần nọ, các sa nhân đã khiến cho mọi người phải chia sẻ phần nào nghiệp chướng do chúng gây ra. Nếu con là đệ tử của chân sư thăng thiên, con sẽ không muốn đặt mình vào một vị thế như vậy.

Chúng tôi đã từng nói, và nếu con đọc các bài truyền đọc trong cuộc hội thảo trực tuyến về nước Nga, thì con cần phân biệt giữa nước con và nhà lãnh đạo của nước con. Đặc biệt con cần phân biệt giữa nước con và người dân nước con. Con có thể cảm nhận một tình đồng bào với người dân nước con, nhưng con không thể cho phép mình ủng hộ hay đi theo nhà lãnh đạo mà không suy xét.

Liệu con có trao năng lượng của con cho lãnh đạo nước con nếu con trung thành với họ? Con yêu dấu, nếu con là đệ tử của chân sư thăng thiên và con đã để ý tới những gì chúng tôi giảng dạy, thì con phải biết câu trả lời là gì. Tất nhiên là con sẽ trao năng lượng cho họ. Làm thế nào mà không được? Một lần nữa như chúng tôi có nói, con không thể tự xem mình trước tiên là một người Nga hay người Mỹ hay người gì đi nữa, rồi thứ đến con mới xem mình là một đệ tử của chân sư thăng thiên. Con cần xem mình là một sinh thể tâm linh trước hết, rồi sau đó mọi thứ khác đều ít quan trọng hơn. Và nếu con là một sinh thể tâm linh thì con sẽ không thực là một “nhà yêu nước” như người ta thường gọi. Những ai trung thành với Donald Trump và tin vào những lời gian dối của ông về cuộc bầu cử, đang chia sẻ một phần nghiệp quả mà ông gây ra – họ đang trao năng lượng của họ cho ông ấy.

Về câu hỏi chót của con, liệu con có thể giúp nâng cao tâm thức tập thể khi con là đệ tử của chân sư thăng thiên hay không? Có chứ, miễn là con cũng nâng cao tâm thức của con. Nhưng nếu con trung thành với một lãnh đạo là sa nhân, thì mức độ nâng cao tâm thức cá nhân của con sẽ bị hạn chế, và điều này cũng sẽ hạn chế những gì con có thể đóng góp cho việc nâng cao tâm thức tập thể.

Con thấy đó, con yêu dấu, con cần nhìn nhận một điều khi con là đệ tử của chân sư: Luật nghiệp quả sẽ vẫn áp dụng cho con dù con đã tu tập giáo lý của chân sư. Con cần nhìn xem giáo lý của chúng tôi nói gì và rút tỉa những kết luận hiển nhiên. Và con cần ngừng trao năng lượng của con cho sa nhân, ngừng trung thành với sa nhân cùng các lý tưởng và ý thức hệ của sa nhân. Nếu không, con sẽ tạo nghiệp.

Alexander Đại đế có phải là một sa nhân?

Hỏi: Alexander Đại đế có phải là một sa nhân?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 28/10/2021.

Phải.

Tạo nghiệp khi bình luận trên internet

Hỏi: Khi con bình luận trên internet, liệu điều đó có tạo nghiệp hay không? Và có cần thiết phải viết bình luận trên internet để tạo ảnh hưởng ích lợi cho người khác hay không? Hay là con chỉ cần nỗ lực nâng cao tâm thức mình để thăng thiên và thỉnh cầu các chân sư thăng thiên qua các bài thỉnh và như vậy là đủ rồi?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Con yêu dấu, đây là một câu hỏi quan trọng. Bởi vì tuy rằng chuyện này khá hiển nhiên, nhưng có nhiều người và ngay cả những học trò của chân sư thăng thiên, vẫn có vẻ tin rằng việc viết bình luận trên internet không tạo ra nghiệp quả. Nhưng làm sao không tạo nghiệp được khi mọi việc con làm đều tạo nghiệp? Nếu con viết bình luận trên internet ảnh hưởng đến người khác thì hiển nhiên con sẽ tạo nghiệp. Nếu con bình luận về người khác và những bình luận này có tác động khiến người ta bị hạn chế, con sẽ tạo nghiệp.

Con nhìn xem ngày nay một câu bình luận trên Facebook có thể được rất, rất nhiều người chia sẻ. Nếu con lên Facebook và nhìn xem một số bài đăng có hàng triệu lượt “thích” hay hàng triệu lượt “chia sẻ”, thì trong một số trường hợp, người khởi đầu câu viết đó đã tạo ra nghiệp quả khủng khiếp, bởi vì họ đã ảnh hưởng đến vô số người. Con lan truyền một số bình luận không đúng sự thật, không gắn liền với thực tế, cho dù là về đề tài này hay đề tài nọ, điều đó không quan trọng, vì tất nhiên là con đang tạo nghiệp khi con làm vậy. Làm sao mà không tạo được? Con đang ảnh hưởng đến người khác.

Về câu hỏi là có cần thiết viết bình luận trên mạng hay không, đây là một vấn đề cá nhân. Chắc chắn con có thể, ít ra là một thời gian, tập trung vào việc học hỏi giáo lý của chân sư thăng thiên, dùng sách của chân sư, rồi có thể con sẽ lần hồi nhận được một sự nhắc nhở từ trực giác bảo con nên bình luận một điều gì đó trên internet. Con không muốn tứ ép buộc mình phải bình luận bằng tâm vỏ ngoài, và con cũng không muốn để cho tâm vỏ ngoài ép buộc con không được bình luận. Tất nhiên khi ta nói là con tạo nghiệp, đó có thể là cái mà người ta thường gọi là nghiệp quả tốt hay nghiệp quả xấu. Nói cách khác, có nghiệp quả sẽ giới hạn con bằng cách giới hạn người khác, và có nghiệp quả sẽ giúp con tăng trưởng bằng cách giúp đỡ người khác.

Con cần phải tương đối chắc chắn là những thông tin mà con chia sẻ là chính đáng. Vì bằng không, con có thể tạo ra một lượng nghiệp quả khá lớn chỉ qua một câu bình luận trên Facebook được nhiều người chia sẻ, hay qua chính con chia sẻ một lời bình luận được người khác chia sẻ tiếp, và câu nói đó cứ lan ra như những vòng tròn lan rộng trên mặt hồ. Con thử nghĩ xem trước thời kỷ internet, con chỉ tương tác với một số người nào đó thôi qua một số phương cách vật lý, như con chỉ có thể tương tác qua gặp mặt trực tiếp, gọi điện thoại hay viết thư vân vân, cho nên nghiệp quả mà con có thể tạo ra cũng có giới hạn. Nhưng với internet, một câu viết trên Facebook có thể được rất nhiều người chia sẻ, thì bỗng nhiên nghiệp quả cũng tăng nhanh gấp bội hơn trước.

Có cần thay đổi quá khứ hay không?

Hỏi: Con biết là vũ trụ là một vũ trụ đa chiều kích nơi quá khứ, hiện tại và tương lai trải bày ra cùng một lúc. Nếu vậy thì con có thể nào đi ngược trở về cõi quá khứ và thay đổi nghiệp quả bằng cách tiếp cận với dải tần số trong vũ trụ đa chiều kích, hầu sửa chữa những sự việc trong quá khứ ảnh hưởng đến con trong hiện tại?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Làm cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Trước hết, con cần nhìn nhận ở đây là con người thời đại hôm nay có một lối suy nghĩ đặc thù. Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã gọi tư duy này là tâm phân tích, đường thẳng. Con người có xu hướng nhìn mỗi ý tưởng xuyên qua tư duy này, rồi diễn giải nó theo một cách mà tâm có thể nắm bắt. Và điều này đã khiến cho một số người – dựa trên các giáo lý tâm linh, dựa trên các trải nghiệm cận tử hay bất cứ gì khác mà họ đã sống qua – nảy sinh ra ý tưởng là họ đang sống trong một vũ trụ đa chiều kích nơi quá khứ, hiện tại và tương lai trải bày ra cùng một lúc. Nếu con xem xét ý tưởng này chặt chẽ một chút, nó thật sự có nghĩa là gì?

Nó có nghĩa là quá khứ, hiện tại và tương lai diễn ra cùng một lượt. Nhưng khái niệm thời gian chẳng phải là để chia trải nghiệm ra thành ba giai đoạn riêng rẽ hay sao: quá khứ, hiện tại, tương lai? Làm thế nào thời gian có thể trải ra cùng một lúc nếu thời gian là một tiến trình đường thẳng? Con có hiểu ta đang cố làm gì ở đây chăng? Ta đang cố vô hiệu hóa cái tâm đường thẳng đó.

Đúng vậy, có nhiều điều có thể được nắm bắt trong vũ trụ hơn là những gì tâm đường thẳng có thể nắm bắt. Nhưng vấn đề xảy ra cho nhiều người đang bước trên đường tu tâm linh là họ cố dùng tâm đường thẳng để vượt ra ngoài tâm đường thẳng. Họ đang cố diễn đạt bằng ngôn từ những gì không thể diễn đạt bằng ngôn từ mà chỉ có thể được trải nghiệm. Một số người đã có những trải nghiệm tâm linh. Một số người đã có trải nghiệm cận tử. Và khi họ trở về, họ mong muốn mãnh liệt chia sẻ những trải nghiệm đó với người khác. Và làm thế nào chia sẻ được đây? Bằng ngôn từ. Và ngôn từ được sử dụng thế nào trong thế giới hiện đại? Qua tâm đường thẳng. Thế là họ cố sức đem vào trong bối cảnh đường thẳng một cái gì vượt ra khỏi tâm đường thẳng, một trải nghiệm vượt ra khỏi tâm đường thẳng.

Để trả lời câu hỏi của con một cách cụ thể hơn là con có thể nào đi ngược trở về quá khứ để sửa chữa lỗi lầm của mình hay không. Chúng tôi đã từng bình luận trước đây về giả thuyết con có một cỗ máy thời gian và con có khả năng du hành ngược trở lại trong xác thân để sửa lỗi lầm trong quá khứ. Nhưng một lần nữa, đây là một khái niệm vô nghĩa. Quá khứ hoàn toàn không quan trọng. Những gì đã xảy ra trong quá khứ không có gì quan trọng đối với hiện tại. Điều quan trọng ngay bây giờ là những gì con đã mang theo con từ quá khứ. Và một phần, đó là năng lượng tha hóa mà người ta thường gọi là nghiệp chướng, và phần khác là một số niềm tin, một số ngã tách biệt trong bốn thể phàm của con.

Con không cần trở về quá khứ để thay đổi, biến hóa cái nghiệp đó của con. Con chỉ cần hành động trong hiện tại. Con cũng không cần trở về quá khứ để giải quyết tâm lý của mình. Con chỉ cần xem xét nó bây giờ, sử dụng các dụng cụ mà chúng tôi đã trao cho con, giải quyết nó và để cho những cái ngã tách biệt đó chết đi. Tại sao con lại cần trở về quá khứ chứ? Thật là không cần thiết.

Con có thể làm một điều xây dựng hơn, là con nói: “Ngay bây giờ, tôi đang mang quá khứ của tôi trong tôi, theo nghĩa là tôi đang mang cái nghiệp đó và những ngã tách biệt đó cùng những chấn thương và ảo tưởng mà trong quá khứ tôi đã cho phép đi vào ba thể cao của tôi. Và nếu tôi không thay đổi những gì đang nằm ở ngay đây, những gì tôi đang mang theo tôi từ quá khứ, thì không những nó sẽ tác động hiện tại của tôi mà nó cũng sẽ tác động tương lai của tôi.” Bởi vì ngay lúc này, con có thể nhìn vào những khuynh hướng mà con đã có trong quá khứ và từ đó con có thể phóng chiếu ra những gì sẽ diễn ra trong tương lai, bởi vì con sẽ lặp đi lặp lại hoài hoài cùng các khuôn nếp đó cho tới khi con khắc phục được ngã tách biệt. Và về điểm này, con có thể nói là con đang mang theo quá khứ của con với con, và nếu con không thay đổi nó thì con sẽ mang nó theo con vào tương lai. Và nó sẽ tác động con y như nó đang tác động con bây giờ.      

Ta cũng biết, nhiều người sẽ khó lòng nắm bắt được những khái niệm này. Nhưng như ta vừa trình bày, đó là vì họ cố dùng tâm đường thẳng để làm một chuyện mà tâm đường thẳng không thể làm. Và có lẽ đây chính là điểm bế tắc to lớn nhất tại các quốc gia tân tiến. Có quá nhiều người tập trung vào tầng mức của lý trí; họ đã sẵn sàng để bước lên và tập trung vào tầng mức của bản sắc, nhưng họ không thể nào bước lên cao hơn vì họ bị kẹt cứng, họ quá dính mắc vào tâm đường thẳng, vào tâm phân tích. Họ muốn tạo ra, và họ luôn luôn tạo ra một con đường thẳng tắp cho tất cả mọi chuyện, xong họ muốn đặt tất cả mọi thứ trên cái đường thẳng đó, và mọi thứ phải diễn ra ngăn nắp toàn hảo, hết cái này dẫn đến cái kia rồi đến cái nọ, để cuối cùng họ đạt được một kết quả ngon lành như trong một phương trình toán học.

Nhưng mặc dù trong đời sống cũng có một chút toán học và những con số, nhưng con đường tâm linh không phải là một tiến trình toán học. Đó là một tiến trình sáng tạo. Không có công thức nào cả. Không có công thức nào hết. Có những công thức sẽ giới hạn con người, như con có thể nói là nghiệp của con và tâm lý của con từ tiền kiếp hình thành những công thức. Và nếu con không thay đổi bất cứ gì trong phương trình đó, thì lời giải cho phương trình sẽ nằm sẵn ở một thời điểm trong quá khứ.

Ở bất cứ thời điểm nào trong quá khứ, con có thể nhìn vào điểm đó và nói là nếu con không thay đồi gì hết từ giờ trở đi, thì đó là kết quả mà con sẽ nhận được trong mười năm nữa. Nhưng con luôn luôn có một chọn lựa, đó là con thay đổi phương trình một cách sáng tạo, và điều này sẽ thay đổi kết quả đạt được. Đây là cách duy nhất mà bất cứ gì có thể được thay đổi, bởi vì nếu không, vũ trụ này sẽ chỉ là một cỗ máy – là cỗ máy mà các nhà vật lý đã mường tượng trong các thế kỷ trước, nơi điều kiện tiên khởi của cỗ máy hoàn toàn định đoạt kết quả chung cuộc của nó.

Các đạo sư nổi tiếng và tâm thức tập thể

Hỏi: Tại Hàn quốc có một số vị đạo sư độc lập nổi tiếng. Họ chỉ giảng dạy giáo lý tối thượng của họ về giác ngộ – tội lỗi – cho những ai quan tâm đến cách giải thích ngắn gọn của họ về tội lỗi mà không nhắc gì đến các chân sư thăng thiên, các sa nhân hay cả sự tái đầu thai của linh hồn con người. Là học trò của chân sư thăng thiên, đâu là quan điểm hay nhất và mối quan hệ tốt nhất với họ trong thời hoàng kim? Liệu chúng con xem họ là thày giả hay đạo sư chưa chứng đạt hay gì khác? Con mong được nghe ý kiến của thày Saint Germain về vấn đề này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là Cửa mở cho Hành tinh Địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Ta không thể cho con một câu trả lời tổng quát vì vấn đề này rất cá nhân: Đâu là vai trò của con, điều gì được thảo vào Sứ vụ Thiêng liêng của con? Điều ta có thể nói một cách chung chung là bất kỳ vị đạo sư nào có được một số tín đồ hay một tiếng tăm nào đó tại một quốc gia là vì vị đó đã tìm ra cách thu hút một điều gì trong tâm thức tập thể. Nói cách khác, một số người tại nước đó cần đến trải nghiệm đặc thù đó để có thể học hỏi bài học của họ, và may ra họ sẽ phát triển được khả năng phân biện sẽ dẫn đến một dạng đạo sư cao hơn.

Có rất nhiều người – và con sẽ tìm thấy họ không những tại Hàn quốc mà khắp mọi nơi – xem sự phát triển tâm linh như một phương cách để cất mình lên cao. Nói cách khác, họ chỉ tập trung vào chính họ, họ tự nhấc mình lên một mức tâm thức cao hơn hầu họ có thể hoặc cảm thấy mình trội hơn mọi người, hoặc họ đứng ra đằng trước và chứng tỏ tính ưu việt của mình hầu ai nấy phải kính trọng, hay thậm chí đi theo hay tôn thờ mình.

Có một nhóm người bị hấp dẫn bởi loại đạo sư này, là các đạo sư với những lời tuyên bố trau chuốt về trình độ tâm thức của mình hay mức hiểu biết cao cấp của mình. Đơn giản là các tín đồ đó cần đến trải nghiệm đó trong một thời gian trước khi may ra họ sẽ chán chê để vươn lên một mức phân biện cao hơn và nhận ra loại đạo sư nào có khả năng đưa họ lên một trạng thái tâm thức cao hơn, hay loại đạo sư sẽ giữ họ kẹt lại trong ngõ cụt tâm linh nơi họ có thể cảm thấy mình cao trội nhưng không thật sự tinh tấn.     

Là một học trò của chân sư thăng thiên, con có thể hỏi: “À cái đó là gì đối với con?” Hầu hết các con có thể an toàn mà bỏ qua những loại đạo sư này. Nhưng nếu con có liên hệ với những người đi theo một đạo sư như vậy hoặc nếu chính con đã từng đi theo, thì có thể việc tìm cách giúp họ nhìn thấy nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng trong đa số trường hợp, con sẽ không giúp được gì bằng cách chạm trán với loại đạo sư đó, mà trái lại con có thể giúp cá nhân từng người bước lên một tầm hiểu cao hơn về loại thày tâm linh mà họ thật muốn. Và con có thể giúp họ nhìn ra là nếu có ai tìm cách thổi phồng tư cách, sự chứng đạt hay sự cao trội của mình, thì người đó đã không thực sự đạt đến một tầng tâm thức cao lắm.

Bởi vì khi con đạt đến các tầng cao hơn trên đường tu tâm linh, con buông bỏ ngã tách biệt và con không tìm cách nhấc mình lên cao. Con tìm cách nâng người khác lên cao. Con tìm cách nâng toàn thể lên cao. Con tìm cách giúp đỡ người khác.

Một lần nữa, đây là một vấn đề cá nhân, tùy cá nhân con cảm thấy thế nào. Nhưng ta khuyến khích con không nên dùng tâm vỏ ngoài để tự ép mình phải làm gì, mà chỉ đơn giản tập trung vào việc nâng cao tâm thức của mình, rồi để yên cho trực giác thúc giục con từ bên trong. Nó có thể sẽ gợi ý con nên làm gì và làm cách nào.

Dùng trí năng để hiểu các khái niệm tâm linh xưa

Hỏi: Con xin được hỏi thày Gautama. Khi thày hiện thân trên trái đất, thày đã dạy các đệ tử về Niết bàn và các bậc A la hán. Các lời dạy thuở đó đưa ra khái niệm thế nào? Và có thật là thày đã dạy Vipassana và sự tĩnh lặng như một pháp tu của đạo Phật dẫn đến Niết bàn hay chăng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Đúng là ta đã dạy nhiều giáo lý khác nhau. Một số đã trở thành Vipassana hay các giáo lý tâm linh khác hay các phép tu của Phật giáo. Tất nhiên ta cũng đã dạy về các khái niệm Niết bàn, giác ngộ cùng những khái niệm khác. Điều quan trọng con cần hiểu ở đây là câu hỏi con vừa đặt ra được hỏi từ tầng cấp lý trí. Con đang tìm cách dùng trí năng để cố hiểu người ta trải nghiệm các khái niệm đó như thế nào 2500 năm về trước.

Trước hết, điều này không thể làm được vì tâm thức tập thể trên địa cầu đã được nâng cao trong suốt 2500 năm đó. Không có cách nào con có thể thực sự nắm bắt mà dựa trên trải nghiệm con đang có ngày hôm nay, con không thể nắm bắt bằng trí thức cách con người thời đó nhìn các khái niệm này như thế nào.

Nhưng hơn nữa vào thời đó, con người không hiểu khái niệm một cách trí thức. Họ trải nghiệm. Con cũng có tiềm năng trải nghiệm như vậy, nhưng điều này hầu như không thể vì tâm thức tập thể đã tiến bước rồi. Con không thể thực sự lĩnh hội cách người ta nhìn cuộc đời như thế nào vào thời đó.

Nhưng con muốn trải nghiệm chuyện đó để làm gì chứ? Thực tế là con người vào thời đó rất ít trí thức như bây giờ. Điều này không nhất thiết là một điều tích cực nhưng nó cũng có một vài khía cạnh tích cực, theo nghĩa họ là những sinh thể sống bằng trải nghiệm, cho nên họ có thể trải nghiệm một giáo lý hay một pháp tu dễ dàng hơn, họ không mang vào lớp phủ của lý trí – một lớp phủ mà quá nhiều người trong thế giới hiện đại, đặc biệt là tại phương Tây, khoác vào.

Thật sự điều quan trọng cho con trong thời đại này là con không nên cố gắng dùng trí năng để hiểu các lời dạy, cho dù đó là lời dạy của đạo Phật mà ta đã ban ra thuở đó hay là lời dạy của các chân sư thăng thiên ngày hôm nay. Mà con tìm cách trải nghiệm thực tại sâu xa đằng sau lời dạy.

Điều này không có nghĩa là con không sử dụng tâm suy luận để xây dựng một hiểu biết nào đó về đường tu tâm linh cũng như về vũ trụ, nhưng nếu đó là tất cả những gì con rút tỉa được từ lời dạy thì con đã không hoàn thành được tiềm năng đầy đủ của lời dạy.

Trải nghiệm cái Một cùng lúc với lòng thù hận

Hỏi: Hôm trước khi thiền quán, con đã có trải nghiệm thần bí là con biến mất và thân thể con cũng biến mất. Tất cả mọi thứ đều là một, không có gì mà không phải là con. Trải nghiệm này không thể diễn tả được bằng lời. Thật là một niềm hỷ lạc tuyệt diệu mà con chưa bao giờ kinh qua. Từ khi có trải nghiệm này và cho dù con chưa từng theo một tôn giáo nào, con đã hiểu được Kinh thánh cùng kinh Phật.

Lý do con đã bắt đầu tu học tâm linh là vì con muốn tự giải thoát khỏi nỗi đau xung đột với gia đình chồng con. Giờ đây con đã dần dần nhận ra là tình trạng xung đột này chính là chọn lựa của con. Nhưng khi con ở trong khoảnh khắc hợp nhất tuyệt diệu và chợt nhớ đến gia đình chồng con, thì con vẫn cảm thấy oán giận trong con. Trời, ngay cả trong giây phút hỷ lạc tuyệt diệu đó mà vẫn còn thù hận sao? Xin thày giảng tại sao lại như vậy?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 26/10/2021.

Như các thày đã có giải thích, cái Ta Biết có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm và có được một trải nghiệm tâm linh. Nhưng đối với một số người đã mở tâm ra để xem xét bản thân mình, vẫn có khả năng là họ có một trải nghiệm hỷ lạc mà vẫn nghiệm thấy rằng trong lúc họ đang có trải nghiệm đó, trong tâm thức họ còn điều gì chưa giải quyết. Và chính điều này sẽ cho con viễn quan là cho dù con còn mang nỗi hận này trong con, nó thật không đáng kể gì so với niềm hỷ lạc mà con đã trải qua. Nhờ vậy, con sẽ dễ dàng hơn tách mình ra khỏi nó, xem xét nó một cách trung hòa và quyết định để cho nó ra đi.

Hiển nhiên con có một ngã tách biệt đang bám víu lấy nỗi giận này, có lẽ từ những kiếp trước. Một lần nữa, con hãy dùng các dụng cụ tâm linh, dùng sách của các thày để phơi bày ngã tách biệt này. Con hãy tìm xem tại sao con lại cảm thấy oán giận, xong nhận ra là nỗi oán giận này không hề có giải pháp. Cách duy nhất để con được tự do là để cho ngã tách biệt chết đi. Đây không phải là chuyện thay đổi nó, trừng phạt nó hay thậm chí thay đổi bản thân con, mà đây là chuyện để cho ngã tách biệt chết, tha thứ nó hầu con có thể tự do bước tới trong đời mình.

Phật (tánh) dưới dạng thực vật hay động vật

Hỏi: Theo kinh văn đạo Phật, đức Phật có nói rằng trong một số tiền kiếp, ngài từng là cỏ cây hay thú vật. Điều này có thật và chính xác hay không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Tiến tới Quan hệ Thời Hoàng kim. Đăng ngày 14/10/2021.

Một lần nữa, đây là ví dụ một câu hỏi không thể trả lời “có” hay “không”, bởi vì tất cả tùy thuộc vào cách con nhìn những khái niệm này. Con cần nhìn rời ra – một điều mà hầu hết mọi người không làm được. Con cần phân biện giữa Phật như một hiện thân vật lý, một con người vật lý, với Phật như một tâm thức rộng lớn hơn. Đây là cùng vấn đề mà nhiều tín đồ đạo Cơ đốc gặp phải với khái niệm Ki-tô – một đằng con có con người cá nhân của Giê-su đã hiện thân như là Ki-tô, và đằng khác con có tâm thức Ki-tô ở mức sâu xa hơn.      

Khi con nhìn vào khái niệm Phật, con sẽ thấy được điều mà ta đã từng dạy, rằng Phật tánh ở trong tất cả mọi vật, rằng mọi vật đều mang Phật tánh nơi chính mình. Khi con nói về Phật tánh thì con có thể bảo rằng Phật tánh ở trong sỏi đá, trong cây cỏ, trong thú vật.

Nhưng giáo lý chúng tôi các chân sư giảng dạy ngày hôm nay là về cái Ta Biết. Cốt lõi con người của con là cái Ta Biết, là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và cái Ta Biết này không đi xuống vào trong sỏi đá, cây cỏ hay thú vật. Điều này có nghĩa, con trong tư cách là một dòng sống cá biệt, đã không từng là thực vật hay động vật trong tiền kiếp để rồi dần dần tiến hóa thành một con người. Lần đầu tiên con đã đi xuống hiện thân là trong một thân xác con người, và nếu con hiện thân trên một hành tinh khác thì ít nhất con đã đi xuống trong một thân xác giông giống như con người.

Ta như là Phật Gautama hiện thân cách đây 2500 năm đã không từng là sỏi đá hay cây cỏ trong tiền kiếp. Đây không phải là một điều mà ta đã nói, nhưng là sự diễn giải của người đời sau đó, vì người thời đó có một cái nhìn về thế giới không giống như ngày nay. Ngày nay ở phương Tây, cái nhìn của các con rất khác với cái nhìn của con người cách đây 2500 năm tại địa phương nơi ta hiện thân.   

Họ đã diễn giải theo cách đó, và họ cho rằng nếu mọi thứ đều xuất phát từ một nguồn gốc duy nhất, thì trong cách suy nghĩ vô cùng đường thẳng – chẳng qua cũng tương tự như các thuyết tiến hóa mà các con có ngày nay – sự sinh tạo đã khởi đầu một cách lần hồi. Nghĩa là trước tiên sẽ có những dạng sống thô sơ hơn, sỏi đá và khoáng vật, rồi đến cỏ cây và thực vật, rồi đến động vật, rồi mới đến con người. Và nếu như vậy thì sự hiện thân phải khởi sự dưới các dạng thô sơ đó. 

Như ta vừa nói, nếu con nhìn tiến trình này dưới nhãn quan của tâm thức thì cái nhìn như vậy không nhất thiết là sai. Nhưng khi con nhìn vào một sinh thể cá biệt thì câu chuyện sẽ khác hẳn. Sự thật là các Elohim đã đem lại những biểu hiện vật lý trên địa cầu qua một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Đầu tiên là sự biểu hiện vật lý của sỏi đá cùng khoáng vật, rồi đến cây cỏ, rồi đến thú vật, rồi đến biểu hiện cơ thể vật lý con người. Chỉ khi đó – khi mà cơ thể con người đã được tạo dựng với bộ não và hệ thần kinh phức tạp – thì các sinh thể tâm linh mới đi xuống cõi vật lý.

Nghiệp được lưu trữ ở đâu?

Hỏi: Con có một câu hỏi về nơi nghiệp quả được lưu trữ. Nghiệp có được tích tụ nơi một luân xa đặc trưng hay một khu vực của hào quang, hay ngay cả trong cơ thể vật lý, chẳng hạn trong các bộ phận của cơ thể? Hay điều này có tùy thuộc vào loại nghiệp mà chúng con mang, và tia sáng nào đã bị tha hóa khi chúng con tạo nghiệp?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Bước tới các quan hệ Thời đại Hoàng kim. Đăng ngày 13/10/2021.

Một lần nữa, nghiệp là một trong những từ đã được sử dụng quá nhiều cách khác nhau bởi nhiều giáo lý tâm linh cùng tôn giáo khác nhau. Và các chân sư thăng thiên đã cố gắng cho con một cái nhìn đa diện, tinh tế hơn về nghiệp quả. Thực tế là nghiệp có nhiều dạng khác nhau. Để trình bày cho đơn giản, chúng ta có thể nói là có nghiệp vật lý, nghiệp ở mức cảm xúc, nghiệp ở mức lý trí và nghiệp ở mức bản sắc. Hiển nhiên, nghiệp vật lý được lưu trữ trong cơ thể vật lý, nghiệp cảm xúc trong thể cảm xúc, vân vân.

Cũng có loại nghiệp được tạo ra do sự tha hóa của các năng lượng đặc trưng trong một trong bảy tia sáng. Nghiệp này được cất giữ trong luân xa tương ứng với tia sáng đó. Con có thể đơn giản lấy các lời dạy về luân xa và nhìn xem luân xa nào tương ứng với tia sáng nào.

Tuy nhiên, con hãy thận trọng đừng quá “đường thẳng” về vấn đề nghiệp quả, như các thày đã bày tỏ mấy lần. Điều ta muốn nói ở đây là ngoài vấn đề năng lượng bị tha hóa, như các chân sư có trình bày, nghiệp còn có một thành phần tâm lý, và đây là những tin tưởng, những tư duy, những cái ngã tách biệt. Những thứ này không hẳn là được lưu trữ, mặc dù chúng hiện diện nơi ba thể phàm cao hơn của con – một số ngã trong thể tình cảm, một số ngã trong thể lý trí, một số ngã trong thể bản sắc.

Thật sự khi nói đến phần nghiệp tâm lý như chúng ta có thể gọi như vậy, điều quan trọng là con không nên chú mục vào nơi nó được lưu trữ. Điều duy nhất mà con cần làm là đem nó ra tầm nhận biết ý thức của con hầu con có thể, một cách ý thức, giải thể cái quyết định đã tạo ra ngã đó, và như vậy để cho nó chết đi.

Trải nghiệm tâm linh không có kịch tính hay tương phản

Hỏi: Con có một chờ đợi là khi con nối kết với Hiện diện TA LÀ của con hay với một chân sư thăng thiên, con sẽ kinh qua một cảm giác hay một trải nghiệm ngoạn mục nào đó. Nhưng liệu đây có phải là một chờ đợi không thực tế?  Và liệu sự nối kết ấy có tinh tế hơn vậy và không khác lắm so với nhận biết bình thường của con? Liệu chúng con sẽ cảm nhận một trải nghiệm hay một tâm trạng chung chung nào đó khi chúng con buông bỏ ngày càng nhiều cái ngã hơn? Hay liệu chuyện này tùy thuộc vào trải nghiệm cá nhân của từng người?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Tiến tới các mối quan hệ của Thời Hoàng kim. Đăng ngày 11/10/2021.

Con nói hoàn toàn đúng, đó là một sự chờ đợi không thực tế. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể bảo rằng mọi sự chờ đợi đều không thực tế. Nhưng trong trường hợp này, con cần nhận ra ở đây là chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có giảng dạy về sự khác biệt giữa nhị nguyên và bất nhị. Trong nhị nguyên, con có hai đối cực: trắng và đen, thiện và ác, đúng và sai. Hai cái này đối lập tuyệt đối với nhau, và ở giữa thì không có bất kỳ nét đậm nhạt nào cả. Đó là tại sao luôn luôn có một sự tương phản rất lớn. Tâm thức nhị nguyên này đã được phóng chiếu lên các giáo lý tâm linh, các vị thày tâm linh, các trải nghiệm tâm linh, đến độ nhiều người đã dựng lên nhận thức cho rằng nếu họ là người thực sự tâm linh, nếu họ có trải nghiệm tâm linh thực sự, thì đó phải là một trải nghiệm kịch tính, khác hẳn với trạng thái tâm thức bình thường của họ.

Tất nhiên, con có thể tìm thấy nhiều người đã từng có những trải nghiệm mãnh liệt, nhưng chúng chỉ có vẻ mãnh liệt so với trạng thái nhận biết bình thường của họ mà thôi. Một số người đã cưỡng ép những trải nghiệm này, chẳng hạn qua ma túy hay những cách tu tập mất cân bằng. Một số người khác đã có những trải nghiệm tự phát vì đó là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ.

Nhưng dù sao thì thực tế như con đã trực nhận một cách xác đáng, là khi con nâng cao nhận biết của mình ngày càng cao hơn, khi con bắt đầu nâng cao nhận biết ra khỏi nhi nguyên để hướng về bất nhị, thì con cũng đang thoát khỏi các đối cực nhị nguyên. Con đang thoát khỏi những “cặp đôi” như Phật Gautama gọi như vậy, và do đó càng ngày sẽ càng có ít tương phản giữa các trải nghiệm tâm linh và sự trải nghiệm thường nhật của con – vì sự trải nghiệm thường nhật này đã được nâng lên nhưng nó được nâng lên lần hồi đến độ con có thì giờ làm quen với nó. Tới một điểm con sẽ có một tâm thái an bình hơn trước đây rất nhiều, nhưng con đã quen với nó rồi, cho nên nó chính là trạng thái nhận biết bình thường của con.

Khi con trải nghiệm sự hiện diện của một vị chân sư, trải nghiện này sẽ gần hơn hẳn với cái mà giờ đây đã trở thành tâm thái bình thường của con, trong khi nó vẫn khác xa với tâm thái cũ của con. Chẳng hạn, vị sứ giả này đã từng kinh qua một số trải nghiệm mãnh liệt khi ông còn trẻ. Và thỉnh thoảng vẫn có người cho rằng ông phải luôn luôn có trải nghiệm mãnh liệt khi ông tương tác với các chân sư hay khi ông nhận một bài truyền đọc. Nhưng như chính ông đã có giải thích, một khi ông đã nâng cao tâm thức thì sự tương phản không còn đó nữa. Ông chỉ nỗ lực giữ tâm thái cho trung hòa, và khi đó, ông không trải nghiệm hiện diện của các chân sư như một sự kiện kịch tính, hay một sự kiện khác dữ dội so với tâm thái bình thường của ông.

Hiển nhiên là nó cũng có khác, và có những lúc trải nghiệm này có thể mạnh mẽ hơn. Nhưng tuy vậy, con cần nhìn nhận ở đây là khi con càng bước lên cao hơn trên đường tu, thì kịch tính cùng sự tương phản sẽ càng ngày càng ít đi. Con ngày càng có ít những trải nghiệm gọi là “tột đỉnh”, vì theo một nghĩa nào đó, trạng thái tâm thức bình thường của con đã trở thành một trải nghiệm tột đỉnh.

Làm thế nào khiến cho vật chất ca hát

Hỏi: Saint Germain thân yêu, thày có giảng là đối với một số người, sứ vụ thiêng liêng của họ bao gồm việc làm cho vật chất ca hát. Xin thày có thể giải thích thêm về điểm này? Khi con đọc đến lời dạy này, đây là một điều mà con có ác cảm, và con cảm thấy nó không áp dụng cho con. Nhưng bây giờ thì con bắt đầu cảm thấy không phải như vậy, và đó chỉ là một khía cạnh của tự ngã đang phóng chiếu để khiến con không nghĩ việc này có thể nằm trong sứ vụ thiêng liêng của mình. Xin thày vui lòng giải thích nhiều hơn về loại công việc phụng sự mà một người có thể làm khi việc đó nằm trong sứ vụ thiêng liêng? Làm thế nào một người có thể gặp được một số tình huống trong đời có thể tạo cơ hội cho mình làm cho vật chất hát lên?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 19/6/2021.

Con có thể làm cho vật chất ca hát bằng nhiều cách. Con làm cho vật chất hát khi con nâng cao tâm thức mình và đạt tới tâm thức Ki-tô. Con làm cho vật chất hát khi con tốt bụng và thương yêu người khác. Nhưng dĩ nhiên, có những cách trực tiếp hơn cũng làm cho vật chất ca hát.

Khi con đọc bài chú và bài thỉnh, con làm cho vật chất ca hát vì con gửi những rung động này vào bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất. Tự thân công việc này nâng cao độ rung của vật chất, thậm chí cả nguyên tử, phân tử cùng các loại hạt khác, khiến cho vật chất bắt đầu rung lên ở một mức độ cao hơn. Câu “làm cho vật chất ca hát” là một cách biểu tượng để nói rằng cõi vật chất rung động ở mức độ tự nhiên của nó. Khi con gửi một làn sóng năng lượng cao tầng vào vũ trụ vật chất, con khiến cho chính vật chất rung lên ở một mức độ cao hơn, và đó là ý nghĩa của câu “làm cho vật chất ca hát”.     

Âm nhạc và ca khúc cũng có khả năng tạo ra hiệu ứng như vậy. Một số nhạc sĩ chơi loại nhạc êm ái, hài hòa, cũng có thể làm cho vật chất hát. Khi người ta hát xướng, chẳng hạn, trong một nhóm lớn, họ cũng có thể làm cho vật chất hát. Ngay cả khi người ta nói chuyện, diễn thuyết về một đề tài nào đó và khiến cho cử tọa xúc động, hay khiến cho cử toa thấy được một điều gì mà họ chưa từng thấy bao giờ, thì một sự rung động cũng được tỏa ra làm cho vật chất hát. Khi người ta đến với nhau trong một buổi hội họp với tinh thần kết hợp và tâm thức tích cực, thì họ cũng khiến cho vật chất ca hát.    

Về các dạng hình học thuần túy

Hỏi: Saint Germain thân kính, con nghe nói ở cõi thăng thiên có những hình dạng hình học thuần túy. Khi các dạng hình học này được vận chuyển qua bốn tầng của tâm, điều gì xảy ra cho chúng khi trên bảy tia sáng có những tạp chất ô nhiễm? Có sự liên hệ nào chăng giữa các dạng hình học này và một tầng nào đó của tâm? Liệu các tà lực có thể sử dụng một số dạng hình học nào đó trong vật chất, hay họ có thể hình dung ra để bòn rút năng lượng từ mọi người? Và nếu vậy thì liệu có những dạng hình học có thể được sử dụng để nâng cao con người hay chăng? Xin thày làm ơn đưa ra một ví dụ về một dạng hình học thuần túy?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels trong buổi Webinar 2121 – Chấm dứt Thời đại của Ý thức hệ. Đăng ngày 19/6/2021.

Ồ, thật là không dễ mà dùng lời nói để mô tả các dạng hình học thuần túy có mặt nơi cõi tâm linh hay nơi các tầng cao của cõi bản sắc, bởi vì chúng vượt khỏi lời nói. Các dạng hình học này không được cấu tạo bằng từ ngữ. Đó là tại sao chúng tôi có nói là khi chúng tôi đưa ra một bài truyền đọc nào đó, thật sự là chúng tôi đang truyền rải một số dạng hình học. Khi các dạng hình học này vận động qua bốn tầng của vũ trụ vật chất hay bốn tầng của tâm sứ giả, chúng được chuyển thành lời nói. Và nếu con muốn thực biết các dạng này, con cần phải chiêm nghiệm trực tiếp bởi vì không có cách nào để mô tả bằng ngôn từ, và chúng sẽ chỉ là lời mô tả mà thôi. Nhưng đúng là có những dạng hình học như thế.

Ta biết là khi ta nói về dạng hình học, con sẽ nghĩ ngay đến hình tròn hay hình vuông hay hình tam giác, là những thứ người ta thường gọi là dạng hình học trên địa cầu. Sự thực là các dạng hình học ở cõi tâm linh phức tạp hơn rất nhiều.  Chúng không chỉ là các dạng đơn giản mà con thấy trên trái đất. Những gì con thấy trên trái đất chỉ là một số hình dạng tâm linh đã được chuyển dịch khi chúng đi xuống cõi vật chất xuyên qua bốn cõi.

Con có thể thấy được là ở cõi trần, các hình thể được kiến tạo dựa theo các dạng hình học đó. Nếu con nhìn thiên nhiên thay vì nhìn những đồ vật do con người chế tạo, con sẽ thấy có một sự khác biệt trong dạng hình học.

Dạng của thiên nhiên phức tạp hơn nhiều, mà có người gọi là bộ Mandelbrot (Mandelbrot sets), tức là một sự tạo dựng hình học hay toán học có khả năng tự nó lặp đi lặp lại, tự sinh sản nhiều lần – và tùy theo người nhìn đứng ở quy mô nào, to hay nhỏ, gần hay xa, người đó sẽ thấy chúng hiện ra khác nhau. Trên bản chất, người ta có thể gọi đó là những hình chụp ba chiều (holography). Nhưng con thấy không, tâm thức tập thể của loài người hiện nay còn thấp cho nên con người không có khả năng tạo ra những dạng hình học phức tạp như con có thể thấy trong thiên nhiên. Vì vậy, con người bắt buộc phải xây dựng nhà cửa hay vật dụng công nghệ dựa theo các dạng đơn giản của hình vuông, hình tam giác, hình tròn, vân vân, là những gì mà con người hiện thời có thể nắm bắt.

Nhưng con cũng thấy được điều này sẽ giới hạn như thế nào đối với những gì con người có thể xây cất, những loại máy móc mà con người có thể thiết kế, bởi vì tất cả chỉ dựa theo một số hình thể quá đơn sơ. Trong một nghĩa nào đó, cũng có thể nói đây là những hình dạng cố định. Đó là tại sao chúng tuân theo một số định luật toán học đơn giản. Tam giác luôn luôn có một dáng vóc nhất định, và góc tam giác cũng theo một quan hệ hình học nhất định. Hình vuông, hình tròn, vân vân, cũng tương tự như thế. Đây là những gì mà con người có thể nắm bắt được thời xưa, thậm chí cả các nhà hiền triết Hy lạp Cổ cũng phải đáp ứng với một tâm thức tập thể thô sơ hơn bây giờ.   

Nhưng những dạng hình học này, con người vẫn chưa hẳn thay thế được cho dù ngày nay đã tạo ra rất nhiều hình thức toán học phức tạp hơn. Điều ta muốn nói là mọi thứ mà con thấy trong cõi vật lý đều là, theo một nghĩa nào đó, sự thị hiện của một dạng hình học nào đó nơi cõi tâm linh – tất cả đều khởi nguồn là một dạng hình học nơi cõi tâm linh. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là khi đi xuống cõi ether, sẽ có một liên hệ trực tiếp, một đối một, giữa “bản chính” và “bản dịch”. Và tương tự như thế, cũng không có sự liên hệ trực tiếp nào khi dạng tiếp tục đi xuống các cõi lý trí, tình cảm, vật lý. Đó là vì trong tiến trình chuyển dịch dạng nguyên thủy từ cõi tâm linh xuống cõi vật lý, hiển nhiên đã có sự tác động của toàn tâm thức nhân loại, của từng cá nhân lẫn của tâm thức tập thể.   

Do đó con không thể lấy một hình dạng trên địa cầu rồi cố đoán ngược lên xem hình dạng ở cõi tâm linh là thế nào, bởi vì đã có sự biến dạng, bóp méo. Và đó là lý do không có cách nào mô tả bằng lời nói những dạng hình học tâm linh. Nếu tâm con đủ cởi mở, con có thể hoà điệu với các dạng tâm linh và chiêm nghiệm chúng trong tâm thức con, nhưng con sẽ cần bước vượt ra ngoài ngay cả thể bản sắc của con.

Và điều xảy ra là khi dạng hình học bị chệch hướng thì chúng tạo ra nhiều sự tha hóa. Nói cách khác, tỷ như con lấy một hình dạng nào đó ở cõi tâm linh, con phóng chiếu nó xuống cõi lý trí hay cõi bản sắc, thì tuy nó có thay đổi chút đỉnh nhưng nó không bị bóp méo, và nếu nó được chiếu tiếp xuống để thị hiện trong cõi vật lý thì nó không đến nỗi quá hư hại. Tuy nhiên hiện nay, bởi vì tâm thức tập thể còn thấp cho nên gần như không có hình dạng nào trên địa cầu còn thuần tuý được nữa. Cách này hay cách khác, chúng đều đã bị méo mó.  

Một yếu tố nữa, tất nhiên, là các sa nhân sau khi sa ngã đã tạo ra một số hình dạng không dựa theo hình dạng tâm linh. Vừa rồi ta có nói là mọi hình dạng trên trái đất đều phát xuất từ một hình dạng tâm linh, nhưng điều này không hoàn toàn đúng, bởi vì có một số hình dạng là do sa nhân tạo ra từ tâm thức sa ngã, và những hình dạng này thì không xuất phát từ cõi tâm linh. Chúng không hẳn là hình tư tưởng tâm linh đã biến thái. Theo một nghĩa nào đó, chúng vẫn phát xuất từ tâm linh bởi vì sa nhân không có khả năng sáng tạo được bất cứ gì hoàn toàn mới mẻ, nhưng chúng đã bị tha hóa đến độ không còn gì giống nữa, và nhất định là con không thể suy ngược trở lên “nguyên bản” ở cõi tâm linh.  

Và hiển nhiên các sa nhân đã phóng chiếu những hình dạng này vào tâm thức tập thể trên địa cầu đến độ nhiều người lầm tưởng đó là những loại hình dạng tối thượng, hay hình dạng thiên nhiên, thậm chí còn do Thượng đế tạo ra nữa. Đây là trường hợp của các ý thức hệ, là nền tảng của hầu hết các loại chủ nghĩa, những loại dạng hình học đã bị tha hóa. Chúng định ra là xã hội phải vận hành thế nào, vật chất phải vận hành thế nào, các định luật thiên nhiên phải vận hành thế nào, con người phải vận hành ra làm sao và do đó bị hạn chế như thế nào. Thật rõ ràng các sa nhân đã sử dụng những dạng hình học như vậy để bòn rút năng lượng từ loài người. Những con “quái vật” tập thể này trong cõi vía của tình cảm đã có thể thu hút năng lượng từ những ai tin vào chúng hay đã nhập chúng vào tâm mình.       

Bây giờ để cho con một ví dụ cụ thể là âm nhạc. Trong cõi tâm linh có một số dạng hình học về một số loại nhạc, những loại nhạc đưa con người đi lên, nâng cao sự sống, phát huy tâm thức, những loại nhạc khiến cho cả vật chất cũng phải ca hát theo. Một số nhạc sĩ cổ điển đã có khả năng hòa điệu với những dạng hình học đó, đem chúng xuống dưới một hình thể tương đối thuần khiết rồi chất chứa vào nhạc mình viết. Đó là lý do tại sao ngay cả thời nay, người ta vẫn có thể trải nghiệm được một cảm nhận tâm linh nào đó khi thưởng thức loại nhạc này. Nhưng trong số các nhạc sĩ hiện đại, thật là hiếm có người nào đạt được một tầm mức thuần khiết tương tự.

Trong khi đó lại có vô số những nhạc sĩ hiện đại, nhạc sĩ rock, nhạc sĩ rap, nhạc sĩ jazz, đã sử dụng các hình tư tưởng tha hóa hay những dạng hình học tha hóa do sa nhân chế tạo ra. Đó là tại sao họ sáng tác những thể nhạc chói tai, không khiến cho vật chất hát theo mà chỉ khiến cho độ rung của vật chất bị kéo thấp xuống, thậm chí còn làm cho vật chất bắt đầu phân hủy. Đó là một ví dụ thiết thực.  

Và sau đây là một số ví dụ nữa. Trong số các loài thú vật, con có thể nhận thấy một số được tạo ra theo hình dạng thấp kém. Như con thấy các loại bệnh tật, virút và vi khuẩn, chúng thể hiện các dạng hình học thấp kém. Trong khi đó thì một số loài khác lại tương ứng hơn với hình dạng nơi cõi tâm linh, chủ yếu là các loài chim chóc. Cũng vậy trong cõi thực vật, một số cỏ cây có dạng cao hơn và một số khác có dạng thấp hơn. Thật sự con có thể nhìn bất cứ gì trên trái đất này và thấy có những thứ hiển thị được hình tư tưởng tâm linh nguyên thủy cho dù chúng đã bị phần nào bóp méo, và có một số khác là biểu hiện của các hình tư tưởng thấp kém, những dạng hình học do sa nhân sản xuất.

Sa nhân có thể dùng những dạng hình học này để gắn nhập vào một chủ nghĩa nào đó. Và con thấy như chủ nghĩa Mác-xít chẳng hạn, họ chủ trương một nền kinh tế nơi người dân sản xuất theo khả năng và tiêu thụ theo nhu cầu hay ham muốn của mình. Hình tư tưởng này là do sa nhân chế ra, nó không liên hệ với một hình tư tưởng nào nơi cõi tâm linh, bởi vì như thày Gautama có dạy, nền kinh tế tâm linh đích thực là khi mọi người sinh sôi tài năng của mình bằng cách giúp đỡ người khác, tức là mọi người tự phát triển và phát triển khả năng cùng tâm thức rồi nhận được sự đáp trả gấp bội từ cõi tâm linh. Đây mới là yếu tố thực sự tăng gia thịnh vượng và khiến cho nền kinh tế được vững bền.  

Thật không có cách này tạo dựng một nền kinh tế hoàn toàn dựa trên các sinh hoạt vật lý mà thôi, và đó là lý do khi con lấy những dạng hình học do sa nhân phóng ra rồi đặt nên tảng cả nền kinh tế trên đó, thì phải có lúc nó sẽ tự hủy hoại.

Kinh nghiệm chứng ngộ trên đường tới Damascus

Hỏi: Con đã đi trên đường tâm linh từ nhiều thập niên and mặc dầu con biết con đã có tinh tấn về tâm thức, đôi khi con có cảm giác con vẫn chưa đạt được tiềm năng của mình bởi vì con chưa bao giờ trải qua kinh nghiệm chứng ngộ như Paul trên đường tới Damascus. Con hình dung rất nhiều vị thày tâm linh có kinh nghiệm này trong đời sống của họ. Liệu đây chỉ là một cái “ngã” đến từ một sự lập trình tập thể khiến cho con kỳ vọng một số trải nghiệm tâm linh hão huyền và phi lý, chẳng hạn như thấy chân sư hiện ra trước mặt con bất cứ lúc nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 18/6/2021.

Những gì con gặp trên đường tu tâm linh là chuyện rất cá nhân, mỗi người mỗi khác. Và có một điều rất, rất quan trọng là con không được có sự phán đoán về giá trị của kinh nghiệm con trải qua, không được tạo ra hay gợi ra một tiêu chuẩn tương đối nào và bảo rằng, đã là một đệ tử tâm linh cao cấp thì con phải có một trải nghiệm nào đó.   

Hiện có nguyên một nền văn hóa gọi là Thời mới với nhiều tổ chức tâm linh và thậm chí cả tôn giáo, cho rằng con phải có những trải nghiệm ly kỳ, tột đỉnh. Có nguyên cả một nhóm rất đông trong phong trào Thời mới bị kẹt trong cuộc tìm kiếm bất tận những loại trải nghiệm tột đỉnh như thế.

Nhưng khi con nhìn vào khái niệm kinh nghiệm tột đỉnh, con nhận ra là ngay trong định nghĩa, đó là kinh nghiệm cao nhất, không có gì cao hơn. Thế nhưng một số người không những muốn lặp lại kinh nghiệm tột đỉnh mà họ còn muốn có kinh nghiệm tột đỉnh cao hơn nữa. Và họ bắt đầu lập ra một bảng xếp hạng các kinh nghiệm tột đỉnh – cái này tột đỉnh hơn cái kia. Và điều này, tất nhiên, thật là phản tác dụng cho sự phát triển tâm linh.

Nó kéo con vào một vòng tư duy ganh đua thực sự sẽ không thể đem lại tăng trưởng tâm linh cho con, bởi vì tăng trưởng tâm linh là gì? Là buông bỏ tự ngã, chứ không phải củng cố tự ngã. Và tự ngã thật là thích thú khi nó có thể sử dụng một kinh nghiệm tâm linh để bảo rằng: “Chắc hẳn tôi là một người tâm linh cao độ vì tôi đang có tất cả những kinh nghiệm này.”

Con phải vô cùng thận trọng về điểm này. Con phải nhận ra một điều rất, rất quan trọng ở đây. Mục đích của con đường tâm linh không phải là để có những trải nghiệm ly kỳ, tột đỉnh, mà để con thoát khỏi một số tin tưởng và khuôn nếp phản ứng, có thể gọi là những cái “ngã tách biệt” nếu con muốn, nơi bốn thể phàm của con.

Vậy thì cá nhân con cần gì để được tự do? Đối với một số người, họ cần môt kinh nghiệm nào đó và vì thế họ có kinh nghiệm này. Nhưng đối với rất nhiều người khác, họ có khả năng tiến bước một cách đều đặn, chậm rãi, tuần tự, và họ sẽ lần hồi buông bỏ được ảo tưởng của họ. Những người như thế không cần trải nghiệm vũ bão nào cả.  

Con cũng cần nhìn nhận là đã có những người từng trải qua những kinh nghiệm cải đạo đáng kinh ngạc như trên đường tới Damascus, và con có thể tự hỏi, có thật là Paul đã có một kinh nghiệm tâm linh? Hay đó là một kinh nghiệm cải đạo khi ông bỗng nhiên nhìn ra là mình đã đi lầm đường và từng làm những điều phản tác dụng?  

Con có thể tự hỏi: “Tại sao Paul lại có kinh nghiệm như thế?” Nếu con nhìn vào tình hình thực tế, con sẽ thấy ông đã từng đàn áp tín hữu Ki-tô, ông đã từng chống đối đạo Ki-tô. Nhưng trong sứ vụ thiêng liêng của Paul thì lại có phần định ra là ông phải trở thành một nhà truyền giáo phúc âm Ki-tô. Cho tới thời điểm đó, ông đã kháng cự lại sứ vụ thiêng liêng này của ông, và sự kháng cự ngày càng mãnh liệt hơn cho tới khi bỗng nhiên ông không thể chịu đựng được nữa. Một cái gì đó bị gãy trong ông và ông buông xuôi ngừng kháng cự. Có một sự khác biệt to lớn giữa tâm trạng chống cự trước đó với cảm giác tự do khi ông buông hết. Và một cách nào đó ông đã kinh nghiệm điều này.

Và con có thể thấy được, kinh nghiệm của ông có vẻ dữ dội là do sự tương phản giữa hai trạng thái cưỡng lại và buông bỏ. Chính độ mãnh liệt của kháng cự đã tạo ra tương phản. Nhưng rất nhiều người trong số các con không có vấn đề kháng cự như vậy đối với sự phát triển tâm linh, và đó là vì sao con tăng trưởng một cách vững bền hơn. Con không có tương phản.   

Con cũng phải nhìn nhận là ở những giai đọan đầu của đường tu tâm linh, không phải là hiếm có khi hành giả trải qua một kinh nghiệm tột đỉnh, một kinh nghiệm mãnh liệt, vì vẫn có tương phản giữa trạng thái tâm thức cũ của họ và trạng thái tâm thức cao hơn mà họ đang bước vào. Nhưng một khi con tiến xa hơn trên đường đạo, khi con tiến về hướng tầng tâm thức thứ 144 và đã vượt qua tầng thứ 96, con không còn cảm giác tương phản nào nữa bởi vì con đã đạt được tâm thức cao hơn rồi. Bây giờ khi tất cả chỉ là tiệm tiến thì làm sao còn tương phản được nữa?  

Ở tầng tâm thức thứ 48, khi con khắc phục được sự kháng cự và con kinh nghiệm được, thoáng nhìn thấy được tầng thứ 49, thì con cảm thấy tương phản rất lớn. Nhưng từ tầng thứ 102 lên 103, sự khác biệt sẽ ít hơn và không còn dữ dội nữa. Ngoài ra còn có sự kiện là ở những tầng tâm thức thấp hơn, một số hành giả cần có một kinh nghiệm không thể chối cãi mà cái tâm vỏ ngoài của họ không thể phủ nhận, không thể làm ngơ, không thể giải thích được. Một kinh nghiệm như vậy rất cần thiết cho những người đó trong hoàn cảnh của họ.    

Nhưng những hành giả đã chín chắn hơn trên đường đạo thì không cần những loại kinh nghiệm như vậy. Khi con bước lên cao hơn, tương phản sẽ ngày càng ít đi, và đó là điều khá thông thường. Những bài học kịch tính, những trải nghiệm tột độ sẽ ngày càng thưa đi. Con thực sự đạt đến một điểm khi con bắt đầu sống trong tâm thức mà ta gọi là “Nước Trời” và đức Phật gọi là cực lạc. Khi đó tâm thức con quân bình, trung dung và con không còn tương phản to lớn nữa.     

Ứng phó thế nào trước cái chết của người thân yêu

Hỏi: Xin các thày vui lòng cho chúng con một cái hiểu cao hơn về sự chết. Tại sao chúng con đau đớn đến như vậy khi mất đi một người thân yêu? Chúng con phải phản ứng thế nào khi mất đi một người mà chúng con yêu thương? Có khóc hay không? Làm thế nào chúng con thăng vượt được tất cả những cảm xúc tiêu cực khi mất đi một người thân yêu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 15/6/2021.

Hiển nhiên đây là một vấn đề rất khó khăn cho hầu hết mọi người. Nó chứa đựng nguyên một chùm những cái ngã tách biệt liên quan đến sự thể này. Cho nên một lần nữa để ứng phó, con cần sử dụng các lời dạy cùng dụng cụ của chân sư thăng thiên về ngã tách biệt, tùy theo cá nhân con thấy thế nào là thích hợp.

Điều có thể nói được một cách chung chung là vấn đề cốt yếu ở đây là con có một cảm nhận sở hữu đối với một con người khác. Con cảm thấy đó là người thân yêu “của tôi”. Và con đã cho phép mình cảm thấy có một cái gì đó trong con, ý niệm bản sắc của con, cảm nhận trọn vẹn của con, cảm nhận ổn định của con, cảm nhận an toàn của con, tùy thuộc vào người khác đó.

Nhưng khi con nhìn vào thực tế của hành tinh địa cầu, con là một cá nhân biệt lập. Người thân yêu kia của con cũng là một cá nhân biệt lập. Cơ thể của người thân yêu đó có thể chết đi bất cứ lúc nào, và cơ thể của con cũng có thể chết đi bất cứ lúc nào. Làm sao con có thể cho phép mình cảm thấy là bản thân mình, trạng thái tâm mình, tùy thuộc vào một cái gì đó có thể bị mất đi bất cứ lúc nào? Thật là không minh triết nếu con để cho mình cảm thấy như vậy.

Ta cũng biết nói vậy sẽ không nhất thiết giúp ích cho con, bởi vì con cảm thấy như vậy chính là vì con đang mang những cái ngã tách biệt từ tiền kiếp gây ra cảm xúc đó trong con, hoặc chúng khiến con rơi vào trạng thái lệ thuộc đó. Nhưng dù sao thì con vẫn có khả năng sử dụng các lời dạy cùng dụng cụ của các thày để phát hiện những cái ngã đó, rồi con làm việc với chúng và để cho chúng chết đi.

Khi con cảm thấy đau đớn tột cùng khi có người thân qua đời, nỗi đau này luôn luôn chỉ biết có mình con thôi. Con chỉ chú tâm vào bản thân con chứ không chú tâm vào người thân. Có thể sẽ ích lợi cho con nếu con tìm đọc rất nhiều lời tường thuật về kinh nghiệm cận tử (near-death experience) mà nhiều người đã trải qua. Họ kể lại rằng sự chết không phải là một tiến trình khó chịu, họ không hề đau khổ mà lại được đi lên một cõi cao hơn nơi cuộc sống tốt đẹp hơn rất nhiều so với cuộc sống mà họ đã có trên trái đất.

Cho nên thật sự, con không đang cảm thấy buồn bã cho người thân quá cố, mà con đang buồn cho chính con. Hay đúng hơn, có một cái ngã đang cảm thấy buồn rầu cho chính nó. Vì thế con cần làm công việc phát hiện ra những cái ngã đang tạo ra tất cả những cảm xúc đó trong con, và con để cho chúng chết đi, từng cái một, hết cái này tới cái kia. Rồi thì con mới có thể được tự do khỏi cơn đau, và con có thể phản ứng một cách cân bằng hơn.

Điều này không có nghĩa là con không được khóc về sự mất mát. Nhưng có những cách khóc khác nhau. Có một cách khóc là sự giải tỏa cảm xúc, và sau khi giải tỏa, con sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn, tự do hơn. Và có một cách khóc buộc chặt con lại với tâm thức tập thể, với những con quái vật tập thể và những con quỷ đứng đằng sau. Khóc như vậy sẽ chỉ hút mất năng lượng của con, đẩy con vào một vòng xoáy hướng hạ khiến con càng cảm thấy tệ hơn và tệ hơn và tệ hơn nữa.

Nếu con trải nghiệm loại phản ứng này, con cần phải hết sức cương quyết sử dụng các bài chú Đại thiên thần Michael và Astrea, để cắt đứt cho con thoát khỏi các tà lực tập thể đó, thoát khỏi những con quỷ dữ đó, thoát khỏi toàn bộ động lượng tập thể đang phóng chiếu vào con ý tưởng là con phải cảm thấy buồn bã, vì nếu con không buồn thì con không thực sự yêu thương người thân của con. Nhưng nếu người thân của con đã bước sang một cuộc sống tốt đẹp hơn thì tại sao con lại cần buồn bã? Con có thấy không, chuyện này hoàn toàn vô lý. Có những cái ngã vô cùng dũng mãnh trong tập thể mà con đã mời vào, vậy thì bây giờ con cần để cho chúng chết đi ngay trong tâm mình hầu con được giải thoát khỏi chúng.

Chuẩn bị cho kiếp đầu thai tới

Hỏi: Trước khi đầu thai hay tái đầu thai, liệu một linh hồn có ý niệm gì chăng về ngoại hình vật lý của mình, về các hạn chế tâm lý hay tình trạng bệnh tật của thân xác sẽ được sử dụng? Có phải Hội đồng Nghiệp quả cung cấp các thông tin này hay chính linh hồn có trực giác về điều đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 30/5/2021.

Rõ ràng là khi con lập ra Sứ vụ Thiêng liêng của con và chuẩn bị đầu thai trong kiếp sau đó, con được các chân sư thăng thiên đang làm việc với con đưa ra lời khuyên nhủ. Thật ra trong hầu hết các trường hợp, các vị ấy không phải là Hội đồng Nghiệp quả mà là các chân sư thăng thiên đang làm việc chặt chẽ nhất với địa cầu.

Trong nhiều trường hợp, con có sự chọn lựa giữa nhiều hơn là một xác thân. Trong một số trường hợp, con chỉ có một xác thân để chọn. Nhưng khi con chuẩn bị đầu thai và con đã chọn con muốn đầu thai trong hoàn cảnh nào, thì tất nhiên con sẽ tìm hiểu lịch sử gia đình đó là gì, thân xác của gia đình đó trông như thế nào hay có thể mang những bệnh tật nào, những tình trạng tâm lý nào được truyền lại trong gia đình, trong nền văn hóa, trong dân tộc đó, vân vân.

Đúng, con có một nhận thức nào đó về tiến trình này. Mức độ nhận thức của con tùy thuộc vào trình độ tâm thức, vào mức độ trưởng thành tâm linh của con. Rõ ràng là có những người ở mức tâm thức thấp, và ngay cả khi họ ở ngoài xác thân thì họ cũng không có khả năng cộng tác với các chân sư thăng thiên. Một số thì hoàn toàn không thể làm việc với các chân sư, và đối với một số khác nữa, cách chúng tôi có thể giúp đỡ họ bị giới hạn trong một vài chọn lựa ít ỏi. Những người như vậy không nhận thức nhiều lắm về những gì sắp sửa xảy ra. Nhưng tâm thức của con càng cao thì sự nhận biết của con về tiến trình này sẽ càng nhiều. Và con càng có thể chuẩn bị nhiều hơn, để con có thể ứng phó với hoàn cảnh của con một cách tối ưu và tiến bộ nhiều nhất trong hoàn cảnh nơi con sẽ đầu thai.  

Tình bạn và gia đình

Hỏi: Mẹ Mary yêu dấu, tại sao chuyện xảy ra rất thường là có những người đầu thai trong cùng gia đình với chúng ta nhưng trên thực tế họ lại xa lạ với chúng ta, và họ không có điểm chung nào với chúng ta? Chẳng hạn, một người có thể có nhiều anh chị em nhưng lại không thể thiết lập mối quan hệ thân thiện nào. Mối thân thiện chỉ kéo dài một thời gian khi còn nhỏ nhưng khi lớn lên thì nó biến mất. Hoặc anh chị em chênh lệch tuổi tác tới 14 tuổi, vậy mà cha mẹ lại muốn con cái mình hòa thuận với nhau. Nhưng sự hòa thuận không xảy ra và mỗi đứa lớn lên cô độc một mình. Làm thế nào người ta có thể kết bạn được ở tuổi trưởng thành nếu người ta không thể kết bạn với chính những kẻ ruột thịt với mình?     


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga – Khắc phục tâm thức xem mình là vượt trội cùng cảm nhận không trọn vẹn, bị chấn thương và chú tâm bên ngoài. Đăng ngày 29/5/2021.

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã có ban ra nhiều lời dạy là trong nhiều gia đình, có những người cứ đầu thai hết kiếp này tới kiếp khác trong cùng một gia đình với nhau. Lý do là vì họ có một số khuôn nếp nghiệp quả với nhau, nghĩa là trong quá khứ họ đã tạo ra những vòng xoáy xung đột với nhau, và cách duy nhất để họ có cơ hội giải quyết xung đột là đầu thai cùng với nhau hết kiếp này tới kiếp khác.

Hiển nhiên, vấn đề ở đây là tâm lý của họ đã không thay đổi từ kiếp này sang kiếp sau. Thậm chí, có thể họ tạo dựng một động lượng thù địch ngày càng mạnh mẽ hơn nữa, khiến cho họ rất khó lòng giao tiếp hay kết bạn với nhau. Tuy nhiên, đối với rất nhiều người còn chìm đắm trong Trường đời Cay đắng, đó vẫn là cách duy nhất để họ có hy vọng tiến triển, vì họ cần đạt tới điểm họ hoàn toàn chán ngán chuyện đó và mong muốn một cái gì khác hơn.

Trong một số gia đình, con có thể nhận thấy một số thành viên bị kẹt trong một khuôn nếp nhất định, nhưng trong số mấy đứa con lại có một đứa đứng ra được bên ngoài, từ chối rơi vào khuôn nếp đó, và nó rời bỏ gia đình ngay khi nó có cơ hội. Điều này có nghĩa là trong nhiều trường hợp, sẽ có người thoát ra được nhóm gia đình đó khi họ tái đầu thai trong kiếp sau. Và điều này có thể mang lại sự tiến bộ.

Tất nhiên, con nói rất đúng khi con bảo là nếu con không thể kết bạn với chính gia đình mình vào tuổi thơ ấu thì việc kết bạn sẽ càng khó khăn hơn vào tuổi trưởng thành. Nhưng chuyện này tùy thuộc vào chính con có chuyển đổi được thái độ của mình hay không. Con có cơ hội tìm kiếm những người mà con cảm thấy có cùng độ rung với con. Khi con đầu thai trong một gia đình thì con không thể rời xa các thành viên trong gia đình, nhưng khi con chọn bạn ở tuổi trưởng thành, con có khả năng tìm đến những người mà con có những điểm chung.

Chìa khóa thực sự để con thoát khỏi những khuôn nếp nghiệp quả đó là nỗ lực làm việc trên tâm lý của con chứ con không có ý muốn thay đổi các thành viên khác trong gia đình. Con tập trung vào việc thay đổi chính con, xong con tự hỏi: “Tại sao tôi lại đầu thai trong gia đình này? Nó cho tôi thấy điều gì trong tâm lý mình cần phải giải quyết?” Điều minh triết nhất mà con có thể làm trong một gia đình thiếu hài hòa, mất cân bằng và mang những khuôn nếp độc hại, là con lấy quyết định một cách ý thức là con sẽ không tập trung vào chuyện thay đổi các thành viên kia. Thay vào đó, con đặt trọng tâm thay đổi chính mình để con không còn phản ứng lại các thành viên kia. Trong tâm lý con, con đã giải thoát khỏi họ.

Tiến trình sáng tạo cơ thể con người

Hỏi: Gần đây con có xem một phim cũ “Inherit the Wind” (Thừa hưởng Gió) – nói chung phim này vừa chế giễu Kinh thánh vừa tôn vinh quyển sách “Nguồn gốc các Loài” của Darwin. Con có cảm tưởng như khoa học duy vật đang thay thế một tôn giáo lỗi thời và giả dối, và cả hai bên cuộc tranh luận đầy rẫy những điều không thực. Thuyết tiến hóa là một phần quan trọng của nền giáo dục hiện đại, nhưng nói cho cùng, đó vẫn chỉ là một quan niệm thiếu sót hay chưa đầy đủ. Xin thày vui lòng nhận xét về vấn đề này, đặc biệt là tiến trình sáng tạo cơ thể vật lý cho các sinh thể tâm linh đến cư ngụ? Nếu tất cả là do tâm tạo ra, thì liệu một cơ thể vật lý trên một hành tinh như địa cầu có thể được tạo ra ngay lập tức trong phiên bản hoàn chỉnh của nó, hay liệu nó cần phải kinh qua một tiến trình phát triển tuần tự hơn? Con dùng từ “hoàn chỉnh” một cách rất lỏng lẻo vì rõ ràng cơ thể vật lý của chúng con đang thay đổi nhanh chóng để thể hiện mức tâm thức của chúng con.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 29/5/2021.

Trên một hành tinh tự nhiên, cơ thể con người – nếu có thể gọi là “con người” trên một hành tinh tự nhiên, nhưng để dùng một thuật ngữ thông dụng trên địa cầu – cơ thể con người không phải là kết quả của một quá trình mang thai kéo dài. Không có nhu cầu phải có quan hệ tình dục để thụ thai hay để có một đứa trẻ sinh ra đời như một hài nhi, rồi sau đó mất nhiều năm trời lớn lên và trưởng thành. Nói chung chung, người ta có khả năng kết đọng (precipitate) một cơ thể vào tầng vật lý xuyên qua các tầng bản sắc, lý trí và tình cảm.

Trên địa cầu hay trên bất kỳ hành tinh phi tự nhiên nào khác, chuyện đó không thể làm được. Đó là vì sao trên các hành tinh phi tự nhiên, con mới có tình trạng cơ thể con người được sinh ra đời qua một động tác tình dục hay truyền giống, rồi mang thai lâu dài, rồi có một tiến trình trưởng thành cũng lâu dài. Tất nhiên đây là điều con chứng kiến trong cõi động vật, và đó chính là lý do tại sao các nhà khoa học duy vật đã mô tả con người cũng chẳng hơn gì một dạng động vật tinh xảo, và đó cũng là lý do họ tin vào một tiến trình tiến hóa hoàn toàn duy vật và máy móc đã đưa các dạng động vật thành dạng con người.

Họ dư biết là họ không thể giải thích tất cả các giai đọan của tiến trình này – vì cái mắt xích vắng mặt (missing link) vẫn tiếp tục vắng mặt – nhưng họ không sẵn lòng nhìn vào các điểm thiếu nhất quán trong hệ thống tin tưởng của họ, chẳng khác gì tín đồ của hầu hết các tôn giáo. Đó là tại sao chúng tôi các chân sư thăng thiên đã từng nói rằng chủ nghĩa duy vật, trên mặt cơ bản, là một tôn giáo mà mục đích nhắm vào việc thay thế tôn giáo Cơ đốc.

Cho nên thực tế là trên địa cầu, con không thể sinh thành một cơ thể vật lý bằng tâm. Chuyện này có thể làm được trên một hành tinh tự nhiên, nhưng ngay cả khi con có khả năng làm được như vậy, thì như con đã nói chính xác, đó vẫn chưa phải là dạng hoàn chỉnh, dạng cuối cùng của cơ thể, vì trên một hành tinh tự nhiên, cơ thể cũng thay đổi lần hồi với thời gian, đồng bộ với những thay đổi trong tâm thức của sinh thể cư ngụ cơ thể đó. Cơ thể vật lý trên một hành tinh tự nhiên không đến nỗi dày đặc, vật chất cũng không đến nỗi dày đặc, và do đó bằng cách thay đổi tâm thức, con có thể thực sự thay đổi cơ thể của con ở một mức độ lớn hơn nhiều so với trên địa cầu.

Trên địa cầu có những người sử dụng phương tiện vật lý để thay đổi cơ thể của họ. Và tất nhiên là có khả năng thay đổi cơ thể duy chỉ bằng tâm – điều này một số sinh thể tiến hóa cao hơn đã làm được, chẳng hạn như một số đạo sư Yoga, và trong thời đại hoàng kim điều này cũng sẽ trở nên phổ biến hơn. Khi nào nhân loại đạt đến các mức cao của thời đại hoàng kim, con người sẽ có khả năng nâng cao tâm thức và bắt đầu biến đổi cơ thể của mình. Tuy vậy trong giai đoạn 2000 năm sắp tới, con người vẫn sẽ cần thụ thai và mang thai theo cách bình thường.

Quỷ là gì?

Hỏi: Chúng con thấy trong các bài thỉnh thường nói đến quỷ, vậy xin các thày cho biết ý kiến nếu thích hợp. Quỷ là gì? Thế nào là một con quỷ? Quỷ được tạo ra làm sao? Quỷ hình thành mất bao nhiêu thời gian? Quỷ có phải là những linh hồn đã bị lạc lối quá, quá xa, hay chúng chỉ là một tập hợp những năng lượng dày đặc, đen tối đã đạt được tự chủ và hành xử hung hãn đối với loài người? Vậy quỷ là gì? Con người có quyền tự quyết, vậy thì quỷ có gì? Liệu chúng con có thể thỉnh cầu các chân sư thăng thiên giải thể chúng hay không?



Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 28/5/2021.

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã có một số lời dạy về tiến trình tạo quỷ, nhưng để góp lại dưới một dạng dễ đọc, ta sẽ đưa ra một số nhận xét về đề tài này.

Trong các đợt truyền pháp trước cũng đã có nói về quỷ nhưng không mô tả rõ ràng quỷ chính xác là gì và chúng được tạo ra như thế nào. Trong đợt truyền pháp này, chúng tôi cũng có giải thích là hầu hết những con quỷ đều là tạo vật do con người và các sa nhân tạo ra khi họ tập trung vào một vấn đề tồi tệ nào đó, chẳng hạn như chiến tranh.

Khởi đầu, con tham gia vào một cuộc chiến, con tập trung chú ý vào chiến tranh ở các tầng bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý. Qua năng lượng được tập trung như vậy, con tạo ra một con quỷ nơi cõi cảm xúc. Con cũng có thể tạo ra những tà thể hay tà thể tập thể, những con quái vật tập thể trong cõi lý trí và cõi bản sắc liên quan đến chiến tranh, nhưng khi gọi là quỷ thì đó là quỷ trong cõi cảm xúc.

Đây là một sinh thể mà con người hay sa nhân tạo ra nơi ba cõi cao hơn. Quỷ không có ngọn lửa ba nhánh, không có cái Ta Biết, không có quyền tự quyết. Nó đã được lập trình để hành xử theo một khuôn đúc, và nó không có khả năng lùi lại để tự xem xét và thay đổi khuôn đúc đó. Nó giống như một chiếc máy tính cứ không ngừng chạy mãi cùng một chương trình một cách ngu ngốc. Một con quỷ có một chút khả năng nhận biết, và để sống còn, nó cần năng lượng từ con người.

Vì vậy nếu một con quỷ được tạo ra từ những giết chóc xảy ra trong chiến tranh, nó sẽ lôi kéo cảm thể của mọi người để khiến họ giao chiến với nhau, hoặc xung đột với nhau trong những hình thức bạo lực khác, hầu nó có thể đánh cắp năng lượng được phóng ra qua hành động chiến tranh. Có cả những con quỷ bòn rút năng lượng từ những người tham gia vào các loại kỹ nghệ quân sự, sản xuất vũ khí, nghiên cứu vũ khí, học tập cách sử dụng vũ khí, suy nghĩ về những loại vũ khí giết người, và tất cả những loại hoạt động như vậy.

Chúng tôi cũng đã có đề cặp đến một loại quỷ khác, trên cơ bản là những sa nhân bị chìm xuống một mức tâm thức thấp kém đến độ chúng không còn sót lại chút khả năng tự nhận biết nào. Chúng không thật có khả năng tự quyết, và chúng không có khả năng thay đổi hay cải sửa. Cho nên chúng cũng được xem là quỷ vì chúng hoạt động ở cùng một trình độ máy móc giống như quỷ.

Và lẽ tự nhiên, khi con là học trò của chân sư thăng thiên, điều quan trọng là con nhận thức được sự hiện hữu của những sinh thể bóng tối đó, bởi vì làm sao con có thể thoát ra khỏi chúng nếu con không biết là chúng có đó? Làm sao con có thể bảo vệ bản thân khỏi vi khuẩn trong nước uống nếu con không biết là có vi khuẩn?

Hiển nhiên, con có thể thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh cho con. Trong nhiều bài thỉnh, chúng tôi đề nghị con kêu gọi cho chúng bị buộc chặt lại, hầu các chân sư có thể dọn sạch chúng khỏi tâm thức tập thể và giải phóng hành tinh khỏi ảnh hưởng của chúng.

Và dĩ nhiên, chúng tôi cũng đã có đề cập tới những tà thể, những con quái vật tập thể, và ngay cả một số khuôn đúc trong tâm thức tập thể. Vậy sự khác biệt với quỷ là gì?

Chủ yếu, quỷ là loài hung hãn hơn. Chúng tìm cách ảnh hưởng con người một cách trực tiếp và hung hăng hơn. Và do đó, chúng có nhiều quyền năng hơn đối với những ai đã có sẵn nhược điểm đối với tác động của chúng. Chúng tôi có thể đưa ra ví dụ một con quỷ chiến tranh sẽ vô cùng hung hăng dồn sức để chiếm đoạt tâm trí của mọi người khiến cho quần chúng bị rơi vào tâm trạng không còn quan tâm gì nữa đến hậu quả của chiến tranh. Thế là họ quyết liệt xông ra trận, ra tay giết hại càng nhiều người càng tốt.

Chúng tôi cũng có thể nói đến một tà thể có tên là tà thể kỹ nghệ thuốc lá. Tà thể này chuyên tìm cách xúi giục mọi người hút thuốc. Nhưng nó không hung hãn như con quỷ chiến tranh, chẳng hạn. Cho nên theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là tà thể đã được tạo ra theo cùng một phương thức, tức là một sự tập trung năng lượng thường thường do kết quả của một hành động vật lý nào đó. Nhưng chúng tôi đã sử dụng từ ngữ hơi khác cho tà thể để chỉ ra sự khác biệt trong mức độ hung hãn.

Con người máy móc và bản chất của cái Ta Biết

Hỏi: Vào thời tổ chức Summit Lighthouse có lời dạy về những người khổng lồ Nephilim đã kết hợp dòng giống của họ với dòng giống thú vật. Điều này có nghĩa gì? Nếu có thực, liệu họ cũng có một cái Ta Biết hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 28/5/2021.

Vào thời tổ chức Summit Lighthouse đã có đưa ra một số lời dạy về nhiều loại sa nhân đến từ nhiều gốc tích khác nhau, và các thày đã quyết định không lặp lại những lời dạy đó trong đợt truyền pháp này. Điều con hỏi có nghĩa đã có một thời trong quá khứ, vào thời Atlantis và ngay cả các nền văn minh trước đó, con người có khả năng thao tác gen – giống như loài người thời nay cũng làm được, tuy thật sự khả năng của họ trước kia có tinh xảo hơn.

Có một số sa nhân ở một trình độ tiến hóa nào đó đã tìm cách pha trộn DNA của họ với DNA của động vật để tạo ra một giống người nô lệ – hay nói cách khác, những “con người” không có hoàn toàn khả năng tự nhận biết. Ban đầu, các sinh thể này không có cái Ta Biết, vì tất nhiên sa nhân không có khả năng phú cái Ta Biết cho bất kỳ sinh thể nào. Chỉ có các chân sư thăng thiên mới có khả năng này.

Nhưng chuyện này đã xảy ra rất lâu rồi. Tuyệt đại đa số những sinh thể đó, hoặc không còn đầu thai nữa, hoặc đã nhận được một cái Ta Biết cùng ngọn lửa ba nhánh do họ đã tăng triển khi tham gia vào tâm thức tập thể trên địa cầu.

Vào thời Summit Lighthouse, các thày cũng đưa ra một số lời dạy về những “người máy móc”, là một giống người mà gen trong cơ thể đã bị biến đổi, và họ không mang ngọn lửa ba nhánh hay cái Ta Biết. Và họ cũng không có khả năng tự thăng vượt. Họ được tạo ra để trở thành những con ong thợ, một giống nô lệ cho sa nhân.

Ngày nay, điều các thày ưa nói nhiều hơn về sự kiện có những người đã dựng lên quá nhiều lớp ngã tách biệt đến độ gần như họ hoạt động một cách máy móc, do họ không sử dụng khả năng tự xem xét bản thân, khả năng đứng lui lại và nói: “Tại sao tôi đang hành xử như thế này? Tại sao tôi phản ứng cách này? Liệu tôi có thể thay đổi phản ứng của tôi không?” Theo nghĩa đó, họ đang ở trong một trạng thái tâm thức máy móc.

Ngược lại với những gì sa nhân thường nghĩ, chính sa nhân cũng rơi vào hạng người này. Một sa nhân không dùng đến khả năng tự nhận biết của y để tự quan sát mình và tự hỏi: “Tại sao tôi đang làm chuyện này? Tại sao tôi cứ phản ứng như thế? Tôi có thay đổi được gì không?” Đó là cách vận hành máy móc. Nếu so với các sinh thể kia mà ta vừa đề cập ở trên, thì sa nhân có vẻ tinh xảo hơn nhiều do y đã tồn tại từ rất lâu đời, nhưng đây vẫn là cách vận hành máy móc vì y không tự thăng vượt.

Và đây là sự khác biệt thực sự: Liệu sinh thể đó có đang tự thăng vượt hay không bằng cách sử dụng khả năng nhận biết của mình, khả năng bước lui lại khỏi chính mình, tự nhìn vào mình và đặt câu hỏi? Đây chính là bản chất của cái Ta Biết.

Trên lý thuyết thì sa nhân có khả năng như thế, nhưng thường thường họ đã tạo ra quá nhiều lớp vỏ khi sa ngã, có lẽ qua mấy bầu cõi, đến độ khả năng này bị chôn vùi quá sâu khiến họ không thể dùng được trên thực tế.

Thật ra một số các con, kể cả vị sứ giả này, đã gặp những sa nhân giống y như vậy. Họ không có sự tự nhận biết bình thường. Họ nghĩ là mọi người khác nhìn vào bản thân giống như chính họ nhìn bản thân họ hay nhìn thế giới. Khi họ phát biểu, họ nghĩ là mọi người khác đều xem chuyện đó là quan trọng và tán thành lời nói của họ giống như chính họ đang tán thành. Họ không có khả năng – hay ít ra họ không sẵn lòng sử dụng khả năng – bước lui lại để nhận ra là thật sự không phải như thế. 

Đây cũng là lý do tại sao một số các con – kỳ thực nhiều người trong các con – có quen biết trong đời mình một số người mà con không thể nào chạm được, cho dù con đã cố nói chuyện rất nhiều lần để giải thích một điều gì đó với họ. Con không thể khiến họ nhìn ra vấn đề chỉ vì họ không thể, hay không sẵn lòng, kích hoạt khả năng nhìn vào bản thân họ từ bên ngoài. Khả năng này là tinh túy của cái Ta Biết.

Cầu nguyện cho người quá cố

Hỏi: Vị linh mục tại tu viện nói chúng con cần cầu nguyện cho linh hồn người quá cố, và cầu nguyện như thế sẽ giúp cho linh hồn thăng lên một cõi cao hơn. Thưa có đúng không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 26/5/2021.

Các chân sư thăng thiên đã có giảng là một linh hồn, tùy theo mức tâm thức đạt được trước khi qua đời, có thể bị kẹt lại nơi cõi trung giới chẳng hạn, và chắc chắn đây là một trường hợp con có thể cầu thỉnh để cắt đứt các sợi dây trói buộc hầu linh hồn đó có thể bước sang một cõi cao hơn và nhận được nhiều cơ hội tăng triển hơn trước khi tái đầu thai trong kiếp mới.

Ta không bảo là những lời cầu nguyện truyền thống mà nhiều hội thánh sử dụng không có tác dụng, tuy nhiên những cầu nguyện đó không thể nào hiệu quả bằng bài chú Astrea hay những bài thỉnh/bài chú khác mà chúng tôi đã ban ra trong mục đích này.

Cho nên đúng vậy, việc cầu nguyện quả là sẽ hữu ích, nhưng tốt hơn con nên sử dụng các bài thỉnh gọi để thỉnh trực tiếp các chân sư thăng thiên hầu các thày cắt đứt những mối dây nhợ và giúp cho linh hồn tiếp tục bước tới.

Hiển nhiên đây sẽ là một việc phụng sự quý báu mà con có thể đóng góp cho người thân của con sau khi họ qua đời. Chắc chắn con cũng có thể tổ chức một buổi cầu nguyện canh thức cho Astrea cũng như sử dụng những bài chú và bài thỉnh cho các chân sư khác như Đại thiên thần Michael hay ngọn lửa tím để chữa lành tâm lý. Nếu con được biết lúc sinh tiền, người thân của con đã gặp một số vấn đề tâm lý chưa được giải quyết, con có thể sử dụng những bài thỉnh để chữa lành chấn thương tâm linh đó và đọc lên thay mặt cho người quá cố.

Làm như vậy sẽ không đi ngược lại quyền tự quyết của người thân của con mà sẽ giúp cho họ chọn lựa dễ dàng hơn khi họ không còn ngụ trong thân xác vật lý nữa. Trừ khi họ bị kẹt lại nơi trung giới thì nói chung, ai ai cũng sẽ chọn lựa thay đổi tâm lý dễ dàng hơn khi mình không còn trong xác thân vật lý. Khi ở trong thân vật lý, họ thường mang gánh nặng của những điều kiện vật lý hay điều kiện tình cảm, khiến họ không có khả năng lấy những quyết định cần thiết cho sự phát triển của mình.

Đối phó với nỗi bất mãn sâu sắc về cuộc sống

Hỏi: Kim, cảm ơn ông đã đem lại giáo lý trong tư cách là sứ giả, nó đã giúp tôi rất nhiều. Tôi đã tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên hơn 20 năm về trước. Tôi đã nỗ lực khám phá mục đích thực của mình là gì, sứ vụ thiêng liêng của mình là gì. Tôi đã thiết lập sự nối kết với cái ta cao hơn của mình, học cách nhận biết những thông điệp của cuộc sống, học cách tha thứ và yêu vô điều kiện. Nhờ quá trình này mà đời tôi đã thay đổi hoàn toàn. Nhưng thỉnh thoảng tôi lại cảm thấy bất mãn, tôi đánh mất ý nghĩa của cuộc sống, tôi cảm thấy như mình không đang sống cuộc đời của mình. Và tôi phải mất một thời gian để tìm lại động lực giúp mình bước tới. Tôi muốn hiểu gốc rễ của nỗi bất mãn sâu xa này. Làm thế nào chữa lành những chấn thương tình cảm và lý trí đó? Làm thế nào giữ cho sự nối kết với cái ta cao hơn của tôi được thường trực và ổn định, hầu tôi có thể thị hiện một cách ý thức vương quốc của Thượng đế trên địa cầu và hoàn thành một cách ý thức sứ vụ thiêng liêng của mình?


Trả lời của ông Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 26/5/2021.

Dựa trên kinh nghiệm bản thân, tôi xin nói là trong số những người tâm linh có một loại giấc mơ – chính tôi cũng đã mang giấc mơ này khi còn trẻ, và tôi đã thấy rất, rất nhiều người mang cùng giấc mơ đó như thế này: Nếu chúng ta tìm được giáo lý tâm linh đúng đắn, và nếu chúng ta tu học thật hăng say, thì nhất định chúng ta sẽ đạt tới điểm đột phá. Và khi chúng ta đột phá thì chúng ta sẽ giác ngộ – hay bất kỳ khái niệm nào khác mà người ta có về giác ngộ – và giờ đây mọi chuyện sẽ tuyệt vời.

Bản thân tôi đã mang giấc mơ này trong nhiều năm trời. Tôi còn nhớ vào thập niên 1990, tôi hay nghĩ: “Trời, mình đã giải quyết được quá nhiều thứ trong tâm lý mình rồi, không hiểu bây giờ còn bao nhiêu nữa?” Thế rồi sau khi nhận được tất cả các lời dạy về chấn thương nhập đời, về việc đi xuống từ một hành tinh tự nhiên đến trái đất, phải hứng chịu chấn thương nhập đời và sinh sống một thời gian rất dài trên địa cầu, cái nhìn của tôi đã đổi khác, vì tôi ngộ ra là trên một hành tinh như trái đất không hề có một trạng thái nào là vĩnh viễn, vì đây là một hành tinh phi tự nhiên.

Chừng nào còn đầu thai thì chúng ta sẽ còn kinh qua nhiều chuyện trong tâm lý mình, hoặc là tâm lý của riêng cá nhân mình, hoặc một điều gì đó mình đã lấy vào từ tâm thức tập thể và đang cố xử lý. Cho nên chúng ta đang  luôn luôn đối phó với một điều gì đó.

Tôi nghĩ bước đầu tiên – ít ra là điều mà tôi đã làm – là tôi đã từ bỏ ý tưởng mình sẽ đạt được một loại đột phá nào đó và thế là mình ở trong trạng thái tâm thức tối thượng, mình đã giác ngộ. Tôi nhận ra là luôn luôn sẽ có những chuyện khởi lên trong tâm lý mình.

Một điều nữa mà tôi thấy được khi tôi nhìn lại quá trình hơn 40 năm bước chân trên đường tâm linh, là có một số chu kỳ, một số giai đọan nhất định. Có những giai đọan mà chắc chắn chúng ta tăng triển.

Thông thường khi bạn tìm thấy một giáo lý mới, bạn rất hào hứng với nó, bạn cố gắng thực hành, nhưng bạn làm vậy với một viễn quan nhất định về những việc cần làm. Chẳng hạn khi tôi khám phá ra phong trào Summit Lighthouse thì tôi đang ở một mức tâm thức nào đó và tôi nhìn con đường tâm linh theo một cách nào đó, và vì vậy tôi tiếp cận nó theo cách đó. Nhưng tôi cũng có thể thấy là một vài lần tôi đã bước đến một bước ngoặt. Nơi đó là điểm mà đúng lý tôi cần bước lên một mức cao hơn trên đường tu, nhưng tôi lại mang một thái độ, một cách nhìn, một phin lọc nhận thức nào đó ngăn cản tôi bước tới. Như thể tôi bị dính mắc vào một cách nhìn nhất định về đường tu.

Đó là những giai đọan mà tôi có thể nhìn lại và thấy là mình không còn hào hứng nữa, có lẽ mình bất mãn, hay có lẽ như bạn vừa nói, tôi đã đánh mất ý nghĩa của cuộc sống vì nó không hẳn có ý nghĩa như trước nữa. Nó không khiến tôi phấn chấn. Tôi không cảm thấy có chuyện gì đang xảy ra vì tôi không đang tăng trưởng. Khi bạn không tăng trưởng thì bạn trở nên bất mãn.

Không chỉ là vấn đề những chấn thương cần chữa lành. Đó có thể là một chấn thương mà chúng ta cần đương đầu, tuy nhiên cũng có thể là chúng ta cần xoay chuyển thái độ của mình – như tôi vừa trình bày, chúng ta cần từ bỏ ý tưởng về một sự đột phá tối hậu. Như chẳng hạn, từ bỏ ý nghĩ là mình phải tinh tấn hơn hiện thời. Ý tôi muốn nói là tôi có thể nhìn lại và thấy rất nhiều người trong giáo lý của chân sư thăng thiên nghĩ rằng: “Tôi đã học các giáo lý này từ 10, 20 năm qua, tôi phải tiến hơn thế này chứ. Tôi phải an bình, tôi phải thế này, tôi phải thế kia, tôi phải nối kết được một cách thường trực với cái ta cao hơn của tôi. Tôi phải có khả năng thị hiện bất kỳ đời sống nào mà tôi muốn.”

Tôi nghĩ sẽ tới một điểm bạn cần xoay chuyển và bước ra khỏi tư duy đó, bạn cần buông các ý nghĩ đó và nhận diện đường tu là thực sự một tiến trình không ngừng, luôn luôn xem xét chính mình, luôn luôn nhìn vào tâm lý của mình để nhận ra một giới hạn nào đó, một cái ngã nào đó, rồi để cho nó ra đi.

Khi bạn từ bỏ mong muốn đạt được một sự đột phá tối hậu nào đó, thì tâm bạn sẽ an bình, vì bạn không còn luôn luôn cảm thấy mình phải tốt hơn, hay mình phải đạt tới một điểm nào khác, hay mình phải tinh tấn hơn nhiều. Bạn biết là bạn đang tăng triển mỗi ngày, đơn giản là bạn an bình là con người mà bạn là, ở nơi bạn đang đứng trên đường tu cho dù bạn chưa toàn hảo.

Tôi không lo lắng mình đang ở mức tâm thức nào. Bạn có thể bảo chuyện này dễ quá vì tôi biết mình ở mức cao hơn tầng 96, nhưng dù sao thì tôi không quan tâm đến chuyện đó. Tôi chỉ tiếp tục tìm kiếm điều kế tiếp mà tôi cần xử lý trong tâm lý của mình, và tôi xử lý nó. Tôi không mang cảm nhận là tôi phải ở một nơi nào khác. Tôi không còn cảm nhận này nữa. Thuở trước, tôi cứ cho rằng: “Ồ, tôi phải là một sứ giả toàn hảo, tôi không được lầm lỗi hay cái này cái nọ.”

Bây giờ nếu tôi làm lỗi, tôi sẽ học hỏi từ lỗi lầm xong tôi lại tiến tới. Nếu có điều gì khởi lên trong tâm lý, tôi sẽ xem xét nó xong tôi giải quyết nó. Tôi không kháng cự lại việc xem xét một vấn đề nào như nhiều năm về trước khi tôi cưỡng lại vì tôi không thể chịu nổi trong tâm lý mình có một loại vấn đề nào đó.

Tôi nghĩ đây chỉ là chuyện xoay chuyển, là nhận ra đường tu là một tiến trình không ngừng tiếp diễn. Chúng ta sẽ lần hồi tự cải thiện, rồi khi nào chúng ta đạt đến một trạng thái tâm thức tối thượng thì đó sẽ là lúc chúng ta không còn bám giữ cái thân xác vật lý này nữa. Chúng ta sẽ thăng thiên. Đó là cách nhìn của tôi, mong là nó đã hữu ích.

Tai nạn và nghiệp quả

Hỏi: Khi máy bay bị rớt thì đó là một tai nạn hay chỉ là một điều tất yếu? Các tai nạn có tùy thuộc vào trạng thái nội tâm của phi hành đoàn hoặc người chỉ huy máy bay ở một giây phút nhất định hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga – Khắc phục tâm thức thượng tôn và cảm nhận bất toàn, thương tổn, tập trung ra bên ngoài. Đăng ngày 26/5/2021.

Ta sẽ nói về đủ các loại tai nạn. Ta cũng biết một tai nạn hàng không luôn luôn gây ấn tượng rất mạnh vì nó thường gây thiệt mạng cho mọi người trên chiếc máy bay. Nó cũng là một sự cố rất đột ngột. Nhưng hiển nhiên, con cũng thấy là số người bị thiệt mạng trong tai nạn xe cộ nhiều hơn gấp bội tai nạn hàng không.  

Vậy đâu là nguyên do xảy ra tai nạn? Trong nhiều trường hợp, vấn đề khá phức tạp. Nếu con nói đến một chiếc xe có một người hay ngay cả một vài người bị thương tích hay tử vong, thường thường đó là do nghiệp chướng của những người đó. Và tất nhiên cũng do trạng thái tâm thức của họ.

Trong nhiều trường hợp, sự khác biệt giữa một tai nạn xảy ra hay một tai nạn được tránh khỏi, có thể rất nhỏ. Có thể chỉ là một giây phút lơ đãng dẫn đến tai nạn, và điều này có thể tránh khỏi cho dù nghiệp chướng là gì.

Khi con nói đến trường hợp một chiếc máy bay với hàng trăm hành khách thì ở một mức độ nào đó, đây là nghiệp chướng không nhất thiết của mọi người mà của đa số. Tất nhiên là có phi hành đoàn, các kiểm soát viên không lưu, có thể cả các toán bảo trì, toán sửa chữa, liệu họ đã bảo trì máy bay đầy đủ hay không. Vấn đề có thể nằm ở tầng cao hơn trong công ty hàng không, liệu chủ trương bảo trì của công ty là gì, hay họ có xu hướng chấp nhận rủi ro khi phi cơ không được bảo trì nghiêm ngặt theo đúng quy chuẩn. Cho nên nhiều vấn đề phức tạp có thể góp phần vào tai nạn, và khi càng có nhiều người dính dấp vào thì vấn đề sẽ càng phức tạp hơn.

Phật Gautama đã có giảng về lý duyên khởi. Vậy con có thể nhìn vào một tai nạn hàng không và bảo rằng có một bộ phận của chiếc máy bay bị mỏi mệt khiến cho động cơ ngừng chạy và máy bay rớt xuống. Nhưng đó không phải là nguyên nhân duy nhất.

Có nguyên một loạt những yếu tố khác mà ta vừa mô tả sẽ góp phần vào kịch bản. Và như ta vừa trình bày, càng có nhiều người liên lụy vào thì bức tranh sẽ càng phức tạp hơn. Nếu con có khả năng nhìn từ nhãn quan thăng thiên, con sẽ thấy, chẳng hạn, đây là một chiếc phi cơ đang bay cao trên bầu trời với 300 hành khách trên đó. Con có thể nhận thấy những sợi dây năng lượng, những sợi chỉ năng lượng đang nối liền hào quang những người đó với quê hương của họ, với gia đình, với công việc làm ăn của họ.

Các sợi dây này kéo dài vào tận tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Và con có thể nhìn ra một mạng lưới vô cùng phức tạp những mối ràng buộc năng lượng. Đó có thể là sự ràng buộc vào nơi họ đang bay tới, ràng buộc vào nơi họ vừa rời khỏi, thậm chí cả ràng buộc vào những vùng họ đang bay qua. Đây là một mạng nhện vô cùng phức tạp với những tuyến đường năng lượng chằng chịt, và không những thế, là một mạng nhện năng động thay đổi không ngừng.

Trong một số trường hợp, con có thể thấy là ngay thời điểm chiếc phi cơ cất cánh, tai nạn đã được quyết định rồi. Nhưng có những lần khác, đó có thể là một khuôn đúc vẫn đang trong tiến trình chuyển đổi dẫn đến tai nạn, nhưng đôi khi một cách thật sát nút, tai nạn lại có thể được ngăn chặn. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng, và việc bảo rằng chỉ có một nguyên nhân cụ thể duy nhất thật là vô nghĩa.

Điều con có thể làm khi con lấy máy bay là, tất nhiên, thỉnh cầu cho chức năng kỹ thuật và cơ học của chiếc máy bay được bảo đảm, sự an toàn của phi hành đoàn, của mọi người trên máy bay, cùng những điều kiện bao quanh máy bay chẳng hạn như thời tiết, các chuyến bay khác và sự an toàn của chuyến bay của con.

Con cũng có thể thỉnh gọi cái Ta Ki-tô và Hiện diện TA LÀ chỉ đạo con không nên đáp một chuyến bay nếu chuyến này có tiềm năng tai nạn và nếu tai nạn này không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cho nên con có thể có một vài biện pháp cá nhân để sự an toàn được tối đa khi con du lịch.

Chữa lành tâm lý là một tiến trình kéo dài suốt đời

Hỏi: Con đã mất nhiều người thân thiết mà con rất gắn bó. Trong suốt một năm trời, con đã rất chăm chỉ sử dụng các dụng cụ tâm linh được các chân sư thăng thiên trao truyền để chữa lành, để buông bỏ các chấn thương của quá khứ và khắc phục chấn thương nhập đời của con. Có những lúc con cảm thấy mình không còn dính mắc với quá khứ nữa và con có thể nhớ lại quá khứ một cách trung hòa, không động cảm. Nhưng gần đây, tới một điểm mọi chuyện lại lặp lại và con lại cảm thấy nỗi đau trong cảm xúc. Con rất bối rối, tại sao chuyện này lại xảy ra? Con cố nhìn vào bên trong, bước vào bên trong tâm lý mình một cách thật chân thành, và con tránh cach tiếp cận máy móc. Có lẽ chăng con chưa nhìn ra ảo tưởng của mình hay những tin tưởng đằng sau dính mắc này? Hay phải chăng con rất thiếu kiên nhẫn, và một năm trời thật là ngắn ngủi cho tiến trình này? Xin các chân sư thăng thiên vui lòng bình luận.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 26/5/2021.

Con yêu dấu, khi con đọc quyển sách Những kiếp của tôi cùng các giáo lý về chấn thương nhập đời, con sẽ thấy là rất nhiều người trong các con có thể đã ở trên trái đất này một thời gian rất dài. Các con đã sống qua rất, rất nhiều kiếp sống, cho nên mặc dù các thày đã cho con những dụng cụ dũng mãnh, thật không thực tế chút nào nếu con nghĩ con có thể giải quyết tất cả chỉ trong một năm. Đơn giản là con cần kiên nhẫn hơn và tự cho mình nhiều thời gian hơn.

Con cũng cần nhận biết là bởi vì con đã gây dựng những khuôn nếp này suốt nhiều kiếp sống, cho nên sẽ tới một điểm khi con đã nỗ lực giải quyết một điều gì đó – và con cảm thấy mình đã giải quyết nó xong xuôi – nhưng thật ra con mới giải quyết được cho một kiếp đặc thù. Nhưng khi con cứ tiếp tục làm việc với tâm lý của con, cuối cùng con sẽ giáp mặt với một điều gì đến từ một tiền kiếp trước đó, nó sâu thẳm hơn, hay nó không hẳn là cùng một vấn đề tuy rằng nó có một số nét giông giống.

Con cần kiên nhẫn và nhận ra là sẽ có một số chu kỳ, qua đó con sẽ đào sâu xuống một vấn đề nào đó, con giải quyết nó, xong nếu có thể nói như vậy, con bơi trở lên mặt nước để lấy hơi và nhận được chút khuây khỏa. Rồi con lại lặn sâu xuống vùng nước của tiềm thức để đương đầu với cùng vấn đề đó ở một cấp độ sâu sắc hơn hay một vấn đề liên hệ mà con chưa giải quyết được lần đầu tiên.

Cho nên đơn giản, con cần kiên nhẫn hơn với chính mình, con cần chuyển đổi thái độ của mình để con có thể nhìn tiến trình này – như vị sứ giả này có nói – như một tiến trình chữa lành tâm lý sẽ kéo dài suốt đời con. Thẳng thắn mà nói, một kiếp sống là một thời gian rất ngắn để chữa lành tâm lý của con so với bao nhiêu kiếp sống mà con đã bỏ ra để xây đắp các chấn thương.

144 tầng tâm thức và đầu thai

Hỏi: Khi xác thân vật lý của một dòng sống qua đời và vị đó tái đầu thai trong một xác thân mới và một đời sống mới, liệu vị đó sẽ bắt đầu ở cùng mức tâm thức trong số 144 mức như đạt được trong kiếp trước đó hay không? Lý do con hỏi là vì con nghĩ một dòng sống phải đi qua 144 tầng tâm thức nhiều lần chứ không phải một lần duy nhất.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Gia tăng phân biện Ki-tô. Đăng ngày 13/1/2021.

Trong đa số trường hợp khi một sinh thể tái đầu thai, người đó sẽ trở lại ở cùng một tầng tâm thức như trong kiếp trước đó. Cũng có một số sinh thể bị suy kém đi trong khi họ ở ngoài xác thân vì họ bị kẹt lại nơi cõi trung giới và họ bị kéo xuống một tầng tâm thức thấp hơn.

Nhưng ngược lại cũng có một số lớn những sinh thể là học trò tâm linh – dù là học trò của chân sư thăng thiên hay là hành giả tu tập theo những giáo lý tâm linh khác – đạt được tinh tấn giữa hai kiếp đầu thai. Họ giải quyết tâm lý của họ, nhận được sự trợ giúp của các chân sư, và họ vươn lên một mức tâm thức cao hơn. Kết quả là trong kiếp đầu thai mới, họ khởi sự ở một mức cao hơn kiếp trước có thể tới mấy bậc.

Ý tưởng rằng con phải kinh qua tất cả mọi tầng tâm thức nhiều lần như trên đường thẳng, không chính xác. Tất nhiên là sẽ có những người đạt đươc một mức nào đó rồi đứng yên ở đó một thời gian, hay họ bị tụt xuống trở lại. Đây không phải là một tiến trình đường thẳng mà qua đó một khi con đã đạt được một mức nào rồi thì con không thể đi xuống thấp hơn.

Có những người sẽ đi lên đi xuống nhiều lần, và vì vậy có những mức mà họ sẽ kinh qua nhiều lần. Tuy nhiên rất, rất hiếm khi những người đã đạt tới những tầng cao của quả vị Ki-tô mà đi ngược trở xuống.

Khi các nhân vật nổi tiếng chuyển tiếp vào cõi chết 

Hỏi: Xin thày giảng điều gì xảy ra cho một dòng sống nổi tiếng trên trái đất – như một ngôi sao nhạc pop hay lãnh tụ một quốc gia chẳng hạn – khi người đó rời khỏi cõi vật lý? Liệu y sẽ khó lòng bước về phía trước nếu có quá nhiều người nhắc nhở đến y, quá nhiều người bàn tán hay suy nghĩ về y? Liệu y sẽ bị ràng buộc về mặt tình cảm, vân vân? Nếu những người còn sống cứ bám chặt lấy y thì liệu điều này sẽ hạn chế khả năng của y để bước về phía trước?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Gia tăng phân biện Ki-tô của con. Đăng ngày 13/1/2021.

À, con có thể thấy được rất nhiều người nổi tiếng khi họ rời khỏi màn ảnh cuộc đời thì trong nhiều trường hợp, họ đã gặp khó khăn bước tới trước mặt. Một lần nữa, đó là vì một số trong những người đó kỳ thực là sa nhân. Nhưng cho dù họ không là sa nhân thì họ cũng có lòng ham muốn được thần tượng hóa. Họ ham muốn được người đời kính trọng, được người ta xem mình là nhân vật quan trọng và mình để lại một di sản kế thừa nào đó.

Nếu một người mong muốn để lại di sản kế thừa thì thường thường y sẽ không thể đơn giản bỏ lại kiếp sống đó đằng sau. Y sẽ muốn ở nán lại để nhìn xem chuyện gì xảy ra, liệu người ta sẽ nói gì về mình, nói gì về sự nghiệp của mình, liệu họ sẽ than khóc, liệu họ sẽ đau buồn, liệu họ sẽ tiếp tục nghĩ tới mình và nhắc đến mình, vân vân. Trong nhiều trường hợp, điều này đã trì hoãn khả năng bước tới của dòng sống đó.

Điều quan trọng con cần nhận ra là một khi con đã rời khỏi một kiếp hiện thân thì con đã xong xuôi với kiếp đó. Điều con cần làm là con chỉ đơn giản buông bỏ mọi chuyện thuộc về kiếp đó, để hoặc con có thể chuyển sang kiếp kế tiếp và chuẩn bị cho kiếp kế tiếp, hoặc con sẽ thăng thiên. Đặc biệt nếu con muốn thăng thiên, tất nhiên con sẽ cần bỏ lại kiếp hiện thân đó đằng sau. Chỉ khi nào con bỏ lại mọi chuyện đằng sau thì con mới có thể thăng thiên.

Các chân sư làm việc với con người ở mức trực giác

Hỏi: Con có một người bạn là học trò của chân sư, được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần phân liệt. Đôi khi anh ấy nghe thấy giọng nói trong đầu mình. Trong phần lớn đời anh, anh không bị hiện tượng này. Chỉ từ khi quan tâm đến những vấn đề huyền bí, anh bị thu hút bởi ý tưởng rằng tâm con người giống như một chiếc máy thu thanh có khả năng bắt được làn sóng của nhiều đài phát thanh, nhiều mức rung động hay tầng cõi khác nhau. Anh bị thu hút bởi ý tưởng anh có thể bắt liên lạc với những sinh thể phi vật chất.

Sau đó anh bắt đầu nghe thấy giọng nói trong đầu bảo anh phải làm gì. Đời anh xuống dốc từ dạo đó. Cho tới khi anh tìm thấy giáo lý của các chân sư thăng thiên và anh bắt đầu tập bài cầu nguyện tràng hạt của Đại thiên thần Michael, anh cũng quyết định anh không muốn nghe thấy chúng nữa. Các giọng nói bặt hẳn, nhưng sau vài năm chúng lại trở lại. Con đoán là vì anh bắt đầu muốn giao tiếp với các chân sư, có thể vì anh cho rằng anh đã tiến đủ để nghe thấy chân sư.

Cá nhân con không nghĩ là anh đang giao tiếp với các chân sư đích thực, nhưng anh biết hơn con. Có thể đó chỉ là những lực tâm linh thấp kém mà anh đang liên lạc. Bạn con tin chắc là người ta có thể nghe được chân sư nói chuyện với mình y như giọng nói bình thường. Con không nghĩ như vậy, vì theo kinh nghiệm bản thân, con chỉ cảm được tình thương của chân sư trong tim con, đôi khi là sự thôi thúc nhè nhẹ chứ không bao giờ có giọng nói. Tất nhiên, kinh nghiệm của con rất hạn hẹp, Người ta có thể nào nghe thấy chân sư như giọng nói trong đầu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Không thể quả quyết rằng không ai có thể nghe được các chân sư theo như lời con, “một giọng nói trong đầu”. Có một số trường hợp con có thể nhận được một lời cảnh báo mà con nghe thấy như một giọng nói trong đầu. Nhưng tất nhiên, đó không phải là cách giao tiếp thông thường của các chân sư. Đó chỉ xảy ra trong một số tình thế nhất định, thường là một tình thế căng thẳng khi người ta nhận được cảnh báo rõ ràng là đừng làm chuyện này, phải làm chuyện kia. Khi đó, họ có thể cảm nhận đó là giọng nói trong đầu. Điều đó có thể xảy ra như vậy, hoặc cũng có thể cái ta Ki-tô của họ đang phóng chiếu ra một ý tưởng mà tâm họ biến đổi thành một giọng nói nghe được bằng tai.     

Rõ ràng là chúng tôi, các chân sư, không nói qua giọng nói như vậy, và đó là lý do chúng tôi phải nói qua trung gian một sứ giả để biến thành giọng mà con có thể nghe thấy. Và chúng tôi không nói chuyện trong đầu mọi người bởi vì – trên căn bản – đó là một sự vi phạm quyền tự quyết ngay cả khi người đó muốn vậy. Chúng tôi làm việc với con người trên một mức độ trực giác hơn, vì như vậy mỗi người sẽ nhiều tự do hơn trong chọn lựa.   

Ngắn gọn, chúng tôi có thể nói như sau: “Nếu con nghe thấy một giọng nói trong đầu bảo con phải làm một điều gì đó – hay không làm một điều gì đó – và nếu đó không phải là một tình huống khủng hoảng cấp bách, thì giọng đó không đến từ các chân sư thăng thiên.” Chúng tôi không tìm cách thiết lập quan hệ với con người mà cứ luôn luôn bảo họ phải làm điều này hay không làm điều kia. Chắc chắn chúng tôi không muốn, đặc biệt là trong những tình huống thường nhật, bảo con phải sống cuộc đời của con như thế nào. Chúng tôi không bảo con đi ra cửa hàng mua cái này hay không mua cái kia, bởi vì đó là trách nhiệm của con lấy những quyết định đó.

Tất nhiên là có những người mong muốn – có thể là một mong muốn có vẻ vô hại – giao tiếp với những sinh thể ở những cõi cao hơn. Trên thế giới có rất, rất nhiều người đồng bóng cũng có mong muốn có vẻ vô hại là giao tiếp với những sinh thể cao hơn, đem lại một số giáo lý có khả năng giúp ích nhân loại. Tuy nhiên nếu con đi vào sâu hơn trong tâm lý, những người đó có mong muốn làm người đặc biệt, mong muốn làm được những điều mà người khác không thể làm, mong muốn được người khác khâm phục và ngưỡng mộ. Có thể họ không ý thức được điều đó nhưng dù sao, đó cũng là một mong muốn không trong sáng.   

Hiển nhiên là chúng tôi, các chân sư thăng thiên, sẽ không bao giờ đáp lại mong muốn đó. Nhưng trong các cõi bản sắc thấp, lý trí và ngay cả tình cảm, sẽ có những sinh thể sẵn sàng đáp lại nguyện vọng này. Và các sinh thể này sẽ cho người ta loại giao tiếp mà người ta mong muốn, bởi vì nhờ vậy mà các sinh thể này mới có thể bòn rút năng lượng của con người. Và nếu một người – chẳng hạn một người đồng bóng – được nhiều người hưởng ứng thì người đó cũng sẽ có thể khai thác năng lượng của những kẻ theo mình.

Trong trường hợp mà con đề cập, con có trực giác đúng đắn. Và cũng vậy, điều này nói chung cũng đúng đắn đối với nhiều người khác bảo rằng họ có kiểu giao tiếp này. Kiểu đó không đến từ các chân sư thăng thiên, bất kể họ tin tưởng như thế nào.

Bảy tia sáng và quang phổ vật chất

Hỏi: Bảy tia sáng có thể nói là một phần đặc thù của quang phổ vật lý hay không? Và chúng có thể được phát hiện bằng dụng cụ vật chất hay không? Có những khía cạnh đã được nói đến về con mắt và tầm nhìn của chúng ta vận hành như là sự giao thoa của bảy tia sáng.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Ta sẽ không nói rằng bảy tia sáng là một phần của quang phổ vật chất – tức là bảy tia sáng là những loại năng lượng tâm linh. Và tất nhiên, năng lượng của bảy tia đã được giảm độ rung xuống để tạo ra cõi bản sắc trước tiên, rồi cõi lý trí, cõi tình cảm, rồi mới đến cõi vật lý. Năng lượng được hạ độ rung, và khi đó chúng không thực sự là cùng sự rung động của cái mà con thường gọi là bảy tia sáng.

Không phải là mắt con không thể phát hiện ra bảy tia sáng, nhưng bộ não của con không thể xử lý các tia sáng.

Đó là vì sao một số người với khả năng ngoại cảm có thể thấy được hào quang của người khác, chẳng hạn. Mọi người đều nhìn thấy được hào quang nhưng bộ não của họ lọc nó ra như là một loại thông tin không cần thiết. Con không thể thực sự dùng mắt vật lý để thấy được bảy tia sáng tâm linh trong quang phổ tâm linh bởi vì mắt không có khả năng vượt được ra ngoài. Nhưng con có khả năng nhìn tâm linh, là khi con nhận biết, con trực nhận bảy tia sáng.

Nói về các dụng cụ vật chất, thật ra đã có những dụng cụ vật chất có khả năng phát hiện những rung động vượt hẳn ra ngoài cõi vật lý, cõi vật chất. Người ta đã phát triển những dụng cụ này, và một số ít nhà khoa học có đưa ra giả thuyết là chúng phát hiện các rung động của những cõi cao hơn. Nhưng tất nhiên, đây không phải là khoa học chính mạch.  

Dĩ nhiên là người ta có thể khám phá hay phát triển một số dụng cụ có khả năng phát hiện rung động cao hơn, tuy không nhất thiết là sẽ biến chúng thành những vật có thể nhìn thấy bằng mắt. Nhưng dụng cụ sẽ nhận rõ là các rung động đó có mặt ở đó, và bắt buộc phải có mặt ở đó. Điều này cũng phần nào giống như năng lượng tối (dark energy) và vật chất tối (dark matter), là những thứ hiện nay chưa được phát hiện trực tiếp, nhưng có thể được suy ra từ sự đo đạc rằng có sự hiện diện của những thứ mà mắt người không thể nhìn thấy.  

Tầm nhìn tâm linh về việc xâm hại tình dục trẻ em

Hỏi: Xin các chân sư cho biết tầm nhìn tâm linh về ấu dâm là gì? Tại sao ấu dâm lại hiện hữu? Chúng con có thể dùng bài thỉnh nào để loại bỏ ấu dâm khỏi trái đất?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Các thày đã dạy rằng nạn xâm hại tình dục trẻ em hiện diện chủ yếu là vì có nhiều sinh thể, đặc biệt là sa nhân, đã bị cắt đứt không nhận được ánh sáng trực tiếp từ cõi tâm linh. Vì vậy để có thể nuôi thân và thậm chí sống còn – và hơn nữa để có chút năng lực làm bất cứ việc gì – chúng phải đánh cắp năng lượng từ những ai vẫn còn nhận được năng lượng từ cõi tâm linh. Và một trong những phương cách để đánh cắp năng lượng từ người khác tất nhiên là qua việc cưỡng hiếp hay hành vi tình dục đồi bại nào khác.

Nhưng chúng chỉ có thể đánh cắp một lượng giới hạn nào đó tùy theo người kia mang bao nhiêu năng lượng. Và vấn đề là một số người lớn đã phung phí một phần năng lượng của mình.

Nhưng trẻ em thì khác. Nói chung, trẻ em vẫn còn nhiều năng lực sống trước khi các em bắt đầu hoạt động tình dục hay bắt đầu bước vào lối sống của giới thanh thiếu niên hay của người lớn khiến cho năng lượng bị phung phí. Đó là tại sao có một thành phần những sinh thể không có khả năng nhận ánh sáng từ cõi tâm linh tìm cách đánh cắp năng lượng qua việc quan hệ tình dục với các em. Đó chính là lý do thực sự của vấn đề.

Tất nhiên con có thể thỉnh cầu để loại bỏ tệ nạn này. Con có thể dùng các bải thỉnh cho Astrea, hay nhiều bài khác như bài nguyện cũ cho Đại thiên thần Michael, bài nguyện cho Ánh sáng Vô biên, vân vân. Nhưng con có thể thỉnh gọi sự phán xử đối với những kẻ ấu dâm cũng như các loài quỷ dữ cùng các tà thể đứng đằng sau chúng. Và con có thể thỉnh gọi xã hội sớm thức tỉnh để thực sự nhìn nhận tệ nạn này và ra tay làm nhiều hơn để hạn chế tệ nạn.

Giáo lý của chân sư thăng thiên và các đạo sư Ấn độ

Hỏi: Con là người Ấn độ, và con rất lấy làm lạ con là người Ấn độ duy nhất mà con quen biết đang theo học giáo lý của chân sư thăng thiên. Đất nước này có 1,3 tỷ dân và đã sinh sản ra rất, rất nhiều người trưởng thành về mặt tâm linh. Điều gì đang khiến cho nước con tụt hậu tâm linh đến như vậy? Và đâu là cách tiếp cận tốt nhất để đánh thức dân tộc con dậy? Con biết chân sư MORE đã từng nói là chính các đạo sư đã từ chối thừa nhận các chân sư thăng thiên, chẳng hạn những vị như Satguru, Sri Sri Ravi Shankar và phong trảo của Brahma Kumaris đều có rất đông người đi theo. Nhưng thực sự họ đã giúp cho tín đồ của họ được bao nhiêu? Con muốn biết suy nghĩ của các thày về điều này.


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 16/10/2020.

Trong quá khứ, các chân sư đã cố gắng với tay tới học trò tại Ấn độ qua phong trào Thông thiên học, nhưng kết quả đạt được khá giới hạn. Qua các đợt truyền pháp gần đây hơn là Phong trào I Am, Summit Lighthouse và đợt truyền pháp hiện thời, các thày lại đạt được kết quả ít hơn nữa khi cố mở ra với học trò tại Ấn độ. Tất nhiên, nguyên nhân phần nào là do Ấn độ có một truyền thống tâm linh vô cùng phong phú, phong phú hơn hầu hết mọi quốc gia phương Tây. Ở đây có một truyền thống đi tìm đạo sư. Tại Ấn độ vẫn còn một số đạo sư cá nhân chân chính, cho nên những ai cởi mở với đường tu tâm linh có thể tìm thấy những giáo lý này trong chính nền văn hóa của mình.

Ta cũng xin nói là tất nhiên, có một hàng ngũ những thày giả tà đạo tại Ấn độ, họ không chỉ tìm cách gạt gẫm người tầm đạo từ phương Tây mà ngay cả người Ấn nữa. Rõ ràng là trong tâm thức tập thể tại Ấn, có một sự tắc nghẽn chống lại việc thừa nhận các chân sư thăng thiên. Điều này không chỉ xảy ra tại Ấn mà con thấy nó xảy ra tại hầu hết mọi quốc gia. Ở hầu hết các nước chịu ảnh hưởng đạo Cơ đốc, đạo Cơ đốc đã tạo ra một sự tắc nghẽn chống lại việc chấp nhận chân sư thăng thiên, và ở Ấn độ cũng không khác gì. Tất nhiên, một phần là do truyền thống Ấn độ giáo không công nhận bất cứ gì vượt ra khỏi người Bà la môn cùng các vị thần của đạo Ấn, nhưng thôi…

Đây không phải là một vấn đề khiến cho chúng tôi quan tâm quá mức. Chúng tôi rất vui mừng có những học trò tại Ấn độ đang học hỏi giáo lý, nhưng thực sự chúng tôi không đang nỗ lực lôi cuốn một số đông đệ tử theo học đợt truyền pháp này tại Ấn độ.

Rõ ràng nếu con nhìn vào Ấn độ như một quốc gia, con sẽ thấy một số đạo sư đã trở nên danh tiếng hơn và quy tụ người theo học ngày càng đông đảo hơn. Nói chung, ta có thể nói là khi một đạo sư có rất nhiều người đi theo, thường đó là vì giáo lý của đạo sư không vượt lên trên một mức nào đó. Chính vì vậy mới có nhiều người cảm thấy tương hợp mà theo học. Một cách nào đó, vị đạo sư đã trao cho quần chúng những gì mà quần chúng mong muốn. Đạo sư cống hiến cho họ một con đường tiện lợi rất dễ theo, nhưng là một con đường không thực sự đòi hỏi họ phải nhìn vào chính bản thân mình, phải chữa lành tâm lý mình và nâng cao tâm thức.      

Bây giờ, nếu con nhìn rộng ra thế giới chứ không riêng gì Ấn độ, có một câu hỏi mà nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã từng tự hỏi: “Nếu đúng là loài người đang nâng cao tâm thức và sự tăng trưởng tâm thức này là do các chân sư thăng thiên đang làm vị thày phổ quát cho cả nhân loại, thì tại sao người ta không ngày càng công nhận các chân sư thăng thiên nhiều hơn?” Chẳng hạn, nếu một đạo sư đã đạt đến một mức tâm thức rất cao, tại sao vị ấy lại không nhìn nhận chân sư thăng thiên? Tại sao Paramahansa Yogananda đã không viết nhiều hơn về các chân sư thăng thiên trong cuốn sách của mình, ngoại trừ một vài đoạn nói bóng gió mà con có thể tìm thấy?   

Giải đáp cho câu hỏi này là không chỉ có một giải đáp duy nhất. Mỗi đạo sư chân chính đều có một nhóm người nhất định mà vị ấy đã trù định sẽ hướng dẫn. Tùy theo mức tâm thức của nhóm này, rất có thể là họ chưa sẵn sàng chấp nhận chân sư thăng thiên. Có nghĩa là nhiệm vụ của đạo sư không phải là khiến cho họ chấp nhận chân sư thăng thiên, mà là nâng cao mức hiện thời của họ lên tới một mức tâm thức mà từ đó họ có thể tiến xa hơn. Không cứ là mọi đạo sư chân chính đều sẽ có ngày công nhận chân sư thăng thiên, bởi vì không phải ai ai cũng sẵn sàng cho chuyện đó.    

Nhưng hiển nhiên còn có vấn đề hàng ngũ tà đạo, các đạo sư giả, không những tại Ấn độ mà khắp mọi nơi khác, và những kẻ này thì sẽ không công nhận chân sư thăng thiên, vì dĩ nhiên, chúng tôi là những vị thày có khả năng giải phóng người tầm đạo khỏi sự chi phối của đạo sư giả.

Con hãy nhìn vào địa cầu thì con có thể thấy được là các đạo sư chân chính cần nâng cao tâm thức của đệ tử, và nếu đệ tử cứ tiếp tục nâng cao tâm thức, thì cuối cùng hầu hết sẽ tìm thấy các chân sư và giáo lý của chân sư. Nhưng tuy vậy, con không thể nói là tất cả mọi người tâm linh trên địa cầu sẽ cần phải tìm thấy chân sư thăng thiên. Có những đường tu khác. Và điều quan trọng là luôn luôn có những người thực chứng được mỗi đường tu chân chính đó để cho rất nhiều người còn ở mức tâm thức chưa cao có thể tìm ra một con đường hấp dẫn đối với họ.       

Như ta đã nói, không phải ai ai cũng sẵn sàng đi theo đường tu mà chúng tôi cống hiến. Nhưng điều cũng cần nói là tất nhiên có nhiều đạo sư giả, và các đạo sư giả này sẽ dẫn con người đi lạc lối bằng rất nhiều cách, và họ sẽ cài đặt những nút tắc nghẽn trong tâm con người khiến cho con người không thể vượt quá một mức nào đó trên đường đạo. Có những đạo sư giả sẽ khiến đệ tử tiến tới một mức nào đó nhưng rồi bị kẹt lại, và sẽ rất khó khăn vượt qua được mức đó.   

Đối với những đệ tử đã đi theo đạo sư giả, họ sẽ thấy rất, rất khó lòng tìm lại được con đường chân chính nếu họ không sử dụng giáo lý của chân sư thăng thiên. Đó là vì chúng tôi là những vị thày duy nhất có mức tâm thức và kinh nghiệm cần thiết để giúp học trò khắc phục sự tắc nghẽn khởi sinh từ việc đi theo đạo sư giả. Hiển nhiên, rất nhiều đệ tử trong số này sẽ được lợi ích nếu họ xem đến giáo lý của chúng tôi. Nhưng tiếc thay, điều này đòi hỏi họ phải cởi mở hơn rất nhiều, phải sẵn lòng hơn rất nhiều, để nhìn xa hơn các giáo lý trước đây của họ. Đó là vì đạo sư giả thường có những phương thức vô cùng tinh vi để cài đặt tắc nghẽn trong tâm họ, và điều này sẽ ngăn cản họ nhận ra chân sư thăng thiên.

Sa nhân và nghệ thuật

Hỏi: Xin các chân sư cho ý kiến về vai trò của sa nhân trong nghệ thuật. Phải chăng họ chỉ biểu đạt tình trạng tâm thức của họ, hay là họ có một ý đồ nào đó? Khi con nghe nhạc rap, con nhận thấy mặc dù có thể có sự vô cảm đối với sự sống, con vẫn tìm thấy một chút tính nhân bản trong cách đặt lời. Ngay cả những nghệ sĩ có vẻ như không có chút tình người trong âm nhạc của họ, nhưng họ dường như vẫn hiền lành, hầu như vô hại nếu so với những sa nhân như Hitler. Phải chăng con chưa được nghe loại nhạc có rung động đủ thấp để mà nhận thấy điều gì? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho nước Mỹ. Đăng ngày 15/10/2020.

Có những nhà ngoại cảm có khả năng nhìn vào một bức họa chẳng hạn. hay một tác phẩm nghệ thuật nào đó, và thấy được nó có tác dụng cài đặt một cái móc hay một ống hút vào hào quang của người đang ngắm nhìn, hầu bòn rút năng lượng của người đó. Cũng có một số tác phẩm nghệ thuật có khả năng tải xuống một số hình ảnh hoặc ma trận năng lượng vào các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của những ai đặt chú ý vào tác phẩm. Nghệ thuật không hoàn toàn trong trắng, vô hại như nhiều người tưởng. Nhưng điều này không có nghĩa là bây giờ con phải sợ ngắm nhìn mọi tác phẩm nghệ thuật, bởi vì tất cả tuỳ thuộc phần lớn vào cách con nhìn tác phẩm hay cách con nghe bản nhạc – liệu con có mở toang ra để cho nó nhập vào mình hay không. 

Tất nhiên, điều này có thể khó biết được đối với nhiều người vì họ không ý thức được những lỗ hổng mà họ đang có trong hào quang của mình, cho nên họ sẽ dễ bị tổn thương hơn như khi họ thâu nhập, hay để cho người khác bòn rút năng lượng từ cảm thể của họ chẳng hạn. Đối với những ai nhậy bén hơn, họ có khả năng học rất nhanh cách cảm nhận độ rung trong tim họ, tức là liệu bức tranh mà họ đang ngắm có nâng cao hay kéo thấp độ rung, có nâng cao hay kéo thấp cảm giác trong tim họ. Chẳng hạn có người học được cách nhận thấy năng lượng bị hút ra khỏi họ khi họ đang lắng nghe một loại nhạc nào đó. Ai ai cũng có thể học được khả năng này nếu mình sẵn sàng học hết tiến trình, nhưng để thực sự học được thì mình phải trung dung.

Con không thể thiếu trung dung như rất nhiều người khi họ không sẵn lòng cảm nhận xem năng lượng của họ có bị đánh cắp hay không, bởi vì họ quá ham nghe một loại nhạc nào đó do một quyết định của ngoại tâm, hoạc vì họ quá muốn xem một tác phẩm nào đó, hoặc nữa, vì họ tin – như một số người tâm linh hay muốn tin như thế – rằng mọi loại nghệ thuật “đều tốt thôi”.     

Sự phân biện đòi hỏi một sự sẵn sàng muốn biết – và trên căn bản, điều này đòi hỏi là con ở trong một trạng thái trung dung hầu con tự do cảm nhận: “Tác phẩm này đang tác động tôi như thế nào? Nó có kéo thấp năng lượng của tôi? Nó có lấy mất năng lượng hay nó nâng cao năng lượng của tôi? Liệu tôi có nhận được năng lượng tích cực từ nó hay không?”

Về khái niệm đồng sáng tạo

Hỏi: Qua từ “sáng tạo” và “đồng sáng tạo”, có phải các chân sư muốn nói đến các hậu quả mà chúng con học hỏi về bản thân mình hay là hậu quả bên ngoài? Thật là bối rối cho ngã vỏ ngoài phải học hỏi từ hậu quả khi thậm chí nó không thể nhìn thấy những gì nó đã tạo ra. Liệu chúng con tạo ra một vật, hay một hoàn cảnh được chia sẻ với những người đồng sáng tạo khác (tức quả báo), hay chỉ mt cái ngã khác, hay mt loại khuôn đúc năng lượng, hay tất cả nhng th đó? Liệu hình tướng mà chúng con đồng sáng tạo và hậu quả của nó sẽ khác đi tùy theo chúng con ở trong Trường đời Cay đắng hay trường của chân sư thăng thiên?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 15/10/2020.

Phải, các con là người đồng sáng tạo. Điều này có nghĩa là con không thể sáng tạo một cái gì đó từ chính cái ta của con như Đấng Sáng tạo vốn làm. Trên cơ bản, tất cả chúng ta – ngay cả các chân sư thăng thiên của các bầu cõi trước – những sinh thể trong thế giới hình tướng của Đấng Sáng tạo, chúng ta đều đồng sáng tạo, vì chỉ có Đấng Sáng tạo mới tạo ra một thế giới hình tướng từ hư vô, từ chính bản thể của ngài, còn chúng ta thì đồng sáng tạo cùng với ngài.

Các con đang hiện thân trên địa cầu, con đang hiện thân trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Con đang đồng sáng tạo cùng với các chân sư thăng thiên được giao nhiệm vụ giúp cho bầu cõi của con tăng triển. Hơn thế, con cũng đang hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên, có nghĩa là con đang đồng sáng tạo trong khuôn khổ các điều kiện của hành tinh này.

Điều này cũng đúng cho bất kỳ hành tinh nào khác, và ngay cả một hành tinh tự nhiên cũng có một khuôn đúc nào đó được quy định cho hành tình đó. Và con sẽ luôn luôn đồng sạng tạo trong khuôn khổ đó, và trong tư cách một cá nhân, con không thể đi ngược lại nó, không thể nào lật bỏ nó. Trên trái đất, con đồng sáng tạo trong khuôn khổ các điều kiện mà tâm thức tập thể đã tạo ra.

Bây giờ, thật dễ thông cảm khi con nói rằng ngã vỏ ngoài bị bối rối phải học hỏi từ hậu quả khi nó không thấy được những gì nó đã đồng sáng tạo trong quá khứ.

Nhưng con thấy đó, thật ra không phải ngã vỏ ngoài phải học hỏi từ hậu quả, mà cái Ta Biết mới có khả năng học hỏi từ hậu quả. Và cái Ta Biết chỉ học được nếu nó bước ra ngoài ngã vỏ ngoài rồi nhờ vậy ngộ ra rằng hoàn cảnh vỏ ngoài của con là sự phản ánh của chính hoàn cảnh nội tâm của con, tráng thái tâm thức của con.

Con đồng sáng tạo qua tâm thức của con, con là một người đồng sáng tạo cá biệt. Các hình ảnh mà con giữ trong các thể bản sắc, lý trí và tình cảm sẽ có tác động to lớn trên hoàn cảnh vật lý vỏ ngoài của con. Cho nên theo một nghĩa nào đó, con đang tạo ra tất cả những thứ mà con vừa liệt ra trong câu hỏi. Nhưng tất nhiên khi nói đến các tình huống vỏ ngoài, các tình huống vật lý, con không tạo ra chúng trong hư vô, mà con tạo ra chúng trong bối cảnh hành tinh nơi con sống và cái khuôn đúc do tâm thức tập thể thiết lập.

Băy giờ như các thày đã giải thích, bảy vị Elohim đã tạo ra hành tinh địa cầu trong hình dạng nguyên thủy thuần khiết của nó. Và nhân loại sau khi sa ngã vào nhị nguyên, đã thay đổi khuôn đúc ban đầu của địa cầu một cách đáng kể, đến độ khiến cho cả vật chất cũng dày đặc hơn. Có rất, rất nhiều điều kiện, rất nhiều điều kiện vật lý trên trái đất do tâm thức tập thể sinh ra trong một khoảng thời gian rất dài. Con đang đồng sáng tạo những hoàn cảnh vật lý trong môi trường đó. Như một cá nhân, tất nhiên sẽ có giới hạn cho những gì con có thể lật bỏ tùy theo tầng tâm thức của con, nhưng ngay cả khi con ở tầng cao nhất, tầng tâm thức thứ 144, vẫn có một giới hạn cho những gì con có thể lật bỏ trong tâm thức tập thể, bởi vì quyền tự quyết phải được phép trải bày ra.

Điều quan trọng nhất mà con cần hiểu về việc đồng sáng tạo là tâm thức của con, những gì nằm trong ba thể cao của con, có tác động cơ yếu trên hoàn cảnh vật lý, tình huống vật lý của con. Con đã không luôn luôn đồng sáng tạo các tình huống đó, nhưng trong nhiều trường hợp con đã tự thu hút mình vào các tình huống đó, và con đã làm vậy để học hỏi một số bài học.

Nhưng nếu con đi trở ngược lại xuyên qua rất nhiều kiếp đầu thai trên trái đất và giải quyết những cái ngã đủ loại mà con đang mang, con sẽ có thể vươn lên trên tình huống vỏ ngoài, và hoặc con sẽ tự thu hút mình vào một tình huống khác, hoặc con sẽ đồng sáng tạo, con sẽ tạo ra một tình huống mới. Nhưng đây không phải là điều mà ngã vỏ ngoài có thể làm.

Liệu có khác biệt gì chăng giữa việc ở trong Trường đời Cay đắng và việc bước chân trên đường tu với các chân sư thăng thiên? Tất nhiên là có, theo nghĩa là nếu con ở trong Trường đời Cay đắng thì con đã chưa hoàn toàn nhìn nhận rằng hoàn cảnh bên ngoài chỉ là sự phản ánh của hoàn cảnh bên trong, cho nên con không thể dễ dàng học hỏi từ những hoàn cảnh đó.

Tuy vậy, ta cũng phải nói là có những người đã học tập giáo lý của chân sư thăng thiên mà vẫn chưa hoàn toàn nhìn nhận điều đó, cho nên họ vẫn còn phần nào ở trong Trường đời Cay đắng. Nhưng khi con hoàn toàn nhận lãnh trách nhiệm về bản thân mình, thì khi đó sẽ có một sự khác biệt. Vì khi con còn trong Trường đời Cay đắng, con không cởi mở lắm với nhu cầu thay đổi nội dung trong ba thể cao của mình, và do đó con sẽ tiếp tục đồng sáng tạo dựa theo nội dung đó, con sẽ tiếp tục đồng sáng tạo cùng một thứ đó. 

Một khi con nhập trường chân sư thăng thiên và sẵn lòng buông bỏ những ngã đó từ quá khứ, thì con sẽ không lặp lại cùng những khuôn đúc đó, con sẽ không để cho ánh sáng chảy xuyên qua chúng, chúng sẽ không còn nữa và do đó con cũng tự do hơn để tạo ra một cái gì khác. Con có thể tạo ra những gì con xem là hoàn cảnh xây dựng hơn cho bản thân con.

Chuyển nghiệp cho con cái

Hỏi: Với tư cách là một người mẹ, con có thể nào dùng ngọn lửa tím để làm tiêu nghiệp cho một đứa con đã trưởng thành hay không? Hay đó là vi phạm quyền tự quyết của nó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 9/9/2020.

Nghiệp có hai khía cạnh. Một khía cạnh chỉ đơn thuần giống như một cơ chế máy móc: Năng lượng tha hóa có thể đã tích tụ lại trong ba thể cao của một người và đang là một gánh nặng cho người đó. Con có thể dùng các bài thỉnh gọi để tiêu hủy khía cạnh này cho người khác.

Nhưng cũng có một phần của nghiệp đòi hỏi chính người đó phải thấy được một điều gì đó và thăng vượt một trạng thái tâm thức nào đó. Điều này, hiển nhiên, con không thể làm thế cho người khác. Không phải là chuyện vi phạm quyền tự quyết của họ, mà đơn giản là con không thể làm được chuyện đó. Con không thể khiến cho họ nhìn ra một điều gì mà họ không sẵn lòng nhìn thấy.

Cho nên một lần nữa, việc thình gọi cho người khác có thể có tác dụng tích cực, vì bằng cách chuyển hóa năng lượng, họ sẽ dễ dàng hơn thấy được những gì họ cần thấy. Nhưng không có bảo đảm là họ sẽ thấy được điều đó vì sự thể tùy thuộc vào ý chí tự quyết của họ.

Sức lôi cuốn chân chính

Hỏi: Về sức lôi cuốn hay khả năng hấp dẫn, có những người có mãnh lực này ở nhiều mức độ khác nhau, và có những nhà lãnh đạo thì có dư thừa và nhờ vậy họ điều khiển được người khác. Trong đời sống hàng ngày, có người có rất nhiều bạn bè hay bạn tình, trong khi có người lại không làm bạn được với ai vì thiếu thu hút và hấp dẫn. Vậy từ góc độ tâm linh, thế nào là sức lôi cuốn? Một người có thể nào kiểm soát được đặc tính đó? Liệu đặc tính đó có thể ghi vào sứ vụ thiêng liêng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Con cần phân biệt giữa sức lôi cuốn của một người kiểm soát, và sự lôi cuốn của một người chứng đạt tâm linh đã hóa giải được tâm lý của mình. Sẽ đến một điểm khi con đã bước trên đường tu tâm linh và giải quyết tâm lý mình, thì ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên bắt đầu tỏa rạng xuyên qua con, tạo cho con một lực lôi cuốn dưới mắt những ai hòa điệu được với ánh sáng đó.   

Nhưng đối với một người không hòa điệu với bất cứ gì, thì họ có thể gặp một người tiến hóa tâm linh, thậm chí một bậc thày tâm linh, mà vẫn không cảm nhận được điều gì đặc biệt. Như trong Kinh thánh con cũng thấy, có những người gặp ta cách đây 2000 năm mà không thấy gì đặc biệt nơi ta. Trong khi đó lại có những người gặp ta và cảm nhận được một hào quang ánh sáng tỏa ra mạnh hơn trung bình. Có thể nói đây là khía cạnh chân chính của sự lôi cuốn.

Ngược lại, khía cạnh kia là sức lôi cuốn của nhiều sa nhân, là cái mà người ta thường gọi là sức thu hút, sức quyến rũ. Đó là vì sa nhân đã tập được cách kiểm soát người khác bằng tâm lý. Con thấy một số sa nhân gần như có khả năng thôi miên người ta đi theo và phục tùng mình. Hitler đã làm được chuyện này ở một mức độ khá cao, Mao cũng vậy. Riêng Stalin thì không có sức lôi cuốn, cho nên ông đã phải dùng đến lòng sợ hãi để buộc ai nấy phải vâng lời mình, mặc đù một số người cũng bị choáng ngợp bởi cường độ năng lực mà ông đã xây đắp chung quanh ông.

Điểm này dẫn đến việc xem xét khía cạnh thứ ba của sức lôi cuốn: giản dị đó là lòng tôn sùng, sự thờ phượng và thần tượng hóa được xây dựng lần hồi chung quanh một người nào đó. Thời xưa chuyện này ít xảy ra hơn. Nhưng với sự ra đời của các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại, nó xảy ra nhiều hơn hẳn ngày hôm nay. Con cứ lấy một ngôi sao điện ảnh đã đóng một số phim, đã đoạt giải Oscar, đã được báo chí và truyền thông nói đến rất nhiều, thì ai nấy sẽ dựng lên một lòng tôn sùng và xem người đó là vô cùng đặc biệt.   

Thậm chí, diễn viên đó có thể tin là mình đặc biệt thật và bắt đầu hành xử y như một người rất đặc biệt. Tuy nhiên, có những người đã gặp mặt một số diễn viên như vậy thì hiểu ra họ cũng chỉ là con người giống như bất cứ ai khác. Con thấy, tất nhiên, có những sa nhân có khả năng thôi miên người khác, và song song con cũng thấy những người tiến hóa tâm linh với sức lôi cuốn chân chính. Nhưng cả hai, nhà lãnh đạo sa ngã lẫn nhà lãnh đạo tâm linh, đều có thể trở thành đối tượng cho sự sùng bái của thế gian khi người ta phóng chiếu một số đức tính hoàn toàn không thực tế lên họ.

Trong hai tổ chức Summit Lighthouse và I Am Movement, chúng tôi đã chứng kiến sự tôn sùng thần tượng to lớn chung quanh các vị sứ giả. Ngay cả trong phong trào này, chúng tôi cũng thấy một số người tôn sùng sứ giả này mặc dù ông đã không khuyến khích sự thể đó, đã lên tiếng, và những ai đã gặp ông và làm việc với ông cũng biết rõ là không có lý do gì để tôn sùng như vậy. Ông không tự xưng là ông có gì đặc biệt, ông không xem là mình cao hơn người khác vì ông là một lãnh đạo-đầy tớ.   

Cách đây 2000 năm, ta cũng như vậy. Nhưng ngay từ thời đó cũng đã có một sự phóng chiếu sùng bái nào đó. Tuy vậy, đó vẫn không là gì so với sự sùng bái đã được phóng chiếu lên bản thân ta từ khi Giáo hội Công giáo được thành lập, khi ta được nâng lên ngôi vị một đấng siêu phàm ngang hàng với Thượng đế. 

Vậy con hỏi, liệu việc phát triển khả năng lôi cuốn có thể ghi vào sứ vụ thiêng liêng của con hay không? Tại sao con lại muốn phát triển khả năng lôi cuốn chứ nhỉ? Nói cách khác, nếu con là một học trò tâm linh, tại sao con lại muốn sức lôi cuốn của sa nhân để khuynh loát người khác? Điều mà con mong muốn có lẽ là phát triển một lực lôi cuốn tự nhiên xuất phát từ sự tinh tấn tâm linh và giải quyết tâm lý. Điều này chắc chắn có thể là một phần của sứ vụ thiêng liêng của con, nhưng trọng tâm của sứ vụ không phải là khả năng lôi cuốn. Đó có thể là một phụ phẩm, chứ không phải là mục đích. Đó không phải là một mục đích mà con ấn định cho con.

Chắc chắn có những người tâm linh, kể cả học trò của chân sư thăng thiên, ấp ủ  những giấc mơ xa vời là mình sẽ phát triển khả năng lôi cuốn quần chúng hầu mình có thể thu hút người ta theo mình, giống như họ đã thấy một số lãnh đạo tâm linh từng làm. Có người còn mơ ước mình đạt được thiên khiếu của Tánh linh để người ta phải ngất xỉu mỗi khi mình vẫy tay hay bước vào phòng, và người ta sẽ thấy tận mắt một số biểu hiện rồi tin rằng mình nói gì hay làm gì cũng là dấu hiệu mình là người đặc biệt. Nhưng đó không phải là điều mà chúng tôi khuyến khích nơi các đệ tử. Đó không phải là điều chúng tôi khuyến khích nơi bất cứ ai, bởi vì sùng bái có ích lợi gì đâu?  

Điều mà chúng tôi mong muốn lập ra là một giáo lý và một phong trào đặt nền tảng trên ý tưởng rằng mọi người đều có tiềm năng tâm linh, mọi người đều có tiềm năng tự thăng vượt. Cho nên nếu con là một sứ giả trong một phong trào đích thực của chân sư thăng thiên, con không là một người đặc biệt, con không đứng riêng ra như một người đặc biệt. Con là một tấm gương mà người khác có thể noi theo. Có thể con đã bước xa hơn nhiều người khác trên đường tu, nhưng điều này không có nghĩa là họ không thể bước đi trên cùng con đường đó và đạt cùng mức thành đạt tâm linh như con. Có thể là họ sẽ không làm y hệt những gì con đã làm, chẳng hạn như làm sứ giả, nhưng có nhiều việc khác mà họ có thể làm trong khuôn khổ sứ vụ thiêng liêng của họ.

Cho nên, thật sự, mục tiêu của một sứ giả đích thực cho chân sư thăng thiên là nâng cao mọi người lên mức tâm thức cao nhất và giúp họ đạt được mức đó. Ngược lại, mục tiêu của một thày giả là chỉ khiến cho y tiếp tục là người đứng đầu. Y sẽ là người lãnh đạo và sẽ luôn luôn là một người đặc biệt. Nhưng mục tiêu của một người lãnh đạo-đầy tớ thì khác. Trên cơ bản, đó là khiến cho minh trở thành dư thừa khi không còn ai cần đến mình nữa.

Làm thế nào ứng phó với một người không muốn sống

Hỏi: Con gái của con bị chứng tâm thần phân liệt (schizophrenia) và nó không muốn sống nữa. Làm thế nào con có thể làm việc trên tâm lý của chính con? Và làm thế nào con có thể giúp tâm lý con gái của con? Chấn thương nào là chấn thương mấu chốt ở đây? Và điều gì cần được giải quyết trước tiên? Con đã thử nhiều phương thức khác nhau, kể cả cầu nguyện, đọc thỉnh, xua đuổi các tà thể bệnh tật nhân danh Giê-su Ki-tô và cái Ta Là, cũng như nhiều cách khác, nhưng vẫn không đủ. Con có cảm giác là khi con càng thỉnh cầu ánh sáng thì tình trạng của con gái con càng trầm trọng hơn.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Con cần nhìn ra ở đây là không một lời cầu nguyện, một lời chú, một lời thỉnh nào có khả năng đi ngược lại quyền tự quyết của một người. Đó là vì sao trong một số hoàn cảnh, con càng thỉnh cầu ánh sáng thì tình trạng dường như lại càng tệ hơn, vì ánh sáng đang tác dụng trên người đó nhưng họ lại không muốn quyết định xoay chuyển để trở về một thái độ tích cực hơn đối với sự sống. Và do đó, ánh sáng khiến họ bị dao động xốn xang, hay làm dao động những con quỷ hay tà thể đang xâm chiếm họ, khiến họ xử sự càng cực đoan hơn nữa.

Có thể điều cần thiết trong những cảnh huống như vậy là con hãy tạm ngừng thỉnh cầu ánh sáng thay mặt cho người đó. Điều có thể cần thiết trong trường hợp như thế này – và ta đang trình bày một cách tổng quát về những ai đang ở trong một hoàn cảnh tương tự – là con nên ngừng chú tâm vào người kia, và thay vào đó, con chú tâm vào chính con cũng như tâm lý của con, và con tìm cách giải quyết tâm lý của mình. Con cũng có thể tập trung và thỉnh cầu việc hóa giải mọi nghiệp chướng mà con còn mang với người kia.

Ta cũng biết đây là một thông điệp mà một số người sẽ rất khó lòng lắng nghe, nhưng con sống trong một thế giới nơi quyền tự quyết là định luật tối cao. Có thể có những hoàn cảnh mà một người không muốn sống, và đương nhiên con cảm thấy bắt buộc phải giải cứu họ khỏi tình trạng của họ để họ có thể tiếp tục sống, bởi vì con không muốn một người thương yêu phải qua đời. Nhưng có thể có những trường hợp mà con cần cho phép người đó qua đời, vì đó là cách duy nhất để dòng sống của họ học được bài học cần học – cụ thể là sự tự vẫn, hay thậm chí cả cái chết, sẽ không giải thoát họ khỏi tình trạng mà họ đang mang, vì con người luôn luôn mang theo tâm lý của mình với mình.

Ở đây ta không đang khuyến khích bất cứ ai hãy cứ để yên cho người khác tự vẫn hay để yên cho họ qua đời. Nhưng ta muốn nói là tới một điểm con cần ngừng sử dụng các dụng cụ tâm linh. Ta không đang đề cập tới chuyện vi phạm luật pháp, mà ta chỉ nói là nếu các bài thỉnh, bài chú, khiến cho tình trạng càng thêm bất ổn, thì rất có thể con cần ngừng sử dụng và cho phép tình hình trải bày ra cho đến kết cuộc.

Điều con có thể làm là con nỗ lực cải thiện tâm lý của con, tìm cách giải quyết những phản ứng mà toàn bộ cảnh huống đó khơi lên nơi bản thân con. Đây có thể là những điều vô cùng vi tế, sâu sắc, về cách con nhìn người khác, cách con nhìn chính mình cũng như trách nhiệm của con đối với người khác. Con cần nhận diện ở đây là con đang sống trên một hành tinh rất tăm tối, rất hỗn loạn. Con chỉ cần nhìn lại lịch sử và nhận ra biết bao người phải gặp chấn thương trầm trọng trong tiền kiếp của họ. Ngày nay có những người bước vào đầu thai đã mang sẵn những chấn thương vô cùng sâu đậm như vậy từ một tiền kiếp không xa.

Trách nhiệm của con có thể không phải là cứu sống người đó hay chữa lành chấn thương đó, vì chuyện này không thể. Mà trách nhiệm của con là trao cho người đó cơ hội tìm kiếm sự chữa lành. Nhưng nếu họ không muốn sử dụng cơ hội thì điều này có thể có nghĩa là trách nhiệm của con đối với họ đã chấm dứt. Ta nói ra điều này để con có thể đương đầu với những cảm giác trách nhiệm, tội lỗi, vô vọng và tuyệt vọng khi con không có khả năng giúp đỡ người đó.

Có những thời điểm trong đời khi con không thể giúp đỡ một người thân thuộc hay ngay cả một người con gặp trong việc làm. Và vì thế, con chỉ có thể đứng quan sát họ tiếp tục hành xử theo cách hành xử tự hủy diệt của họ. Một lần nữa, ta không đang nói tới chuyện vi phạm luật pháp. Nhưng sẽ tới một điểm khi con cần buông bỏ trách nhiệm của con đối với người kia và cho phép quyền tự quyết tự trải bày ra.

Ta cũng không đang bảo đây là việc đầu tiên mà con cần làm, bởi vì hiển nhiên con đã làm tất cả các biện pháp khác rồi. Điều con phải làm là đứng lui lại một bước khỏi tình thế trước mặt và tự nhủ: “Tôi sẽ tập trung vào việc cải sửa tâm lý của tôi”. Và khi con làm vậy, đôi khi một sáng ngộ trực giác có thể bật lên từ nội tâm, rằng giờ đây con đã giải quyết được một điều gì đó trong bản thân mình và con có thể tiếp cận người kia một cách khác hơn. Và điều này có thể giúp con giúp đỡ họ theo một chiều hướng mà trước đây con không thể làm được khi tâm lý của con tạo ra những phản ứng ngăn cản con giúp họ.

Làm thế nào sống mà không tạo nghiệp

Hỏi: Định luật toàn vũ của nghiệp quả là người bạn đồng hành tự nhiên của quyền tự quyết. Chúng ta chịu trách nhiệm về ánh sáng mà mình nhận được. Do đó nếu chúng ta làm tha hóa ánh sáng thì chúng ta phải phục hồi lại phẩm chất của ánh sáng. Đối với đa số chúng ta bị vướng mắc trong tâm thức nhị nguyên, chúng ta thường cho rằng toàn bộ nghiệp chướng của mình đều đến từ những quyết định sai lầm mà mình đã có qua tâm thức nhị nguyên, qua tâm phản Ki-tô. Nhưng chuyện gì xảy ra khi chúng ta chuyển vọt tâm thức và đồng hóa với cái Ta Biết và lần hồi hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, phần lớn được tự do khỏi cấu trúc của tự ngã? Vì chúng ta vẫn tiếp tục có quyền tự quyết, chúng ta không thể nói là mình không còn tạo nghiệp nữa. Vậy thì điều gì có thể gây ra nghiệp quả đối với một sinh thể ở những giai đọan cao của quả vị Ki-tô, và điều gì có thể gây ra nghiệp quả đối với một sinh thể thăng thiên?     


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 6/9/2020.

Trước hết, các chân sư đã có dạy là một chân sư thăng thiên không tạo nghiệp giống như con tạo nghiệp trên địa cầu. Là chân sư thăng thiên, chúng tôi có thể bộc lộ một số điều kiện, hoặc khiến mình gắn bó với một hành tinh nào đó, hoặc khiến mình cần chuyển khỏi một hành tinh để không bị gắn bó, tuy nhiên đó không phải là nghiệp.

Khi người ta bảo là mình đang tạo nghiệp, người ta thường muốn nói đến một việc gì đó mà mình làm trong trạng thái tâm thức nhị nguyên, từ một cái ngã tách biệt. Cái đó tạo ra nghiệp và làm tha hóa năng lượng. Nhưng con cần thận trọng và nhận ra quan niệm trong Ấn giáo bảo rằng nghiệp gắn liền với hành động, không phải là lời giải thích đầy đủ. Hành vi nhị nguyên dẫn đến nghiệp. Hành vi bất nhị không dẫn đến nghiệp. Thậm chí hành vi bất nhị cũng không dẫn đến cả nghiệp tốt. Kỳ thực trong cách hiểu cao hơn về nghiệp quả, con có thể nói là sự khác biệt giữa nghiệp tốt và nghiệp xấu hoàn toàn vô nghĩa, bởi vì bất kỳ nghiệp chướng nào cho dù được tạo ra bởi hành vi nào đi nữa, cũng sẽ buộc con lại với địa cầu và do đó sẽ ngăn cản không cho con thăng thiên.

Điều xảy ra là khi con bắt đầu đi đến quả vị Ki-tô, con có thể có những hành động sẽ không tạo nghiệp như trước kia con đã tạo nghiệp xuyên qua một cái ngã nhị nguyên. Con có thể vẫn còn một số ngã nhị nguyên, và nếu con hành động xuyên qua chúng thì con sẽ vẫn tạo nghiệp. Nhưng khi con không hành động qua một cái ngã nhị nguyên thì con không đang tạo nghiệp.

Con đang hành động, nhưng con không khiến cho năng lượng bị tha hóa bởi lòng sợ hãi. Khi con hành động không sợ hãi, và nếu con nhìn kết quả hành động mà không sợ hãi, thì con không làm tha hóa năng lượng với một rung động thấp kém. Con hoàn toàn có thể hiện thân trên địa cầu mà đã giải thoát khỏi tâm nhị nguyên, đến độ con không còn hành động qua sợ hãi nữa, và con không lượng định hành động của mình trong sợ hãi. Cho nên con không gán cho năng lượng một phẩm chất đến từ rung động thấp kém. Mà ngược lại, con ban cho năng lượng một rung động xuất phát từ tình thương, và như các chân sư đã có đề cập, điều này khiến cho năng lượng được nâng cao trong dòng chảy hình số 8 giữa Hiện diện TA LÀ và phàm nhân của con, và khi nó vươn lên cao, nó sẽ được nhân lên gấp bội rồi gửi trả xuống cho con để con nhận nhiều năng lượng sáng tạo hơn.

Đây là một lời dạy vô cùng tinh tế mà nhiều người sẽ khó lòng hiểu được, và ta có thể thấy trước là nhiều người sẽ diễn giải sai lạc lời dạy này từ quan điểm tâm đường thẳng. Nhưng sự thật là con có khả năng đạt đến một điểm khi những hành động mà con làm sẽ thực sự giúp con trở nên tự do hơn, sáng tạo hơn. Điều này không có nghĩa là những hành động đó nhất thiết phải cao nhất, hay phải là lý tưởng theo một chuẩn mực tâm linh hay một lượng định tâm linh nào đó.

Con có thể có một hành vi đôi khi có vẻ là vị kỷ, nhưng vì con không hành động trong tâm nhị nguyên, vì con không hành động trong sợ hãi, con không làm tha hóa năng lượng. Chẳng hạn, con có thể hành động với mục đích tạo cho mình một trải nghiệm mà mình muốn có trên trái đất. Có vẻ như con đang vị kỷ, nhưng nếu con làm với mục đích thỏa nguyện một mong muốn hầu con có thể buông bỏ mong muốn đó một khi nó được thỏa nguyện, thì có thể nó nằm trong hành trình tăng trưởng tâm linh của con, thậm chí trong sứ vụ thiêng liêng của con.

Ví dụ, việc có con có thể là một mong muốn tâm linh chính đáng. Không cứ là con sẽ tạo nghiệp khi con có con, cho dù là đôi khi con có thể bị cáu kỉnh hay choáng ngợp bởi nhiệm vụ làm cha mẹ. Con cũng có thể muốn theo đuổi một sự nghiệp, một việc làm nào đó. Ngay cả con cũng có thể theo đuổi một số mục tiêu vật chất, vì mong muốn trải nghiệm là một việc chính đáng, để sau đó con có thể cảm thấy chán ngấy và buông bỏ nó.

Con cũng nên biết là các chân sư đã có giảng dạy về một cõi giới nơi một số linh hồn đi đến sau khi thân xác vật lý chết đi, gọi là Devachan, là cõi hoàn thành ước nguyện. Nơi đây, con có cơ hội kinh qua một số mong muốn cho đến khi con chán ngán, và khi đó, con có thể buông nó ra và không còn nhu cầu phải tái đầu thai trong một kiếp sống bị ham muốn đó chi phối. Như con có thể thấy trong cuốn sách của Yogananda, ông có đưa ra ví dụ một kinh nghiệm mà ông trải qua khi thày của ông đã thị hiện một cung điện cho ông vì ông ham muốn cung điện đó. Bằng cách khiến cho cung điện thị hiện – không trong cõi vật lý, nhưng dù sao cũng đủ hiện thực để ông có thể chiêm nghiệm được – ông đã có thể buông được ham muốn đó mà không phải kinh qua trải nghiệm vật lý, một điều đã có thể ngăn ông trở thành bậc thày tâm linh trong kiếp đó.

Nhị nguyên không liên hệ hay tùy thuộc vào không gian

Hỏi: Con xin nói về nhị nguyên, không phải về ý niệm tốt xấu mà về ý niệm không gian. Đôi khi con có thể làm tan biến khoảng cách giữa chính mình và vật mình nhận thức – tức là tiến trình khách quan hóa, vật hóa (objectification) – và con thấy tất cả đều xảy ra trong khoảng không gian mà TA LÀ. Ngoài ra cũng có sự kiện con tách xa khỏi trải nghiệm qua việc cách ly và làm tan biến trải nghiệm, khi con nghiệm thấy là tất cả những gì ở trong con cũng là chính con như một tâm thức. Có rất nhiều lời dạy về làm thế nào chúng con có thể vượt khỏi thời gian bằng cách sống trong hiện tại vĩnh cửu. Vậy có lời dạy nào hay không để giúp chúng con xóa tan ảo tưởng không gian?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 6/9/2020.

Nhị nguyên tự thân nó không dính dáng gì đến không gian. Nhị nguyên không liên hệ với không gian hay tùy thuộc vào không gian. Tự thân không gian không nhị nguyên. Hiển nhiên, theo một nghĩa nào đó, không gian có thể khuyến khích nhị nguyên vì không gian cho con trải nghiệm mình là một sinh thể địa phương cục bộ, nhìn mọi vật từ một góc nhìn đặc thù trong không gian. Thậm chí nó còn cho con một cảm giác vị trí vật lý nhất định khi con xoay 360 độ và nhìn quanh cơ thể vật lý của mình.

Điều này có thể cho con cảm giác: “Đây là tôi, và ở đó là cái gì khác. Cái đó nằm ở ngoài tôi,” khiến có nhiều xác suất con sẽ chấp nhận những quan điểm nhị nguyên, nhưng nền tảng của nhị nguyên là sự hiện hữu của hai đối cực rồi thêm vào đó một sự phán xét giá trị. Tự thân nó, không gian không mang một phán xét giá trị nào.

Các thày đã có trao truyền, đặc biệt là thày Gautama, nhiều lời dạy về không gian, và con có thể tìm các bài truyền đọc này để học hỏi. Đây là những giáo lý có thể giúp con có một tầm nhìn khác hơn về không gian.

Người với tâm thức thấp quyết định kiếp đầu thai tới như thế nào

Hỏi: Các chân sư dạy rằng một số người bước vào một trạng thái giống như hôn mê khi họ ở giữa hai kiếp đầu thai. Vậy làm thế nào họ có thể có quyết định về kiếp đầu thai kế tiếp của họ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 cho Giải phóng Phụ nữ. Đăng ngày 8/7/2020.

Có rất nhiều người với một trạng thái tâm thức thấp sẽ đơn giản không có khả năng nối kết với các chân sư thăng thiên để nhận được sự hướng dẫn giữa hai kiếp đầu thai. Như con nói, có một số đi vào một trạng thái giống như hôn mê, nhưng có những người đi vào các tầng thấp nhất của cõi trung giới và những người này thì thật sự họ không lấy quyết định, họ không lấy bất cứ quyết định nào về kiếp sống tới của họ. Họ bị ném – nếu có thể nói như vậy – vào kiếp kế tiếp bởi các hoàn cảnh nghiệp tạo của họ. Con hiểu ở đây là các thày đã có cho con giáo lý là nghiệp quả có những tầng cấp khác nhau.

Khi con bước chân trên đường tu tâm linh này và nếu con sẵn lòng chuyển đổi tâm thức, không nhất thiết là nghiệp của con từ tiền kiếp sẽ thị hiện trong cõi vật lý vì khi xung lực nghiệp quả quay trở về con, con không có bất cứ gì trong ba thể cao để nhân xung lực đó lên. Và tất nhiên trước khi con bước vào kiếp đầu thai kế tiếp, các chân sư thăng thiên sẽ khuyên con cố đạt được điều này.

Nhưng nếu con không thể tiếp nhận sự hướng dẫn này, và nếu con không cởi mở ngay cả với việc thăng vượt mức tâm thức của con, thì nghiệp của con sẽ đi xuống cõi vật lý, và như vậy nghiệp sẽ định đoạt kiếp tới của con là gì. Nghiệp sẽ đơn giản quyết định giùm con vì con không có khả năng hay ý muốn tự quyết định lấy.

Con đang ở tầng tâm thức nào?

Hỏi: Làm thế nào chúng con có thể xác định mình đang ở tầng tâm thức nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 cho Giải phóng Phụ nữ. Đăng ngày 6/7/2020.

Con yêu dấu, cách duy nhất để con thực sự xác định là qua trực giác. Thật không xây dựng chút nào nếu có ai đó – ngoài con ra – bảo cho con chuyện đó, chẳng hạn như chúng tôi các chân sư thăng thiên nói cho con biết con đang ở tầng tâm thức nào. Con cần cảm nhận bằng trực giác. Tất nhiên, do sự kiện con đã mở tâm ra với các lời dạy này, con có thể nói là có xác suất rất cao là con ở trên tầng 48.

Đó mới là điều thực sự quan trọng cho con, vì khi đó con có thể theo học khóa Con đường Tự Điều ngự, để nâng cao tâm thức mình qua bảy tia sáng và đạt đến tầng 96, rồi con có thể tu tập tiếp với các quyển sách cùng giáo lý khác để vượt lên cao hơn tầng 96. 

Nếu chỉ quan sát cách con cư xử vỏ ngoài thì thật không dễ biết được con đang ở tầng nào. Nếu con đã mở tâm ra với các lời dạy này như ta vừa nói, hay thậm chí con có thể nhìn vào người khác và nói: Nếu người đó không hung hãn, nếu họ không cố tình muốn kiểm soát người khác, hay nếu họ không sẵn lòng dùng bạo lực, ngay cả bạo lực tâm lý, thì rất có thể họ ở trên tầng 48.

Giữa tầng 48 và 96, có thể con sẽ khó lòng xác định được mình ở tầng nào, nhưng liệu điều này có thực sự quan trọng hay không? Khi con đến tầng 96, con sẽ phần nào có cảm nhận trực giác là mình đã đạt tới mức đó, vì đó là tầng cấp nơi con cần lấy quyết định: “Liệu tôi sẽ tiếp tục con đường nâng cao ý niệm bản ngã tách biệt của tôi, hay giờ đây tôi sẽ bước lên con đường cao hơn dẫn đến quả vị Ki-tô, nơi tôi sẽ không tìm cách tôn vinh hay nâng mình lên cao mà sẽ tìm cách phụng sự tổng thể, tìm cách khắc phục mọi cái ngã tách biệt?”

Có những người có thể rất bận tâm với vị trí tâm thức của mình, thậm chí còn bị ám ảnh về chuyện này. Ta có thể cam đoan với con là những ai bị ám ảnh bởi việc đánh giá tầng cấp tâm thức của mình, hay những ai cứ không ngừng đánh giá tầng cấp của người khác, thì họ không phải là người ở mức tâm thức cao lắm.   

Kỳ thực, một số những người đó có thể ở tầng 96 nhưng họ đã không lấy quyết định bước vào đường tu thực sự. Họ vẫn chưa buông bỏ ngã tách biệt, và điều này có nghĩa là họ sẽ bắt đầu tuột trở xuống. Điều có thể xảy ra là họ không hề hay biết mình đã bắt đầu tuột từ tầng 96 đi xuống. Họ vẫn giữ ảo tưởng là mình chứng đạt cao siêu. Và tất nhiên, đó là tại sao họ không thể buông bỏ ham muốn tôn vinh bản thân và xây đắp khả năng của ngã tách biệt. Có những người bị đi vào những loại ngõ cụt như vậy.

Lại có những người khác đạt đến một mức tâm thức nào đó, rồi họ tự đặt mình vào địa vị một bậc thày tâm linh, có người còn tự xưng mình đã giác ngộ trong khi kỳ thực họ vẫn chưa đặt chân lên đường tu chân chính của quả vị Ki-tô. Thật ra họ đang đi trên con đường tay trái.

Như chúng tôi có nói, khi con theo đường tà đạo thì con có thể tạo ra một dáng vẻ tinh thông bề ngoài. Nếu đầu tiên con đến được tầng 96 rồi bị trượt xuống từ đó, con có thể có một số khả năng sẽ làm chóa mắt những ai ở mức tâm thức thấp hơn. Đó là cách mà một số người đã tự đặt mình vào địa vị một bậc thày hay một đạo sư. Điều họ thường làm là thu hút một đoàn tín đồ là những người mang sẵn nỗi bất an bên trong rồi bị quyến rũ đi theo vì họ thấy vị thày có vẻ rất tự tin, nhưng vị thày này sẽ kéo họ xuống hố theo thày. Sứ giả này đã từng gặp một vài người làm y như vậy. 

Điều con cần nhận thức khi con là một đệ tử tâm linh là con không nên bị ám ảnh, không nên quan tâm đến chuyện cấp bậc. Sẽ tới một điểm khi con thực sự bước vào con đường dẫn đến quả vị Ki-tô và con không quan tâm nữa. Con không quan tâm là con đang ở tầng 97 hay 120, mà con chỉ dõi tìm xem ảo tưởng kế tiếp, ngã tách biệt kế tiếp mà con cần giải quyết sẽ khởi lên ở đâu, và chuyện kia thì sẽ tan biến mất.

Tầng tâm thức nơi con đang đứng không có gì quan trọng. Vì khi con bước trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô, con không có bất kỳ nhu cầu nào đứng cao hơn người khác, đứng tách riêng khỏi người khác, hay cảm thấy minh vượt trội hơn người khác. Cho nên một chỉ dấu cảnh báo mà con cần để ý là nhìn xem liệu con có nhu cầu cảm thấy hơn người, cảm thấy mình đặc biệt. Và nếu con có cảm giác đó trong con, một lần nữa con không cần cảm thấy xấu hổ, bởi vì con đang ở trên hành tinh địa cầu. Thay vào đó, con hãy nhận ra là cảm giác đó đến từ một cái ngã tách biệt, con hãy bỏ công ra để phát hiện nó, chạm trán với nó và để cho nó chết đi. Rồi sau đó con có thể đặt chân lên đường tu đích thực.

Lỗ thủng trong hào quang thành hình thế nào?

Hỏi: Các chân sư thăng thiên có đề cập đến lỗ hổng trong ba thể cao trong trường hợp chấn thương. Những lỗ hổng này thành hình như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels trong một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Nếu con nhìn vào hào quang, trường năng lượng của con, con có thể xem nó hơi giống cơ thể vật lý, chỉ không đến nỗi dày đặc như vậy. Con cũng biết, nếu có ai bắn một viên đạn vào cơ thể vật lý của con, viên đạn sẽ tạo ra một lỗ thủng trên cơ thể. Nếu người ta bắn viên đạn lớn, lỗ thủng cũng sẽ lớn. Cho nên điều mà các sa nhân, các tà lực, cố làm là chúng hướng nhắm một xung lực năng lượng về phía con. Chẳng hạn nếu chúng nhắm vào cảm thể, đó sẽ là một xung lực cảm xúc mạnh mẽ đập vào con, khiến hào quang con bị thủng một lỗ – trong nghĩa đen. 

Tuy nhiên chúng không thể làm được điều đó trừ khi, như chúng tôi đã có giải thích, con đã có một cái ngã nào đó trong con, có một tin tưởng nào đó trong con khiến con mang sẵn tiềm năng bị tổn thương. Nếu không, xung lực đó sẽ nẩy bật ra khỏi hào quang, hoặc nó sẽ bay xuyên thẳng qua. Điều thường xảy ra là các sa nhân cảm nhận được là con mang sẵn một nhược điểm tiềm tàng, rồi chúng khai thác điểm này để bắn năng lượng vào con, tạo ra một lỗ hổng trong hào quang, trong trường năng lực của con.    

Điều con có thể làm nếu con cảm thấy con có nhược điểm là con hãy đọc các bài cầu thỉnh sự bảo vệ của Đại thiên thần Michael, cầu thỉnh Astrea cắt đứt những sợi dây buộc con với sa nhân cũng như tất cả những cái móc mà chúng đã cài đặt trong hào quang của con. Nhưng cuối cùng thì con cũng phải đương đầu với cái ngã tách biệt đã tạo ra nhược điểm của con trước đó. Mục đích là để ông hoàng của thế gian không có chỗ nào để nắm được con hầu gây ra lỗ thủng trong hào quang của con.

Đưa má bên kia

Hỏi: Đưa má bên kia? Làm thế nào con đưa má bên kia ra trong một tình huống con bị người ta tấn công bằng lời nói hay đối xử vô lễ? Có phải đó là giữ im lặng trong hoàn cảnh đó và rút lui nếu có thể, và cứ để yên như vậy? Khi con không đáp trả lại thì con không tự bênh vực mình được chút nào.



Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Khi còn nhìn ngược dòng lịch sử, có lẽ ít lời dạy nào của ta đã bị hiểu lầm và bị diễn giải lầm như câu nói về “đưa má bên kia”. Câu hỏi đã được đặt ra bởi những người đã cố làm theo lẫn những người bất đồng cho là họ không nên làm theo, và trong cả hai bên cuộc tranh luận, hầu hết ai ai cũng cho rằng việc đưa má bên kia có nghĩa là mình không làm gì cả, là mình thụ động, hay mình rút lui khỏi tình thế. Ở một mức tâm thức nào đó thì cách diễn giải này quả là hữu lý.

Hãy thử nhìn như thế này, con đang bị người ta tấn công qua lời nói và người kia phóng về phía con rất nhiều năng lượng tiêu cực. Giả thử con ở một mức tâm thức với đủ loại ngã tách biệt trong con, nghĩa là cách đáp ứng duy nhất của con đối với tình thế là gửi trả ngược về người kia những gì họ phóng tới con. Nói cách khác, con sẽ leo thang cuộc tranh cãi, con sẽ gây thêm tranh cãi thậm chí có thể dẫn đến xô xát tay chân. Cho nên đứng từ góc cạnh không muốn tạo nghiệp quả tiêu cực, sẽ tốt hơn nếu con rút lui khỏi tình thế thay vì leo thang. Ở một mức tâm thức nào đó, cách cư xử như vậy có thể là một cách diễn giải hữu lý – tốt hơn là con nên rút lui thay vì leo thang một tình huống chỉ có thể dẫn đến một phương trình với càng ngày càng nhiều năng lượng và nghiệp quả tiêu cực.

Tuy nhiên, cách nhìn cao hơn trong một tình huống như vậy tất nhiên là con hãy tự xem xét mình, xem xét cách phản ứng của mình, và nếu con thấy là mình đang có một phản ứng không bình an, thì con nhận ra là nó đến từ một ngã tách biệt, cho nên con rút lui khỏi tình huống để làm việc trên ngã tách biệt đó. Nhưng sau khi con đã làm việc trên ngã tách biệt và để cho nó chết đi, con sẽ đạt tới một điểm là tuy con bị người ta tấn công qua lời nói và bị xỉ vả, con vẫn không có phản ứng nào trong con, và ở điểm đó con sẽ không nên giữ im lặng, con không nên rút lui, mà con nên lên tiếng. Nhưng con lên tiếng từ sự bình an nội tâm của con, cho nên thay vì phản ứng lại người kia, con sẽ chỉ đơn giản nói lên từ một nhãn quan trung hòa, và chính điều này sẽ cho phép con lên tiếng một cách khác hoàn toàn.

Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là người kia sẽ thay đổi vì con đã không phản hồi lại theo cách mà họ chờ đợi. Con sẽ thấy là trong nhiều trường hợp, khi người ta tấn công ai đó dù bằng lời nói hay bằng cách nào khác, người ta thường chờ đợi một cách phản ứng nào đó. Và điều xảy ra – và con có thể thấy được điều này điễn ra trong lịch sử thế giới, như tại vùng Trung đông chẳng hạn – là một phe tấn công phe kia, rồi phe kia tấn công lại, thế là giờ đây phe đầu tiên cảm thấy là mình đã rất chính đáng: “Việc chúng tôi tấn công họ là chuyện chính đáng bởi vì phản ứng của họ cho thấy họ là những kẻ bạo lực hung hãn, và do đó họ xứng đáng bị chúng tôi tấn công”. Đây là cách người ta thường phản ứng.

Do đó, khi có ai xỉ vả con, họ chờ đợi là con sẽ phản bác lại, con sẽ tự bênh vực, con sẽ buộc tội ngược trở lại, và nếu con không làm vậy mà lại lên tiếng từ một góc độ trung hòa, thì người kia có thể được biến đổi và họ thay đổi cách cư xử của họ.

Trong một số trường hợp khác, cư xử của con sẽ không ảnh hưởng được họ, và họ tiếp tục hung hãn. Trong trường hợp này, con trở thành công cụ cho sự phán xử của Ki-tô, và bây giờ họ sẽ nhận được sự phán xử của Ki-tô về hành vi hung hãn của họ.

Có thể nói là nếu người kia không được biến đổi do con đã lên tiếng từ một nội tâm an bình và một nhãn quan trung hòa, thì con không cần phải tiếp tục cho phép họ miệt thị hay tấn công con nữa. Khi đó con có thể rút lui, nhưng trước tiên con nên nói cho thật rõ và thật bình tĩnh những gì con nghĩ về cách cư xử của họ, rằng con không chấp nhận cách cư xử đó, rằng con sẽ không chịu đựng chuyện đó, và vì vậy con sẽ rút về nếu họ cứ tiếp tục như vậy. Đó là ý nghĩa của việc đưa má bên kia.

Và ý nghĩa đích thực là thay vì đáp trả lại trong tâm thức phàm phu qua ngã tách biệt, con hành động trong tâm thức Ki-tô từ nhãn quan Ki-tô. Cho dù con có thể rút lui khỏi tình thế hay con trở nên thụ động và người ta tiếp tục công hãm con, điều này vẫn có thể đem lại sự phán xử của Ki-tô, và do con trụ vững trong tâm an bình, con đem lại sự phán xử đó ở một mức cao hơn hẳn.

Về việc chìa má bên kia

Hỏi: Chìa má bên kia? Làm thế nào con chìa được má bên kia khi con bị người ta tấn công bằng lời nói hay bị làm nhục? Có phải là con nên giữ im lặng và rút ra khỏi tình huống nếu có thể, và để mặc cho nó như vậy? Con sẽ không tự vệ chút nào bằng cách không đáp trả?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Nếu con nhìn trong lịch sử, có lẽ có ít lời phát biểu nào của ta mà lại bị hiểu lầm, bị diễn giải sai lạc như câu nói về việc chìa má bên kia. Vấn đề đã được đặt ra bởi cả những người chọn làm theo lẫn những người cãi lại không nên làm theo, và trong cả hai phe, hầu hết đều cho rằng chìa má bên kia có nghĩa là con không làm gì hết, con thụ động, hay con rút lui khỏi tình huống. Ở một mức tâm thức nào đó, đây quả là một cách diễn giải hợp lý.

Hãy thử nói thế này. Con bị người ta tấn công bằng lời nói và người kia đang phóng tới con rất nhiều năng lượng tiêu cực. Con ở một tầng tâm thức nào đó và con mang nhiều cái ngã tách biệt khác nhau. Có nghĩa là cách trả lời duy nhất mà con có thể đối với tình huống là gửi trả lại những gì người ta gửi cho con. Nói cách khác, con sẽ leo thang cuộc đối đáp, con sẽ phóng ra một lập luận có thể dẫn đến cả chuyện xô xát bằng tay chân. Cho nên từ một góc cạnh không muốn tạo nghiệp tiêu cực, tốt hơn là con nên rút lui khỏi tình huống thay vì leo thang. Ở tầng mức tâm thức này, đó có thể là một cách diễn giải hợp lý: Thà rút lui còn hơn là leo thang một tình thế chỉ có thể dẫn đến một phương trình mang nhiều năng lượng tiêu cực và nhiều nghiệp hơn.

Tuy nhiên, cách nhìn cao hơn tất nhiên là trong tình thế đó, con nhìn vào bản thân mình, con nhìn vào các phản ứng của mình, và nếu con tìm thấy một phản ứng không an bình thì con nhận ra là nó đến từ một ngã tách biệt, xong con rút lui khỏi tình huống để làm việc với ngã tách biệt này. Nhưng một khi con đã làm việc với các ngã tách biệt và để chúng chết đi, con sẽ đạt tới điểm con có khả năng bị người khác tấn công bằng lời nói, bị họ hiếp đáp, mà vẫn không có phản ứng nào bên trong con. Tới điểm đó, con không nên giữ im lặng, con không nên rút lui, mà con nên lên tiếng, nhưng con lên tiếng từ sự an bình, cho nên thay vì phản ứng lại người kia, con chỉ đơn giản lên tiếng từ nhãn quan trung hòa đó, và chính điều này cho phép con lên tiếng một cách hoàn toán khác lạ.   

Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là người kia sẽ thay đổi vì con đã không đáp trả theo cách họ chờ đợi con đáp trả. Con sẽ thấy là trong nhiều trường hợp, người ta thường tấn công người khác bằng lời nói hay bằng bất kỳ cách nào khác, và người ta chờ đời sẽ nhận được một phản ứng ngược lại. Điều này luôn luôn xảy ra, và con có thể thấy chuyện này trong lịch sử thế giới, chẳng hạn tại vùng Trung Đông khi một bên tấn công bên kia thì bên kia phản công lại, thế là bên đã khởi đánh cảm thấy mình thật có lý: “Thật là hữu lý chúng ta tấn công bọn chúng, vì sự phản công của chúng cho thấy chúng là loại người tàn bạo, cho nên chúng xứng đáng bị tấn công.” Đây là cách người đời đáp trả.

Cho nên khi có ai đó tấn công con bằng lời nói, họ chờ đợi là con sẽ cãi lại, con sẽ tự vệ, con sẽ tấn công ngược lại, và nếu con không làm vậy mà lại nói chuyện từ một nhãn quan trung hòa, thì đôi khi họ không biết phải làm gì. Trong một số trường hợp, có những người sẽ được biến đổi bởi cách cư xử của con và họ thay đổi cách cư xử của họ. Trong một số trường hợp khác, sẽ không có tác dụng gì trên họ và họ sẽ tiếp tục hung hãn. Nhưng trong trường hợp này, con trở thành dụng cụ cho sự phán xử của Ki-tô, tức là người kia bây giờ sẽ nhận được phán xử Ki-tô do cách hành xử hung hãn của họ.

Chúng ta có thể nói là nếu người kia không thay đổi khi con đã lên tiếng từ trạng thái an bình và nhãn quan trung hòa, thì con không cần tiếp tục cho phép họ tấn công hay hiếp đáp con nữa. Sau đó con có thể rút lui, nhưng trước tiên con nên phát biểu một cách thật rõ ràng và bình tĩnh cái nhìn của con về cách hành xử của họ, rằng con không chấp nhận cách hành xử đó, con sẽ không cho phép mình phải chịu đựng nó, và do đó con sẽ rút lui nếu họ cứ tiếp tục. Đây chính là ý nghĩa của việc chìa má bên kia.

Nó có nghĩa là thay vì phản ứng lại với tâm thức phàm phu, với ngã tách biệt, con hành động với tâm thức Ki-tô từ tầm nhìn của Ki-tô. Cho dù con có rút lui khỏi một tình thế hay trở nên thụ động trong tình thế đó và người ta tiếp tục tấn công con – và điều này cũng có thể đem lại phán xử Ki-tô – nhưng con đem lại phán xử này từ một tầng cao hơn vì con đến từ trạng thái an bình.

Hiểu khái niệm “mạn đà la”

Hỏi: Mục đích và đặc tính của mạn đà la của chúng con là gì? Tất cả chúng con được nối kết như thế nào, và mỗi chúng con nối kết như thế nào với nhau? Chúng con đã có từng đầu thai như một nhóm hay chưa? (“Chúng con” ở đây có nghĩa là những người theo học giáo lý mà các thày đang ban truyền)



Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 18/12/2019.

Tất nhiên là nhiều người trong các con đã từng đầu thai với nhau rồi. Nhưng khi các thày dùng từ “mạn đà la”, các thày sử dụng theo một nghĩa rộng hơn – rộng hơn ý nghĩa mà các thày đã dùng trong các đợt truyền pháp trước. Thật ra thì không, các thày dùng theo cùng một nghĩa, nhưng các thày muốn các con trong đợt truyền pháp này hiểu rộng hơn các đệ tử trong đợt các truyền pháp trước. Các đệ tử đó nghĩ là có một nhóm thu hẹp những người thuộc về một mạn đà la nhất định, và đó là lý do họ đã cùng tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên, họ đã cùng đầu thai trước kia và đều mang một sứ mạng thật quan trọng.

Điều các thày muốn con nhìn ra là không phải chỉ những ai đang học giáo lý hiện thời mới thuộc vào mạn đà la – vì mạn đà la rộng lớn hơn vậy rất nhiều. Và không nhất thiết có nghĩa là mọi người trong mạn đà la này cần phải chấp nhận giáo lý của chân sư thăng thiên.

Như các thày đã nói, các thày không muốn các con tự cô lập mình khỏi người khác hay khỏi xã hội. Cho nên các thày không muốn các con xem như thể các con chỉ cần quan tâm đến các thành viên của mạn đà la này, xem mình là những người đứng bên lề do mình đã chấp nhận giáo lý này.

Các thày muốn con nhìn rộng hơn, là con nhận ra trong mạn đà la có một vòng bên trong gồm những người nhận biết giáo lý của chân sư thăng thiên một cách ý thức, nhưng cũng có những vòng khác nữa. Và vai trò của những người có nhận biết ý thức là ban phát, là giúp đỡ những ai đang ở các vòng ngoài, hầu con trao cho họ bất cứ gì họ cần để bước lên cao hơn.

Các thày cũng có nói, điều này không có nghĩa là khi con cố giúp người khác, ý định chủ yếu của con là khiến họ gia nhập tổ chức này. Thật ra các thày làm gì có tổ chức nào ở đây để họ trở thành hội viên, nhưng trong các đợt truyền pháp trước thì có, và nhiều người đã quá quan tâm đến tổ chức, quá quan tâm đến việc bành trướng tổ chức, thu hút thêm nhiều hội viên và khiến họ trở thành hội viên đắc lực của tổ chức để họ làm tất cả những công việc họ phải làm. Đây không phải là điều các thày nói ngày hôm nay, đây không phải là cách suy nghĩ của Thời đại Bảo bình mà là tư duy của Thời đại Song ngư.  

Cho nên ý các thày là các con hãy xem mình là thành phần của một nhóm rộng lớn hơn. Không có nghĩa là con cần nghĩ là con có thể giúp đỡ mọi người, vì có nhiều người trong suốt kiếp này sẽ không nhạy bén với các giáo lý cùng các tư tưởng này. Con cần quan tâm đến những ai con có khả năng giúp đỡ, những ai có tâm cởi mở. Không cứ là những người này sẽ mở tâm đón nhận mọi lời dạy của chân sư thăng thiên, nhưng họ có thể cởi mở với một số ý tưởng mà các thày đang truyền rải.

Cho nên đó là điều các thày muốn thấy. Các con tự xem mình ở vòng trong của một vòng tròn không khép kín vì nó trải rộng đến nhiều người khác. Xong con thử nhìn xem con có thể giúp họ như thế nào. Trong các bài truyền đọc suốt năm vừa qua, các thày có đề cập đến một tình trạng căng thẳng đã hình thành trong tâm thức tập thể, và điều này có nghĩa là có nhiều người thuộc về các vòng ngoài của mạn đà la các con đã sẵn sàng bước lên một mức cao hơn, họ sẵn sàng công nhận một số tư tưởng một cách ý thức.

Các thày mong muốn con tự xem mình như những người đi tiên phong có khả năng giúp những người đó thực hiện cuộc xoay chuyển này, cho dù là có thể họ không bao giờ biết đến con, hay đã gặp con, hay đã chấp nhận các chân sư thăng thiên – vì họ vẫn còn trong quá trình chuyển đổi tâm thức. Và đó là điều các thày muốn con nhìn ra: Mục đích của con là chuyển đổi tâm thức chứ không phải là bành trướng số hội viên của một tổ chức nào đó.

Là một sinh thể tâm linh nghĩa là gì?

Hỏi: Khi các chân sư thăng thiên nói chúng con là người tâm linh, các thày muốn nói chính xác là gì? Và tất cả mọi dòng sống đều cơ bản là Tánh linh. Làm thế nào các thày tìm được một người tâm linh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Washington D.C. Hoa Kỳ năm 2019. Đăng ngày 5/12/2019.

Qua từ “người tâm linh”, chúng tôi trước hết muốn nói là một người không tự đồng hóa mình với xác thân vật lý, với tâm vỏ ngoài hay với nhân cách. Con nhận ra con là nhiều hơn thân xác của con. Con sẽ không chết và biến mất và bị tiêu diệt khi bộ não chết. Con cũng là nhiều hơn nhân cách vỏ ngoài đã được nhào nặn khi con lớn lên trong một nền văn hoá và một hoàn cảnh gia đình đặc thù, và do đó con không bị hoàn toàn đồng hóa vào đó. Con càng vươn lên và vượt trên tâm thức vỏ ngoài đó thì con sẽ càng ít đồng hóa với xác thân và tâm vỏ ngoài, với văn hóa và nguồn gốc gia đình cùng đủ loại yếu tố khác.  

Và điều này có nghĩa, con bắt đầu nhận ra con là nhiều hơn cái mà hầu hết mọi người định nghĩa là một con người. Không phải con không là một con người nữa, con vẫn có một thể xác con người, nhưng con không còn hoàn toàn đồng hóa với một con người bị giới hạn trong cách định nghĩa của văn hóa con, cách định nghĩa rằng một con người chỉ có thể làm những điều này và không thể làm những điều kia. Con nhận ra là con có tiềm năng nâng cao tâm thức của con, chuyển vọt bản sắc của con hầu con không tự xem mình là một con người.

Sứ mạng của ta cách đây 2000 năm là gì? Điều ta đã cố giảng dạy là tất cả các con đều có tiềm năng Ki-tô. Tất cả các con đều có tiềm năng Ki-tô nhận ra là mình đến từ một nguồn cội cao hơn. Con không đến từ bụi và sẽ trở về với bụi. Và do đó con có tiềm năng nâng cao tâm thức, khoác lấy tâm Ki-tô và chuyển vọt ý thức bản sắc của mình. Và con đồng hóa, con tự nhận mình là một sinh thể tâm linh, là một đứa con của Thượng đế, là nhiều hơn cái định nghĩa hạn chế và hẹp hòi về con người.   

Tất nhiên, mọi thứ đều có thể bị tự ngã lạm dụng, và một số người tâm linh đã suốt nhiều năm tháng sử dụng lời dạy trên để tự đặt mình vào một địa vị tự hào tâm linh nơi họ cảm thấy vượt trội hơn người khác bởi vì họ mang danh là “người tâm linh”. Nhưng một lần nữa, không có gì mà các chân sư thốt ra mà không thể bị hiểu sai. Vậy đây là định nghĩa ngắn gọn của một sinh thể tâm linh: con không hoàn toàn tự đồng hóa là một con người. 

Nhìn và nghe thấy thân nhân sau khi minh qua đời

Hỏi: Sau khi xác thân qua đời, liệu một người có thể nghe thấy hay nhìn thấy thân nhân trong vòng 40 ngày?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C. Hoa kỳ năm 2019. Đăng ngày 4/12/2019.

Đây là một vấn đề tùy thuộc vào tâm thức cá nhân, tức là khi đó người quá cố đang ở trong tâm thức nào. Và cũng là vấn đề người đó có dễ dàng cởi bỏ để bước tới nơi dừng chân kế tiếp của mình hay không. Thời gian 40 ngày không phải là một con số nhất định. Một số dòng sống sẽ nhìn thấy và nghe thấy thân nhân của mình trong một khoảng thời gian, nhưng thời gian này không nhất định.

Vấn đề là người đó có còn gắn bó, ràng buộc đến mức nào với gia đình của mình hay với cuộc sống cũ của mình trong cõi vật lý. Người đó sẵn sàng đến chừng nào để buông nhả cuộc sống đó ra hầu tiến bước tới giai đoạn kế tiếp?

Một số dòng sống sẽ bước tới nhanh nhẹn đến độ họ không bao giờ nghe thấy gì. Một số khác, như câu thành ngữ quen thuộc, lại thích tham dự đám tang của mình, thích nghe hay mục kích buổi tang lễ, hay lắng nghe người khác nói gì về mình. Đối với học trò của chân sư thăng thiên, mục tiêu của con là bước đi ngay lập tức sau khi con rời thân xác. Con bước tới và con nhìn theo ánh sáng, con dõi tìm cái đường hầm đó, rồi con bước vào đường hầm, bước tới ánh sáng ở cuối đường hầm. Và con sẵn sàng gặp gỡ những ai đang đón chờ con ở đó trong ánh sáng.

Khác biệt giữa nội giác và thần nhãn

Hỏi: Có sự khác biệt nào giữa nội giác hay nhãn quan nội tâm (inner vision) và thần nhãn (clairvoyance) không? Đệ tử của chân sư thăng thiên có cần phát triển một khả năng nhìn? Và nếu vậy, liệu có kỹ thuật đặc biệt nào để phát triển khả năng nội giác hay thần nhãn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị ở Ukraine năm 2019. Đăng ngày 2/11/2019.

Vấn đề này tùy theo con dùng từ như thế nào. Trong cách dùng từ của các thày, các thày không nói đến thần nhãn vì từ này đã bị nhiều nhóm người sử dụng theo nhiều cách khác nhau. Thay vào đó nói chung, các thày dạy về khả năng nội giác, và thật sự các thày không có ý giống như khi người ta nói về thần nhãn, vì điều người ta muốn nói là có ai đó có khả năng nhìn thấy – nhìn thấy cả trong vật lý – hào quang chẳng hạn, hay nhìn thấy cõi trung giới hay những loại hiện tượng khác. Điều các thày mong muốn đệ tử của mình phát triển không phải là cái con thường gọi là thần nhãn mà là nội giác, tức là khả năng nhận được những ấn tượng từ bên trong nội tâm con.

Nhưng này, có một số người thiên về thị giác nhiều hơn, thì việc nhìn thấy hình ảnh hay hiểu được những gì được trình bày bằng hình ảnh sẽ dễ dàng hơn đối với họ. Có một số người khác thiên về thính giác nhiều hơn, cho nên họ hiểu dễ hơn khi họ dùng tai nghe. Các thày không muốn nói ở đây là cách này hay cách kia tốt hơn, mà kỳ thực khi các thày trình bày về nội giác, các thày có ý nói là trên hết con nhận được một ấn tượng trực giác từ bên trong. Và cho dù ấn tượng này đến với con dưới dạng hình ảnh mà con nhìn thấy bằng con mắt nội tâm, hay dưới dạng từ ngữ mà con nhận được từ cái ta cao của con, hay thậm chí dưới dạng những cảm giác vi tế hơn mà con nhận được từ cái ta cao hay từ các thày, thì đây chỉ do con là loại người như thế nào và con tiếp nhận các ấn tượng đó dễ dàng như thế nào. Không cứ là cách này sẽ tốt hơn cách kia.

Nhưng chung chung, điều các thày muốn nói qua từ “nội giác” là con không mở mắt ra nhìn thấy một vật gì đó ở cõi vật lý hay ngay cả vượt khỏi cõi vật lý. Đây là một cái gì diễn ra bên trong tâm con và thật không liên quan gì đến giác quan vật lý của con.

Hầu hết mọi người khi họ đề cập đến khả năng thần nhãn, họ muốn chỉ ra một cái gì liên quan đến giác quan, thường thường một sự nối dài của giác quan. Nói cách khác, con nhìn thấy những năng lượng mà hầu hết mọi người không thấy được bằng mắt thường, bằng con mắt vật lý. Đây không phải là điều các thày cốt ý khuyến khích con phát triển. Nếu nó xảy ra thì nó xảy ra, đó là một phần của sứ vụ thiêng liêng của con. Nhưng có rất rất nhiều người, rất nhiều người tâm linh, đã ấp ủ tham vọng này ví dụ như mở con mắt thứ ba. Và điều này thường hay đem lại hậu quả không xây dựng, thậm chí còn nguy hiểm nữa là đằng khác, vì có thể họ cưỡng ép cho mắt thứ ba phải mở ra để họ có khả năng nhìn thấy cõi trung giới – một chuyện họ sẽ rất khó lòng đương đầu hay đối phó.

Điều các thày khuyến khích là một cách tiếp cận quân bình hơn nhiều. Vậy con có thể làm gì để phát triển nội giác? À, con bước chân trên đường tu, con sử dụng các dụng cụ mà các thày đã ban truyền. Đầu tiên, con cần giải tỏa các năng lượng thấp khỏi ba thể cao của con, nhưng con cũng cần giải quyết tâm lý của con, giải quyết những cái ngã đang ngăn cản con nhận được ấn tượng từ cái ta cao của con và từ các thày.

Ma quỷ và vai trò của lý trí

Hỏi: Trong giáo lý của các chân sư thăng thiên có lời dạy là tà lực không có khả năng trực tiếp gây tổn thương vật lý cho con người. Tuy nhiên có nhiều trường hợp đã được ghi lại và được cho là đáng tin cậy về sự xâm hại thể chất do tà lực gây ra. Liệu các trường hợp này là hoàn toàn hư cấu hay sao? Xin các thày có thể giải thích những hiện tượng như ma quỷ tác động lên đồ vật trong cõi vật lý? Chúng con muốn hiểu rõ hơn về vấn đề này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị ở Ukraine năm 2019. Đăng ngày 1/11/2019.

Kể từ quyển sách của thày Maitreya [Master Keys to Spiritual Freedom] trở đi, các thày đã trình bày về sự kiện là có một số địa điểm trên trái đất nơi sự rung động thấp đến độ có thể xảy ra một hiện tượng mà các thày gọi là hiệu ứng giao nhau (crossover effect) giữa cõi trung giới và cõi vật lý. Đây là vì sao con có thể có nhiều loại hiện tượng khác nhau, và trong một số trường hợp các hiện tượng này cũng có thể là vật lý.

Khi các thày nói là tà lực không có khả năng tác hại đến thể chất của con người, các thày muốn nói đến một người bình thường tương đối khỏe mạnh về cả thể chất lẫn tâm lý. Nhưng tất nhiên, có những người ở trong một trạng thái tâm thức thấp hay rối loạn đến độ họ có thể tạo ra hiệu ứng giao nhau kia, khi độ rung của cõi vật lý xích lại gần độ rung của cõi trung giới đến mức năng lượng từ cõi trung giới có thể ảnh hưởng hay tuôn vào cõi vật lý. Sự kiện này có thể tác hại đến cơ thể vật lý hay gây ra một số triệu chứng khác.

Hiện tượng ma quỷ, một lần nữa, chỉ đơn giản là do hiệu ứng giao nhau mà có. Thậm chí đã từng có những nghiên cứu tương đối khoa học trong ngành tâm lý khi một nhóm người tụ họp lại một cách đều đặn và cố tạo ra một con ma (poltergeist). Có những trường hợp họ đã thành công tạo ra tiếng gõ trên tường hay những loại hiện tượng như vậy.

Cho nên điều này cho con thấy là tâm có một sức mạnh nào đó để tạo ra một số hiện tượng. Các thày không phủ nhận khả năng của tâm tạo ra đủ loại hiện tượng, nhưng các thày cũng nói là nếu con là một người khỏe mạnh bình thường thì các thày không muốn con sống trong nỗi lo sợ tà lực có thể tác động đến con một cách vật lý. Và chắc chắn khi con là một đệ tử sử dụng các bài chú bảo vệ tâm linh, con không cần phải sống trong nỗi sợ này.

Nhưng điều tự nhiên là một khi tâm thức tập thể được nâng lên, sẽ tới một thời điểm khi nhiều loại hiện tượng hiện nay không có lời giải thích vật chất sẽ bắt đầu phổ biến hơn. Và điều này sẽ mở đầu một giai đoạn khi quần chúng sẽ có một nhận thức tổng quát cao hơn về các hiện tượng, và tiếc thay, nó cũng sẽ khiến cho một số người rơi vào trạng thái sợ hãi các hiện tượng này có thể làm hại đến họ.

Nếu con quay trở ngược vài thế kỷ, con sẽ thấy là trên thế giới đã có rất, rất nhiều địa điểm nơi dân chúng, hay ít ra đại đa số dân chúng phải sống trong nỗi sợ các hồn ma, tà lực, quỷ dữ, yêu tinh – đủ loại hiện tượng mà hầu hết mọi người ngày nay đều cho là không thực. Điều xảy ra thuở đó tất nhiên là hiệu ứng giao nhau giữa cõi vật lý và trung giới khiến người ta trải nghiệm đủ loại hiện tượng. Cho nên để vượt ra khỏi giai đoạn tiến hóa đó của loài người, nhiều người đã phải đi vào tâm thái duy lý, qua đó họ chỉ đơn giản bác bỏ các hiện tượng là có thật và nhờ vậy họ không để cho chúng ảnh hưởng đến họ.

Nhưng khi chúng ta nâng cao nhận thức tập thể và bắt đầu vượt lên trên thời đại duy lý này, thì một lần nữa chúng ta lại đi vào một giai đọan phải ứng phó với các hiện tượng. Các thày hy vọng là con người sẽ ứng phó ở một mức trưởng thành hơn, tức là sẽ không rơi vào sợ hãi mà sẽ có khả năng nhận ra sự hiện hữu của những cõi năng lượng vượt khỏi vật chất. Trong những cõi này có những sinh thể sinh sống, và chúng có thể tìm cách chi phối con người theo những cách không mấy tích cực. Cho nên con cần nhận thức điều này và biết cách tự vệ, và cách tự vệ chủ yếu là nâng cao tâm thức của mình, qua đó con không cần đi vào sợ hãi mà ngược lại con có thể nhìn nhận là nó có mặt nhưng con không sợ.

Đây chính là điều đã xảy ra vào thời Trung cổ khi người ta thừa nhận là hiện tượng có mặt nhưng họ lại sợ hiện tượng, họ chạy trốn các tà lực cùng những đường xâm nhập của tà lực vào tâm thức họ. Cũng vì vậy mới có nhu cầu khiến họ suy nghĩ là hiện tượng không thực, để họ đóng tâm lại không cho hiện tượng xâm nhập vào. Nhưng giờ đây chúng ta cần bước lên một độ trưởng thành hơn qua đó con có khả năng nhận ra là có cái gì ở đó, nhưng con cũng có sự phân biện để nó không ảnh hưởng được con. Cho nên con nhìn nhận là các lực thấp có mặt nhưng đồng thời các lực cao cũng có mặt, tức là các chân sư thăng thiên với khả năng trợ giúp con qua nhiều cách.

Vậy thì một lần nữa, sẽ có một nhận thức cao hơn về lãnh vực này như con đã thấy ở một số quốc gia có những người cởi mở với các hiện tượng. Và tất nhiên cũng sẽ có một số người – mong rằng chỉ một số ít – sẽ có phản ứng sợ hãi và rơi vào tâm trạng bị động. Nhưng mong rằng phần lớn mọi người sẽ phản ứng một cách trưởng thành hơn và có được khả năng phân biện để nhìn nhận sự hiện hữu của tà lực mà không bị chúng xâm chiếm, và nhờ vậy cũng nhìn nhận sự hiện hữu của các lực ánh sáng và xây dựng mối quan hệ với các thày. Có nghĩa là con có thể nhìn vào tà lực mà không rơi vào sợ hãi.

Là đệ tử của chân sư thăng thiên, con nên nhận ra là con đã đạt được một mức điều ngự nào đó cho phép con công nhận sự hiện hữu của sa nhân và các loại tà lực khác mà không rơi vào trạng thái sợ hãi hay hoảng loạn. Nhưng con có thể chỉ đơn giản chấp nhận nó, con thỉnh cầu, con nhìn vào bản thân xem mình có bị các lực này ảnh hưởng hay không, xong con tự giải thoát khỏi ảnh hưởng này qua các dụng cụ tâm linh cùng sự trợ giúp mà các thày cống hiến.

Và điều rất quan trọng là người khác cũng đạt đến được điểm này giống như con. Tất nhiên con có thể, nếu con mong muốn, thỉnh gọi để một số người con quen biết, hay loài người nói chung, khắc phục được nỗi sợ vẫn còn ở đó. Bởi vì như thày vừa nói, tuy vào thời Trung cổ người ta sợ hãi các lực này và nhìn nhận chúng có mặt, thì thời nay người ta chối bỏ sự thật về các lực này nhưng trong tiềm thức vẫn mang một nỗi sợ nào đó mà họ không thể nhận diện. Và các nhà duy vật thì không thể giúp họ thoát khỏi nỗi sợ này.

Điều này sẽ chỉ xảy ra khi ai nấy nhìn nhận sự hiện hữu của một cái gì đó, nhưng đồng thời cũng đủ phân biện để nhìn ra là tuy nó có mặt nhưng con có thể tự giải thoát, tự bảo vệ khỏi nó. Con có thể nâng cao tâm thức đến mức các lực này không thể ảnh hưởng đến con.

Phật tánh là gì?

Hỏi: Phật tánh là gì?


Trả lời của Chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2019. Đăng ngày 16/10/2019.

Phật tánh mà có thể diễn tả được bằng lời nói chỉ là một khái niệm. Con có câu mở đầu tuyệt vời của Đạo Đức Kinh rằng Đạo mà nói được thành lời không phải là Đạo thật. Phật tánh cũng tương tự như thế. Như các con vừa thảo luận và chúng tôi cũng có đề cập trước đó, giác ngộ là một khái niệm. Con người sống trong vô minh và họ đau khổ. Chúng tôi phải chỉ ra cho họ thấy là có một con đường để thoát khỏi khổ đau. Chúng tôi phải cho họ một mục đích và bảo rằng: “Đây là điều mà các con có khả năng đạt được khi các con vượt qua vô minh.”  Nhưng như chúng tôi đã nói, giác ngộ chỉ là một khái niệm. Và nếu con sử dụng tâm nhị nguyên để hình thành một ý tưởng trau chuốt về bản chất của giác ngộ, con sẽ đẩy giác ngộ đi ra thật xa, bởi vì giác ngộ là khi con ngừng nhìn cuộc sống qua tâm nhị nguyên.

Phật tánh là gì? Đó là một khái niệm mà ta đã diễn đạt bằng lời. Mục đích khi ta diễn đạt như vậy thực sự là, trước hết, để nói rằng tất cả mọi người đều có tiềm năng vươn lên khỏi vô minh. Vào thuở xa xưa khi ta giảng dạy, các sinh thể sa ngã chưa bày ra khái niệm về tội lỗi nguyên thủy, cho nên lúc ấy chưa có khái niệm là con người được sinh tạo như một sinh thể khiếm khuyết phải cần đến một Đấng Cứu thế từ ngoài. Khi ta nói là mọi người đều có Phật tánh ở bên trong, điều ấy có nghĩa là bất kể trình độ tâm thức của con trên địa cầu, con cũng có tiềm năng nối kết lại với Phật tánh và như vậy vượt lên khỏi vô minh.

Nhưng hơn thế nữa, muc đích cũng là để chứng tỏ rằng mọi người đều có Phật tánh trong mình. Chính khi con nối kết lại với Phật tánh của con trên bình diện cá nhân, con mới có thể thực sự nối kết với người khác. Và cách duy nhất để phát triển Tăng đoàn của Phật là phải có những cá nhân đã tái nối kết với Phật tánh trong mình. Một khi con đã thấy Phật tánh trong mình thì con cũng thấy được Phật tánh bên trong người khác, và khi có nhiều người nối kết được với Phật tánh, họ sẽ nối kết lại với nhau ở một mức cao hơn, đạt được sự hợp nhất trọn vẹn hơn. Đó là cách hình thành Tăng đoàn thực sự của Phật, chứ không chỉ là một cộng đồng vật lý của những người sống chung với nhau, học tập cùng những giáo lý và đọc cùng những bài kinh kệ. 

Trên hết, đó là một sự nối kết trong tâm thức. Và tất nhiên, trong một ý nghĩa rộng hơn nữa, tất cả mọi thứ đều là Phật tánh. Toàn bộ vũ trụ vật chất này nẩy sinh ra từ Phật tánh, và điều này một lần nữa sẽ giúp con vượt lên trên ý thức tách biệt, vượt lên trên cảm nhận con tách biệt khỏi vũ trụ vật chất.

Nếu con cảm thấy con tách biệt khỏi vũ trụ vật chất, con sẽ rất dễ dàng rơi vào cái bẫy như thời trẻ của ta khi ta thử nghiệm với tu tập khổ hạnh. Cái bẫy đó là xem cõi vật lý, vũ trụ vật chất, là kẻ thù của phát triển tâm linh, xác thân con là kẻ thù của sự thăng tiến và do đó con phải hành nó bằng đủ mọi cách tu tập cực đoan nhất. Nhiều người tâm linh cũng đã bước vào ngõ cụt này khi họ cưỡng chống lại cuộc sống trong cõi vật lý trong khi họ sống ngay giữa cõi vật lý. Và họ nghĩ rằng bằng cách kháng cự lại cõi vật chất, họ sẽ lên được cõi tâm linh – vào được Niết bàn và giác ngộ.     

Nhưng con không thể giác ngộ bằng cách cưỡng chống, bởi vì làm vậy sẽ chỉ giữ con ở lại trong vòng nhị nguyên, ở lại trong vô minh. Như trong kinh Pháp cú có nói, nó sẽ giữ con lại trong những cặp nhị đối. Khi con nhận ra là vũ trụ vật lý cũng chính là Phật tánh, con sẽ ngừng chống cự, con sẽ ôm lấy sự sống và ôm lấy cơ hội hiện thân trong một xác thân vật lý. Chỉ khi nào con ôm lấy vận hội đó, rằng con có một xác thân vật lý trên địa cầu, thì con mới đạt được tự do để rời khỏi địa cầu, bởi vì khi nào con chưa ôm lấy được hoàn toàn thì con sẽ không thể thực sự đi đâu khác.    

Năng lượng đi theo sự chú ý

Hỏi: Khi người ta nói, năng lượng chảy vào nơi mà sự chú ý hướng tới, thì câu này có nghĩa gì? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 9/10/2019.

Con yêu dấu, ngược với những gì khoa học bảo con, giác quan của con không chỉ là những dụng cụ thọ nhận thụ động. Khi con nhìn vào một vật gì, tất nhiên có tia sáng từ vật đó đi vào võng mạc trong mắt con và đập vào võng mạc của con. Nhưng cũng có năng lượng từ con hướng ra bên ngoài qua tia nhìn của con. Không phải là qua con mắt vật lý, vì đó không phải là năng lượng vật lý mà năng lượng tâm lý – nếu có thể gọi như vậy – tức là năng lượng từ cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Điều này xảy ra cho bất cứ gì mà con đặt sự chú ý vào.

Đó là tại sao trong một đợt truyền pháp trước – đúng hơn, trong sách về thuật giả kim – ta đã có nói rằng con người là nô lệ cho sự chú ý của mình, bởi vì chú ý hướng về đâu thì năng lượng cũng đi về đó, và con người chỉ có thể đi theo.

Cho nên đúng vậy, thực tế là bất cứ gì mà con đặt chú ý vào thì con sẽ cho nó năng lượng. Đó là tại sao các chân sư có nói là nếu một nhóm người họp nhau lại, chẳng hạn trong một phong trào tôn giáo, họ sẽ tạo ra với thời gian một thực thể tập thể, một quái vật tập thể, và quái vật này sẽ ngày càng lớn mạnh đến mức nó sẽ áp đảo tâm trí của mỗi cá nhân trong nhóm.

Đó cũng là tại sao người ta có vấn đề nghiện ngập. Những người uống rượu từ hàng ngàn năm qua đã cùng tạo ra một tà thể tập thể mạnh mẽ đến mức nó có khả năng chế ngự tâm trí của rất nhiều người. Trong mọi lãnh vực, mọi hoạt động của con người, luôn luôn có một xu hướng làm như vậy, và nó xảy ra qua sự chú ý.

Tất nhiên là nó không vật lý – vì nó xảy ra trong các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc – nhưng đây là một lời dạy rất chính đáng. Điều quan trọng hiển nhiên là con cần biết đến lời dạy này, và nếu con cảm thấy mình đã hoặc đang bị ảnh hưởng, hay con quen biết những ai đang bị ảnh hưởng bởi những tà thể đó, chắc chắn con có thể thỉnh gọi để họ được cắt đứt khỏi tà thể và được giải thoát, và tà thể thì bị buộc trói lại và tiêu hủy.  

Khi kundalini thức giấc tự phát

Hỏi: Thày Giê-su có dạy về con đường tuần tự nâng cao nhận biết, và thày cũng nói rằng tiến trình kundalini phải chậm và tuần tự. Khi kundalini thức dậy một cách tự phát, nó có thể gây ra nhiều triệu chứng nghiêm trọng. Tại sao có một số người trải nghiệm kundalini một cách tự phát khi họ chưa chuẩn bị và sẵn sàng? Các chân sư thăng thiên khuyến cáo họ làm gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 6/10/2019.

Con yêu dấu, mặc dù đây có thể là chuyện bẻ cong ngôn từ, nhưng không có gì gọi là một sự thức dậy tự phát, theo nghĩa là mọi người đã từng sống qua nhiều kiếp đầu thai, và tuy con có thể không làm gì đặc biệt trong kiếp này để đánh thức nó dậy, nhưng chắc chắn con đã làm một điều gì đó trong tiền kiếp đưa con đến điểm con trải nghiệm một sự thức dậy trong kiếp này.

Tất nhiên là có những người đã từng có một trải nghiệm mà chúng ta có thể gọi là “thức dậy tự phát” – hay kundalini tự động khởi dậy – và trải nghiệm này đã khiến họ vô cùng lo lắng. Đâu là mục đích của trải nghiệm này? Trong một số trường hợp, chẳng có mục đích gì đặc biệt ngoài sự kiện là những người đó đã, trong một tiền kiếp, toan chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực khi họ sử dụng một loại phương pháp nào đó, hay thậm chí sử dụng cả ma thuật đen chẳng hạn, để cưỡng ép kundalini dâng lên hay để ép buộc sự tăng triển tâm linh của mình. Có nghĩa là trong kiếp trước, họ đã không có được sự đột phá mà họ mong muốn, và trong kiếp sau thì sự đột phá xảy ra cho dù họ đã quên mất mình làm gì trước đây.

Mục đích duy nhất của sự kiện này là họ cần trải nghiệm những gì có thể xảy ra khi họ chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực. Có thể họ không có được trải nghiệm đó trong tâm ý thức, nhưng ít ra sau kiếp đầu thai này, họ sẽ có thể làm việc với các vị hướng dẫn tâm linh của họ và họ suy ngẫm, rút tỉa bài học về trải nghiệm này.

Cũng có một số người đã cố gắng phát triển tâm linh trong một tiền kiếp và đạt đến một mức nào đó, rồi trong kiếp này họ quyết định sẽ đầu thai trong những hoàn cảnh hoàn toàn thiếu vắng yếu tố kích động sự phát triển tâm linh. Cho nên họ không sinh ra trong một môi trường tâm linh, họ không được tu học tâm linh, không nhận được bất kỳ hướng dẫn tâm linh nào, rồi đùng một cái, như thể một cách vô cớ, họ có một sự thức dậy tự phát hay một trải nghiệm tâm linh vô cùng mạnh mẽ. Giờ đây vấn đề là làm thế nào xử lý được tình trạng này. Trong trường hợp này, mục đích có thể là họ đã chọn làm như vậy vì họ muốn chứng tỏ là cho dù họ đã lớn lên trong một môi trường phi tâm linh, ho vẫn có khả năng xoay chuyển để trở thành một con người nhận thức tâm linh hơn.

Vị sứ giả này có biết đến một người phụ nữ tại Đan mạch lớn lên với cha mẹ hoàn toàn phủ nhận mọi con đường tâm linh, thậm chí còn có lối sống rất duy vật. Bà đã tự đào tạo thành một ký giả, viết nhiều bài từ một nhân sinh quan duy vật. Thế rồi một hôm khi đến thăm một nhà thờ ở Tây ban nha, bà bỗng chiêm nghiệm thấy được Giê-su – như thể bà nhận thức được chính ta đang đứng bên cạnh bà. Kinh nghiệm này xoay chuyển tâm thức bà một cách mãnh liệt đến độ bà bỏ ra nhiều năm trời để lãnh hội. Kỳ thực, bà có trải nghiệm kundalini thức dậy và điều này khiến bà rất bối rối. Bà nghĩ mình bị bệnh tâm thần, nhưng rốt cuộc bà viết một cuốn sách về kinh nghiệm này. Cho đến nay, cuốn sách đã tác động tích cực đến rất nhiều độc giả, khiến độc giả hiểu ra là thật sự người ta có thể lớn lên trong một nền văn hóa và một môi trường vô cùng duy vật, nhưng người ta vẫn có thể xoay chuyển để nhận thức tâm linh hơn. Đây có thể là trường hợp của một số người.  

Tất nhiên cũng có một số người chứng nghiệm kundalini thức dậy là vì trong sứ vụ thiêng liêng của họ có ghi là họ sẽ trở thành một vị thày tâm linh, cho nên con thấy có một số người đã viết sách, đã là thày tâm linh, và dưới mắt họ thì họ đã có một sự thức tỉnh tâm linh tự phát. Một lần nữa, đây lại là một sự hiểu lầm vì họ không ý thức được là trong những kiếp trước, chắc chắn họ đã làm một điều gì đó để nâng cao tâm thức, dẫn họ tới điểm họ có khả năng “thức dậy tự phát”.

Trong một vài trường hợp, điều này có thể đem lại một hậu quả đáng tiếc là họ cho rằng thật sự họ không cần dạy cho đệ tử một con đường thức tỉnh tâm linh lần hồi, tuần tự từng bước một. Trên cơ bản, họ bảo con là con không thể làm bất cứ gì để thúc ép sự thức tỉnh tâm linh mà con chỉ cần ngồi chờ cho tới khi nó xảy đến. Hiển nhiên, nói như vậy sẽ không hữu ích lắm cho nhiều người, bởi vì nếu con không thức tỉnh tâm linh trong kiếp này thì không lẽ con cứ ngồi đó, hoàn toàn thoả mãn với tình trạng vô minh của mình và hy vọng rằng một ngày kia sự thức tỉnh sẽ ập tới?

Đa số những ai sẵn sàng tăng triển tâm linh sẽ cảm thấy là con đường tuần tự là con đường xây dựng hơn. Có một điểm vi tế ở đây, theo nghĩa là có một số vị thày tâm linh phủ nhận sự hiện hữu của một con đường tâm linh. Các vị thày đó nói rằng con không thể tạo ra một con đường máy móc sẽ dẫn con tới giác ngộ. Một số thày tâm linh đó là những sinh thể sa ngã chỉ đơn giản muốn ngăn cản không cho người ta cất bước trên đường tu. Nhưng một số vị thày đó không phải là sa nhân, và quả thực họ có lý từ một quan điểm nào đó.

Không có cách nào tạo ra một con đường máy móc để con – nếu con theo đúng một số bước chỉ dạy – sẽ được bảo đảm đạt đến thức tỉnh hay giác ngộ hay quả vị Ki-tô. Các chân sư thăng thiên đã nói nhiều lần đường tu không tự động, không máy móc. Tuy nhiên vẫn có khả năng tạo ra một con đường đưa con đến những tầng tâm thức cao hơn miễn là con không đi theo nó một cách máy móc, mà con nhận ra nhu cầu sử dụng và phát triển các khả năng trực giác của mình và nhìn xa hơn các giáo lý công truyền. Con không máy móc trong cách tu tập vỏ ngoài, mà trái lại con sẵn sàng mở tâm ra những chứng nghiệm tâm linh nhỏ hơn, lần hồi hơn, sẽ dẫn con đến những đột phá ngày càng lớn hơn.

Có một số người đã trải qua một chứng nghiệm thật dữ dội đưa đến một bước đột phá thật to lớn, nhưng đối với hầu hết mọi người, điều thực tiễn và xây dựng hơn hẳn là con có được rất nhiều những đột phá nho nhỏ, những chứng nghiệm “à ra thế” nho nhỏ, những trải nghiệm thần bí nho nhỏ sẽ lần lần dẫn con lên những tầng tâm thức ngày càng cao hơn.

Cũng có một số người khác đã phát triển tâm linh phần nào trong một tiền kiếp, nhưng khi bước vào kiếp này, họ lại phủ nhận khả năng tăng triển tâm linh. Cho nên con sẽ thấy một số người sống mấy chục năm trời trong sự phủ nhận tâm linh, rồi bỗng nhiên họ đột phá vì họ đã từng đạt đến mức này trong một tiên kiếp, và ngay cả sự phủ nhận cũng không đủ mạnh để trấn áp nó được. Mục đích ở đây, một lần nữa, có thể là để chứng tỏ là người ta vẫn có khả năng chuyển sang một nhận thức tâm linh hơn ngay cả khi người ta đã phủ nhận.

Điều quan trọng là con nhận ra đường tu không máy móc chút nào. Tuy nhiên điều cũng không kém quan trọng là con nhận ra đường tu có thật, và nếu con không tiếp cận nó một cách máy móc thì nó sẽ đem lại kết quả cho con.

Điều không xây dựng là con cứ ngồi đó mà chờ đơi một sự thức dậy tự phát, trong khi khắp bát cung vật lý đã có rất nhiều giáo lý và dụng cụ chỉ dẫn con tiến bước một cách tuần tự có hệ thống.

[Bài đọc thêm: Hiểu rõ năng lượng kundalini – một lời giải đáp của chân sư Giê-su]

Làm thế nào nhận diện một thày giả

Hỏi: Liệu có sinh thể nào hiện đang giả mạo chính xác sự rung động của các chân sư thăng thiên hay không? Chẳng hạn như được mô tả trong sách “Những kiếp của tôi” khi Giê-su đã không nhận diện được người thày giả ở cõi bản sắc. Vậy làm thế nào phân biện và nhận ra họ thực sự là thày giả?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 6/10/2019.

Vâng con yêu dấu, đúng là có khá nhiều sinh thể ở các cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc đang tìm cách làm ra vẻ họ là chân sư thăng thiên hay họ tiến hoá cao hơn trình độ tiến hoá của họ. Làm thế nào để con phân biện? À, có một số chỉ dấu vỏ ngoài và ta đã có trao truyền một số lời dạy trên trang mạng này về cách nhận diện thày giả. Con có thể tìm kiếm một số chỉ dấu vỏ ngoài nhất định. Nếu họ cố tự đặt mình cao hơn mọi người khác, nếu họ cố thu hút những người sẽ theo họ một cách mù quáng và mù quáng vâng lời họ, thì đây là những dấu hiệu của một thày giả.

Nhưng sâu hơn bên trong, cách duy nhất thật sự để phơi bày sự thể này là như các thày đã đề cập nhiều lần, con phát triển khả năng trực giác của mình để con có thể đọc được độ rung động. Con có thể đạt tới điểm con có khả năng cầm lên một quyển sách trong tiệm sách, đọc một vài dòng hay một vài đoạn, và con có thể cảm nhận là sách này không dành cho con hay sách này không phải là một giáo lý cao. Nói cho cùng, đây là cách con có thể biết được. Tất nhiên, con cũng có thể nói là nếu con đã trải nghiệm sự rung động của một chân sư thăng thiên chân chính qua các bài truyền đọc của các thày hay các vị sứ giả khác nhau, thì trải nghiệm này cũng có thể cho con một khung tham chiếu.

Không dễ dàng mà có được khả năng phân biện vì như các thày có nói, con có quyền tự quyết chọn lựa, nhưng tầng tâm thức hiện thời của con giới hạn những chọn lựa mà con có thể nhìn thấy.

Cho nên con có thể nói là một thày giả luôn luôn có một hậu ý ẩn giấu, một thâm ý ích kỷ nào đó. Một chân sư thăng thiên không cần gì ở con. Các thày không có mong muốn thao túng con hay ràng buộc con với các thày hay với bất kỳ một sứ giả, một tổ chức nào, nhưng thày giả thì luôn luôn có một mong muốn ích kỷ; họ muốn một cái gì đó từ con. Có điều, nếu con có một cái ngã tách biệt mang một tính vị kỷ nào đó, thì con sẽ không có khả năng nhận diện tính này nơi người thày. Con sẽ không thể nhận diện là thày có một động lực ích kỷ nếu chính con chưa khắc phục được tính đó trong bản thân con, và đó là tại sao sự phân biện có thể khá khó khăn và tại sao nhiều đệ tử tâm linh với nhiều thiện ý đã bị thày giả lừa gạt suốt nhiều năm trời. Con có thể nói là thày giả có thể thao túng con là vì con mang một số điểm mù nhất định, và con có điểm mù là vì ở trong con có một cái ngã mà con chưa nhìn ra. Do đó con không thấy được đây là một mong muốn vị kỷ, và con cũng không thể nhận diện nét vị kỷ của người thày.

Nhưng dẫu sao, con có thể ngộ đạt rất nhiều bằng cách phát triển trực giác và tất nhiên làm việc trên các ngã tách biệt của mình, hầu con gia tăng sự phân biện. Và chắc chắn con có thể đạt tới điểm con chỉ cần nhìn thoáng qua hình chụp của một vị thày tâm linh đang hiện thân – nếu đó là một đạo sư đang hiện thân – và cảm nhận đó không phải là một vị thày chân chính hay chắc chắn không là vị thày thích hợp cho con. Con có thể biết được khi cầm lên một quyển sách hay đọc một điều gì đó trên internet.

Con yêu dấu, thật không khó lắm để phát triển khả năng cảm nhận một lời dạy xuất phát từ cõi lý trí vì lời dạy này thường vô cùng phức tạp, vô cùng rắc rối. Nói chung, một lời dạy như vậy nhằm tạo cảm tưởng cho người khác là nếu họ có thể hiểu được, hay ít ra nếu họ nghĩ là họ có thể hiểu được, thì điều này có nghĩa là họ thật cao cấp, họ cao cấp hơn người khác.

Cũng có thể có một số lời dạy vô cùng mập mờ, khiến con phải đọc câu văn tới mấy lần mà vẫn không chắc chắn ý tác giả muốn nói gì hay ý định của tác giả là gì. Những loại giáo lý như vậy thường hay thu hút người ta, vì khi giáo lý mập mờ thì nó cho phép tự ngã diễn giải theo bất cứ cách nào nó muốn. Khi đó, nhiều người sẽ có thể dùng giáo lý để chứng thực những gì họ muốn tin, và đây là tại sao một số sinh thể nơi cõi lý trí đưa ra những lời dạy thật tối nghĩa để ai nấy khó lòng hiểu được chính xác họ muốn nói gì.

Hiển nhiên, việc trao truyền một lời dạy tâm linh tự thân nó đã khó khăn vì việc truyền đạt sự nhận biết quả cầu của một chân sư thăng thiên qua ngôn từ đường thẳng thật là khó khăn. Đó là tại sao nếu con nhìn vào các lời dạy của chân sư thăng thiên qua thời gian, con có thể thấy là trong quá khứ, các thày đã mơ hồ, đã thiếu rõ ràng hơn. Nếu con xem các giáo lý trước đây, con sẽ khó lòng hơn hiểu được ý nghĩa một cách chính xác. Con sẽ thấy là ngày hôm nay, các thày đã cố gắng ngày càng trực tiếp hơn, ngày càng chính xác hơn, để ít ra con thấy rõ được điều các thày đang cố nói là gì, nhưng tất nhiên, các thày vẫn gặp phải sự giới hạn của ngôn từ.

Những lời tiên tri về điều xảy ra vào một thời điểm nhất định

Hỏi: Câu hỏi này là về những kênh ngoại cảm nói về một sự kiện đáng kể sẽ xảy ra vào tháng 11. Thời điểm được tiên đoán rất chính xác, như ngày 11/11 chẳng hạn. Loại thông điệp đó đến từ đâu?


Trả lời từ chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp một hội nghị tại Albuquerque, Hoa Kỳ, năm 2018. Đăng ngày 5/10/2019.

Những thông điệp cụ thể đó đến từ cõi lý trí, không phải từ các chân sư thăng thiên. Như một hướng dẫn chung chung, đã có bao nhiêu lần các chân sư thăng thiên đã ban truyền – ít nhất qua trung gian sứ giả này – những lời tiên tri về một sự kiện nào đó sẽ xảy ra vào một thời điểm nhất định? Đã có bao nhiêu lần các thày đã đề cập đến một biến chuyển to lớn sẽ xảy đến và tất cả mọi chuyện sẽ thay đổi vào một ngày nhất định? Chúng tôi chỉ nói đến những thay đổi từng bước một, khi tâm thức được nâng cao tuần tự.

Cho nên bất cứ khi nào con thấy chuyện này xảy ra, đó là một nỗ lực nhằm lợi dụng (thêm một lần nữa) niềm hy vọng là một tin vui sắp sửa xảy đến – niềm hy vọng rằng một ngày kia nhân loại sẽ chứng kiến một bước đột phá quyết định, rằng địa cầu sẽ chuyển sang chiều không gian thứ năm, rằng Ki-tô sẽ tái lâm ở trên trời, và đủ loại truyền thuyết cùng ý tưởng thiên niên kỷ khác. Tất cả chỉ giản dị là vì con người mong mỏi một sự đổi thay đột phá.

Có một số thế lực trong các cõi tình cảm và lý trí, và ngay cả trong cõi bản sắc, đang sử dụng niềm hy vọng này để bòn rút năng lượng từ con người. Con có thể chứng kiến qua hiện tượng năm 2012, khi ai nấy bị thao túng, cuốn hút vào một tâm trạng gần như cuồng loạn và tin rằng một biến cố gì vĩ đại sắp sửa xảy ra vào năm 2012.

Hiện tượng này tự nó đã cung cấp năng lượng cho các thế lực kia vắt kiệt năng lượng từ những người đó. Và khi biến cố đó không xảy đến, con cũng thấy tinh thần của họ chìm nghỉm, y hệt như khi con ăn quá nhiều đường thì sau lúc dâng lên thật cao sẽ đến lúc tuột xuống thật thấp. Và con thấy ở điểm thấp nhất của năm 2012 tiếp theo sau điểm cao nhất, các thế lực trong cõi tình cảm cũng đã có thể bòn rút năng lượng từ con người.

Cho nên con hiểu tại sao các chân sư luôn kêu gọi con giữ tầm nhìn cho cân bằng, tức là sự tăng trưởng sẽ diễn ra một cách lần hồi, tuần tự. Các chân sư không muốn kéo con bước vào trò chơi tàu lượn lên lên xuống xuống. Khi con thấy chuyện đó xảy ra, con biết là các thế lực thấp kém đang cố đánh cắp năng lượng của con người.

Làm thế nào xử lý những lỗi lầm ảnh hưởng đến người khác

Hỏi: Đây là kinh nghiệm cá nhân của con nhưng có lẽ nhiều người sẽ thấy nó quen thuộc. Con trải qua kinh nghiệm này khi con phạm một lỗi lầm liên quan đến một người. Làm xong, con nhận thấy có điều gì không phải, và con quyết định là mình sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Con bỏ chuyện đó lại đằng sau. Khi cuốn sách “Các cuộc đời của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Jesus” được xuất bản, con mới thực sự nhận ra sự việc mình đã gây ra, và trong một giây phút con đã nghĩ: “Trời, tôi vừa nhận ra là tôi đã làm một chuyện sai trái mà tôi không muốn”, cho nên phần nào con bằng lòng là mình đã nhận ra lỗi lầm và mình đã có thể điều chỉnh lại cách hành xử của mình.

Tuy con biết là sự kiện con đã học xong bài học sẽ hóa giải được nghiệp quả – nghĩa là sự việc đã xong và mình không còn mang vấn đề đó trong tâm nữa – nhưng đối với người kia thì sao? Điều này sẽ ảnh hưởng thế nào đối với người kia, dòng sống kia, mà con đã có tương tác? Theo một nghĩa nào đó, con không muốn họ phải trải qua bất cứ điều gì tiêu cực hay bất kỳ hậu quả nào quay ngược trở lại, đặc biệt là vì người đó còn trẻ tuổi.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque (Hoa Kỳ) năm 2018. Đăng ngày 1/10/2019.

Đây là một tình huống mà tất cả các con đều đã và đang đối mặt rất, rất nhiều lần khi con sống trên địa cầu này. Và nói thật, tình huống này là một trong những vũ khí lợi hại nhất của sa nhân để khiến con bị mắc vào những dây nhợ nghiệp chướng hay những khuôn nếp phản ứng rất khó lòng thoát ra khỏi.

Con sống trong một môi trường vô cùng khó khăn trên hành tinh này, trong một nền văn hóa cũng vô cùng khó khăn, cho nên khi con làm điều gì tác động lên người khác thì con rơi vào một khuôn nếp phản ứng do hành động đó gây ra. Hoặc con sẽ phủ nhận nó, hoặc con sẽ tìm cách đền bù, hay con cảm thấy là mình thật đáng trách về chuyện này hay chuyện nọ. Cho nên đây là lời đề nghị của ta.

Có những hoàn cảnh mà con có thể làm điều gì đó ở mức vật lý để bù đắp cho những gì con đã gây ra cho người khác qua cách hành xử hay quyết định của mình. Con nên hòa điệu trong tim, cố gắng bước vào một trạng thái tâm trung hòa và nhận sự hướng dẫn từ nội tâm để xét xem điều này có áp dụng cho con hay không, xem xét con có thể làm được gì ở mức vật lý. Rồi nếu con cảm thấy nó đến từ bên trong, con có thể hành động theo đó ở mức vật lý. Con không nên lấy quyết định này với tâm vỏ ngoài dựa trên mặc cảm tội lỗi mà con đang có.

Rồi sau đó tất nhiên, con có thể bước vào công việc tu sửa tâm linh, con có thể thỉnh cầu cho nghiệp quả được hóa giải, thỉnh cầu cho người kia được tự do khỏi các hậu quả trong cõi bản sắc, lý trí lẫn tình cảm, và con có thể tu sửa chính tâm lý mình để nhìn xem cái ngã nào đã khiến con hành xử như thế, xong con giải quyết nó và để cho nó chết.

Ở điểm này, con đã làm tất cả những gì con có thể làm được cho người kia. Và cũng ở điểm này, con cần dùng các lời dạy mà chúng tôi đã ban ra về quyền tự quyết và nhìn nhận rằng con đang sống trên một hành tinh thấp kém về trạng thái tâm thức. Con không đang sống trên một hành tinh tự nhiên. Không thể tránh được chuyện ai ai cũng sẽ phạm phải lỗi lầm vì đủ loại lý do khác nhau. Thật sự con không cần phân tích quá đáng mà con chỉ cần công nhận là mình đã lỗi lầm. Con đã dùng quyền tự quyết của con để nhìn nhận lỗi lầm, để cố gắng vươn lên cao hơn tâm thức đó và tìm cách đền bù cho những hậu quả của việc làm.

Đây là điểm mà con cần nhìn nhận là người kia cũng có quyền tự quyết của họ, và con cần cho phép họ tự do quyết định cách phản ứng của họ trước tình thế, bất kể cách họ muốn phản ứng thế nào. Nếu họ giận dữ với con, con hãy cho phép họ chọn lựa như vậy, nhưng khi đó, con cần làm một việc khó khăn bậc nhất đối với hầu hết mọi người tâm linh: đó là con cũng tôn trọng quyền tự quyết của con. Vì khi con nhìn nhận là mình đã làm tất cả những gì mình có thể làm ở mức vật lý, đã làm tất cả những gì mình có thể làm ở mức tâm linh, thì con cũng cần nhìn nhận một điều: Nếu người kia giận con hay trách móc con thì con không cần phải phản ứng lại. Con không cần phải phản ứng lại. Con không cần phải tự trách mình, con không cần cảm thấy mình có tội, con không cần cảm thấy là mình phải tiếp tục cố gắng đền bù cho tới khi người kia hết giận. Con cần nhận ra là con đang sống trên một hành tinh phi tự nhiên, và trên một hành tinh phi tự nhiên thì không có gì lý tưởng.

Cho nên con không thể chờ đợi mọi chuyện sẽ lý tưởng, mà con cần nhìn nhận là con có quyền sống trên hành tinh này, con có quyền có trạng thái tâm thức hiện thời của con, con có quyền lấy quyết định và hành xử dựa trên trạng thái tâm thức hiện thời đó, bởi vì con không thể làm bất cứ gì khác.

Sẽ có những tình huống khiến con làm một điều gì đó sẽ tác động lên người khác, và người kia có quyền bị người khác tác động y như con cũng có quyền bị người khác tác động. Nói cách khác, người đó không có quyền nói: “Đáng lẽ bạn không bao giờ được hành xử như vậy. Đáng lẽ bạn không được có trạng thái tâm thức đó. Đáng lẽ bạn không được sống trên hành tinh này.” Con có quyền sống ở đây trong trạng thái tâm thức hiện thời của con, và con có quyền làm những điều sẽ ảnh hưởng đến người khác – khi con lầm lỗi một cách trung thực và không hành xử với ác ý. Chính người kia cũng đang ở trong một trạng thái tâm thức nào đó, họ có quyền ở trong tâm thức đó, và con cần nhìn nhận là cách phản ứng của họ đối với con là kết quả của tâm thức đó. Con không cần can thiệp vào chuyện này, nhưng mặt khác, con cũng không cần cho phép nó can thiệp vào đường tu của con – một khi con đã làm tất cả những gì có thể làm để nâng cao tâm thức của con.

Đây là một điều rất, rất khó khăn cho nhiều người tâm linh, và đó là lý do tại sao ta vừa nói đó là một vũ khí hữu hiệu của sa nhân để chúng cầm giữ con trong các mối dây nhợ đó. Tác động tổn hại nhất của sự thể này là khi con sống gần một số sa nhân trong cõi vật lý và con đã làm điều gì đó mà họ xem là sai trái, họ có thể trở nên rất hung hãn, rất cố chấp, và họ sẽ đổ lỗi cho con.

Nhiều người trong số các con đã có tương tác với sa nhân trong tiền kiếp, và một số các con đã tương tác trong kiếp này. Họ đã tỏ ra vô cùng tiêu cực đối với con và con đã quyết định: “Ồ, tôi phải giải quyết cho chuyện này tốt đẹp trở lại.” Nói cách khác, con quyết định: “Tôi cần thay đổi những sa nhân đó để họ không còn tâm trạng tiêu cực đó nữa.” Con yêu dấu, đây là công thức dẫn đến thảm họa, vì trong vũ trụ ít điều gì khó khăn hơn là khiến cho sa nhân đổi ý hầu họ nhìn con với con mắt tích cực, tha thứ cho con và bỏ qua. Cho nên con cần nhìn nhận điều này, liệu người kia có phải là một sa nhân hay không. Thật ra con cũng không cần đánh giá như vậy, mà con chỉ cần nhận rõ trong tâm là nếu họ không để cho quá khứ là quá khứ, nếu họ không buông ra, nếu họ không bỏ qua, thì điều này sẽ không có nghĩa là con không có quyền buông ra, bởi vì chính con có quyền buông ra.

Con có quyền cảm thấy ở bên trong là mình đã làm những gì mình có thể làm cho người đó, và bây giờ mình sẽ bỏ họ lại đằng sau để tiếp tục sống đời mình. Con không chạy trốn bất cứ gì bởi vì con đã giải quyết vấn đề tâm lý nội tâm, con đã làm những gì con có thể làm, và sau đó thì con có quyền bước đi tiếp.

Điều này áp dụng cho mọi người trong đời con, con yêu dấu: cho cha mẹ, cho con cái, cho thân nhân, cho bất cứ ai, tuyệt đối bất cứ ai. Con tôn trọng quyền tự quyết của họ nhưng con cũng tôn trọng quyền tự quyết của con. Họ có quyền phản ứng lại với con bất cứ cách nào họ muốn, nhưng con cũng có quyền không bị phản ứng đó của họ tác động lên mình, vì tâm lý của con thì chính con phải giải quyết lấy. Con không phải giải quyết tâm lý của người khác vì đó là trách nhiệm của họ.

Tiến hóa của một dòng sống sau khi đã theo sa nhân

Hỏi: Trong một bài truyền đọc của các chân sư thăng thiên có nói rằng nếu một người muốn đi theo sa nhân thì thể theo định luật tự quyết, họ sẽ phải theo sa nhân sau kiếp đầu thai. Con hiểu là vì lý do đó, nhiều dòng sống sẽ không có cơ hội tái đầu thai trên địa cầu. Vậy con xin hỏi về các dòng sống hiện đang đầu thai hay sẽ sinh ra trên địa cầu trong xác thân vật lý, phải chăng là họ đã tiến hóa nhiều hơn và họ sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về đời họ cũng như quốc gia của họ thay vì cứ đi theo sa nhân? Chẳng hạn, có thể nào một dòng sống đã lạm dụng quyền lực vào thời cai trị của Stalin, sẽ đi vào đầu thai với một ý muốn mãnh liệt chứng tỏ cho mọi người thấy rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ đem lại hòa bình và hạnh phúc?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Kazakhstan năm 2018. Đăng ngày 28/9/2019.

Không hoàn toàn là đúng khi con bảo rằng nếu một dòng sống quyết định đi theo sa nhân thì người đó không thể bước vào hiện thân trong kiếp kế tiếp. Đó là một vấn đề của từng cá nhân phải do Hội đồng Nhân quả quyết định. Cho nên điều có thể xảy ra là có những người đã từng đầu thai trước kia – chẳng hạn dưới thời chính quyền Stalin hay thời trị vì của Hitler – đang đầu thai ngày nay. Lẽ tự nhiên, một số những người đó vẫn ở trong một trạng thái tâm thức tương tự như trước, họ đã không tăng triển bao nhiêu giữa hai kiếp đầu thai, và do đó theo một cách nào đó, họ đang cố chứng minh tâm thức cũ của họ.

Có những ví dụ về các dòng sống đã không buông bỏ được niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản, và hoặc là họ đã tìm cách xây dựng lại chế độ đó, hoặc họ tìm cách chứng minh là nó chính đáng. Cũng có những dòng sống tìm cách chứng minh là không có điều gì xấu xa đã xảy ra trong quá khứ, rằng Stalin không đến nỗi tệ hại mà lại có ảnh hưởng tốt đẹp đến lịch sử nước Nga. Tất nhiên cũng có những dòng sống cho rằng sự tan rã của Liên Xô là tai họa địa chính trị to lớn nhất trong thế kỷ vừa qua, như Vladimir Purtin từng tuyên bố như vậy. Ông ta là ví dụ một người đã hiện thân trong một bối cảnh cộng sản trong tiền kiếp, và bây giờ ông tái đầu thai với niềm tin muốn dựng lại đế chế cũ.

Cũng có một số dòng sống như vậy đang đầu thai tại Trung quốc nơi cộng sản vẫn là chủ nghĩa nắm quyền, ít ra một cách chính thức. Con cũng có thể thấy những ví dụ, như chúng tôi đã có đề cập, một số người chủ mưu chính sách đàn áp người đạo Do thái dưới chế độ Quốc xã, hiện đang đầu thai tại Israel. Nói thật, một số những người đó đang hành xử đối với người Palestine y như họ đã từng hành xử với người đạo Do thái trong tiền kiếp của họ, chỉ khác một điều là lần này họ đầu thai làm người đạo Do thái.

Cho nên con thấy đó, vấn đề các dòng sống được trao cho một cơ hội mới như thế nào là một vấn đề vô cùng phức tạp. Do đó con không thể nói một cách chung chung là tất cả những dòng sống đang đầu thai hiện nay có một mức tâm thức cao hơn và họ sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về bản thân của họ. Điều chúng ta có thể nói được là hiện nay có nhiều dòng sống hơn đã đi vào hiện thân với trình độ tiến hóa cao hơn các thời kỳ trước. Nhưng điều này không có nghĩa là mọi người đang đầu thai đều ở một mức cao hơn.

Tam giác Bermuda và hiệu ứng giao nhau

Hỏi: Con có câu hỏi về Tam giác Bermuda. Chuyện gì xảy ra cho máy bay và tàu bè bị mất tích ở đó? Chuyện gì xảy ra cho những người bị thiệt mạng, họ đi về đâu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hoà Lan năm 2018. Đăng ngày 11/09/2019.

Con yếu dấu, trong nhiều trường hợp đều có lời giải thích vật lý cho các hiện tượng tàu bè hay máy bay bị mất tích. Thường là các điều kiện thời tiết bất thường khiến cho các liên lạc vô tuyến hay radar bị trục trặc hay một lý do nào khác. Trong loại tai nạn này, tất nhiên những người bị thiệt mạng sẽ chuyển tiếp sang một cõi khác, họ sẽ đi về nơi cư ngụ thích hợp cho họ, ở cõi trung giới, cõi lý trí hay cõi bản sắc.  

Ta không phủ nhận là trong một vài trường hợp hiếm hoi, có thể đã có hiện tượng mà trong quyển sách của thày Maitreya gọi là hiệu ứng giao nhau giữa cõi vật lý và cõi trung giới. Đây cũng là lý do một số người cảm thấy rất chắc chắn là họ đã nhìn thấy tận mắt những hiện tượng UFO (vật bay không xác định) hoặc trong quá khứ đã từng có những người tin chắc rằng mình đã nhìn thấy tận mắt những con kỳ lân hay quái vật đủ loại – như rồng chẳng hạn. Có những trường hợp rất hiếm khi một chiếc tàu, hay một chiếc máy bay hay một người, trải nghiệm một loại “dời chuyển” để nhập thẳng vào cõi trung giới và – nếu có thể nói như vậy – biến mất khỏi cõi vật lý.

Trong trường hợp này, đối với một người thì xác thân vật lý người đó sẽ qua đời. Không phải là xác thân sẽ cứ tồn tại và bước vào một chiều kích khác. Cơ thể vật lý sẽ chết, nhưng linh hồn người đó sẽ đi tiếp vào cõi trung giới và vẫn tiếp tục duy trì được một phần tâm thức như thể người đó đã kinh qua sự chuyển tiếp một cách bình thường. Con hiểu là để cho một vật như chiếc máy bay di chuyển sang cõi trung giới, vật đó không thể tồn tại như một vật thể vật lý hay ở lại trong cõi vật lý.   

Tương tự như vậy đối với thân xác vật lý của con người. Cho nên trong một nghĩa nào đó, con có thể gọi đó là một hiện tượng phi vật chất hóa, nhưng tâm thức của người đó tất nhiên sẽ phần nào tiếp tục sống còn.

Mặc cảm cứu tinh của các avatar

Hỏi: Trong quyển sách “Những kiếp của tôi” (My Lives), nhân vật chính kể rằng khi ông ta tham khảo các cố vấn tâm linh của ông về quyết định sẽ đến hành tinh địa cầu, sự suy nghĩ của ông phần nào không minh mẫn và điều này đã ảnh hưởng đến tiến trình quyết định. Phần nào ông đã hình thành một mặc cảm rằng mình là cứu tinh. Con chỉ thắc mắc không biết tiến trình của Giê-su là thế nào khi thày tham khảo các cố vấn của thày để lấy quyết định tới địa cầu? Lúc đó thày có minh mẫn hơn nhân vật trong sách hay không, hay là thày cũng bị bối rối khi phải cân nhắc việc đầu thai lần đầu tiên trên địa cầu? Ngoài ra, liệu Giê-su có tính viết một cuốn sách kể lại hành trình cư ngụ trên trái đất cùng những biến cố chính trong suốt các kiếp sống mà thày đã sống qua kể từ khi thày hiện thân lần đầu tiên cho tới khi thày thăng thiên?      


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong một hội nghị tại Hòa Lan năm 2018. Đăng ngày 11/9/2019.

Điều ta muốn con rút tỉa từ cuốn sách “Những kiếp của tôi” và cũng là điều ta muốn nói ở đây, đó là: Hành tinh địa cầu là một phương tiện giáo dục. Có nghĩa là tất cả mọi người đã hiện thân vào cõi vật lý đã có nhu cầu học hỏi một điều gì đó qua sự kiện họ đến đây. Những chuyện kể về nhân vật chính trong sách không chỉ là câu chuyện về một dòng sống, mà là một tập hợp những suy nghĩ trăn trở của nhiều avatar về những động lực đã thúc đẩy họ đến địa cầu. Con cũng hiểu là một avatar không bắt buộc phải đến địa cầu bởi bất kỳ một nguyên do nghiệp chướng nào, mà đã chọn lựa đến đầu thai ở đây. Tất cả chúng ta, kể cả chính ta, là avatar đến đây đã mang một động lực mà chúng ta coi là hoàn toàn nhân từ, mà thật vậy trong một nghĩa nào đó, động lực đó hoàn toàn nhân từ.  

Tuy nhiên chúng ta cũng có một cái nhìn có phần thiếu cân bằng, chúng ta có một số khía cạnh của mặc cảm cứu tinh. Đây là điều mà mỗi chúng ta cần phải học hỏi như nhân vật trong sách mô tả, là ông ta nhận ra rằng ông phải buông bỏ mặc cảm đó và hiểu rằng ông không đến đây để thay đổi một ai. Tất cả chúng ta phải kinh qua tiến trình này để rốt cuộc nhìn trái đất với tất cả những khuyết điểm, tất cả những khổ đau của nó để ngộ ra là mình sẽ hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết. Con nhận ra là con không ở đây để thay đổi bất cứ ai, con chỉ ở đây để thay đổi chính con mà thôi. Tất nhiên, con cũng nhận ra là khi con ở đây và làm tất cả những chuyện này, khi con thay đổi chính mình, thì con cũng làm gương cho người khác noi theo nếu họ muốn.

Con phải đạt tới một điểm khi mà để thăng thiên, con phải làm hòa với quyền tự quyết, với khái niệm tự quyết, với cách quyền tự quyết được phép tương tác và diễn ra trên một hành tinh như địa cầu. Con có khả năng nhìn thẳng vào tất cả sự đau khổ mà không bước vào một phản ứng động cảm, và con nhìn xa hơn những nỗi đau khổ để thấy rằng đó là cách duy nhất mà quyền tự quyết có thể diễn ra. Vì khi con người xuống thấp hơn một mức tâm thức nào đó, họ sẽ phải trình diễn tâm thức đó cho tới khi họ chán ngấy. Không những chỉ chán ngấy sự đau khổ (điều này nhiều người chán ngấy rất nhanh) mà họ chán ngấy cả cái tâm thức đã đem lại đau khổ.

Vậy con đạt đến một điểm khi con thực sự làm hòa với địa cầu như địa cầu đang là, và con thực sự cảm nhận được cho dù con đã đến địa cầu để đem lại thay đổi tích cực, bây giờ con có thể rời địa cầu cho dù con chưa đem lại được thay đổi đó.

Đây là một tiến trình mà tất cả chúng ta đều phải kinh qua. Trong một nghĩa nào đó, con có thể nói rằng tất cả chúng ta đều có một phiên bản riêng về mặc cảm cứu tinh, bởi vì nếu không thì chúng ta đã không tình nguyện đầu thai ở đây. Cho nên tất cả chúng ta phải học cách vượt qua, và nhìn thấy điều gì đã thúc đẩy mỗi chúng ta đi đến phán đoán là trên địa cầu có những điều không ổn cần thay đổi.  

Một lần nữa, đây là một vấn đề tế nhị vì hiển nhiên trên địa cầu có rất nhiều khổ đau. Đương nhiên nhiều người bị cuốn trôi vào trong đó và đã không chọn lựa bước vào đó một cách ý thức – họ đã chọn lựa một cách vô thức. Dù sao thì quyền tự quyết vẫn là quyền tự quyết. Cho nên mặc dù chúng ta có thể đến đây và thắp lên một ngọn đèn trong bóng tối, nhưng chúng ta không thể thao túng người khác để họ phải chấp nhận ngọn đèn của chúng ta vì lợi ích của họ.      

Về việc viết một cuốn sách kể ra chi tiết mọi kiếp đầu thai của ta, ta không có ý định này ngay bây giờ, một phần là vì tất nhiên ta đã sống qua rất nhiều kiếp và kể lại hết sẽ rất khó khăn, thậm chí không thể làm được trong một cuốn sách. Phần khác là vì ta không muốn đặt quá nhiều trọng tâm vào bản thân mình ngoài những điều đã làm. Thật sự mục đích của cuốn sách “Những kiếp của tôi” là để làm xẹp bớt sự sùng bái thần tượng chung quanh con người của ta mà các giáo hội Cơ đốc giáo và ngay cả nhiều người trong các cộng đồng Thời mới vẫn có. Chúng tôi muốn đưa ra cho mọi người một lời dạy để giúp họ ngưng sùng bái chứ không sùng bái nhiều hơn.   

Tiếp xúc với chân sư thăng thiên giữa hai kiếp đầu thai

Hỏi: Tất cả chúng con ở đây đều có ít nhiều tiếp xúc với các chân sư thăng thiên. Nhưng khi chúng con qua đời và bước qua bên kia tấm màn thì sao? Một người bạn của con vừa bước qua tấm màn và đã tiếp xúc với chân sư thăng thiên. Mẹ con có liên hệ rất mạnh mẽ với Mẹ Mary nhưng không trong ý thức. Cho nên con tò mò, nếu con ở bên kia tấm màn, tức là không trong hiện thân, liệu sự tiếp xúc với chân sư và gia nhập lớp học của chân sư có dễ dàng hơn hay không?     


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2018. Đăng ngày 11/9/2019.

Con sẽ tiếp xúc với chúng tôi dễ dàng hơn khi con ở ngoài xác thân vật lý nếu con ở một mức tâm thức đủ cao để có thể hòa điệu phần nào với chúng tôi. Tất nhiên, những ai ở những mức tâm thức thấp hơn thường bị kéo hút vào cõi trung giới giữa hai kiếp đầu thai, và từ đó thì rất khó lòng bắt được liên lạc với các chân sư thăng thiên.

Đối với những ai ở mức tâm thức cao hơn và đã mở mang được phần nào khả năng hòa điệu với chúng tôi, dù ý thức hay không ý thức, thì khi họ ở ngoài thân xác vật lý, họ sẽ dễ dàng hơn đi vào cõi bản sắc, gia nhập các khóa nhập thất, hoặc tương tác với chúng tôi bằng nhiều cách.

Rõ ràng là khi con ở trong một xác thân vật lý, con phải nhìn thế gian qua lăng kính của tâm vật lý, và điều này tạo thêm một lớp trung gian, khiến cho việc tiếp xúc với chúng tôi trong tâm ý thức gặp nhiều trở ngại hơn.

Tầm nhìn tâm linh về cái chết tự nguyện

Hỏi: Con xin hỏi về cái chết tự nguyện (euthanasia)


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị ở Hòa Lan năm 2017. Đăng ngày 6/9/2019.

Một lần nữa, con yêu dấu, một đề tài phức tạp với nhiều khía cạnh tinh tế. Nếu con muốn đơn giản hóa, con có thể nói là con đang sống trên một hành tinh nơi quyền tự quyết ngự trị tối cao. Cho nên một người có quyền quyết định là mình muốn chấm dứt đời mình và không trải qua một quá trình bệnh tật quá đau đớn. Điều này dựa trên ý chí tự do là tối thượng, nhưng tất nhiên câu hỏi luôn luôn đặt ra là chọn lựa mà họ lấy sẽ tự do đến chừng nào. Và đây chính là điểm chúng ta chạm đến những khía cạnh tế nhị hơn, khi trong hoàn cảnh lý tưởng, người bệnh có biết đến một số sự thật về bản chất tâm linh của mình.

Họ sẽ biết đến luân hồi, biết đến nhu cầu giải quyết tâm lý của họ, nhu cầu khắc phục một tầng tâm thức nào đó, và biết đến sự kiện một chứng bệnh vật lý có thể là cách biểu hiện của một trình độ tâm thức đặc thù. Họ sẽ biết là thật ra khi một người mắc bệnh vật lý, họ có khả năng trải qua một sự xoay chuyển tâm thức, và vì vậy, có thể sẽ lợi lạc cho sự phát triển dài hạn nếu họ trải nghiệm căn bệnh cho đến giờ phút chót. Bởi vì chính bằng cách trải qua tiến trình nhận biết là cơ thể mình đang chết, họ có thể giải quyết được nhiều câu hỏi, nhiều suy nghĩ, nhiều quan điểm mà họ chưa từng nghĩ đến trong đời.

Cho nên con thấy ở đây là từ một góc độ đơn giản, con có thể nói là một người có quyền tự do quyết định, nhưng một lần nữa, trong nhiều trường hợp nếu họ chỉ quyết định là họ muốn tránh đau đớn thì kỳ thực họ đang cản trở sự tăng triển của họ, và họ đang tạo ra một tình trạng sẽ đem lại nhiều giới hạn hơn trong kiếp sống tới. Và họ có thể mắc phải cùng chứng bệnh sẽ tái phát, và họ cũng có thể bước vào kiếp tới mà chưa giải quyết xong vấn đề mà họ đã có thể giải quyết nếu họ sống tiếp cho đến cuối.

Tất nhiên, một trong những khó khăn xuất hiện gần đây là ngành y học hiện đại đã chế tạo một số công nghệ cho phép con người – cho phép cơ thể vật lý – được duy trì sự sống một cách nhân tạo. Cho nên nếu con nhìn vào tình huống cách đây một trăm năm chẳng hạn khi người ta không có công nghệ hiện đại, nếu có ai đó bị mắc bệnh thì họ sẽ bước vào một tiến trình mà chúng ta có thể gọi là tự nhiên – cho dù không bệnh nào đúng nghĩa là tự nhiên – nhưng họ kinh qua một tiến trình có thể vô cùng cá nhân, họ được trao cho một cơ hội để xoay chuyển tâm thức của họ.

Con sẽ thấy là chẳng hạn, có những người bệnh đạt tới điểm họ có thể nói: “Tôi an bình rồi, tôi có thể ra đi bây giờ”, và trong một số trường hợp họ vui lòng bỏ lại thân xác đằng sau vì họ đã đạt đến một sự giải quyết nội tâm là họ muốn ra đi – tuy rằng cũng có những người không đạt được điểm đó. Nhưng một chứng bệnh có thể là một cơ hội cho con người giáp mặt với những vấn đề mà họ chưa từng giáp mặt trước đó. Cho nên có thể nói là thuở trước, tiến trình bệnh tật gọi là tự nhiên được thích ứng để trao cho người bệnh cơ hội tối đa để họ xoay chuyển tâm thức.

Như vậy con có thể nói là nếu không có sự can thiệp của y học hiện đại thì người đó đã có một thời điểm tự nhiên để qua đời. Điều chúng ta chứng kiến ngày nay là trong ngành y khoa hiện đại, có một tư duy cho rằng việc quan trọng nhất là phải bảo tồn sự sống vật lý, cho nên người ta chế tạo ra đủ loại quy trình và công nghệ nhằm kéo dài tuổi thọ vật lý càng lâu càng tốt. Và điều này có nghĩa là có những trường hợp tuổi thọ kéo dài hơn tự nhiên. Nói cách khác, lý tưởng nhất từ một góc độ tâm linh là người đó chết sớm hơn, nhưng bây giờ y học nhân tạo lại giữ họ lại – giữ cơ thể vật lý lại – cho sống lâu hơn để họ tiếp tục bị ràng buộc với cơ thể.

Điều này cũng có nghĩa là trong một số trường hợp khi người bệnh bị giữ trong một tình trạng đau đớn lâu hơn bình thường, điều xây dựng hơn là họ có được sự hòa điệu trực giác để nói: “Tôi cảm thấy đã đến lúc ra đi, tôi không muốn cơ thể của tôi bị giữ sống lâu hơn, tôi không cảm thấy mình cần trải nghiệm cơn đau này, hay tôi không muốn được an thần với thuốc giảm đau, vậy hãy để yên cho xác thân tôi ra đi.” Đây là một cách ứng xử hoàn toàn có giá trị, và khi đó, họ không tìm cách trốn chạy khỏi nỗi đau hay tránh né không đương đầu với các vấn đề của nỗi đau. Vậy một lần nữa trong hoàn cảnh lý tưởng, người đó biết đến đời sống tâm linh, họ đã giải quyết được nhiều vấn đề trong đời mình, đã phát triển trực giác của mình, và giờ đây họ biết: “Đã đến lúc tôi ra đi, hãy để yên cho chuyện này xảy ra.”

Nhưng nếu mọi người không có được tầm nhìn như vậy về cái chết tự nhiên, nhiều vấn đề sẽ ngóc đầu lên, và một câu hỏi khó hơn hẳn sẽ được đặt ra: “Xã hội có nên hợp pháp hóa cái chết tự nguyện hay không?” Và đây là một vấn đề phải được mỗi quốc gia quyết định vì nó tùy vào tâm thức quần chúng của nước đó. Nó trở thành một thách thức cho tâm thức quần chúng vì cách ứng phó với những vấn đề sống chết như vậy luôn luôn là một thách thức cho xã hội.

Lý tưởng là mỗi xã hội nên đối mặt với nhiều vấn đề, nhưng luôn luôn có xu hướng là người ta muốn chọn con đường dễ dãi và làm ngơ các vấn đề. Nhưng có một số vấn đề sống chết mà hầu hết ai ai cũng cảm thấy không thể làm ngơ được, và thường thường đây là nguồn tăng trưởng lớn nhất – không phải vì nó cần phải như vậy mà là vì người ta hay trốn tránh. Cho nên điều quan trọng trong thời buổi này là mỗi quốc gia nên có một cuộc thảo luận về vấn đề này và những việc gì có thể được cho phép.

Ngay bây giờ chúng ta đang ở đất Hòa Lan, có lẽ là nơi có luật pháp tự do nhất trên hành tinh về vấn đề này, và ta có thể nói với con là trong trường hợp này, Hòa Lan quá tự do về nhiều mặt, quá ít tôn trọng sự sống do thiếu hẳn sự nhận biết tâm linh. Cho nên người Hoà Lan vun bồi một tâm thức xem mình là đi tiên phong, là vô cùng cấp tiến. Nhưng các con không tiến bộ như các con tưởng vì các con không coi trọng cái nhìn tâm linh, vì vậy mới có xu hướng muốn đóng vai Thượng đế. Và điều này con thấy rõ nhất trong giới thẩm quyền y học tại Hoà Lan khi nhiều bác sĩ cảm thấy họ phải được quyền quyết định khi nào một người nên qua đời, bởi vì họ có khả năng lấy quyết định đó.

Nhưng con yêu dấu, nếu con tiếp cận cuộc sống một cách duy vật, con không thể có khả năng – dù dưới hình thức hay cách thức nào – quyết định khi nào một người phải chết. Con hãy tin ta, con yêu dấu, con có thể tạo ra nghiệp chướng to lớn khi làm vậy, và các thày thì không muốn bất cứ ai tạo nghiệp một cách không cần thiết. Cho nên đây là một vấn đề mà thực sự các thày không thể đưa ra một câu trả lời rõ ràng về những gì một quốc gia nên làm, và lý do là vì cho dù các nhà lập pháp của nước đó sẵn lòng lắng nghe các chân sư thăng thiên đi nữa, thì các thày cũng sẽ không muốn đưa ra trả lời vì các thày muốn nước đó kinh qua tiến trình thảo luận rồi tự đi đến kết luận của mình.

Và như vậy, nếu các thày có được sự lắng nghe của quần chúng tại một quốc gia, các thày sẽ vẫn để yên cho họ thảo luận, xong ở một thời điểm nào đó có thể các thày sẽ nhập cuộc và đưa ra một số hướng dẫn nếu các thày thấy họ gặp khó khăn và có tiềm năng vươn lên cao hơn. Và đó là những nhận xét ta muốn trao cho con lúc này, vì tất nhiên đây không phải là lời cuối về vấn đề này.

Cầu cho người quá cố

Hỏi: Tại Hàn quốc, nhiều người tổ chức cúng lễ để đưa linh hồn người thân và tổ tiên đã khuất về nơi an nghỉ tốt đẹp ở cõi trời. Các buổi lễ này thường do những người tu hành tôn giáo hay tâm linh cử hành, nhưng họ lại đòi những số tiền to lớn để làm lễ. Nhiều người thường hoài nghi không hiểu nghi lễ như vậy có thật đưa người thân của mình lên cõi phúc lành hay không. Cho nên những ai phải bỏ ra quá nhiều tiền làm lễ tất nhiên sẽ bất bình hay nghi ngờ người hành lễ gian lận. Tổn phí to lớn của cúng tế và cách hành xử gian lận của người hành lễ đang gây vấn đề trong xã hội. Liệu chúng con có thể đọc những bài cầu nguyện tràng hạt hay bài cầu thỉnh của các chân sư thăng thiên thay vì bỏ nhiều tiền ra để đưa tổ tiên và thân nhân chúng con về nơi cực lạc?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2017. Đăng ngày 4/9/2019.

Con yêu dấu, ta có thể nói thật rõ ràng ở đây. Người hành lễ đòi càng nhiều tiền thì sự gian lận của họ càng lớn, bởi vì họ chỉ muốn kiếm tiền chứ không có ý giúp gì những vị đã khuất. Một người hành lễ đích thực trong tinh thần tâm linh có thể sẽ tính tiền để duy trì sinh hoạt nghi lễ thay vì phải kiếm sống bằng cách khác, nhưng họ sẽ tính giá phải chăng chứ không cố làm giàu qua việc phụng sự tâm linh.   

Nói vậy rồi thì ta phải nói thêm, nhiều người hành lễ có chủ tâm rất tốt nhưng sự hiệu nghiệm của những buổi lễ này rất thấp. Lý do là vì như chúng tôi đã nói nhiều lần, một buổi lễ chủ yếu trong cõi vật lý không làm sao hữu hiệu bằng một nghi lễ tâm linh. Cho nên con yêu dấu, tất nhiên là con có thể dùng những bài chú và bài thỉnh để cắt những sợi dây, giải thoát tổ tiên và thân nhân mình khỏi mọi điều kiện trong cõi trung giới. Bài chú cho Astrea rất hữu hiệu để giải thoát thân nhân con khỏi các ràng buộc, chẳng hạn, của cõi trung giới.      

Con có thể nhìn vào cuộc đời của thân nhân con và con có thể – càng nhiều càng tốt vì con biết rõ họ – lượng định xem những vấn đề tâm lý mà họ đã có thể gặp phải. Rồi con hãy tìm bài cầu thỉnh nào thích hợp nhất để giải quyết những vần đế này và con đọc cầu thỉnh cho họ. 

Một lần nữa, việc này không thể vi phạm quyền tự quyết của họ, bởi vì họ cần phải thấy được vấn đề ở trong họ hầu thoát ra khỏi vấn đề. Nhưng chắc chắn con vẫn có thể cầu gọi để giúp họ cải sửa vấn đề đó dễ dàng hơn ở bất cứ nơi nào mà họ đã thăng lên sau cái chết của cơ thể vật lý. Dĩ nhiên, nếu họ đã đi xuống một nơi thấp hơn trong cõi trung giới, con có thể tìm cách giải vây họ bằng cách cầu gọi Đại thiên thần Michael và Astrea và Ngọn lửa Tím. Và điều này sẽ tạo cơ hội cho họ nhìn lại khuôn nếp tâm lý của mình một cách hoàn toàn mới mẻ, một điều mà họ chưa từng, hoặc chưa muốn, làm khi còn sống.

Một lần nữa, con không thể gạt bỏ quyền tự quyết của họ nhưng ít ra con có thể cố cho họ một cơ hội để bước vào ánh sáng, đi theo các chân sư thăng thiên để đến nơi cư trú nơi họ có thể học hỏi, hoặc có cơ hội tốt nhất để học hỏi, hầu họ được hiện thân tốt đẹp hơn trong kiếp đầu thai kế tiếp. Chắc chắn là con không bao giờ muốn thân nhân của con bị rơi vào cõi trung giới và bị kẹt ở đó, khiến họ sẽ phải tái đầu thai trong một tình cảnh khó khăn hơn kiếp trước.

Con có thể làm rất nhiều để họ có cơ hội chọn bước theo các chân sư vào cõi cao hơn nơi họ được các chân sư chỉ dạy. Khi con biết nhiều hơn về giáo lý các chân sư, con sẽ hiểu là con không cần tốn tiền trả cho những người hành lễ đó, và dĩ nhiên con hãy cứ tùy tiện nói chuyện với gia đình con về khả năng này nếu gia đình cởi mở.  

Nhưng ta sẽ để cho cá nhân con toàn quyền thẩm định điều này, bởi vì đây thực sự là vấn đề: liệu gia đình con đã chán chê trả tiền cho người hành lễ hay chưa và đã sẵn sàng giúp đỡ thân nhân mình một cách ý nghĩa hơn hay chưa. Con yêu dấu, con có thấy tại sao một tập tục như vậy đã khởi sự hay không? Một phần đó là vì nền văn hóa của các con không nhất thiết chủ trương cúng tế tổ tiên, mà là một nền văn hóa kính trọng tổ tiên cao độ.   

Đối với nhiều người, điều này đã trở thành một gánh nặng, một bổn phận, một ý thức trách nhiệm, chứ không phải vì tình yêu thương. Họ làm vậy vì họ cảm thấy bắt buộc phải làm vậy. Cho nên có một cơ chế tâm lý được tạo ra ở đây: một số người không muốn bỏ thì giờ ra tự làm lấy nhưng họ lại cảm thấy phải làm một cái gì đó, và đối với cộng đồng chung quanh, họ phải đưa ra bộ mặt là đã làm một cái gì. Cho nên sẽ dễ dàng hơn nếu họ có thể trả tiền cho một ai đó cử hành buổi lễ để họ có thể nói: “À nhưng tôi đã trả tiền nhiều như thế đó cho người này để người ta làm lễ cho mẹ tôi”, và do đó họ là một đứa con có hiếu đã làm tròn bổn phận của mình. Và mọi người trong cộng đồng chung quanh sẽ bảo: “Đúng vậy, anh ta là một đứa con có hiếu, anh ta đã làm tròn bổn phận”. Và sau đó thì họ có thể bỏ chuyện này ra khỏi tâm trí và cảm thấy mình đã làm những gì mình phải làm.    

Và đấy là tại sao tập tục này đã khởi đầu. Người ta bỏ tiền ra mua lấy một cảm giác nhẹ nhõm là mình đã làm điều mình phải làm. Hoặc nữa, người ta cũng có thể bỏ tiền ra mua một địa vị nào đó trong cộng đồng, vì họ hiểu ra là nếu họ càng bỏ nhiều tiền để cúng lễ thân nhân thì địa vị của mình trong cộng đồng càng cao hơn. Số tiền bỏ ra chứng tỏ địa vị mình đang có.

Cho nên con thấy trong tập tục này có một tâm lý khá phức tạp. Con có thể bảo gia đình con là việc bỏ tiền ra thật sự không cần thiết, nhưng rất có thể gia đình con sẽ không chấp nhận ý kiến này chính vì cơ chế tâm lý đó. Nếu vậy, con hãy để yên cho gia đình làm theo ý muốn. Còn con, con hãy làm lễ riêng con, và biết rằng mình đã làm tất cả những gì có thể cho thân nhân mình.

Điều gì xảy ra vào lúc lâm chung?

Hỏi: Xin thày giải thích về tiến trình chết? Điều gì xảy ra vào lúc lâm chung?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc, năm 2016. Đăng ngày 28/4/2017.

Đây là một đề tài phức tạp mà ta không thể bàn sâu rộng ở đây. Nói ngắn gọn, điều xảy ra là khi thân xác ngừng hoạt động – bình thường khi tim ngừng đập và hơi thở cũng ngừng – con sẽ bắt đầu tách rời khỏi thân xác. Con càng có nhận thức tâm linh, càng hiểu biết các giáo lý của chân sư, càng đã từng cầu gọi để giải quyết tâm lý mình và vượt qua càng nhiều dính mắc vào mọi thứ trên địa cầu, thì sẽ càng dễ cho con bỏ lại thân xác đằng sau.

Có rất, rất nhiều người trên địa cầu bị dính mắc vào thân xác vật lý và cuộc sống mà họ đã sống. Những người đó sẽ rất khó lòng bỏ lại thân xác đằng sau. Đó là lý do có khi họ trở thành điều mà chúng tôi gọi là những hồn không xác. Vì họ không thể rời bỏ thân xác, họ cũng không thể rời bỏ cõi vật lý và do đó không thể bước vào ánh sáng, là ánh sáng mà nhiều người trải qua kinh nghiệm cận tử đã nhìn thấy. 

Nếu con đã đọc sách về các trải nghiệm cận tử, con sẽ biết là người “chết” chiêm nghiệm thấy mình đi vào một đường hầm, đi tiếp trong đường hầm rồi bước ra một vùng sáng nơi đôi khi họ được đón tiếp bởi những thân nhân đã qua đời, hay những sinh thể tâm linh mà họ đã cảm thấy gần gũi trong kiếp đã qua. Điều lý tưởng, tất nhiên, là họ cứ đi tiếp để rồi nhận được sự hướng dẫn hầu tìm ra điểm cư ngụ thích hợp nơi họ có thể tăng triển cho đến lúc họ lại tái đầu thai.    

Là một người tâm linh, điều quan trọng là con cần nhận ra thân xác chỉ là một cỗ xe để con sử dụng trong một thời gian. Cuộc đời mà con đang sống không phải là cứu cánh mà chỉ là một phần trong nguyên tiến trình của dòng sống không ngừng tăng triển và tỏ lộ. Đặc biệt nếu con biết cái chết sắp cận kề, điều thật quan trọng là con cải sửa các dính mắc của con với kiếp sống này. Con cần cầu gọi, đồng thời cũng cần tu tập một cách ý thức. Hãy nhìn xem mình còn dính mắc chỗ nào, nhìn xem mình còn những ham muốn nào chưa thỏa mãn, rồi từ bỏ chúng càng nhiều càng tốt. Khi cơ thể ngừng hoạt động, con sẽ không còn ràng buộc với nó nữa, con không cố ở lại với nó nữa. Con quay đầu nhìn lại và con nhận ra sự kết liễu dứt khoát của một kiếp sống, và bây giờ đã đến lúc con bước đi tới giai đoạn kế tiếp của tiến trình tăng trưởng, hành trình tiến hóa có ý thức của con. Sau đó, con bước vào đường hầm nói trên, con cứ bước tiếp cho tới điểm cư ngụ thích đáng của con, và con theo chân những sinh thể tâm linh đang tiếp đón con và hướng dẫn con về điểm cư ngụ này giữa hai kiếp sống.        

Động vật có thể tái sinh làm người?

Hỏi: Liệu con người có thể đầu thai làm động vật do nghiệp quả? Động vật có thể nào tiến hóa và sinh ra làm người?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc, năm 2016. Đăng ngày 26/4/2017.

Không, con yêu dấu, một người không thể đầu thai làm động vật. Giáo lý này không đúng, đó là hiểu lầm đường đạo. Con người không giống động vật ở chỗ động vật là một sinh thể tiến hóa qua một tiến trình lần hồi. 

Thày Maitreya có giải thích điều này sâu xa hơn trong sách của thày (Master Keys to Spiritual Freedom) nhưng sự thật là trên địa cầu có hai đường tiến hóa song song. Trong thiên nhiên có một tiến trình tiến hóa, một tiến trình tuần tự lần hồi được hướng dẫn bởi những sinh thể có tâm thức nhưng chính tiến trình đó thì lại phần nào vô thức. Điều này Charles Darwin đã quan sát chính xác, cụ thể là trong thiên nhiên có một tiến trình tiến hóa vô thức nào đó. Điều mà ông không nhìn ra, và cho tới nay vẫn chưa được người ta nhìn nhận, là điểm này không áp dụng cho con người.

Một con người phát xuất từ một cõi cao hơn và đi xuống từ đó. Nhiều người sẽ gọi đó là linh hồn đi xuống, nhưng chúng tôi, các chân sư, nay đã đưa ra những giáo lý đặc thù để phân biệt giữa linh hồn – tức là bốn thể phàm của con người – với cái Ta Biết. Dù sao thì đúng là có một cái gì đó đã đi xuống từ trên, và đây là lý do con không thể đầu thai với tư cách con người ở mức của động vật.  

Là một con người, con có thể tiến hóa ngược – nếu có thể gọi như vậy – và lùi xuống một tâm thức thấp kém đến nỗi con không thể hiện thân trên địa cầu được nữa. Nếu vậy con sẽ đi vào cõi trung giới, và con có thể đi xuống thấp hơn và thấp hơn trong cõi trung giới cho đến khi con không thể tiếp tục ở lại địa cầu được nữa. Con sẽ phải đi tới một nơi với tâm thức thấp hơn cả địa cầu, cho dù càng ngày sẽ càng có ít nơi như vậy trong vũ trụ.

Liệu một động vật có thể tiến hóa đến mức con người hay chăng? Đây là một câu hỏi phức tạp do cách con người nhìn động vật. Loài người có xu hướng nhìn một con thú vật như là một cá thể riêng lẻ nhưng điều này không đúng. Ta biết nhiều người nuôi thú vật trong nhà, đặc biệt là chó, mèo và đôi khi cả ngựa, mà họ có mối quan hệ rất thân thiết, và họ cảm thấy con thú của họ có sự nhận biết, có một cá tính. Thậm chí có thể con đã từng nuôi mấy con thú mà con có cảm giác là cùng một sinh thể, cùng một tâm thức mà con có thể nhận ra.

Con yêu dấu, cảm giác này của con không sai ở chỗ có một cái gì đó mà con cỏ thể liên hệ và cảm nhận, nhưng con cần hiểu là cái đó không phải là con thú trong hình tướng vỏ ngoài của nó, mà cái đó là tinh linh (elemental) đã tạo ra hình tướng. Các sinh thể tinh linh có khả năng tiến hóa về mặt tâm thức cho tới mức chúng có khả năng nhận được một ngọn lửa ba nhánh và khi đó hiện thân làm người. Trong nhân loại hiện đang đầu thai, có một số người đã khởi sự là tinh linh như thế.

Sẽ quá đơn giản nếu con có thể nói rằng, à đây là một người hiện thân lần đầu tiên làm người, vậy thì trước khi đầu thai làm người, sinh thể này đã là một con mèo hay một con chó. Chó với mèo đã được tinh linh phóng chiếu ra thành hình tướng chó mèo, chứ không phải cái sinh thể chó mèo đó đã tiến hóa thành hình tướng con người. Chính tinh linh đã đạt được một trình độ nhận biết khiến nó không còn hoàn toàn đồng hoá với một con mèo hay một con chó bởi vì nó đã mang một số phẩm chất giống người qua sự tương tác với con người. Do đó, một tinh linh muốn đầu thai làm người cần thăng vượt hình tướng động vật và bỏ nó lại đằng sau.     

Việc thờ cúng tổ tiên

Hỏi: Tại Hàn quốc, chúng tôi có một nghi lễ thờ cúng để tưởng nhớ tổ tiên đã khuất. Ý kiến của ông về điều này sa sao?


Trả lời của ông Kim Michaels. Đăng ngày 30/3/2017.

Theo tôi, đây là một nghi lễ phần nào thuộc về quá khứ và không thuộc về Thời đại Bảo bình. Nghi lễ này tạo sự ràng buộc với tổ tiên cùng những cách sinh hoạt cũ. Làm thế nào một xã hội thăng vượt được nếu quá ràng buộc vào quá khứ? Theo ý tôi, đìều này sẽ lần hồi phai nhạt đi trong Thời đại Bảo bình. Tôi nghĩ có thể các chân sư sẽ muốn bình luận gì thêm, nhưng nếu bạn nhìn vào vấn đề một cách lô-gíc, bạn có hai hướng suy nghĩ. Hoặc bạn có thể từ bỏ tập quán này và nói: “Chúng ta không thấy cần thiết nữa”. Hoặc bạn có thể tự vấn: “Đâu là tổ tiên đích thực của chúng ta?”  Đó không phải là cha mẹ hay ông bà chúng ta bởi vì trước cha mẹ và ông bà thì có ai? Nếu bạn đi ngược lên mãi, sẽ tới điểm bạn tìm ra đó là các chân sư thăng thiên. Các chân sư là tổ tiên thật sự của chúng ta, chúng ta khởi nguồn từ đó vì chúng ta là những sinh thể tâm linh.

Tôi thiển nghĩ một xã hội sẽ rất, rất khó lòng tăng triển nếu mình quá ràng buộc vào tổ tiên mình. Tôi thiết nghĩ nếu mình cho rằng tổ tiên đang chú tâm nhìn mình, theo dõi và phán đoán từng động thái trong đời mình, thì điều này phần nào không lành mạnh. Tôi cho rằng nó có thể không lành mạnh cho chính linh hồn của tổ tiên, bởi vì nếu bạn có sự ràng buộc tình cảm mạnh mẽ thì cũng giống như bạn đang muốn giữ chân cha mẹ mình ở lại với mình, và điều này sẽ gây trở ngại cho cha mẹ rời bỏ thế gian mà tiến về những chân trời mới.  

Đã có khá nhiều sách viết – tôi không rõ là sách có bán tại Hàn quốc hay không, nhưng bên Mỹ chẳng hạn thì đã có – về những người đã có trải nghiệm cận tử. Liệu ở Hàn quốc có quan niệm này không? Đây là những người đã qua đời về mặt vật lý, tuy nhiên họ vẫn có trải nghiệm và tỉnh lại để kể lại câu chuyện của họ. Họ kể rằng khi thân xác qua đời, mỗi người sẽ vẫn sống tiếp, sẽ bước vào cõi bản sắc rồi thường sẽ có một thời gian để nghỉ ngơi và học hỏi trước khi tái đầu thai trong một kiếp mới. Hầu có thể bước tới và đi vào ánh sáng, bạn phải có khả năng buông bỏ lại kiếp sống đã qua của mình, bỏ lại xác thân vật lý cũng như gia đình và xã hội của mình. Nếu con cháu quá bám giữ và không buông ra cho cha mẹ hay ông bà mình ra đi, thì làm sao linh hồn ra đi được đây?    

Tôi thiết nghĩ nhiều linh hồn sẽ bị vướng lại và đây là điều mà các chân sư thăng thiên gọi là những hồn không xác, là hồn không thể nào bước đi tiếp để mà tái đầu thai. Hồn thường bị kẹt lại trong cõi trung giới hay cõi tình cảm. Nó bị kẹt ở đó và nó có cảm giác tựa như con cháu của nó đang ngăn cản nó bước tới, và vì thế nó cố ảnh hưởng ngược lại trên con cháu. Tình thế trở thành thật phức tạp, thật khó khăn. Điều lành mạnh hơn nhiều là bạn cứ để yên cho linh hồn các vị ấy siêu thoát. Linh hồn sẽ tiếp tục bước tới, và chính bạn cũng tiếp tục bước tới và giải thoát khỏi quá khứ.

Liệu chúng ta có phán xét sa nhân?

Hỏi: Thày Giê-su bảo rằng: Đủ rồi, như vậy là đủ rồi. Và chúng con đọc nhiều bài thỉnh để phán xét và nói: Đủ rồi, như vậy là đủ quá rồi. Và chúng con kêu gọi để các sa nhân bị loại bỏ. Liệu chúng ta có cần phán xét chúng không, hay là chúng có sự chọn lựa, hoặc bước vào ánh sáng, hoặc ở lại trong bóng tối? 


Trả lời của ông Kim Michaels. Đăng ngày 6/11/2016.

Tôi xin trả lời câu này vì nội dung đã được trả lời trong một bài truyền đọc trước. Vâng, các sa nhân có sự chọn lựa. Trước đây, một số người cho rằng loại bỏ sa nhân có nghĩa là dùng vũ lực để kết liễu chúng, nhưng chúng luôn luôn được phép chọn lựa là chúng có sẽ đáp ứng với ánh sáng hay không.  

Nếu chúng không đáp ứng thì đây không thật sự là một sự trừng phạt. Điều thực sự xảy ra là nếu chúng không thấy được là địa cầu đang nâng cao và chúng không muốn cùng lên cao với địa cầu, thì đây sẽ không còn là một môi trường thích hợp để chúng thăng tiến nữa. Và chúng sẽ chỉ tạo thêm nghiệp quả cho chúng thôi.    

Kỳ thực, việc loại bỏ chúng ra và đưa chúng đến một môi trường khác là một việc làm từ bi, vì ở một môi trường khác chúng sẽ có cơ hội thăng tiến tốt hơn là ở đây. Nhưng đồng thời, chúng cũng không thể kìm hãm sự thăng tiến của mọi người khác trên địa cầu.  

Nhớ lại tiền kiếp

Hỏi: Việc nhớ lại tiền kiếp có quan trọng không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary, ngày 18/7/2015, qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Los Angeles.

Đối với nhiều người, không có sự cần thiết phải nhớ lại mình là ai trong một tiền kiếp hay mình đã làm gì. Điều quan trọng hơn là hòa điệu với những cảm giác và những tin tưởng trong tiền kiếp để mà giải quyết và không nhất thiết nhớ lại từng chi tiết. Con thấy đó, khả năng quên lãng thực sự là một cơ năng quan trọng trên một hành tinh dày đặc và bạo lực như địa cầu. Đối với tuyệt đại đa số con người, kể cả những người tâm linh, việc nhớ lại tiền kiếp của mình sẽ vô cùng khuấy động vì con cũng sẽ nhớ lại bao nhiêu lần con từng bị tổn thương, bị giết hại hay bị tra tấn. Đóng lại bức màn của ký ức giữa các kiếp sống quả sẽ giúp cho hầu hết mọi người dễ dàng khởi sự lại từ đầu với tâm hồn trẻ thơ. Điều này quan trọng cho tất cả mọi người.  

Điều cũng quan trọng là không nên quá háo hức muốn nhớ lại tiền kiếp, đồng thời cũng không bác bỏ sự hiểu biết nếu con cần hiểu biết. Nhưng có nhiều người trở nên quá phấn khích muốn nhớ lại tiền kiếp đến độ họ sẽ tìm cách “đoạt thiên đường bằng vũ lực”, và điều này trong nhiều trường hợp sẽ không cho con những ký ức chính xác về kiếp trước. Có rất, rất nhiều người có ấn tượng mình là một người nào đó trong một tiền kiếp nhưng thật là không chính xác. Lý do có thể đơn giản là họ đã bị lừa gạt bởi một con quỷ hay một thày giả ở những cõi cao hơn – cõi cảm xúc hay cõi lý trí – hoặc họ đã bắt được làn sóng của một khuôn mẫu tâm lý do một người trong quá khứ phóng chiếu ra.

Con biết rõ, con có thể vào thăm một viện tâm thần và tìm thấy ít nhất một người tin rằng mình đã từng là Napoleon chẳng hạn. Nhưng đó là vì Napoleon, trong một cách nhìn nào đó, là một nguyên mẫu phóng chiếu ra một khuôn nếp tâm lý mà nhiều người có thể tự nhận mình trong đó.    

Đối với một số người, có thể họ cần tin rằng họ từng là người đó để họ bắt đầu xem xét khuôn nếp của họ. Một số khác thì tin rằng họ là người đó rồi bị mắc kẹt trong khuôn nếp và không bao giờ làm gì hơn. Nhưng đối với con là người tâm linh, điều quan trọng là con không bị mê hoặc mà cố nhớ lại tiền kiếp, hoặc nếu con có nhớ lại thì con cũng không nhất thiết phải tin rằng con thực sự là người đó. 

Điều quan trọng là con nhìn vào tâm lý của người đó, nhìn vào cái khuôn nếp của nguyên mẫu, và xét xem nó áp dụng với con như thế nào và làm thế nào con có thể thăng vượt được tâm lý đó. Con không nhất thiết cần tin rằng con là người đó và vì vậy con không bị vướng mắc.  

Một số các con hiển nhiên đã từng là những khuôn mật công chúng trong tiền kiếp. Biết được điều này có thể quan trọng đối với con. Nhưng ta vẫn đề nghị là bằng cách nhìn vào khuôn nếp tâm lý, tu tập sự không dính mắc và giải quyết khuôn nếp cũ, con sẽ ở trong tâm trạng thích hợp hơn để có một ấn tượng chính xác về con người con đã từng là trong tiền kiếp cũng như tầm quan trọng của hiểu biết này.  

Có cách cân bằng nghiệp quả khác hơn là cách “đường thẳng”

Hỏi: Con có một câu hỏi về cái Chết Thứ nhì. Khi một dòng sống trải qua tiến trình cái Chết Thứ nhì, trong trường hợp người đó không còn cơ hội đầu thai trên hành tinh này nữa do nghiệp quả quá nặng nề và phải đầu thai ở tầng tâm thức thấp nhất, thì làm thế nào người đó chuyển hóa nghiệp quả của mình?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 28/8/2014.

Ta sẽ bắt đầu với một vài nhận xét về những dòng sống không còn cơ hội đầu thai trên địa cầu. Điều xảy ra là những dòng sống đó sẽ di đến một số hệ hành tinh khác còn có tâm thức tập thể thấp hơn cả địa cầu hiện thời nữa. So với tổng số hành tinh trong vũ trụ vật chất nơi sự sống trí năng hiện diện, thì số hành tinh này không nhiều lắm. Tuy nhiên vẫn có một số mà họ có thể di tới. Rất có thể là một dòng sống, sau khi không còn đủ điều kiện để hiện thân trên địa cầu, sẽ di tới đầu thai trên những hành tinh này, nơi tất nhiên họ sẽ nhận được thêm một cơ hội để giải quyết nghiệp quả của mình.  

Điều con cần hiểu là tất cả mọi chuyện đều phải tuân theo luật tự quyết. Đôi khi có xu hướng, nhất là nơi những người rành rẽ về các giáo lý phương Đông, cho rằng nghiệp quả là một cái gì chắc nịch như đã khắc vào đá, là sự tiền định đã được sắp sẵn cho nguyên một kiếp sống, và một người có rất ít khả năng thay đổi hay khắc phục được.

Điều này, tất nhiên, không phải như vậy. Nhiều lần ta đã từng giảng dạy là nếu con thật sự chuyển vọt tâm thức mình, nếu con sẵn sàng học được bài học và nhận ra tâm thức con hạn chế con như thế nào, và nếu con sẵn lòng thực sự bước ra ngoài yếu tố này của tâm thức nhị nguyên, thì con có khả năng quân bình nghiệp quả của mình rất nhanh chóng. Điều này có nghĩa là những dòng sống nào phải đầu thai trong những cõi thấp kém vẫn có cơ hội quân bình nghiệp quả của mình, quân bình khá nhanh chóng.    

Nghiệp quả không phải là một hình phạt. Không phải là Hội đồng Nhân quả sẽ xem xét nghiệp quả của một dòng sống, ghi lại thành một hồ sơ “đường thẳng”, rồi bảo rằng bởi vì người đó đã gây ra nghiệp quả như thế này thì họ sẽ phải bỏ ra một thời gian như thế kia trước khi họ có thể trả hết nghiệp. Nói cách khác, công việc của Hội đồng Nhân quả không giống như một quan tòa trên địa cầu đưa ra bản án nhất định là bao nhiêu năm tù cho một tội trạng nhất định nào đó. 

Hội đồng Nhân quả chỉ có một quan tâm duy nhất, đó là giải phóng các dòng sống để họ có thể tiến bước trong tiến trình tự thăng vượt bản thân. Điều này có nghĩa là nếu họ đã thực sự thăng vượt một mức tâm thức nào đó thì họ sẽ nhận được sự trợ giúp để quân bình nghiệp quả rất mau chóng. Trong một vài trường hợp, thậm chí một chân sư thăng thiên có thể gánh vác và quân bình dùm nghiệp quả cho người đó, hay nói cách khác, vô hiệu hóa những xung lực năng lượng cấu tạo nên nghiệp chướng.

Hiển nhiên, một điều tương tự cũng áp dụng cho những dòng sống không thể hiện thân trên hành tinh vật lý mà sẽ đi vào cõi trung giới, tức là cõi của tình cảm. Có những dòng sống gắn bó với địa cầu, và cũng có những dòng sống gắn bó với những hành tinh khác bị kẹt trong cõi tình cảm này. Và ngay cả những người này vẫn có cơ hội chuyển vọt tâm thức mình một cách ngoạn mục.

Sự chuyển đổi tâm thức này chỉ có thể xảy ra một cách duy nhất mà thôi. Đây là những dòng sống đang học tập trong Trường đời Cay đắng, và những điều cay đắng sẽ ngày càng đắng cay hơn, bởi vì cõi tâm thức của họ là nơi tất cả mọi dòng sống khác có tâm thức thấp như họ cũng đang sinh sống, và mọi người bắt buộc sẽ va chạm, đụng độ với nhau. Vấn đề chỉ được giải quyết khi dòng sống đạt tới một điểm khi họ nói: “Thôi thế là đủ rồi, tôi không muốn cứ tiếp tục hoài như thế này nữa. Hãy cứu giúp tôi!” Khi cầu khẩn sự cứu giúp, dòng sống sẽ luôn luôn nhận được cứu giúp. Nếu họ sẵn sàng xem xét tâm thức mình và chuyển đổi tâm thức đó, thì một lần nữa, họ sẽ có thể vươn lên tương đối nhanh chóng, và thậm chí còn có thể quân bình một số rất lớn nghiệp chướng trong một thời gian ngắn hơn là nếu họ ở lại tâm thức thấp cũ.   

Con hiểu điều ta vừa nói chứ? Có nhiều người biết rõ là mình đang mang nghiệp quả và tìm cách quân bình nghiệp quả đó qua một số hành động vỏ ngoài. Chẳng hạn, nếu con là một tín đồ Cơ đốc giáo ngoan đạo hay một Phật tử thành tâm, luôn cư xử theo đúng các quy luật vỏ ngoài của tôn giáo mình, con sẽ không tạo thêm nhiều nghiệp quả mới như nếu con sống một cuộc đời ích kỷ, hiếu thắng. Nếu con tuân thủ một số quy tắc tu tập, như cầu nguyện hay tụng niệm, con có thể quân bình một số nghiệp quả. Tuy nhiên con sẽ không quân bình nhanh chóng như nếu con thực sự chuyển vọt tâm thức của con.

Điều ta muốn nói là con có hai cách đề quân bình nghiệp quả của con. Cách đầu là cách đường thẳng, con quân bình một cách lần hồi. Còn cách kia cách mạng hơn khi con thực hiện một cuộc cách mạng trong tâm thức mình, và như thế con có thể quân bình nhanh hơn vì con đã nâng tâm thức lên cao hơn hẳn cái tâm thức đã tạo nghiệp.

Ngay cả một dòng sống đang đi qua tiến trình có thể dẫn tới cái Chết Thứ nhì, tức là đang trình diện trước Tòa án Lửa thiêng, cũng sẽ được chỉ dẫn để làm sao chuyển vọt tâm thức mình đáng kể. Bất kỳ một dòng sống nào, dù cho tới giây phút chót, cũng có khả năng chuyển vọt tâm thức, quay đầu lại, nâng cao tâm thức mình và lấy quyết định mình sẽ thực sự mong muốn cải sửa. Không có gì là không thể tránh được, ngay cả trong tiến trình hay những giai đoạn chót của tiến trình dẫn tới cái Chết Thứ nhì.

Nhưng nếu dòng sống không lấy quyết định tự cải đổi và do đó sẽ bị xóa bỏ trong cái Chết Thứ nhì, thì nghiệp quả của dòng sống đó cũng sẽ được các chân sư thăng thiên xóa bỏ nhờ các thày có sẵn động lượng hướng thượng. Nói cách khác, nơi cõi thượng thăng có rất nhiều những đấng với động lượng hướng thượng mạnh mẽ khiến cho việc xóa bỏ nghiệp quả của một dòng sống đi vào cái Chết Thứ nhì không là một vấn đề quá lớn. Con có thể thấy một dòng sống, như Hitler chẳng hạn, đã tạo ra nghiệp quả khủng khiếp trong kiếp hiện thân chót của ông ta, nhưng thật sự địa cầu là một hành tinh khá nhỏ, và ngay cả lượng nghiệp quả to lớn nhất mà người ta có thể tạo ra cũng chỉ rất nhỏ so với động lượng hướng tượng vĩ đại của số đông các đấng thượng thăng.  

Động đất ở Trung quốc có là quả báo cho việc chiếm đóng Tây Tạng?

Hỏi: Thưa thày Giê-su, nữ diễn viên người Mỹ Sharon Stone đã đưa ra nhận xét trong liên hoan điện ảnh Cannes rằng trận động đất xảy ra gần đây ở Trung quốc [năm 2010] có thể là quả báo cho cách đối xử của chính quyền Trung quốc đối với dân tộc Tây Tạng. Xin thày cho biết quan điểm của thày về việc này. Ngoài ra, tại sao lời tuyên bố của cô Sharon Stone lại gây ra quá nhiều tức giận và chế nhạo đến vậy?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Trước tiên, hãy để ta nói cho thật rõ: Để có thể có một sự xoay chuyển trong tâm thức tập thể thì điều tuyệt đối cần thiết là những ai ở một địa vị được công chúng lắng nghe phải có can đảm lên tiếng, phải can đảm đưa ra những nhận xét tạo xốc hầu mọi người có thể suy nghĩ vượt ra khỏi hộp tư duy hiện thời. Trong nhãn quan này, thật không mấy quan trọng nếu các lời tuyên bố có thể được xem là chính đáng và thận trọng hay không – cho dù chúng có thể xác thực theo một nghĩa tối hậu nào đó. Bởi vì mục đích của lời tuyên bố là để lay chuyển mọi người, lay chuyển những ai có tâm chưa hoàn toàn khép kín để họ suy nghĩ một cách mới mẻ về một vấn đề.

Cho nên ta phải khen ngợi Sharon Stone và một số diễn viên danh tiếng khác như Richard Gere và Harrison Ford, đã có can đảm hỗ trợ đức Đạt lai Lạt ma cùng chính nghĩa của người Tây Tạng, đến độ họ phải chịu thiệt hại trong sự nghiệp cùng thu nhập của họ. Thật là một thực tế đáng buồn trên hành tinh này khi những ai có điều gì quan trọng để nói lên thường khó lòng được giới truyền thông lắng nghe, trong khi một số nhân vật nổi tiếng khác lại được báo chí đăng tải rầm rộ những lời nói nông cạn nhất. Vì vậy thật vô cùng cần thiết và đáng khen khi có những người đã đạt được tư thế nổi danh lên tiếng về một chính nghĩa có thể đem lại sự thay đổi.

Bây giờ hãy để ta trả lời câu hỏi, liệu trận động đất gần đây có phải là quả báo cho cách chính quyền Trung quốc đối xử với người Tây Tạng hay không. Trước hết, Sharon Stone đã can đảm bày tỏ công khai ý tưởng rằng một thảm họa thiên nhiên quả thực có thể là hậu quả của hành vi con người – một ý tưởng rất dễ đoán trước là cô ta sẽ bị người ta chế nhạo tại phương Tây. Bởi vì như Mẹ Mary có giảng, nhân loại rất cần thức tỉnh nhìn ra sự thật là có một mối liên hệ giữa trạng thái tâm thức loài người và các tai họa “tự nhiên”.

Tất nhiên một quốc gia có thể phải nếm mùi thiên tai do hành vi của kẻ lãnh đạo quốc gia đó, như được thấy qua ví dụ trận bão Katrina ở Hoa Kỳ [năm 2005]. Tuy nhiên trong trường hợp cụ thể này, thật không chính xác khi bảo rằng trận động đất này là quả báo cho cách hành xử của Trung quốc chống lại Tây Tạng. Đây là một trường hợp mà cô Sharon Stone, mặc dù ý định của cô rất tốt, đã quá chú mục nhìn thế giới từ góc cạnh của cô và đặt dân tộc Tây Tạng ở ngay trung tâm cái nhìn đó.

Sự thật là trận động đất gần đây ở Trung quốc không phải là quả báo cho cách hành xử của chính quyền đối với dân tộc Tây Tạng mà đối với một tập thể khác – một tập thể thường bị phương Tây lãng quên khi nhìn vào Trung quốc. Và nếu con bị khó khăn không nhận diện ra tập thể này, thì điều đó càng chứng minh điểm ta muốn nói. 

Sự thật là trận động đất vừa rồi là nghiệp báo cho cách đối xử của chính quyền Trung quốc đối với chính dân tộc Trung quốc!

Hiển nhiên chính quyền Trung quốc đã đàn áp người dân Tây Tạng, nhưng chẳng phải là họ cũng đã đàn áp chính nhân dân họ ở cùng một mức độ hay sao? Liệu người dân Trung quốc không xứng đáng được thương xót và giúp đỡ một cách bình đẳng để họ tự do hay sao?

Nếu điều này đã rõ thì ta sẽ nhận xét thêm về câu hỏi, liệu có bất công hay không khi người dân Trung quốc phải hứng chịu hậu quả những hành vi của chính quyền họ – khi chính quyền này áp bức họ. Thực tế là ở mọi quốc gia, chính quyền là sự thể hiện của tâm thức quần chúng. Cho nên một nước không thể có chính quyền áp bức trừ khi trong tâm thức quần chúng cũng có một xu hướng phục tùng, không chịu lãnh trách nhiệm về cuộc sống của mình lẫn về đất nước của mình.

Do đó ngay cả ở các quốc gia độc tài nhất vẫn có một mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa kẻ cai trị áp bức và quần chúng chấp nhận áp bức. Chỉ khi nào có một túc số tới hạn những con người quyết định nhận lãnh trách nhiệm về vận mạng của mình – và họ vươn lên cao hơn cái tâm thức đã khiến cho kẻ áp bức nắm được chính quyền – thì mới có một sự xoay chuyển quyết định trong hình thức chính quyền.

Và chót hết, ta sẽ nhận xét thêm về lý do tại sao lời tuyên bố của Sharon Stone lại gây ra nhiều tức giận tại Trung quốc và nhiều chế nhạo tại phương Tây đến như vậy. Lý do thật giản dị là vì ở cả hai vùng này của thế giới, có một tỷ lệ rất cao đã được nuôi dạy trong triết lý duy vật, một triết lý phản tâm linh. Theo đó, con người có thể tránh né hậu quả việc làm của mình, hoặc hành động của một người không có hậu quả gì hết ngoại trừ những gì thấy được ngay lập tức.

Như thày Maitreya có giải thích trong sách của thày [Master Keys to Spiritual Freedom], việc phủ nhận hậu quả như vậy là sự biến thái tha hóa cùng cực của quyền tự quyết. Thượng đế đã cho phép địa cầu – do độ dày đặc của vật chất ở đây – trở thành một hành tinh nơi con người có thể phủ nhận sự hiện hữu của ngài, và qua đó cũng phủ nhận các định luật của ngài. Điều này là để cho phép những dòng sống nào muốn tách biệt khỏi Thượng đế có cơ hội làm như vậy, với hy vọng là rốt cuộc họ sẽ chán chê chuyện đó và quay trở về với thực tại.

Thế nhưng một số những người đó đã tự thuyết phục mình – và cũng đang nỗ lực thuyết phục mọi người khác trên địa cầu – rằng thật ra không có Thượng đế, cho nên họ mới có cái mà họ tưởng là tự do tối hậu, tức là tự do làm bất cứ gì họ muốn mà không phải gánh chịu bất kỳ hậu quả nào. Tuy nhiên như thày Maitreya giải thích, nếu không có hậu quả thì cũng không có quyền tự quyết, bởi vì nếu chọn lựa của con không mang lại hậu quả thì kỳ thực con đã không chọn lựa gì hết.

Vì vậy thực tế trên địa cầu là sẽ có một thành phần trong quần chúng bác bỏ kịch liệt sự kiện hành vi của con người có thể đem lại hậu quả cho thân thể của hành tinh, hoặc hành tinh có thể đáp trả lại hành vi của con người qua các thiên tai. Những người đó sẽ chế nhạo một cách ác độc bất cứ ai lên tiếng phản đối thế giới quan ích kỷ và tương đối của họ, và họ càng ích kỷ bao nhiêu thì sự chế nhạo sẽ càng cuồng nhiệt bấy nhiêu. Bởi vì CHỈ CÓ lòng ích kỷ mới có thể khiến cho con người từ chối xét xem hành động hay trạng thái tâm thức của mình có thể đem lại hậu quả tác động đến những thành phần khác của sự sống. Tất nhiên, chỉ có lòng ích kỷ đã khiến cho các dòng sống đó muốn tách rời khỏi Thượng đế cùng Thân thể của ngài.

Nhưng những ai đã bắt đầu khắc phục được lòng ích kỷ của mình cũng đã bắt đầu nhìn ra là mọi người trên trái đất đều là một phần của cùng một tổng thể rộng lớn, cho nên họ đang vượt ra khỏi tâm thức của Cain để nhìn nhận rằng quả thực họ là người canh giữ cho anh em mình. Và do đó, thật là chính đáng để có một phong trào “Tây Tạng tự do”, nhưng cũng chính đáng không kém là có một phong trào “Trung quốc tự do”. Bởi vì nếu con có thể giải phóng dân tộc Trung quốc khỏi cái tâm thức áp bức-phục tùng kia, thì con có nghĩ là vấn đề Tây Tạng cũng sẽ được giải quyết cùng một lượt hay không?

Về khía cạnh này, điều vô cùng quan trọng là người tâm linh cần nâng cao cách hiểu của mình về nghiệp quả để vượt ra khỏi truyền thống xem nghiệp quả là sự trừng phạt. Nếu con có một quả bóng và cứ thổi thêm hơi vào quả bóng thì cuối cùng nó sẽ nổ tung, nhưng liệu quả bóng nổ có phải là sự trừng phạt của một Thượng đế tức giận hay không? Không. Kỳ thực nhân loại đang không ngừng đổ thêm năng lượng ở tần số thấp vào trường năng lượng của thân thể hành tinh, và một khi áp suất trở nên quá lớn thì một cái gì đó phải nổ tung để giải áp. Vì nếu áp suất không được giảm bớt một cách lần hồi qua các pháp tu tâm linh – ví dụ như các bài chú hay bài thỉnh của Mẹ Mary – thì nó sẽ bùng nổ dữ dội và nhiều người sẽ bị thiệt hại.

Và mặc dù người ta có chiều hướng chú tâm vào những thiệt hại cho con người, đây vẫn không phải là một sự trừng phạt. Đây chỉ là kết quả không thể tránh khỏi của hành vi con người. Và vì vậy nghiệp quả luôn luôn là một vị thày – nghiệp quả chỉ duy nhất là một vị thày. Nghiệp quả là một nỗ lực nhằm dạy dỗ con người rằng mọi hành động, kể cả những “hành động” tâm lý, đều mang hậu quả. Cho nên luôn luôn có sự mong mỏi là một khi con người nếm mùi hậu quả thì họ sẽ thức tỉnh, sẽ nhận lãnh trách nhiệm về bản thân mình và quyết định thay đổi.

Tất nhiên trong nhiều trường hợp, chính cái tâm thức đã khiến cho con người tạo nghiệp sẽ ngăn cản họ thấy được nghiệp báo như một bài học. Khi nào con người còn bịt tai không muốn nghe các vị thày tâm linh của mình, thì không còn cách nào khác để dạy cho họ ngoài việc cho phép họ gặt hái nghiệp báo – hết lần này tới lần khác cho đến khi họ bắt đầu tự hỏi: “Không hiểu có cách nào khác hay hơn chăng? Có phải chính tôi là người phải thay đổi? Đâu là cái xà trong mắt tôi mà tôi chưa nhìn thấy?”

AIDS có phải là hình phạt của Thượng đế không?

Hỏi: AIDS có phải là hình phạt của Thượng đế đối với người đồng tính hay không, như một số nhà truyền đạo cực chính thống tuyên bố? Con không nghĩ đó có thể là hình phạt, nhưng phải chăng Hội đồng Nhân quả đã quyết định để cho AIDS thị hiện hầu dạy cho con người một bài học về tình dục?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Con nói đúng khi con bảo AIDS không phải là hình phạt của Thượng đế. Hình ảnh một Thượng đế nóng giận và trừng phạt là một thần tượng đã được phóng chiếu vào Thượng đế vào thời Kinh Cựu ước, như ta đã giải thích ở một nơi khác. Đó là một hình ảnh giả dối, và do đó nó cũng vi phạm điều răn thứ nhì. Thượng đế chân thực là một Thượng đế của tình thương vô điều kiện. Ta đã đến địa cầu một phần là để trao cho loài người một hình ảnh mới về ngài, tức là hình ảnh một người Cha nhân từ mà mọi người đều có khả năng tiếp xúc trực tiếp.

Khi ta nói mọi người “Hãy yêu thương Chúa, Thượng đế của con, với trọn con tim, trọn tâm hồn và trọn tâm trí” (Matthew 22:37), trong cốt yếu ta muốn bảo mọi người hãy bỏ lại đằng sau hình ảnh cũ về một Thượng đế nóng giận. Làm sao con có thể yêu được một Thượng đế nóng giận sẵn sàng trừng phạt con vì một lỗi lầm dù nhỏ nhặt nhất?

Chẳng phải nói, ta buồn vì có quá nhiều tín hữu đạo Cơ đốc ngày nay vẫn còn bám giữ một hình ảnh về Thượng đế đã lỗi thời từ 2000 năm qua, lại còn đối nghịch trực tiếp với hình ảnh mà ta giảng dạy. Ta càng buồn hơn khi thấy quá nhiều tín hữu Cơ đốc sử dụng hình ảnh giả dối này để phán xét và lên án đồng loại của mình. Và ta buồn hơn nữa vì ta biết Luật của Thượng đế không thể bị nhạo báng, cho nên các tín hữu đó sẽ không tránh khỏi bị phán xét theo cùng tiêu chuẩn mà họ đã phán xét người khác.

Như ta đã giải thích suốt trang mạng này, Thượng đế đã tạo ra một quy luật cơ học sẽ gửi trả lại cho con mọi năng lượng mà con gửi vào vũ trụ. Điều này được ghi rõ trong Kinh thánh: “Con đừng bị dối gạt; Thượng đế sẽ không bị nhạo báng, vì người ta gieo gì thì sẽ gặt nấy” (Galatians 6:7). Có thể nói vũ trụ vận hành như một tấm gương phản chiếu lại cho con bất cứ điều gì con làm cho người khác. Đó chính là lý do ta đã dạy con: Hãy làm cho người khác những gì con muốn vũ trụ làm cho con.

Do đó, AIDS là một sản phẩm của nghiệp quả loài người, kết quả của việc họ không ngừng tha hóa năng lượng của Thượng đế. Trong trường hợp ở đây, sự tha hóa năng lượng xảy ra qua tình dục, và đó là tại sao nó được phản chiếu lại dưới hình thức một chứng bệnh lây truyền qua đường tình dục. Đặc biệt, việc tha hóa năng lượng dẫn tới bệnh AIDS đã xảy ra qua sự chung chạ bừa bãi, qua đó ta muốn nói đến quan hệ tình dục hoàn toàn với mục đích thỏa mãn các loại cảm xúc thấp kém (vị kỷ) mà không dựa trên cảm xúc sâu xa hơn là tình thương (vị tha).

Thật ra, dạng sinh hoạt tình dục này xuất phát từ lòng khinh rẻ đối với thánh đường xác thân, không xem đó là món quà của Thượng đế, một cỗ xe để giúp dòng sống giải thoát khỏi vũ trụ vật chất. Nó sẽ chỉ buộc chặt dòng sống hơn vào vũ trụ vật chất. Kỳ thực, nhiều người tham gia vào sinh hoạt tình dục thiếu tình thương như vậy mang một nỗi oán giận đối với xác thân mà thường thường họ không nhận ra. Và bởi vì xác thân con người được tạo bằng năng lượng của Mẹ – Ánh sáng Mẫu-Vật – cho nên đó cũng là nỗi oán giận đối với Mẹ. Đây là cùng nỗi oán giận đã khởi đầu với sự sa ngã của Lucifer, như Mẹ Mary đã giải thích trong bài giảng của thày.

Khi thật nhiều người không ngừng tham gia vào một sinh hoạt tha hóa năng lượng, sự căng thẳng sẽ ngày càng chồng chất. Con có thể so sánh với nước dâng lên đằng sau con đập. Nước tạo áp lực trên đập và cuối cùng đập sẽ vỡ ở điểm yếu nhất của nó. Đây chỉ đơn giản là một tiến trình cơ học, và nếu con biết rõ áp suất cùng các nhược điểm trên đập, con có thể tính trước khi nào và ở điểm nào nước sẽ xối vào.

Sức căng thẳng của nghiệp quả cũng giống như vậy, nó gia tăng và chồng chất khi có nhiều người sống chung chạ. Hiển nhiên chuyện này đã tiếp diễn ra từ rất lâu, cho nên có một lượng nghiệp quả to lớn đã tới hạn xuất hiện vào cuối Thời đại Song ngư. Nghiệp quả phải được cân bằng trước khi nhân loại có thể nhảy vọt vào tâm thức của Thời đại Bảo bình, và đó là tại sao bệnh AIDS đã xuất hiện vào thời điểm đó. Trong mấy chục năm qua và bắt đầu từ thập niên 1960, đã có một sự gia tăng trong tình dục chung chạ cùng nhiều hình thức đồi bại tình dục, như hình ảnh khiêu dâm, nô lệ tình dục, xâm hại tình dục trẻ em, v. v…

Tất cả những thứ đó đã tạo sự căng thẳng, bắt đầu trong cõi cảm xúc ở ngay trên cõi vật lý về độ rung. Ta đã giải thích điều này chi tiết hơn ở một nơi khác. Khi căng thẳng đạt đến mức tới hạn, nó bắt đầu đột nhập vào cõi vật chất, và đó là khi con chứng kiến một số sự kiện vật lý, như trong trường hợp này là các đợt bùng phát đầu tiên của virus AIDS. Đương nhiên, cũng giống như đập nước, đợt bùng phát đầu tiên xảy ra nơi những điểm yếu nhất, và trong trường hợp này, đó là những khu vực nơi năng lượng tình dục đang bị lạm dụng.

Ta chắc chắn hầu hết những ai không thiên vị đều biết là lối sống chung chạ khá phổ biến trong cộng đồng người đồng tính nam cũng như tại nhiều vùng châu Phi, Sự thật là Thượng đế không hề có ý định trừng phạt một nhóm người nào, và cũng không hề có sự phán xử dựa trên chủng tộc hay xu hướng tình dục. Đơn giản chỉ có một tác động máy móc khi căng thẳng nghiệp quả đạt tới một cường độ nào đó thì nó sẽ xuất hiện trong đời sống những ai dễ bị tổn thương nhất bởi dạng quả báo này. Trong trường hợp ở đây, nguyên nhân gây ra tiềm năng tổn thương là sự từ chối hạn chế các sinh hoạt tình dục chung chạ. Tại châu Phi lẫn trong cộng đồng người đồng tính nam, có những tin tưởng văn hóa cho rằng tình dục chung chạ không mang hậu quả tiêu cực nào. Người ta bịt tai không chịu lắng nghe nhiều lời cảnh báo từ cả khoa học lẫn tôn giáo cho thấy mọi hành động đều mang hậu quả.

Con có đề cập đến Hội đồng Nhân quả. Đây là nhóm các sinh thể thăng thiên trông coi sự phát triển tâm linh của nhân loại với nhiệm vụ giúp cho con người giải thoát khỏi lực kéo hướng hạ do nghiệp quả của họ. Con nên cẩn thận đừng ghép hình ảnh Thượng đế nóng giận cho Hội đồng Nhân quả. Kỳ thực, các thành viên của Hội đồng không định đọat ai sẽ là người nhận nghiệp quả nào và vào thời điểm nào. Điều đó do một định luật hoàn toàn cơ học quy định.

Điều Hội đồng Nhân quả có thể làm là gác lại một phần nghiệp của một cá nhân hay một nhóm người để tạo cơ hội cho họ phát triển tâm linh. Nói cách khác, nếu có ai đó tỏ ra thật sự sẵn lòng cải hóa trong chiều hướng tích cực nhưng lại có nghiệp báo sắp sửa cản trở bước tiến của họ, thì Hội đồng Nhân quả có khả năng gác lại nghiệp đó cho tới mùa sau. Điều này sẽ cho phép người đó tích tụ nghiệp tốt – là điều mà ta gọi là “cất giữ của cải trên trời” (Matthew 6:19-20) – để giúp họ trả quả dễ dàng hơn. 

Thế nhưng Hội đồng Nhân quả không quyết định điều này một cách tùy tiện. Tất cả được định đoạt dựa trên khả năng của dòng sống có sử dụng được cơ hội đó hay không. Nói cách khác, Hội đồng Nhân quả lượng định xem đâu là tiềm năng lớn nhất để trợ giúp sự phát triển tâm linh của dòng sống. Nếu họ sẵn sàng thay đổi thì việc gác lại một phần nghiệp chướng thường là cách tốt nhất để giúp họ. Nhưng nếu họ không sẵn lòng thay đổi, việc cho phép họ trải nghiệm hậu quả của nghiệp chướng thường là giải pháp duy nhất để đánh thức cho họ mở mắt ra với thực tại cuộc sống, tức là để họ hiểu ra là họ sẽ gặt hái những gì họ gieo.

Trong trường hợp bệnh AIDS, chuyện đơn giản xảy ra là đã không có đủ túc số những người sẵn lòng thay đổi thái độ của mình để dẫn đến quyết định gác lại nghiệp quả. Sự thể này cũng tương tự như khi Sodom và Gomorra bị hủy diệt (Sáng thế 18). Câu chuyện này trong Kinh thánh kể lại sự kiện có dân tộc kia gây ra một nghiệp chướng rất nặng nề do lạm dụng năng lượng tình dục – năng lượng này chính là lực sống, cho nên nó tạo nghiệp to lớn khi bị lạm dụng. Nghiệp mãnh liệt đến độ nó chực tràn vào cõi vật chất.

Abraham được Hội đồng Nhân quả giao trách nhiêm làm sứ giả. Ông khẩn khoản Hội đồng hãy gác lại nghiệp quả cho thành phố nếu ông tìm được đủ số người công chính. Như con có thể đoán được từ câu chuyện, Hội đồng Nhân quả đã có thể “tha thứ” cho thành phố đó nếu có đủ túc số người công chính. Nhưng khi không tìm ra số người đó thì Hội đồng không có lý do gì đình chỉ nghiệp báo. Định luật nghiệp quả – định luật của hành động và phản ứng – đòi hỏi năng lượng phải được phép chảy theo dòng tự nhiên của nó, và các thành phố đó đã bị thiên tai tiêu diệt tan tành. Ta không nói là mọi khía cạnh của câu chuyện trên đều chính xác trong nghĩa đen, nhưng nó chứa đựng một sự thật tiềm ẩn về cách nghiệp quả phản hồi như thế nào.    

Thời nay, một lần nữa lại có nghiệp quả được phản hồi do việc lạm dụng năng lượng tình dục. Tuy nhiên nó không tập trung tại một hai thành phố mà là một vấn nạn toàn cầu. Cho nên lực nghiệp phản hồi đã khoác vào hình dạng một chứng bệnh lan truyền qua đường tình dục – và tất nhiên, nó chỉ có thể lây truyền bởi những ai chung chạ tình dục.

Ta cũng muốn nói thêm rằng virus thật ra không phải là một tạo vật của Thượng đế. Thượng đế không bao giờ tạo ra bất kỳ loại virus nào. Mọi virus đều được tạo ra một cách “nhân tạo” trong các phòng thí nghiệm của tà lực ngụ nơi cõi cảm xúc hay cõi trung giới. Rồi virus có thể được chuyển vào cõi vật chất tại những khu vực nơi độ rung đã xuống thấp đến nỗi cả khu vực rung động ở cùng tần số với cõi trung giới – và đó là một số vùng ở châu Phi cùng một số thành phố lớn nơi năng lượng tình dục bị lạm dụng trầm trọng. Một khi virus đã xâm nhập vào cõi vật chất, nó có thể lây lan qua các phương tiện vật chất, mặc dù chỉ những ai mang nghiệp lực tiềm tàng mới mắc bệnh.

Tuy nhiên trong trường hợp AIDS, ta phải nói với con là virus đã băng qua lằn ranh vật lý trước tiên tại một số phòng thí nghiệm bí mật, sau đó nó đã lây lan phần nào do một cuộc thử nghiệm không kiểm soát. Hiển nhiên, những người làm chuyện này bị đui mù bởi nghiệp chướng và lòng kiêu hãnh cho nên họ dễ rơi vào vòng khuynh đảo của tà lực. Nguyên vụ này sẽ không xảy ra nếu nhân loại đã không tạo ra nhược điểm nghiệp quả, nghĩa là không có lý do gì để đổ lỗi cho những ai đã trở thành công cụ cho virus AIDS vượt hàng rào. Họ chỉ là điểm hội tụ của nghiệp chung, và con virus đã có thể băng qua bất kể. Kỳ thực, virus đã băng qua và xâm nhập vào cõi vật chất ở nhiều địa điểm khác nhau, có nghĩa là toàn bộ dịch bệnh này không khởi phát từ một nguồn gốc vật lý duy nhất.      

Vậy làm thế nào để tự bảo vệ khỏi virus này? Rõ ràng, thay đổi cách hành xử của mình là cách bảo vệ tốt nhất. Chấm dứt mọi quan hệ tình dục chung chạ, sau đó vươn lên và thay đổi thái độ của mình đối với tình dục, tìm cách chữa lành tâm lý cho không còn bất kỳ nỗi oán giận vô thức nào đối với ánh sáng của Mẹ. Như ta vừa nói, virus lây lan là một tiến trình cơ học khi lực căng thẳng nghiệp chướng điều khiển cơ chế virus tìm ra điểm yếu nhất trong xã hội. Cho nên con cần chắc chắn con không là một trong số các điểm yếu đó qua cách hành xử và thái độ tình dục của mình.

Tất nhiên, con cũng có thể dùng bài nguyện tràng hạt cho Đại thiên thần Michael để tự niêm mình lại khỏi các năng lượng tình dục tha hóa, và bài nguyện tràng hạt cho Mẹ Mary để tẩy sạch trường năng lượng của con và biến hóa các nghiệp chướng cũ. Tuy nhiên, những biện pháp đó chỉ hiệu quả tối đa nếu con thực lòng muốn cải sửa cách hành xử và thái độ của con. Nói cách khác, con hãy cho Hội đồng Nhân quả lý do tốt nhất để Hội đồng gác lại bất kỳ nghiệp quả nào có thể khiến con mắc bệnh AIDS. Các biện pháp nói trên cũng có thể giúp cho những ai đã nhiễm HIV tránh không biểu hiện các triệu chứng của căn bệnh, và nó cũng có thể giảm bớt các triệu chứng đã mắc phải. Điều ta muốn nói là – như mọi chứng bệnh khác – quả là có một cách trị liệu tâm linh cho bệnh AIDS.

Thuyết luân hồi có thể giúp các tín hữu đạo Cơ đốc như thế nào

Hỏi: Tại sao việc suy nghiệm thuyết luân hồi quan trọng đối với người đạo Thiên Chúa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Ta sẽ đề cập đến quan niệm luân hồi vì ta muốn tất cả các tín hữu của ta suy nghiệm về đề tài này. Hãy cho phép ta đưa ra những lý do tại sao ta xem đề tài này là quan trọng.

Thuyết luân hồi có khả năng giải thích rất nhiều những câu hỏi mà người tín đồ  Cơ đốc cho đến nay đã không tìm được câu trả lời. Nếu con suy ngẫm về khái niệm này và nghiệm xem nó áp dụng thế nào cho những vấn đề mà con đang đặt ra về cuộc sống và về Thượng đế, con sẽ tìm ra rất nhiều trả lời trong tim con.

Khi ta nhìn đạo Cơ Đốc ngày nay, ta nhìn thấy bao nhiêu người mộ đạo đã  thành tâm nỗ lực thực hành những lời dạy của ta qua trung gian các kinh sách và những giáo hội công truyền, vỏ ngoài. Tuy nhiên, vì kinh sách công truyền không chứa đựng chìa khóa cho giáo lý tâm truyền của ta, họ đã đặt ra rất nhiều câu hỏi không mang lời giải đáp. Vì những câu hỏi không có giải đáp này mà nhiều người cảm thấy một nỗi oán giận, phẫn uất rất sâu xa, mà nhiều khi chính họ cũng không nhận ra, đối với ta và đối với Thượng đế.  

Nhiều tín đồ Cơ đốc cảm thấy sứ mạng của Giê-su Ki-tô thuở xưa giống như một cái tát vào mặt nhân loại. Lý do là vì đạo Cơ đốc chính thống đưa ra một mục tiêu cho mọi người nhưng lại không có con đường rõ ràng nào để đạt được mục tiêu đó. Đạo Cơ đốc chính thống đưa ra mục tiêu là sự sống vĩnh cửu, nhưng lại không đưa ra con đường hợp lý nào để thực hiện sự sống vĩnh cửu. Ta hy vọng là nay con có thể nhận ra lý do chủ yếu khiến đạo Cơ đốc chính thống không đưa ra được một con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu là vì các lời dạy về quả vị Ki-tô cá nhân đã bị cắt bỏ. Chìa khóa duy nhất cho sự sống vĩnh hằng là quả vị Ki-tô nơi mỗi cá nhân.  

Để trở về với ý tưởng luân hồi, ta muốn nói là ý tưởng này có thể giúp con trả lời nhiều câu hỏi mà con chưa có giải đáp. Chẳng hạn, nhiều người đều biết là có những đứa trẻ sinh ra đã mang sẵn tật nguyền trầm trọng, dù là một khuyết tật vật lý, tình cảm hay tâm thần.

Nếu con không tin vào luân hồi, con chỉ có một chọn lựa là suy luận rằng Thượng đế đã muốn cho dòng sống đó sinh ra như vậy. Và con không khỏi phân vân tại sao Thượng đế lại muốn cho một dòng sống bước vào đời – mà dường như là cuộc đời duy nhất mà đứa bé đó sẽ trải nghiệm – với tật nguyền khắc nghiệt như thế. Khi con thêm vào đó ý niệm trừng phạt mà giáo hội chính thống chủ trương thì con chỉ còn cách suy diễn là có lẽ Thượng đế đã muốn trừng phạt dòng sống đó hay chăng. Thế nhưng làm thế nào một Thượng đế công bình bác ái lại có thể trừng phạt một dòng sống chưa có cơ hội nào để phạm tội?   

Khi con chấp nhận quan niệm luân hồi, con thấy được một lời giải thích. Mỗi con người đều đã từng có những kiếp sống trước đây. Cho nên những điều kiện mà con phải trải nghiệm trong đời này là kết quả của những nguyên nhân mà chính cá nhân con đã khởi động trong những kiếp trước. Hiểu đúng nghĩa của nó, trong luân hồi không hề có quan niệm trừng phạt. Hãy để ta giải thích chi tiết hơn cho con.

Khi Thượng đế tạo ra thế gian, ngài phán: “Hãy có ánh sáng”. Ánh sáng chỉ đơn giản là năng lượng. Mọi thứ trong toàn thể vũ trụ hình tướng được tạo bằng năng lượng của Thượng đế. Cho nên mọi việc con làm, con đều làm với năng lượng của ngài.

Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết, và con có thể quyết định mình muốn làm gì với năng lượng của ngài. Tuy nhiên, thật không công bình chút nào nếu ngài tạo ra một vũ trụ trong đó mọi người đều có quyền tự quyết, tự do làm bất cứ gì mình muốn bất chấp hậu quả cho người khác. Vì vậy Thượng đế cũng đã tạo ra luật nhân quả. Luật này này quy định rằng năng lượng mà con gửi ra vũ trụ sẽ bắt buộc gửi trở lại cho con.

Luật nhân quả là một định luật hoàn toàn khách quan. Nó cũng khách quan y như luật hấp dẫn, hay trọng lực. Nếu con nhảy ra khỏi chiếc máy bay mà không đeo dù, trọng lực sẽ khiến con rơi xuống mặt đất và toi mạng. Cái chết của con không phải là sự trừng phạt của một Thượng đế nóng giận đâu. Cái chết của con là hậu quả khách quan của một định luật thiên nhiên khiến cho mọi vật đều rơi xuống mặt đất. Luật nhân quả – hay luật nghiệp quả như nó mang tên ở phương Đông – không được Thượng đế đặt ra để mong trừng phạt con người. Nó được tạo ra như một cơ chế an toàn để ngăn chặn việc lạm dụng quyền tự quyết.

Kỳ thực, luật nhân quả là một vị thày thế chân, tạm thay thế cho vị thày chính. Vườn Địa đàng (vườn Eden) xưa kia là một lớp học được thiết lập để chuẩn bị cho dòng sống của con trước khi con bước vào đời sống trong vũ trụ vật chất. “Thượng đế” được nói đến trong Vườn Địa đàng không phải là Thượng đế trong ý nghĩa tối hậu, mà là một vị đại diện của Thượng đế, chính xác là một sinh thể tâm linh đã tình nguyện nhận lãnh vai trò làm thày giáo cho lớp học. Nhưng một số dòng sống, sau khi ăn trái cấm, đã rủ nhau lẩn trốn vị thày của mình.

Khi Thượng đế sinh tạo vũ trụ, ngài mong muốn tất cả mọi dòng sống luôn luôn là một phần của hệ thống thứ bậc trải dài từ cao đến thấp trong quan hệ thày-trò, sư phụ-đệ tử. Nói cách khác, không một dòng sống nào có thể bị bỏ rơi phải tồn tại một mình, mà ngược lại mọi dòng sống đều nhận được sự hướng dẫn thương yêu của một vị thày tâm linh. Tuy nhiên Thượng đế cũng ban cho mọi dòng sống quyền tự quyết, và ngài thừa biết một số dòng sống có thể sẽ sử dùng quyền tự do này để quay lưng lại thày mình, vì vậy mà phải có một cơ chế nào đó giống như một người thày thế chân để có thể tiếp tục giáo huấn.

Nếu một dòng sống chối bỏ vị thày tâm linh thì làm thế nào nó có thể học hỏi? Thật vậy, nó có thể học hỏi qua luật nhân quả. Luật này quy định rằng vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là một tấm gương, phản chiếu lại cho con tất cả những gì con gửi ra vũ trụ.

Nếu con gửi hận thù ra vũ trụ, năng lượng hận thù sẽ được gửi trả về ngay cửa nhà của con. Nếu con gửi tình thương ra vũ trụ, vũ trụ sẽ gửi lại tình thương cho con. Nếu Vườn Địa đàng là mái trường của giáo huấn yêu thương và tâm linh, thì luật nhân quả là mái trường giáo huấn của trường đời cay đắng. Đó là tại sao kinh Cựu ước đòi hỏi phải trả một con mắt bằng một con mắt, một cái răng bằng một cái răng. Quy luật này được ban ra cho những ai có tâm thức thấp kém đến độ họ không thể hiểu được một quy luật nào cao hơn.

Luật nhân quả được thiết lập hầu dạy con cách cư xử trong thế gian bằng cách khiến con phải trải nghiệm hậu quả của chính hành vi của con. Khi con có hành vi nào đó, hành vi của con sẽ kích hoạt một phản ứng dây truyền. Hành vi của con gửi một xung lực năng lượng ra vũ trụ, và năng lượng này sẽ nhất định gửi trả lại cho con. Tuy nhiên, vì cách vận hành của vũ trụ vật chất – mà một ngày nào đó khoa học sẽ giải thích được – năng lượng phải mất thời gian để gửi trả về cho con. Giả tỷ con giết người nhưng không ai tìm ra con là thủ phạm thì con sẽ không bị trừng phạt ngay trong cõi thế gian này. Rồi con sẽ qua đời do tuổi già mà không phải chịu bất cứ hậu quả nào của việc con làm. Nếu con chỉ sống đúng một kiếp thôi thì, quả nhiên, con đã thoát được tội giết người.  

Nói cách khác, nếu mọi người chỉ có một kiếp sống trên địa cầu thì Thượng đế đã cung cấp một lợi thế bất công cho những ai sẵn lòng nói dối và lừa đảo. Nếu con là kẻ gian dối, con có thể thoát khỏi hình phạt của tội lỗi ghê hồn nhất nếu không có ai phát hiện con là thủ phạm. Qua luật nhân quả, Thượng đế đã chỉnh sửa lại tiềm năng bất công này. Ngài đã đảm bảo không một ai có thể thoát được hậu quả việc làm của mình. Chỉ có điều là trong hầu hết các trường hợp, con sẽ không phải nếm mùi những hậu quả đó cho đến khi con tái đầu thai trong những kiếp sau.

Nhưng người ta có thể lập luận là việc trì hoãn hậu quả như vậy sẽ khiến cho con người khó học được bài học nhân quả hơn. Nếu vũ trụ có thể, chẳng hạn, giáng xuống một tia sét nẩy lửa mỗi lần có ai phạm tội thì có phải tốt hơn không? Nhưng cách lập luận này chỉ có thể áp dụng nếu con không hiểu biết gì về luật nhân quả. Và sự thiếu hiểu biết này không bao giờ là ý định của Thượng đế.

Thượng đế mong muốn con người hiểu rằng con người không bao giờ thoát khỏi hậu quả hành vi của mình. Hơn nữa, nếu con chỉ có một kiếp sống trên địa cầu và nếu mỗi lần con làm một điều gì khiến vũ trụ phải giết con chết, thì có phải là vũ trụ đã tước mất cơ hội học hỏi của con không? Và đó là lý do Thượng đế đã tạo ra một phản ứng chậm trễ, và kỳ thực, ngài làm vậy do lòng từ bi. Con thấy không, sự kiện nghiệp quả của con phải mất thời gian để bay ngược về con là một phương cách để Thượng đế, trong lòng từ bi và hồng ân của ngài, mở ra cho con cơ hội để con không phải hứng chịu hậu quả hành vi của mình.

Để hiểu trọn điểm này, con cần bỏ lại cái ý tưởng phàm phu muôn thuở cho rằng Thượng đế là một Thượng đế nóng giận có ý muốn trừng phạt con mỗi lần con vi phạm quy luật của ngài. Trên thực tế, ngài là một Thượng đế yêu thương muốn thấy con phát triển tâm Ki-tô của con. Ngài chỉ có một mong muốn mà thôi, là nhìn thấy con học được bài học của đời sống. Khi ngài trì hoãn hậu quả việc làm của con, ngài mở ra cho con khả năng là con sẽ thực sự học được bài học, từ bỏ cái trạng thái tâm thức đã khiến con làm điều sai trái, rồi nhờ đó con không phải gánh chịu hậu quả hành vi đó.

Ngay khoảnh khắc con làm việc gì sai trái, con gửi một xung lực năng lượng ra vũ trụ. Tuy nhiên, nếu con hoàn toàn hiểu ra là hành vi của mình là sai trái, và vì thế con vươn lên một mức tâm thức cao hơn khiến con không thể tái phạm, thì tuyệt đối không có ích lợi gì mà con phải hứng chịu hậu quả của hành vi. Thượng đế không muốn con bị trừng phạt mà chỉ muốn con học hỏi.

Nếu con đã học được bài học rồi thì chẳng còn lý do gì giữ con lại, ngăn cản sự phát triển của con bằng cách bắt con phải gánh chịu một hậu quả đau khổ. Nói cách khác, nếu con học được bài học của con trước khi vũ trụ phản hồi xung lực năng lượng về con, thì Thượng đế qua hồng ân và lòng từ bi, có thể tiêu hủy xung lực đó trước khi nó đập vào con trong một kiếp sau. Trong nhiều trường hợp, ngài có thể cho phép một trong những người anh, người chị tâm linh của con gánh vác nghiệp quả đó giùm con.  

Tuy nhiên nếu con chưa học được bài học thì Thượng đế sẽ để yên cho vũ trụ đáp trả lại xung lực năng lượng của con, và như vậy con lại nhận được thêm một cơ hội nữa để học hỏi qua trường đời cay đắng.

Ta biết nhiều người sẽ bảo: “Nhưng làm sao người ta có thể học được từ một tai họa nếu hoàn toàn không biết đó là hậu quả của việc mình làm?” Đây là một quan tâm chính đáng, nhưng thật không liên quan gì đến Thượng đế cũng như cách ngài thiết kế vũ trụ. Ngài thiết lập luật nhân quả nhưng đồng thời ngài cũng ban ra rất nhiều tôn giáo để dạy dỗ con người về luật nhân quả. Nếu có những người không chịu nghe lời dạy của ngài về luật nhân quả thì đây không phải là trách nhiệm của ngài. Đó chỉ là hậu quả không thể tránh khỏi khi họ cứ tiếp tục lạm dụng quyền tự quyết của họ như vậy.

Điều Thượng đế mong muốn là mọi người được hưởng sự hướng dẫn trìu mến của một vị thày tâm linh. Khi có những người quay lưng lại vị thày tâm linh và đi xuống vũ trụ vật chất, ngài đã không bỏ rơi họ một mình. Ngài đã ban cho họ những lời dạy tâm linh để giảng giải những điều kiện mà họ phải đương đầu trong thế gian. Nếu họ quyết định bỏ qua các lời dạy này thì ngài không còn cách nào khác hơn là để yên cho luật nhân quả giữ vai thày giáo.

Ngài chỉ có thể hy vọng là con người sẽ một ngày tự hỏi tại sao bao nhiêu sự việc như thế lại xảy ra cho mình. Có thể một ngày nào đó, họ sẽ suy xét và nhận ra là chính hành vi của mình đã dẫn đến các điều kiện mình đang nếm trải. Có thể một ngày, con người sẽ hiểu ra là khi họ tự hủy hoại như vậy thì chính họ cũng nắm vận mạng của họ trong tay, rằng chính họ có khả năng chuyển đổi vòng xoắn ốc đang kéo họ đi xuống. Thượng đế không thể làm gì để thay đổi tình thế mà không vi phạm quyền tự quyết của mỗi người, và quyền tự quyết thì ngài sẽ luôn luôn tôn trọng.

Một lý do khác nữa khiến cho luật nhân quả là một vị thày hữu hiệu là một khi con người đánh mất liên lạc với vị thày tâm linh, họ chỉ có thể học hỏi qua kinh nghiệm bản thân mà thôi. Chẳng hạn, con hãy tưởng tượng một người sinh ra làm vua của một quốc gia ở Âu châu thời trung cổ. Nhà vua lạm dụng quyền thế và đối xử thật tệ bạc với thần dân. Ông sống trong xa hoa lộng lẫy trong khi người dân phải chịu cảnh nghèo đói khốn cùng. Ông sống trong cung điện hoành tráng và hoàn toàn không biết tới những nỗi đau khổ của dân chúng. Trong trường hợp này, dòng sống ông vua đó sẽ chẳng học hỏi được gì về hậu quả việc làm của mình.

Tuy nhiên, như luật nhân quả quy định, dòng sống ông vua kia sẽ phải trải nghiệm hoàn cảnh này từ thế đối diện trong một kiếp tương lai. Nói cách khác, ông ta sẽ phải sinh ra làm thần dân của một ông vua bạo ngược khác. Do phải sống và trải nghiệm trực tiếp hậu quả việc làm trước đây của mình, dòng sống nay có cơ hội học hỏi, và có thể nó sẽ quyết định từ bỏ trạng thái tâm thức kia đã khiến nó hành động ích kỷ.

Tất nhiên, một số dòng sống sẽ cực kỳ khó khăn học được bài học giản dị này. Vì vậy, họ sẽ tiếp tục đầu thai trong cùng những điều kiện bên ngoài, hết kiếp này rồi tới kiếp khác, cho tới khi họ rút tỉa được bài học và chuyển sang những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, nếu dòng sống sẵn sàng quay về một giáo lý hay một vị thày tâm linh, họ sẽ nhanh chóng học được là sự ích kỷ không bao giờ giúp mình phát triển. Thậm chí, dòng sông có thể học cả bài học cuối cùng là phải buông bỏ toàn bộ tâm thức nhị nguyên mà đón nhận tâm thức Ki-tô.

Ta là Giê-su Ki-tô, và ta đã hiến mạng sống của ta để đem lại các giáo lý về tâm thức Ki-tô. Các vị thày tâm linh là những người anh, người chị của ta cũng đã nỗ lực đem lại cùng những giáo lý đó trong nhiều bối cảnh khác nhau. Trên thực tế, không một người nào đã từng sống trên hành tinh này mà không tiếp cận được giáo lý tâm linh dưới một hình thức nào đó.

Ta phải nhìn nhận là do sự hiện diện của một tầng lớp thượng tôn quyền lực và tính cách tương đối của tâm nhị nguyên, nhiều người đã không tiếp cận được một giáo lý tâm linh thuần khiết. Tuy nhiên, mỗi dòng sống luôn luôn có một điều gì đó mà mình có thể sử dụng để làm bàn đạp hầu đạt đến một hiểu biết cao hơn về cuộc sống. Nếu người đó sẵn sàng sử dụng những gì đã được ban ra, rồi nhìn vượt ra ngoài những giáo lý công truyền, thì quả thật đã có thể nhận được giáo lý cao hơn từ nội tâm.

Thông điệp chủ yếu mà ta muốn gửi cho con là Thượng đế đã làm tất cả để con dễ dàng học được bài học độc nhất mà con cần học trong đời này. Tuy nhiên, sự tương đối của tâm nhị nguyên thật là bất tận. Nó có thể nghĩ ra vô số lý do để bào chữa tại sao nó đã không chấp nhận hay không đi theo giáo lý tâm linh chân truyền.

Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Quyết định hoàn toàn nằm với con là con sẽ bước theo con đường chân chính phát xuất từ Đại đoàn chưởng giáo của Ánh sáng, hay là con sẽ bước theo con đường giả trá, con đường có vẻ đúng đắn đối với tâm nhị nguyên.

Trước khi ta rời chủ đề luân hồi, hãy để ta nói thêm về một lý do nữa tại sao ta muốn các tín hữu của ta mở tâm ra với quan niệm luân hồi. Ta muốn các con mở tâm ra với luân hồi vì luân hồi là thực tế. Khi ta hiện thân trên địa cầu, ta đã biết luật của Cha ta, và ta đã giảng dạy luật này cho những ai theo ta. Ta không bao giờ muốn các giáo hội Cơ đốc tước mất chìa khoá của hiểu biết.

Cho nên ta nói với giới chức sắc trong các giáo hội chính thống đã tước mất quan niệm về luân hồi: “Khốn cho các người là các thày thông giáo, vì các người đã tước đi chìa khóa của hiểu biết. Chính các người đã không bước vào mà lại còn ngăn cản những ai muốn bước vào. Cho nên ta không biết các người.”

Chuyện gì xảy ra khi người khủng bố chết?

Hỏi: Chuyện gì xảy ra cho người khủng bố khi anh chết? Anh có phải trả qua cái chết lần thứ nhì hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Điều gì xảy ra cho một người đã có một hành vi tàn bạo sẽ tùy thuộc vào trạng thái tâm thức của người đó. Và với điều này, ý thày không phải là trạng thái tâm thức mà người đó có vào thời điểm anh ta làm hành vi tàn bạo, mà là trạng thái tâm thức lâu dài của anh, tình trạng tâm thức nói chung của dòng sống đó, sự phát triển tâm linh của anh ta ở mức nào.

Thày mong con nhận ra rằng khái niệm về cái chết thứ hai không gắn liền với một hành động như vậy. Cái chết thứ hai xảy ra khi một dòng sống đã có đủ thời gian trong vũ trụ vật chất. Lượng thời gian này không phải là tuyệt đối vì nó không giống nhau đối với mọi dòng sống. Nó tùy thuộc vào mức độ tâm linh mà dòng sống đạt được trước khi nó sa ngã. Điều đó sẽ xác định khoảng thời gian dòng sống đó được quyền sống trước khi nó bắt buộc phải quay trở lại con đường đi lên. Vì vậy, khi một dòng sống đã được cho một thời gian nhất định để sống, nó có quyền tự do làm bất cứ điều gì nó muốn trên trái đất. Và mặc dù dòng sống làm một hành động tàn bạo nào đó, không có nghĩa là nó phải chịu ngay lập tức cái chết thứ hai hoặc sự phán xét cuối cùng sau kiếp sống đó.

Nếu dòng sống còn thời gian, nó sẽ phải đối mặt với thực tế tâm linh của hành động của mình, để nó có cơ hội nhìn thấy những hành động đó mà không nhìn thấy chúng qua phin lọc nhận thức mà nó đã có khi còn hiện thân trên trái đất. Vì vậy, nói cách khác, dòng sống có thể nhìn vào các hành động của mình mà không bị mù quáng tâm linh, cái mù quáng đã khiến nó thực hiện những hành động đó. Và do đó, dòng sống có được một cơ hội để vượt lên trên tâm thức đó, thậm chí hy vọng là nó có thể quay đầu và bắt đầu con đường đi lên và vượt ra khỏi bạo lực.

Tuy nhiên, tất nhiên, có một số kẻ khủng bố có hành vi tàn bạo bởi vì họ gần đến thời kỳ cuối cùng của thời gian được đầu thai của họ và họ cảm nhận được điều này trong tiềm thức. Và do đó, họ đã vôi hóa tâm thức và làm chai cứng trái tim của họ đến mức chúng ta không thể tưởng tượng được. Adolph Hitler là một ví dụ về dòng sống như vậy – y biết rằng thời gian của y sẽ không còn bao lâu nữa và y chai đá đến độ y hoàn toàn không đếm xỉa gì đến kết quả hành động của mình và hoàn toàn quyết tâm làm bất cứ điều gì y muốn,  trong khi y còn hiện thân.

Điều này áp dụng cho một số kẻ khủng bố, nhưng không áp dụng cho đại đa số những người này. Trên thực tế, nhiều người trong số họ thực sự là những dòng sống tâm linh, bị dụ dỗ và dẫn dắt sai lầm vào nếp suy nghĩ trắng đen vốn là nguyên nhân của mọi khủng bố, bạo lực và các hình thức tàn bạo khác. Khi con nhìn vào một hành động, con có thể nói, “Đây là một hành động tà ác” nhưng thày phải nói với con rằng trong hầu hết các trường hợp – trong đại đa số các trường hợp – hành động tà ác không phải do ác nhân thực hiện. Họ làm những điều này bởi vì họ bị lầm lạc trong tâm thức nhị nguyên, tâm thức nhìn mọi chuyện trắng đen, hoặc thậm chí trong một số trường hợp bởi tâm thức xám, tư duy xám. Và do đó họ không nhìn thấy được thực tế của hành động của họ và hậu quả của các hành động này.

Điều thường xảy ra với những kẻ khủng bố là họ được cơ hội gặp nạn nhân của mình. Ví dụ, những kẻ khủng bố lái máy bay vào các tòa tháp của Trung tâm Thương mại Thế giới đã thực sự có cơ hội gặp gỡ hầu hết các dòng sống đã ra đi, hầu hết các dòng sống đã thiệt mạng trong vụ việc đó. Và hai bên đã có cơ hội để làm công việc chuyển hóa tâm đưa tới sự hiểu biết lẫn nhau, để họ có cơ hội hiểu nhau và từ đó vượt lên trên những khác biệt bên ngoài của họ và tha thứ cho nhau.

Giờ đây, trong nhiều trường hợp, một số dòng sống không thể thực sự thừa nhận toàn bộ kết quả của những gì họ đã làm. Họ quá sốc khi nhận ra rằng họ đã thực sự giết rất nhiều người, đến nỗi thậm chí họ không thể nhìn vào sự thật mà phải chạy trốn khỏi thực tế của những gì họ đã làm. Nếu nhìn vào sự thật, họ sẽ bị hủy diệt về mặt tình cảm, hoặc ít nhất là  họ tưởng rằng nó sẽ xảy ra như thế.

Và vì vậy không phải tất cả đều có thể sử dụng một cơ hội như vậy. Nhưng thày phải nói với con rằng trong cõi tâm linh đã có một sự hòa giải rất lớn giữa nạn nhân và thủ phạm của vụ việc 11/9. Và thực sự sẽ vô cùng hữu ích cho tâm thức của hành tinh được phát triển đi lên nếu những người có thành viên gia đình hoặc bạn bè đã chết trong sự cố này cũng nỗ lực tha thứ và thông cảm, để họ có thể xóa những hồ sơ vẫn còn đó. Vì thày có thể đảm bảo với con rằng hầu hết những người thực sự bị giết đã nâng cao tâm lên để tha thứ, đã thấy rằng họ tha thứ thì tốt hơn cho trái đất, tốt hơn cho lý tưởng đánh bại chủ nghĩa khủng bố. Bởi vì nếu họ ôm chặt những tổn thương và vết thương, họ chỉ đẩy mạnh thêm cuộc đấu tranh nhị nguyên vốn là nguyên nhân thực sự của chủ nghĩa khủng bố.

Vì, như thày đã giải thích trong các bài phát biểu của thày về cuộc chiến tranh Iraq và trong các bình luận của thày về ngày 11/9, chính cuộc đấu tranh mang tính nhị nguyên đã dẫn đến sự kiện này. Và thế là những người bị dính mắc ở cả hai phía đều bị kẹt. Có thể nói, tất cả đều là nạn nhân của tâm thức nhị nguyên. Và những người vẫn đang chiến đấu trong trận chiến ngày hôm nay cũng là nạn nhân. Và cách duy nhất để thực sự phá vỡ chu kỳ đó là những người ở phương Tây – những người sống ở các quốc gia có tâm thức tiến xa hơn các quốc gia ở Trung Đông – cần vượt lên trên những tổn thương và quyết định tha thứ để họ tước đi quyền lực khỏi tay các thế lực nhị nguyên và cuộc đấu tranh nhị nguyên.

Bùa phép và bùa chú

Hỏi: Thày Giê-su nghĩ gì về những nhóm tôn giáo và tâm linh sử dụng bùa phép và bùa chú?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Một trong những lời dạy chủ chốt của ta là, “Trước tiên hãy tìm vương quốc của Thượng đế và mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con.” Tầm quan trọng của câu này nằm ở chỗ vương quốc của Thượng đế là một biểu tượng cho tâm thức Ki-tô. Khi con kết hợp ý nghĩa đó với câu, “Ai vì ta mà mất sự sống thì sẽ được sự sống,” con nhận ra là chìa khóa để thể hiện tâm thức Ki-tô là sự buông bỏ mọi dính mắc, thèm khát cùng mọi ham muốn những đồ vật của thế gian.

Con cũng nhận ra là khi con đạt được tâm thức Ki-tô, những điều thực sự quan trọng sẽ được Thượng đế bồi thêm cho con, hay nói cách khác, những hoàn cảnh vỏ ngoài trong đời con sẽ phản ánh một cách tự nhiên mục đích tâm linh của con khi con hiện thân trong kiếp này.

Khi con thực sự hiểu được tầm quan trọng của việc tìm kiếm tâm thức Ki-tô và thể hiện trọn vẹn sự buông bỏ mọi đồ vật thế gian, thì con cũng nhận ra sự vô ích hão huyền của việc sử dụng bùa phép để đạt được những thứ con muốn có trong thế gian. Điều nguy hiểm trong ma thuật đó là nếu con còn mảy may dính mắc nào đối với đồ vật của thế gian, thì con hầu như không thể tránh được xâm phạm quyền tự quyết của người khác. Điều này sẽ bắt buộc vi phạm Luật Tự quyết – và như ta đã khẳng định rất nhiều lần trên trang mạng này – là định luật căn bản nhất của vũ trụ này. Nó quan trọng đến độ khi con xâm phạm quyền tự quyết của người khác thì con cũng phải gánh chịu nghiệp quả nặng nhất mà con có thể tạo ra.  

Do đó ta mạnh mẽ khuyến cáo tất cả mọi người hãy tìm kiếm tâm thức Ki-tô thay vì tìm cách sử dụng bùa ngải, bùa phép hay bất kỳ hình thức ma thuật nào, cho dù đó là ma thuật đen hay ma thuật trắng, để đạt được những thứ mà con muốn. Khi con chứng ngộ tâm thức Ki-tô, con sẽ không bao giờ vi phạm quyền tự quyết của một người khác. Nhưng cho đến khi con chứng ngộ tâm thực Ki-tô thì con sẽ rất dễ rơi vào sự vi phạm quyền tự quyết của người khác và khi đó con sẽ gây ra nghiệp chướng vô cùng nghiêm trọng.

Thắng cái ác qua sự không dính mắc

Hỏi: Xin thày nói về vai trò của sự không dính mắc trong quan hệ với cái ác.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Không dính mắc, hay vô chấp, là một khái niệm mà lý trí phàm nhân không thể hiểu được. Đó là một khái niệm vượt khỏi lối suy nghĩ đường thẳng và tâm nhị nguyên.

Một người tầm đạo sẽ được ích lợi rất nhiều nếu hiểu ra là có nhiều khái niệm tâm linh thật sự không thể nào diễn đạt bằng lời. Lý do là vì ngôn từ là một phương tiện đường thẳng, có thể được diễn giải bằng nhiều cách – hay bị hiểu lầm – bởi tâm nhị nguyên. Cho nên để nắm được hoàn toàn – nghĩa là thể nhập – một khái niệm, con cần sử dụng các giáo lý vỏ ngoài vỏn vẹn như một bàn đạp để chứng nghiệm sự thật bên trong qua trực giác. 

Điều này có nghĩa là khi chúng tôi, các chân sư, giảng dạy một giáo lý tâm linh, như giáo lý ta giảng dạy 2000 năm về trước, chúng tôi không bao giờ có ý định đưa ra một lời dạy toàn hảo, bất khả ngộ về sự thật. Chúng tôi biết rõ là không có lời dạy nào diễn đạt bằng ngôn từ mà có thể là sự trình bày trọn vẹn của sự thật. Sự thật không thể diễn tả qua lời nói. Sự thật chỉ có thể được chiêm nghiệm và thể nhập. Có thể nói rằng con không thể biết hay hiểu được sự thật mà chỉ có thể trở thành sự thật mà thôi. Chẳng hạn như câu: “Giê-su nói với người ấy rằng: Ta là con đường, sự thật và sự sống; không ai đến với Cha mà không bởi ta.” (John 14:6)

Câu nói trên là ví dụ điển hình về điều ta đang trình bày. Bao nhiêu tín hữu đạo Cơ đốc bị kẹt trong tâm nhị nguyên đã diễn giải là con người vỏ ngoài của Giê-su Ki-tô, hay đạo Ki-tô, là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi. Nhưng ý nghĩa thực sự là tâm thức Ki-tô – vượt khỏi tâm nhị nguyên đường thẳng – là cách duy nhất để biết Thượng đế và sự thật của Thượng đế. Và con chỉ có thể biết sự thật bằng cách hợp nhất với sự thật và trở thành chính tâm Ki-tô. Không một người nào có thể đến với Cha trừ khi mình hợp nhất với cái ta Ki-tô của mình.    

Bằng cách kết hợp với cái ta Ki-tô của con, con sẽ dần dần hết dính mắc vào những thứ của thế gian. Điều này sẽ không xảy ra nếu con cố tình kiềm chế những ham muốn của con đối với các đồ vật thế gian, mà sẽ xảy ra vì cái ta Ki-tô của con sẽ giúp con nhận ra rằng sự sống là nhiều hơn những thú vui vật chất. Rồi con sẽ bắt đầu ham muốn những thứ của Tánh linh nhiều hơn những thứ của thế gian.

Nếu con so sánh điều này với một bài giảng mới đây của ta về cách đối phó với cái ác, con có thể thấy được một sự thật sâu sắc. Suốt các thời đại, biết bao người tầm đạo đã tin rằng thế giới là chiến trường cho cuộc giao tranh vĩ đại giữa hai lực lượng thiện và ác. Họ thường tin rằng mục đích của đường tu tâm linh là làm thế nào đánh bại cái ác bằng cách sử đụng vũ lực tâm linh, và thậm chí cả vũ khí của thế giới vật chất. Hay họ tin rằng bằng cách chối bỏ những thứ của thế gian, họ sẽ tự động mở cửa ra Tánh linh.

Kỳ thực, chìa khóa tối hậu – chìa khóa duy nhất – để chiến thắng cái ác là không dính mắc. Con không đánh nhau với cái ác. Con chỉ đơn giản bước xa ra. Con trở thành hoàn toàn không dính mắc với mọi biểu hiện của cái ác – kể cả ý tưởng là con phải đánh bại cái ác. Dù ông hoàng của thế gian có ném vào con bất cứ gì, con cũng từ chối không tham gia vào trò chơi của y. Con từ chối nhập vào cuộc chơi và như vậy con đứng ngoài cuộc đấu tranh cuồng đại giữa thiện và ác. Đó là vì sao ta đã nói: “”Nhưng ta nói cùng các người rằng: Đừng cưỡng chống kẻ ác, nhưng nếu có ai tát vào má phải của người, hãy đưa má bên kia cho họ luôn.” (Matthew 5:39)

Nhưng con hãy lưu ý, không dính mắc với điều ác không có nghĩa là con nhắm mắt trước điều ác. Nó có nghĩa là con thăng vượt điều ác và giúp người khác cũng làm tương tự. Nói cách khác, thay vì giao chiến với nó bằng vũ lực vật chất, con chiến đấu bằng sức mạnh tâm linh, có nghĩa là con chuyển hóa nó thành ánh sáng. Điều ta muốn nói là mặc dù cuộc giao tranh cuồng đại giữa thiện và ác có thực, giao tranh này chỉ diễn ra trong tâm của những con người bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên.  

Hay nói cách khác, chính ý thức đấu tranh mới tạo ra và duy trì cuộc đấu tranh. Và nguồn gốc của ý thức đấu tranh là sự đính mắc vào những thứ của thế gian. Khi con biểu hiện tính không bám mắc, con vươn lên khỏi cuộc giao chiến giữa hai thế lưc nhị nguyên của thế giới. Con không còn quan tâm là thiện hay ác sẽ thắng bởi vì con muốn Thượng đế thắng. Con ngộ ra là Thượng đế vượt khỏi cái thiện và cái ác do tâm nhị nguyên định nghĩa.

Ghi nhận cái ác mà không tăng cường cái ác

Hỏi: Giê-su, có thật là chúng ta thu hút những gì chúng ta cảm thấy hoặc sự rung động của những thứ đó không? Nếu vậy thì làm thế nào chúng ta có thể nhìn một vật vô thức và không thêm gì cho nó? Con đọc trên trang mạng này là Thượng đế không thể nhìn vào các cuộc chiến của chúng ta vì sẽ có hại nếu bước vào rung động đó một cách sáng tạo. Con đoán là chúng ta chia sẻ một phần khả năng sáng tạo của Thượng đế vì ngài đã tạo ra chúng ta theo hình ngài.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Một câu hỏi quan trọng chạm đến vấn đề chủ yếu trên hành tinh này. Như ta có giải thích trong trang mạng này, các dòng sống của con người được sinh tạo ra để đồng sáng tạo với Thượng đế. Từ Hiện diện TA LÀ của con, có một dòng năng lượng tâm linh liên tục xối xuống, chảy xuyên qua dòng sống của con. Con hướng năng lượng này bằng sự chú tâm của con, thậm chỉ cả sự chú tâm tiềm thức. Ánh sáng xối qua dòng sống của con sẽ khuếch đại bất cứ gì nó chạm vào, và như thế con sẽ tăng cường bất cứ gì mà con trao cho năng lượng. Con có thể trao năng lượng qua cả những dính mắc tiềm thức của con, như sợ hãi hay thù ghét.

Nếu con gửi năng lượng tâm linh của con vào một hình tướng hay một khuôn đúc nào đó trong một thời gian đủ dài, con sẽ tạo ra một lượng năng lượng nhất định trong năng trường cá nhân của con, và nó sẽ bắt đầu hình thành một lực hấp dẫn. Lực này sẽ thu hút những năng lượng tương tự như con từ môi trường chung quanh, hay nó sẽ tạo ra một ống dẫn giữa năng trường cá nhân của con với năng trường của hành tinh. Mẹ Mary có giải thích điều này chi tiết hơn trong quyển sách “Chữa lành Mẹ Địa cầu” (Healing Mother Earth).

Các tà lực trên hành tinh đã cố dùng những sự kiện ta vừa trình bày để chế ngự con người. Cách chúng làm là đun đẩy con người vào những tình huống nơi con người cảm thấy bị bắt buộc phải chọn một trong hai thái độ cực đoan, nghĩa là nếu làm thì bị thiệt mà không làm cũng bị thiệt. Ta xin giải thích. 

Thực tế đơn giản là con sẽ tăng cường bất cứ gì con phóng năng lượng vào. Các tà lực đã thiết lập vô số những sinh hoạt trên địa cầu để khiến cho con người phản ứng lại bằng đủ loại cảm xúc tiêu cực. Dù con có lo sợ điều gì, tức giận hay muốn hưởng lợi điều gì, con cũng sẽ tăng cường cho điều đó bằng cách con trao năng lượng cho nó. Do đó mỗi khi con phản ứng lại sự có mặt của cái ác bằng cảm xúc tiêu cực thì con nuôi sống cái ác – ngay cả khi con tưởng con đang làm biện pháp chống ác. 

Khi con kẹt trong tâm thức nhị nguyên, con sẽ lý luận rằng để không tăng cường cái ác, cách hiển nhiên nhất là mình hãy tránh tập trung chú ý vào bất cứ điều gì xấu ác, bất toàn. Con nghĩ, nếu mình không cho nó năng lượng thì mình sẽ không củng cố cho nó, đúng không? Nhưng vấn đề là con không thể thoát khỏi ảnh hưởng của cái ác bằng cách nhắm mắt làm ngơ trước sự có mặt của nó. Cái mà con không biết có khả năng, và sẽ, làm hại con.   

Vậy nếu con chọn phản ứng làm ngơ, hay phủ nhận, sự hiện hữu của cái ác, con vẫn bị ảnh hưởng trong tiềm thức bởi các tà lực trên địa cầu. Thật không có cách nào khác: nếu con bỏ qua không biết tới một cái bướu ung thư, con sẽ chỉ giúp nó bành trướng thêm ở dưới bề mặt.

Có rất nhiều người tâm linh và người theo tôn giáo, đặc biệt trong phong trào Thời Mới, chối bỏ thực tế của cái ác. Nhưng họ sẽ không thể tránh khỏi bị ảnh hưởng một cách vi tế bởi những tin tưởng bất toàn, nghĩa là họ trao năng lượng cho cái ác mà không ý thức được. Như ta đã nói, con có thể tăng cường cái ác bằng cách cho nó sự chú tâm của con, nhưng con cũng có thể tăng cường cái ác qua tâm tiềm thức của con. Và nếu con làm ngơ hay phủ nhận cái ác hiện hữu, các tà lực sẽ – ta nói rõ, SẼ – tìm được đường xâm nhập vào tiềm thức của con hầu đánh cắp ánh sáng tâm linh của con.

Cho nên trong tâm thức nhị nguyên, có vẻ như nếu con làm thì không ổn, mà con không làm cũng không xong. Rốt cuộc, dù con có giao chiến hay nhắm mắt trước cái ác, con cũng đang củng cố cho nó. Vậy con làm gì được đây? Con có thể làm điều mà ta đã mô tả khắp trang mạng này, là vươn lên khỏi trạng thái tâm thức nhị nguyên. Con có khả năng khoác lên tâm Ki-tô để mà nhìn vượt khỏi các đối cực nhị nguyên, qua đó con sẽ thực hành được lời kêu gọi của ta là khôn ngoan như rắn và vô hại như bồ câu (Matthew 10:16). 

Con phải khôn ngoan như rắn vì con phải biết là xấu ác có xảy ra. Đây là cách duy nhất để con tránh chấp nhận những dối trá đã xâm nhập vào mọi khía cạnh đời sống trên hành tinh này. Chỉ khi đó con mới tách khỏi tà lực và đứng riêng ra độc lập.   

Song song, con cũng cần vô hại như là bồ câu hầu con không phản ứng lại xấu ác bằng những cảm xúc tiêu cực. Con chỉ đơn giản giữ tâm cho không dính mắc, không bị quấy rầy dù chúng có ném gì vào con, như ta đã làm khi bị cám dỗ trong đồng hoang vắng (Matthew 4). Con đẩy lui cái ác và phơi bày những gian dối làm nền tảng cho nó, nhưng con không dính líu tới nó trong tình cảm hay vướng mắc vào giao tranh với nó.

Bản thân con không thể làm gì để loại bỏ xấu ác, như Đại thiên thần Michael có giàng dạy. Tuy nhiên con có thể đưa ra những lời cầu gọi sáng suốt để ủy quyền cho các chân sư thăng thiên thay mặt con đương đầu với cái ác. Khi con khôn ngoan như rắn và vô hại như bồ câu, con có thể cho phép Thượng đế trong con tiêu hủy cái ác thay vì chính con ra tay chiến đấu bằng tâm vỏ ngoài.

Đúng là Thượng đế trong nghĩa cao nhất không nhìn xuống những bất toàn trên địa cầu vì quyền năng sáng tạo của Thượng đế sẽ gia tốc cho bất cứ gì mà quyền năng ấy đặt vào. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Thượng đế sẽ tăng cường cho xấu ác hay khiến nó kéo dài mãi mãi. Nếu sự chú ý của ngài được tập trung vào một hình tướng bất toàn, quyền năng sáng tác bao la của ngài sẽ gia tốc – trong nghĩa đen – độ rung của năng lượng khiến năng lượng trở về trạng thái thuần khiết nguyên thủy của nó, và hình tướng bất toàn đó sẽ bị xóa bỏ. Đó là lý do Thánh kinh nói rằng Thượng đế chúng ta là một ngọn lửa tiêu hủy tất cả ngoại trừ chính nó.

Nhưng song song, Thượng đế cũng có những vị đại diện, là những cá thể của ngài, có thể nhìn vào những bất toàn trên địa cầu mà không khuếch đại hoặc tiêu hủy. Các sinh thể này tên gọi là chân sư thăng thiên, và công việc của chúng tôi là giúp cho những người anh em chưa thăng thiên của chúng tôi từ từ tách rời khỏi những gian dối và bất toàn trên địa cầu. 

Tại sao Thượng đế lại không chỉ tiêu hủy các bất toàn đó cho xong chuyện? Vì đó sẽ vi phạm chính Luật Tự quyết của ngài. Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho các dòng sống con người và như vậy họ có quyền tạm thời trải nghiệm những bất toàn này. Ngài cho họ thời gian để họ đạt đến kết luận là việc vi phạm quy luật của ngài cuối cùng sẽ không lợi ích gì cho họ. Và ngài còn gửi cả các chân sư thăng thiên xuống trong vai trò thày tâm linh hầu giúp nhân loại học bài học này.

Cho nên có thể nói, Thượng đế trong nghĩa cao nhất đã đơn giản rút khỏi hành tinh địa cầu sau khi loài người sa ngã. Ngài không nhìn xuống các bất toàn trên địa cầu, những các vị đại diện của ngài thì tiếp tục nhìn vào và cố gắng giúp con người vượt lên khỏi sự dối trá đang nuôi dưỡng cái ác. Như ta đã nói, chìa khóa chủ yếu để vươn lên khỏi bất toàn là phải khôn ngoan như rắn hầu có thể quyết định một cách ý thức rằng mình sẽ tách rời khỏi sự bất toàn, và song song phải vô hại như bồ câu, hầu bỏ lại sự bất toàn một cách tự nguyện và không hối tiếc. “Còn người, hãy theo ta” (John 21:22).

Chúng tôi, các chân sư, có quyền năng loại bỏ mọi xấu ác khỏi hành tinh này. Nhưng chúng tôi không thể làm được cho tới khi có đủ túc số những người đã tách mình ra khỏi xấu ác. Con không thể tách ra khỏi xấu ác nếu con không nhìn thấu những dối trá của xấu ác. Và con không thể nhìn thấu nếu con không nhìn vào xấu ác. Cho nên chìa khóa là phải nhìn với tính phân biện Ki-tô rồi quyết định thăng vượt chính cái tâm thức đã sinh sản ra xấu ác: tâm thức nhị nguyên.

Đại đoàn Ánh sáng và hàng ngũ bóng tối

Hỏi: Có chăng một huynh đoàn của Ánh sáng và một huynh đoàn của bóng tối?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Quả là có một Đoàn Huynh đệ của Ánh sáng, và cũng có một huynh đoàn của bóng tối.

Huynh đoàn của Ánh sáng từ lâu đã được gọi bằng nhiều tên khác nhau, chẳng hạn như Saints Robed in White (các vị Thánh Áo trắng), the Great White Brotherhood (Đại đoàn Chưởng giáo), the White Lodge (Bạch đoàn), the Ascended Host, the heavenly Host (Đại đoàn Thăng thiên), các chân sư thăng thiên, và nhiều tên khác nữa. Vào thế kỷ 19, chúng tôi nhận được sự miễn phép đặc biệt để làm việc trực tiếp hơn với loài người và giúp những ai sẵn sàng lắng nghe biết đến sự hiện diện của chúng tôi.   

Chúng tôi đã truyền pháp tâm linh qua trung gian nhiều tổ chức và cá nhân. Hàng ngũ bóng tối đã cố gắng ngăn trở nỗ lực của chúng tôi bằng cách đưa ra một số lời dạy nhằm lừa dối con người. Vì vậy, không phải tất cả mọi lời dạy tự xưng là của chân sư thăng thiên đều thực sự đến từ chúng tôi. Sau đây ta sẽ giải thích chúng vận hành như thế nào.   

Ta đã có giảng chi tiết hơn về đề tài này ở một nơi khác, nhưng sau đây là một phiên bản ngắn gọn. Trong đạo Lão có biểu tượng Thái cực. Biểu tượng này mô tả hai lực bổ sung cho nhau, và sự tương tác hài hòa giữa hai thái cực sinh tạo ra toàn bộ vũ trụ. Đây là một lời dạy đúng đắn và một minh họa tuyệt vời của các nguyên lý thiêng liêng.

Con hãy để ý quan niệm chủ chốt ở đây: hai lực được mô tả trong Thái cực không loại trừ lẫn nhau. Cho dù hai thái cực có phẩm chất khác nhau, những phẩm chất này không đối nghịch với nhau. Cho nên khi hai lực, hay hai thái cực, kết hợp lại, sự tương tác đó tạo ra một khía cạnh mới cho thực tại. Tạo vật mới này hoàn toàn phù hợp với các quy luật của Thượng đế, và do đó nó bền vững. Nó sẽ không tự hủy diệt. Con cũng để ý thấy là hai thái cực không mang giá trị tương đối với nhau, và nếu bảo rằng một bên là thiện đối lập với bên kia là ác thì sẽ thật là vô nghĩa.

Các sinh thể sa ngã, hay sa nhân, đã tự đặt mình ra ngoài thái cực sáng tạo nói trên. Chúng đã nổi loạn chống lại dòng sáng tạo của Thượng đế, và chúng chỉ làm được vậy bằng cách bước vào tâm thức tách biệt, tâm thức nhị nguyên. Trong trạng thái tâm thức này, chúng không thể nhìn thấy một phẩm chất nào hoàn toàn không có đối nghịch. Cho nên hàng ngũ bóng tối không có khả năng nhìn thấy cái thiện tuyệt đối, hay vô điều kiện, của Thượng đế. Chúng chỉ thấy được cái thiện tương đối và cái ác tương đối. Nhưng cả hai thì đối nghịch lại với nhau và cùng khởi lên qua tâm thức nhị nguyên.

Nếu con đặt cái thiện tương đối và cái ác tương đối vào với nhau, chúng sẽ hủy diệt lẫn nhau, có nghĩa là chúng sẽ không bao giờ sáng tạo được một điều gì bền vững. Thật sự, thiện và ác tương đối sẽ luôn luôn bị khóa chặt vào thế phải đối chọi với nhau. Hàng ngũ bóng tối muốn con tin rằng con cần phải gia nhập cuộc đối đầu đó, và con cần phải phải giúp bên thiện tương đối chiến thắng bên ác tương đối. Tất cả chỉ là một màn hỏa mù, bởi vì nếu cái thiện tương đối tiêu diệt được cái ác thì đồng thời nó cũng tiêu diệt chính nó. Thế nhưng cái thiện tương đối sẽ không bao giờ tiêu diệt được cái ác tương đối, và bởi thế cuộc chiến đấu sẽ tiếp tục mãi mãi.   

Điều con thấy được qua phân biện Ki-tô là hàng ngũ bóng tối đã hình thành hai đối cực ngay trong bọn chúng – bởi vì chúng bắt buộc PHẢI làm như vậy một khi đã ở trong nhị nguyên. Một trong hai đối cực này là cái mà mọi người đều thấy được là hắc đoàn, là những sinh thể có dáng vẻ đen tối, nghịch loạn rõ ràng. Đây là những sinh thể tìm cách lừa gạt con người tin rằng xấu ác chỉ đơn giản là trái nghịch của Thượng đế, và nếu xấu ác chiến thắng thì chính nghĩa vẫn được hưởng lợi. Chúng cố dụ dỗ những người quyền lực, chẳng hạn qua vũ lực thô bạo, qua ma thuật đen, trò phù thủy hay cúng lễ Satan. Chúng tìm cách giúp cho cái ác tương đối chinh phục địa cầu.   

Đối cực thứ hai là cái mà chúng tôi gọi là hàng ngũ giả trá, hay ngụy đoàn, là những sinh thể trông không có vẻ gì là đen tối. Ngược lại là đằng khác, chúng còn tỏ ra hoàn toàn vô hại, thâm chí tâm linh. Kỳ thực, một số những sinh thể này còn tự xưng mình là chân sư thăng thiên, nên chúng là kẻ mạo danh. Một phần đáng kể những bài đồng bóng từ những người tự xưng là chân sư thăng thiên mà con tìm thấy trên mạng internet là của những sinh thể này. Có một cách để nhận diện chúng là nhận ra rằng chúng tự coi mình là kẻ thù của các sinh thể bóng tối, và chúng sẽ lôi kéo con vào cuộc chiến đấu đó qua một lối lý luận vô cùng xảo trá mà chúng tôi gọi là lý lẽ của rắn. Chúng tìm cách giúp cho cái thiện tương đối chinh phục địa cầu bằng cách tiêu diệt xấu ác.

Một điểm khác biệt chính yếu khác giữa Đại đoàn Ánh sáng với hàng ngũ bóng tối là Đại đoàn Ánh sáng luôn luôn tìm cách kết hợp, trong khi hàng ngũ bóng tối tìm cách chia rẽ. Sự thật tâm linh căn bản nhất là toàn bộ vũ trụ được tạo ra từ bản chất của Thượng đế, tức năng lượng của Thượng đế. Cho dù hình dạng vỏ ngoài có là gì đi nữa, tất cả mọi thứ đều được tạo bằng bản thể của Thượng đế. Vì vậy, cho dù hình dạng vỏ ngoài có khác thì vẫn có một sự hợp nhất nền tảng vượt lên trên mọi sự khác biệt. 

Chìa khóa chủ yếu cho sự phát triển tâm linh là con người phải vượt qua ảo tưởng cho rằng có cái gì đó tách biệt khỏi Thượng đế, kể cả chính mình. Con người chỉ thực sự có một vấn đề duy nhất là sự cảm nhận mình tách biệt khỏi Thượng đế. Chìa khóa của phát triển tâm linh, chìa khóa của giác ngộ, là vượt qua ảo tưởng này của Maya.

Hàng ngũ bóng tối sẽ làm tất cả những gì chúng có thể nghĩ ra để ngăn cản con người vượt qua được ảo tưởng này. Chúng đã chọn đứng riêng ra khỏi Thượng đế. Một số còn tin rằng chúng đã tìm ra cách tạo dựng một thế giới nằm ngoài Thượng đế hay chống lại Thượng đế.

Kỳ thực, không có gì ngoài Thượng đế. Thượng đế là tất cả hiện hữu, và bản thể của Thượng đế ở khắp mọi nơi. Nếu Thượng đế ở khắp nơi thì làm sao có nơi nào mà không tìm thấy Thượng đế? Thượng đế thực sự ở mọi nơi, nhưng vì một số sinh thể đã được ban quyền tự quyết, chúng có thể tạo ra ảo tưởng là chúng tách rời khỏi Thượng đế. Nhưng ảo tưởng này chỉ hiện hữu trong tâm chúng thôi, và nó chỉ có thể tiếp diễn khi nào chúng còn trao sức mạnh cho nó bằng cách bám lấy ảo tưởng.

Thông điệp chính yếu của trang mạng của ta là khuyến khích mọi người bước đi trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân. Khi con bước trên đường này, con sẽ lần hồi có khả năng nhìn xa hơn ảo tưởng cho rằng con và mọi thứ trong thế gian tách biệt khỏi Thượng đế. Con đạt được khả năng nhìn thấy sự hợp nhất đằng sau sự đa dạng. Con cũng bắt đầu có nhận biết trực giác, sự phân biện nội tâm, cho phép con nhìn thấu qua các ảo ảnh và dối gạt của hàng ngũ bóng tối.

Con đừng lầm, các thế lực đó đã tồn tại từ rất lâu và chúng đã học được cách cư xử tương đối khôn khéo. Chúng rất lành nghề trong việc tạo ra những tư tưởng hay hệ thống tín ngưỡng chứa đựng nhiều sự thật, nhưng đâu đó chúng lại bỏ vào một vài câu nhằm duy trì mãi mãi ảo tưởng tách biệt. Trong một số trường hợp, cách duy nhất để phân biệt giữa ánh sáng và bóng tối là cảm thấy sự rung động. Khi con bước trên đường quả vị Ki-tô cá nhân, con sẽ học được khả năng đọc được độ rung và nói được sự khác biệt giữa ánh sáng và bóng tối.     

Nếu con chưa có khả năng trực giác này, trang mạng này có đăng tải một số dụng cụ để giúp cho tiến trình học tập của con nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, cũng sẽ rất hữu ích nếu con luôn nhớ rằng hàng ngũ bóng tối tìm cách chia rẽ trong khi Đại đoàn của Ánh sáng luôn tìm cách kết hợp.

Ghi chú của Kim Michaels: Nếu bạn muốn đọc những bài giảng chi tiết và đầy đủ về đề tài này, tôi xin giới thiệu quyển sách, Master Keys to Spiritual Freedom, do thày Maitreya truyền đọc. Trong đó bạn sẽ tìm thấy lời mô tả chi tiết nhất về sự kiện sa ngã.

Khả năng ngoại cảm và thị hiện

Hỏi: Con xin có câu hỏi cho thày Maitreya. Trong quyển sách (Master Keys to Spiritual Freedom), thày có mô tả những sinh thể đã sa ngã xuống bầu cõi thấp hơn là “đã thăng một bầu cõi”. Và thày mô tả một số trong nhóm đó đang ở đây, là họ có một thành đạt tâm linh cao độ nhưng một trạng thái tâm thức thấp kém. Con bị bối rối bởi sự khác biệt giữa thành đạt tâm linh và trạng thái tâm thức. Con xin thày làm rõ điểm khác biệt này.   


Trả lời của chân sư thăng thiên Maitreya qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Khi một dòng sống tăng triển trên đường đạo, nó sẽ có một số thành đạt. Đó có thể là sự thành đạt về cách điều khiển cõi vật lý, sử dụng các quy luật chi phối cõi đó. Do điều này mà một dòng sống có thể có khả năng, chẳng hạn, thị hiện một số hiện tượng ngoại cảm hay thậm chí cả vật chất. Con đã từng thấy trường hợp những người có khả năng ngoại cảm, hay họ có khả năng làm hiện ra thể chất vật lý. Tuy nhiên, những người này không có sự thành đạt tâm linh đích thực.

Điều cần hiểu thực sự ở đây là có những người có thể thành đạt tương đối về mặt sử dụng tâm trí để chế ngự vật chất, nhưng họ lại không có một mức thành đạt tương đương trong con tim – có nghĩa là họ sẽ sử dụng thành đạt của họ duy cho những mục đích vị kỷ. Thanh đạt trong tim có nghĩa là sử dụng thành đạt để nâng cao Tất Cả thay vì chỉ nâng cao chính mình so với người khác. 

Con thấy được sự khác biệt chứ – luôn luôn có rủi ro là mặc dù một người đã đạt được một mức thành thạo nào đó để điều khiển cõi vật chất, khả năng này có thể bị sử dụng cho những mục đích vị kỷ thay vì để thăng tiến cái Ta lớn rộng mà mọi sự sống đều là.  

Trả lời bổ túc của chân sư thăng thiên Giê-su ngày 15/9/2007.

Điều quan trọng là con cần nhận ra sự khác biệt giữa một thành đạt vỏ ngoài và trạng thái tâm thức nội tâm cao vượt. Như khoa học đã chứng tỏ, vũ trụ vật chất vận hành theo một số quy luật máy móc trên bản chất. Có một số quy luật khác cao hơn mà khoa học chưa khám phá ra, và một người nào đó có thể đạt được sự hiểu biết và một trình độ tinh thông nào đó để điều khiển những quy luật này mà đã không thanh lọc tâm thức vị kỷ của mình. Cho nên một trạng thái tâm thức cao vượt có nghĩa là một mức vị kỷ rất thấp nơi một người đã thăng vượt ảo tưởng của ngã tách biệt.  

Nói cách khác, khả năng của tâm trí hầu làm chủ vật chất có một khía cạnh khá máy móc, và một người có thể đạt được một số khả năng trên vật chất, tuy giới hạn nhưng vẫn có vẻ ấn tượng đối với người thường. Cho nên người đó có thể sản xuất ra những “điềm báo và hiện tượng kỳ lạ” mà không có trái tim trinh trắng là dấu hiệu của một trạng thái tâm thức cao vượt.     

Điều mà thày Maitreya đề cập trong sách của thày là những sinh thể bị sa ngã từ những bầu cõi cao hơn mặc dù họ đã đạt tới những địa vị vỏ ngoài quan trọng trong xã hội nơi các bầu cõi đó. Vì vậy họ có sự hiểu biết và thành đạt vỏ ngoài, nhưng họ chỉ sử dụng để tự nâng mình lên so với người khác thay vì để phụng sự mọi người và nâng cao Tất Cả. Lý do là vì, tất nhiên, các dòng sống này đã chưa khắc phục được tâm thức nhị nguyên, và họ vẫn xem mình là sinh thể tách biệt đứng riêng khỏi mọi người – và như thế, họ có tiềm năng khoác lấy vẻ ngoài là người tốt đẹp hơn mọi người khác. Cách xét đoán giá trị và sự so sánh vô nghĩa này chỉ có thể xảy ra cho những ai còn bị mù quáng bởi nhị nguyên.   

Một số dòng sống này vẫn còn hiện thân trên địa cầu hiện nay, và một số trong nhóm đó đã đạt tới những địa vị cao cả trong xã hội, hay họ đã leo lên được chỗ lãnh đạo tâm linh. Khi con lượng định bất kỳ vị thày tâm linh nào, điều quan trọng là con cần xem xét ý định của người đó. Một thước đo là nhìn vào cách người đó biểu đạt hiểu biết hay/và khả năng của mình. Họ có làm vậy để nâng cao mọi người hay họ làm vậy để nâng cao ngã tách biệt? Một cách để lượng định là cân nhắc những điểm sau đây: 

  • Vị thày có bày tỏ khả năng của mình để tạo ra một kết quả sẽ thực sự trợ giúp học trò hay đó là một sự phô trương “phù phiếm”? Chẳng hạn, nuôi ăn người nghèo và chữa lành người bệnh là giúp đỡ tha nhân, trong khi bẻ cong cái thìa hay thổi tro từ bàn tay sẽ không giúp ích được ai.
  • Vị thày có dùng khả năng mình để chứng tỏ rằng mọi người đều có tiềm năng đạt được sự điều ngự của tâm thức trên vật chất, hay là chỉ để đưa mình lên cao hơn mọi người? 

Nhưng ngay cả ở đây, sự phân biện cũng rất cần thiết. Người ta vẫn có thể làm một việc gì đó hữu ích – như chữa bệnh chẳng hạn – với một ý định nâng cao cái ngã tách biệt. Điều này có thể thấy được nơi một số nhà truyền giáo đạo Cơ đốc chữa lành người bệnh để chứng tỏ là mình có vẻ hay hơn người khác, hay để chứng tỏ tính ưu việt của nhãn hiệu Cơ đốc của mình – nhưng làm vậy thì thật xa rời giáo lý đích thực của ta.      

Ta đã từng cảnh báo về điều này trong một số lời dạy. Chẳng hạn trong câu này, ta có nói rõ là một số hoạt động có thể bị lạm dụng bằng vũ lực: “Và từ ngày Giăng Báp-tít đến nay, nước thiên đàng đã phải chịu bạo lực, và kẻ bạo lực chiếm lấy bằng vũ lực” (Matthew 11:12)

Trong câu sau đây, ta cảnh báo về những kẻ đưa ra những điềm báo và hiện tượng kỳ lạ để lôi kéo quần chúng theo mình: “Bởi vì nhiều ki-tô giả và tiên tri giả sẽ dấy lên, sẽ đưa ra những điềm báo và hiện tượng kỳ lạ to lớn, và nếu họ có thể, họ sẽ đánh lừa ngay cả những người được chọn”. (Matthew 24:24)

Chót hết, ta đã cảnh báo đừng nên theo những kẻ tự xưng mình là lãnh đạo nhưng lại đui mù vì họ chưa thấy được sự thật thiết yếu của con đường tâm linh, tức là ngã tách biệt chỉ là ảo ảnh: “Hãy để yên cho họ: họ là người mù lãnh đạo người mù. Và khi người mù lãnh đạo người mù, cả hai sẽ đều té xuống rãnh.” (Matthew 15:14)   

Có con rãnh ở cả hai bên con đường – mà ta gọi là con đường rộng dẫn tới hủy diệt – biểu tượng cho hai đối cực nhị nguyên. Nếu con đi theo những lãnh đạo mù tìm cách nâng cao ngã tách biệt thay vì để cho ngã tách biệt đó chết đi trên thập tự giá, con sẽ kẹt lại trong nhị nguyên thay vì bước đi trên con đường hẹp và thẳng – là con đường không có nhị nguyên vì đó là đường độc tuyến – sẽ dẫn đến tâm thức Ki-tô.

Lời dạy căn bản về những gì xảy sau khi chết

Hỏi: Giê-su kính yêu, khi một linh hồn đi qua sự chuyển tiếp, xin thày giải thích linh hồn đi ngay về đâu và nó trải nghiệm những gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Không có câu trả lời chung cho câu hỏi này vì tất cả tùy thuộc vào tâm thức của dòng sống. Ta khuyên con nên đọc một số sách trong số rất nhiều sách về trải nghiệm cận tử (near-death experiences) và con sẽ nhanh chóng thấy được tâm thức của một người ảnh hưởng lớn lao đến nơi chốn mà dòng sống sẽ đi đến sau khi tách khỏi xác thân. Ta cũng đã có đưa ra lời giải thích căn bản về linh hồn/dòng sống trong một câu trả lời khác (bài về phân mảnh linh hồn) và con sẽ được lợi ích nếu con đọc bài đó trước khi con đọc tiếp bài này.

Có một số cách, hay đường hướng chung mà dòng sống có thể đi theo. Để hiểu điều này, con cần đọc giáo lý về bốn tầng cấp của vũ trụ vật chất.

  • Các dòng sống ở trong một trạng thái tâm thức tiêu cực sẽ tạo ra một từ lực thu hút và bị hấp dẫn vào cõi cảm xúc. Cõi này có nhiều cấp độ, và những cấp độ thấp nhất rất tương tự như cái mà nhiều người xem là địa ngục. Dòng sống nào đã tham gia vào các hoạt động phản tâm linh, chẳng hạn như thờ Satan, các hình thức phù thủy, ma thuật, tội ác hay bạo động, đi vào những cấp độ thấp nhất, thường gọi là cõi trung giới. Dòng sống nào bị tràn ngập bởi giận dữ hay hận thù, bởi hối hận hay những loại tình cảm tiêu cực khác, đi vào những cấp độ cao hơn của cõi cảm xúc. Các dòng sống đã tự vận cũng đi vào đấy. 
  • Một số dòng sống rất gắn bó với cơ thể vật lý hay đời mình trên địa cầu, sẽ cảm thấy khó lòng buông bỏ những dính mắc này đối với xác thân hay đối với thế gian, cho nên họ sẽ ở lại cấp độ cao nhất của cõi cảm xúc, là cõi gần nhất với thế giới vật chất về rung động. Trên hành tinh này có những nơi chốn vật lý có độ rung thấp đến độ hai cõi vật lý và cảm xúc gần như chồng chập lại – hoặc có thể gọi đó là những cánh cổng giữa các cõi với nhau. Các dòng sống này trở thành những sinh thể mà một số nhà tâm lý cũng như một số giáo lý tâm linh gọi là hồn không xác. Hồn không xác đi lang thang khắp dải tần số của vật chất và thường bám vào những người đang hiện thân. Và điều này khiến cho những người này gặp phải những vấn đề tâm lý, thậm chí cả vật lý, mà hồn không xác đã phải gặp trong kiếp đầu thai vừa qua của nó.    
  • Những người vô cùng vật chất đã phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế sẽ có khuynh hướng tụ tập ở cõi lý trí. Ở cõi này có nhiều cấp độ nơi dòng sống sẽ tham gia vào các sinh hoạt có tính cách rất trí thức. Những người loại này có khả năng vươn lên cao hơn nhưng họ lại không làm vậy chỉ vì họ không tin là họ có thể đi đâu khác.
  • Các dòng sống tâm linh hơn đi vào cõi bản sắc nơi chúng tôi, các chân sư thăng thiên, có những khóa nhập thất trong cõi ether. Đây quả là điều lý tưởng và thật ra cũng là điều đã được trù định cho mọi dòng sống. Ở đây họ sẽ nhận được sự hướng dẫn và hàn gắn để chuẩn bị cho kiếp hiện thân kế tiếp – hay trong một số trường hợp, cho việc thăng thiên.   

Vậy con đã thấy, có nhiều cấp độ trong các cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc, và do đó không có trải nghiệm nào gọi là điển hình. Các cõi phi vật lý linh hoạt và lưu động hơn thế giới vật chất rất nhiều, và vì thế sự trải nghiệm của dòng sống sẽ luôn luôn thích nghi với nhu cầu cá nhân của nó. Tuy nhiên, nếu con tìm hiểu các trải nghiệm cận tử, con sẽ thấy là nhiều dòng sống kinh qua cùng những giai đoạn tổng quát giống nhau: 

  • Dòng sống tách khỏi cơ thể và thường bay bổng ở trên cơ thể.
  • Dòng sống nhìn thấy một ánh sáng rực rỡ và di chuyển vào ánh sáng đó.
  • Dòng sống đi qua một đường hầm và đến nơi có ánh sáng rực rỡ, ở đó nó thường gặp thân nhân đã quá cố, hoặc những sinh thể tâm linh mà nó đã có sự liên hệ.
  • Dòng sống được thoải mái như ở nhà và thường kinh qua một sự duyệt xét kiếp sống vừa qua của mình.

Trong trường hợp những người có trải nghiệm cận tử, họ có sự chọn lựa là trở về hiện thân hay không. Hiển nhiên họ đã chọn giải pháp này, và đó là lý do họ mới kể lại được kinh nghiệm cận tử của họ. Tuy nhiên, nhiều dòng sống không có sự chọn lựa đó, giản dị là vì họ đã tới thời và họ phải bỏ lại cuộc sống, tiếp tục bước tới.

Sau khi kinh qua giai đoạn tiếp đón sơ khởi vào cõi tâm linh, dòng sống thường bước tiếp vào những trung tâm học hỏi hay chữa lành nơi họ sẽ chuẩn bị cho kiếp đầu thai tới. Trong một số trường hợp, dòng sống sẽ trở lại tái đầu thai rất nhanh chóng. Và trong những trường hợp khác, dòng sống có thể sẽ không tái đầu thai trong một thời gian rất dài, có thể cả ngàn năm nếu đo theo thời gian trên địa cầu. Một số dòng sống khác thậm chí còn đầu thai ở hành tinh khác trước khi trở về địa cầu hiện thân.

Một số dòng sống tiến hóa cao độ tới mức họ không cần phải tái đầu thai nữa, và trong trường hợp này họ có một số chọn lựa. Nếu dòng sống đã cân bằng mọi nghiệp quả, giải quyết mọi vấn đề tâm lý và đã làm tất cả những gì nó muốn làm trên địa cầu, nó có thể thăng thiên ngay tức khắc vào cõi tâm linh nơi nó có thể trải qua một thời gian học hỏi và hòa nhập với cái ta tâm linh của nó, hay Hiện diện TA LÀ. Sau đó, dòng sống có thể chọn ở lại với địa cầu, phụng sự như một chân sư thăng thiên, như một vị thày tâm linh, để giúp những người chưa thăng thiên phát triển tâm linh. Những dòng sống chọn giải pháp này được biết tới dưới danh hiệu bồ tát. Những dòng sống còn lại không chọn ở lại với điạ cầu và di chuyển tới những cõi khác của thế giới tâm linh, nơi họ sẽ tiếp tục học hỏi và tăng trưởng, hay ngay cả đảm nhiệm một số trách vụ tâm linh.

Nếu một dòng sống chưa cân bằng hết nghiệp quả (nhưng đã cân bằng đủ để khỏi phải trở về tái đầu thai, nghĩa là hơn 51%), nó sẽ cần cân bằng khối nghiệp này trong cõi bản sắc. Điều này khó khăn hơn rất nhiều so với việc cân bằng nghiệp quả khi còn đầu thai, và vì vậy việc nỗ lực cân bằng nghiệp khi còn hiện thân trên địa cầu thật là quan trọng. Thật vậy, con sẽ thấy khắp các kinh sách viết rằng ta chủ trương một cách phát triển tâm linh nhắm trực tiếp vào việc giúp con người cân bằng tối đa nghiệp quả của mình trong một thời gian ngắn nhất.  

Điểm này sẽ giải thích một số lời dạy của ta mà nhiều người coi là quá cấp tiến, thậm chí cực đoan. Chẳng hạn, hẳn con nhớ ta bảo người giàu có kia đem cho hết tiền bạc cho người nghèo (Matthew 19:16-26). Ta không nói là mọi người phải đem cho hết của cải của mình, tuy nhiên đối với dòng sống đặc thù đó và đối với nhiều dòng sống khác trong cùng hoàn cảnh, cách duy nhất họ có thể cân bằng mọi nghiệp quả của mình trong phần đời còn lại là đem cho hết tài sản và đặt trọng tâm đời mình vào những hoạt động tâm linh.

Tất nhiên, mỗi người sẽ mỗi khác, mỗi người có sứ mạng khác nhau và nghiệp quả khác nhau. Vì vậy, ta không muốn mọi người nắm lấy lời nhận xét trên để áp dụng cho bản thân mình. Tuy nhiên khi lớn tuổi hơn, điều có thể vô cùng lợi ích là họ bắt đầu nghĩ xem họ cần làm gì cho phần đời còn lại của mình hầu cân bằng tối đa nghiệp quả và hoàn thành sứ vụ của mình trong kiếp này. Nếu họ sử dụng bài tập để hòa điệu nội tâm với ta cùng những dụng cụ tâm linh khác, ta có thể cam đoan là hầu hết sẽ nhận được sự hướng dẫn nội tâm đó, với kết quả là họ thường thay đổi cuộc sống một cách đáng kể, nỗ lực tinh tấn tối đa và tận dụng cơ hội mà sự sống đem lại. Một trong những cách hữu hiệu nhất để cân bằng nhanh chóng những khối nghiệp chướng to lớn là sử dụng những bài thỉnh và bài chú.

Ta xin nói ở đây là cho dù trạng thái tâm thức của dòng sống có thế nào đi nữa, mỗi dòng sống sẽ rời khỏi cơ thể vật lý sau khi cơ thể chết đi. Khi nó đã ra khỏi cơ thể – thường là ngay sau khi chết – nó sẽ thấy được ánh sáng dẫn nó tới cõi tâm linh. Cho nên mọi dòng sống khi rời xác thân đều có cơ hội đi đến cõi tâm linh – không có ngoại lệ. Mổi dòng sống đều có cơ hội đi lên cao hơn.

Tuy nhiên, như ta đã giải thích khắp trang mạng này, mọi sự trong thế giới này đều tùy thuộc vào ý muốn tự quyết của cá nhân dòng sống. Và nếu nó từ chối không bước vào ánh sáng, nó sẽ phải ở lại một trong những cấp độ thấp hơn tùy theo trạng thái tâm thức của nó. Đây là lý do tại sao chúng tôi, các chân sư, đã đỡ đầu cho rất nhiều trải nghiệm cận tử. Chúng tôi muốn mọi người hiểu rằng mọi dòng sống đều có sự chọn lựa để bước vào ánh sáng và nhận được hàn gắn và học hỏi.

Tuy nhiên để vào được ánh sáng, dòng sống phải chọn làm điều này sau khi nó vừa tách khỏi thân xác. Và trạng thái tâm thức của nó ngay trước khi chết sẽ ảnh hưởng lớn lao đến khả năng chọn lựa ánh sáng của nó. Như ta đã có giải thích, một số người quả thật đã tự đặt mình vào tư thế khiến dòng sống của mình gần như không làm sao chọn được ánh sáng. Nhưng họ có thể thay đổi sự thể này nếu họ chịu chuyển đổi tâm thức. Ngay cả khi sự chuyển đổi này xảy ra chỉ năm phút trước khi chết, dòng sống cũng sẽ được trợ giúp lớn lao sau khi chết.

Ta cũng xin nói là ta thực sự khuyên mọi người hãy tìm hiểu về các trải nghiệm cận tử và thay đổi cách nhìn của mình về cuộc sống, về dòng sống và về cái chết. Tuy nhiên, nếu con đã sống một cuộc đời tâm linh, bất kể con theo tôn giáo nào (hay ngay cả con không chính thức theo một tôn giáo nào), con không có gì phải lo sợ trong cái chết. Bài học duy nhất mà con nên rút tỉa từ tất cả các trải nghiệm cận tử là sự chết không phải là một tiến trình khó chịu mà là một cảm giác giải thoát tràn trề. Vì vậy, nếu con đã thực tâm cố gắng là một con người tốt thiện cho dù con không theo đạo nào, thì con không có gì để lo sợ cái chết. Quả thật đó sẽ là một kinh nghiệm thú vị cho dòng sống, miễn là dòng sống chọn bước vào ánh sáng và đi tiếp đến cõi cao hơn.

Cách nào tốt nhất để người tầm đạo diễn giải giấc mơ?

Hỏi: Nhiều người ưa thích nhắc đến giấc mơ của mình. Họ xem giấc mơ là một nguồn tiết lộ về tương lai và nhiều chuyện khác. Nhưng việc diễn giải giấc mơ rất khó khăn. Xin thày vui lòng làm sáng tỏ vấn đề này? Giấc mơ có thể chỉ ra được điều gì hữu ích hay không?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Quả thực là con có thể nhận được những sáng ngộ giá trị qua giấc mơ, nhưng như con vừa chỉ ra, việc diễn giải giấc mơ có thể khó khăn.

Để diễn giải một cách đúng đắn, con phải khởi sự ở chỗ nhận ra rằng có nhiều loại giấc mơ khác nhau, có thể nói là nhiều tầng cấp giấc mơ khác nhau. Bộ não con người là một bộ phận vô cùng phức tạp, và nó có thể bị ảnh hưởng sâu đậm bởi các hóa chất trong cơ thể. Vì vậy, nhiều giấc mơ không là gì khác hơn một số phản ứng hóa học của bộ não sản xuất ra một số hình ảnh hay ý tưởng trong giấc ngủ. Nói cách khác, nhiều giấc mơ chỉ đơn giản là phản ứng hóa học, và do đó con không nên cho nó bất cứ ý nghĩa nào.

Khoa phân tâm học (psychoanalysis) được dựa trên một sự nhìn nhận đúng đắn rằng giấc mơ có thể cung cấp một cái nhìn sâu sắc về những điều đang xảy ra trong tâm tiềm thức của một người. Nhưng bởi vì nhiều giấc mơ chỉ là ảo ảnh hóa học, cho nên con không thể cố phân tích mọi giấc mơ một cách bừa bãi được. Ta đã thấy nhiều người nghiên cứu kỹ lưỡng giấc mơ của mình và cứ cố rút tỉa ra ý nghĩa từ mọi chuyện. Làm như vậy chỉ lãng phí thì giờ, và còn có tiềm năng khiến con có những quyết định sai lầm về đời mình.  

Con cũng cần lưu ý rằng con không thể giải thích giấc mơ đúng đắn bằng lý trí con người. Trí năng con người là một khả năng tương đối, và đơn giản, nó không nói cùng một thứ ngôn ngữ như những tầng lớp sâu thẳm trong dòng sống của con. Có quá nhiều người, kể cả nhiều nhà tâm lý học, cố dùng lý trí để giải thích giấc mơ, và một lần nữa, điều này sẽ dẫn tới nhiều sự bối rối, hay thậm chí những kết luận sai lầm. Ta nói với con, nhiều người đã từng bị cách diễn giải thuần lý trí này gạt gẫm, dù cho là diễn giải của chính họ hay của một nhà tâm lý chuyên nghiệp.

Cho nên bước đầu tiên để giải thích giấc mơ là nhìn nhận rằng một số giấc mơ là do phản ứng hóa học trong bộ não sản xuất ra. Bước kế tiếp là mở mang một khả năng phân biện nào đó sẽ giúp con nhận ra những giấc mơ thực sự quan trọng. Cách duy nhất để phát triển khả năng phân biện này là tăng triển khả năng trực giác, tức là sự tiếp xúc với cái ta Ki-tô của con. Khi con gia tăng khả năng trực nhận, con sẽ bắt đầu nhớ được một giấc mơ nào đó khi con ngủ dậy, và cảm thấy đó là một giấc mơ quan trọng.

Khi con cảm thấy giấc mơ quan trọng, con cần tránh dùng lý trí để diễn giải. Thay vào đó, con cần nỗ lực bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của con và nhận được sự sáng ngộ trực giác về tầm quan trọng của giấc mơ. Một dụng cụ hữu ích để bắt liên lạc với cái ta Ki-tô là kỹ thuật hòa điệu nội tâm được đăng tải trên trang mạng này. Ta cũng mạnh mẽ khuyến cáo con sử dụng kỹ thuật bảo vệ tâm linh, bởi vì một số giấc mơ có thể là sự phóng chiếu từ một nguồn bên ngoài tâm con.

Cũng có thể hữu ích là sự nhìn nhận có hai loại giấc mơ quan trọng cơ bản. Một loại giấc mơ là thông điệp từ những tầng sâu của dòng sống. Dòng sống đang cố giao tiếp với tâm ý thức của con để nói cho con biết trong tâm tiềm thức đang có điều gì cần giải quyết. Sự giải quyết này chỉ xảy đến khi nào con hiểu được vấn đề một cách ý thức, rồi lấy một quyết định ý thức sẽ giải quyết vấn đề. Các chân sư đã cho con nhiều lời dạy suốt trang web này, đặc biệt là trong sách. Tuy nhiên, nhiều quyển sách về tâm lý học và khoa tự cải tiến cũng có thể giúp con hiểu sâu xa hơn về tâm lý con người. Sự thông hiểu này sẽ giúp con sử dụng những giấc mơ đó, cũng như sẽ cho phép cái ta Ki-tô gửi cho con những giấc mơ thường xuyên và rõ ràng hơn về những điểm nghẽn trong tiềm thức đang ngăn trở sự tinh tấn tâm linh của con.  

Một loại giấc mơ khác có thể gọi là những điềm báo. Đây có thể là một cảm giác cảnh báo, hay ngay cả một giấc mơ về một hoàn cảnh đặc biệt nào đó chưa diễn ra trong vũ trụ vật chất. Một lần nữa, điều quan trọng là con không nên diễn giải giấc mơ đó bằng lý trí vỏ ngoài. Nếu con nhận được một điềm báo dưới hình thức một lời báo động, điều quan trọng là con không được rơi vào một trạng thái sợ hãi, bởi vì chính sợ hãi sẽ làm mờ tầm nhìn cùng khả năng phán đoán của con. Thay vào đó, con hãy sử dụng một kỹ thuật hoà điệu nội tâm và nhận sự hướng dẫn từ cái ta Ki-tô của con.

Mặc dù giấc mơ có thể quan trọng, ta phải nói với con rằng những giấc mơ quan trọng chỉ đơn giản là một cách giao tiếp khi cái ta Ki-tô cố gửi một thông điệp cho tâm ý thức của con. Nếu con cứ nỗ lực tăng triển sợi dây liên lạc với cái ta Ki-tô, con sẽ ngày càng nhận được thêm nhiều thông điệp như thế, và con sẽ bắt đầu nhận được cả khi con còn thức và hoàn toàn tỉnh táo.

Cho nên ta khuyên mọi người nên tăng cường sợ dây liên hệ này thay vì trông cậy vào những giấc mơ vì đây có thể là một cách giao tiếp phần nào thiếu xác thực. Ngay cả một giấc mơ quan trọng cũng có thể bị ảnh hưởng bởi chất hóa học trong não, và rất có thể một thông điệp khởi đầu là một thông điệp đích thực từ cái ta Ki-tô sẽ bị bộ não bóp méo đi trước khi truyền đến được tâm ý thức. Cho nên sẽ tốt hơn nếu con có thể thiết lập một mối liên lạc ý thức với cái ta Ki-tô của con, vì cách giao tiếp này sẽ ít phụ thuộc vào hóa học bộ não hơn.

Cũng quan trọng là sự kiện con cần nhìn nhận rằng dòng sống của con có thể du hành ra khỏi cơ thể trong giấc ngủ. Dòng sống có khả năng đi vào các cõi tâm linh và tham dự các lớp nhập thất của các chân sư thăng thiên. Chúng tôi có nhiều khóa nhập thất mà các dòng sống có thể vào học trong giấc ngủ ban đêm. Có khi con có thể thức dậy buổi sáng mà vẫn còn nhớ mình đã đến tham dự một lớp học như thế. Ta đã có giảng dạy về sự kiện này ở những nơi khác, kể cả một kỹ thuật để giúp con đi tới lớp nhập thất.

Thượng đế đã không tạo ra sự chết

Hỏi: Giê-su yêu dấu, con không hiểu nổi mục đích của sự chết trong cõi này. Con không hiểu làm thế nào dòng sống của con đã chọn đến một cõi có sự chết và đau khổ – đặc biệt là một cõi nơi sự chết và đau khổ là của một sinh thể con thương yêu. Tại sao Thượng đế lại lấy đi con chó của con, nó là tất cả đối với con? Con không hiểu tại sao ngài lại cho phép điều đó xảy ra… Ngài lấy nó đi khỏi con chỉ khiến con luôn luôn mong ước nó trở về với con… để con có thể chăm sóc và tiếp tục yêu thương nó. Tình yêu của con không quan trọng bằng tình yêu của ngài hay sao? Nếu con cần xin một phép màu từ Thượng đế thì đâu là cách đúng đắn và hữu hiệu nhất để cầu xin? Con có cầu xin con được đưa ngược thời gian, trở về thời con chó của con còn sống? Hay cầu cho đống tro của nó sống trở lại một cách thần tiên? Tại sao Thượng đế không lấy đi người nào đang làm hại thế giới thay vì một dòng sống vô tội đem lại bao tình yêu thương? Tại sao Thượng đế lại cho phép một kẻ sát nhân độc ác sống sót thay vì một dòng sống vô tội mang ý nghĩa to lớn đối với một ai đó?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Người bạn yêu dấu của ta, ta cảm được niềm đau và nỗi buồn của con. Nếu con cố gắng vượt qua cảm giác buồn đau vỏ ngoài cùng các suy nghĩ dằn vặt và trụ vào trái tim của con, ta sẽ cho con ngọn lửa an ủi đích thực sẽ tiêu hủy nỗi buồn trong con. Tuy nhiên, đây phải là một trải nghiệm cá nhân mà ta không thể trao cho con trên trang mạng này. Do đó con phải quyết định hòa điệu với tim ta bằng cách sử dụng bài tập mà ta đã ban cho.      

Nhưng ngay bây giờ, hãy để ta cố trả lời câu hỏi của con. Sự chết thật sự không do Thượng đế tạo ra, và nó không nằm trong hoạch định nguyên thủy của hành tinh địa cầu. Như ta đã giải thích suốt trang web này, Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho con người. Con người đã lạm dụng quyền tự quyết này và đã bước xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, nơi đó họ đánh mất liên lạc với nguồn cội tâm linh của mình. Con người đã mất liên lạc với Thượng đế.

Sau khi mất liên lạc xảy ra, các dòng sống đã làm tha hóa năng lượng của Thượng đế đến độ họ đã thay đổi mọi khía cạnh của sự sống trên hành tinh. Quy luật của Thượng đế định rằng con không thể thăng vượt lên cõi tâm linh cho tới khi con cân bằng mọi năng lượng tha hóa mà con đã tạo ra trong vũ trụ vật chất. Quy luật Thượng đế cũng định rằng nếu con làm tha hóa năng lượng Thượng đế, dòng năng lượng xối xuống từ cái ta tâm linh sẽ bị giảm thiểu tương đương với mức lạm dụng ánh sáng Thượng đế. Rốt cuộc sẽ đến một lúc khi khối lượng này đủ lớn để khiến cho sự sống của cơ thể vật lý không thể duy trì được nữa. Hậu quả là cơ thể vật lý của con người phải chết đi, thay vì được nâng độ rung lên cao hơn để dòng sống được thăng hoa vào cõi tâm linh. Vì dòng sống chưa cân bằng mọi năng lượng tha hóa – tức là nghiệp quả – trước khi cơ thể qua đời, cho nên luân hồi mới trở thành điều cần thiết.    

Do sự lạm dụng năng lượng Thượng đế suốt nhiều kiếp sống, nay con có một tình trạng vô cùng phức tạp trên địa cầu, một tình trạng khác rất xa với ý muốn và hoạch định ban đầu của Thượng đế. Sự chết bây giờ đã trở thành một thực tế dường như không thể tránh khỏi trên hành tinh. Một phần lớn sứ vụ của ta thuở trước là chứng tỏ cho con người thấy rằng sự chết không bắt buộc phải là một phần của sự sống. Sự chết không nhất thiết phải bắt buộc bởi vì dòng sống có khả năng chinh phục sự chết bằng cách bước theo con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân và như vậy thăng hoa lên cõi tâm linh.  

Ta hy vọng con sẽ hiểu được rằng tình trạng mà con hiện thấy trên địa cầu không phải do Thượng đế tạo ra và cũng không phải là những gì Thượng đế mong muốn cho con người. Cho nên thật là không đúng khi bảo rằng Thượng đế đã lấy đi con chó của con. Con chó của con đã bị tước mất do một tình trạng nghiệp quả thật phức tạp. Tuy nhiên, nếu con nhìn xa hơn kinh nghiệm đau thương đó, con sẽ nhận ra rằng điều đã thực sự xảy ra trên địa cầu là con người đã đánh mất mối liên hệ với các vị thày tâm linh của mình. Vì vậy, chính những hành động của mình – khi năng lượng tha hóa được gửi trả về dưới hình thức nghiệp quả – đã trở thành người thày của mình.  

Có thể nói, sự chết cũng đã giữ vai trò làm một người thày. Sự chết dạy con người rằng – một khi con đã tự cắt đứt sự nối kết với Thượng đế – không một điều gì trong vũ trụ này là thường hằng. Cho nên con người có cơ hội sử dụng sự chết làm bàn đạp để trau dồi quyết tâm là mình sẽ vượt khỏi cõi vật chất vô thường và giành được sự sống thường hằng của dòng sống nơi cõi tâm linh. Sự chết cũng có chức năng dạy cho con người là mình không được cho phép mình có bám mắc tình cảm với bất cứ gì trong cõi vô thường, bởi vì bất cứ gì trong cõi này cũng có thể bị tước đi. Ngay cả sự sống vật lý rốt cuộc cũng sẽ bị lấy mất trừ khi con người nâng cao tâm thức.   

Những tình huống nghiệp quả phức tạp tạo ra trên địa cầu cũng giải thích tại sao một số người có vẻ tốt thiện và vô tội lại phải chịu đựng thảm họa trong khi có những người có vẻ xấu ác lại được phép sống còn, thậm chí còn phát đạt. Một lần nữa, điều này không xảy ra do ý định hay hoạch định của Thượng đế. Đó chỉ là nhân duyên, là sự tương tác giữa những chọn lựa mà con người đã có trong tiền kiếp và trong kiếp này. Ta cũng biết những lý lẽ sâu xa này sẽ không an ủi và làm vơi đi nỗi đau của con nhiều lắm. Tuy nhiên, đó có thể là lời giải thích sẽ rốt cuộc giúp con buông được nỗi đau.     

Con hỏi đâu là cách đúng đắn để cầu xin một phép màu từ Thượng đế cho con chó của con. Phép màu tốt nhất mà con có thể cầu xin là sự hiểu biết và chấp nhận rằng Thượng đế yêu thương con vô điều kiện, và ngài sẵn lòng trao cho con tình yêu này bất cứ lúc nào. Lý do con cảm thấy đau buồn đến như vậy về sự mất mát con chó của con là vì nó đã trao cho con tình yêu vô điều kiện, nó đã mở trái tim con ra để con có thể cảm được tình yêu vô điều kiện đối với nó. Điều còn thực sự thiếu thốn và mất mát không phải là con chó, mà là tình yêu. 

Tuy nhiên, mọi tình yêu vô điều kiện đều thực sự đến từ Thượng đế. Điều mà con cảm nhận từ con chó là tình yêu vô điều kiện của Thượng đế xối xuyên qua con chó. Và điều con cảm thấy về con chó chính là tình yêu vô điều kiện của Thượng đế xối xuyên qua con gửi về con chó.

Nếu con cầu xin phép màu mở tim con ra, con sẽ nhận ra rằng phép màu đích thực của sự sống chính là dòng thương yêu vô điều kiện của Thượng đế chảy xuyên qua con. Rồi con sẽ nhận ra là dòng tình yêu không tùy thuộc vào bất cứ gì trong thế gian này, kể cả con chó của con. Vì vậy mà nhiều người khao khát tìm được một người bạn đời hoàn hảo, và họ nghĩ rằng phải chi họ tìm được người đó thì họ sẽ cảm thấy tình yêu vô điều kiện làm sao. Tuy nhiên, chìa khóa để cảm được tình yêu vô điều kiện là mở to cánh cửa trái tim con, mà qua đó tình yêu vô điều kiện của Thượng đế mới có thể xối xuyên qua con.

Một phần quan trọng của sứ mạng của ta trên địa cầu là chứng tỏ rằng mọi người đều có thể cảm được tình yêu vô điều kiện đối với mọi người và mỗi người. Cho nên ta khuyến khích con hãy cầu nguyện để Thượng đế mở tim con ra hầu con cảm được tình yêu vô điều kiện của ngài cho mọi con người, và con học được cách biều hiện tình yêu đó cho mọi người.

Cơ hội thực sự khi con trải qua cái chết của một người, hay một con vật thân yêu, là con thăng vượt cảm xúc của con đối với sinh thể đó và mở rộng cảm xúc đó ra cho mọi sự sống. Thật sự có những người phải trải qua đau buồn và học được cách mở tim mình ra để tình yêu của Thượng đế chảy xuyên qua họ tràn ra mọi sự sống. Tiếc thay, cũng có nhiều người trải qua đau buồn mà lại đi vào tâm trạng đổ lỗi cho Thượng đế về sự mất mát của mình. 

Đây là sự chọn lựa căn bản mà con người sẽ có trong thế gian này. Liệu con sẽ có cái nhìn tích cực và mở tim mình ra cho tình yêu, hay liệu con sẽ có cái nhìn tiêu cực và khép tim lại. Khi con khép tim lại, con sẽ luôn luôn tìm thấy điều gì đó trong thế gian bất toàn này mà con có thể dùng làm lý lẽ để đóng chặt tình yêu Thượng đế. Khi con mở tim ra, con sẽ luôn luôn tìm thấy điều gì đó để con thương yêu, và con sẽ cảm thấy tình yêu của Thượng đế chảy xuyên qua con.   

Khi nhiều người bỏ mạng trong thảm họa

Hỏi: Thượng đế làm thế nào khi có hàng loạt sinh thể mất mạng trong thảm họa, chẳng hạn tại World Trade Center, chiến tranh, tai nạn máy bay, v. v… Những linh hồn này có được tạm giữ ở một nơi nào đó để họ thích nghi, hay họ được Thượng đế, các thiên thần, v. v…  chăm sóc ngay?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Vũ trụ vật chất chỉ là phần nổi của một tảng băng trôi, và như con cũng biết, phần lớn khối đá của tảng băng nằm ở dưới mặt nước. Ở bên dưới cái biết ý thức của hầu hết mọi người, có những cõi khác nữa. Như ta đã có giải thích, trong cõi vật chất có cả thảy bốn tầng, tương ứng với bốn tầng trong tâm con.

Và như ta giải thích chi tiết hơn trong một câu trả lời khác, hầu hết mọi người đều có một số tin tưởng và năng lượng tích tụ trong các “thể” cao hơn của mình, tức là cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Cho nên khi xác thân của một người qua đời, người đó đi về đâu sẽ tùy thuộc vào nơi có nhiều nhất chất liệu chưa được giải tỏa. 

  • Một dòng sống với nhiều tin tưởng và năng lượng cảm xúc chưa giải tỏa sẽ bị từ lực thu hút vào cõi cảm xúc.
  • Một dòng sống hoạt động trong lý trí nhiều hơn sẽ đi vào cõi lý trí.
  • Một dòng sống tâm linh hơn sẽ đi vào cõi bản sắc.

Ba cõi ở trên có những yếu tố và mẫu số rất khác với cõi vật chất ở dưới, cho nên ba cõi đó có khả năng tiếp nhận tất cả mọi dòng sống đang sống trên địa cầu..

Khi một thảm họa xảy ra, không có nhu cầu phải tạm giữ các dòng sống đó trong một trạng thái chờ đợi. Có rất nhiều thiên thần trong cõi tâm linh có thể hỗ trợ và giúp các dòng sống này đi tiếp hành trình.

Cũng có một số dòng sống đi vào một nơi tạm giữ sau khi qua đời, tuy nhiên đó là vì họ đã chọn như vậy. Đây là những dòng sống cảm thấy chưa sẵn sàng bước đi tiếp và tiếp xúc trực tiếp hơn với các sinh thể tâm linh. Vì vậy họ được phép ở lại một giai đoạn tạm thời nơi họ có thể một mình suy ngẫm về những trải nghiệm của mình. Các dòng sống này sẽ hàn gắn nhanh chóng hơn nếu họ cho phép chúng tôi giúp đỡ họ, tuy nhiên, một lần nữa, chúng tôi sẽ không áp đặt ý muốn của mình lên quyền tự quyết của dòng sống.

Có một cõi khác nữa gọi là Devachan mà vai trò là để giúp đỡ những dòng sống tâm linh hơn vượt qua những mong muốn chưa thỏa mãn của mình. Nhiều người cũng có thể được gia nhập các khóa nhập thất của các chân sư thăng thiên ở cõi bản sắc hay cõi ether. Ở đó, họ được học hỏi và được chữa lành hầu chuẩn bị cho kiếp đầu thai kế tiếp.  

Tại sao hỏa táng lại quan trọng

Hỏi: Khi một người đi qua tiến trình hỏa táng, có cần phải đặt thi thể vào đá lạnh trước đó hay không? Và liệu dòng sống/thân xác có cảm thấy khó chịu hay đau đớn gì không khi hỏa táng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Không có lý do tâm linh nào để phải đặt thi thể vào đá lạnh trước khi hỏa táng. Và tất nhiên, cũng không có lý do thiết thực nào phải làm như vậy. Dòng sống tách rời khỏi thân xác một lúc sau khi chết, thường thường ngay lập tức sau khi chết, và do đó không điều gì xảy ra cho thân xác mà có thể gây ra cảm giác đau đớn hay khó chịu cho nó. Cho nên dòng sống không hề cảm thấy bất kỳ sự khó chịu nào do hỏa thiêu. 

Tuy nhiên, ta xin nói thật rõ ràng là chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đặc biệt khuyến cáo việc hỏa thiêu mọi thi thể. Lý do là vì việc hoả thiêu sẽ giảm thiểu mối rủi ro là dòng sống sẽ duy trì sự gắn bó tình cảm đối với thân xác và không thể bước vào ánh sáng. Hiển nhiên, đối với những dòng sống có khuynh hướng tâm linh, đây không phải là một vấn đề. Nhưng đối với những dòng sống còn dính mắc tình cảm với thân xác, họ sẽ ít xác suất hơn duy trì mối dính mắc này sau khi xác thân được hỏa táng. Việc mục kích xác thân bị thiêu hủy sẽ cho dòng sống một cảm giác kết thúc, dứt khoát, một cảm giác rằng nó không thể đi ngược trở lại được và do đó đã đến lúc nó phải tiếp tục tiến bước.

Có một số văn hóa hay tôn giáo tin vào xác thân vật lý sẽ sống lại thật sự, và niềm tin này có thể khiến cho dòng sống cứ gắn chặt vào thân xác đó. Điều này sẽ khiến cho dòng sống gặp khó khăn bước vào ánh sáng, bước vào cõi tâm linh. Một ví dụ là nền văn hóa Ai cập cổ đại chủ trương ướp xác thi thể. Các chân sư cực lực can ngăn tập tục này. 

Cho nên từ góc độ tâm linh, hỏa táng là một tiến trình thật quan trọng. Tất nhiên, hỏa táng cũng có một số ưu điểm thực tiễn quan trọng và do đó nếu mọi thi thể có thể được hỏa táng thì điều này sẽ rất ích lợi.

Nghiệp quả không là tiền định vì luôn luôn có chỗ cho lựa chọn cá nhân

Hỏi: Giê-su yêu dấu, hôm nay đứa con gái 17 tuổi của con hỏi con về vụ tấn công khủng bố ở Madrid, và làm thế nào có một số người lại được Số mệnh cứu vớt khi họ bị lỡ chuyến tàu, vân vân. Nó hỏi con phải chăng đó là một hành động của Số mệnh và con trả lời là đúng vậy.

Nếu thế thì những người đi trên chuyến tàu đó và bị thương tích tật nguyền suốt đời, hay là phải chết, cũng là một hành động của Số mệnh hay chăng? Con trả lời, có lẽ vậy. Rồi nó kết luận là vụ khủng bố cũng là việc làm của Số mệnh, và có lẽ chúng ta không thể đổ tội cho những kẻ khủng bố là đã góp tay vào Số mệnh. Con thấy khó lòng đồng ý với kết luận đó nhưng lý lẽ của nó không thiếu lô-gíc. Con giải thích cho nó về các tà lực và hậu quả của quyền tự quyết, nhưng con đã không thuyết phục được nó. Xin chân sư chiếu rọi một chút Ánh sáng trên vấn đề này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Đây là một câu hỏi vô cùng quan trọng mà ước gì ta có thể thảo luận trong một bối cảnh an bình hơn. Lý luận của con gái con có một lô-gíc nào đó, và cô ấy cảm thấy như vậy là điều dễ hiểu mà thôi. Trên thực tế suốt bao nhiêu thời đại, rất nhiều người cũng đã chấp nhận cách lý luận như vậy. Nhưng ta phải nói, đó không phải là cách hiểu cao nhất về vấn đề này.

Đầu tiên chúng ta cần xác định xem chúng ta muốn nói gì khi dùng từ “số mệnh”. Ý nghĩa bình thường của từ này là trong vũ trụ có một lực nào đó định trước được một số sự việc.

Đời sống tâm linh của nhân loại vốn có một chiều hướng đi lên. Chúng tôi là các chân sư thăng thiên thường rải truyền một số năng lượng tâm linh để nhẹ nhàng thúc ép mọi người đi lên cao hơn trong tâm thức. Do đó có thể nói là có một sức mạnh của số mệnh đang tìm cách giúp nhân loại vươn lên một mức tâm thức cao hơn. Trong tiến trình phát triển này, một số khuôn nếp và tin tưởng cũ sẽ phải bị phá vỡ. Tuy nhiên, sức mạnh này của số mệnh nhắm vào việc thay đổi xã hội trên bình diện quy mô rộng lớn. Nó hoàn toàn không định đoạt cách xử sự của từng người, hoặc cách họ phản ứng lại những tình huống mà họ gặp trong đời sống. Nói cách khác, trong bức tranh toàn cảnh của hình thức số mệnh này, có rất nhiều khoảng trống để mỗi cá nhân có thể tự quyết lựa chọn.  

Như ta giải thích trên trang mạng này, mọi khía cạnh đời sống trên hành tinh này đều bị ảnh hưởng bởi sự chọn lựa của con người, và do đó trong một ý nghĩa nào đó, có thể nói là không có gì được định trước. Tuy nhiên, chọn lựa của con người có thể bị nhiều yếu tố ảnh hưởng. Con không thể hiểu được đúng đắn ý niệm tiền định nếu không xem xét đến thực tế của nghiệp quả và luân hồi, như ta có giải thích ở một nơi khác. Khi con hiểu rõ nghiệp quả, con sẽ nhận ra là rất nhiều tình huống xảy ra trong đời là kết quả của những chọn lựa mà con đã có trong tiền kiếp. Những chọn lựa này tạo ra một xung lực năng lượng được phóng ra vũ trụ, và khi xung lực này quay trở lại con trong một kiếp sống tương lai, nó có thể gây ra nhiều loại tai họa khác nhau.

Thật không có nghi ngờ gì là trong một tình huống như vụ đánh bom khủng bố, nghiệp quả là một yếu tố rất quan trọng. Có một số người đã thoát khỏi vụ đánh bom vì họ không mang nghiệp bị mất mạng hay bị thương tích. Một số người khác đã không thoát khỏi bởi vì họ mang nghiệp chướng từ những kiếp trước là họ phải trải nghiệm những điều mà họ vừa trải nghiệm trong biến cố này. Và cũng đúng là nghiệp quả đã là một ảnh hưởng to lớn trên những kẻ khủng bố khi họ lấy quyết định ra tay làm việc này. Họ đã bị điều kiện hóa bởi nghiệp quả mà họ đã tạo ra trong tiền kiếp. Tuy nhiên, điều vô cùng quan trọng mà con cần hiểu là nghiệp quả không định trước được mọi chuyện.  

Một trong những lý do nghiệp quả và luân hồi đã bị nhiều người ở Tây phương bác bỏ là vì đa số người Tây phương nhận xét, không sai, là không phải điều gì trong cuộc sống cũng được định trước. Tại Đông phương thì khác, hầu hết mọi người đều tin vào nghiệp quả và luân hồi nhưng nhiều người lại đẩy lời dạy này tới một cực đoan thật đáng tiếc. Thật vậy, nhiều người ở phương Đông tin rằng bất cứ điều gì xảy ra cho mình cũng đã được ấn định bởi nghiệp quả từ những kiếp trước.

Hệ quả đáng tiếc của sự thể này là họ rất dễ rơi vào cái nhìn định mệnh về cuộc đời. Đâu có ích gì mà mình phải cố gắng cải thiện đời sống nếu mọi chuyện đã được nghiệp quả an bày sẵn rồi? Và đây chính là thái độ mà nhiều người Tây phương không thể nào chấp nhận, bởi vì họ tin rất sâu xa là con người có khả năng cải thiện đời sống và thay đổi số mệnh của mình. Người Đông phương cảm thấy dù mình có làm gì trong đời cũng chẳng mấy quan trọng. Cảm nhận này đúng đắn nhưng rất tiếc nó khiến cho nhiều người Tây phương vơ đũa cả nắm và bác bỏ toàn bộ ý niệm nghiệp quả lẫn luân hồi.  

Sự thật là nghiệp quả sẽ không bao giờ đứng trên, hay lật ngược lại, quyền tự quyết của một người. Nghiệp quả của con từ nhiều tiền kiếp sẽ tạo ra một số điều kiện khiến con thiên về một số chọn lựa nhất định. Chẳng hạn, những kẻ khủng bố tổ chức vụ đánh bom vừa rồi đã suốt nhiều kiếp bị bao trùm trong tâm thức cho rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện. Tâm thức này rất có thể đã khiến họ bị thu hút vào một lý tưởng cực đoan trong kiếp này, và họ sẽ sử dụng lý tưởng đó làm cái cớ để tiếp tục những khuôn nếp và lực dư mà họ đã ôm lấy suốt bao nhiêu kiếp sống. Tuy nhiên, không có gì bảo đảm là một người sẽ muốn tiếp tục mãi trên cái đà cũ như vậy, mà trái lại người đó luôn luôn có khả năng chọn lựa cách khác, phá vỡ khuôn nếp cũ để đưa đời mình về một hướng mới. Chính quyết tâm phá bỏ các khuôn nếp cũ là lý do chúng ta có thể hy vọng đời sống mỗi người cũng như đời sống của xã hội có thể cải thiện.   

Như ta có giải thích suốt trang mạng này, mọi điều trong thế gian đều xoay quanh quyền tự quyết của con người. Thượng đế đã trao quyền tự quyết cho con người và do đó ngài đã từ bỏ việc kiểm soát mọi chi tiết vi mô xảy ra trên địa cầu. Nói cách khác, Thượng đế không có chút kiểm soát nào trên tình thế đã dẫn tới vụ đánh bom khủng bố ở Madrid. Ngài không muốn sự việc đó xảy ra, và một vụ tấn công như vậy không có chức năng gì trong kế hoạch toàn thể của ngài.  

Biến cố xảy ra là sự biểu hiện của nghiệp quả từ tiền kiếp phối hợp với những chọn lựa tự quyết của mỗi người trong kiếp này. Như ta đã nói, nghiệp quả từ tiền kiếp có thể tạo ra một thiên hướng nơi con, đẩy con về một số chọn lựa. Thế nhưng những chọn lựa này không được định trước. Con luôn luôn có sự chọn lựa, và do đó luôn luôn có khả năng phá vỡ những động lượng cũ và đưa đời mình về một hướng mới tích cực hơn. Con luôn luôn có khả năng chọn con đường cao ráo thay vì con đường thấp hèn. Tuy nhiên, nếu con không phá vỡ được động lượng cũ thì các tình huống của nghiệp quả sẽ không tránh khỏi phải trải ra, và đó là những gì con chứng kiến tại Madrid.      

Hiển nhiên, tình thế này là do những chọn lựa của kẻ khủng bố đun đẩy. Tuy nhiên, con không được bỏ qua sự kiện là người dân Tây Ban Nha cũng đã có một số lựa chọn dẫn đến tình thế đó. Một chọn lựa của họ là họ đã chấp nhận cái tâm thức khiến họ cảm thấy không cần phải thay đổi cách sống của mình hầu xây dựng một địa cầu công bằng hơn cho mọi người. Đây cũng chính là tâm thức đã dẫn đến vụ khủng bố ngày 11/9/2001 tại Hoa Kỳ, như ta đã nhận xét ở một nơi khác.   

Về tình hình tại Tây Ban Nha, thật vậy, nghiệp quả của quốc gia này đã góp phần vào tình thế và đã khiến cho nước này có những nhược điểm, dễ bị tổn thương. Nghiệp quả đó đã chồng chất trong nhiều thế kỷ, qua một số sự kiện như Tòa án Dị giáo, cách đối xử với người Hồi giáo tại Tây Ban Nha, cuộc chinh phục châu Mỹ cùng một số biến cố đẫm máu khác. Tuy nhiên, vụ tấn công khủng bố này đã không hoàn toàn xoá bỏ hết nghiệp quả của cả nước. Còn nhiều biến cố nữa sẽ xảy ra, và vì vậy điều cực kỳ quan trọng là những người tâm linh tại Tây Ban Nha phải nỗ lực giảm thiểu tác động của các nghiệp chướng chưa thể hiện trên quốc gia mình. Những dụng cụ hữu hiệu nhất mà họ có thể sử dụg để làm công việc này là Ngọn lửa Tím và các bài cầu nguyện tràng hạt của Mẹ Mary.

Mặc dù nghiệp quả có thể rất chính xác cho đến từng chi tiết nhỏ nhặt, điều quan trọng cần nhớ là nghiệp quả không định trước được mọi chuyện. Trong mỗi tình huống trong đời, luôn luôn có khả năng thay đổi kết quả của sự kiện. Chẳng hạn, con người luôn luôn có sự chọn lựa nâng cao tâm thức và hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình. Hẳn là đã có những người tại Madrid đã nhận được lời cảnh báo nội tâm khiến họ lỡ chuyến tàu. Nhưng cũng có những người chọn cách sống mộng du, đi qua cuộc đời như người ngủ say, không có nỗ lực hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình. Những người này đã không nhận được cảnh báo rồi phải mất mạng hay bị thương tích trong vụ đánh bom. Nhưng chính vì họ đã không chọn hòa điệu với cái ta Ki-tô mà họ không thể được cảnh báo. Nói cách khác, sự kiện họ bị thiệt mạng trong vụ tấn công không phải là kết quả những chọn lựa trong tiền kiếp, mà là kết quả những chọn lựa trong kiếp này.

Ta muốn giúp con hiểu là không có gì được khắc sẵn trên đá, không có gì được định trước. Có một lực trong vũ trụ luôn tìm cách giúp con người phát triển. Lực này lập ra một số mẫu số chung cho các diễn biến trên địa cầu. Song song cũng có lực của nghiệp quả, lập ra những mẫu số chi tiết hơn cho những gì có khả năng xảy ra trong đời sống một người. Nhưng ngay cả luật nghiệp quả cũng không định sẵn được mọi khía cạnh của đời sống người đó. Còn rất nhiều khoảng trống cho những quyết định tự do có thể thay đổi hướng đi cuộc đời và do đó giảm thiểu hay tránh hẳn một số nghiệp duyên nhất định. Nói cách khác, những chọn lựa của một người có khả năng giảm nhẹ tai họa hoặc ngược lại lôi kéo tai họa về mình.

Nếu tất cả mọi chuyện đều được định trước bởi nghiệp từ tiền kiếp, thì sẽ không còn chỗ nào để tạo nghiệp mới hay giảm nhẹ nghiệp cũ, và nếu thế thì làm cách nào một người có thể thoát được bánh xe luân hồi đây? Điều cực kỳ quan trọng là mọi người đừng rơi vào tư duy định mệnh. Không nên lý luận sai lầm là không có gì thực sự quan trọng trong đời bởi vì tất cả đã được định trước, cho nên chẳng ích gì mà cố thay đổi cuộc sống hay thay đổi xã hội.

Mọi chuyện đều tùy thuộc vào sự tự quyết của con người, và vì thế tất cả mọi chuyện đều quan trọng. Mọi lựa chọn mà con có, hoặc sẽ cải thiện cuộc sống của con, hoặc sẽ khiến nó tồi tệ hơn. Nếu con không làm gì thì khả năng là đời con sẽ tồi tệ hơn.

Ta có thể cam đoan với con là con người có khả năng thoát được những tai họa mà nghiệp quả ra lệnh. Thượng đế không có ý muốn trừng phạt con người. Cho nên nếu con người chịu học hỏi bài học và nâng cao tâm thức mình, nhiều khi các chân sư thăng thiên sẽ kìm hãm lại một số điều kiện nghiệp chướng đã có thể gây ra tai họa.

Trên thực tế, nếu chúng tôi, các chân sư, đã không làm vậy thì từ lâu nhân loại đã tự hủy diệt qua việc sử dụng vũ khí nguyên tử. Cho nên nếu các con còn sống sót tới ngày hôm nay, đó chính là bằng chứng là chúng tôi rất sẵn lòng xóa bỏ nghiệp quả của con người – miễn là con người cũng sẵn lòng nâng cao tâm thức mình. Và đây chính là một trong những thông điệp quan trọng nhất mà ta muốn truyền đạt qua trang mạng này. Có thể nói, số mệnh là một mãnh lực không làm sao cản được, nó đun đẩy cuộc sống cứ bước mãi về phía trước. Tuy nhiên, những chọn lựa của mỗi người có khả năng quyết định hướng đi của lực định mệnh, cả trên bình diện cá nhân lẫn toàn cầu.

Vì vậy con có thể giải thích cho con gái con rằng quả là có một năng lực nghiệp quả đã sắp đặt tình huống dẫn đến vụ đánh bom khủng bố. Tuy nhiên nếu người dân Tây Ban Nha đã có những chọn lựa tốt hơn thì vụ đánh bom đã có thể tránh được. Cho nên, cách phản ứng tồi tệ nhất đối với tình thế này là trở thành một người thụ động, hay là đi theo chủ nghĩa hòa hoãn, và không làm bất cứ gì để ngăn chặn những thảm họa tương tự xảy ra trong tương lai. Muốn cho cái ác chiến thắng, chỉ cần những con người tốt thiện ngồi yên không làm gì.

Một cách phản ứng đáng tiếc khác là trở thành một kẻ hiếu chiến, cố chữa lửa bằng cách bồi thêm lửa vào ngọn lửa. Cách đáp ứng hay nhất là trở thành một chiến binh trong ý nghĩa tâm linh, sử dụng ngọn lửa tâm linh để thiêu đốt những điều kiện nghiệp quả khiến cho quốc gia mình cứ thu hút các tiềm năng tai họa trong tương lai. Một phương cách quan trọng khác là khai sáng mọi người về nhu cầu thay đổi đường hướng và trở thành một dân tộc tâm linh hơn. Và trong số những công việc cần làm đó là cần bỏ lại đằng sau quá khứ Công giáo của dân tộc Tây Ban Nha.  

Thái độ của Paul đối với phụ nữ

Hỏi: Thày Giê-su yêu dấu, con đang bối rối. Theo con hiểu, Paul là vị tông đồ yêu quý của thày, nhưng tại sao ông lại tỏ ra thờ ơ với phụ nữ khi ông bảo rằng phụ nữ không được dạy học, phải giữ im lặng trong nhà thờ và phải tuân theo luật lệ của đàn ông, v. v… Hay là đó không thực là những gì Paul đã giảng mà là người ta đã bẻ cong lời dạy của giáo hội ban sơ? Và nếu đây không phải là lời dạy của Paul thì đâu là lời dạy chính xác? Liệu những quyển kinh của phái gnostic về Paul có phản ánh xác thực hơn triết lý của ông? Con chỉ muốn biết sự thật. 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Ta thương yêu tất cả các môn đệ của ta với tình yêu của Ki-tô, là tình yêu vô điều kiện. Điều này có nghĩa là ta thương yêu mọi người bất kể những hạn chế hay khuyết điểm hiện thời của họ. Nhưng tình yêu của ta không mù quáng, và ta thấy rõ những hạn chế mà mỗi người cần vượt qua để tăng triển tâm linh. 

Quả thật Paul có một thái độ đối với phụ nữ không phù hợp với thái độ và giáo lý của ta. Ta đã giải thích điều này khá tường tận trong bài giảng về quan hệ của ta với Mary Magdalene. Ta cũng có đề cập tới niềm hy vọng của ta là khôi phục phụ nữ vào chỗ đứng xứng đáng là những người tâm linh bình đẳng với phái nam. Ta đã giải thích ở một nơi khác là thái độ của Paul đối với phụ nữ không phù hợp với những kỳ vọng cao nhất của ta cho Paul hay cho các môn đệ khác.

Vậy ta không có ý muốn bào chữa hay giải thích thái độ của Paul đối với phụ nữ. Đó chỉ là cách biểu hiện của thời đó, và thái độ của Paul đối với phụ nữ không tốt hơn hay không dở hơn thái độ của hầu hết đàn ông thời đó. Một lần nữa, đây không phải là lời bào chữa mà chỉ nói lên thực tế.

Thật sự, một trong những tiếc nuối lớn nhất của ta là đạo Cơ đốc đã không trở thành một tôn giáo sẽ phục hồi phụ nữ về một địa vị xứng đáng, không những trong gia đình, xã hội, nhà thờ mà cả trong tâm của người nam lẫn người nữ. Tuy nhiên, vấn đề thực sự ở đây là con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân đã bị đánh mất. Khi con đạt đến quả vị Ki-tô, con tự nhiên bắt đầu nhìn xa hơn mọi phân chia vỏ ngoài do giới tính, chủng tộc, quốc gia hay bất cứ loại phân chia và nhãn hiệu giả tạo nào khởi lên từ sự tương đối của tâm nhị nguyên. Đơn giản, những phân chia nhân tạo đó mất hẳn tầm quan trọng, và một sinh thể với tâm Ki-tô sẽ kính trọng người nữ là xứng đáng và quan trọng y như người nam   

Một sinh thể có tâm Ki-tô cũng sẽ chấp nhận rằng một số câu chuyện trong Thánh kinh về sự sinh tạo phụ nữ là không chính xác. Người nữ đã không được tạo ra sau người nam, và người nữ không được tạo ra từ thể chất của người nam. Các đoạn này đã được thêm vào sau này bởi những người sinh sống trong một nền văn hóa dành ưu thế cho phái nam.

“Ngài tạo ra nam và nữ” (Genesis 5:2). Giới tính nam và nữ hình thành một thế thái cực tương tự như Thái cực trong Đạo giáo. Cái này không thể hiện hữu mà không có cái kia, và do đó không thể được tạo ra mà không có cái kia. Cả hai giới tính đều được tạo ra cùng một lúc, với cùng giá trị và tầm quan trọng dưới mắt của Thượng đế. Quả thật là vậy, cả hai nên được kính trọng như nhau trong mắt của người nam lẫn người nữ.

Người nữ được tạo ra trước người nam?

Hỏi: Đây là một câu hỏi liên quan đến câu đố, cái nào đến trước, con gà hay quả trứng? Cái nào đến trước, nam hay nữ? Con không hỏi người nam hay người nữ đến trước, mà con hỏi về nguyên lý. Nghĩa là nguyên lý nữ đến trước vì đã thụ động, tiềm ẩn sẵn trong pralaya, thời kỳ ngủ say của vũ trụ, trước khi nguyên lý nam linh hoạt trong manvantara, thời kỳ thị hiện. Kinh Dzyan nói rằng Mẹ Vĩnh hằng ngủ say trước khi trải ra. Con biết đó chỉ là cách diễn tả thi vị do một người tầm đạo quá sốt sắng cố hết sức mô tả. Tại sao tôn giáo của Nữ thần Mẹ là tôn giáo đầu tiên trên thế giới?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Tôi xin giải quyết một cách dứt khoát câu đố muôn thuở về con gà và quả trứng. Con gà đến trước.

Bây giờ hãy xem đến những câu hỏi quan trọng hơn. Bài giảng sau đây chứa đựng một số lời dạy chi tiết về việc Thượng đế sáng tạo vũ trụ. Nói ngắn gọn, Thượng đế có một khía cạnh không thị hiện, mà ta sẽ gọi là Bản thể thuần khiết hay cái Tất cả. Thượng đế cũng có một khía cạnh nữa là Đấng Sáng tạo, là nguồn gốc thực sự của tất cả mọi thứ đã được tạo ra trong thế giới hình thể. Để bắt đầu sáng tạo, Đấng Sáng tạo lập ra một nguyên thể có khả năng đúc thành bất cứ hình tướng nào có thể nghĩ tới. Đây là nguyên thể mà Thánh kinh nói đến qua câu, “Hãy có ánh sáng.” Chúng tôi thường gọi nguyên thể này là Ánh sáng Mẫu-Vật.      

Như ta giải thích, Thượng đế sáng tạo là nguyên lý hành động, hay nam, trong khi Ánh sáng Thượng đế là nguyên lý tiếp nhận, hay nữ. Cho nên tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo bằng khiá cạnh nữ của Thượng đế. Đó là tại sao một số tôn giáo dạy rằng mọi thứ được tạo ra từ Thượng đế Mẹ hay Nữ thần, và cũng vì vậy mà một số tôn giáo thờ phượng một vị thần nữ tính.

Cả hai khía cạnh nam và nữ của Thượng đế đã luôn luôn hiện hữu. Vì vậy, thật là vô nghĩa khi bàn đến chuyện Thượng đế là nam trước khi là nữ, hay ngược lại. Hai nguyên lý này, hay khía cạnh, không thể nào rời nhau ra, và hoàn toàn không nghĩa lý gì mà nói đến một nguyên lý mà không nói đến nguyên lý kia.   

Câu hỏi ngàn đời về cái nào đến trước thật ra chỉ là một sản phẩm của tâm thức đường thẳng của con người, và tâm thức này nhìn mọi thứ dựa trên hoàn cảnh riêng của nó. Bởi vì kinh nghiệm của con người về cuộc sống là một cuộc đời có khởi đầu và có kết thúc, cho nên nó cũng lý giải là mọi thứ khác cũng phải có sinh có diệt.

Về mặt thế giới hình tướng, có thể nói là tất cả mọi thứ đều được tạo ra từ nguyên lý nữ, bản chất nữ của Thượng đế. Do đó, mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo ra từ Thượng đế Mẹ. Tuy nhiên, mọi thứ được tạo ra bởi Thượng đế Cha, nghĩa là ngay trong bản chất, sự sáng tạo đã bắt đầu với một cái thấy trong tâm của Thượng đế Cha. Chính khía cạnh nam của Thượng đế đã khởi đầu tíến trình sáng tạo. Và khía cạnh nữ của Thượng đế đã nhận lấy bất kỳ hình tướng nào được thấy trong tâm của Thượng đế.

Điều này không có nghĩa là khía cạnh nữ của Thượng đế không có tâm, hay tâm thức. Tuy nhiên khiá cạnh nữ đã cho phép – trong tình yêu thương – khiá cạnh nam tác động lên mình và thực hiện cái thấy của khía cạnh nam. Sự sáng tạo được khởi xướng bởi khiá cạnh nam của Thượng đế và được thực hiện bởi khía cạnh nữ của Thượng đế. Nếu con muốn dùng ý niệm khởi đầu và kết thúc, thì con có thể nói là sự sáng tạo bắt đầu như là một ý nghĩ, một cái thấy trong tâm thức của khía cạnh nam của Thượng đế.

Con nói rằng người Mẹ Vĩnh hằng ngủ say trước khi trải rộng ra. Điều này chắc chắn khả thi, bởi vì khía cạnh nữ của Thượng đế đã luôn luôn hiện hữu như một nguyên lý. Mẹ Thiêng liêng nằm tiềm ẩn, không linh hoạt, cho tới khi Mẹ được Cha Thiêng liêng tác động.

Ta không đồng ý rằng tôn giáo của Nữ thần Mẹ là tôn giáo đầu tiên trên hành tinh. Khi con người lần đầu tiên giáng xuống hành tinh này, họ vẫn không quên nguồn cội tâm linh của mình. Vì thế họ hoàn toàn nhận thức được cả Thượng đế Cha lẫn Thượng đế Mẹ, và họ giữ mối quan hệ linh động với cả hai. Quan hệ mà con người có với cha mẹ thiêng liêng của mình trước khi cuộc sa ngã xảy ra khác rất xa với bây giờ, và thật là không đúng nếu bảo rằng con người trước khi sa ngã đã thờ phượng Thượng đế, hay thậm chí có một tôn giáo như chúng ta thường hiểu ngày nay.

Như đã được giải thích ở nơi khác, chính khía cạnh nữ của mỗi dòng sống đã đầu tiên rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn. Điều này xảy ra là vì khía cạnh nữ của dòng sống bắt đầu theo cách của thế gian thay vì giữ trọn vẹn theo khía cạnh nam của nó, tức là cái ta tâm linh. Một hệ quả của việc rơi xuống tâm thức thấp là các dòng sống quên mất nguồn cội tâm linh của mình, và vì thế cũng mất luôn kinh nghiệm trực tiếp về khía cạnh nam của Thượng đế.

Bởi vì các dòng sống sinh sống trong một thế giới được tạo ra từ chính bản chất của khía cạnh nữ của Thượng đế, họ không thể nào quên được hoàn toàn khía cạnh này của Thượng đế. Đó là lý do nhiều nền văn hóa sơ khai đã thờ phượng khía cạnh nữ của Thượng đế, dưới hình thức Mẹ Trái đất mà họ tin rằng đã đem lại sự sống cho họ. Chỉ sau khi nhân loại, sau một một tiến trình vươn lên rất chậm, nâng cao tâm thức mình lên một mức cao hơn, mà các dòng sống mới bắt đầu lại có một khái niệm rõ ràng về khía cạnh nam của Thượng đế.

Điều xảy ra ngày hôm nay là nhiều người, đặc biệt là ở phương Tây, đã quên mất khía cạnh nữ của Thượng đế và chỉ duy thờ phượng khía cạnh nam của Thượng đế. Đây là một ví dụ điển hình mà con người, do sự thiếu trưởng thành tâm linh và thiếu cân bằng, đã đu đưa từ cực đoan này sang cực đoan kia. 

Điều sẽ xảy ra trong những thập niên tới là nhân loại sẽ nhận ra rõ hơn nhu cầu phải hiểu biết và có quan hệ với cả hai khía cạnh của Thượng đế. Sự thật đơn giản là cuộc sống tâm linh của con không thể trọn vẹn nếu con không giữ vững sự cân bằng lành mạnh giữa hai khía cạnh nam và nữ. Điều này không những chỉ áp dụng cho cách con nhìn Thượng đế mà cả cách con nhìn chính con. 

Về nam và nữ, điều quan trọng là con cần nhận ra rằng vấn đề này không thể xác định một cách cứng nhắc, bởi vì có rất nhiều thái cực như vậy. Như ta vừa trình bày ở trên, Thượng đế có một khía cạnh không thị hiện và một khía cạnh sáng tạo. Hai cái này cũng hình thành một thế thái cực, trong đó cái Tất cả là khía cạnh nam và Thượng đế sáng tạo là khía cạnh nữ. Còn có một thái cực nữa giữa Đấng Sáng tạo của con và những tạo vật của ngài. Con thuộc về tạo vật của Đấng Sáng tạo của con, có nghĩa là đối với con, Đấng Sáng tạo là khía cạnh nam và con là khía cạnh nữ. Cho nên trong một nghĩa nào đó, nếu con thờ phượng Mẹ Thiêng liêng thì con đang thờ phượng chính con đó.

Rất nhiều tôn giáo thờ phượng Nữ thần Mẹ cũng xa vời thực tế y như những tôn giáo độc thần thờ phượng một Thượng đế Cha. Các tôn giáo đó xuất phát từ tâm thức tách biệt, trong đó con xem con tách biệt với đấng mà con thờ. Cách thực tế để nhìn mình là con hãy xem con là một biểu đạt của Đấng Sáng tạo, và như vậy con là một với Đấng Sáng tạo. Chỉ có duy nhất một tâm mà thôi, và khả năng tự nhận biết của con chính là một cá thể của tâm duy nhất đó, một cá thể không thể nào tách rời khỏi duy nhất. Vai trò của con trong cuộc sáng tạo là hành động như một phần nối dài của Thượng đế trên địa cầu mà qua đó con trở thành Mẹ Thiêng liêng trong hành động. Như vậy, thật không có ích gì thờ phượng một vị thần nam hay một vị thần nữ từ xa, bởi vì con đang là một Thượng đế nam lẫn nữ trong hành động.    

Hiển nhiên trên cõi tâm linh có một trách vụ gọi là Trách vụ Mẹ Thiêng liêng do Mẹ Mary đảm trách. Và đương nhiên, trách vụ này đáng được tôn trọng và kính trọng y như những trách vụ khác trong cõi tâm linh. Tuy nhiên, kính trọng không đồng nghĩa với thờ phượng đấng đang đảm nhận trách vụ. Vậy thì kết luận là như sau: sự cảm nhận rằng con có bổn phận phải thờ phượng một thượng đế xa vời – dù là nam hay nữ – hoàn toàn dấy lên từ tâm thức nhị nguyên, là tâm thức nhìn thấy sự phân biệt giữa “cái tôi” và “cái khác tôi”. Phá bỏ được sự khác biệt này là tinh túy của con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân, hay sự giác ngộ.

Tự tử không bao giờ đưa đến mục tiêu mong muốn

Hỏi: Con có một câu hỏi về một trạng thái tối tăm gọi là tự tử. Tự tử là hành vi tự sát. Là hành vi trốn tránh nghiệp quả. Gần đây nó cũng trở nên thịnh hành, một điều thật nguy hiểm đang xảy ra.

Nó giết đủ loại người, đủ các chủng tộc. Nó giết chủ yếu giới trẻ ở mọi nước, giới trẻ thổ dân ở Bắc Mỹ. Nó giết những người phải đối phó với giới tính của mình, những người vừa khám phá mình mang bệnh. Nó giết cả những người gọi là nổi tiếng, Kurt Cobain, Elliot Smith, v.v… và nhiều người khác đã tự sát do quá liều. Thậm chí có cả một thanh tra vũ khí tự sát ở Anh, một điều thật kỳ lạ vì ông ta theo đạo Baha’i là một tôn giáo không ưa gì tự tử. 

Tự tử xảy ra ở mọi nơi trên thế giới. Đó là một phần của tâm thức thấp mà con người bị vướng vào. Con cứ thắc mắc không hiểu tự tử có liên quan gì đến ý muốn của dòng sống muốn chấm dứt cuộc sống? Con không nghĩ vậy nhưng con đang cố tìm hiểu tại sao. Con biết tự tử không là điều gì mới lạ và sẽ còn ở đây mãi mãi, nhưng chuyện gì đang xảy ra?

Con cũng biết rõ tự tử là gì. Tự tử đã xảy ra trong gia đình con và chính con cũng đã làm mồi cho quyến rũ tự sát. Con đã nhảy múa với tự tử trong một giai đoạn rất tối tăm của đời con. Con bị kẹt rất sâu trong trầm cảm, giống như con ở trong cái lỗ đen, trong đó có cả năng lượng đen và trọng lực đen. Con đã bỏ ra một thời gian khá dài để leo ra ngoài và con đã chiến đấu với nó vì nó muốn nuốt tươi con. Nó xém lấy được mạng con nhưng con đã tìm lại hy vọng do có người trợ giúp.    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Cảm ơn con đã nêu lên một đề tài quan trọng. Quả thật, tự tử là một vấn đề đang gia tăng trên hành tinh này. Lý do chính là vì con đang sống ở một thời điểm khi những năng lượng của một chu kỳ tâm linh mới đang thấm dần vào tâm thức nhân loại. Khi những rung động cao tần của thời đại mới xuất hiện, mọi chất liệu chưa phân giải trong trường năng lượng con người – tức tiềm thức con người – bị đẩy ra ngoài, khiến cho các tạp chất này hiện ra rõ hơn. Và đây là cơ hội để mỗi người chọn lựa mình sẽ phục vụ cho ai, có nghĩa là con người sẽ dễ dàng hơn vươn lên khỏi xu hướng tự phủ nhận – là nguyên nhân sâu xa của tự tử. Con người sẽ dễ dàng hơn thấy được ánh sáng của cái ta Ki-tô để mà quyết định đi theo ánh sáng đó thay vì cứ tiếp tục chối bỏ ánh sáng. Tiếc thay, điều không thể tránh được khi một chu kỳ tâm linh mới bắt đầu là có những người sẽ chọn bám chặt vào bóng tối mà không chịu buông ra.     

Do có nhiều kinh nghiệm về vấn đề này, ta muốn nói với con là bài học quan trọng nhất mà con sẽ nghe được về tự tử là các dòng sống tự sát sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu của mình. Họ sẽ không bao giờ hoàn thành được mục tiêu mà họ tưởng đã khiến họ tự tử. Thật vậy, ta đã tư vấn và giúp đỡ rất nhiều dòng sống sau khi họ tự sát, va ta có thể cam đoan với con là tất cả đều nhận ra là tự sát không đem lại mục tiêu mà họ muốn. 

Bất kể động cơ nào đã khiến họ tự tử, họ vẫn không khá gì hơn trước khi tự tử. Thật ra, tình trạng của họ còn tồi tệ hơn trước, bởi vì khi tự sát, họ đã mở rộng thêm dòng sống của họ cho các tà lực kéo họ đi xuống. Kết quả là họ càng khó lòng khởi sự một vòng xoáy đi lên và tìm đường trở về ánh sáng. 

Nếu con muốn một tường thuật vô cùng chi tiết về những gì có thể xảy ra cho một dòng sống tự sát, ta thực sự khuyên con nên đọc quyển sách “Beyond the Darkness” của Angie Fenimore.

Vậy làm gì đây để giúp một dòng sống khỏi rơi vào cái bẫy của tự sát? Điều này tùy thuộc phần nào vào động cơ đã khiến dòng sống bước vào cái ốc xoắn sẽ kéo nó xuống tự vận. Nhưng dù động cơ đó là gì, một điểm sẽ trợ giúp dòng sống là hiểu rằng tự sát không có nghĩa là kết liễu tâm thức. Con có thể lấy đi sự sống của thể xác, nhưng dòng sống của con là nhiều hơn thể xác. Sự sống có nghĩa là con có tâm thức, là con có sự nhận biết về chính con. Khả năng tự nhận biết này không tùy thuộc vào thể xác vật lý và sẽ không biến mất sau khi thể xác qua đời.  

Hầu hết dòng sống tự sát vì những sự việc trong đời họ đã trở nên căng thẳng đến độ họ cho rằng việc kết liễu tâm thức sẽ đem lại nhẹ nhõm. Thế nhưng chính vì tâm thức không chấm dứt với cái chết của thể xác, cho nên không hề có nhẹ nhõm, không hề có sự ngơi nghỉ nào đối với các vấn đề đã dằn vặt họ trong đời sống. Dòng sống không tránh được phải đem theo những vấn đề đó với mình, tức là đem theo trạng thái tâm thức đó với mình sau khi thể xác tắt thở. Họ sẽ vẫn phải đối diện và chiến thắng những vấn đề đó trước khi họ tìm thấy an bình.    

Thật ra, ta phải nói với con là niềm tin phổ biến trong đạo Cơ đốc cho rằng người tự sát sẽ bị xuống địa ngục, thật là không đúng cho đa số dòng sống. Ngược lại, hầu hết mọi dòng sống tự sát đều phải trở lại hiện thân và sẽ tái đầu thai sớm nhất khi có cơ hội thích hợp. Họ sẽ phải đương đầu với cùng những điều kiện đã dẫn tới tự sát, bởi vì đó là cách duy nhất để họ chinh phục những vấn đề trong tâm lý đã ngăn cản họ bước tới. Ta có thể xác nhận với con là việc quay trở lại cùng một loại tình huống thường là chọn lựa của chính dòng sống. Một khi không còn thể xác, bình thường họ sẽ có khả năng nhìn hoàn cảnh của họ một cách khách quan hơn, và hầu hết đều chọn tái đầu thai trong những hoàn cảnh sẽ cho mình cơ hội tối đa để phát triển tâm linh – cho dù những điều kiện này xem ra vẫn rất khó khăn đối với một người.      

Sự kiện họ thường chọn trở lại cùng một hoàn cảnh là bằng chứng hùng hồn nhất cho thấy tự sát không đem lại những gì mà họ kỳ vọng. Do đó, nếu họ có thể, bằng một cách nào đó, nhìn xa hơn áp lực của tình thế trước mặt, rất có thể họ đã không quyết định tự sát. Nếu họ có được một chốc lát khách quan, họ sẽ chịu nhận trách nhiệm về tình trạng của họ và nỗ lực thay đổi trạng thái tâm thức của họ. Họ sẽ chọn giải quyết vấn đề ngay bây giờ thay vì phải chịu thêm chấn thương tình cảm của tự sát để rồi lại đương đầu với tình thế y hệt như trước ở một kiếp sau.

Sau đây ta sẽ xem xét một số nguyên nhân tự tử thông thường nhất:

  • Nổi loạn. Sự sống là một món quà của Thượng đế, cho nên tước đoạt sự sống là một hình thức nổi loạn nghiêm trọng chống lại Thượng đế. Một số dòng sống tự tử vì họ căm giận Thượng đế đến độ họ từ chối món quà của sự sống. Như ta có giải thích trong một bài giảng khác, những dòng sống này rất khó tiếp cận. Một số phải kinh qua tiến trình tự sát để chứng nghiệm trực tiếp sự thật là họ không thể thoát khỏi tâm trạng nổi loạn bằng cách giết chết một thể xác. Trong một số trường hợp, điều này sẽ khiến họ hiểu ra là cách duy nhất để thoát khỏi tâm trạng của họ là nhận lãnh trách nhiệm về hoàn cảnh của mình (nổi loạn chống lại Thượng đế là tâm trạng cùng cực phủ nhận mọi trách nhiệm cá nhân) và thay đổi khung tư duy của mình.
  • Trả thù. Một biến thể của tức giận và nổi loạn là khi dòng sống tự sát do muốn trả thù. Sâu trong những ngóc ngách của tâm lý, có ý muốn trả thù Thượng đế, nhưng dòng sống thường cho đó là mong muốn trả thù thân nhân hay trả thù xã hội. Một dòng sống như vậy có thể được giúp đỡ khi nhận ra là hành vi tự tử sẽ làm hại mình nhiều hơn là bất cứ ai khác mà cũng không ảnh hưởng gì tới Thượng đế. Tuy nhiên, muốn trao hiểu biết này cho một dòng sống đang căm giận cũng rất khó khăn.
  • Mong muốn thoát thân. Một số dòng sống trong tình trạng căng thẳng đến độ họ không còn khả năng xử lý tình cảm lẫn lý trí. Họ cảm thấy bị kẹt cứng, không có cách nào cải thiện hoàn cảnh. Vì vậy, năng lượng của tình thế có thể trở nên gay gắt đến độ họ không đương nổi nữa, và họ tìm cách trốn chạy trong sự tự sát. Những dòng sống này có thể được giúp đỡ nếu họ nhìn ra là họ sẽ không trốn thoát được tâm trạng của họ bằng cách giết thể xác. Cũng sẽ rất hữu ích nếu họ có thể thấy là luôn luôn có cách cải thiện một tình thế cho dù có vẻ khó khăn đến đâu. Nhưng tất nhiên, một khi dòng sống đã bị nhấn chìm trong cơn lốc xoáy đi xuống của tự sát, việc giúp họ thấy được những sự thật này có thể khó khăn.
  • Kêu gọi giúp đỡ. Nhiều dòng sống bị điều kiện cuộc sống đè nặng đến độ họ không thể đối phó được một mình nữa. Một số không có khả năng kêu cứu, trong khi một số khác không có ai để mà cầu cứu. Họ cảm thấy lẻ loi, thiếu vắng yêu thương, như thể không ai để ý là họ sống hay chết. Vì vậy họ không thể cầu cứu bằng những cách thông thường, và cuối cùng lòng họ nặng trĩu đến độ họ toan tính tự sát. Những dòng sống này thực sự không muốn tự sát và toan tính của họ – thường không thành công – là một tiếng kêu cứu từ tiềm thức. Đây là những dòng sống dễ giúp nhất vì họ có thể quay đầu khi họ nhận ra là có người quan tâm.

Điều khó khăn với tự sát là nó không xảy ra đột ngột. Tự sát luôn luôn là kết quả của một tiến trình rất chậm, trải ra từ từ đến độ dòng sống không ý thức là mình đang bước vào một vòng xoáy đi xuống. Họ không nhận ra là họ đã đi quá điểm không thể quay lui, là điểm sẽ dẫn họ đối đầu với con ma tự sát. Đó là lý do họ sẽ rất khó lòng lật ngược lại tiến trình một mình. Họ hoàn toàn không biết là họ đã bước lên một cái cầu trượt đi xuống. Nếu dòng sống không nhận được sự giúp đỡ từ ngoài, thường họ sẽ phải đi muốt con đường này cho tới khi họ sẵn sàng tự vẫn. Và khi đối diện với vực thẳm, một số dòng sống rốt cuộc sẽ thức tỉnh trước thực tế nguy hiểm của tự tử, và họ quay đầu trở lại, cố gắng leo ngược trở lên.  

Cách tốt nhất để giúp đỡ một dòng sống là quan sát xem họ đang sinh hoạt thế nào. Tất nhiên, quan sát càng sớm thì càng có nhiều xác suất lật ngược vòng xoáy đi xuống. Con có thể dùng một số yếu tố chủ yếu sau đây để trợ giúp họ thoát khỏi vòng xoáy đang kéo họ xuống tự vẫn.

Yếu tố đầu tiên là nhìn ra rằng nhiên liệu của vòng xoáy đi xuống tự tử là năng lượng độc hại đã tích tụ trong trường năng lượng của người đó. Như có giải thích ở nơi khác, năng lượng độc hại sẽ tích lũy trong trường năng lượng và từ từ hình thành một cơn lốc xoáy có khả năng áp đảo những ý tưởng và cảm xúc ý thức của người đó. Cơn lốc xoáy cũng có thể mở ra một thế nối kết giữa trường năng lượng của cá nhân với trường năng lượng của hành tinh. Năng lượng của hành tinh có một số xoáy năng lượng tiêu cực mà nhân loại đã phát sinh từ hàng ngàn năm. Một trong những xoáy đó là xoáy năng lượng tự sát, và ở đáy cái xoáy này là một con quỷ, hay một tà thể, có tên là Annihla. Sinh thể bóng tối này lấy năng lượng bằng cách cuốn hút con người vào vòng xoáy tự sát hầu nó đánh cắp bất kỳ năng lượng ánh sáng nào còn lại trong năng trường của họ.

Một khi con hiểu được sự hiện hữu của những năng lượng bóng tối đó, con có thể tham gia vào một buổi cầu nguyện để giải thoát dòng sống khỏi vòng xoáy đi xuống của năng lượng tự sát. Tuy nhiên, ta có một lời cảnh báo thẳng thắn. Trừ khi con có động lượng mạnh mẽ do đã cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh từ Trên, điều này có thể nguy hiểm cho con khi con tham gia vào động lượng toàn cầu của tự sát. Lực này rất mạnh mẽ và hung ác, và nếu con đang tìm cách giải cứu một người khỏi nanh vuốt của nó, rất có thể là nó cũng sẽ đuổi theo con. Cho nên ta khuyến cáo chỉ những ai có sự quân bình cao độ, chưa bao giờ có xu hướng tự vẫn, mới tham gia vào tiến trình này. Và ta cũng thực sự khuyên mọi người nên tham gia cùng nhau trong một nhóm thay vì một người đơn thương độc mã chống chọi lại lực này.

Các bài chú cho Đại thiên thần Michael cực kỳ quan trọng trong vấn đề này, và nếu con muốn đối đầu với tà lực tự sát, ta khuyên con đọc ít nhất 40 lần – ta nói rõ, bốn mươi – mỗi ngày để bảo vệ cá nhân con và giải thoát người kia. Bài nguyện tràng hạt của Đại thiên thần Michael cũng vô cùng quyền năng, cũng như Hộp Dụng cụ Khủng hoảng Tâm linh. Ta cũng khuyến cáo lời kêu gọi phán xét, và con nên kêu gọi Đại thiên thần Michael phán xét và buộc trói Annihla cùng những con quỷ tự sát khác đang công hãm người đó. Cũng sẽ vô cùng hữu ích nếu con hướng một luồng Lửa Tím tập trung vào trường năng lượng của người mà con đang cố giúp. Tương tự, các bài nguyện tràng hạt của Mẹ Mary cũng rất hữu hiệu, đặc biệt bài tràng hạt Tha thứ và Đông-Tây.  

Yếu tố thứ hai là đánh thức người đó trước nguy cơ tự sát và sự kiện tự sát không là giải pháp vì nó không dẫn đến sự giải tỏa các vấn đề của dòng sống. Trong một nghĩa nào đó, có thể nói đây là yêu cầu quan trọng nhất, nhưng ta chỉ đưa vào điểm thứ nhì vì khi nào họ còn bị năng lượng tiêu cực áp đảo, hầu như không có cách nào đánh thức họ dậy. Nói cách khác, trước hết con phải cố gắng giải tỏa áp lực của năng lượng tiêu cực trước khi con có hy vọng đánh thức người đó. Cách hay nhất để đánh thức một người là trao cho họ quyển sách ta đề cập ở trên cùng với một số giáo lý từ trang mạng này, đặc biệt giáo lý nói rằng tự sát không phải là sự kết liễu tâm thức và bất cứ ai có ý tự sát đều bị tà lực tấn công. 

Yếu tố thứ ba là bảo đảm người đó không cảm thấy lẻ loi, không được yêu thương. Nhiều người tự vẫn vì muốn thoát khỏi cảm giác không có ai thương mình, không có ai quan tâm là mình sống hay chết. Một cách hay nhất để giúp họ là trở thành một người biết lắng nghe, chỉ để yên cho họ nói chuyện mà không cố gắng cải sửa họ hoặc giải quyết những vấn đề của họ. Hãy để cho họ nói, cho họ cảm giác là con đang lắng nghe và quan tâm đến họ. Để cho họ bày tỏ các vấn đề của họ mà không cố đưa ra giải pháp. Cứ để cho họ nói cho tới khi họ bắt đầu nhìn thấy giải pháp tự mình họ.

Yếu tố thứ tư là chỉ cho họ thấy là thực sự có một cách để cải thiện tình thế. Con có thể làm điều này bằng cách giúp họ biết đến con đường tâm linh mà ta trình bày suốt trang mạng này. Tất nhiên, tốt hơn hết là một người đã bước đi trên đường tu và có thể chia sẻ kinh nghiệm bản thân, giúp họ trong việc này.

Ta ca ngợi những ai thấy được mức độ nghiêm trọng của vấn đề này và đã thiết lập những đường dây nóng cùng những nhóm hỗ trợ để giúp những người cần khắc phục lực lôi cuốn của tự sát. Nếu con tìm thấy một dịch vụ như thế gần nhà, ta khuyên con nên tận dụng hay giúp cho những người đang có ý tự vận tận dụng dịch vụ này. Được sinh hoạt trong một nhóm có thể là một tác dụng tích cực to lớn đối với bất cứ ai đang có ý định tự vận, đặc biệt nếu họ có thể hỏi chuyện một người đã từng có ý tự vẫn nhưng đã quyết định lui ra khỏi vực thẳm. Không ai tốt hơn là một người đã trải qua kinh nghiệm đó và trở về từ bờ vực.     

Mặc dù những nỗ lực có tổ chức như vậy thật đáng khen, ta thấy cần đưa ra một lời cảnh báo. Xin đừng rơi vào cạm bẫy nghĩ rằng cách giúp một người đang có ý tự sát là lôi kéo họ vào tôn giáo của con. Tiếc thay, ta thấy có một số tín hữu Cơ đốc giáo tràn đầy tình yêu thương và thiện chí lại cố giải cứu những người bị đau khổ bởi ý nghĩ tự sát bằng cách quyến dỗ họ gia nhập giáo hội của mình. Điều con thực sự cần làm là cảm thông với cá nhân dòng sống và giúp họ tìm được con đường tâm linh phổ quát vượt trên mọi tôn giáo. Con đường này không thể bị hạn chế trong một tôn giáo nào, ngay cả tôn giáo Ki-tô.

Cuối cùng, ta cũng xin nói là những lời này không nên dùng để thay thế cho việc tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp. Có những nhà chuyên nghiệp có khả năng đã được huấn luyện để giúp người có ý tự sát, và nếu con tìm được một nhà chuyên nghiệp, con nên yêu cầu họ giúp chính con hay một người nào khác. Ta cũng khuyên con nên học hỏi những bài giảng của ta về cách khắc phục nghiện ngâp kéo dài cả đời, vì trong đó ta cũng có giảng về cách lật ngược vòng xoáy đi xuống khả dĩ dẫn đến tự sát.

Và tất nhiên, các dụng cụ trong Hôp Dụng cụ Thăng vượt có thể giúp con tránh khỏi mọi vòng xoáy tiêu cực – nếu con sẵn lòng áp dụng.

Tại sao một số lãnh đạo tôn giáo lạm dụng quyền lực?

Hỏi (Kim Michaels): Thưa Giê-su, con đã gặp nhiều người, đặc biệt là các tín hữu Công giáo, thất vọng và buồn nản về những sự kiện họ xem là sự lạm quyền hay tham nhũng trong giới lãnh đạo của nhà thờ hay của các tôn giáo có tổ chức nói chung. Con có cảm tưởng trong giới lãnh đạo bất cứ một tổ chức tôn giáo nào cũng có nguy cơ lạm dụng quyền lực. Đặc biệt con thấy những vấn đề sau đây:

  • Một số lãnh đạo tôn giáo có vẻ cho rằng họ đứng trên và vượt khỏi các thành viên trong giáo hội,
  • Một số lãnh đạo có vẻ chờ đợi sự phục tùng mù quáng của người cấp dưới, và họ không chấp nhận cho ai bất đồng hay ngay cả đặt câu hỏi,
  • Một số tin rằng họ thay mặt cho Thượng đế và do đó họ không thể sai lầm,
  • Một số có xu hướng trở nên cứng nhắc, gần như cuồng tín, trong cách tiếp cận tôn giáo hay quyền lực. Họ bám vào một cách diễn giải kinh điển và từ chối không xem đến bất cứ ý tưởng nào vượt ngoài niềm tin của họ.
  • Một số lãnh đạo còn tìm cách lợi dụng sự sợ hãi để ép buộc tín đồ phải tuân theo hệ thống chức sắc hay phải mù quáng chấp nhận học thuyết của giáo hội.

Quan điểm của thày về cách lãnh đạo các hội thánh hiện đại là như thế nào?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Tất nhiên, thành viên của nhiều giáo hội, cả trong đạo Cơ đốc lẫn các tôn giáo khác, đã phải chịu đựng sự lạm quyền của người lãnh đạo, Ta không muốn phủ nhận hay làm ngơ trước một sự thật mà bất cứ người khách quan nào cũng có thể nhìn thấy.

Tuy nhiên, ta muốn lùi lại một bước và thay vì tập trung vào người lãnh đạo của một giáo hội nào đó, chúng ta hãy thử nhìn vào những thử thách mà lãnh đạo mọi tổ chức tôn giáo hay tâm linh phải đối diện. Khi chúng ta hiểu rõ hơn những cơ năng tâm lý liên quan cụ thể đến việc lãnh đạo giáo hội, chúng ta mới giúp mọi người có được một tầm nhìn khác hơn. Sự lạm dụng quyền lực xảy ra trong hầu hết mọi tổ chức tôn giáo và thật là quan trọng cho chúng ta hiểu tại sao.    

Trong vũ trụ vật chất, mọi sự đều là con dao hai lưỡi. Không có một điều gì mà chúng tôi, các vị thày tâm linh của nhân loại, nói hay làm mà tâm nhị nguyên không thể hiểu sai và lạm dụng. Điều này đặc biệt áp dụng cho việc giao quyền hành cho một người nào đó.  

Trước tiên, chúng ta cần nhìn nhận rằng hầu hết mọi người trên địa cầu đều phần nào thờ ơ đối với tôn giáo. Họ không có quan điểm rõ ràng, và ngay cả trách nhiệm về cuộc sống của họ mà họ cũng không nắm lấy thì làm sao họ nhận trách nhiệm cứu rỗi cả hành tinh? Cho nên những ai bị lôi cuốn vào các tổ chức tôn giáo, đặc biệt những người sẵn sàng nhận trách nhiệm lãnh đạo, thường là những người không thờ ơ. Họ là người nhiệt thành, họ là người hành động, và một số là những người dẫn đầu chứ không phải là người đi theo.  

Con có nhớ là ta đã nói rằng thà nóng hay lạnh còn hơn là nguội. Qua câu đó, ta muốn nói là đã làm môn đệ của Ki-tô thì không có ai nguội cả. Tất nhiên là có những người tưởng mình là môn đệ của Ki-tô do đã gia nhập một hội thánh nào đó, nhưng đó chỉ là ảo ảnh.

Để làm môn đệ đích thực của Ki-tô, con phải rực lên một ngọn lửa muốn làm điều gì đó vượt hẳn tư lợi của mình. Ở đây cần phải phân biệt, lòng nhiệt thành không đồng nghĩa với việc trở thành môn đệ đích thực của Ki-tô. Một môn đệ của Ki-tô tuy rực lửa đi theo một chính nghĩa nhưng sẽ phụng sự chính nghĩa đó một cách cân bằng. Người đó sẽ lánh xa mọi cực đoan, mọi cách nhìn trắng đen khởi lên từ tư duy nhị nguyên tương đối. Người đó tận tâm đi tìm một viễn quan quân bình, tức là trung đạo của tâm thức Ki-tô.

Điều ta đang cố giải thích là loại người cảm thấy thu hút vào các trách vụ lãnh đạo trong một tổ chức tôn giáo thường là những người hoặc nóng hoặc lạnh. Thế nào là nóng hay lạnh? Cả hai loại người này đều có lòng nhiệt thành và sẵn sàng cống hiến cho chính nghĩa. Người nóng là người đã tìm được một mức quân bình nào đó, trong khi người lạnh vẫn chưa đạt được sự quân bình của mình. Cho nên một người lạnh có khuynh hướng tiếp cận cuộc sống hay tiếp cận tôn giáo trong cái nhìn đen trắng. Tuy có một số người lạnh chọn được chính nghĩa chân chính, nhưng phần còn lại sẽ đi theo chính nghĩa giả trá.

Một ví dụ điển hình là Paul với lòng nhiệt thành cao độ, nhưng Paul thuở đầu lại hoạt động chống lại ta. Điều cứu vãn những người lạnh là họ luôn luôn chuyển động, cho nên nếu có được một vị thày tâm linh giúp họ đổi hướng thì sự nhiệt thành của họ sẽ tuôn vào một mục đích xứng đáng. Đó là điều đã xảy ra cho Paul.    

Tuy nhiên, phục vụ một mục đích xứng đáng không có nghĩa là mình đã thực sự tinh tấn tâm linh. Nó chỉ có nghĩa là mình không còn tạo ra nghiệp chướng do mình phục vụ một mục đích tệ hại. Nói cách khác, một người nhiệt tâm phục vụ một giáo hội vẫn có thể mất quân bình và đi theo một đường lối phàm phu. Nói ra thì hơi ngược đời, nhưng một người có thể hội đủ mọi tiêu chuẩn của một đệ tử mà lại là một phản đệ tử. Thử thách lớn nhất cho người đó là buông bỏ cách tiếp cận mất quân bình, tìm lại sự quân bình và nhờ vậy bước vào con đường tu bên trong. Paul chưa bao giờ đạt được sự quân bình đó mặc dù ông tiến bộ đáng kể.

Trong hầu hết các tổ chức tôn giáo, con sẽ tìm thấy cả hai loại lãnh đạo, quân bình lẫn mất quân bình. Bây giờ chúng ta hay nhìn xem điều gì xảy ra khi một người mất quân bình đạt được địa vị lãnh đạo trong một tổ chức tôn giáo.

Như ta vừa nói, ít ai bị quyến rũ vào những chức vụ đó trừ khi họ cảm thấy việc phụng sự Thượng đế là điều quan trọng. Cho nên hầu như tất cả những người đó đều cảm thấy mình quan trọng, thậm chí còn quan trọng hơn tất cả, vì họ thực sự tin rằng họ đang làm việc cho ý muốn và mục tiêu của Thượng đế. Họ cũng tin là công việc này quan trọng hơn mọi công việc thế phàm nào khác. Điều này tự nó không sai. Tuy nhiên khi một người mất quân bình ôm lấy cái nhìn đó và nắm quyền hành một tổ chức tôn giáo, thì lạm quyền có thể xảy ra.   

Vì người mất quân bình không hiểu sự cần thiết phải đạt được trung đạo của tâm thức Ki-tô và cũng không có sự phân biện để nhìn thấy trung đạo, họ thường có một cái nhìn trắng đen, Họ ôm lấy giáo điều hoặc hệ tư tưởng và cho đó là chân lý tuyệt đối bất khả sai lầm.

Từ đó họ tin rằng bất cứ ý tưởng nào có vẻ đi ngược lại hoặc đi xa hơn thế giới quan của họ đều sai trái một cách tuyệt đối. Nói cách khác, họ bắt đầu tin rằng họ đang nhập vào một cuộc chiến giữa thiện và ác, và thiện khác ác y như trắng khác đen. Tiếc thay, sự quân bình của họ khiến họ định nghĩa sự khác biệt giữa thiện và ác trên căn bản tư duy nhị nguyên.

Sau đó họ bắt đầu tin rằng việc áp đặt chân lý “duy nhất” này lên toàn tổ chức cùng mọi thành viên có một tầm quan trọng vĩ đại. Điều này có thể dẫn đến sự tin tưởng, đôi khi rất vi tế và không được nhận diện, rằng họ trở thành một vị đại diện hay một phát ngôn nhân cho Thượng đế hay cho các chân sư thăng thiên. Nói cách khác, họ cảm thấy rằng nếu con lên tiếng nói ngược lại chân lý “tuyệt đối” của họ thì con cũng đang nghịch lại Thượng đế, và do đó việc họ áp chế con chỉ là một điều cần thiết, hợp lý. Trong những trường hợp cùng cực, hầu hết mọi biện pháp nhằm bảo vệ cái mà họ coi là chuẩn mực chân chính duy nhất của Thượng đế sẽ được họ xem là hoàn toàn thích đáng. Ví dụ điển hình là Toà án Dị giáo cũng như việc ta bị đóng đinh trên thập tự.       

Điều thực sự xảy ra trong tiến trình này là những người mất quân bình như vậy sẽ cảm thấy, bởi vì chính nghĩa của họ tuyệt đối quan trọng, cho nên họ cũng phải nắm lấy quyền hành tuyệt đối. Nói cách khác, họ bắt đầu tin rằng vì họ làm việc cho Thượng đế và sự nghiệp chân chính duy nhất, họ phải có quyền hành tuyệt đối. Và họ tin là trong mọi công việc của họ, họ được sự hổ trợ tuyệt đối của Thượng đế.

Người ta thường nói, mọi quyền lực đều thối nát, và quyền lực tuyệt đối thì thối nát một cách tuyệt đối. Câu này chí lý lắm đó. Thật là khó ở trong một địa vị nắm quyền tuyệt đối – cho dù đó là quyền lực có thực hay tưởng tượng – mà không bị quyền lực chiếm trọn lấy mình và không sử dụng quyền lực một cách mất quân bình. Cách duy nhất để tránh bị tha hóa bởi quyền lực tuyệt đối là trụ vững nơi trung đạo của tâm thức Ki-tô.

Những ai không trụ vững được nơi trung đạo, dù là do sự mất quân bình tâm lý, tin tưởng bất toàn hay động lượng cũ từ tiền kiếp, đều sẽ không tránh khỏi rơi vào cực đoan và lạm dụng quyền thế ở một mức nào đó. Đó chỉ đơn giản là hậu quả không thể tránh khỏi khi mình cho phép mình cảm thấy nắm vị trí quyền lực toàn diện.

Cho nên một sinh thể Ki-tô sẽ không để cho mình cảm nhận mình ở trong vị trí đó. Phải nhận ra là chỉ có Thượng đế và ý muốn Thượng đế mới có quyền năng tuyệt đối, và ngay cả Thượng đế cũng phải cúi mình trước quyền tự quyết của con người. Có thể nói, mặc dù Thượng đế có quyền năng tuyệt đối, nhưng ngài không sử dụng quyền năng đó vì ngài đã ban quyền tự quyết cho con người. Do đó, không một lãnh đạo nào có thể chính danh tuyên bố là mình được sự ủng hộ của Thượng đế mà đồng thời vi phạm quyền tự quyết của người khác.

Con có thấy sự phân biệt vi tế nhưng tối quan trọng này không? Nếu con thực sự được Thượng đế hỗ trợ, con sẽ cương quyết tôn trọng quyền tự quyết của tất cả đồng môn của con y như các chân sư thăng thiên tôn trọng quyền tự quyết của mọi người. Thật là rõ ràng như thế. Hoặc con đứng nơi trung đạo của Ki-tô, hoặc con đứng ở vô số những điểm cực đoan mà tư duy nhị nguyên đã định ra.  

Kim Michaels: Vậy thì làm thế nào thoát khỏi trạng thái mất quân bình và tìm lại sự quân bình?

Giê-su: Trước tiên phải hiểu ra vấn đề. Con không thể giải quyết một vấn đề cho đến khi con nhìn nhận là có vấn đề, rồi con bắt đầu tìm hiểu điều gì gây ra vấn đề. Cho nên nếu con thực sự muốn đạt được sự cứu rỗi cá nhân, con phải khởi đầu với sự nhìn nhận rằng việc sử dụng quyền lực mất quân bình là vấn đề cần giải quyết. Con không thể đem theo sự mất quân bình lên thiên đàng. Ở trên đó không hề có sự mất quân bình.  

Có thể nói, để tránh rơi vào bẫy của sự mất quân bình, một đạo hữu cuồng tín cần có những biện pháp nhất quyết. Ta đã có trao cho các con một số dụng cụ tâm linh trong trang dụng cụ để giúp thăng vượt sự cuồng tín tôn giáo. Ta cũng khuyên con nên đọc bài giáo lý của Mẹ Mary về cách thoát khỏi các độc tố tâm linh tương ứng với các vị Phật Thiền định.

Rượu và các trải nghiệm tâm linh

Hỏi: Con được biết có một buổi lên đồng nơi nhân vật đồng bóng khuyến dụ đệ tử nên uống rượu đỏ trong các buổi học tập vì rượu khiến cho trải nghiệm tâm linh của họ được nâng cao. Xin thày vui lòng bình luận về điều này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Có rất nhiều sinh thể phi vật chất sẵn sàng giao tiếp với loài người. Ta đã có dịp giải thích là tâm con người có khả năng vận hành như chiếc máy thu thanh. Trong thời đại hôm nay, ngày càng có nhiều người phát triển được khả năng bật máy thu thanh của tâm thức lên và bắt được làn sóng của những sinh vật vượt ngoài cõi vật chất.

Nhu cầu lớn nhất hiện nay là khả năng phân biện Ki-tô để mọi người có thể tránh xa việc giao tiếp với những sinh thể chưa thăng thiên. Có rất nhiều những sinh thể như vậy và trong số họ cũng có rất nhiều sinh thể sốt sắng giao tiếp với con người. Tuy nhiên, sự kiện họ chưa thăng thiên đáng lý phải khiến cho người ta tự hỏi tại sao họ đã không vượt qua được cuộc điểm đạo cuối cùng trên đường đạo. Nếu con muốn khởi sự một cuộc hành trình đến một nơi nào đó thì điều khôn ngoan nhất là con nên được hướng dẫn bởi một sinh thể đã hoàn tất cuộc hành trình và biết rõ đường đi lối bước.

Ta xin nói rõ là không một vị chân sư thăng thiên nào sẽ bao giờ khuyên con pha trộn rượu với sự tu tập tâm linh. Quả thật, rượu có thể nâng cao trải nghiệm của một người, nhưng trải nghiệm đó nhất định không phải là trải nghiệm tâm linh. Ta rất buồn khi biết rằng rất nhiều người tin là họ đã đạt được những trải nghiệm tâm linh do sử dụng ma túy hay những chất kích thích. Cho dù các trải nghiệm đó có vẻ thực đến đâu đi nữa thì đó vẫn là một ảo tưởng vô cùng nguy hiểm.  

Bộ não con người có khả năng, do tác động của sự kích thích hóa học, sản xuất ra những trải nghiệm mang vẻ giông giống như trải nghiệm tâm linh. Tuy nhiên sự khác biệt giữa những trải nghiệm này với thực tại cũng tương tự như người coi phim máy bay với người đang thực sự ở trên không trung.

Ta cũng có thể bảo đảm với con là không một chân sư thăng thiên nào sẽ chiếm lấy cơ thể của một người và khiến cho người đó nói năng với một giọng nói khác lạ. Chúng tôi có thể phát biểu qua một người và khi làm vậy, chúng tôi có thể phóng chiếu một phần của bản thể chúng tôi vào cơ thể và tâm trí người đó. Tuy nhiên, chúng tôi không biến người đó trở thành vô thức, hoàn toàn không biết mình đang nói gì, bởi vì làm vậy sẽ là vi phạm quyền tự quyết của người đó. 

Giáo lý nền tảng về UFO, vòng tròn đồng ruộng và các hiện tượng khác

Hỏi: Liệu hiện tượng các vòng tròn đồng ruộng (crop circles) có phải là thông điệp từ các chân sư thăng thiên, hay là chúng xuất xứ từ một cõi phàm, chẳng hạn cõi lý trí? Chúng ta có thể học hỏi được gì từ hiện tượng đó? Chúng ta có nên lo lắng hay vui mừng khi thấy càng ngày hình như càng có nhiều vòng tròn đồng ruộng xuất hiện khắp thế giới? Xin cảm ơn các thày về trang mạng tuyệt vời này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Trước hết, một câu trả lời ngắn gọn và dứt khoát. Vòng tròn đồng ruộng (crop circles) KHÔNG PHẢI là những thông điệp từ chân sư thăng thiên. Tại sao chúng tôi, các chân sư thăng thiên, lại phải gửi thông điệp cách đó khi mà chúng tôi đã đào tạo những vị sứ giả để ban truyền Lời Hằng Sống?

Ta biết người ta có thể biện luận là chúng tôi đã gửi vòng tròn đồng ruộng xuống như một dấu lạ dễ thấy cho những ai không mở tâm đón nhận Lời Hằng Sống, nhưng đó là một sự hiểu lầm cơ bản về mục đích của chúng tôi. Con thấy không, mục đích trên hết của chúng tôi là giảng dạy cho nhân loại sự thật chủ yếu về sự sống: Chính tâm thức của con tạo ra hoàn cảnh vật lý của con.

Vũ trụ vật chất là một tấm gương phản chiếu lại cho con – dưới dạng hoàn cảnh vật lý – những hình tư tưởng mà con phóng ra với tâm con, gồm cả bốn tầng của tâm phàm. Vì vậy, những sự mất cân bằng hiện có trên địa cầu là do loài người tạo ra một cách tập thể, và sẽ chỉ được thăng vượt một khi loài người nâng cao tâm thức tập thể. Điều này sẽ không xảy đến do một thế lực hay một dạng sinh vật thông minh nào đó ở ngoài trái đất.   

Con có nắm điều ta đang nói? Trọng tâm của các chân sư là CHÍNH CON, là giảng dạy cho con rằng tâm thức của CON tạo ra hoàn cảnh của con. Do đó, cách duy nhất để hoàn cảnh của con thay đổi là con sẵn sàng thay đổi tâm thức của con. Cho nên làm sao chúng tôi có thể giảng dạy điều này cho nhân loại nếu chúng tôi làm hiện ra một số dấu lạ rõ ràng là đến từ một quyền lực cao hơn? Con có thấy tại sao ta từng nói: “Nhưng ngài đáp rằng: Một thế hệ hung ác và gian dâm tìm cầu một dấu lạ, nhưng sẽ chẳng có dấu lạ nào được ban ra…” (Matthew 12:39)

Thế nào là một thế hệ hung ác và gian dâm? Đó là một nhóm người không sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về bản thân mình và chấp nhận sự thật cơ bản là tâm thức tạo ra thực tại. Cho nên họ đã chấp nhận một bi kịch cuồng đại khiến họ tin vào một thượng đế bên ngoài, một thượng đế ngồi trên trời xa tít sẽ đi xuống đời để giải cứu họ mà không cần họ nhìn vào cái xà trong chính mắt họ. Và quả thật, nếu những người như thế được ban cho một dấu lạ, điều đó sẽ chỉ củng cố tư duy cuồng đại của họ và cho họ một cái cớ để KHỒNG chịu cải sửa bản thân – thay vào đó, họ sẽ ngồi chờ một quyền lực cao hơn nào đó đển giải quyết mọi vấn đề dùm họ.

Đây chính là tại sao nhiều tín đồ đạo Cơ đốc ngồi chờ ngày tái lâm của ta, họ tin là ta sẽ đem lại vương quốc của Thượng đế xuống trái đất và họ sẽ không phải làm bất cứ gì. Con cũng thấy nhiều người theo trào lưu Thời Mới hay người tâm linh cũng ngồi chờ một giải pháp kỳ diệu, cho dù đó là hiện tượng UFO (Unidentified Flying Object hay vật thể bay không xác định), hay sự xuất hiện của chân sư thăng thiên trong cõi vật lý, hay điạ cầu được thăng lên chiều không gian thứ năm của cõi vật lý.

Suy nghĩ như vậy sẽ KHÔNG LÀM GÌ để mang lại sự thị hiện vật lý của một Thời đại Hoàng kim. Thật ra, nó sẽ chỉ trì hoãn Thời đại Hoàng kim bởi vì quá nhiều người trong số 10% tiến bộ nhất đã khoác vào cái tư duy thụ động ngồi chờ dấu lạ thay vì nâng cao tâm thức mình và đồng sáng tạo chỉ dấu cho một thời đại mới.

Ta biết, có người sẽ hỏi là tại sao ta lại thực hiện một số phép lạ cách đây 2000 năm. Lý do là vì con người thời đó ở trong một trạng thái tâm thức thấp hơn. Ta đã phải đánh thức họ dậy từ một trạng thái tâm thức thấp hơn hẳn so với trình độ bình thường ngày nay, và vì thế ta cần phải làm một số phép lạ. Tuy nhiên, con hãy lưu ý là ta đã không làm những phép lạ đó cho bất cứ ai đòi hỏi, và như vậy ta đã không làm để khoa trương mà chỉ để chứng tỏ khả năng của tâm trên vật chất.

Tất nhiên người ta đã sử dụng sự kiện trên để dựng lên một hình tượng sùng bái cho rằng ta là đứa con DUY NHẤT của Thượng đế, trong khi mục đích của ta là cho mọi người thấy rằng chính họ, tất cả những đứa con của Thượng đế, đều có thể là cánh cửa mở cho Thượng đế thực hiện những kỳ tích như vậy – vì với Thượng đế thì mọi chuyện đều khả dĩ. Ngày nay điều đó vẫn đúng, và ngày nay có nhiều người hơn đã nâng tâm thức mình lên cao tới mức họ cũng có khả năng làm cánh cửa mở cho phép lạ xảy ra. Cho nên ngày nay, điều càng quan trọng hơn là những chỉ dấu về quyền năng của tâm trên vật chất không nên được xem là đến từ một quyền lực cao hơn, hay từ một người cao trội hơn mọi người khác. Những chỉ dấu đó chỉ xảy ra khi con người – nhiều người chứ không chỉ một người – quyết định tự mình thị hiện.

Vậy người tâm linh có thể học được những gì từ các vòng tròn đồng ruộng? Phải, con học được là tâm có quyền năng trên vật chất, và vòng tròn đồng ruộng là một sản phẩm của hiệu ứng giao nhau (crossover effect) sẽ được mô tả dưới đây. Chính tâm thức con người đã tạo ra các vòng tròn đồng ruộng này cùng những hiện tượng tương tự, kể cả những vụ quan sát UFO. Nếu con người biết thừa nhận điều này, họ sẽ có thể học hỏi từ đó, nâng tâm thức mình lên cao và đem lại Thời đại Hoàng kim. Nhưng nếu họ phủ nhận hay không biết gì về sự thật này, thì họ sẽ xem các hiện tượng đó là dấu lạ từ một quyền lực cao hơn, rồi họ sẽ ngồi chờ ngày quyền lực đó đem lại Thời Hoàng kim cho họ, nhưng họ sẽ chỉ khiến cho ngày đó càng xa hơn mà thôi. Liệu con có thấy điều ta muốn nói? Nếu tâm thức nhân loại tạo ra một số hiện tượng mà chính mình xem là bằng chứng về một quyền lực cao hơn, thì làm sao họ có thể nhận trách nhiệm về bản thân mình? Kỳ thực, dấu hiệu mà các vòng tròn ruộng đồng chỉ ra cho con chính là sự kiện tâm thức của con sản xuất ra thực tại của con.

Là người tâm linh cởi mở với giáo lý của chân sư thăng thiên, con cũng học được là phải đặt ưu tiên cho đúng chỗ, không chú ý vào những hiện tượng không giúp gì cho cá nhân hay cho tâm thức tập thể tăng trưởng. Nói cách khác, con hãy ngừng đi tìm dấu lạ từ một quyền lực cao hơn để tập trung vào việc kết hợp với uy lực cao hơn đó, hầu uy lực đó có thể vận hành xuyên qua chính CON. Quá nhiều người tâm linh và người theo trào lưu Thời mới bị mê mệt với những loại hiện tượng mắt thấy, đến độ họ chỉ chú tâm đến những chuyện ngoại cảnh thay vì lo cải sửa tâm lý mình bằng cách tra vấn nhận thức của mình. Tất nhiên đây là một phần của những bi kịch cá nhân của con người, nhưng các chân sư sẽ được lợi ích hơn gấp bội nếu có thêm nhiều người khắc phục được bi kịch của mình thay vì củng cố cho bi kịch.

Con có nên lo lắng hay vui mừng khi thấy càng ngày hình như càng có nhiều vòng tròn đồng ruộng xuất hiện? Hay là con nên thờ ơ? Vòng tròn đồng ruộng sẽ không ngăn cản và cũng không đem lại được Thời đại Hoàng kim, cho nên con hãy tập trung vào những gì sẽ đem lại thời Hoàng kim.

Vậy thì cái gì tạo ra vòng tròn đồng ruộng (ít ra là khi không do bàn tay con người làm ra)? Cách giải thích giản dị nhất là hiệu ứng giao nhau, như theo lời trích sau đây từ sách “Master Keys to Spiritual Freedom” (Chìa khóa chủ yếu cho tự do tâm linh) của thày Maitreya.

Maitreya: Như ta đã nói, ba tầng cõi cao hơn trong bầu cõi này được cấu tạo bằng năng lương thanh nhẹ hơn năng lượng của cõi vật lý. Năng lượng càng mềm mại, thì tầng cõi càng cao càng dễ chia ra thành những cấp độ riêng biệt, nơi mỗi cấp độ tượng trưng cho một tầng tâm thức và là nơi cư ngụ của những sinh thể mà trình độ tâm linh (cao hay thấp) nằm trong một phổ nhất định. Nói chung, các tầng cõi cao hơn được tạo ra với một cấp độ duy nhất (cõi bản sắc được tạo ra với hai cấp độ), và việc phân chia thành nhiều cấp độ hơn chỉ xảy ra khi các sinh thể trong tầng cõi đó nâng cao tâm thức mình lên hay kéo thấp tâm thức mình xuống. Nói cách khác, chính các sinh thể trong một tầng cõi tạo ra những cấp độ trong tầng cõi đó. Chẳng hạn, các sinh thể trong cõi cảm xúc đã tạo ra những cấp độ thấp trong cõi đó, là cái mà ta đã gọi là cõi trung giới (astral plane) và được nhiều người xem là địa ngục. Nhiều người đã nhìn thấy phần nào cõi trung giới trong khi nằm mơ, hay khi say rượu, say ma túy.

Như đã đề cập, khi cho phép sự phân chia thành nhiều cấp độ thì mục đích là để bảo vệ các sinh thể tiến hóa cao hơn khỏi phải tiếp xúc trực tiếp với các sinh thể ích kỷ, hà hiếp. Tất nhiên, đáng lý ra các sinh thể trong cõi vật lý cũng phải được bảo vệ y như vậy, nhưng vì cõi vật lý không thể chia ra thành nhiều cấp độ, cho nên sự bảo vệ đã được thực hiện bằng cách đặt các dải thiên hà và hệ mặt trời cách xa nhau đến độ việc di chuyển vật lý không thể nào xảy ra trên thực tế.

Điều ta muốn nói là có hàng triệu hành tinh trong vũ trụ vật lý có sự sống, trên nguyên tắc tương tự với những gì con thấy trên địa cầu – mặc dù trong một số trường hợp có sự khác biệt rất lớn về mặt thiết kế. Tuy nhiên, những hệ mặt trời hỗ trợ sự sống này xa cách nhau trong không gian bề ngang, đến độ sự tiếp xúc vật lý trực tiếp không thể xảy ra trên thực tế. Kỳ thực, việc di chuyển giữa hai hệ mặt trời là chuyện khả dĩ, tuy nhiên chỉ có những nền công nghệ cực kỳ tinh xảo mới có thể thực hiện được. Và công nghệ như vậy chỉ có thể được phát triển bởi những sinh thể với mức chứng đạt tâm linh rất cao, có nghĩa là họ không còn mục đích hung hãn nào nữa khi du hành đến hành tinh khác. Họ cũng hiểu được mục đích của vũ trụ là để tạo cho các sinh thể trên một hành tinh cơ hội tự mình tiến hóa, cho nên họ sẽ có đủ minh triết để không can thiệp vào tiến trình này.

Ý của ta ở đây là muốn giúp con nhìn xa hơn một số huyền thoại vô cùng phổ biến do sách và phim ảnh khoa học viễn tưởng tạo ra. Sự sống trên địa cầu đã không được sinh tạo hay được cấy trồng bởi những người ngoài hành tinh đã đến trái đất trong những chiếc đĩa bay. Địa cầu cũng sẽ không bị tàn phá bởi những kẻ cướp vũ trụ không ngừng đi khai thác nguồn tài nguyên mà chúng đã cạn kiệt trên hành tinh của chúng. Và cũng vậy, địa cầu sẽ không được cứu nguy bởi những sinh thể ngoài địa cầu với công nghệ và trí tuệ tinh xảo đến độ họ sẽ giải quyết tất cả mọi vấn nạn cho nhân loại.

Các nền văn minh không cao lắm có khả năng du hành liên hành tinh trên những khoảng ngắn như trong thái dương hệ của chúng ta chẳng hạn. Tuy nhiên, không có hành tinh nào khác trong thái dương hệ chúng ta còn hỗ trợ sự sống trong cõi vật lý nữa. Bao nhiêu giả thuyết và ngay cả những vụ quan sát UFO đều phát xuất từ sự kiện những hình tướng đó hiện ra trong cõi trung giới. Có những người đã dùng tâm mình “bắt sóng” được cõi trung giới và có những trải nghiệm có vẻ hiện thực đến độ những hình tướng đó tưởng chừng như là vật lý. Thậm chí có những nơi trên trái đất nơi rung động của cõi vật lý đã bị kéo thấp đến độ đôi khi có một hiện tượng xuyên chéo, giao nhau, giữa cõi vật lý với cõi trung giới. Hiệu ứng này có thể được củng cố bởi những người bị ám ảnh bởi UFO, và như vậy những người này cũng góp phần vào hiện tượng mà họ quan sát.

Con hãy lưu ý một số hệ quả tinh tế nhưng tối quan trọng trong những điều mà ta ngụ ý. Mọi thứ trong cõi vật lý được tạo ra qua một tiến trình bắt đầu ở cõi ê-the, là nơi con tìm thấy những hình tư tưởng thuần khiết do các chân sư ở cõi tâm linh tạo ra. Các hình tư tưởng ê-the này được chồng lên ánh sáng Mẫu-Vật và như vậy độ rung của chúng được kéo xuống tầng lý trí. Dựa trên các hình tư tưởng ê-the, thêm nhiều hình ảnh lý trí được tạo ra và ánh sáng lại được kéo xuống thấp hơn nữa vào dải tần số của tầng cảm xúc. Ở đây, các hình ảnh đó được thấm đẫm tình cảm, khiến cho ánh sáng Mẫu-Vật bị kéo xuống dải tầng số vật lý, nơi chúng được thị hiện trong hình dạng vật lý. Nguyên tiến trình vừa kể có sự tham gia của những sinh thể tự nhận biết ở mọi cấp, và bởi vì một số những sinh thể này đã trở nên đui mù bởi tâm thức nhị nguyên, cho nên các cấp độ thấp nhất của tầng cõi ê-the, lý trí và cảm xúc chứa đựng nhiều hình tư tưởng ô uế, và những hình tư tưởng này đã bóp méo, tha hóa ánh sáng đi xuyên qua. Điều ta muốn nói là nếu ánh sáng đã đi theo con đường tinh khiết nhất thì nó đã có thể đến được cõi vật lý mà không đến nỗi bị tha hóa. Tuy nhiên, vì ánh sáng phải đi qua các cấp độ thấp kém nhất của cõi lý trí và cảm xúc, cho nên nó bị biến dạng đến độ hình tư tưởng ê-the nguyên thủy bị che lấp hoàn toàn, hoặc thậm chí còn bị một hình tư tưởng ô uế thay thế.

Bây giờ con thấy được là các điều kiện trên địa cầu vật lý tùy thuộc vào những con người đang đầu thai, liệu họ có thể đem các hình tư tưởng ê-the thuần khiết vào thị hiện, hay là họ đem vào thị hiện những hình tư tưởng méo mó của các cấp độ thấp kém. Nếu tâm thức họ tương đối trong sạch, họ có khả năng đem xuống các hình tư tưởng ê-the chưa biến dạng, và như vậy họ tạo ra một cái gì tưởng chừng như thiên đàng hạ giới. Thế nhưng nếu họ hạ thấp tâm thức xuống, họ sẽ đem vào thị hiện vật lý những hình tư tưởng có mặt nơi các cõi thấp của lý trí và cảm xúc. Điều này xảy ra trên quy mô hành tinh khi có những nhóm người hòa điệu tâm thức tập thể của họ vào một số cấp độ nhất định của các cõi cao hơn. Sự hòa điệu tập thể này có thể được tập trung vào một số địa điểm vật lý, và đó là tại sao con thấy một số khu vực với độ rung rất cao, rất tâm linh, trong khi có những khu vực khác giống như điạ ngục trần gian. Đây chính là nguồn gốc của huyền thoại về Shangri-La, một xã hội đẹp đẽ lý tưởng, nhưng trong nhiều thời đại văn minh hoàng kim của thời quá khứ đã từng có những loại xã hội như vậy thị hiện vật lý.

Vậy chúng ta thấy được là nếu có người hòa điệu tâm thức của họ vào các cấp độ thấp kém của cõi cảm xúc, thì con sẽ thấy những hình tư tưởng thấp nhất mà loài người cùng các thần thánh giả hiệu đã tạo ra từ xưa tới giờ. Bây giờ còn thêm một chuyện, là các sinh thể sống nơi các cõi cảm xúc thấp kém này bắt buộc phải đánh cắp năng lượng của loài người để sống còn, thì con có thể hiểu tại sao chúng luôn luôn tìm đường xâm nhập vào tâm thức người ta. Lối xâm nhập chủ yếu của chúng là lòng sợ hãi, và chúng luôn luôn tìm cách khơi lên nỗi sợ về một cái gì đó mà người ta nghĩ là không có cách nào che chắn. Chẳng hạn vào thời Trung cổ, nhiều người tin vào ma quỷ hay hồn yêu tinh có thể hãm hại thể xác của họ. Họ còn tin vào một số sinh vật mà họ cho là có thể xác, như rồng, khổng lồ, và vô số những thú vật thần thoại khác. Những thú vật đó có thật hay không? Có, chúng đã và vẫn có thật, nhưng chỉ trong cõi cảm xúc thấp. Liệu người ta có thể nhìn thấy chúng và bị chúng tác động vật lý hay không? Câu trả lời cũng là có, nhưng chỉ những ai đã hòa đồng tâm thức tập thể của mình vào các cõi cảm xúc thấp. Chính việc hòa đồng này đã bắc một “nhịp cầu” tâm thức làm mờ nhạt lằn ranh giữa cõi vật lý với cõi cảm xúc.

Chúng ta có thể nói, bởi vì tất cả mọi thứ đều là tâm thức, cho nên tâm thức tập thể của những người đã sáp nhập sóng rung động của cõi vật lý vào cõi cảm xúc đã khiến cho hiệu ứng giao nhau nói trên xảy ra. Ở một số thời điểm và địa điểm, người ta có thể thực sự gặp được rồng và những thú vật thần thoại khác. Liệu các thú vật đó có thân xác vật lý? Điều này tùy theo người ta dùng từ như thế nào. Chẳng hạn, có người có thể gặp gỡ vật thần thoại và trải nghiệm một sự trực diện hoàn toàn vật lý, nhưng vật đó không có khả năng di chuyển tự do hay sinh đẻ trong cõi vật lý. Vật đó cũng có thể hiện hữu trong một khu vực giới hạn và chỉ khi nào tâm thức người ta khiến cho hiện tượng giao nhau có thể xảy ra.      

Điều này giải thích tại sao nhiều người thời Trung cổ quả quyết là họ đã nhìn thấy tận mắt đủ loại thú vật thần thoại, trong khi ngày nay trong xã hội hiện đại duy lý, gần như chẳng còn ai nhìn thấy nữa. Từ khi khoa học ra đời, hoặc người ta không còn tin vào những vật đó nữa, hoặc người ta không tin là chúng có thể hiện hữu vật lý, và do đó nhịp cầu nối liền cõi vật lý với cõi cảm xúc nơi những vât đó có mặt đã bị co rút lại đến độ hiệu ứng giao nhau trở nên yếu ớt.

Tất nhiên, các sa nhân và thần thánh giả hiệu không thể bằng lòng với sự kiện quyền năng của chúng – là quyền năng khủng bố con người để khiến con người làm tha hóa ánh sáng – đã bị suy giảm do khoa học ra đời. Cho nên chúng phải cố tìm một cách khác để khơi lên nỗi sợ bản năng khi con người tin vào một hiện tượng có vẻ như vô phương đối phó. Chúng đã không thực hiện được âm mưu này cho tới khi chính khoa học phát triển hơn, khiến cho hầu hết mọi người hiểu ra là vũ trụ rộng lớn mênh mông và tin rằng sự sống được sinh tạo qua một quá trình tiến hóa. Đây là cơ hội đưa ra khái niệm là trong vũ trụ mênh mông này có những nền văn minh vô cùng tiến bộ đã phát triển trên hành tinh khác. Thế là với ý tưởng là nhân loại đang dần dần dùng hết tài nguyên trên địa cầu, mới nảy ra ý tưởng là có những nền văn minh khác đã cạn kiệt và tàn phá hành tinh của họ, và giờ đây họ đang bay khắp vũ trụ trong tàu không gian để săn lùng những hành tinh vẫn còn tài nguyên. Bởi vì những người ngoài địa cầu đó có công nghệ vượt hẳn nhân loại, cho nên không có cách chi nhân loại có thể chống đỡ. Và bởi vì người tin vào khoa học cũng có xu hướng không tin Thượng đế, cho nên họ nghĩ là không có một sức mạnh nào – trên trời cũng như dưới đất – có thể bảo vệ họ khỏi một cuộc xâm lược từ vũ trụ.

Phần lớn hiện tượng ưa thích khoa học viễn tưởng đã là một công cụ cho sa nhân tạo ra một nỗi sợ bản năng dựa trên khoa học để thay thế nỗi sợ bản năng dựa trên tôn giáo của thời Trung cổ. Và giờ đây chúng đã tạo ra một nỗi sợ mới mà loài người dường như không thể chống đỡ. Con cũng thấy, thật là mỉa mai khi khoa học đã giúp cho loài người khắc phục nỗi sợ của thời Trung cổ để bây giờ trở thành công cụ tạo ra một phiên bản mới cho cùng nỗi sợ đó.

Vậy thì UFO có thật hay không? Có, UFO có thật trong một số tầng cấp thấp kém của cõi trung giới. UFO có hiện thực vật lý hay không? Không, nếu theo nghĩa UFO là những phi thuyền được chế tạo trên một hành tinh khác trong cõi vật lý và đã bay đến địa cầu trong cõi vật lý. Vậy thì tại sao càng ngày những vụ quan sát UFO hình như càng nhiều hơn? Bởi vì khi người ta hòa đồng tâm thức tập thể của mình vào những tầng cấp của cõi trung giới nơi UFO đã được tạo dựng bởi các thần thánh giả hiệu, một hiệu ứng giao nhau được sản xuất ra. Hiệu ứng này có tiềm năng gia tăng, cho nên việc hay nhất mà hầu hết mọi người tâm linh cần làm là từ chối tập trung sự chú ý của mình vào hiện tượng UFO, và thay vào đó tập trung vào cõi tâm linh.

Hầu hết mọi người tâm linh có thể – và nên – tu tập để phát triển tâm linh mà không quan tâm đến hiện tượng UFO. Con càng chú tâm vào UFO thì con sẽ càng buộc chặt con lại với cõi trung giới, càng mở tâm con ra cho những loại năng lượng và hình tư tưởng đó. Do đó, qua việc cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh và đặt trọng tâm vào cõi tâm linh, con sẽ có thể vượt lên khỏi mọi ràng buộc với cõi trung giới và hiện tượng UFO. Ông hoàng của cõi trung giới có thể đến trong chiếc đĩa bay của y nhưng y sẽ không nắm được gì trong con (John 14:30).

Giáo lý căn bản về cái chết thứ nhì

Hỏi: Con không hiểu rõ việc linh hồn bị cái chết thứ nhì, bị xóa bỏ vĩnh viễn. Năng lượng không thể bị xóa bỏ – và linh hồn là năng lượng, vậy con xin thày giảng cho con rõ hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, đăng ngày 16/11/2012.


Mọi thứ có hình tướng đều được tạo ra từ bản chất của Thượng đế, hay năng lượng của Thượng đế; đó là cái chúng tôi gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Thượng đế đã tạo ra một khoảng rung động liên lục, và con sống trong một phần nhỏ của khoảng này, gọi là vũ trụ vật chất, hay là bát cung (octave) vật lý. Vũ trụ vật chất được tạo ra từ năng lượng xuất phát từ cõi tâm linh. Độ rung của năng lượng này được hạ xuống cho đến khi nó rung động trong quang phổ của các tần số của vũ trụ vật chất. Năng lượng thấp không thể ảnh hưởng năng lượng cao.

Khi các khoa học gia nói – qua định luật thứ nhất của nhiệt động học – là năng lượng không thể được tạo ra hay bị hủy hoại, thì họ đúng nếu ta theo sát nghĩa, nhưng sự thực hơn thế. Thượng đế đã tạo ra mọi năng lượng, và Thượng đế chắc chắn có thể hủy hoại chúng. Tuy nhiên, một sinh thể trong một cõi nào đó – tỷ dụ như vũ trụ vật chất – không thể tạo ra hay hủy hoại năng lượng trong cõi đó hay trong các cõi cao hơn.

Bây giờ chúng ta cần thêm một điểm là mọi hình tướng được tạo ra từ năng lượng của Ánh sáng Mẫu-Vật. Tuy nhiên, mỗi hình tướng được tạo ra bởi một hình tư tưởng được đè chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật cho tới khi ánh sáng thể hiện ra hình tướng. Vậy bây giờ ta thấy là hình tướng được tạo ra TỪ năng lượng, nhưng nó được tạo ra BỞI tâm thức.

Như chúng tôi đã giảng trong các bài khác, cái Ta Biết được sinh tạo trong cõi tâm linh. Nó không có hình tướng, không có thực chất vật chất, và đó là lý do vì sao nó không thể bị hủy diệt hay bị ảnh hưởng bởi bất cứ các rung động thấp nào trong cõi vật chất. Đó là lý do vì sao chúng tôi gọi nó là “nhận biết thuần khiết”. Nói cách khác, cái Ta Biết là tâm thức được tạo ra với mục đích đồng sáng tạo bằng cách đè chồng hình tư tưởng lên năng lượng.

Do đó, khi cái Ta Biết đi xuống, nó bắt đầu dùng năng lượng để đồng sáng tạo ra hình tướng. Câu hỏi mà ta cần đặt ra là nó pha màu các năng lượng này ra sao. Trong hoàn cảnh lý tưởng, cái Ta Biết tạo ra hình tư tưởng dựa trên ý niệm là nó nối kết với cái gì lớn hơn chính nó và với ý muốn nâng cao mọi thứ mà nó gặp gỡ. Lúc đó, các hình tư tưởng này sẽ dâng lên và trở thành một phần của căn thể (causal body) của nó. Năng lượng được pha màu bởi các hình tư tưởng đó cũng sẽ dâng lên, và một phần sẽ được lưu trữ trong căn thể (và sẽ tạo ra một động lực (momentum) tích cực), và phần khác sẽ được nhân lên bởi Hiện diện TA LÀ và gửi trả lại về con. Điều này có nghĩa là con sẽ gia tăng khả năng sáng tạo của mình.

Nhưng cái Ta Biết cũng có thể quyết định đi vào cái mà chúng tôi gọi là tâm thức tách biệt hay nhị nguyên. Để làm điều này, trước tiên nó phải tạo ra hay chấp nhận một hình ảnh của chính nó như là một sinh thể tách biệt tách rời khỏi cội nguồn của nó. Một khi cái Ta Biết bước vào một cái ta tách biệt như vậy, thì nó sẽ tạo ra hình tư tưởng dựa trên ý niệm tách biệt thay vì ý niệm kết nối với tổng thể mà nó có trước kia. Những hình ảnh này không thể dâng lên vào căn thể. 

Thêm nữa, tất cả các năng lượng bị pha màu bởi các hình ảnh đó cũng không thể dâng lên, và do đó chúng sẽ không được nhân lên bởi Hiện diện TA LÀ. Đó là lý do vì sao dòng sống của con trở nên một hệ thống khép kín, và con có thể sẽ rốt cuộc cạn hết năng lượng sáng tạo. Lúc đó, chọn lựa duy nhất của con là lấy năng lượng từ cõi vật chất (thay vì nhận năng lượng từ cõi tâm linh), có nghĩa là con phải lấy năng lượng từ người khác. Lúc đó, con trở nên một ma cà rồng hút năng lượng.

Vậy bây giờ thì câu hỏi kế tiếp là những năng lượng thấp đó đi đâu – vì khoa học đã nói đúng là khi con bước vào cái ta tách biệt thì con không thể hủy diệt năng lượng đã bị pha màu qua ý niệm bản ngã đó? Và câu trả lời là các năng lượng đó sẽ bắt đầu tích tụ nơi mà chúng ta có thể gọi là cái ta tách biệt hay cái ta thấp. Một số giáo lý tâm linh đã dùng từ linh hồn (soul) để gọi phần này của bản thể của con, vì các giáo lý này không có quan niệm cái Ta Biết và cũng không phân biệt tâm thức và năng lượng.

Điểm quan trọng là khi cái Ta Biết tự nhận nó là một sinh thể tách biệt, thì nó không thể bỏ lại đằng sau ý niệm bản ngã đó, và nó cũng không thể bỏ lại đằng sau hay chuyển hóa các năng lượng đã bị pha màu bởi cái ta đó. Điều này cũng có nghĩa là cái Ta Biết không thể thăng thiên khi xác thân vật lý chết đi, và do đó nó cần đầu thai trở lại.

Con hãy ghi nhận là điều mà nhiều giáo lý gọi là nghiệp (karma) bao gồm các hình tư tưởng được tạo ra qua cái ta tách biệt và những năng lượng đã bị pha màu bởi cái ta đó. Các năng lượng có thể được tái chỉnh qua một tiến trình tương đối máy móc, nhưng thăng vượt các hình tư tưởng đòi hỏi một tiến trình có ý thức trong đó con quyết định đào thải các hình ảnh cũ và các quyết định đã tạo ra chúng.

Bây giờ thì con cần nhận ra là cái Ta Biết là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, là phần nối dài của một chân sư thăng thiên, là một phần nối dài của một sinh thể cao hơn nữa, cứ tiếp tục như vậy để sau cùng là phần nối dài của đấng Sáng tạo. Chỉ có một cái tâm duy nhất, một tâm thức duy nhất, và tất cả các sinh thể có tự nhận biết đều là phần nối dài của nó, một cá thể của nó. Mục đích của tiến trình tạo cá thể là để cho mỗi đốm sáng từ tâm của đấng Sáng tạo có tiềm năng tăng trưởng sự tự nhận biết của mình cho tới khi nó vươn lên tới cùng tầng tâm thức với đấng Sáng tạo. Lúc đó, con trở thành một đấng Sáng tạo có thể tạo ra một thế giới hình tướng của mình.

Ta có thể nói là đấng Sáng tạo đã cho con thuê một phần của tâm của ngài. Con có quyền tự quyết, và do đó con có thể làm bất cứ gì con muốn với phần đó, và đấng Sáng tạo còn chịu cho phép sinh thể của ngài bị giam cầm trong một hình tướng thấp, nếu đó là điều con muốn đồng sáng tạo. Tuy nhiên, đấng Sáng tạo không muốn là một phần của tâm ngài bị giam cầm trong một hình tướng thấp một cách vĩnh viễn.

Chuyện có thể xảy ra với cái Ta Biết là nó có thể dần dà tự đồng hóa hoàn toàn với cái ta tách biệt mà nó đã tạo ra. Lúc đó, nó tạo ra một vòng xoắn hướng hạ trở thành một lực tự củng cố. Cái Ta Biết càng ngày càng tạo thêm hình tư tưởng dựa trên tách biệt, và khi nó còn nhìn đời qua các hình ảnh đó, thì nó tin tưởng tuyệt đối nó là một sinh thể tách biệt. Nói cách khác, cái Ta Biết nhìn xuyên qua quá nhiều lớp ảo tưởng nên nó thực sự không thể chất vấn thế giới quan cơ bản của nó.  Nó cũng không thể thoát ra khỏi cái ta tách biệt và trải nghiệm nó là nhận biết thuần khiết. Trong cái bây giờ và ở đây, cái Ta Biết là cái nó nghĩ nó là, là cái nó thấy nó là.

Cái Ta Biết cũng tạo ra càng ngày càng nhiều năng lượng thấp, và các năng lượng này tạo sức hút từ tính lên cái ta tách biệt. Do đó, khi cái Ta Biết còn tự đồng hóa với cái ta tách biệt, thì nó cũng cảm thấy sức hút này, và sự kiện này lại càng khiến nó tin mình là một sinh thể tách biệt. Sức hút đó cũng khiến nó khó trải nghiệm nó là nhận biết thuần khiết. Cái Ta Biết thực sự ở trong một vũng nước xoáy đầy năng lượng thấp cứ càng ngày càng kéo nó xuống thêm, đồng thời trói nó vào vòng xoắn hướng hạ tập thể do các dòng sống đang bị kẹt trong tư duy tách biệt tạo ra trên hành tinh này. Một khi vòng xoắn hướng hạ này tới một điểm có tính quyết định, thì nó trở thành môt lực tự củng cố vì cái Ta Biết không thể ngưng vòng xoắn này khi nó còn tự đồng hóa với cái ta tách biệt.

Như ta đã giảng, cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, và nó không thể bị biến đổi bởi bất cứ cái ta hay năng lượng nào trong cõi vật chất. Cái bị biến đổi không phải là cái Ta Biết mà là hình ảnh của nó về chính nó. Do đó, cái Ta Biết có thể bất cứ lúc nào rút mình ra khỏi cái ta tách biệt và trải nghiệm trở lại nó là nhận biết thuần khiết. Một khi nó có kinh nghiệm này, nó có được một khung tham chiếu giúp nó dần dà phân rã cái ta tách biệt. Tuy nhiên, điểm khó khăn là một khi cái Ta Biết bị kẹt trong vòng xoắn hướng hạ, thì nó chỉ có thể thoát ra khi nó nhìn nhận là toàn bộ cái ta tách biệt mà nó đã tạo ra chỉ là một ảo tưởng. Và khi cái ta tách biệt đó được sinh tạo dựa trên lòng kiêu hãnh, thì đây là một chuyện rất khó làm, nhất là khi cái Ta Biết tin rằng nó đã tạo ra một cái ta tốt lành và rất tinh vi – có thể còn biết rõ hơn Thượng đế cách điều hành vũ trụ.

Trong một số bài giảng khác chúng tôi có nói về hậu quả của tư duy nhị nguyên khiến con nghĩ rằng con có khả năng làm thần nhân trên thế gian và có thể quy định thế nào là đúng hay sai dựa trên viễn quan của mình. Do đó, khi con tạo ra một cái ta tách biệt nghĩ rằng nó biết chân lý tối hậu, thì con rất khó thoát ra khỏi nó, vì con phải nhìn nhận là tất cả những gì con đã tạo ra – kể cả ý niệm tự tôn mà con đã xây dựng – hoàn toàn là một ảo tưởng không dính dáng gì đến thực tại của Thượng đế.

Trong các bài giảng của chúng tôi về các bầu cõi, con sẽ thấy là có một số sinh thể đã sa ngã trong một bầu cõi trước và tiếp tục sa ngã trong bầu cõi sau cùng này. Do đó, họ có một động lực phủ nhận rất lâu dài và họ tuyệt đối tin rằng một ngày nào đó họ sẽ chứng minh được là Thượng đế sai và họ đúng. Đấng Sáng tạo thật sự rất kiên nhẫn với các dòng sống đó, nhưng giống như mọi thứ khác trong thế giới hình tướng, cơ hội mà họ có sẽ có lúc chấm dứt. Và đây là điều mà chúng tôi gọi là cái chết thứ nhì, để phân biệt nó với cái chết “đầu” chỉ lúc xác thân vật lý chết đi và dòng sống tái sinh. Cái chết thứ nhì – mà ta cũng có thể gọi là cái chết cuối cùng – chỉ lúc cơ hội tái sinh ở bất cứ nơi nào trong thế giới vật chất vĩnh viễn chấm dứt.

Với cái chết thứ nhì, tất cả năng lượng bị tha hóa do dòng sống tạo ra được chỉnh hóa lại và trở lại trạng thái thuần khiết. Nhưng năng lượng đó sẽ được hoàn trả về kho năng lượng hoàn vũ thay vì trở về căn thể của Hiện diện TA LÀ. Các hình tư tưởng do cái ta tách biệt tạo ra sẽ bị xóa bỏ. Nhưng đây là kết quả của một tiến trình đặc biệt. Thay vì cái Ta Biết nhìn vào các hình tư tưởng và quyết định thay thế quyết định đã tạo ra chúng, thì Hiện diện TA LÀ sẽ làm công việc này. Điều này có nghĩa là tiến trình học hỏi xảy ra ở cấp Hiện diện, và do đó một số trải nghiệm sẽ vẫn được tồn trữ trong căn thể.

Còn cái Ta Biết thì nó hoàn toàn nhập trở lại vào Hiện diện TA LÀ, như là nó đã chưa bao giờ hiện hữu. Hiện diện TA LÀ có thể quyết định gửi một cái Ta Biết khác xuống dựa trên các trải nghiệm của nó, nhưng cái Ta Biết này sẽ không giống y như cái trước. Do đó, ta có thể nói là với cái chết thứ nhì, một dòng sống đặc trưng đã hoàn toàn bị xóa bỏ và mất đi.

Phải chăng nghiệp quả là một lời dạy sai lầm?

Hỏi: Một số giáo lý bảo rằng nghiệp quả chỉ là một ảo tưởng, bởi vì chúng ta sáng tạo trong HIỆN TẠI. Chúng ta luôn luôn tự do sáng tạo bất cứ gì mình muốn trong hiện tại mà không bị giới hạn bởi những gì mình đã làm trong tiền kiếp. Đó là lý do tại sao chúng ta không nhớ lại được tiền kiếp một cách ý thức. Một số người còn bảo rằng các lời dạy về nghiệp quả và cái chết thứ nhì là dựa trên lòng sợ hãi, và do đó không đến từ Thượng đế đích thực, một Thượng đế yêu thương vô điều kiện. Họ bảo rằng bất kỳ lời dạy nào nói đến việc chấm dứt cơ hội là một lời dạy sai lầm.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Đây là một sự hiểu lầm về các khía cạnh cơ học của vũ trụ vật chất. Cái con tạo ra trong hiện tại là ý niệm bản sắc của con, và cái đó con sẽ tái tạo trong mỗi khoảnh khắc thức. Cho nên con có thể – trên lý thuyết – chọn lựa thay đổi ý niệm bản sắc của mình bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, ngay cả chuyện đó cũng có thể khó khăn bởi vì các chọn lựa trong quá khứ đã tạo ra những vết thương tâm lý trong cỗ xe bốn lớp của con, hay linh hồn. Các vết thương này được gây ra bởi những quyết định mà con đã lấy, và cho tới khi con gỡ bỏ các quyết định đó một cách ý thức và thay thế chúng bằng những quyết định tốt hơn, con sẽ không thoát ra khỏi các chọn lựa đó. Và do đó, con sẽ không thể thay đổi cái ý niệm bản sắc phát xuất từ các chọn lựa đó.

Định luật nhân quả chỉ đơn giản mô tả các khía cạnh cơ học trong cách vận hành của vũ trụ vật chất. Dòng sống của con chỉ có thể sống sót vì nó nhận được một dòng năng lượng tâm linh từ Hiện diện TA LÀ của con. Nếu con phú cho năng lượng đó một rung động cao hơn một tần số nào đó, cao hơn một cái mốc nào đó, năng lượng sẽ biến thành kho báu của con cất giữ trên thiên đàng. Nó sẽ được gửi trả xuống cho con và lại được nhân lên gấp bội, như ta đã có giải thích qua truyện ngụ ngôn về các ta-lăng.

Nếu con tha hóa năng lượng xuống bên dưới mốc then chốt đó, con sẽ “bị đánh rớt” và con sẽ phạm vào điều mà các tín hữu Cơ đốc thường gọi là tội lỗi. Năng lượng tha hóa sẽ tích tụ lại trong trường năng lượng cá nhân của con cũng như trong trường năng lượng của hành tinh địa cầu. Cho nên khi con trở lại đầu thai trong kiếp sau, con sẽ bị năng lượng này tác động. Con không thể thăng thiên vĩnh viễn vào cõi tâm linh cho tới khi con hồi phục tất cả những năng lượng mà con đã tha hóa khi hiện thân trên địa cầu. Cũng vậy, con tạo ra một cái ngã tách biệt khi con chấp nhận các ảo tưởng nhị nguyên, và những ảo tưởng này sẽ tiếp tục ảnh hưởng ý niệm bản ngã của con cho tới khi con thăng vượt chúng một cách ý thức. Cho nên thật là không đúng khi bảo rằng con có thể, bất cứ lúc nào, chọn lựa bước ra khỏi nghiệp quả của mình hay bất kỳ khía cạnh nào khác của quá khứ của con.

Các lựa chọn mà con lấy trong quá khứ đã thiết lập cái sân khấu cho con người mà con đang là – cho ý niệm bản ngã mà con đang có. Con không thể đơn giản chọn làm một người khác mà không quay trở về thay thế các quyết định gây giới hạn mà con đã có trong quá khứ. Và điều con không thể tránh khỏi là các quyết định hiện tại của con sẽ dựa trên ý niệm bản ngã của con.

Ta thật không hiểu làm thế nào người ta có thể chấp nhận thực tế của tiền kiếp mà đồng thời phủ nhận mọi ảnh hưởng của tiền kiếp trên kiếp sống hiện tại. Ta nghĩ là nếu con nhìn vào hậu quả lô-gíc của cách nhìn luân hồi như vậy, con sẽ thấy là nó không nhất quán.

Thật ra, rất có thể con sẽ khám phá là nó khởi lên chủ yếu từ thái độ không chịu nhận trách nhiệm về cuộc sống của mình và công nhận rằng con chỉ có thể cải thiện hoàn cảnh hiện tại và tương lai của mình bằng cách tháo gỡ các lựa chọn bất toàn mà con đã làm trong quá khứ. Đa số những ai không sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về đời mình đều chọn thái độ phủ nhận thẳng cánh thực tế của luân hồi. Nhưng lại có một số người dựng lên cho mình một phiên bản mới về luân hồi, qua đó họ nhìn nhận là họ có tiền kiếp nhưng đồng thời họ cũng phủ nhận tiền kiếp có bất kỳ ảnh hưởng nào trên hiện tại. Ta thật không thể theo kịp cái lô-gíc tin vào luân hồi mà không có nghiệp quả. Làm sao con có thể ăn hết cái bánh mà vẫn còn nguyên bánh? Làm sao con có thể thay đổi một chọn lựa đã qua trừ khi con công nhận chính con đã làm chọn lựa đó?

Ta biết nhiều người bị dính mắc vào mong muốn tránh né trách nhiệm cá nhân của mình, và điều này có thể khiến họ phủ nhận nghiệp quả. Sẽ ích lợi biết mấy nếu họ có thể xét xem tại sao họ lại có dính mắc tình cảm đó, và ta nghĩ họ sẽ nhìn ra nguyên nhân là có một thành phần trong con người họ không muốn công nhận thực tế của cuộc sống, cụ thể là con không có một thời gian vô hạn định để thăng vượt ý niệm bản sắc hiện thời của mình. Đây chính là tự ngã, nó không muốn con nhận ra là hành động của con mang hậu quả, và bởi vậy, cơ hội sẽ có lúc phải chấm dứt. Tự ngã không muốn nhìn nhận bất kỳ sự chấm dứt nào vì điều này có nghĩa là nó sẽ chết. Tự ngã muốn con tin rằng con có thể cứ tiếp tục mãi mãi như vậy, rằng không có điều gì con làm sẽ mang lại hậu quả tiêu cực, và con có thể tiếp tục trì hoãn ngày con phải chọn lựa vị chủ mà con sẽ phục vụ. Nếu con có thể nhận diện tự ngã, kẻ thù bên trong đó, và nhìn ra nó không phải là một phần của dòng sống của con, thì con sẽ có thể tinh tấn vượt bực.

Khi đó con sẽ tìm thấy cả một thế giới mới với những vận hội tăng triển mở ra, và con sẽ khám phá ý nghĩa thực sự của tình thương vô điều kiện. Quan niệm tình thương mà một số giáo lý đưa ra bảo rằng không có gì thật sự quan trọng bởi vì cuối cùng mọi chuyện sẽ đều ổn thỏa. Sự thật về tình thương vô điều kiện là mọi sự đều quan trọng, bởi vì mỗi hoàn cảnh đều là một cơ hội tăng triển – có nghĩa là con cho phép tình thương xuôi chảy – hay ngược lại nó là một cơ hội để con đóng lại dòng chảy tình thương xuyên qua con. Đúng thật là nhiều người sùng đạo, kể cả nhiều tín hữu Cơ đốc, đã dùng lòng sợ hãi như một cái cớ để đóng lại dòng chảy tình thương xuyên qua mình. Nhưng nhiều người cũng đã dùng niềm tin vào định mệnh hay số mạng để đặt mình vào trạng thái thờ ơ tâm linh, và điều này cũng dập tắt dòng chảy của tình thương.

Tình yêu thiêng liêng thì vô điều kiện, và điều này không có nghĩa là tình yêu đó sẽ chấp nhận bất cứ gì, dù thiện hay ác, là chính đáng như nhau. Khi một người để cho dòng tình yêu vô điều kiện chảy xuyên qua mình, người đó có sự phân biện để thấy rõ cái gì thuộc về Thượng đế, cái gì không. Người đó dùng phân biện này để không bao giờ chấp nhận một ý niệm bản sắc giới hạn, và cũng không bao giờ để cho bất kỳ điều kiện nào của thế gian biến thành cái cớ để đóng chặt dòng chảy tình thương. Con biểu hiện tình thương bất kể điều kiện con phải đối mặt, nhưng con không bao giờ tuyên bố một điều kiện nào của thế gian là vĩnh hằng hay có thực. Cho nên tình thương của con sẽ dễ dàng là loại tình yêu cứng cỏi sẽ thách đố người ta bước lên cao hơn – như con thấy ta từng thách đố các thày thông giáo và người Pharisi.

Chọn lựa đúng đắn duy nhất là đáp ứng mọi hoàn cảnh với tình thương – như ta từng dạy mọi người 2000 năm về trước. Bất cứ chọn lựa nào không phát xuất từ tình thương là cái mà các tín hữu Cơ đốc gọi là tội lỗi. Nhưng tiếc thay, hầu hết mọi người trên địa cầu đã chọn làm ngược lại, và do vậy họ bị mắc kẹt vào trạng thái tâm thức khiến họ khó lòng đáp ứng sự sống bằng tình thương.

Thực tế phũ phàng là một số đáng kể những người đang bị mắc kẹt vào vòng ốc xoáy hướng hạ sẽ chỉ đưa họ ngày càng xa hơn tình thương. Đơn giản là các dòng sống đó không thể được xoay chuyển bởi một lời dạy về tình thương. Trong nhiều trường hợp, họ chỉ có thể được xoay chuyển bởi một thông điệp chỉ rõ ra hậu quả nếu họ cứ tiếp tục hành xử theo cùng chiều hướng. Và đối với nhiều dòng sống trên hành tinh này, cơ hội để họ xoay chuyển đang nhanh chóng đóng cửa lại. Nếu họ không xoay chuyển và khởi sự một vòng xoắn ốc hướng thượng, họ sẽ phải kinh qua cái chết thứ hai. Nếu họ xoay chuyển và cất bước trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô, họ sẽ được gia hạn quá thời hạn ban đầu. Thượng đế có lòng thương xót rất lớn đối với những dòng sống chân thành muốn trở về nhà.

Một trong những điều khó xử mà chúng tôi phải đối mặt trong tư thế làm thày tâm linh là chúng tôi không thể tiếp cận nhiều dòng sống trên địa cầu qua một thông điệp tâm linh dựa trên tình thương. Họ bị kẹt cứng trong tâm trạng sợ hãi đến độ họ chỉ có thể được tiếp cận qua một thông điệp đánh động đến các nỗi sợ hãi của họ. Thật là một điều đáng buồn khi quan niệm Địa ngục trở nên cần thiết để xoay chuyển các dòng sống đó. Họ chỉ đáp ứng khi lòng sợ hãi Địa ngục của họ to lớn hơn những lợi lạc mà họ nhận được khi cứ tiếp tục sống như cũ.

May mắn thay, ngày nay chúng ta đang bước vào một thời đại khi càng ngày càng có nhiều người đáp ứng các lời dạy tâm linh dựa trên tình thương, và nói chung, đây là điều con chứng kiến trên trang mạng này. Tuy vậy, vẫn có nhu cầu nhìn nhận là nhiều người đã bị tác động sâu xa bởi các loại thông điệp dựa trên sợ hãi. Và bởi vì một trong các mục tiêu của trang mạng của ta là để giúp mọi người thoát khỏi các giáo điều sợ hãi do đạo Cơ đốc truyền thống đưa ra, cho nên ta sẽ vui lòng bình luận về các tin tưởng đó khi có người đặt câu hỏi.

Xưng tội không đảm bảo con sẽ thoát khỏi tội lỗi hay nghiệp quả

Hỏi: Xin thày bình luận về bản chất và tầm quan trọng của việc xưng tội?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Có nhiều nhầm lẫn liên quan đến nghi thức xưng tội. Trước hết, ta xin nói thật rõ là ý tưởng cho rằng một giáo hội vỏ ngoài có khả năng loại bỏ tội lỗi của một người là một ý tưởng khuyến khích sự lạm dụng. Nếu con nhìn vào lịch sử của Giáo hội chính thống, con sẽ tìm thấy rất nhiều ví dụ lạm dụng như vậy – và các lá thư ân xá chỉ là một trong nhiều ví dụ đó.

Đúng thực là ta đã ban cho một số môn đệ của ta quyền năng chuộc lỗi cho tội lỗi con người qua trung gian Thánh linh. Tuy nhiên Thánh linh thổi nơi nào nó muốn, và con người hay các tổ chức không thể nào điều khiển được Thánh linh. Ta không bao giờ nói rằng bất cứ ai xưng tội mình cho một đại diện của giáo hội sẽ tự động nhận được sự tha thứ cho các tội đó.

Như ta đã giải thích ở một nơi khác, sự giá chuộc [vicarious atonement, tức việc được cứu rỗi nhờ Ki-tô dùng cái chết của mình thay cho người phạm tội] không loại bỏ tội lỗi hay nghiệp quả của con người. Khi con có một hành động vi phạm quy luật của Thượng đế, con tự động tạo nghiệp. Việc xưng tội không tiêu trừ nghiệp của con. Con vẫn phải quân bình nghiệp chướng đó. Tuy nhiên, việc xưng tội có thể, nếu con tiếp cận đúng đắn, đem lại những tác dụng tâm lý hữu ích.

Các thày là chân sư thăng thiên không mong muốn nhìn thấy bất cứ ai phải mang gánh nặng mặc cảm tội lỗi hay cảm nhận mình là người có tội. Các thày muốn mọi người buông bỏ mọi lầm lạc đã qua và tập trung mọi năng lực cùng sự chú ý của mình vào việc leo lên con đường tâm linh. Và để leo lên thành công trên đường tu, con phải vượt qua mặc cảm tội lỗi đã khiến cho nhiều người cảm thấy mình không xứng đáng để đến gần Thượng đế. 

Tinh túy của đường tu tâm linh là con đến gần hơn với Thượng đế. Nếu con cảm thấy mình không xứng đáng đến gần Thượng đế thì con không thể bước chân trên con đường này. Đối với nhiều người, việc xưng tội có khả năng đem lại tác dụng tâm lý tích cực sẽ giúp họ bỏ lại tội lỗi sau lưng. Nhưng tiếc thay, việc xưng tội cũng có thể có tác dụng tiêu cực. Một số người chăm chỉ đi xưng tội mỗi chủ nhật, họ thú nhận tội lỗi của mình, họ cảm thấy mình đã hết tội, thế là họ lại vui vẻ phạm cùng những tội đó trong tuần lễ kế tiếp. Lòng thương xót của Thượng đế vô biên và sự tha thứ của Thượng đế xảy ra tức thì, tuy nhiên sự tha thứ của Thượng đế sẽ không xảy ra cho đến khi con từ bỏ chính trạng thái tâm thức đã khiến con phạm tội. 

Nếu con xem lại bài Giảng trên Núi của ta, con sẽ thấy là ta đã khuyên mọi người hãy vượt lên trên cái tâm thức đã khiến họ làm những hành động tội lỗi. Trong thời đại hôm nay, con người cần phải tiến thêm một bước nữa. Con người cần phải vươn lên cao hơn toàn bộ tâm thức nhị nguyên cùng toàn bộ tính chất tương đối và nhị nguyên của nó. Điều ta muốn nói ở đây là một tội lỗi sẽ được tha thứ ngay vào lúc con từ bỏ cái tâm thức đã khiến con vi phạm quy luật Thượng đế – mặc dù sự tha thứ này sẽ không xóa bỏ nghiệp chướng của con. Tuy nhiên, nếu con xưng tội mà không từ bỏ tâm thức đó thì thật là ngây thơ nếu con tin rằng tội của con đã được tha thứ.

Giá trị của nghi thức xưng tội đi đôi – trong tỷ lệ thuận – với thái độ của con khi con tiếp cận nghi thức. Nếu việc nhìn nhận một hành động tội lỗi có thể giúp con khắc phục tâm thức đã khiến con phạm tội, thì bằng bất cứ cách nào con hãy đi xưng tội. Tuy nhiên, để khắc phục hoàn toàn tâm thức thấp kém kia, thường thường con sẽ phải kinh qua một tiến trình chữa lành các vết thương tâm lý đã khiến con dính mắc, ràng buộc, với trạng thái tâm thức này. Qua việc chữa lành tâm lý, con có thể tới điểm nhìn nhận một cách ý thức lý do tại sao trạng thái tâm thức đó là sai lạc. Và qua sự nhìn nhận này, con có thể quyết định ý thức là mình sẽ buông bỏ trạng thái tâm thức này.

Nhưng đối với nhiều người, việc xưng tội sẽ không đem lại sự chữa lành tâm lý nào. Nếu họ nghĩ tất cả những gì họ cần làm là chỉ việc xưng tội, thì kỳ thực nghi thức xưng tội có thể cản trở sự tăng triển tâm linh của họ. Hiển nhiên, ta không muốn thấy chuyện này xảy ra cho bất cứ ai. Cho nên ta khuyến khích mọi người hãy chân thành nỗ lực đạt được quả vị Ki-tô cá nhân thay vì tưởng rằng nghi thức xưng tội sẽ đưa mình lên thiên đàng.

Cho nên điều sẽ hữu hiệu hơn nhiều là con sử dụng các dụng cụ tâm linh mà các thày đã trao truyền để con khắc phục quá khứ của con.

“Dấu hiệu từ Trời” có nghĩa là cái Ta Ki-tô đang cố liên lạc với con

Hỏi: Thưa thày Giê-su, không hiểu có chuyện “dấu hiệu từ Trời” hay không? Nếu con nhận xét thấy một số hiện tượng trong đời con, ví dụ như “thú vật quyền năng” [power animal, tức năng lượng tâm linh trong một vài truyền thống pháp sư shaman], hay liên tục nhận thấy một con số nhất định, hay như trong trường hợp của con nhận xét thấy những chiếc lông vũ, liệu đây có phải là sự xác nhận là con đang đi đúng đường? Khi một chiếc lông vũ hiện ra ở một nơi bất thường, điều này dường như đem lại an bình cho con.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Phải, đó đúng là dấu hiệu “từ Thượng đế”. Các dấu hiệu này có thể mang nhiều dạng khác nhau. Tuy nhiên, điều quan trọng là con cần hiểu tự thân dấu hiệu đó không phải là thông điệp. Cho nên con sẽ không bắt được thông điệp bằng cách cố diễn giải ý nghĩa của thông điệp là gì, và điểm này đã khiến cho nhiều người bị lầm lạc suốt các thời đại.

Con sẽ thấy một số người gần như bị ám ảnh phải cố tìm cho bằng được một dấu hiệu vỏ ngoài nào đó, và họ sẽ không lấy quyết định quan trọng nào nếu không nhận được dấu hiệu. Con thấy một số nền văn hóa đã đưa chuyện này đến mức cùng cực, chẳng hạn họ cố phỏng đoán ý muốn của thần linh qua việc đọc ruột những con vật được hiến tế. Thậm chí một số kẻ tầm đạo ngày nay cũng đi quá đà khi họ cố dùng tâm phân tích để bói toán qua thuật chiêm tinh, hay bói bài, hay một số biểu hiện ngoại cảnh nào đó.   

Ý ta muốn nói là điều thật quan trọng con cần hiểu là khái niệm “dấu hiệu từ Thượng đế” đã mang sẵn một sự mâu thuẫn nội tại, và nếu con không hiểu điều này thì sẽ thật dễ diễn giải sai lạc một dấu hiệu, thậm chí con còn chế tạo ra dấu hiệu trong tâm con. Ta đã có giải thích ở một nơi khác về tâm con người có xu hướng luôn tìm kiếm những khuôn mẫu quen thuộc trong những gì họ nhìn thấy.

Như ta giải thích khắp trang mạng này, con có một cái Ta Ki-tô đóng vai trò một vị thày tâm linh. Đa số mọi người không thể trực tiếp nghe thấy cái Ta Ki-tô của mình – mặc dù khả năng này có thể được trau dồi – cho nên họ nghe cái Ta Ki-tô của họ dưới hình dạng những sáng ngộ trực giác. Tiếc thay, hầu hết mọi người trong thế giới phương Tây đã không được nuôi dạy với hiểu biết về cái Ta Ki-tô hay giá trị của trực giác. Hậu quả là cái Ta Ki-tô rất khó lòng liên lạc với tâm ý thức của họ.

Nhiều người sống cả đời mà gần như không nhận được một thông điệp nào từ cái Ta Ki-tô của mình, và điều này khiến họ bỏ lỡ nhiều cơ hội quan trọng để tăng triển. Tuy nhiên khi một dòng sống bắt đầu thức tỉnh về khía cạnh tâm linh của cuộc sống thì họ sẽ trở nên nhạy cảm hơn. Nếu họ chưa mài sắc khả năng trực giác đến mức có thể tiếp xúc rõ ràng với cái Ta Ki-tô, thì quả thực cái Ta Ki-tô có thể tìm cách liên lạc với tâm ý thức của họ qua một số dấu hiệu ngoại cảnh.

Nhưng con hãy lưu ý là cái Ta Ki-tô luôn sẵn lòng cho con một sáng ngộ trực giác không tùy thuộc hay không cần đến một dấu hiệu bên ngoài. Ý ta muốn nói là nếu con có sự kết nối trực giác rõ ràng rồi thì dấu hiệu bên ngoài thật không cần thiết. Tâm ý thức của con có thể nhận được sự hướng dẫn của cái Ta Ki-tô mà không có dấu hiệu nào từ ngoài. Cho nên khi con nhận được một dấu hiệu từ ngoài, rất có thể đó là vì con chưa phát triển trực giác đến mức trực tiếp nghe thấy cái Ta Ki-tô, cho nên cái Ta Ki-tô phải dùng một dấu hiệu bên ngoài để thu hút sự chú ý của con.

Con có thấy sự phân biệt quan trọng này không? Kỳ thực cái Ta Ki-tô không đang cố gửi cho con một thông điệp qua một dấu hiệu bên ngoài, mà nó đang cố thu hút sự chú ý của con để khiến con nhận biết là con cần dùng trực giác của con hòa điệu với nó. Cái Ta Ki-tô không đang dùng dấu hiệu để bảo con: “Hãy làm chuyện này đi!” Nó dùng dấu hiệu để nói: “Hãy thức dậy và lắng nghe ta trong tim con, vì đó là nơi ta sẽ nói cho con biết những gì con cần biết!” Trong nhiều trường hợp, sự hướng dẫn mà con cần phức tạp hơn rất nhiều những gì có thể được phát biểu qua một dấu hiệu bên ngoài.

Khác biệt này thật là cơ yếu, vì giờ đây con thấy rõ là thật vô ích mà cố gắng diễn giải dấu hiệu đó bằng cái tâm vỏ ngoài phân tích hay bằng cảm xúc. Con sẽ không bao giờ có thể dùng tâm vỏ ngoài để đến được thông điệp ở đằng sau dấu hiệu. Và đây là vấn đề cốt lõi. Dấu hiệu sẽ cần thiết khi người đó bị cuốn hút quá mức vào tâm phân tích hay bị choáng ngợp bởi cảm xúc tiêu cực, và vì vậy, cái Ta Ki-tô không tài nào chạm được tâm ý thức của họ một cách trực tiếp. Phương cách duy nhất còn lại là cái Ta Ki-tô sẽ cố trao cho họ một dấu hiệu bên ngoài mà tâm ý thức để ý thấy. Tuy vậy, cái tâm phân tích năng động quá đáng của họ, hay các cảm xúc mất thăng bằng của họ, sẽ dễ dàng chụp lấy rồi cố sức diễn giải thông điệp đằng sau dấu hiệu. Điều này đã khiến cho rất nhiều người hiểu sai một dấu hiệu và sử dụng nó để biện minh cho những gì lý trí hay cảm xúc muốn nghe.

Cho nên nếu con nhạy cảm với các loại dấu hiệu, con hãy biết rõ xu hướng này và nỗ lực vượt ra khỏi tâm vỏ ngoài. Trong dài hạn, con hãy dùng các dụng cụ ta ban truyền trên trang mạng này để xây dựng sự hòa điệu của con với cái Ta Ki-tô.

Con cũng lưu ý là lời dạy này áp dụng cho mọi phương thức bói toán. Khi nào con hòa điệu thì cái Ta Ki-tô luôn luôn sẵn lòng nói cho con biết những gì con cần biết. Cho nên con thực sự không cần sử dụng bất kỳ hình thức bói toán nào để phát hiện ý muốn của Thượng đế, hay bất cứ điều gì con người có thể muốn biết.

Trong giai đoạn chuyển tiếp, việc sử dụng một số cách bói toán có thể có chút giá trị nào đó trong việc kích hoạt sáng ngộ trực giác. Nhưng con luôn luôn cần biết rằng không có một hình thức bói toán nào có thể cho con một kết quả đúng đắn qua tâm vỏ ngoài. Thay vì tìm cách mài giũa khả năng dùng bói toán, con sẽ đạt được kết quả lớn hơn gấp bội nếu con dành cùng nỗ lực này để thiết lập mối liên lạc rõ ràng với cái Ta Ki-tô của con. Ta mong lời này đã đủ cho những người khôn ngoan.

Hiểu rõ năng lượng kundalini

Hỏi 1: Thày Giê-su yêu dấu, con đang bối rối. Thày có bao giờ dạy về kundalini? Có phải kundalini và dòng năng lượng tâm linh liên tục giúp chúng ta sống còn là hai loại năng lượng khác nhau, hay đó là cùng năng lượng? Con sẽ rất biết ơn nếu thày giải tỏa được phần nào bối rối này của con. Cảm ơn thày.

Hỏi 2: Nhiều người thời nay, trong đó có con, trải nghiệm kundalini thức dậy. Xin thày cho biết bản chất của năng lượng kundalini là gì và sự thức dậy của nó tác động con người như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đây là những câu hỏi rất hay về một chủ đề rất ích lợi cho người tầm đạo muốn tìm hiểu. Ta quả là đã có dạy về năng lượng kundalini nhưng ta chỉ dạy cho đệ tử của ta bởi vì quần chúng thời đó chưa sẵn sàng nhận giáo lý này. Ta được học về kundalini trong chuyến du hành sang Ấn độ, và ta có thử nghiệm một số hình thức yoga nhằm khơi dậy kundalini. Tuy nhiên, ta nhận ra là những kỹ thuật này không thích hợp cho mọi người, vì thế ta đã không dạy các kỹ thuật đó kể cả cho đệ tử của ta.   

Từ “kundalini” chỉ giản dị là một cái tên khác cho dòng năng lượng tâm linh giữ cho con sống còn. Ta từng đề cập đến năng lượng này trước công chúng, và con vẫn có thể tìm thấy trong Tân ước một số lời gợi ý như thế. Bình thường ta gọi đó là “nước của Sự sống” hay “nước hằng sống”. Năng lượng là một khía cạnh của Thánh linh, và con nhớ rằng Thánh linh có chức năng giúp con tăng trưởng tâm linh hầu con vượt qua các giới hạn của con. Đây là một chìa khóa quan trọng để hiểu được bản chất của năng lượng kundalini và tác động của nó trên con người.

Điều quan trọng nhất con có thể hiểu về năng lượng kundalini là nó cho con sự sống. Định nghĩa tâm linh của “sự sống” là cái gì tăng trưởng và tự thăng vượt. Do đó, năng lượng của sự sống, năng lượng kundalini, nước hằng sống của sự sống, luôn luôn tuôn chảy để đưa con vượt qua mọi ranh giới và mọi hạn chế. Trạng thái tự nhiên của một người hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của mình là chảy theo Dòng sông của Sự sống và không ngừng thăng vượt sự tự nhận biết của mình cũng như ý niệm cái ta của mình.

Có thể nói vấn đề cốt lõi trên hành tinh này là hầu hết mọi người đều đã dựng lên một số điều kiện trong tâm mình khiến mình đóng chặt dòng chảy tự nhiên của năng lượng kundalini xuyên qua các trường năng lượng của mình. Dòng sống của con người được thiết kế để làm ống dẫn cho tình thương vô điều kiện của Thượng đế xối xuống. Tình thương vô điều kiện sẽ không bao giờ đứng yên một chỗ. Khi con đứng trong dòng chảy của tình thương, con không chấp nhận cho bất cứ một điều kiện nào trên địa cầu có thể khiến con đóng lại dòng tình thương này chảy xuyên qua con.

Điều xảy ra cho hầu hết mọi người là họ đã dựng lên đủ loại điều kiện trong tâm họ, nghĩa là họ bảo rằng trong hoàn cảnh này hay tình huống kia, họ sẽ không cho phép tình thương vô điều kiện chảy qua họ. Họ sẽ không thể biểu hiện tình thương trong những hoàn cảnh đó. Bởi vì dòng chảy của tình thương chính là năng lực của sự sống cho nên điều tự nhiên là nó phải chảy. Con chỉ có thể đóng nó lại bằng vũ lực mà thôi. Và thật vậy, hầu hết mọi người đều sử dụng vũ lực của lý trí và tình cảm để ngăn chặn sự sống chảy qua trường năng lượng và dòng sống của họ. Nói cách khác, họ đã dùng vũ lực để hạn chế dòng chảy của sự sống, năng lượng kundalini.   

Đây là một nhận thức vô cùng quan trọng, đặc biệt khi nhiều người tầm đạo bị quyến rũ vào việc sử dụng đủ loại kỹ thuật nhằm ép buộc cho năng lượng kundalini phải dâng lên. Những kỹ thuật như thế thường đến từ phương Đông nơi người ta đã sử dụng từ hàng ngàn năm qua. Có một số kỹ thuật có giá trị nhưng chỉ khi nào do một đạo sư dồi dào kinh nghiệm chỉ dẫn cho những đệ tử chân truyền nhất của mình – và chỉ khi nào đệ tử đó được bao bọc trong một môi trường có sự trông coi liên tục của đạo sư. Con hãy lưu ý là ta đang nói về những kỹ thuật nhằm ép buộc kundalini, chứ không nói về nhiều kỹ thuật đúng đắn nhằm giúp con có sự tăng trưởng quân bình.   

Thật không may là đã có một loạt những người tự xưng là đạo sư từ Ấn độ đến đây chỉ dạy những kỹ thuật này cho bất cứ ai muốn học – và trong một số trường hợp, người học phải trả cả lệ phí. Đây là một vấn đề, vì nó dối gạt  người ta vào con đường chiếm lấy thiên đường bằng vũ lực. Đó là phần nào những gì ta nói đến trong câu: “Và từ ngày John the Baptist (Giăng Báp-tít) đến nay, nước thiên đàng đã bị hãm ép, và kẻ hãm ép cố chiếm thiên đàng bằng vũ lực” (Matthew 11;12)  

Con hãy ngừng một lúc để xem xét vấn đề cốt lõi ở đây. Năng lượng kundalini sẽ chảy tự nhiên xuyên qua con – con không cần làm bất cứ gì để ép nó phải chảy qua con. Nếu nó bị chặn lại thì là do nó đã bị chặn lại bằng vũ lực. Con đã tạo ra những chướng ngại trong tiềm thức và trường năng lượng của con, cụ thể là nơi bảy trung tâm năng lượng chính gọi là luân xa, và những chướng ngại này đã hạn chế dòng chảy của sự sống. Vậy thử hỏi con có khôn ngoan lắm hay không khi con tìm cách dùng một kỹ thuật nào đó để ép uổng kundalini phải dâng lên qua các luân xa?

Thật sự không có gì khôn ngoan, bởi con đang cố dùng lửa để chữa lửa. Chính vũ lực đã khiến cho dòng chảy tự nhiên của năng lượng bị nghẽn lại, thì cách giải quyết hợp lý là con phải loại bỏ các chướng ngại đang làm nghẽn năng lượng để nó lại chảy tự nhiên. Thật là không hợp lý khi con muốn dùng vũ lực để tái lập dòng chảy, và điều này chẳng có gì là khó hiểu.

Ở một con người thuần khiết nơi dòng sông của sự sống tuôn chảy tự do, năng lượng kundalini đi vào luân xa tim, rồi nó chảy vào luân xa nằm ở đáy cột sống. Từ đó nó sẽ chảy xuyên qua cả bảy luân xa cho đến luân xa đỉnh đầu. Nếu dòng chảy được duy trì, người đó sẽ ở trong trạng thái quân bình toàn hảo và sẽ chiêm nghiệm dạng cao nhất của tâm thức Ki-tô. Trong trạng thái đó, tất cả các luân xa đều quân bình, đứng thẳng hàng với nhau và quay theo cùng một chiều.

Khi con dùng vũ lực để đóng chặt hay hạn chế dòng chảy của ánh sáng qua các luân xa, luân xa sẽ bị ô nhiễm do năng lượng tiêu cực tích tụ lại ở đó. Điều này sẽ nhanh chóng khiến cho các luân xa quay với tốc độ khác nhau và vì vậy không còn phối hợp với nhau nữa. Thậm chí, điều đó có thể khiến cho một số luân xa bị tắc nghẽn đến độ không cho phép bất kỳ ánh sáng nào đi qua. Hoặc nó khiến cho luân xa quay ngược chiều quay bình thường, gây cho con cảm giác sôi động tột độ. Chẳng hạn, nhiều người có luân xa gốc quay sai chiều và vì vậy họ ham muốn tình dục một cách vô độ. Và tương tự như thế, nhiều người có luân xa đám rối dương quay sai hướng, khiến họ luôn luôn căng thẳng và phản ứng lại nhiều tình huống trong sự cáu kỉnh, giận dữ.

Điều gì sẽ xảy ra khi một người mất quân bình sử dụng một kỹ thuật nhằm cưỡng ép năng lượng kundalini dâng lên xuyên qua luân xa đang bị nghẽn và mất quân bình? Kundalini là một khía cạnh của Thánh linh và mục đích của nó là giúp con thăng vượt các giới hạn của con. Vì lý do này mà nó sẽ khuếch đại bất cứ gì nó chạm vào. Khi con ép buộc kundalini chảy qua luân xa, nó sẽ đẩy tất cả mọi thứ bất toàn và mất quân bình trong luân xa ra bên ngoài rồi khuếch đại lên. Những thứ ấy nổi lên dưới hình thức những ý nghĩ và cảm xúc có thể vô cùng mãnh liệt.   

Trên thực tế, nhiều người thiếu quân bình mà dùng các kỹ thuật cưỡng ép kundalini như vậy đã nhận thấy là hệ thần kinh và trường năng lượng của mình không thể chịu đựng nổi luồng chảy của ánh sáng. Cũng y hệt như con nối điện 220 volt vào một cái máy được chế tạo để chạy với điện 110 volt vậy. Tất nhiên là máy sẽ bị cháy, và thật vậy, nhiều người đã làm cháy một phần hệ thần kinh và phá vỡ trường năng lượng của mình. Điều này dẫn đến nhiều hình thức rối loạn tình cảm khác nhau, thậm chí cả bệnh tâm thần lẫn khùng điên. Ta không thể nào nhấn mạnh đủ về tầm quan trọng của việc con phải tránh cưỡng ép năng lượng kundalini của con dâng lên trước khi con sẵn sàng.

Đâu là chìa khóa để con sẵn sàng? Đó là con thanh lọc các luân xa và trường năng lượng của con cho đến khi con đạt được một mức quân bình và hài hòa thật cao độ. Quân bình và hài hòa thực sự là chìa khóa cho một sự phát triển tâm linh thành công. Hai đức tính này chỉ có thể đạt được qua sự không dính mắc, và khi con thực sự không còn dính mắc, con sẽ không còn cố chiếm hữu thiên đường bằng vũ lực nữa.

Một trong những vấn đề lớn nhất với sự bùng nổ của các phong trào phát triển bản thân và phát triển tâm linh là nền văn hóa Tây phương thường hay chú trọng thành quả. Trong những thập niên vừa qua, điều này đã dẫn đến một tinh thần sùng bái, tôn thờ sự thoả mãn tức thì. Cho nên khi người ta lớn lên trong một nền văn hóa như vậy và bỗng nhiên cảm thấy nhu cầu tăng trưởng tâm linh, thường người ta muốn ngay kết quả tức thì. Người ta không chịu nỗ lực một cách chân thành để từ từ xây dựng nền tảng vững bền cho những kết quả đó.

Người ta chỉ đơn giản muốn ngay cái hiện tượng vỏ ngoài, muốn được nếm mùi những kinh nghiệm tột đỉnh, muốn được hưởng lợi từ phát triển tâm linh, mà không cần phải đi qua nguyên tiến trình vun trồng các kết quả đó. Điều này đã khiến cho nhiều người tầm đạo phương Tây tìm kiếm những kỹ thuật hữu hiệu nhất nhằm sản xuất ra những cảm giác và hiện tượng mà mình tìm. Và nhiều người trong số đó đã bị cám dỗ sử dụng những kỹ thuật nhằm cưỡng ép cho kundalini phải dâng lên. Tất nhiên đó là điều khả dĩ, và tác động thì vô cùng mãnh liệt, nhưng kết quả thì y như những gì ta vừa trình bày ở trên.  

Thế nào là cách đúng đắn để năng lượng kundalini đi lên? Đó là đầu tiên phải tìm Nước Trời và sự công chính của Nước Trời, rồi sau đó tất cả những thứ khác sẽ được ban thêm cho con. Nước Trời là tâm thức Ki-tô, và “công chính” là cách dùng năng lượng một cách công chính, có nghĩa là một dòng năng lượng quân bình và hài hòa tuôn qua con người của con.

Như ta vừa nói, bản chất của kundalini là tuôn chảy. Nó chỉ ngừng tuôn chảy qua con vì con đã ngăn chặn dòng chảy của nó. Do đó nếu con nỗ lực đạt tâm thức Ki-tô, nghĩa là con tìm cách loại bỏ tất cả mọi chướng ngại và thiếu quân bình trong tâm lý và trường năng lượng của con, con sẽ lần hồi mở rộng ra để dòng năng lượng chảy qua con. Và như thế, dòng sông của sự sống sẽ tự nhiên bắt đầu tuôn chảy qua con mà không có chút gì thiếu quân bình.

Điều đó sẽ xảy ra một cách cân bằng, và con sẽ không trải nghiệm một sự thức giấc của kundalini cho tới khi nào con sẵn sàng. Nói thật, nếu con thực sự tiến bước cân bằng, con sẽ chứng nghiệm một sự phát triển bền vững, điều hòa thay vì những cơn bừng phát tâm linh dữ dội được nối tiếp bởi những cơn trầm cảm cũng không kém dữ dội. Nhiều người thiếu quân bình quả thật đã phải trải qua những chao đảo tột cùng như thế từ cao xuống thấp, và đó nhất định không phải là con đường hài hòa, con đường trung đạo của Ki-tô và của Phật.

Vì vậy, điều ta muốn nói là ta không ủng hộ bất kỳ một người tầm đạo tâm linh nào đặt trọng tâm vào việc khơi dậy năng lượng kundalini một cách cố tình và mạnh bạo. Ta không ủng hộ việc người ta dùng các loại kỹ thuật để cưỡng ép cho kundalini dâng lên.

Thay vào đó, con nên sử dụng kỹ thuật nào? Con có thể dùng tất cả mọi kỹ thuật trong Hộp Dụng cụ Tu tập trên trang mạng này. Các bài nguyện tràng hạt và bài thỉnh của Mẹ Mary đã được soạn thảo đặc biệt để loại bỏ một cách hệ thống các chướng ngại trong trường năng lượng của con đang ngăn cản dòng chảy tự do của năng lượng kundalini qua con. Các bài chú bảy tia sáng cũng vậy. Khi con dùng những dụng cụ này, con sẽ lần hồi cảm thấy dòng chảy của sự sống qua con, nhưng điều này sẽ diễn ra một cách quân bình, hài hòa, không gây tổn hại cho hệ thần kinh tinh nhậy của con hoặc tạo ra lỗ hổng trong trường năng lượng của con. Thay vào đó, con sẽ thực sự cảm thấy như những nữ đồng trinh khôn ngoan đã biết giữ cho ngọn đèn của mình được trong sáng – tức là luân xa được quân bình – trong khi chờ đón chàng rể của cái ta Ki-tô:

“1 Khi ấy, nước thiên đàng sẽ giống như mười người nữ đồng trinh kia cầm đèn đi rước chàng rể. 2 Trong các nàng đó, có năm người khôn và năm người dại. 3 Người dại cầm đèn đi mà không đem theo dầu với mình. 4 Nhưng người khôn khi cầm đèn đi thì đem dầu theo trong bình của mình. 5 Vì chàng rể đến trễ, các nàng đều buồn ngủ và ngủ gục.

6 Đến nửa đêm, có tiếng kêu rằng: Kìa, chàng rể đang đến, hãy đi ra mà rước. 7 Các nữ đồng trinh đều thức dậy và sửa soạn đèn mình. 8 Các nàng dại nói với các nàng khôn: Xin cho chúng em chút dầu vì đèn chúng em đã tắt. 9 Nhưng các nàng khôn trả lời: Không, vì e sẽ chẳng đủ cho chúng em và các chị, tốt hơn các chị hãy đi đến người bán dầu mà mua.

10 Trong khi họ đang đi mua thì chàng rể đến; kẻ nào sẵn sàng thì đi với chàng vào tiệc cưới, và cánh cửa đóng lại. 11 Lúc sau, các nữ đồng trinh kia về đến và nói: Hỡi Chúa, hỡi Chúa, xin mở cho chúng tôi. 12 Nhưng người đáp rằng: Quả thật ta nói cùng các người, ta không biết các người đâu. 13 Vậy hãy tỉnh thức, vì các người không biết ngày, cũng không biết giờ mà Đứa con của người sẽ tới. (Matthew 25)”

Adolph Hitler và cái chết thứ hai

Hỏi: Cuộc đời của Adolph Hitler luôn khiến con chú ý, và trên trang mạng của thày, thày có nói là ông ta đã bị đưa vào cái chết thứ hai. Con xin hỏi, điều đó xảy ra như thế nào? Nếu nhìn lại cuộc đời của Hitler, có thể thấy là ở một thời điểm nào đó, ông ta đã bị mù quáng bởi tư duy của mình đến độ có vẻ không ai có thể xoay chuyển được nữa. Chẳng hạn, cuối năm 1942 và đầu năm 1943, ông ta quyết định “giải pháp cuối cùng” để diệt chủng người Do thái. Vậy ở điểm đó đã có thể đoán trước là ông ta sẽ giết hại hàng triệu người Do thái. Nếu qua quyết định này ông đã hội đủ tư cách để nhận phán xét cuối cùng, tại sao lại không ban ngay cái chết thứ hai và rút ông ra khỏi hiện thân hầu cứu lấy mạng sống của bao nhiêu người?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 25/11/2010.

Nếu con xem kỹ hơn lời dạy của ta về cái chết thứ hai, con sẽ hiểu đầy đủ hơn về tiến trình này. Thực tế đơn giản là sự phán xét cuối cùng không là một tiến trình có thể diễn ra khi dòng sống còn đang đầu thai. Tiến trình chỉ có thể xảy ra sau khi dòng sống đã rời hiện thân và có thể được đem ra – một cách toàn diện – trước Toà án Lửa thiêng. Nếu nó còn đang hiện thân thì một phần của nó phải ở lại địa cầu để giữ cho cơ thể tồn tại.  

Trong phán xét cuối cùng, không có một thế lực bên ngoài nào phán xét dòng sống cả. Các chân sư thăng thiên điều hành tiến trình này và phác thảo những nét chính của con đường đã dẫn dòng sống tới điểm này, cũng như con đường mà nó phải đi theo để trở lại với sự thuần khiết ban đầu. Sau đó tùy dòng sông sẽ chọn đường nào, hoặc nó bước vào con đường cứu chuộc, hoặc nó kết thúc tất cả. Cho nên không bao giờ các chân sư sẽ chọn lựa dùm dòng sống để nhận cái chết thứ hai, bởi vì đó sẽ là một sự vi phạm Luật Tự quyết.    

Làm sao một dòng sống có thể đối diện với phán xét cuối cùng và có sự chọn lựa tối quan trọng này nếu một phần của nó còn gắn liền với địa cầu? Sự chọn lựa chỉ có thể có được khi nào nó thấy rõ là nó không còn nơi nào khác để mà đi, hoặc là nó phải thay đổi, hoặc là nó sẽ không còn hiện hữu một cách toàn diện. Cho nên con thấy Hitler – hay Stalin hay bất cứ ai khác đã phạm những tội ác tày trời – không thể được đưa ra phán xét cuối cùng nếu còn đang đầu thai. Chưa bao giờ từng có, và sẽ không bao giờ có, một người nào nhận phán xét cuối cùng khi còn đầu thai, bởi vì luôn luôn người đó có khả năng quay đầu. 

Con cũng cần phải xem xét sự kiện là khi quyết định cho phép dòng sống của Hitler đầu thai, quyết định này không chỉ dựa trên một lượng định về dòng sống đó mà thôi. Hitler đã được cho phép đầu thai chỉ vì tình trạng tâm thức của dân tộc Đức, của dân tộc Do thái và nhiều dân tộc khác tại Âu châu vào thời đó là như vậy. Cho nên việc Hitler được phép đầu thai là một cơ hội để mọi bên có dịp thấy rõ mình sẽ phản ứng ra sao.  

Khi một dòng sống được phép đầu thai, các chân sư xem đó là một cơ hội cho rất nhiều người. Do đó chúng tôi sẽ giữ nguyên cơ hội đó cho tới khi nào còn hy vọng có người học hỏi được từ đó. Nói cách khác, có thể đã có một thời điểm khi Hitler không thể quay ngược trở lại, nhưng cơ hội cho người khác thì vẫn chưa kiệt hẳn.

Những chọn lựa của người khác đã có thể rút ngắn mạng sống của Hitler. Trong khi đó, việc đem dòng sống ông ta ra khỏi hiện thân không phải là một chọn lựa mà các chân sư có quyền lấy. Quyết định phải nằm với những người đang đầu thai lúc đó, phần nào bằng cách kêu gọi sự phán xét – và phải kêu gọi trong tinh thần không phán xét – hoặc bằng cách họ học hỏi từ người đó và thăng vượt trạng thái tâm thức cũ của mình. Xem như sự việc đã xảy ra thì cách phản ứng của đa số mọi người đã kéo dài mạng sống của Hitler. Cho nên chính vì nhiều người tại Đức lẫn tại các nơi khác không sẵn lòng thay đổi mà Hitler đã có thể tiến hành “giải pháp cuối cùng”.

Ta cũng xin nhấn mạnh là mặc dù có vẻ Hitler nằm ngoải mọi khả năng thức tỉnh, nhưng Luật Tự quyết ra lệnh các chân sư không bao giờ được tiên đoán trước dòng sống sẽ chọn lựa ra sao. Vì vậy, cho đến khi nó bị tiêu tan trong Hồ Lửa thiêng, luôn luôn có khả năng là nó có thể quay đầu, và đó là điều chúng tôi chú mục vào. Chúng tôi không bao giờ xem một dòng sống nào là không thể cứu chuộc. Và chúng tôi không xử án một ai cả – chúng tôi chỉ để yên cho dòng sống tự xử án lấy mình qua chọn lựa của chính nó. Chỉ có những người trong hiện thân mới nghĩ rằng chúng tôi xử án giống như họ xử án một người, hay nghĩ rằng một người không có khả năng cứu chuộc.    

Phán quyết cuối cùng là một tiến trình không liên quan đến bất cứ ai đang hiện thân, và nó hoàn toàn không tuân theo những  điều tin tưởng của con người. Tiến trình hoàn toàn do các chân sư điều phối, là những bậc đã vượt lên khỏi tâm thức nhị nguyên – vượt lên rất xa. Nói cách khác, ngay cả một chân sư mới thăng thiên cũng không thể tham dự vào tiến trình, mà chỉ có những bậc cao cấp trong đoàn chưởng giáo tâm linh mà thôi. Con có thấy tại sao không? Một dòng sống chỉ đối diện phán xét cuối cùng khi nó đã tạo ra một cái hộp tư duy kín mít đến độ không còn cách nào khác để cho nó thấy rằng thực tại của Thượng đế không phù hợp với những gì nó tin tưởng.

Cho nên phán quyết cuối cùng là tiến trình trong đó một nhóm chân sư nỗ lực lần cuối để khiến dòng sống thức tỉnh mà ra khỏi những tin tưởng nhi nguyên của nó. Nói cách khác, chỉ những bậc vô cùng tinh thông trong khả năng nhìn thấu các ảo tưởng nhị nguyên mới có thể giúp dòng sống vượt qua thử thách này. Và ngay cả các thày cũng có thể phải bó tay cho đến khi dòng sống đối diện với Hồ Lửa thiêng và chứng nghiệm rằng các lập luận và biện bạch của nó cũng không thể ảnh hưởng được tiến trình. 

Thật là dễ hiểu khi những người đang đầu thai nghĩ rằng những kẻ đã gây ra tội ác tày trời xứng đáng với cái chết thứ hai. Thế nhưng một khi con đang hiện thân thì con không thể có cái nhìn toàn diện cần thiết để lượng định tình cảnh một cách chính xác. Có quá nhiều yếu tố cần phải xem xét – những yếu tố mà không ai trong kiếp đầu thai có thể biết được – trước khi một dòng sống được đưa ra phán xét cuối cùng. 

Nghĩa là có những dòng sống mà hầu hết ai ai trên địa cầu cũng sẽ vui mừng nhìn thấy họ bị chết lần thứ hai, nhưng kỳ thực họ vẫn chưa sẵn sàng. Ngược lại, có những dòng sống coi vẻ bình thường vô hại, vậy mà đã tận dụng mọi cơ hội cứu chuộc và tỏ ra cương quyết không chịu nhận trách nhiệm về tình trạng tâm thức của mình. Đó là tại sao ta bảo, đừng phán đoán theo vẻ ngoài. Những vẻ ngoài trong quan điểm của những người đầu thai không phải là cách nhìn của Thượng đế hay của các chân sư.   

Và đó là lý do những người đang hiện thân sẽ khôn ngoan biết mấy nếu họ không đánh giá một ai đó có xứng đáng bị phán xét cuối cùng hay không. Làm như vậy sẽ dễ dàng dẫn con đến ảo giác rằng con người hiểu rõ hơn Thượng đế, và con sẽ không dễ gì thoát ra khỏi niềm kiêu hãnh tâm linh này. Con hãy tập trung vào việc tháo gỡ cái xà trong mắt mình, và để yên cho các chân sư thăng thiên đã được giao phó trách nhiệm này định xem những ai đã sẵn sàng bước ra phán xét cuối cùng.

Như ta đã có bài giảng về điều này, Thượng đế thật sự đã thiết kế một hệ thống toàn hảo để giúp các dòng sống. Nếu cho rằng ngài cần sự giúp đỡ của bất cứ ai trên địa cầu, thì đó là một ảo tưởng của các sa nhân nghĩ rằng chúng hiểu cách điều hành vũ trụ giỏi hơn cả Thượng đế.

Bản sắc sa ngã và bản sắc tách biệt

Hỏi: Liệu đã từng có một thiền thần sa ngã nào đã quay đầu, nhập lại con đường và trở thành Ki-tô?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 19/5/2007.

Không, một thiên thần sa ngã không thể được cứu chuộc – vì lý do giản dị là cái Ta Biết của mọi sinh thể là điều mà nó nghĩ nó là. Cho nên nếu con nghĩ con là một thiên thần sa ngã, con không có bất kỳ hy vọng nào quay ngược trở lại, cất bước trên con đường tu tâm linh và bước vào Nước trời.

Và đó là lý do ta đã nói: “Ai muốn cứu mạng sống của mình sẽ mất sự sống, còn ai sẵn lòng bỏ mạng sống của mình vì ta, sẽ tìm thấy sự sống”. Vậy những ai sẵn lòng từ bỏ bản sắc sa ngã của mình, tức là bản sắc tách biệt khỏi Thượng đế, chắc chắn có thể quay đầu, và điều này đã xảy ra cho nhiều cá nhân. Tuy nhiên ta phải nói là trong số những sinh thể sa ngã cứng nhắc và khép kín nhất – nhóm những sinh thể cứng nhắc và khép kín nhất – không có một ai đã được cứu chuộc cho tới giờ.  

Như chúng tôi nay đã giải thích trong quyển sách của Maitreya lẫn quyển của Mẹ Mary, con thực sự là điều mà con nghĩ con là. Cho nên để vĩnh viễn bước vào cõi tâm linh và thăng thiên, con phải vượt qua mọi bản sắc thế gian. Ta phải nói cho con sự thật trung thực: điều gì áp dụng cho thiên thần sa ngã cũng áp dụng cho mọi ai khác đã gia nhập vào tâm thức nhị nguyên – con phải để cho ý niệm bản sắc tách biệt chết đi trước khi con thăng hoa.  

Và như vậy trong một nghĩa nào đó, thật là không quan trọng con đã sa ngã như thế nào hay sa ngã ở đâu, bởi vì ai ai cũng phải đi theo cùng một tiến trình. Và ta cũng nói cho con, có những sinh thể đã không sa ngã ở những bầu cõi cao hơn do đã chống đối lại Thượng đế, mà họ đã sa ngã vì những lý do có thể gọi là “ngây thơ” hơn – có thể thậm chí vì họ đã đi theo một người thày giả, vì họ đã không hẳn sẵn lòng nhận trách nhiệm về đời của mình và do đó đã mong muốn ai khác lấy quyết định dùm cho mình. Và một số sinh thể như thế – là những sinh thể chưa từng biểu lộ bất kỳ xấu ác nào, chưa từng thể hiện mong muốn kiểm soát người khác – vẫn bị bao trùm trong bản sắc vị kỷ đến độ họ không chịu buông nó ra. Và như thế, ngay cả những sinh thể có vẻ vô hại và ngây thơ cũng đã đi vào cái chết thứ hai khi thời gian của họ đã hết.    

Vậy con thấy đó, con yêu dấu, con không thể nhìn sự việc một cách hoàn toàn trắng đen rồi bảo rằng chỉ có các sinh thể sa ngã mới đi vào cái chết thứ hai. Vì thật ra con cũng có thể nói là bất cứ ai mang một bản sắc tách biệt cũng là một sinh thể sa ngã. Và nếu sinh thể đó không sẵn sàng từ bỏ bản sắc sa ngã này, cái bản sắc tách biệt, thì rốt cuộc nó cũng sẽ đi vào cái chết thứ hai khi nó hết thời gian.