Nhóm thượng tôn quyền lực đang sử dụng các vấn đề môi trường và hâm nóng toàn cầu như thế nào

Hỏi: Con đã là một độc giả nhiệt thành của trang mạng này từ khoảng một năm nay. Xin vô cùng cảm ơn số lượng bài vở và những thông điệp vô cùng bổ ích cho nhân loại. Hôm nay, phần đầu của bản báo cáo từ Ủy ban về Biến đổi Khí hậu của Liên hiệp quốc đã được công bố, cho nên con xin đặt câu hỏi quan trọng này: Thày Giê-su nói gì về sự hâm nóng toàn cầu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Đây là một vấn đề phức tạp, một vấn đề với hệ quả toàn cầu, và ta sẽ trình bày thật thẳng thắn. Khi dùng từ “toàn cầu”, ta dùng từ này một cách sâu sắc hơn hầu hết mọi người, vì ta không chỉ dùng nó để chỉ mọi thứ trên hành tinh vật lý, mà mọi thứ trong toàn bầu cõi của trái đất, kể cả bốn khía cạnh của toàn bộ trường năng lượng của hành tinh. Cho nên để hiểu trọn vẹn sự hâm nóng toàn cầu, con phải nhìn vào toàn bộ mọi vấn đề vật lý, tâm lý lẫn tâm linh.

Chúng ta hãy phân biệt giữa vấn đề hâm nóng toàn cầu với cuộc tranh luận về vấn đề hâm nóng toàn cầu. Và chúng ta hãy thảo luận trước tiên về chính vấn đề. Ta đồng ý với nhận định trái đất đang hâm nóng, như được thể hiện qua nhiều đo đạc và thống kê khoa học cùng những dạng thời tiết bất thường đã làm tiêu đề cho các bản tin khắp thế giới. Ta cũng đồng ý với nhận định rằng hiện tượng hâm nóng này là do con người gây ra. Kỳ thực, ta đồng ý cả với những ai nói rằng nó hoàn toàn do con người gây ra và nó không phải là kết quả sự biến đổi tự nhiên của khí hậu trái đất. Tuy vậy, sự đồng ý của ta với phiên bản chính thức, khoa học đó, kết thúc ở chỗ này.

Không có chu kỳ tự nhiên

Một số người cho rằng hâm nóng địa cầu là một phần của chu kỳ tự nhiên đã diễn ra nhiều lần trong lịch sử. Ta không bác bỏ là trên trái đất có một số chu kỳ, và nhiều lần trong quá khứ khí hậu đã từng ấm hơn hiện nay. Nhưng ta không đồng ý với nhận định này vì trên hành tinh KHÔNG HỀ có chu kỳ tự nhiên – nếu qua từ “tự nhiên”, con nói đến những gì không bị ảnh hưởng bởi loài người. Tất cả mọi thứ làm bằng tâm thức, tức là mọi điều kiện trên trái đất, hoặc đã được tâm thức loài người tạo ra, hoặc đã bị tâm thức loài người ảnh hưởng.

Một cách tiếp cận bất nhất đối với vấn đề môi trường

Ta biết rõ là nhiều người bác bỏ ý tưởng rằng tâm thức của họ có thể góp phần vào các thiên tai, và ta muốn nhân cơ hội này chỉ ra một sự bất nhất, thiếu nhất quán, trong quan điểm của nhiều người tự nhận mình là có ý thức môi sinh.

Nếu con quan sát một số người phủ nhận hâm nóng toàn cầu, con sẽ thấy một phần động cơ của họ là họ từ chối tin rằng hoạt động của con người có thể đem lại hậu quả toàn cầu. Họ không chấp nhận là sự ô nhiễm nhân tạo có thể thực sự ảnh hưởng đến khí hậu của hành tinh, tạo ra hậu quả tàn khốc. Vì vậy những ai có ý thức môi sinh – cho dù họ nhìn cuộc sống một cách duy vật hay tâm linh – thường hay dè bỉu những người đó, coi thường những người phủ nhận hâm nóng toàn cầu, mà không nhận ra là chính họ cũng bị mắc kẹt trong cùng một sự phủ nhận, chỉ dưới một lớp ngụy trang khác mà thôi.

Nhìn vào những người phủ nhận, con sẽ thấy có yếu tố tâm lý là họ không sẵn lòng thay đổi lối sống cơ bản của họ. Và bởi vì hâm nóng toàn cầu dường như chỉ ra sự cần thiết phải thay đổi cơ bản như vậy, cho nên họ phủ nhận nó. Tuy nhiên ở bên dưới phản ứng tâm lý này là một phản ứng tâm linh sâu xa hơn, là họ từ chối nhận trách nhiệm trọn vẹn về hoàn cảnh của họ. Họ từ chối chấp nhận hành động của mình có thể có hậu quả toàn cầu và họ cần thay đổi cách nhìn cuộc sống để bao gồm các mối quan tâm toàn cầu này. Nền tảng của sự phủ nhận là họ chối bỏ chính cái lý do đã giúp loài người tồn tại cho đến nay, cụ thể là con người được tạo ra để đồng sáng tạo với Thượng đế. Con người được ban cho “quyền cai quản” trên trái đất (Sáng thế 1:26).

Cai quản không có nghĩa là con trấn áp thô bạo, ép buộc mọi khía cạnh của thiên nhiên phải phục vụ nhu cầu của con, mà có nghĩa là trước tiên con cai quản bản ngã của mình – tâm con, tâm lý của con, trường năng lượng của con – xong con dùng khả năng tự điều ngự này để khiến trái đất, kể cả thiên nhiên, trải bày ra viễn quan cao nhất cho hành tinh, tức là niệm tinh khôi được cầm giữ trong tâm Thượng đế. Ta có thể cam đoan với con là viễn quan và quy luật của Thượng đế cho phép mọi người, tất cả mọi người, được có một cuộc sống sung túc mà không hủy hoại môi trường. Không có sự cần thiết phải “chinh phục” một mức sống vật chất cao cấp bằng cách lạm dụng môi trường hay lạm dụng người khác. Đây chỉ là một sự mất cân bằng bắt nguồn từ tự ngã con người, từ thái độ “tôi chống anh” sẽ chỉ dẫn đến mù quáng tâm linh.

Làm người đồng sáng tạo là vai trò mà con người được tạo ra để chu toàn, và vấn đề hâm nóng toàn cầu chính là sản phẩm khi hầu hết mọi người từ chối chu toàn vai trò đó. Sự từ chối được ngụy trang dưới nhiều cách tinh vi và khôn ngoan, nhưng đằng sau tất cả là tự ngã con người sẽ luôn luôn chối bỏ trách nhiệm của mình về hậu quả những việc mình làm cùng thái độ của mình về cuộc sống. Cho nên chừng nào con người còn bị mù quáng bởi tư duy nhị nguyên của tự ngã, thì họ sẽ bác bỏ toàn bộ hậu quả của lối sống của họ.

Những kẻ phủ nhận hâm nóng bị mắc kẹt dưới lớp phủ của sự từ chối trách nhiệm, từ chối thừa nhận rằng hành vi con người có hậu quả toàn cầu. Còn những ai có ý thức về môi trường thì có thể nhìn ra sự nông cạn của cái nhìn đó, nhưng họ lại thường không thấy là họ cũng bị mắc kẹt trong một khía cạnh tinh tế hơn của tự ngã chối bỏ trách nhiệm. Họ không chịu ngó đến sự kiện môi trường tự nhiên không chỉ bị ảnh hưởng bởi hành động con người, mà bởi toàn bộ bản thể con người, kể cả tâm thức con người.

Điểm ta muốn nói là nếu họ có ý thức môi sinh – và chấp nhận là hành vi con người có thể gây hậu quả toàn cầu – thì họ sẽ thật bất nhất nếu họ phủ nhận là môi trường tự nhiên cũng bị trạng thái tâm thức con người tác động. Tuy họ đã bắt đầu khắc phục sự chối bỏ trách nhiệm khi họ thừa  nhận là hành động có hậu quả toàn cầu, nhưng họ lại ngừng dở chừng ở đó. Họ vẫn không chấp nhận toàn bộ trách nhiệm của mình bằng cách nhìn nhận là trạng thái tâm thức còn tác động môi trường mạnh hơn gấp bội các hành động vật lý.

Cho nên nếu họ thực sự quan tâm đến môi trường như họ tuyên bố, thì họ cần nhìn vào cái xà nơi mắt họ và đạt cái hiểu trọn vẹn. Họ cần hiểu là mọi thứ đều là năng lượng, cho nên năng lượng cấu tạo hành tinh vật lý cũng là cùng một chất cơ bản như năng lượng của tư tưởng và cảm xúc. Có nghĩa là, thật vậy, hành tinh vật lý cũng sẽ bị tác động bởi tâm thức tập thể của nhân loại.

Khắc phục sự chối bỏ trách nhiệm

Ta cũng biết đây không phải là chuyện dễ làm, vì hầu hết mọi người đã được nuôi dạy trong một xã hội gần như tràn ngập tinh thần chối bỏ trách nhiệm. Nguyên nhân là vì trong nhiều thế kỷ, xã hội phương Tây đã là chiến trường giữa hai thế lực – được đại diện bởi đạo Cơ đốc và nền khoa học duy vật – và cả hai đều chối bỏ sự kiện là con người hoàn toàn trách nhiệm về hành tinh này.

Nói chung, đạo Cơ đốc phủ nhận con người được tạo ra để đồng sáng tạo và cai quản trái đất – một công việc họ chỉ có thể thực hiện bằng cách khoác vào tâm Ki-tô và trở thành Ki-tô Hằng sống trong hiện thân. Còn khoa học thì tuyên bố con người chỉ hơn loài vượn tiến hoá một chút, có nghĩa là khoa học phải phủ nhận quyền năng của tâm con người, và thay vào đó, phải tập trung vào sự ô nhiễm vật lý như nguyên nhân duy nhất của sự hâm nóng.

Con có bắt đầu thấy được tại sao ta bào là hâm nóng toàn cầu có hệ quả toàn cầu hay chăng? Quả như vậy, hâm nóng toàn cầu là do con người gây ra, nhưng nguyên nhân thực sự không phải là ô nhiễm vật lý mà là sự từ chối không nhận toàn bộ trách nhiệm về hành tinh này. Cho nên có thể nói nguyên nhân thực sự là một sự chối bỏ trách nhiệm, và nếu nhân loại muốn giải quyết thành công vấn đề này thì trước tiên phải thừa nhận và đối mặt với vấn đề chối bỏ trách nhiệm. Nó sẽ đòi hỏi họ suy nghĩ lại toàn bộ – xét lại ở mức toàn cầu – cách họ tiếp cận cuộc sống.

Nếu nhân loại giảm lượng khí thải nhà kính xuống đến mức 0 thì cũng sẽ không ngăn được hâm nóng toàn cầu, bởi vì nguyên nhân sâu xa hơn gấp bội. Cho nên trừ khi nguyên nhân tâm linh được đưa ra ánh sáng và giải quyết, hành tinh này sẽ tiếp tục hâm nóng, thời tiết sẽ tiếp tục ngày càng thất thường hơn. Đây là hậu quả sự kiện trái đất có một số chu kỳ vũ trụ, qua đó nhân loại phải học qua một số bài học. Và như Shiva đã giải thích, trước năm 2012, loài người phải học bài học là tâm thức có tác động đến cả hành tinh vật lý:

[trích dẫn bài giảng của Shiva] Cho nên ta yêu cầu con suy ngẫm xem đâu là nhu cầu lớn nhất trên hành tinh ngay bây giờ để loài người có thể thức tỉnh trước thực tế là chính Mẹ Trái đất cũng kết nối chặt chẽ với tâm thức nhân loại. Và những biến cố xảy ra cho thân thể Mẹ Trái đất mà mắt người có thể nhìn thấy, chỉ là sản phẩm của các tư tưởng cùng cảm xúc có mặt trong tâm thức đại chúng.

Đây là sự chứng ngộ tuyệt đối cần thiết trên hành tinh này. Nhân loại không thể đơn giản vươn lên một mức tâm thức cao hơn cho đến khi con người bắt đầu nhận ra mối liên hệ trực tiếp giữa địa cầu vật lý và tâm thức của mình. Nếu họ không nhận ra, họ sẽ tiếp tục bị chấn động, bị choáng váng mỗi khi tai họa xảy đến. Và họ sẽ không thể giải thích tại sao, họ sẽ cảm thấy bất lực không làm gì được để ngăn chặn nó tái diễn trong tương lai. Cho nên họ bị tê liệt trong nỗi sợ tương lai, thay vì động viên để cai quản trái đất và tăng trưởng ánh sáng tâm linh bên trong họ, là ánh sáng có khả năng tiêu hủy căn nguyên của mọi tai họa tương lai.

Cho nên đây là sự chứng ngộ cốt yếu phải đột phá vào tâm thức, vào tâm thức đại chúng của nhân loại. Câu hỏi duy nhất đặt ra là nó sẽ đột phá như thế nào. Cho nên ta sẽ tiên tri là giữa bây giờ và năm 2012, có hai cách mà nhân loại có thể bước tới.

Có một con đường cao, là khi con người bắt đầu đáp lại các thông điệp tâm linh được các chân sư thăng thiên truyền rải qua nhiều nguồn khác nhau. Họ nâng cao nhận biết và nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời cá nhân của mình cũng như về hành tinh nói chung. Họ chấp nhận là họ phải thay đổi tâm thức để tránh chịu thêm thiên tai hay chinh chiến.

Đấy là con đường cao, mà các thày rất mong mỏi là con đường mà nhân loại sẽ chọn. Nhưng nó chỉ có thể xảy ra nếu lớp 10% với tâm thức cao nhất trong quần chúng – như Giê-su đã giải thích trong một bài truyền đọc gần đây – thức tỉnh và ngộ ra họ phải là những kẻ tiên phong vì 80% dân chúng không thể tự mình thức tỉnh. Còn lớp 10% thấp nhất trong quần chúng sẽ làm đủ mọi cách để giữ chặt mọi người kẹt lại trong vô minh.

Ta phải nói với con là nếu sự thức tỉnh này không xảy đến thì con đường thứ nhì sẽ diễn ra. Số lượng và độ nghiêm trọng của thiên tai sẽ tiếp tục gia tăng cho đến khi nó dữ dội đến mức con người không thể phớt lờ được nữa là trái đất đang gửi cho mình một thông điệp. Và thông điệp đó nói: “Bạn phải thay đổi nếu không thì chết, vì nếu bạn không thay đổi, chính ta đây sẽ chết. Và làm thế nào bạn có thể tồn tại nếu nền tảng cho cuộc sống vật lý của bạn không còn nữa?” [ngừng trích]

Sự cọ xát tâm linh gây ra hâm nóng toàn cầu

Vậy đâu là nguyên nhân tâm linh của hâm nóng toàn cầu? À, đây là một vấn đề phức tạp có nhiều hơn một nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu có thể quy cho một loại cọ xát tâm linh. Con cũng biết khi con lái xe xuống một đoàn đường rất dốc mà cứ không ngừng đạp thắng, thì cuối cùng thắng có thể quá nhiệt và hỏng. Lý do là vì lực cọ xát giữa các bộ phận thắng sinh ra nhiệt.

Như các nhà vật lý vũ trụ đã phát hiện, toàn bộ vũ trụ vật lý đang giãn nở, nhưng điều mà họ chưa hiểu là nó không chỉ giãn nở theo chiều ngang. Để tiếp tục bành trướng, vũ trụ không thể đứng nguyên ở cùng độ rung, hay cùng tỉ trọng. Chính vật chất vật lý phải được nâng cao độ rung, bởi vì nếu không, quán tính trong vật chất sẽ khiến cho vũ trụ ngừng giãn nở, và nó sẽ bắt đầu co sụp xuống trong cái được các nhà khoa học gọi là Big Crunch.

Điều ta muốn nói là sự giãn nở của vũ trụ liên hệ đến việc nâng cao độ rung của vật chất, và việc này làm giảm tỉ trọng của vật chất. Tiến trình này được giải thích tóm gọn ở một nơi khác trên trang mạng này. Ý tưởng cơ bản ở đây là một bầu cõi được nâng độ rung cho đến khi nó thăng thiên và trở thành một phần của cõi tâm linh. Mục đích của các sinh thể tự nhận biết sống trong bầu cõi là đóng góp cho tiến trình này bằng cách nâng cao tâm thức của mình. Có hàng tỷ và hàng tỷ những sinh thể như vậy trong bầu cõi mà vũ trụ vật chất là một thành phần, và họ đã cùng nhau tạo được một động lượng thúc đẩy không những sự giãn nở chiều ngang của vũ trụ, mà cả sự nâng cao rung động của chính vật chất.

Đúng lý thì trái đất cũng phải thăng vượt rung động của mình, và đây là nhiệm vụ của các sinh thể tự nhận biết sống trên hành tinh này – tức loài người – họ phải tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình thăng lên. Nếu tập thể loài người quyết định không nâng cao tâm thức, việc thăng thiên của trái đất có thể bị chậm lại. Tuy nhiên, không một hành tinh nào là một hòn đảo, và trái đất là một thành phần của một hệ thống rộng lớn hơn bao gồm cả thái dương hệ, thậm chí cả dải thiên hà. Trong hệ thống này có rất nhiều sinh thể tự nhận biết khác đã tạo được một động lượng hướng thượng. Cho nên trong khi loài người cai quản trái đất có thể quyết định hãm lại việc trái đất thăng thiên, nhưng loài người không thể kìm hãm động lượng của nguyên hệ thống rộng lớn mà hành tinh này là một thành phần.

Hậu quả là tuy động lượng của toàn bộ hệ thống đang kéo trái đất đi lên, nhưng tâm thức thấp của loài người giống như một quả tạ đang cố giữ trái đất lại. Chúng ta có thể ví như loài người đang đạp thắng để tìm cách làm chậm tiến trình thăng thiên của hành tinh. Chính hiệu ứng kéo chậm lại này đã sản xuất lực cọ xát khiến cho toàn bộ hành tinh thêm nhiệt. Vật chất vật lý trên hành tinh hiện đang dày đặc hơn so với dự kiến, và điều này gây ra quán tính gây ra cọ xát gây ra nhiệt.

Nhân loại từ chối tiếp cận sự sống một cách tâm linh hơn

Điều này tác động lên mọi khía cạnh ở cả bốn tầng của trường năng lượng trái đất. Tuy nhiên cũng có một sự thật trong sự kiện khoa học tin rằng hâm nóng toàn cầu chủ yếu là do ô nhiễm không khi gây ra. Không khí, hay khí quyển, tương ứng với tầng lý trí trong trường năng lượng của hành tinh, và tầng này tương ứng với các ý tưởng của nhân loại. Vấn đề chính ở đây là con người đã từ chối thay đổi tư duy của mình, cách suy nghĩ của mình, cách hiểu của mình về cuộc sống dựa trên các khám phá của khoa học hiện đại lẫn các “tiết lộ” trong lãnh vực tâm linh hiện đại.

Thay vào đó, con thấy đa số quần chúng có cảm tưởng mọi chuyện đang thay đổi quá nhanh, và họ muốn tiếp tục sống theo lối sống quen thuộc, nên họ muốn xã hội hay đà tiến bộ phải chậm lại hầu họ có thể xử lý. Nhưng sự thật là hành tinh đang đứng giữa một giai đọan chuyển tiếp từ Thời đại Song ngư sang Thời đại Bảo bình. Vì loài người đã từ chối học hỏi những bài học cần học trong Thời đại Song ngư – chủ yếu vì các giáo hội Công giáo và chính mạch khác đã phủ nhận tiềm năng con người có thể trở thành Ki-tô – cho nên hành tinh đang bị chậm trễ và loài người cần đuổi thật nhanh để cố bắt kịp. Cho nên quả thực đã có một yêu cầu của thời đại là con người – chỉ trong vòng một thế hệ – phải thực hiện một bước nhảy vọt trong tâm thức mà bình thường sẽ tốn đến mấy thế hệ. Và vì con người cảm thấy choáng ngợp bởi thử thách này nên họ đã tìm cách làm chậm tiến trình và ôm giữ những cách tư duy cũ – một hiện tượng mà con có thể thấy trong mọi lãnh vực của xã hội nếu con chịu thành thật.

Đâu là sự kiện chủ yếu cần xảy ra về mặt thay đổi tư duy? Trước hết, con người cần nhận biết về tâm thức nhị nguyên cùng sự kiện có một chọn lựa khác cho dạng tư duy này, là sự phân biện của tâm thức Ki-tô. Con người cần vươn lên cao hơn tư duy đen-trắng mà không bị mắc kẹt trong tư duy xám.

Suốt hàng thiên kỷ qua, xã hội phương Tây đã bị chế ngự bởi tôn giáo Cơ đốc, và nói chung tôn giáo này đã cho con người một cái cớ để không nhận lãnh toàn bộ trách nhiệm về bản thân mình: Con là kẻ có tội. Và cái cớ đối với hành tinh là: Giê-su sẽ đến cứu thế gian. Đó là một cái nhìn đen-trắng về thế giới. Thế nhưng khi ảnh hưởng của đạo Cơ đốc bắt đầu suy yếu thì khoa học đã chiếm lấy ưu thế, và khoa học cũng cho con người một cái cớ bằng cách mô tả họ là những sinh thể duy vật thiếu hẳn sức mạnh tâm trí để cai quản chính mình hay cai quản hành tinh. Trên cơ bản, khoa học bảo là con không thể biết được sự thật ngoài những gì có thể được chứng minh qua thí nghiệm duy vật, và đây là sự phủ nhận khả năng cố hữu của tâm có thể biết được sự thật Ki-tô. Và như vậy, khoa học chủ yếu cổ xúy một thế giới quan bảo rằng không có sự thật tuyệt đối – đây chính là một dạng tư duy xám.

Nhưng cái gì đứng đằng sau cả hai khuynh hướng nói trên? Đó là ý tưởng vi tế cho rằng con người được sinh tạo như một sinh thể bất toàn hay thiếu sót, không có khả năng chăm sóc bản thân, cả về vật chất lẫn tâm linh. Cho nên quần chúng sẽ cần một ai đó lãnh đạo họ, tức là nhóm thiểu số thượng tôn đang cầm đầu các giới quyền tôn giáo, khoa học, kinh tế, chính trị và quân sự. Cho nên con thấy luôn luôn có một thiểu số thượng tôn quyền lực tìm cách ngăn chặn quần chúng tìm ra hay chấp nhận sự thật sẽ giải thoát họ. Sự thật đó là gì? Ta đã bày tỏ như thế này cách đây 2000 năm: “Vương quốc Thượng đế ở trong con” (Luke 17:21).

Nếu con nhìn quá khứ, con sẽ thấy loài người đã kinh qua một số cách mạng trong cách suy nghĩ, chẳng hạn khi họ vứt bỏ niềm tin là trái đất phẳng. Ngày nay con không thể hiểu nổi thời đó con người bị kẹt trong niềm tin đó như thế nào, cho nên con không thể nhận chân được sự thay đổi to lớn cần thiết trong tư duy để họ buông bỏ một niềm tin mà bây giờ con xem là quá ấu trĩ. Nhưng ta có thể cam đoan với con là chỉ trong một vài thế hệ nữa, người ta sẽ nhìn lại thời buổi này của con tương tự như vậy.

Các thế hệ tương lai sẽ chấp nhận là tâm thức của họ ảnh hưởng mọi chuyện, và họ sẽ nhìn lại thế hệ của con mà không thể hiểu nổi sao con có thể bị kẹt trong thế giới quan của mình đến thế. Họ sẽ không hiểu nổi sao thế hệ của con không thể nhìn xuyên thấu, từ bỏ các tin tưởng cũ và chấp nhận điều họ xem là tuyệt đối hiển nhiên, cụ thể là tâm thức con người ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của hoàn cảnh vật lý của mình. Họ sẽ xem thế hệ của con cũng ấu trĩ y như những người kia cứ nhất định tin rằng trái đất phẳng.

Ta cũng hiểu là khi con còn ở trong hộp tư duy của một ảo tưởng, nó hình thành một tấm màn sẽ pha màu cách con nhìn cuộc sống. Nhưng một khi bong bóng bể, con sẽ nhìn thế giới với con mắt mới, và con sẽ thấy sao quá hiển nhiên các niềm tin cũ của mình bị hạn chế tới chừng nào. Đột nhiên con thấy nhà vua không mặc quần áo.

Vượt khỏi cách tiếp cận dựa trên sức mạnh

Trên bình diện rộng lớn hơn nữa, sự thay đổi tư duy ta vừa nói đến là khi con người hiểu ra mọi thứ đều là năng lượng, cho nên quyền năng của tâm lớn hơn nhiều so với những gì cả tôn giáo truyền thống lẫn khoa học duy vật công nhận. Thực tế là nó đòi hỏi con người thông hiểu bốn tầng cõi của thế giới, rằng mọi chuyện trong cõi vật lý khởi đầu ở cõi bản sắc, rồi trở thành ý tưởng, rồi trở thành cảm xúc, và cuối cùng thị hiện như một hiện tượng hay một hoàn cảnh vật lý.

Khi hiểu ra điều này, một thế giới quan mới sẽ mở ra dẫn đến một xoay chuyển ngoạn mục trong cách nhìn cuộc sống trên địa cầu. Hãy để ta phác họa những hệ quả quan trọng nhất:

  • Con người sẽ ngộ ra là trái đất được sinh tạo như một sân hoạt động cho sự tăng triển tâm linh của mình. Vì vậy họ có quyền có mặt ở đây, và thiết kế của Thượng đế là địa cầu sẽ là nơi sinh sống cho 10 tỷ người.
  • Con người sẽ phát triển một niềm kính trọng và yêu thương mới đối với hành tinh, gồm cả môi trường tự nhiên. Họ sẽ khắc phục mọi xu hướng muốn hãm hiếp môi trường để trục lợi trước mắt và họ sẽ không cho phép các đại tập đoàn hay nước lớn làm vậy nữa. Nhưng họ cũng sẽ nhận ra là việc thay đổi môi trường để nuôi sống loài người nằm hoàn toàn trong hoạch định của Thượng đế cho địa cầu.
  • Con người sẽ hiểu ra là việc sống còn sẽ không đủ nữa và MỌI người phải được hưởng một mức sống khả quan, dành cơ hội cho họ đeo đuổi việc thăng tiến tâm linh.
  • Con người sẽ hiểu ra là để đem lại một mức sống phải chăng cho 10 tỷ người mà không phá hủy môi trường, một cách tiếp cận cách mạng phải được tìm thấy.
  • Cách tiếp cận mới này CHỈ có thể được tìm thấy bằng cách dùng quyền năng của tâm để nhìn vượt khỏi thế giới quan duy vật hiện nay. Chính thế giới quan này đang giam giữ loài người ở một mức nơi họ bị hạn chế phải dùng cái có thể gọi là loại công nghệ dựa trên sức mạnh. Qua từ này, ta muốn nói đến nền công nghệ dùng vũ lực để thu hoạch tài nguyên và sản xuất năng lượng, hoặc bằng cách đốt nhiên liệu hóa thạch, hoặc cưỡng bách hạt nguyên tử phân chia. Kết quả không thể tránh của công nghệ này là hãm hiếp môi trường để có tài nguyên, sản xuất ra ô nhiễm.

Giải pháp cho loài người là vươn lên một mức cao hơn khi họ có thể tiếp nhận công nghệ tiền tiến hơn. Công nghệ này sẵn hiện hữu và các chân sư thăng thiên chỉ chờ tâm thức đột phá để phóng thích nó ra. Nó sẽ cho phép năng lượng được sản xuất miễn phí mà không đòi hỏi tài nguyên vật lý, cho nên sẽ không hãm hiếp môi trường hay tạo ô nhiễm. Ta biết chuyện này nghe như khoa học giả tưởng, nhưng cảm giác này là vì con người còn bị kẹt trong tư duy phải giành lấy mọi thứ bằng sức mạnh. Một khi vượt qua cách suy nghĩ đó, họ sẽ nhìn ra tất cả những hệ quả to lớn của sự thật cách mạng mà ta đã trình bày 2000 năm về trước: “Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi, vì Cha các con đã bằng lòng cho các con vương quốc” (Luke 12:32).

Thượng đế hoàn toàn vui lòng ban cho nhân loại mọi thứ họ cần để biến hành tinh này thành một thiên đàng, một Kỷ nguyên Hoàng kim. Tuy nhiên con người phải sẵn sàng tiếp nhận, vì chừng nào họ chưa sẵn sàng thì việc trao công nghệ cho họ sẽ chỉ khiến họ tự hủy hoại mà thôi. Quần chúng nói chung cũng phải đạt tới điểm sẵn lòng nhận trách nhiệm hoàn toàn về hoàn cảnh của mình, vì chừng nào họ chưa sẵn lòng thì chắc chắn họ sẽ còn bị nhóm thượng tôn cai trị. Như ta vừa giải thích, sự tồn tại của một nhóm thượng tôn quyền lực là kết quả trực tiếp khi hầu hết loài người từ chối nhận toàn bộ trách nhiệm về hành tinh của mình và không chịu thay đổi tư duy.

Chính điều này cho phép thiểu số thượng tôn còn tiếp tục nắm quyền, còn bưng bít những hiểu biết về công nghệ năng lượng miễn phí. Thực tế đơn giản là nhóm thượng tôn quyền lực mơ ước giữ chặt độc quyền, nhưng năng lượng miễn phí thì không ai có thể độc quyền, có nghĩa là các tập đoàn năng lượng khổng lồ hiện nay sẽ tiêu tan khi công nghệ này rốt cuộc được phóng thích. Cho nên nhóm thượng tôn quyền lực đang cố hết sức kìm hãm công nghệ này hầu cứu vãn chế độ độc quyền của chúng. Và chừng nào con người chưa nhận trách nhiệm hoàn toàn và chưa đòi hỏi thay đổi, thì chúng sẽ tiếp tục làm được chuyện đó.

Các khía cạnh tích cực của hâm nóng toàn cầu

Hâm nóng toàn cầu không nhất thiết là tiêu cực, theo nghĩa là trong hoạch định dài hạn cho trái đất, các chỏm băng ở hai cực sẽ chảy ra và khí hậu trở nên ấm áp hơn. Điều này sẽ mở ra những khu vực rộng lớn mới mà ngày nay không thích hợp cho nông nghiệp, và nhờ vậy sẽ nuôi sống một dân số đông hơn. Một lần nữa, phong trào bảo vệ môi trường dựa trên triết lý cho rằng dân số quá đông là nguyên nhân chính gây ra các vấn đề môi trường, nhưng không nhất thiết như vậy. Nếu mọi người sống một cuộc sống cân bằng hơn hiện nay thì hành tinh này quả thực có khả năng nuôi sống 10 tỷ người, cho nên bất kỳ dân số nào ít hơn con số này KHÔNG phải là dân số quá tải.

Tuy nhiên để hành tinh nuôi sống được dân số đó, độ nghiêng của trục trái đất phải được giảm bớt đáng kể, và điều này sẽ khiến cho khí hậu điều hòa trở lại – nếu đi đôi với việc nâng cao tâm thức tập thể – và sẽ gia tăng đáng kể sản lượng lương thực. Việc điều chỉnh trục trái đất cũng sẽ giảm thiểu biến đổi nhiệt độ giữa mùa hè và mùa đông nhưng không hoàn toàn loại bỏ các mùa trong năm. Và nếu tiến trình điều chỉnh xảy ra lần hồi, nó sẽ không gây ra thiên tai lớn hay những dạng thời tiết mất cân bằng.

Tái phân phối cơ hội kinh tế

Ngoài ra cũng phải có một sự tái phân phối tài nguyên, tái phân phối cơ hội, để địa cầu không còn bị cai trị bởi một thiểu số thượng tôn quyền lực đang kiểm soát và tiêu thụ một lượng quá đáng những tài nguyên thiên nhiên và của cải. Phải có sự nhìn nhận rằng mục đích của thịnh vượng là để đem lại lợi ích cho đa số quần chúng thay vì chỉ giúp cho một thiểu số thượng tôn gom góp nhiều của cải hơn bất cứ ai có thể cần đến hoặc tiêu thụ được.

Một lần nữa, vấn đề này đòi hỏi những thay đổi to lớn trong cách tư duy của mọi người, vì nếu ai nấy cứ tiếp tục cưỡng lại tiến trình thì hiện tượng cọ xát sẽ chỉ gia tăng, dẫn đến nhiều hâm nóng và nhiều trục trặc thời tiết hơn nữa. Nếu con nhìn trở ngược lại, con sẽ thấy là vào thập niên 1960, một khuynh hướng mới mẻ đã khởi đầu, nâng cao nhận thức của con người về cộng đồng toàn cầu cùng tính chất liên đới của sự sống. Nhưng cho tới giờ, nó vẫn chưa chuyển thành những thay đổi lớn lao gì trong nhận thức quần chúng. Thay vào đó, nhóm thượng tôn quyền lực đã lợi dụng khuynh hướng này để khởi động một phong trào tìm cách dùng trào lưu toàn cầu hóa làm bình phong cho việc bành trướng quyền lực và kiểm soát của chúng.

Nếu muốn lật ngược khuynh hướng này và giúp cho nhận thức toàn cầu nói trên đem lại một nhận thức trách nhiệm toàn cầu, thì những người tâm linh nhất trên địa cầu cần tỉnh giấc, họ cần ngộ ra là họ phải nắm lấy quyền cai quản hành tinh của mình. Và trong cái ngộ này có cả việc hiểu ra là bất kỳ vấn đề nào cũng có thể bị, và sẽ bị, thiểu số thượng tôn quyền lực khai thác để phục vụ mục tiêu của chúng. Và vấn đề môi trường, kể cả vấn đề hâm nóng toàn cầu, không phải là ngoại lệ. Các thày đã có giải thích sự kiện này trong sách Chữa lành Mẹ Địa cầu.

Hệ thống miễn nhiễm của hành tinh

Điều quan trọng là con hiểu mọi chuyện xảy ra ở tầng vật lý có một bộ phận song song ở ba tầng cao hơn. Cụ thể, sự ô nhiễm vật lý chỉ là kết quả thấy được của một tình trạng ô nhiễm ở cõi cảm xúc và cõi lý trí, dưới dạng năng lượng tâm lý tha hóa được tạo ra bởi những tư tưởng cùng cảm xúc không phát xuất từ tình thương. Khi năng lượng này đủ cường độ, nó tràn ra ngoài và gia tăng hiệu ứng ô nhiễm vật lý. Nói cách khác, thành phần vật lý của hâm nóng toàn cầu chính là việc phát thải khí nhà kính, nhưng trong điều kiện bình thường, các quy trình tự nhiên sẽ có khả năng giải quyết vấn đề mà không gây tàn phá. Hành tinh có một số quy trình làm việc giống như hệ thống miễn nhiễm của con người cùng các hệ thống loại bỏ độc tố, loại bỏ chất thải khỏi cơ thể.

Tuy nhiên hệ thống này gắn liền với ba tầng cao của vũ trụ, cho nên khi có quá nhiều năng lượng cảm xúc và lý trí tích tụ lại, điều này làm suy giảm các quy trình thanh lọc vật lý – cũng giống như hệ thống miễn nhiễm của con bị suy yếu khi con căng thẳng tình cảm. Kết quả là ô nhiễm sẽ tệ hơn, bởi vì nếu hệ thống hành tinh hoạt động bình thường thì các khí thải nhà kính đã không ảnh hưởng khí hậu một cách rõ rệt như vậy. Điều ta muốn nói cho những ai quan tâm đến môi trường và cởi mở với các giải pháp tâm linh, có một cách vô cùng hiệu quả để thanh lọc toàn bộ hệ thống năng lượng của hành inh, đó là đọc các bài thỉnh của Mẹ Mary. Và nếu có đủ túc số những người đọc thỉnh như vậy thì hệ thống sẽ được giải phóng để nó tự thanh lọc lấy, và tác động của ô nhiễm vật lý được giảm thiểu.

Cuộc tranh luận về hâm nóng toàn cầu và các hậu ý

Cuộc tranh luận về vấn đề còn phức tạp hơn cả tự thân vấn đề, bởi vì có quá nhiều nhóm khác nhau tìm cách giật dây nó với quá nhiều động cơ khác nhau. Muốn tìm hiểu chuyện này đầy đủ sẽ dẫn chúng ta vào tận cốt lõi của những gì đang xảy ra với địa cầu, và điều này sẽ phải chờ đến khi có thêm nhiều giáo lý nền tảng được ban truyền. Điều ta có thể nói ngay bây giờ là như sau: Điều tuyệt đối cần thiết cho những ai có nhận biết tâm linh cao nhất là họ cần vượt qua niềm tin ngây thơ cho rằng tất cả những ai tuyên bố làm việc cho môi trường đều làm vậy với động cơ trong lành.

Thực tế đáng buồn là gần như không có một lãnh vực tranh luận nào của con người mà lại bị khuynh đảo nhiều hơn cuộc tranh luận về môi trường. Lý do là vì, tất nhiên, trong tất cả mọi lãnh vực tranh luận gần như không có cuộc tranh luận nào mang hệ quả lớn hơn, vì vấn đề ở đây là quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên toàn cầu. Do đó có rất nhiều đấu thủ ở đây đeo đuổi những quyền lợi khác nhau, nhiều khi trái ngược và loại trừ lẫn nhau. Cái có vẻ là một chính nghĩa trong sáng muốn cứu nguy môi trường thường chỉ là một lớp ngụy trang cho một thâm ý.

Mẹ Mary đã có trình bày một trong những yếu tố chủ yếu trong cuộc tranh luận về môi trường, cụ thể là một số đại tập đoàn sử dụng các tổ chức môi trường làm bình phong để hạn chế việc tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên, qua đó họ lập ra một thế độc quyền được chính quyền phê chuẩn. Tuy nhiên phong trào này – cùng một vài tổ chức môi trường nổi tiếng – có thể được truy ngược về những năm 1800 khi việc khám phá những nguồn tài nguyên thiên nhiên mới ở miền Tây Hoa Kỳ là mối đe doạ có thể lật đổ sự thống trị kinh tế của giới “tiền cũ” ở các tiểu bang Đông Bắc. Vì vậy, một số doanh nhân lớn ở miền Đông đã thành lập và tài trợ một vài tổ chức bảo vệ môi trường.

Tất nhiên, những tổ chức đó đã vượt xa mục đích ban đầu, và trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, một số đã bị ảnh hưởng sâu đậm bởi guồng máy tuyên truyền của Liên Xô cùng nỗ lực của nước này nhằm hạn chế phát triển kinh tế ở phương Tây. Điều này dẫn đến phong trào gọi là “Hạn chế tăng trưởng” với lập luận bảo rằng sự tăng trưởng kinh tế có giới hạn và dân số loài người cũng có giới hạn. Cho nên các quốc gia Tây phương đứng trước một chọn lựa, hoặc sụp đổ, hoặc phải tự ý giới hạn tăng trưởng của mình. Điều này có nghĩa là nhà nước phải kiểm soát tài nguyên và nền kinh tế, tạo ra một hệ thống cũng tương tự như hệ thống cộng sản, chỉ khác tên gọi.

Như ta đã đề cập ở trên, chừng nào con người còn bị mắc kẹt trong một nền công nghệ dựa trên sức mạnh, thì quả thật có một giới hạn cho tỷ lệ tăng dân số và tăng trưởng kinh tế bền vững. Cho nên vẫn có một chút căn bản sự thật đằng sau những lập luận do các tổ chức môi trường đưa ra. Tuy nhiên, chừng nào cuộc tranh luận không vượt ra ngoài những nguyên nhân duy vật, thì tự thân cuộc tranh luận sẽ phục vụ cho một mục tiêu lớn hơn, là ngăn chặn tâm thức nhân loại vươn lên một mức hoàn toàn mới. Và đây chính là mục đích thật sự đằng sau cuộc tranh luận hiện thời về môi trường.

Hãy khôn ngoan như rắn

Quả thật là có rất nhiều người có thiện ý – rất nhiều người trong số 10% có ý thức tâm linh cao nhất – đã bị lôi cuốn vào việc hỗ trợ các phong trào bảo vệ môi trường mà không nhìn thấy thâm ý đằng sau. Thâm ý này thường được thực hiện qua việc trưng bày một số vấn đề dễ gây động cảm, chẳng hạn như cứu nguy một loài động vật hay một môi trường nhạy cảm nào đó – cái thường được gọi bằng thuật ngữ hư cấu là “hệ sinh thái”. Con hãy lưu ý là ta không nói rằng một số phong trào như vậy không có giá trị hay không cần thiết. Đúng là nó cần thiết, như trong hai ví dụ này: cứu cá voi và cứu rừng nhiệt đới khỏi sự khai thác kinh tế không hạn chế. Tuy nhiên điều ta muốn trình bày rộng lớn hơn, là khi người ta tập trung vào những vấn đề riêng lẻ như thế thì sự chú ý của họ sẽ bị dẫn dắt một cách “thuận lợi” để họ không nhìn thấy vấn đế tổng thể trong hậu trường.

Rất nhiều đại nghĩa bảo vệ môi trường chỉ đơn giản là ngụy trang nhằm cố tình che giấu những nguyên nhân sâu xa. Nguyên nhân chủ yếu bị che giấu là nhu cầu phát triển một thế giới quan cao hơn và tâm linh hơn. Và người ta che giấu bằng cách chỉ tập trung vào các nguyên nhân và các vần đề duy vật, thường thường qua việc giản dị hóa vấn đề đến độ nó chỉ còn là một chuyện vô cùng trắng-đen với một thủ phạm rõ ràng. Chẳng hạn, kỹ nghệ săn bắt cá voi là thủ phạm, kỹ nghệ khai thác gỗ là thủ phạm, và nếu chúng ta ngăn chặn họ thì chúng ta sẽ cứu được cá voi và rừng nhiệt đới.

Những đại nghĩa môi trường đầy động cảm như vậy thường dựa trên bằng chứng khoa học đáng ngờ, khi một nhà khoa học được trích dẫn bởi một nhà khoa học khác được trích dẫn bởi nhiều nhà khoa học khác, cho tới khi người ta có hẳn một “khối lượng bằng chứng khoa học” không có chút thực tế nào nhưng lại có vẻ rất thuyết phục đối với người bình thường. Kết quả chung chung là ai nấy có cảm giác mình đang đóng góp cho trái đất, nhưng sự chú ý của họ được khéo léo dẫn dắt để họ không xem xét các nguyên nhân sâu xa hơn. Tất nhiên, nó che giấu bàn tay của nhóm thượng tôn quyền lực là kẻ đích thị đang lạm dụng môi trường.

Nhóm thượng tôn quyền lực có tư duy dựa trên vũ lực

Toàn bộ thâm ý là lớp thượng tôn quyền lực biết rất rõ nguy cơ nhân loại có thể vươn lên một tầm nhìn tâm linh hơn về cuộc sống. Chúng biết là nếu điều này xảy ra, chúng sẽ bị lật mặt, và một khi chúng bị phơi bày, chúng sẽ bị tước mất quyền lực trên quần chúng mà chúng đã nắm từ hàng bao thế kỷ, thậm chí hàng bao thiên niên kỷ.

Lớp thượng tôn quyền lực có một cách tư duy hoàn toàn dựa trên sự tha hóa của lời răn rằng con người hãy nhân lên và cai quản trái đất. Chúng xem trái đất và con người là những kẻ thù phải trấn áp mạnh bạo, và tư duy này đã giam giữ loài người trong nền công nghệ dựa trên sức mạnh. Nhóm thượng tôn đã chiếm quyền bằng vũ lực và chúng sẽ làm mọi cách để giữ quyền, kể cả ngăn chặn toàn bộ hành tinh vươn lên một tầng cấp cao hơn. Mặc dù chúng nghĩ chúng rất tinh xảo khôn ngoan, nhưng kỳ thực chúng là những kẻ lãnh đạo mù mà ta đã cảnh báo mọi người khoảng 2000 năm về trước: 

  • “Hãy để họ vậy: họ là kẻ mù dẫn đường người mù. Và nếu kẻ mù dẫn đường người mù, cả hai sẽ té xuống hố” (Matthew 15:14).
  •  “Kìa, ta cho các con đi tựa như chiên đi vào giữa bầy lang sói. Vậy hãy khôn ngoan như rắn và vô hại như bồ câu” (Matthew 10:16).
  • “Hãy coi chừng tiên tri giả, họ đến với con đội lốt chiên, nhưng bên trong họ là chó sói đói ăn vô độ” (Matthew 7:15).

Thiểu số thượng tôn quyền lực đã chiếm quyền bằng cách chia rẽ quần chúng và chúng sẽ làm đủ cách đễ giữ cho quần chúng tiếp tục bị chia rẽ. Cho nên trong cuộc tranh luận về môi trường, con thấy nhiều mưu mô trái ngược nhau chỉ nhằm phục vụ cho mục tiêu lớn hơn là chia rẽ quần chúng, đồng thời che giấu lý do bên dưới là thâm ý kiểm soát của nhóm thượng tôn. Những người thuộc nhóm thượng tôn có cách suy nghĩ hoàn toàn dựa trên sức mạnh, và một trong những thành công lớn của chúng là Chiến tranh Lạnh khi chúng đã xoay xở tạo ra tình trạng căng thẳng giữa hai khối cộng sản và tư bản.

Điều này được thực hiện khi một số nhà tài chính ở phương Tây đã tạo ra và tài trợ – trong nghĩa đen – cho cuộc cách mạng bolshevik và xây dựng Liên Xô thành một cường quốc quân sự hàng đầu. Tình trạng này đưa đến cuộc chạy đua vũ trang đã suốt mấy thập niên giữ cho tổ hợp quân sự-công nghiệp (military-industrial complex) nắm quyền và thu lợi nhuận. Như ta vừa nói, cuộc tranh luận về môi trường tại phương Tây đã trở thành một công cụ nhằm gia tăng căng thẳng, và ngày hôm nay nó vẫn được dùng trong mục tiêu đó. Các đại tập đoàn đa quốc cũng dùng tranh luận này để tìm cách giành độc quyền trong các nền kinh tế mới mở mang nơi họ đã từng gặp khó khăn tìm được chân đứng.

Từ một góc nhìn hời hợt, có vẻ như có sự xung đột giữa các đại tổ hợp đa quốc và các phong trào bảo vệ môi sinh, nhưng đây chỉ là bề ngoài. Sâu hơn, họ làm việc cho cùng một mục tiêu rộng lớn là tạo căng thẳng và xung đột sẽ duy trì quyền kiểm soát của thiểu số quyền lực. Và thậm chí đằng sau thiểu số quyền lực còn có âm mưu rộng lớn hơn nữa là giữ vững các thế lực nhị nguyên ở địa vị kiểm soát hành tinh này và ngăn cản sự thức tỉnh tâm linh đang trên ngưỡng cửa đột phá.

Nguồn gốc của nhóm thượng tôn quyền lực đã được giải thích ở một nơi khác. Tuy nhiên như ta vừa nói, thông điệp bên dưới của chúng là loài người nói chung là nguyên nhân của các vấn đề môi trường, nhóm thượng tôn là những vị cứu tinh có thể giải quyết tất cả – chỉ cần nhân loại chịu khuất phục sự kiểm soát của chúng. Nhóm thượng tôn luôn luôn tìm cách tạo ra một vấn nạn xong tự đặt mình là giải pháp duy nhất cho vấn nạn mà chúng đã tạo ra. Nhưng như ta trình bày khắp trang mạng này, con không thể giải quyết một vấn đề khi con vẫn mắc kẹt trong chính cái trạng thái tâm thức đã gây ra vấn đề. Và đó là tại sao các vấn đề môi trường sẽ không có giải pháp thực sự nào cho đến khi quần chúng thức giấc và vượt xa khỏi tư duy nhị nguyên, dựa trên sức mạnh, đã khiến nhóm thượng tôn mù quáng.

Điểm chung của ta ở đây là giúp những ai cởi mở với trang mạng này nhận thức được là nếu con muốn đóng góp hiệu quả nhất trong việc giải quyết – giải quyết thực sự – các vấn đề môi trường, thì con nên khởi sự bằng cách điều chỉnh lại cách suy nghĩ của mình như sau:

  • Trái đất đã được tạo ra như một sân hoạt động cho sự tiến hóa tâm linh của nhân loại. Nó không được tạo ra để là một môi trường tự nhiên nguyên sơ không có tì vết và cũng không có con người.
  • Vai trò dự trù của con là trở thành người đồng sáng tạo cai quản chính tâm mình, xong cai quản môi trường địa cầu, đưa nó đứng thẳng hàng với viễn quan và quy luật của Thượng đế.
  • Trái đất được trù liệu để nuôi sống 10 tỷ người với mức sống thoải mái.
  • Điều này chỉ có thể thực hiện qua những thay đổi to lớn trong nền chính trị lẫn công nghệ.
  • Giải pháp thực sự duy nhất cho các vấn đề môi trường hiện thời là nhân loại phải vươn tới mức có khả năng tiếp nhận nền công nghệ không dựa trên sức mạnh.
  • Để việc này xảy ra, tâm thức loài người phải nhảy vọt một bước thật dài, và phần 10% trên cùng của những người có ý thức tâm linh nhất phải là người đi tiên phong trong cuộc chuyển tiếp này. Vì vậy, việc đạt được quả vị Ki-tô cá nhân và gây cảm hứng cho người khác cũng đi theo con đường quả vị Ki-tô là sự đóng góp quan trọng nhất mà con có thể cống hiến để giải quyết các vấn đề môi trường. Tất nhiên, điều này bao gồm việc trình bày với người khác về mối liên hệ giữa tâm thức và các tình huống vật lý, trong đó có cả các tình huống của môi trường.

Làm thế nào là người thực sự có ý thức môi sinh

Sự nhận biết cao hơn cần xuất hiện là xã hội phương Tây đã đi sai đường trong nhiều thế kỷ, thậm chí hàng thiên niên kỷ, do bị cả đạo Cơ đốc chính thống lẫn khoa học duy vật dẫn lạc đường, và cả hai đã bị thiểu số quyền lực sử dụng làm bình phong. Cách hiệu quả nhất để nhóm thượng tôn lũng đoạn một cuộc tranh luận là lập ra hai đối cực rồi khiến cho quần chúng tin rằng họ phải chọn một trong hai, thế nhưng cả hai đều nhằm duy trì tình trạng nhóm thiểu số có thể áp đảo quần chúng. Điều này che lấp sự hiện hữu của một giải pháp khác hẳn cả hai cách tiếp cận kia, là vượt lên một tầm hiểu cao hơn về vấn đề.

Các chân sư thăng thiên sẵn lòng và cũng sẵn sàng cộng tác với những người có nhận biết cao nhất để đem lại một tầm nhận biết cao hơn về môi trường. Kỳ thực, các thày đã khởi sự truyền rải qua một số cá nhân, nhưng tầm nhận biết này chưa được chấp nhận rộng rãi vì giới truyền thông chính mạch đã làm ngơ. Ý tưởng cơ bản cần được hiểu là hành tinh này đã được tạo ra cho một mục đích đặc thù là sự tiến hoá tâm linh của loài người.

Vì vậy, mọi thứ trên địa cầu đều được thiết lập để cống hiến cho loài người cơ hội tốt nhất để con người học hỏi bài học cơ bản của cuộc sống, cụ thể là tâm con người có quyền năng tạo ra các tình huống vật lý xảy ra cho bản thân mình. Mỗi người đã suốt nhiều kiếp sống tạo ra các tình huống cá nhân của mình, và loài người cũng đã suốt hàng thiên niên kỷ cùng nhau tạo dựng rất nhiều giới hạn mà con thấy ngày nay trên trái đất.

Tuy nhiên, quy luật của Thượng đế là khi nào con người nâng cao tâm thức thì môi trường vật lý cũng theo đó đáp ứng theo. Những mất thăng bằng hiện thời trong thiên nhiên, ngay cả sự thiếu hụt cái gọi là tài nguyên thiên nhiên, đều là sản phẩm của sự mất thăng bằng khi con người đồng sáng tạo bên ngoài quy luật Thượng đế. Quy luật của Thượng đế được thiết lập để cung cấp đời sống sung túc cho nhân loại, và bằng cách đứng thẳng hàng với các quy luật này, con người có khả năng thị hiện những điều kiện sẽ nuôi sống 10 tỷ người và cho họ một cuộc sống vật chất thoải mái mà không phải cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại thế cân bằng của môi trường hay làm trục trặc khí hậu của hành tinh.

Thực tế phũ phàng là từ nhiều thập niên, thiểu số thượng tôn quyền lực đã sử dụng vấn đề môi trường để tạo dựng niềm tin về một ngày diệt vong sắp sửa ập tới, để niềm tin này thúc đẩy mọi người chịu bỏ tự do, bỏ quyền lợi và tiền bạc của mình. Vào thời Trung cổ, nhóm thượng tôn còn dùng khái niệm địa ngục và luyện ngục của đạo Cơ đốc để dọa nạt mọi người. Thế rồi khi chúng đem khoa học duy vật vào, niềm tin này bị suy yếu và chúng phải cố nghĩ ra những chuyện dọa nạt khác. Trong số này, có bệnh đại dịch, có xâm lăng của người ngoài hành tinh, có thiên thể sắp đụng trái đất, có kinh tế sụp đổ, có chiến tranh hạt nhân và, tất nhiên… có cả sự tàn phá môi trường.

Kế hoạch của nhóm thượng tôn là tạo ra cơn hoảng loạn lan rộng khiến ai nấy tin rằng họ phải chọn giữa hai tệ đoan, và điều có thể đoán trước là họ sẽ luôn luôn chọn tệ đoan có vẻ đỡ tệ nhất. Nhưng con chỉ bị bắt buộc chọn lựa giữa hai tệ đoan bởi vì con có một tầm hiểu giới hạn về tình thế, và con hiểu giới hạn như vậy là vì con không chịu sử dụng khả năng phân biện Ki-tô của con để tìm dữ liệu từ một nguồn cao hơn, một nguồn vượt khỏi cái nhìn nhị nguyên của tự ngã. Và nguồn này hiển nhiên là cái ta Ki-tô của con cùng các chân sư thăng thiên.

Khi con thỉnh dữ kiện đó, con sẽ thấy luôn luôn có một giải pháp khác hơn cho các đối cực nhân tạo. Giải pháp khác đó là vượt khỏi cách tiếp cận nhị nguyên về cuộc sống, qua đó con luôn luôn bị lôi kéo bởi hai đối cực về những hướng đối nghịch. Giải pháp khác đó là nhìn vào cuộc sống qua tâm Ki-tô để thấy được: “Điều này với con người không thể làm được, nhưng với Thượng đế thì mọi việc đều làm được” (Matthew 19:26). Như ta có giải thích ở trên, một khi con người đứng thẳng hàng với quy luật Thượng đế, thì các vấn đề môi trường sẽ có thể được giải quyết mà không phải vứt bỏ các quyền tự do dân chủ lẫn tự do kinh tế, hay cho phép nhóm thượng tôn quyền lực kiểm soát mọi khía cạnh của đời mình.

Thật ra bằng cách cho phép nhóm thượng tôn quyền lực tiếp tục kiểm soát cuộc tranh luận về môi trường, điều chắc chắn là cuộc tranh luận này sẽ tiếp tục chạy trật đường rày, và như vậy các vấn nạn môi trường sẽ chỉ càng tệ hại thêm. Nhóm thượng tôn quyền lực bị mù quáng bởi sự kiêu mạn tâm linh đến độ chúng sẽ tiếp tục tiến tới vực thẳm, và giống như bao lần trong quá khứ, nó sẽ khiến chúng giết mất con ngỗng – tức là toàn bộ hành tinh trong trường hợp này – đẻ trứng vàng.

Ta biết lời giải thích của ta có thể khiến cho một người đơn lẻ cảm thấy vô vọng không biết làm gì trước âm mưu thao túng đó, nhưng con hãy nhớ, đó chính là điều nhóm thượng tôn luôn luôn muốn con tin. Thông điệp bên dưới của chúng là một người không thể nào làm gì để thay đổi. Nhưng thông điệp sâu xa của đời ta và cuộc đời của nhiều người khác là quả thực một người CÓ THỂ tạo sự thay đổi – khi người đó làm việc cùng với Thượng đế.

Cho nên con hãy buông mọi cảm giác choáng ngợp và cho phép Thượng đế bước vào trong con để ngài chỉ cho con thấy làm thế nào cá nhân con có thể góp phần vào việc đem lại sự thay đổi. Luôn luôn nhớ rằng, muốn cho thiểu số thượng tôn quyền lực chiến thắng, chỉ cần 10% dẫn đầu nhân loại không làm gì cả.


Ghi chú: Để hiểu sâu hơn về các vấn đề môi trường, về thiểu số thượng tôn quyền lực và mối quan hệ của con người với địa cầu, xin tham khảo sách Healing Mother Earth (Chữa lành Mẹ Địa cầu).