Tại sao tiết lộ tuần tự?

Bài truyền đọc của Phật Gautama qua Kim Michaels ngày 24/6/2018 nhân buổi hội thảo tại Kazahstan. Đây chỉ là một trích đoạn. Phần còn lại của bài truyền đọc này, cùng với một bài thỉnh dựa trên bài truyền đọc, có thể được tìm thấy trong cuốn sách “Fulfilling you highest spiritual potential”.

Phật TA LÀ. Gautama là danh tính mà ta đã dùng khi làm việc với cuộc tiến hóa của địa cầu. Một số các chân sư khác vừa cho các con một tầm nhìn về những đợt truyền pháp trước của chân sư cũng như về kết quả đạt được. Ta muốn khai triển tầm nhìn này, quay trở lại thời điểm khi ta hiện thân trong xác thân vật lý và giảng dạy trong cõi vật lý cách đây 2500 năm.

Thần tượng hóa đức Phật

Truyện kể rằng sau khi ta đi theo con đường tu khổ hạnh và ngộ ra những giới hạn của đường tu này, ta đã chứng ngộ Bát chánh đạo, hay con đường của Phật, và nhập niết bàn. Ta giác ngộ. Rất, rất nhiều Phật tử cho đến tận ngày nay sau bao nhiêu thế kỷ vẫn nhìn sự kiện trên với một hình thức thần tượng hóa. Họ cho rằng hoặc ta là đấng duy nhất có khả năng giác ngộ, hoặc ta là bậc chứng đạt tối thượng, hoặc nữa, ta đã đạt đến trạng thái giác ngộ tối hậu tuyệt đối.      

Nói cách khác, họ nghĩ là sự giác ngộ ta đạt được 2500 năm trước là trạng thái tuyệt đối, cao nhất sẽ không bao giờ vượt qua được. Tuy nhiên, khi con xem xét thực tế mà các chân sư đã giảng dạy về 144 tầng tâm thức, thì con có thể tự đặt câu hỏi này: Khi ta giác ngộ cách đây 2500 năm và đạt đến tầng tâm thức thứ 144, liệu tầng 144 thời đó có cùng là tầng 144 thời nay hay không? Nếu con trả lời, “Phải, đó là cùng một trình độ tâm thức” thì kết quả sẽ là gì? Kết quả là hành tinh này đã không hề tiến bước trong suốt 2500 năm qua. Nghĩa là giáo lý mà ta giảng dạy cách đây 2500 năm đã không đưa tâm thức nhân loại lên cao một mảy may nào và do đó đã thất bại trong mục đích. Nhưng kỳ thực, tầng 144 ngày hôm nay cao hơn tầng 144 thời 2500 năm trước rất nhiều, cũng như nó cao hơn cách đây 2000 năm khi Giê-su chứng đạt, thậm chí cao hơn cả cách đây 100 năm khi các chân sư MORE (El Morya) và Kuthumi giác ngộ ở mức này, và ta có thể đưa ra nhiều ví dụ khác.

Tâm thức được nâng lên như thế nào?

Vậy thì điều gì nâng cao tâm thức? Trước hết như khía cạnh Omega, tâm thức tập thể được nâng lên. Điều này xảy ra khi trên địa cầu có đủ một túc số những cá nhân đã nâng được tâm thức mình, họ kéo theo số 80% hay 90% còn lại và do đó mức dưới cùng cũng được nâng theo. Có thể có những thời điểm khi một sự chuyển vọt xảy ra trong tỉnh giác tập thể và con người quyết định không thể chấp nhận một số biểu hiện nào đó được nữa. Kết quả là tầng tâm thức dưới cùng của nhân loại được nâng lên và những sinh thể ở tầng tâm thức đó sẽ không được phép đầu thai nữa.  

Nhưng tầng tâm thức cao nhất thì sao, cái gì nâng nó lên? Để điều này xảy ra, phải có một người lên đến tầng 144 của thời đó, rồi phát huy cao hơn nữa trong thời gian họ còn tại thế và chưa thăng thiên. Trong một nghĩa nào đó, đây là điều mà ta đã làm cách đây 2500 năm, tuy rằng ta đã nhập niết bàn ở mức thứ 144 của thời đó. Khi ta trở lại xã hội trong sứ vụ giáo huấn, ta đã không trở lại với một tâm thức đã đạt đến tuyệt đối. Ta vẫn còn tinh tấn, vẫn phát huy và tự thăng vượt trong suốt những năm tháng giảng dạy. Và ta đã nâng tầng 144 lên một mức cao hơn. Giê-su, tất nhiên, cũng đã làm một điều tương tự, và mọi chân sư khác cũng vậy, và đó là cách thức tâm thức cao nhất được nâng lên. Một số trong các con cũng có tiềm năng đóng góp vào tiến trình này, nghĩa là con đạt tầng 144 trước khi con sẵn sàng rời xác thân và sử dụng thời gian đầu thai của mình để giúp nâng tầng này lên cao hơn.    

Vậy như con thấy, toàn bộ quan niệm cho rằng một giáo lý có thể là tuyệt đối, hay một trạng thái tâm thức có thể là tuyệt đối, hoàn toàn là ảo tưởng. Ảo tưởng đó tất nhiên là Maya, là một hình chiếu của các sinh thể sa ngã. Vì chúng không thể thăng vượt nên chúng cũng không muốn ai khác thăng vượt. Chúng nghĩ ra đủ mọi cách gian xảo để khiến cho mọi người tin là mình không thể thăng vượt được. Chúng muốn con nghĩ rằng ta đã đạt được một trạng thái tâm thức tối hậu tuyệt đối, rằng ta là một ngoại lệ và không ai khác có thể chứng đạt cao hơn. Chúng cũng muốn con tin rằng Giê-su đã đạt tới một trình độ mà không ai có thể sánh kịp.

Trong suốt 2500 năm qua, thật sự chỉ có tương đối ít người sử dụng được giáo lý đạo Phật để đạt tới tầng tâm thức thứ 144 rồi lên cao hơn nữa. Một số các vị đó được biết đến trong truyền thống Phật giáo, nhưng cũng có những vị khác không được biết đến do họ không có sứ vụ ngoài quần chúng. Chắc chắn khi ta nhìn lại, Phật giáo đã có đóng góp vào bước tiến của tâm thức tập thể và nâng cao các tầng tâm thức.

Mỗi giáo lý thích hợp cho một tầng tâm thức

Một khi con hiểu được tâm thức ngày nay cao hơn 2500 năm trước (tức là nguyên cái thang tâm thức đã dời chuyển lên cao hơn), thì con cũng thấy được giáo lý thời đó đã được giảng dạy cho những người ở một tâm thức thấp hơn trình độ trung bình của thời nay. Điều này phần nào cho thấy sự cần thiết của một tiến trình tiết lộ tuần tự, nghĩa là ở bất kỳ thời điểm nào, giáo lý chỉ có thể giảng dạy cho trình độ tâm thức hiện diện nơi những con người thời đó. Nhưng giáo lý không nhất thiết chỉ nhắm vào những mức trung bình hay mức thấp nhất của nhân loại, bởi vì cũng có một số giáo lý được truyền dạy cho những hành giả trong số 10% trên cùng.

Dù sao thì con luôn luôn cần nhìn nhận là khi một giáo lý đặc thù được đem ra truyền dạy, giáo lý đó phần lớn phải phù hợp với trình độ tâm thức trên hành tinh vào thời điểm đó. Nếu lời dạy này đem lại kết quả thì tâm thức sẽ chuyển vọt. Và khi ấy, chuyện gì sẽ xảy ra? Điều lý tưởng có thể xảy ra là có một số người nhận được lời dạy và đem ra thực hành để đạt tầng thứ 144. Lúc đó họ sẽ trở thành những công cụ của tiến hóa để đem lại một giáo lý mới, đem lại một khía cạnh mới của giáo lý cũ, hay một cách diễn giải mới cho giáo lý cũ. Và như vậy họ có thể đem lại một giáo lý phù hợp với mức tâm thức cao hơn vừa đạt được nhờ giáo lý cũ. Hiển nhiên điều này có nghĩa là trong lý tưởng, tiến trình tiết lộ tuần tự không bao giờ được dừng lại. Và trên một khía cạnh nào đó, điều này cũng thật đáng buồn – nếu chúng ta có thể dùng từ này – nếu những người theo giáo lý cũ tự khép kín lại đối với mọi điều mới mẻ, trở thành những kẻ giáo điều, và cũng trở thành những nhân tố làm cho giáo lý bị mất đi hiệu quả. Quả thực họ đã không cho phép giáo lý thăng vượt lên.