15 | Thăng vượt cách giao tiếp bằng lời với cái ta cao

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Padmasambhava qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023, nhân một hội nghị ở Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Padmasambhava. Ý định của thày là bài đóng góp này sẽ không dài dòng, nhưng thày muốn trình bày đôi chút về ngôn từ. Bởi vì nếu con nhìn lại lịch sử các giáo lý tâm linh đã được trao truyền trên hành tinh này, con có thể tự hỏi: “Đâu là cản trở lớn nhất, đâu là chướng ngại lớn nhất cho bước tiến tâm linh của rất nhiều người tâm linh chân thành đã tìm thấy con đường tâm linh suốt các thời đại?” Và quả vậy, trở ngại lớn nhất đó là ngôn từ. Bây giờ con cũng có thể tự hỏi: “Vậy đâu là tài nguyên lớn nhất cho các vị thày tâm linh của nhân loại? Đâu là cơ hội lớn nhất cho sự thăng tiến của người tâm linh?” Và trả lời cũng là ngôn từ. Lý do đơn giản cho sự kiện này tất nhiên là trên một hành tinh như địa cầu, với sự dày đặc của vật chất lẫn của tâm thức đại chúng, việc thần giao cách cảm thật không thực tế lắm trên quy mô rộng lớn. Và do đó giáo lý tâm linh phải được chuyển tải qua ngôn từ.

15.1. Ngôn từ: cơ hội lẫn trở ngại cho sự tăng triển tâm linh

Một mặt, việc dùng ngôn từ để trao truyền giáo lý quả là một cơ hội vì đây là một sự giao tiếp từ cõi tâm linh dưới dạng ngôn từ. Nhưng mặt khác, ngôn từ cũng là trở ngại lớn nhất cho sự tăng triển tâm linh. Tại sao như vậy? Ấy, là vì con người có xu hướng trở nên dính mắc với một cách diễn đạt bằng lời đặc thù, và họ muốn lời này truyền đạt hay quy định một chân lý tối hậu nào đó. Lý do là vì tâm đường thẳng – cái tâm thuần trí, phân tích, lý luận hợp lý – có khả năng làm nhiều trò phù phép với ngôn từ. Có thể con đã được xem các nhà ảo thuật trình diễn nhiều trò lạ, nhưng trí năng con người cũng có thể làm nhiều trò ảo thuật với ngôn từ. Nó có thể diễn giải theo cách của nó. Nó có thể chẻ nhỏ thật chi li và suy diễn bất tận. Và điều này, tất nhiên, con đã thấy các nhà Bà la môn đạo Ấn làm như vậy và đức Phật đã tìm cách vô hiệu hóa việc làm đó. Nhưng chẳng bao lâu sau khi Phật không còn hiện thân thì chính những nhà trí thức của đạo Phật lại bắt đầu làm y như vậy. Khi Giê-su bước chân trên trái đất, các thày thông giáo và người Pha-ri-si cũng làm như vậy, và ngay sau khi Giáo hội Công giáo được thành lập – và cả trước đó nữa – thì các nhà thần học cũng bắt đầu làm chuyện tương tự với lời dạy của Giê-su.

Và hiển nhiên trong thời hiện đại, các nhà khoa học, các nhà duy vật cũng làm đúng chuyện này với các khám phá hay giảng dạy của khoa học. Rồi nhiều người tâm linh khi họ tìm ra một giáo lý tâm linh dù là mới hay cũ, thì họ cũng làm y chang như vậy. Họ tranh luận bất tận về ý nghĩa của ngôn từ, họ diễn giải bất tận để cố làm thế nào đạt tới một cách diễn giải tối hậu nào đó.

15.2. Đi tìm giáo lý cao nhất trong quá khứ

Một sự kiện, một xu hướng mà con có thể nhận thấy trong lãnh vực tâm linh là có rất nhiều người tâm linh nhìn ngược về phía sau. Họ đi tìm một lời dạy đã được truyền giảng một thời gian trước đây. Có thể đó là lời dạy cổ xưa nhất mà con người biết đến hiện nay – kinh Veda – hay đó có thể là lời dạy của Phật, có thể là Kinh Cựu ước, là lời dạy của Giê-su, là những cách diễn giải sau này hay kinh điển của Phật giáo hay kinh Koran. Đó có thể là những lời dạy mới hơn, thậm chí là lời dạy của chân sư thăng thiên được trao truyền trong những đợt truyền pháp trước. Nhưng con thấy xu hướng người ta cứ nhìn ngược dòng thời gian, như thể họ cho rằng vào thuở khi các bậc hiền giả Veda còn hiện thân, đó là một thời trong sáng hơn, thuần khiết hơn, cho nên lời tiết lộ của các bậc này cũng là lời tiết lộ cao nhất có thể được trao truyền. Hay họ cho rằng thời của Mohammed mới là một thời đặc biệt làm sao, và đó là lý do kinh Koran phải là lời tiết lộ tối thượng có thể được đưa ra.

Liệu những người này chẳng bao giờ mở báo ra đọc hay sao, chẳng bao giờ xem truyền hình, đọc sách hay lên mạng? Chẳng lẽ họ không nhận ra là mức sống con người đã có tiến bộ so với mười ngàn năm về trước? Họ chẳng tự hỏi vì nguyên do gì sự tiến bộ này đã xảy ra? Họ chẳng nhìn ra là tiến bộ đã đạt được là do tâm thức tập thể ngày nay cao hơn thời các hiền giả Veda, hay thời Mohammed, hay thời Giê-su hay thời của Phật? Vậy có hợp lý lắm không khi cho rằng mười ngàn năm về trước, người ta có thể đưa ra một lời tiết lộ cao hơn bây giờ? Làm sao đó là tiết lộ cao nhất được khi tâm thức tập thể thấp hơn ngày nay? Điều này có hợp lý không?

15.3. Càng ngày càng ít khoảng rộng cho việc diễn giải

Đấy, đối với một số người thì chuyện đó hợp lý, hay họ chỉ đơn giản từ chối không chịu suy nghĩ. Nhưng vì lý do gì người ta không chịu chấp nhận bất kỳ lời tiết lộ nào đến sau? Tại sao họ cứ bám vào cái cũ? Là vì lời tiết lộ ở những thời trước được trao truyền cho một mức tâm thức thấp hơn, có nghĩa là gì? Có nghĩa là lời tiết lộ có thể đươc đưa ra vào thời điểm đó không chính xác bằng những lời có thể được đưa ra ngày hôm nay. Không chính xác nghĩa là gì, lời diễn đạt giáo lý không chính xác bằng hôm nay, có nghĩa là gì? Có nghĩa là có nhiều khoảng rộng để người ta diễn giải. Và càng có nhiều khoảng rộng để diễn giải thì tâm đường thẳng càng dễ giở trò phù phép của nó và càng nhiều người bị mắc bẫy vào đó – chẳng hạn các nhà Bà la môn hay các thày thông giáo và người Pha-ri-si thuở trước đã có thể sử dụng trí năng cao trội của họ để tự ban cho mình một địa vị đặc quyền. Và một khi họ đạt được địa vị này thì họ không muốn buông nó ra, và đó là tại sao họ cố bám lấy những lời dạy cũ mà họ có thể diễn giải một cách bất tận.

Ngay cả các lời dạy của chân sư thăng thiên được trao truyền trong thế kỷ vừa qua cũng cho thấy một chiều hướng tiến triển rõ ràng. Con thử quay lại các đợt truyền pháp trước, đọc lại lời dạy, thì con sẽ thấy những lời dạy này không chính xác, không trực tiếp như lời dạy hôm nay. Một số các con đã bày tỏ: “Nhưng các lời dạy cũ dùng từ ngữ cao siêu hơn nhiều,” trong khi lời dạy ngày nay rất giản dị, dùng từ vựng rất hạn hẹp. Thày đồng ý như vậy, tuy nhiên ngôn từ cao siêu cho phép người ta rộng đường suy diễn hơn.

Điều các thày muốn làm trong khuôn khổ việc tiết lộ tuần tự, như một phần của tiến trình tiết lộ tuần tự, như khía cạnh Omega của tiết lộ tuần tự, là làm cho lời giảng thật bình dị để càng ngày càng có nhiều người nắm bắt được, nhưng cũng để cho ngay cả những người ở một mức tâm thức cao hơn không còn gì nghi ngờ về những điều được bày tỏ, không còn nhiều khoảng rộng để diễn giải, không còn nhiều nhu cầu để suy diễn.

15.4. Sự suy diễn dựa trên mức tâm thức hiện thời

Tất nhiên, một lời dạy được trao truyền bằng lời nói luôn luôn sẽ bị suy diễn vì con người sẽ suy diễn dựa trên mức tâm thức hiện tại của họ. Thày có thể đưa ra một lời dạy cho một tầng tâm thức nào đó nhưng sẽ vẫn có những người ở các tầng từ 48 đến 96, hay ngay cả những người ở các tầng bên dưới có thể diễn giải dựa theo tầng của họ, dựa theo thế giới quan và phin lọc nhận thức ở tầng đó. Điều này không thể tránh được, nhưng ít ra các thày làm những gì mình có thể làm từ cõi thăng thiên hầu giúp cho giáo lý càng khó tranh cãi, càng chính xác càng tốt.

Tất nhiên thày không bảo là những lời dạy các thày đang ban truyền là giáo lý tối thượng, không thể nào chính xác hơn được trong tương lai khi tâm thức tập thể vươn lên cao hơn. Nhưng dẫu vậy, con hiểu điều thày muốn nói chứ. Thày đoan chắc là việc quay lại cái cũ không thực sự hiệu quả, đặc biệt khi chúng ta đang ở một thời kỳ chuyển tiếp giữa hai thời đại, giữa hai chu kỳ tâm linh đang chuyển từ thời Song ngư sang thời Bảo bình, vì các lời dạy trong thời Song ngư được đưa ra cho mức tâm thức của chu kỳ đó và giờ đây thì các thày đang giảng dạy cho thời Bảo bình.

15.5. Vượt quá ngôn từ

Tất nhiên, lời dạy thày trao cho con ở đây không chỉ là một lời dạy chung chung, vì nó cũng liên quan đến khái niệm nối kết với cái ta cao của con, Hiện diện TA LÀ của con. Maitreya vừa trao truyền một lời dạy thật chính xác, và thày đây chỉ muốn đóng góp thêm từ nhãn quan của thày. Maitreya có giải thích là tới một điểm nào đó con cần phải thách thức những hình ảnh con có về Hiện diện TA LÀ của con, những hình ảnh mà con đã hình thành ở một tầng thấp hơn. Con cần ngừng phóng chiếu những hình ảnh này, vì nếu không thì Hiện diện TA LÀ sẽ phải rút lui khỏi con và ngừng trả lời các câu hỏi của con hay hướng dẫn con.

Đấy, trong khuôn khổ tiến trình này, con thử nhìn xem rất nhiều người khi họ nghe nói lần đầu về Hiện diện TA LÀ, họ thường làm điều họ vẫn quen làm dựa trên bất kỳ truyền thống tôn giáo hay tâm linh nào mà họ đã theo. Họ thỉnh gọi Hiện diện TA LÀ, họ cầu nguyện Hiện diện TA LÀ, họ đặt câu hỏi cho Hiện diện TA LÀ, nhưng làm thế nào con thỉnh gọi, cầu nguyện hay đặt câu hỏi đây? Bằng lời nói, chẳng phải vậy sao?

Có thể là ở một tầng nào đó trên đường tu tâm linh, con có thể nhận được sự hướng dẫn bằng lời nói hay câu trả lời từ Hiện diện TA LÀ của con – không phải là một giọng nói ầm ầm từ trên trời vọng xuống mà là lời nói đến với con từ bên trong tâm con. Nhưng khi con đến tầng cao hơn nơi con cần bước lên để bắt đầu trải nghiệm sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, thì khi đó con cần nhìn nhận là con không thể đạt được hợp nhất bằng cách tiếp tục giao tiếp với Hiện diện TA LÀ qua ngôn từ, bằng cách nói chuyện với Hiện diện TA LÀ, đặt câu hỏi hay thỉnh gọi. Bởi vì tại sao con lại cần giao tiếp bằng lời chứ? Chỉ khi con nói chuyện với một sinh thể bên ngoài tâm con, một sinh thể tách biệt với con. Đương nhiên đó là cách con nói chuyện với người khác – các thày hiểu rõ là con đã quen làm vậy rồi và một lần nữa các thày không chê trách gì con. Việc con cũng làm vậy với Hiện diện TA LÀ trong một thời gian là chuyện hoàn toàn tự nhiên. Nhưng sẽ tới một điểm sự giao tiếp bằng ngôn từ biến thành một trở ngại sẽ ngăn con đạt đến sự Hợp nhất lớn với Hiện diện mà các thày đã giải thích.

Đến một điểm con đơn giản cần lấy quyết định ý thức là con sẽ ngừng tiếp cận Hiện diện TA LÀ của con qua từ ngữ. Con ngừng chờ đợi hay hy vọng là con sẽ nhận được một hồi đáp bằng từ ngữ. Bởi vì đến một điểm con vẫn có thể nhận được xung lực hồi đáp từ Hiện diện nhưng xung lực này sẽ không mang hình dạng lời nói, nó sẽ giống hơn một cảm giác hay một hình ảnh. Và cuối cùng như Maitreya đã mô tả, ngay cả cái đó cũng phai nhạt đi, và tới một điểm con không còn tìm cách nhận được một điều gì từ Hiện diện hay giao tiếp với Hiện diện của con, bởi vì như Maitreya đã tả chân thật hùng hồn, sự phân biệt giữa Hiện diện TA LÀ, cái Ta Biết và tâm Ki-tô tan biến mất.

Con không còn hướng bất cứ gì về Hiện diện của con nữa, con không còn chờ đợi gì nữa từ Hiện diện. Con chỉ là một với đại dương của Hiện diện và tâm con chảy theo Hiện diện, khi lên khi xuống. Và con không phân tích, con không cố giải thích hay đặt chuyện này chuyện nọ vào một khuôn khổ vũ trụ hay một tầm quan trọng vũ trụ. Con chỉ – con là Hiện diện và Hiện diện cũng chính là con. Đâu còn nhu cầu giao tiếp bằng lời nữa?

15.6. Đề nghị của Padmasambhava

Nếu con cảm thấy cần sự trợ giúp để thực hiện việc trên thì thày cống hiến cho con sự giúp đỡ của thày. Con chỉ đơn giản đọc câu thần chú của thày*. Con đọc lớn 9 lần, xong con nhắm mắt lại, tập trung vào bên trong và không đọc thần chú. Con chỉ đơn giản để cho thần chú đến với con.

Có thể con sẽ thắc mắc: “Nhưng thần chú chẳng phải là từ ngữ hay sao?” Là gì chứ – từ ngữ? Đó là âm thanh con ạ, nó không mang ý nghĩa nào mà tâm vỏ ngoài có thể chụp lấy. Tất nhiên con có thể lên mạng internet truy tìm cách diễn giải câu chú, nhưng nếu con tìm thêm chút xíu, con sẽ tìm thấy 17 cách diễn giải khác nhau. Cách nào mới là cách đúng? Thôi con hãy quên đi chuyện tìm ý nghĩa câu thần chú mà hãy đơn giản nhìn nó như là âm thanh. Âm thanh này làm gì chứ? Nó làm yên tâm con, tâm vỏ ngoài của con, để con có thể trải nghiệm Hiện diện của thày cùng Hiện diện của con. Đó là điều thày có thể làm cho con trong bối cảnh này, và thày sẽ giúp những ai đọc câu chú này nếu con cảm thấy con cần đến nó.

Thày không bảo là việc này nên thay thế việc con hòa điệu với một vị Thượng sư hay một chân sư đặc biệt mà con cảm thấy gần gũi. Đây chỉ là thêm một dụng cụ mà các thày đã quyết định cho con.

Với lời này, thày đã cho con những gì là niềm vui mà cũng là trách vụ của thày trao cho con tại buổi họp mặt thật tuyệt vời này mà các con đã tổ chức và tham gia. Tất cả các thày mong con có thể nhìn thấy tác động mà một đại hội như thế này tạo ra trong tâm cảm xúc, lý trí và bản sắc của mọi người. Chỉ tiếc là các thày không thể truyền đạt điều này bằng tư tưởng nên con phải tin lời thày thôi.      

Và như vậy, thày niêm con trong tình yêu của tim thày.

* Câu thần chú của Padmasambhava: OM AH HUM, VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM

Hãy đón nhận sự hỗn loạn

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên PadmaSambhava qua trung gian Kim Michaels ngày 8 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền vào dịp Webinat Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên PadmaSambhava và đúng vậy, thày là một Đạo sư Kim cương (Vajra Guru). Điều này nghĩa là gì? Có nghĩa là thày khẳng định quyền là một đạo sư ban giáo lý trên địa cầu mặc dù tuyệt đại đa số loài người không muốn bị quấy rầy bởi giáo lý này, mặc dù các tà lực và các sinh thể ích kỷ vĩ cuồng (narcissistic) không muốn bị quấy rầy bởi giáo lý này, mặc dù tâm thức tập thể loài người không muốn bị quấy rầy bởi giáo lý này. Nhưng thày vẫn khẳng định quyền ban giáo lý trên địa cầu vì chính địa cầu sẽ xác chứng quyền này như đã từng xảy ra suốt các thời đại.

Quyền quấy rầy người khác

Vì nếu không như vậy thì loài người sẽ có thể làm bất cứ gì mình muốn với Ánh sáng Mẫu-Vật, và Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ phải thụ động tuân phục bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó. Ánh sáng Mẫu-Vật có một khả năng tự nhận biết và nó có quyền khẳng định một thực tại khác hơn những hình tượng đang được phóng chiếu lên nó, khẳng định là có một con đường cao hơn, có những hình thể cao hơn, có một tầng cấp nhận biết cao hơn, và con có thể có được nhận biết này ngay cả trong phổ tần số vật chất.

Thày là một Đạo sư Kim cương. Vị sứ giả này là một sứ giả Kim cương. Ông khẳng định quyền làm cánh cửa mở cho các sinh thể vượt khỏi cõi vật chất phát biểu qua trung gian chính ông để ban truyền những lời dạy không thể nào được tâm vỏ ngoài của ông chế tạo. Các con có tiềm năng là những đệ tử Kim cương khi con khẳng định quyền làm đệ tử tâm linh, quyền đạt tới những tầng cao hơn nữa nơi con không còn là đệ tử, không còn là người theo chân vì con đã thể nhập quả vị Ki-tô, quả vị Phật. Cho nên con có thể làm cánh cửa mở, không cứ là qua việc nhận bài truyền đọc mà bằng cách truyền rải các ý tưởng, truyền rải ánh sáng, đọc chú đọc thỉnh để toả vào tâm thức tập thể những xung lực sẽ quấy rầy, sẽ làm dao động tâm thức tập thể, các sinh thể sa ngã cũng như hầu hết mọi người trên trái đất. Con có quyền làm dao động những người đã biến tâm mình thành hệ thống kín mít. Bởi vì một khi tâm trở thành một hệ thống kín mít tự nó chứng thực chính nó, làm thế nào con người sẽ có thể thoát ra khỏi trừ khi có gì đó từ bên ngoài hệ thống khép kín ấy quấy rầy thế cân bằng đang giam họ trong đó?

Quyền làm cánh cửa mở cho ánh sáng

Đấy là vì sao con có định luật nghiệp quả, là nguyên lý đằng sau định luật thứ hai của nhiệt động học, qua đó trong một hệ thống khép kín, các mâu thuẫn sẽ nảy sinh và phá sụp hệ thống cho đến khi nó rơi xuống một trạng thái thấp hơn. Cho nên mới có một Trường đời Cay đắng, nhưng cũng có một Trường học của Nhận biết Cao, và những ai đang đầu thai trên địa cầu đều có quyền bước vào trường học này để trở thành những cánh cửa mở cho các thày ở cõi cao phát biểu qua con, để truyền rải các ý tưởng, để truyền rải ánh sáng qua các bài thỉnh bài chú của con. Các thày có quyền ở trên trái đất và mở ra một cái gì vượt khỏi trái đất. Quyền này đã luôn luôn hiện hữu và sẽ luôn luôn hiện hữu, chắc chắn nó đang ở ngay đây ngay lúc này. Thày đã khẳng định quyền này rất lâu trước đây khi thày còn hiện thân. Vị sứ giả này cũng đã khẳng định quyền của ông. Liệu con đã khẳng định quyền của con hay chưa? À, con có thể nếu con sẵn lòng. Và nếu con chưa sẵn sàng thì con có thể dùng lời dạy của các thày để giải quyết bất cứ gì trong tâm lý con đang khiến con do dự chưa khẳng định quyền này.

Xét lại cơ sở cho thế thăng bằng của con

Phật Gautama vừa trao cho con một số lời dạy nhắm đến một cử tọa rộng lớn hơn, mặc dù thày đây biết chắc là các con, các đệ tử trực tiếp của các thày, cũng sẽ được lợi lạc từ đó. Nhưng thày sẽ ban thêm một số lời dạy đặc thù cho các đệ tử trực tiếp. Các thày biết rất rõ là từ hai ba năm qua, đầu tiên với đại dịch và bây giờ với chiến tranh ở Ukraine, đã có một biến động to lớn trong tâm thức tập thể. Điều này khiến cho nhiều người phản ứng theo một cách mà mấy năm trước đây họ không phản ứng. Đó là vì tâm thức tập thể đã bị dao động bởi các biến cố này, cho nên có thể nói, mọi người đã bắt buộc phải phản ứng do cảm giác thăng bằng của họ bị xáo trộn. Các thày nhận thấy nhiều người trong các con là đệ tử tâm linh cũng đã tạo dựng một thế thăng bằng nào đó, và con đã hy vọng, đã mong chờ và nỗ lực để việc trái đất tiến dần đến thời hoàng kim sẽ không phải nếm quá nhiều biến động, khủng hoảng, xung đột lẫn chiến tranh.

Nhưng dẫu sao một khi sự thể đã xảy ra, con có thể nhìn chuyện này theo hai cách. Hoặc đó là một sự xáo trộn và con cần vượt qua nó càng nhanh càng tốt để tái lập thăng bằng trong con, hoặc con cũng có thể xem đó là một cơ hội để xét lại thế thăng bằng của con. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là khi con đang đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất – như Gautama nói vậy – con phải chạm trán với một áp lực lớn khủng khiếp từ tâm thức tập thể, và để sống còn về mặt tâm lý trong áp lực này, con phải thiết lập một thế thăng bằng nào đó. Điều này không thể tránh khỏi nhưng dù sao như một đệ tử tâm linh, con có thể hưởng rất nhiều lợi lạc nếu con tái xét cơ sở cho thế thăng bằng của con.

Ví dụ sứ giả này khi vụ xâm lăng Ukraine xảy đến, ông nhận ra và nhìn nhận là trước đó ông đã có một thế thăng bằng nhất định vì ông tin rằng địa cầu đang tiến đến Thời đại Hoàng kim của Saint Germain, và có một tiến trình tuần tự không đòi hỏi những cú sốc lớn, những tai biến lớn. Trong nhiều năm trời, ông đã làm việc và quan sát điều này qua phận sự sứ giả của mình, qua công việc đọc chú trong một đợt truyền pháp trước và giờ đây trong đợt truyền pháp này, và ông mường tượng tiến trình lân hồi này sẽ tiếp diễn. Nhưng như các thày có giải thích, đôi khi lực cưỡng chống sự thay đổi trong tâm thức tập thể mãnh liệt đến độ các biến cố vật lý phải được cho phép trải bày ra để chúng làm xáo trộn mọi người, phá vỡ thế cân bằng của họ và buộc họ phải nghĩ lại cách tiếp cận cuộc sống của mình. Và điều này chắc chắn đã xảy ra đầu tiên với đại dịch và bây giờ với cuộc xâm lăng Ukraine, và trong thập niên 2020 này có thể sẽ còn thêm những biến động tương tự.

Tất nhiên trong quá khứ cũng đã có những biến động như nhiều các con đã sống qua với cuộc khủng hoảng tài chánh năm 2008, biến cố 9-11 năm 2001 và nhiều nữa. Tùy theo con sống ở nơi nào, chắc chắn cũng đã có những biến động khác nữa. Nhưng dù sao thì nhiều người trên địa cầu ngày nay đã bị chấn động bởi các biến cố mới nhất này và họ bắt đầu tự hỏi liệu thế giới đang đi về đâu, hay như câu nói phổ biến, thế giới sẽ nên nỗi nào? Nếu con đã bị xốn xang trong mấy năm qua, con sẽ được lợi lạc tái xét lại cái gì là cơ sở cho cảm giác thăng bằng đó.

Cảm giác là nó quá mức

Bây giờ tất nhiên, nhiều người trong các con là avatar đã đến địa cầu và đã mang đủ loại viễn quan khác nhau về lý do tại sao mình đến đây, về những gì con muốn thấy xảy ra ở đây do việc mình đến địa cầu. Và nhiều các con có một cái nhìn chung chung là con muốn thấy một sự cải thiện, một tiến bộ hướng tới một trạng thái cao hơn, một mức tâm thức cao hơn. Trong mấy kiếp đầu thai, nhiều các con đã hòa điệu với ý muốn của Saint Germain thị hiện thời hoàng kim và kể từ đó, con đã tập trung vào việc đóng góp cho công cuộc này.

Lẽ tự nhiên trong viễn quan này, con mang một số ý tưởng về những điều kiện cần được khắc phục, được thăng vượt và thay đổi hầu thời hoàng kim có thể thị hiện. Nhưng nhiều các con cũng mang một lớp phủ từ chấn thương nhập đời nguyên thủy, qua đó con bị sốc do sự tàn bạo phi nhân tính trên địa cầu đến độ con khởi lên mong muốn giúp địa cầu vượt khỏi mức tàn bạo đó. Con mong muốn nhìn thấy các loại biểu hiện hung dữ nhất được thăng vượt và điạ cầu bước vào một trạng thái cao hơn mà không phải chịu quá nhiều biến động, chinh chiến, cường bạo, hay ngay cả quá nhiều biến cố vật lý khốc liệt. Như sứ giả này hiểu ra, con hình thành ý muốn được chứng kiến những thay đổi từng bước không đem lại điều gì quá tệ hại. Có thể con đã có cách định nghĩa riêng những thay đổi đó là thế nào, đâu là những chuyện con xem là quá đáng – và đa số các con đều mang ý niệm là có những chuyện thật quá mức. Thày không đang bảo con làm vậy là sai trái. Thày không bảo là đối với các thày, các chân sư thăng thiên, không có những điều mà các thày muốn thấy điạ cầu tránh khỏi.

Nhưng dẫu sao, mục đích của thày tại hội nghị này là giúp con gây dựng một cảm giác an bình với việc mình ở đây trên trái đất – như Gautama mô tả – không dựa trên sự phủ nhận bất cứ gì đe dọa thế giới quan cùng thế thăng bằng của con. Nói cách khác, hiện giờ con có một thế giới quan đem lại cho con một thế thăng bằng nếu như một số chuyện không xảy ra. Nhưng nếu những chuyện này xảy ra thì sự thăng bằng của con bị xáo trộn. Đấy, các thày muốn giúp con vươn lên một tầng cao hơn nơi con nâng cao thế giới quan của mình và thiết lập một thế thăng bằng không dựa trên bất kỳ thế giới quan mỏng manh nào, mà ngược lại dựa trên sự nối kết với cái ta cao của con, với các chân sư thăng thiên và một viễn quan rộng lớn hơn về tiến trình thị hiện thời hoàng kim, và do đó, con không bị đe dọa bởi một số biến cố. Thế cân bằng của con không dựa trên sự cố nào trên địa cầu, hay biểu hiện nào, hay hình dạng nào trên địa cầu. Nó dựa trên sự nối kết với cái ta cao của con, với các chân sư thăng thiên. Tất nhiên Gautama đã trao cho con nhiều lời dạy có thể giúp con đạt được trạng thái này nhưng các thày mong muốn đi xa hơn một chút.

Mong muốn đổi địa cầu thành hành tinh tự nhiên

Trong một bài truyền đọc ở cuối hội thảo trực tuyến về Ukraine, Gautama có đề cập đến thuyết hỗn mang. Và ở một khía cạnh nào đó, con có thể nói là con sống trong một thế giới hỗn loạn vì quá nhiều sự việc không thể tiên đoán được. Có bao nhiêu nhóm người với tầm nhìn khác nhau, cách tiếp cận khác nhau, thế giới quan khác nhau. Tất cả đều cảm thấy bị đe dọa bởi những ai khác mình, cho nên luôn luôn có tiềm năng xung đột. Vậy con có thể làm gì? À, con có thể nhận ra là tự ngã, ngã tách biệt mong tìm thấy một cách kiểm soát, kiểm soát các tình huống bên ngoài để tránh khỏi cảm giác xáo trộn bên trong. Giản dị là mong muốn này đã cài sẵn trong tự ngã được tạo ra từ tách biệt. Nhưng là một avatar, con có thể đem theo từ hành tinh tự nhiên một viễn quan về các điều kiện sống trên loại hành tinh đó. Và khi con xuống một hành tinh như địa cầu, con không thể tránh khỏi bị xốn xang khi con tìm thấy điều kiện trên trái đất khác đến chừng nào. Con thấy rõ hành tinh này có nhiều bạo lực, nhiều xung đột, nhiều điều vô nhân đạo đến chừng nào. Con không thể tránh khỏi bị sốc. Tất cả các con đều đã bị sốc.

Điều có thể xảy ra cho một avatar là sau đó con hình thành một mong muốn thay đổi địa cầu thành một hành tinh tự nhiên, biến một hành tinh phi tự nhiên thành tự nhiên. À, con sắp sửa phản bác: “Nhưng chuyện này có gì sai trái đâu? Thày chẳng nói đó cũng là điều thày muốn hay sao?” Phải, dĩ nhiên là đúng vậy, nhưng sự khác biệt ở chỗ các thày hiện không đang đầu thai. Con đang đầu thai. Các thày không có rủi ro đột nhiên phải chạm trán với một biến cố bạo động do bàn tay sa nhân gây ra. Nhưng con có rủi ro đó. Ý của thày là thế này: Con, một người đang đầu thai, có thể xử lý các điều kiện hiện thời trên trái đất như thế nào? Con có thể làm vậy bằng cách lui lại một chút và nhận ra là con mang một cái ngã tách biệt – là đứa con đẻ của ngã gốc – có mong muốn biến địa cầu phi tự nhiên thành một hành tinh tự nhiên. Xong con có thể nhận ra là ngã này ở trong một trạng thái thiếu hụt liên tục vì có những biến cố đang liên tục xảy ra khiến nó dao động và phản ứng: “Ồ, biết bao lâu nữa địa cầu mới là một hành tinh tự nhiên, đến khi nào địa cầu mới thành một hành tinh tự nhiên đây?”

Con có thể đứng lui lại và nhận ra là địa cầu sẽ không trở thành một hành tinh tự nhiên trong kiếp này của con. Saint Germain nói đến một thời hoàng kim nhưng đâu có nghĩa là trong những thế kỷ đầu của thời hoàng kim, địa cầu sẽ trở thành một hành tinh tự nhiên. Nó có khả năng tiến gần đến giai đoạn tự nhiên vào phần sau của thời hoàng kim, nhưng chuyện này không có gì chắc chắn. Nói cách khác, con vẫn có thể có một thời hoàng kim với một địa cầu chưa tự nhiên, vì tiến bộ đã xảy ra với nhiều hòa bình hơn, nhiều thịnh vượng hơn, nhiều phát minh hơn, v.v. Con có thể nhận ra điều này một cách ý thức, chấp nhận nó và từ đó khởi sự xem xét cái ngã này. Rồi con dùng các dụng cụ mà các thày đã trao truyền để giải thể nó, hầu con khỏi bị thất vọng, khỏi rơi vào tình trạng căng thẳng cho đến mãn kiếp này chỉ vì con thấy địa cầu quá lâu nữa mới biến thành một hành tinh tự nhiên. Khi con làm vậy, khi con để cho ngã này chết đi, con sẽ có thể nhìn thế giới và thấy rõ nó hỗn loạn đến chừng nào, nhưng con có khả năng chấp nhận sự hỗn loạn như một trạng thái tạm thời chứ không vĩnh viễn.

Chuyện gì cứ việc xảy ra!

Con có khả năng chấp nhận sự hỗn loạn. Có nghĩa gì? Có nghĩa là con không thể kỳ vọng là con, hay đúng hơn tự ngã và các ngã tách biệt của con, có thể kiểm soát được hành tinh này một chút nào. Đối với hầu hết các con là người tâm linh, đây không phải là vấn đề kiểm soát đời mình mặc dù tất cả các con đều mang một số ngã muốn như vậy. Nhưng đối với nhiều các con, đây là vấn đề giành chút kiểm soát trên hành tinh hầu những chuyện tệ hại mà con muốn tránh không xảy ra. Nhưng con có thể dần dần chấp nhận một cách ý thức rằng đây là một hành tinh hỗn loạn, và do đó con không thể chờ đợi mình sẽ có bất kỳ kiểm soát nào trên các biến cố vỏ ngoài. Điều con có thể làm được là con đạt tới một mức chủ động cao độ trên chính tâm con cùng tâm thái của con, nhưng không qua trung gian tự ngã hay ngã tách biệt muốn kiểm soát và kỷ luật ý tưởng cùng cảm xúc của mình. Như Gautama đã mô tả rất tỉ mỉ, con làm điều này qua việc giải quyết những cái ngã. Nói cách khác, làm thế nào con chủ động được tâm mình? Bằng cách buông bỏ những cái ngã muốn kiểm soát tâm con hầu con không có nhu cầu kiểm soát tâm nữa, và dù biến cố vỏ ngoài nào có xảy ra trên trái đất thì nó cũng không khuấy động được ngã tách biệt để gây xáo trộn trong tâm con.

Như Gautama cũng mô tả, con có thể giữ một thái độ đối với địa cầu không dựa trên việc liên tục phán xét cái gì phải xảy ra và cái gì không được xảy ra. Con có thể tiến gần đến trạng thái không dính mắc khi con nhìn vào địa cầu và nói: “Không sao, bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Cho dù chuyện gì xảy ra thì tôi cũng sẽ xuôi chảy với nó, tôi sẽ sử dụng nó tốt nhất, tôi sẽ vẫn tiến tới trên con đường tâm linh của mình, tôi sẽ tiến tới và thực hiện sứ vụ thiêng liêng như tôi đang thấy. Vậy chuyện này hay chuyện nọ xảy ra có thực sự quan trọng hay không?”

Sứ giả này chưa bắt đầu làm sứ giả vào năm 2001 khi ông có một việc làm tầm thường. Hôm đó, ông nghe nói có một biến cố xảy ra ở New York và ông đứng đó ở sở làm, theo dõi chương trình ti vi đang chiếu hình hai toà tháp sụp đổ. Lẽ tự nhiên, bản tin khiến ông dao động và ông lo lắng hàng vạn người có thể thiệt mạng khi tòa tháp đổ xuống. Tuy vậy cho dù lúc đó ông đang sống tại Hoa Kỳ và đây là một biến cố đáng sợ, nó đã không làm xáo trộn cảm giác thăng bằng của ông nhiều như cuộc chiến ở Ukraine, mặc dù cuộc chiến này diễn ra nhiều năm sau đó. Lý do là vì ông mang một cái ngã tách biệt dựa trên giáo lý mà các thày đã trao truyền, một cái ngã mong muốn nhìn thấy một tiến trình chuyển tiếp tuần tự vào thời đại hoàng kim.

Một khi ông bước lui lại và nhận ra mình có mang ngã đó, ông đã có thể trụ chặt vào Saint Germain để hiểu ra là nếu muốn thời hoàng kim biểu hiện một cách tiệm tiến thì sẽ phải tốn rất nhiều thời gian do sức kháng cự mạnh mẽ của tâm thức tập thể chống lại sự thay đổi. Và vì thế, ông nhận ra và chấp nhận một cách ý thức rằng ông có thể sống chung với những biến cố khủng khiếp như vậy, là những chuyển biến sẽ buộc mọi người phải xét lại cách sống của mình. Sau đó ông đã có thể buông ngã đó, và ông chấp nhận là nếu có những diễn biến cần phải xảy ra để buộc mọi người nghĩ lại cách tiếp cận cuộc sống hay một số tình huống đặc thù, thì hãy cứ để yên cho chúng trải bày ra. Con sẽ chỉ cần thích ứng và bước tới, luôn luôn hướng mắt nhìn về mục tiêu của thời hoàng kim, về sự hoàn thành sứ vụ thiêng liêng cùng việc thăng thiên của mình. Trong bối cảnh vỏ ngoài đó, con bước tới từng bước một về hướng đó trong khả năng của mình.

Lẽ tự nhiên nếu con là một đệ tử tâm linh đang sống tại Nga hay Ukraine, con phải đối mặt với một tình thế khó khăn hơn hẳn những ai đang sống ở nơi khác trên thế giới. Tuy vậy, con vẫn có thể đi xuyên qua tiến trình này, là con nhìn vào bất kỳ ngã nào trong con phản ứng lại tình hình hôm nay và nhờ vậy dần dần chấp nhận là hoàn cảnh hiện tại, dù đáng lo đến chừng nào, vẫn là sự cần thiết để cả hai dân tộc Nga lẫn Ukraine tiến bước về thời hoàng kim. Thày biết, mọi chuyện hiện nay không có vẻ gì khả quan, nhưng ít nhất con có thể thấy được biến cố này có khả năng gia tốc sự chuyển bước về thời hoàng kim, trong khi trước kia thì cả hai nước – và cả thế giới, đặc biệt là châu Âu – bị kẹt cứng ở một mức tâm thức nhất định, một cái nhìn nhất định về thế giới. Tình trạng bế tắc này cần được phá vỡ, và một khi con chấp nhận điều này, con sẽ thấy là con cần tập trung vào tương lai. Chính vì vậy mà các thày đang trao cho con các bài truyền đọc này nhân dịp cuộc hội thảo trực tuyến về Ukraine, về tiềm năng tương lai của Ukraine và phần nào cũng về tương lai nước Nga.

Con có thể dõi mắt nhìn vào tiềm năng tích cực, con có thể dõi mắt vào sứ vụ thiêng liêng của con, vào bước tăng triển tâm linh không ngừng của con, vì hiển nhiên điều quan trọng hơn bao giờ hết là ở Nga và Ukraine có những người đang nâng cao nhận biết của mình, đang kéo tâm thức tập thể đi lên và cầm giữ sự cân bằng tâm linh cho dân tộc mình. Với tâm vỏ ngoài, con không thể hiểu được đầy đủ và nhận chân tầm quan trọng của sự có mặt của con trong thời buổi này ở nước con. Tương tự như vậy, hầu hết đệ tử của các thày ở các nước khác cũng không thể nhận chân một cách ý thức tầm quan trọng của sự có mặt của mình, sự nâng cao nhận biết và công việc tâm linh của mình trong thời buổi này. Nhiễu loạn càng nhiều thì sự hiện diện cùng nỗ lực của con càng quan trọng. Một khi con chấp nhận điều này và khắc phục ý muốn tránh cho một số biến cố xáo trộn xảy ra, con sẽ đạt được một tầm nhìn khác về tình trạng trên địa cầu.

Một thế giới hỗn loạn so với một hệ thống tiền định

Phải, con có thể nói là có hỗn loạn, nhưng hỗn loạn có nhất thiết là điều gì tiêu cực không? Các thày đã cho con rất, rất nhiều lời dạy về sự có mặt của sa nhân cùng đủ loại nhóm thượng lưu quyền lực đang tìm cách kiểm soát trái đất. Chúng muốn nắm càng nhiều quyền lực càng tốt trên địa cầu và khống chế quần chúng. Chúng đã thành công phần nào trong việc này nhưng như các thày đã nói, chúng không thể đoạt được sự kiểm soát tối hậu trên địa cầu, và tại sao chứ? À, một phần do sự xung đột nội tại trong bọn chúng vì chúng luôn luôn bị chia rẽ, và phần khác do tâm thức nhị nguyên vốn tạo ra cái đối lập với chính nó. Nhưng một cách khác để nhìn sự thể này là nói rằng trong một hệ thống hỗn loạn không thể nào có sự kiểm soát.

Kiểm soát ngụ ý trật tự. Và hỗn loạn không cứ là nghịch đề của trật tự, nhưng hỗn loạn không phải là trật tự. Nếu có trật tự thì không có hỗn loạn. Nhưng bây giờ con có thể đi thêm một bước và nói: “Vâng, con hiểu là các chân sư đã dạy con là hầu hết mọi người đã bước vào ảo tưởng tách biệt, vào tâm thức nhị nguyên, và đó là tại sao họ đã gây ra mọi xung đột được thấy trên trái đất.” Phải, điều này đúng, nhưng bây giờ con hãy tự hỏi. Trước khi loài người bước vào nhị nguyên, liệu đã có hỗn loạn trên địa cầu hay địa cầu hoàn toàn trật tự? Thậm chí con có thể hỏi thêm một câu nữa, liệu một hành tinh tự nhiên là một hành tinh hỗn loạn hay là một hành tinh hoàn toàn trật tự? Và con có thể ngạc nhiên nhận ra rằng kỳ thực hành tinh tự nhiên là một hành tinh hỗn loạn, và trước khi loài người bước vào nhị nguyên thì địa cầu cũng là một hành tinh hỗn loạn. Điều này có thể gây chấn động cho một số các con, nhưng con hãy bước lui thêm nữa và nhìn lại xem hỗn loạn là gì.

Sự hỗn loạn có nhất thiết hỗn loạn? Sự hỗn loạn có phải là một điều tiêu cực hay phá hoại? Một cách khác để nhìn sự hỗn loạn là bảo rằng đó không phải là một hệ thống tiền định (deterministic). Con biết mấy trăm năm về trước, các nhà khoa học tin rằng trái đất là một bộ máy khổng lồ, vũ trụ là một bộ máy khổng lồ. Nó giống như cỗ máy đồng hồ có bánh răng cưa quay theo một số quy luật nhất định. Các nhà khoa học tin rằng nếu con biết các quy luật vận hành vũ trụ và nếu con cũng biết các điều kiện tiên khởi khi cỗ máy khởi động, thì con có thể tiên đoán mọi chuyện có thể và sẽ xảy ra khi cỗ máy cứ thế chạy. Tất nhiên, đây chính là giấc mơ của sa nhân là tạo ra một vũ trụ cơ học như vậy nơi chúng là kẻ định ra cả quy luật lẫn điều kiện tiên khởi để chúng có thể kiểm soát tất cả.

Nhưng thật ra các thày đã nói gì về sự vận hành của thế giới chứ? Các thày đã nói với con là các Elohim đã tạo ra hành tinh địa cầu và vì thế, theo một nghĩa nào đó, cũng đã tạo ra các điều kiện tiên khởi. Nhưng các thày cũng có nói là mặc dù địa cầu vận hành theo một số quy luật nhưng nó không là một hệ thống tiền định. Tại sao lại không? Bởi vì mục đích của địa cầu là cống hiến một phương tiện cho sự tăng triển tâm thức của những sinh thể tự nhận biết đã đến địa cầu và trở thành những người đồng sáng tạo. Các sinh thể tự nhận biết này – trong đó có các con – có quyền tự quyết. Con gia tăng nhận biết của mình bằng cách dùng quyền tự quyết để thử nghiệm, bằng cách chọn lựa rồi trải nghiệm hậu quả của chọn lựa. Đấy, các chọn lựa của con càng tự do bao nhiêu thì chúng càng khó tiên đoán bấy nhiêu. Đối với một người hoàn toàn tự do trong tâm mình, sẽ không có ai – ngay cả sa nhân khôn ngoan nhất hay thậm chí chính Thượng đế – có thể đoán trước người đó sẽ làm gì tiếp theo.

Hỗn loạn là nền tảng của sáng tạo

Đấy, con thấy điạ cầu đã không được thiết kế để vận hành như một cỗ máy tiền định. Nó được thiết kế như một hệ thống sáng tạo. Điều các nhà khoa học gọi là hỗn mang chỉ đơn giản là một hệ thống sáng tạo không hề tiền định và bởi vậy không thể đoán trước. Các nhà khoa học nhìn thế giới rồi bảo: “Chúng tôi thấy có một số quy luật nhưng chúng tôi cũng thấy có quá nhiều hỗn loạn đến độ chúng tôi không thể dự đoán những gì xảy ra một cách chắc chắn tuyệt đối.” Trong nền vật lý lượng tử có cả một nguyên lý bất định nói rằng không có cách chi mà tiên đoán chắc chắn, vì thế giới ở mức hạ nguyên tử không tiền định và chắc chắn thế giới ở mức vĩ mô lại càng ít tiền định hơn nữa. Khi con nhìn từ góc cạnh này, con ngộ ra sự hỗn loạn không phải là một điều gì tiêu cực. Nó không tệ hại xấu xa. Kỳ thực nó là nền tảng cho sáng tạo, rồi từ đó con có thể có một tầm nhìn mới mẻ về khái niệm của Phật có tên là lý duyên khởi.

Con có thể nhìn ra là nếu địa cầu là một hệ thống được định trước thì nó đã có thể bị sa nhân kiểm soát rồi, và nếu chúng kiểm soát được thì chúng đã bành trướng tầm kiểm soát đó. Nếu hành tinh tới độ rơi vào sự kiểm soát toàn diện của sa nhân thì không thể có cách nào vực nó dậy. Chỉ còn cách để yên cho nó tự hủy diệt. Nhưng chính vì địa cầu là một hệ thống sáng tạo cho nên sa nhân sẽ không bao giờ hoàn toàn làm chủ được tình hình, và đó là tại sao địa cầu có tiềm năng vươn lên để bước vào một thời hoàng kim và vươn lên nữa để rốt cuộc trở lại với trạng thái hành tinh tự nhiên. Theo một nghĩa nào đó, sự hỗn loạn mà con thấy từ một góc cạnh kỳ thực là một cơ chế an toàn để ngăn ngừa sự thiết lập của một chế độ kiểm soát toàn diện. Kiểm soát toàn diện sẽ làm gì chứ? Nó sẽ dập tắt mọi sự sáng tạo vì sự sáng tạo vốn không thể đoán trước, và người ta chỉ có thể kiểm soát toàn diện nếu người ta tiên đoán được mọi chuyện.

Hỗn loạn không phải là một mối đe dọa. Tự ngã và ngã tách biệt của con sẽ coi hỗn loạn là một mối đe dọa vì nó đe doạ cảm giác thăng bằng của con. Nhưng con, khi con bước ra ngoài tự ngã và các ngã tách biệt, con có thể thấy sự hỗn loạn là bạn của con. Hỗn loạn là một điều tích cực. Nó là cơ sở cho sáng tạo. Con hãy bỏ công ra xem xét tại sao. Trong một hệ thống tiền định con có thể nói: “Tôi có thể làm việc này hay tôi có thể làm việc kia. Nhưng trong cả hai trường hợp, tôi có thể hoàn toàn đoán trước kết quả sẽ là gì, vậy liệu tôi đã thực sự chọn lựa hay không? Tôi không thể đem lại một cái gì mới vì tất cả phải chạy theo một đường rày.” Nhưng trong một hệ thống sáng tạo, con có thể đem lại một điều gì hoàn toàn mới.

Hiển nhiên, chuyện này có hai khía cạnh. Địa cầu được tạo ra lúc ban đầu ở một trạng thái nào đó, rồi loài người đã đưa nó xuống một trạng thái thấp hơn. Họ đã làm thế nào? À, họ đã tận dụng chức năng cơ bản của hệ thống sáng tạo là đặc tính không thể tiên đoán. Họ đã phản-sáng tạo thay vì đồng-sáng tạo, nhưng dẫu sao đây vẫn là một hình thức sáng tạo.

Tận dụng sự hỗn loạn

Nhưng con có thể đảo ngược lại và khởi sự tận dụng sự hỗn loạn để nâng địa cầu trở lên những tầng mức cao hơn. Đây chính là việc các thày kêu gọi con làm. Đây là công việc mà các đệ tử của chân sư thăng thiên đã làm kể từ Phong trào TA LÀ. Đây là công việc mọi người tâm linh đã làm từ hàng thiên kỷ qua đủ mọi cách tu tập tâm linh. Có thể nói, các con đang dấn thân vào sự hỗn loạn, và thay vì tìm cách tạo trật tự và kiểm soát, các con tìm cách tạo ra một trạng thái mới cao hơn trạng thái cũ. Nói cách khác, thay vì chế tạo hòa bình trên địa cầu bằng cách kiểm soát mọi chuyện và dùng vũ lực để kềm chế xung đột và chiến tranh, con sẽ sử dụng khả năng sáng tạo để tạo nên một trạng thái mới. Và khi con cứ tiếp tục làm vậy thì như Gautama cũng nói, sẽ tới một điểm khi tâm thức tập thế đạt đến một mức nào đó và bỗng nhiên mọi người thấy rõ là chiến tranh, chẳng hạn, không thể nào chấp nhận được nữa. Và khi có đủ số người ngộ ra điều này, mọi chuyện cũng sẽ bắt đầu chuyển đổi trong cõi vật lý.

Vậy con đang làm gì trong tư cách một đệ tử tâm linh? À, tự ngã của con, ngã tách biệt của con sẽ bảo con phải dùng giáo lý và các dụng cụ tâm linh để đem lại trật tự trên trái đất, hầu chiến tranh và bạo lực bị tiêu trừ và hoà bình được thiết lập qua trật tự. Nhưng các thày đây, các chân sư thăng thiên thì nói rằng con có cơ hội dùng giáo lý tâm linh để dấn thân, tham gia vào sự hỗn loạn, rồi sử dụng tính linh động của hỗn loạn để thị hiện một trạng thái cao hơn qua sáng tạo chứ không qua kiểm soát. Con hãy nhìn xem đời sống có biết bao hoàn cảnh hỗn loạn, và điều này nghĩa là gì? Có nghĩa là không có gì được tạc trên đá, không có gì cố định, mọi sự đều chuyển biến, và điều này có nghĩa là mọi sự có thể khá dễ dàng chuyển sang một hướng mới.

Có một ẩn dụ quen thuộc như thế này: Con thử lấy một chiếc bánh xe và đặt nó thẳng đứng trên mặt đất, nếu bánh xe đứng yên và con đẩy nó sang bên, nó sẽ đổ xuống. Nhưng nếu nó đang lăn, đang chuyển động, và con đẩy nó sang bên, nó sẽ không đổ mà chỉ đổi hướng lăn. Khi bánh xe đứng yên thì con có một hệ thống cố định, con khó lòng nào thay đổi điều gì trong một hệ thống cố định. Nhưng khi bánh xe đang lăn, con có một hệ thống động, dễ thay đổi hơn rất nhiều. Cũng vậy, con dễ thay đổi nước chảy hơn là tảng đá, cho nên con thấy một hệ thống càng năng động linh hoạt thì nó sẽ càng dễ thay đổi. Điều này cũng có nghĩa là với một hệ thống năng động linh hoạt, con sẽ cần ít người hơn để chuyển đổi nó so với một hệ thống cố định, đứng yên một chỗ.

Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là tâm thức tập thể càng có nhiều luồng lưu chuyển thì sẽ càng dễ cho một số ít đệ tử của chân sư thăng thiên xoay chuyển dòng chảy về một hướng khác. Đây chính là điều các thày tìm cách giúp con tận dụng, và tất nhiên các thày cũng giúp những người tâm linh khác mà các thày đang cộng tác. Chính sự kiện có nhiều luồng chảy, nhiều năng động đến vậy trên địa cầu là cơ hội để tạo ra thay đổi. Như các thày đã từng nói, nếu con có một con tàu, con chỉ cần bẻ tay lái một chút thì tuy con tàu dường như không chuyển hướng trong ngắn hạn, hành trình của nó sẽ thay đổi lớn lao trong dài hạn. Khi con chấp nhận điều này, con sẽ thấy là vai trò của con không phải là thị hiện những thay đổi vật lý đặc thù ở một thời điểm đặc thù.

Mạng lưới Antahkarana của sự Sống

Trong các đợt truyền pháp trước, các thày đã khuyến khích mọi người đọc chú để thỉnh cầu một số điều kiện đặc thù, và điều này đã khiến tâm một số đệ tử chú mục vào nhu cầu thị hiện một điều kiện nhất định vào một thời điểm nhất định, và nếu không làm được thì xem như việc đọc chú của họ đã thất bại. Điều này thậm chí khiến cho một số đệ tử nghi ngờ sự hiệu quả của bài chú, và họ đâm ra chán nản và bỏ cuộc. Nhưng con thấy đó, khi con hiểu những gì thày vừa trình bày ở đây, con sẽ tránh rơi vào những loại định kiến khiến con kỳ vọng một kết quả nào đó phải thị hiện ở một thời điểm nào đó.

Tất nhiên, điều tương tự cũng áp dụng cho cuộc đời của cá nhân con. Hàng ngàn và hàng triệu người khắp thế giới đã dùng khái niệm giữ thái độ tích cực trong tâm, lập ra một bản đồ kho báu rồi đặt vào bản đồ những gì họ muốn thị hiện ở một thời điểm nào đó. Một số đã thành công nhưng hầu hết đã bị thất vọng vì kết quả mong muốn đã không xuất hiện ở thời điểm mong muốn. Thế là nhiều người đã lật ngược và nghi ngờ sự hiệu quả của cả tiến trình này.

Nhưng nó sẽ có hiệu quả về mặt xoay chuyển phương trình hoàn cảnh cá nhân của con. Câu hỏi đặt ra là đến khi nào kết quả vật lý sẽ biểu hiện, và điều này thì tùy thuộc vào lý duyên khởi, vì con đâu phải là một hòn đảo, con đâu hiện hữu như một hòn đảo trong tâm thức tập thể cùng hệ thống năng lượng của bốn tầng cõi trên trái đất? Nếu con có thể bước lui lại khỏi địa cầu và quan sát từ tầm nhìn thăng thiên, con sẽ thấy trái đất là một tấm thảm dệt vô cùng phức tạp tinh vi gồm những liên hệ năng lượng, liên hệ nghiệp quả, liên hệ ở mức tâm thức, rồi lại có những liên hệ vật lý, liên hệ cảm xúc, liên hệ lý trí, liên hệ ở mức bản sắc, quá nhiều sự nối kết như vậy, và tất cả đều đan chặt vào với nhau. Đôi khi các thày đã có nói về Antahkarana của sự Sống, mạng lưới phức tạp tinh xảo kết nối tất cả mọi thứ. Con đang sống trong mạng lưới này. Con là một phần của mạng lưới này.

Khi con dùng ngã tách biệt để lập mục tiêu cho các thay đổi vật lý đặc thù mà ngã tách biệt muốn thị hiện, rồi con ấn định một thời điểm đặc thù chúng phải thị hiện, xong con kỳ vọng một loại phép lạ sẽ đến từ đâu đó – cho dù từ các chân sư thăng thiên hay từ cái gì khác – để thị hiện những gì con đã đặt vào bản đồ kho báu, thì con đã nắm sẵn nỗi thất vọng trong tay vì con đang cố làm chuyện bất khả thi. Con đang cố thị hiện một cái gì như thể con tách biệt khỏi Mạng lưới của sự Sống, nhưng làm sao được? Chuyện đó không thể làm được. Không ai có thể làm được.

Cách tiếp cận khác hơn là con chấp nhận con là một thành phần của Mạng lưới sự Sống đó, cho nên con cũng chấp nhận mình có khả năng thay đổi đời mình. Con có thể trước tiên thay đổi tâm thái của mình, con cũng có thể thay đổi các điều kiện vật lý của mình, nhưng việc thay đổi điều kiện vật lý xảy ra trong khuôn khổ rộng lớn hơn của hệ thống phức tạp đó, mạng lưới nối kết đó nơi con đang sống.

Con có thể, như các thày có nói, phóng chiếu một xung lực vào tấm gương vũ trụ nhưng cách nó phản ánh lại như thế nào sẽ tùy thuộc vào mạng lưới phức tạp kia. Nhưng này, rất nhiều điều con có thể muốn trong đời mình sẽ tác động đến người khác. Nếu con muốn thị hiện một ngôi nhà đặc thù chẳng hạn, một ai đó sẽ phải xây hay mướn người xây ngôi nhà, một ai đó sẽ phải đồng ý bán nhà cho con, cho nên có rất, rất nhiều người sẽ tham gia vào quá trình thị hiện ngôi nhà đó. Tất cả những người này đều có quyền tự quyết, đều có một mức tâm thức, và để thị hiện một cái gì đó cho con, con phải làm việc với tất cả những thứ đó trong bối cảnh đó. Con không thể chờ đợi một viễn quan tách biệt sẽ phải thị hiện như thể con là người duy nhất trong hệ thống. Nhưng một lần nữa, con có thể dần dần chấp nhận sự thể này, và con nhận ra là khi con nỗ lực nâng cao tâm thức của mình, hình thành những hình ảnh và phóng chiếu chúng ra ngoài thì nó sẽ có tác động, nhưng tâm vỏ ngoài sẽ không thể tiên đoán chính xác chuyện gì sẽ xảy ra, sẽ thị hiện như thế nào và khi nào.

Con có thể biết là con đã gửi ra một xung lực vào tấm gương vũ trụ. Con có thể biết là một cái gì đó sẽ quay trở về con và con có thể hài lòng biết rằng khi con cứ tiếp tục gửi xung lực như vậy thì lần hồi cuộc sống của con sẽ bắt đầu thay đổi, mọi chuyện sẽ bắt đầu thị hiện cho con. Nhưng nếu con chờ đợi những kết quả đặc thù ở những thời điểm đặc thù thì đó là một kỳ vọng không thực tế, nó chỉ có thể đem lại thất vọng. Nhiều năm trước đây, sứ giả này có nghe nói về khái niệm bản đồ kho báu, ông đã làm thử mặc dù bán tín bán nghi, và sau khi làm thử và kết quả không hiện ra vào thời điểm ông đã hình dung theo lời người ta khuyên, thì ông hiểu ra đó là một kỳ vọng không thực tế mặc dù ông không diễn tả như vậy. Thật có quá nhiều yếu tố liên hệ với nhau để có thể xem như con là một cá nhân tách biệt.

Kể từ đó, ông đã đổi cách tiếp cận và khi ông đọc chú, ông cố nâng cao tâm thức nhưng ông không kỳ vọng một kết quả nhất định ở một thời điểm nhất định. Ấy thế nhưng khi ông nhìn lại thời ông bắt đầu cất bước trên đường tu, ông thấy được là đã có rất, rất nhiều thay đổi không chỉ trong tâm thức mà cả trong hoàn cảnh vỏ ngoài của ông. Nhiều người trong các con sẽ có thể nhận ra một điều tương tự nếu con nhìn ngược trở lại, và do đó nhiều người cũng có thể nhận ra là với thời gian cuộc sống của con sẽ thay đổi khi con thực hành các lời dạy. Tất nhiên, một điều tương tự cũng không chỉ áp dụng cho việc thay đổi đời con mà cả việc thay đổi hành tinh do có nhiều người hơn tham gia vào.

Công việc tâm linh của các đệ tử chân sư ở Nga

Bây giờ con có thể nhìn vào một dân tộc như nước Nga, con thấy là trong nhiều năm trời qua sứ giả này, các thày đã trao truyền nhiều bài truyền đọc về nước Nga cùng trạng thái tâm thức ở Nga. Con thấy những bài này được ban ra với niềm hy vọng nước Nga sẽ dần dần biến đổi để tiến gần hơn với thời đại hoàng kim, rằng tâm thức tập thể có thể được chuyển hóa và nâng cao gần hơn với mức tâm thức thời hoàng kim. Xong con có thể nhìn những biến cố vừa xảy ra và nói: “Liệu đó có phải là một kỳ vọng thiếu thực tế hay không?” Nó không thiếu thực tế, nhưng không phải các chân sư thăng thiên đã có những chờ đợi nhất định về điều gì phải xảy ra. Các thày chỉ xem đó là một tiềm năng và các thày đã đưa ra một tiềm năng. Có một tiềm năng thực sự là điều đó đã có thể xảy ra lần hồi, nhưng rốt cuộc thì nó không xảy ra.

Cho nên con có thể bảo: “Thế còn các đệ tử tâm linh ở Nga thì sao? Họ đã nhận các bài truyền đọc, đã đọc thỉnh, đọc chú với niềm hy vọng chuyển đổi tâm thức tập thể. Liệu họ đã bị lừa? Liệu họ đã thất bại? Liệu nỗ lực đó đã không thành công? Liệu có vấn đề gì không do lỗi họ? Liệu có vấn đề gì với giáo lý của chân sư thăng thiên hay các bài thỉnh?” Tất nhiên con có thể lý luận theo cách đó nhưng con cũng có thể lui lại một bước, rồi con bước lên cao hơn để nhận ra là các đệ tử của chân sư tại Nga đã thực sự có tiềm năng đem lại thay đổi lần hồi đó. Nhưng chuyện xảy ra là đã không đủ số người dân Nga sẵn lòng xoay chuyển nhận biết của mình. Và vì vậy, cái tiềm năng có thực kia đã không trở thành hiện thực.

Là đệ tử của chân sư thăng thiên, tất nhiên con không thể lật bỏ quyền tự quyết của hàng chục triệu người. Con không thể chờ đợi mình làm được như vậy vì con không thể kỳ vọng các bài chú bài thỉnh sẽ có phép như một loại đũa thần và con chỉ cần khua đũa để ai nấy đổi ý. Con không thể lật bỏ quyền tự quyết qua các bài thỉnh bài chú như các thày đã nói nhiều lần. Nhưng đó đã là một tiềm năng có thực, chắc chắn không phải là sự lãng phí công sức, tuy nhiên sự việc đã không xảy ra và giờ đây con cần chấp nhận và bước tới. Dù vậy, con hãy cố nâng cao tâm thức cá nhân của mình, lượng định những gì con cần làm ở tầng cấp vật lý dựa trên tình hình mới, nhưng con cũng hãy tiếp tục đọc thỉnh đọc chú vì công việc này có tác dụng.

Có lẽ con không thể nói: “Chúng tôi là một nhóm người đã đọc từng nấy bài thỉnh vào thời buổi đó, đem lại từng nấy thay đổi đặc thù,” nhưng điều con có thể nói là các nỗ lực của con đã có tác động tích cực đến một tình thế vô cùng phức tạp, là một quốc gia trải rộng mênh mông với 140 triệu con dân sống trên dải đất bao la này. Đây không phải là một nước dễ thay đổi, nhưng hiển nhiên, không có nước lớn nào mà dễ thay đổi. Không nước nào là dễ thay đổi, nhưng nước càng nhỏ thì việc xoay chuyển tâm thức tập thể sẽ càng dễ.

Tăng triển bằng cách thử nghiệm

Một khi con lui lại, chấp nhận, đón nhận sự kiện con đang sống trong một môi trường sáng tạo chứ không phải một môi trường tiền định, con có thể ôm lấy sự sáng tạo, ôm lấy dòng lưu chuyển, ôm lấy cái mà nhiều người gọi là hỗn loạn nhưng con xem là tiềm năng đem lại những trạng thái mới mẻ cao hơn. Nếu không gì có thể thay đổi thì làm thế nào thay đổi được bất cứ gì? Làm thế nào con có thể đem lại cái mới nếu con không thể thay đổi cái gì đó? Và làm thế nào con có thể thay đổi một cái gì cố định, bị buộc chặt vào tình trạng hiện thời của nó? Con chỉ có thể đem lại thay đổi khi có sự linh hoạt, khi có những luồng đang chảy. Con hãy đón nhận cái đó, đón nhận môi trường con đang sống.

Hãy hài lòng là một con người sáng tạo không hề kiểm soát xung lực sáng tạo của mình sẽ biểu hiện ra sao. Nhưng con có thể tới mức nhìn vào đó và nói: “À, nếu tôi thực sự có thể tiên đoán mọi chuyện xảy ra do nỗ lực sáng tạo của tôi thì làm sao gọi đó là sáng tạo được? Kỳ thực tôi không đang sáng tạo mà đang máy móc.” Nhưng này, một số các con có thể nghĩ là trên một hành tinh tự nhiên, con có thể tiên đoán chính xác những gì sẽ xảy ra do nỗ lực sáng tạo của mình, và theo một nghĩa nào đó, con có thể đoán trước vì ở đó không có yếu tố nhị nguyên như trên địa cầu. Mọi chuyện trên hành tinh tự nhiên dễ tiên đoán hơn, nhưng làm thế nào con tăng triển được chứ? Con tăng triển bằng cách thử nghiệm.

Thử nghiệm là gì? Là con gửi ra một xung lực, con có ý chung chung điều gì sẽ quay trở lại nhưng con không biết chinh xác. Rồi con thấy kết quả, con điều chỉnh xung lực sáng tạo của con, con lại gửi ra một xung lực khác và con cứ tiếp tục làm vậy, con tiếp tục thử nghiệm nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Nếu khi con bấm cái nút, con đã biết rõ kết quả sẽ thị hiện máy móc ra sao, liệu đây có thật là sáng tạo hay không? Con chỉ đang làm chuyện máy móc. Vậy con sẽ học được gì từ đó? Làm thế nào cái đó sẽ chuyển đổi tâm thức của con? Nếu con dùng tâm thức hiện thời để thị hiện, phóng chiếu một hình ảnh nào đó và con biết rõ kết quả sẽ ra sao, làm thế nào tâm thức con sẽ chuyển đổi? Để con có thể là một người đồng sáng tạo, con không thể ở trong một môi trường cơ học kiểm soát. Phải có luồng chảy, phải có linh hoạt thì mới có chỗ cho sự thử nghiệm, có chỗ cho một cái gì chưa ai nghĩ ra bao giờ.

Đây chính là điều sa nhân lo sợ vì chúng không thể tiên đoán, chúng không thể kiểm soát. Đó là tại sao chúng sợ con, vì khi con bước lên tầng mức đó, con là một người sáng tạo. Trong các tổ chức chân sư thăng thiên và các tổ chức tâm linh khác đã có một xu hướng suy nghĩ rằng đường tu phần nào là máy móc. Con học hỏi giáo lý, con tránh làm chuyện sai trái, con làm chuyện đúng đắn, con mặc loại y phục này, con lái loại xe kia, con ăn loại thực phẩm nọ, rồi con tu hết các pháp tu tâm linh càng nhiều càng tốt, thế là một cách máy móc như Gautama có nói, con đạt được giác ngộ.

Nhưng đây là một tiến trình sáng tạo, không phải một tiến trình cơ học. Thày cũng biết nó có một số khía cạnh cơ học trong việc biến đổi năng lượng tha hóa chẳng hạn, nhưng về cơ bản con đường tâm linh là một tiến trình sáng tạo. Có một số đệ tử tâm linh bước vào giáo lý của chân sư thăng thiên mà lại muốn kéo nó xuống thành một tiến trình máy móc. Họ muốn tin rằng nếu họ sống một cách nào đó và đọc một lượng chú mỗi ngày thì họ bảo đảm sẽ thăng thiên ở cuối kiếp này. Như các thày đã cố giải thích từ đủ mọi góc cạnh, không phải vậy đâu.   

Xuôi chảy với sự hỗn loạn

Khi con chấp nhận điều này, việc sống trên một hành tinh như địa cầu sẽ dễ hơn hẳn vì con không đang cố làm chuyện bất khả thi, con không cố dùng giáo lý và các dụng cụ tâm linh để kiểm soát một môi trường không thể kiểm soát. Con dùng giáo lý và các dụng cụ tâm linh để hướng dòng chảy của hỗn loạn về một hướng khác. Đây có thể sẽ là một sự xoay chuyện vô cùng xây dựng cho con nếu con có thể xoay chuyển như vậy và đón nhận sự hỗn loạn, đón nhận sự linh hoạt trong môi trường của con. Nó có thể đem lại nhiều hệ quả cho đời sống hàng ngày và đường tu tâm linh của con.

Nó có thể cho phép con nói: “Tại sao tôi lại cần một số điều kiện vỏ ngoài đặc thù thị hiện trong đời tôi? Thật ra chỉ vì tự ngã và một số ngã tách biệt của tôi muốn những điều kiện này, vì chúng nghĩ nhờ đó chúng sẽ có được cảm giác an toàn. Nhưng tôi, sinh thể mà tôi thực LÀ, tôi không cần an toàn mà tôi cần tăng triển. Tôi không cần những điều kiện không làm phiền tôi. Kỳ thực tôi muốn những điều kiện sẽ làm phiền tôi, sẽ khiến tôi phản ứng hầu tôi có thể xem xét các khuôn nếp phản ứng của tôi, phơi bày những cái ngã tách biệt đó và để chúng chết đi. Tôi muốn tăng triển suốt phần còn lại của kiếp này. Tôi muốn tăng triển tối đa để nếu đó là sứ vụ thiêng liêng của tôi thì tôi có thể thăng thiên, tôi có thể hội đủ tư cách thăng thiên. Và nếu trong sứ vụ thiêng liêng không có điều đó, tôi sẽ đạt mức tâm thức cao nhất mà tôi có thể, để tôi có nền tảng tốt nhất cho kiếp tới khi tôi góp phần thị hiện thời đại hoàng kim. Đây là điều tôi muốn cho đến hết kiếp này. Tôi không muốn thoải mái. Tôi không muốn cảm thấy an toàn. Tôi không muốn những điều kiện vỏ ngoài thoải mái an toàn. Tôi muốn tăng triển tối đa.”

Làm thế nào con sẽ tăng triển? Bằng cách xuôi chảy với sự hỗn loạn. Bằng cách nhìn ra những gì khuấy động tâm con, rồi bằng cách làm việc trên điểm đó, con vượt qua nó và tiến bước. Rất nhiều Phật tử mang xu hướng nhìn vào đức Phật và nghĩ rằng trước hết, Phật sinh ra đã sẵn là một sinh thể rất đặc biệt. Cho nên ngay từ khi ra đời, thày đã khác hẳn mọi người tầm thường ngay trong cơ bản. Họ nghĩ thày không phải đối mặt cùng những vấn đề như họ, cùng những khai ngộ trên đường tu như họ. Họ cũng mang xu hướng nghĩ rằng vì thày quá đặc biệt cho nên thày đã có cách thần diệu nào đó để giác ngộ. Thày đã không phải đi qua tiến trình chứng ngộ dài đằng đẵng – như thể nó xảy ra tự nhiên, và họ cũng mong mỏi nó sẽ xảy ra tương tự với họ.

Nhưng Phật và chính thày đây cùng tất cả các chân sư thăng thiên khác đều đã phải kinh qua cùng cái quá trình các con đang kinh qua. Các thày đã mang một tâm lý rất giống con với rất nhiều ngã tách biệt mà các thày đã dựng lên suốt bao kiếp sống trên hành tinh này. Các thày đã phải khắc phục từng cái ngã đó như chính con đang làm. Đường tu là một tiến trình. Đó là một tiến trình sáng tạo. Luôn luôn đã là như vậy và sẽ mãi mãi là như vậy. Nếu con chấp nhận được điều này thì đường tu của con sẽ dễ hơn nhiều. Vì nếu không, điều này có nghĩa là trong tâm tiềm thức của con có những cái ngã đang kháng cự lại tiến trình, đang cưỡng chống sự tăng triển tâm linh, cưỡng chống những khía cạnh sáng tạo của đường tu. Nhưng để chấp nhận sáng tạo, chấp nhận hỗn loạn, con sẽ cần gì? Con cần sẵn lòng lấy quyết định và thử nghiệm cho dù con không biết kết quả sẽ ra sao.

Trong đời không có lỗi lầm

Đây là điểm nhiều học trò tâm linh gặp khó khăn vì họ bị ảnh hưởng bởi sa nhân, bởi tâm thức nhị nguyên, rằng có một chuẩn mực một người tâm linh phải như thế nào. Và nếu con tuân theo chuẩn mực thì con đúng, nếu con không tuân theo thì con sai. Đây chính là sa nhân với tiêu chuẩn xét đoán của chúng. Các đệ tử này lo sợ mình sai lầm cho nên họ không muốn lấy quyết định, vì họ biết mỗi khi họ lấy quyết định thì họ có thể lầm lỗi dưới mắt chính họ. Kỳ thực họ muốn bước vào một phong trào tâm linh với những lời dạy nghiêm ngặt, những luật lệ nghiêm ngặt, một cách tu tập nghiêm ngặt, và họ muốn nhận chỉ thị là họ không được tự ý suy nghĩ mà cứ việc tuân theo luật lệ, cứ việc làm đúng pháp tu thì ở cuối đường, họ sẽ thăng thiên hay sẽ nhập Niết bàn hay bất kỳ mục tiêu nào khác. Điều này như Gautama giải thích, không thể làm được.

Con cần bước lui lại và nhận ra là ngược với niềm tin đó, con không thể lầm lỗi trên đường tu tâm linh. Nhiều người sẽ bị sốc bởi câu vừa rồi, nhưng lý do là vì con đã bị ảnh hưởng bởi sa nhân cùng chuẩn mức của chúng về đúng và sai. Đó là một chuẩn mực nhị nguyên dựa trên một ảo tưởng toàn diện. Chuẩn mực này không có mặt trong trạng thái thăng thiên, trong tâm thức Phật. Thày biết rõ các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên đã bị chuẩn mực này ảnh hưởng sâu xa. Chính sứ giả này đã nếm mùi một tổ chức với tâm thức tập thể vô cùng xét đoán. Nhưng ông cũng đã có thể vượt thăng nó, vì nếu không thì ông đã không cả gan làm những gì ông đã làm từ khi ông bắt đầu làm việc với Giê-su suốt 20 năm qua. Và ông đã làm được là vì ông bắt đầu ngộ ra là trên đường tu không hề có lỗi lầm.

Theo một nghĩa nào đó, trong đời cũng không có lỗi lầm. Cho dù con có làm gì thì quyết định con lấy cũng là một thử nghiệm. Đó là một cơ hội nhìn xem điều gì sẽ xảy ra. Và khi con thấy cái đó xảy ra, trước hết con có thể nhìn xem phản ứng của mình là gì và dùng đó như một cơ hội chuyển đổi các khuôn nếp phản ứng, khắc phục các khuôn nếp phản ứng của con. Nhưng con cũng có thể nhìn xem con có thể điều chỉnh các quyết định cùng hình ảnh con phóng chiếu lên tấm gương vũ trụ như thế nào. Con có khả năng tăng triển khi con quyết định thử nghiệm. Nhưng nếu con cứ ngồi đó không muốn quyết định, không muốn thử nghiệm mà chỉ muốn người ta bảo mình làm gì và phải làm như thế nào một cách thật chi tiết, thì làm sao con tăng triển được đây?

Hãy cả gan thử nghiệm rồi tiến bước

Có những đệ tử tâm linh – không chỉ các đệ tử của chân sư thăng thiên mà trong nhiều phong trào tâm linh kể cả đạo Phật – đã bỏ ra nguyên kiếp đầu thai để tuân theo luật lệ mà không bao giờ dám lấy một quyết định thực sự nào. Liệu trong kiếp sống đó họ đã tăng triển hay không? Họ đã có thể bỏ ra hàng ngàn giờ tu tập chuyên cần, nhưng họ có tăng triển hay không? Nhiều người trong số đó đã không tăng triển chút nào. Con có thể là một học trò chuyên cần học tập một triết lý tâm linh, một người chuyên cần tu hành một pháp tu tâm linh suốt mấy chục năm trời mà không tăng triển gì hết. Hiển nhiên đây không phải là điều các thày mong muốn cho các để tử trực tiếp của thày, và thày cũng không nghĩ con muốn điều đó cho chính con.

Vậy con cần nhìn xem liệu con đang có một cái ngã tách biệt được tạo ra dựa trên chuẩn mực đúng-sai đó, thái độ xét đoán đó, nỗi sợ sai lầm đó, xong con cần xem xét nó, sử dụng các dụng cụ của các thày để đạt tới mức con có thể buông nó ra và nói: “Tôi sẵn lòng thí nghiệm, tôi sẵn lòng thử nghiệm. Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Tôi sẽ nhìn kết quả, tôi sẽ dùng nó để nâng cao nhận biết và do đó tôi sẽ tăng triển cho dù kết quả là gì.” Một lần nữa, như các thày đã nói, mục đích của cuộc sống là gì chứ? Sự tăng triển và sự nhận biết của con. Liệu các kết quả thử nghiệm, các kết quả vật lý của việc thử nghiệm, có quan trọng gì trong đời con hay không? Không. Điều quan trọng là những gì con làm với kết quả đó về mặt nâng cao tâm thức. Đó là điều quan trọng duy nhất.

Con nghĩ xem làm thế nào con trở thành một sinh thể thăng thiên? Các thày đã giảng rồi nhưng thày sẽ giảng thêm lần nữa. Con thử hình dung làm thế nào con nhập được cõi thăng thiên? Con phải buông bỏ mọi thứ trên địa cầu. Con có quyền tự quyết. Nếu vẫn còn điều gì đó con muốn làm, muốn hoàn thành, muốn thị hiện hay trải nghiệm trên trái đất, con sẽ không thể chọn rời bỏ trái đất vĩnh viễn. Con sẽ phải quay trở lại cho tới khi con chán chê những gì con có thể trải nghiệm trên trái đất.

Con có nghĩ là các thày, các chân sư thăng thiên, ngồi trên đây xem xét từng quyết định của con và đánh giá: “Ồ, quyết định này quá tệ. Bạn này đã không nên biểu hiện kết quả đó. Kết quả này quá tệ.” Không đâu con. Các thày đã buông mọi chuyện trên trái đất. Liệu những gì xảy ra trong cõi vật lý trên địa cầu do kết quả cuộc thử nghiệm của con có quan trọng gì không đối với các thày? Điều quan trọng duy nhất cho các thày là tác dụng trên tâm thức của con.

Nhiều người trong các con đã nắm lấy khái niệm thời đại hoàng kim của Saint Germain và đặt chồng lên đó một hình ảnh dựa trên những cái ngã vỏ ngoài bảo rằng một số chuyện phải thị hiện. Nhưng như chính Saint Germain đã nói, thời đại hoàng kim là một tiến trình. Mục đích chủ yếu là nâng cao tâm thức tập thể cũng như tâm thức của mỗi cá nhân. Mục đích chủ yếu không phải là thị hiện những kết quả vỏ ngoài đặc thù. Hẳn là các thày đã có đề cập đến những kết quả vỏ ngoài và đó cũng là một phần của thời đại hoàng kim, nhưng đó không phải là mục đích chủ yếu vì ngay cả kết quả vỏ ngoài cũng chỉ là công cụ cho việc nâng cao tâm thức.

Lấy ví dụ bao nhiêu công nghệ đã được thị hiện trong khoảng hai trăm năm vừa qua do Saint Germain đỡ đầu nền khoa học. Đấy, mục đích của Saint Germain không bao giờ là việc thị hiện một loại xã hội với những toà nhà tối tân, những phương tiện giao thông tinh xảo, những dạng công nghệ cao cấp như con có thể thấy trong phim khoa học viễn tưởng. Mục đích của Saint Germain là nâng cao nhận biết. Thày đã đem lại công nghệ để con người không phải cong lưng làm lụng 12 tiếng đồng hồ mỗi ngày ở đồng ruộng, rồi về nhà trong tình trạng kiệt sức đến độ họ không còn năng lực hay chú ý cho đời sống tâm linh. Mục tiêu của Saint Germain với công nghệ là đem lại cho mọi người thì giờ rảnh rỗi để họ có thể tập trung vào việc giải quyết tâm lý của họ và tăng triển tâm linh.

Trong Dòng sông sự Sống không có đúng đường hay sai đường

Không có gì trên trái đất tự thân nó là một mục tiêu cần đạt. Mọi sự việc trên địa cầu chỉ là phương tiện cho mục tiêu nâng cao tâm thức. Hãy nắm bắt điều này thì phần còn lại của đời con trên địa cầu sẽ dễ dàng hơn biết bao, vì giờ đây con có thể xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Dòng sông sự Sống hỗn loạn. Con thử lên núi nhìn sông chảy xiết qua vách đá, nó uốn lượn, trong dòng sông có xoáy nước, có đá sỏi. Con hãy nhìn dòng nước. Linh hoạt làm sao, hỗn loạn làm sao, khó lường làm sao! Đó là Dòng sông sự Sống. Sông càng hỗn loạn thì nó càng chảy nhanh. Nó càng êm ả thì nó càng chảy chậm. Con là một đệ tử tâm linh. Con muốn hội đủ tư cách để thăng thiên. Con muốn làm gì cho đến mãn kiếp này? Con có muốn bước chậm hay muốn tiến nhanh? À, hãy đón nhận sự kiện con càng tiến nhanh thì con càng phải linh hoạt, môi trường của con càng phải linh hoạt.

Thật không quan trọng nếu con phạm lỗi miễn là con đang chuyển động. Con chỉ cần chọn lựa khác đi và thăng vượt lỗi lầm. Thậm chí con không cần xem đó là lỗi lầm. Đó là một thử nghiệm trải bày ra một kết quả nào đó. Con dùng nó để nâng cao nhận biết của con, hình thành một xung lực tốt hơn và thị hiện một kết quả khác hơn. Một lần nữa, đây lại là một lời gian dối của sa nhân. Chúng muốn con tin là con có thể làm một chọn lựa mà con không thể tháo gỡ. Thày cũng biết các thày đã nói điều này rồi, nhưng con hãy lắng nghe thật cẩn thận. Sa nhân rất ghét quyền tự quyết vì quyền tự quyết khiến không ai có thể kiểm soát được con.

Chúng muốn con ngưng dùng quyền tự quyết của con. Chúng đã tạo ra chuẩn mực đúng-sai đó và phóng chiếu là con cần đánh giá mọi chuyện mình làm dựa theo chuẩn mực này. Và chúng muốn con tin là có một số chọn lựa với những hậu quả nghiêm trọng đến độ con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi. Người ta có khái niệm là con có thể bán linh hồn cho quỷ rồi không bao giờ thoát ra nổi. Điều này không đúng đâu con. Đó là một sự lừa bịp toàn diện có ác ý.

Quyền tự quyết, hay ý chí tự do, sẽ tự do như con muốn nó tự do thế nào. Con không bao giờ có thể dùng quyền tự quyết để làm một chọn lựa sẽ đình chỉ quyền tự quyết của con. Điều này không thể làm được. Đó là một cơ chế an toàn được gắn sẵn trong định luật tự quyết. Điều sa nhân muốn con làm khi con xuôi chảy với Dòng sông sự Sống và vấp phải một tảng đá trên sông, con chỉ có ít hơn một giây để lấy quyết định, liệu con sẽ lái sang phải hay sang trái? Con quẹo trái, thế là giờ đây sa nhân bảo con đã quyết định sai lầm và con phải bám vào tảng đá đó, giữ chặt lấy nó để cưỡng lại dòng nước chảy xiết, và con phải tiếp tục bám lấy tảng đá cho đến mãn kiếp này vì con đã quyết định sai lầm.

Nhưng điều con cần làm như một đệ tử tâm linh là nói một cách đơn giản: “À, đi vòng tảng đá phía trái có thể đã đưa tôi đến chỗ này, nhưng tôi vừa đổi hướng và lại quay trở về đó. Chỉ cần ít thời gian hơn chuyện bám lấy tảng đá và phân tích hệ quả xem mình đã làm gì sai, tôi đã cứ trôi tiếp và bây giờ tôi đến được nơi tôi muốn đến.” Con không bao giờ làm một chọn lựa sai lầm mà con chỉ đơn giản đổi hướng trên dòng sông, và nếu con đến một nơi con không muốn đến thì con chỉ việc đổi hướng lần nữa và đi tiếp.

Đây là điều tất cả các thày đã phải làm để hội đủ tư cách thăng thiên. Không một ai trong các thày được miễn không phải kinh qua điều này, cả Giê-su lẫn Phật lẫn chính thày đây. Tất cả các thày đều tới chỗ phải lấy quyết định. Các thày đã điều chỉnh lại tâm thức mình, bước đi tiếp, lấy thêm một số quyết định, đổi hướng. Không có đúng hướng hay sai hướng trong Dòng sông sự Sống. Con có thể nói là nếu con quyết định ôm lấy một tảng đá thì sẽ không xây dựng lắm, nhưng chừng nào con còn chuyển động thì không có chọn lựa sai hay đúng. Con chỉ đổi hướng và đi tiếp.

Con không cần phân tích, con không cần tự trách móc, con không cần buồn phiền hối hận, con không cần bước vào nguyên tiến trình: “Ồ, tại sao tôi đã làm chuyện này, tôi không nên làm vậy, tôi thật ngu ngốc, tôi cứ làm đi làm lại chuyện này và tôi cứ mắc phải cùng một lỗi lầm.” Đây là những cái ngã tách biệt đang nói chuyện. Con hãy nhận ra đó là ngã tách biệt. Con hãy nhìn chúng và nói: “Ta không muốn mi nữa trong trải nghiệm cuộc sống của ta. Hãy lui ra sau ta, Sa-tăng.” Hãy để cho chúng chết. Bước tới. Sáng tạo. Dám là con người sáng tạo, dám xuôi chảy, dám trải nghiệm, dám làm một điều gì đó mà con chưa từng làm. Hãy cả gan không phân tích, không đánh giá kết quả hành động của mình dựa trên tiêu chuẩn đúng-sai. Lời gian dối lớn nhất, một trong những lời gian dối lớn nhất, là bảo rằng Thượng đế hay các chân sư thăng thiên đã tạo ra tiêu chuẩn này. Nó hoàn toàn do sa nhân tạo ra.

Với lời này, thày đã cho con những gì thày muốn cho con trong bài giảng này. Ý định của thày là trở lại trao cho con thêm một số ý nghĩ có thể sẽ giúp con đối phó với cuộc sống trên hành tinh khó khăn này. Nhưng thày cũng biết con cần nghỉ ngơi, cho nên thày để con nghỉ và thày sẽ trở lại khi thuận lợi.


* Cho năm nay, chúng ta sẽ dùng cùng hình tư tưởng Mặt trời như năm ngoái:

Phật Gautama, thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất.”

Saint Germain, thày là tấm gương tuyệt hảo cho nền kinh tế.”

Mẹ Mary, thày là tấm gương tuyệt hảo cho phụ nữ.”

Chấp nhận là nhiều người còn trong Trường đời Cay đắng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên PadmaSambhava qua trung gian Kim Michaels ngày 8 tháng 1, 2023. Bài này được trao truyền nhân Webinat Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên PadmaSambhava. Thày đã cho con một cái nhìn đặt phần nào trọng tâm vào hoàn cảnh cá nhân của con – làm thế nào con có thể nhìn chính mình và hoàn cảnh của mình như một sinh thể đầu thai trên trái đất. Nhưng bây giờ chúng ta hãy lấy một góc nhìn khác và xem xét tình trạng chung của địa cầu.

Con là một đệ tử tâm linh. Nhiều người trong các con đã từng là đệ tử tâm linh hàng bao nhiêu kiếp sống, và đó là tại sao trong kiếp này con có thể nhận diện một giáo lý cao hơn. Con không thể nhớ cuộc sống của con như thế nào, tâm thái của con như thế nào khi có lẽ vào một thời quá khứ rất xa con không là một đệ tử tâm linh. Hầu như con không nhớ gì hết. Con có thể có chút hiểu biết trí thức rằng nhiều người trên địa cầu đang ở trong một tâm thái thấp hơn, nhưng con có rất ít ký ức trực tiếp về điều này.

Những người cưỡng lại thay đổi

Các thày đã nói gì? Địa cầu là một lớp học, và có hai cách để học trong lớp học địa cầu. Một cách là qua sự chỉ đạo cao hơn, qua giáo lý tâm linh, qua tu tập tâm linh, qua việc tự quan sát, nỗ lực thay đổi tâm lý của mình, bước đi trên một đường tu. Nhưng cách kia là Trường đời Cay đắng. À, có thể con đã ở trong Trường đời Cay đắng vào một thời rất xa hàng bao kiếp trước, cho nên con không nhớ nó như thế nào, và tuy con hiểu một cách trí thức là hầu hết mọi người còn trong Trường đời Cay đắng, liệu con có thực sự nắm bắt được điều này có nghĩa là gì? Hậu quả là gì?

Bây giờ con nhìn lại chính con và con có thể chấp nhận ý tưởng về một thời hoàng kim và chúng ta đang tiến dần đến thời hoàng kim. Nhưng con có hiểu chăng là nếu con cố giải thích cho họ thời hoàng kim là gì, thì tuyệt đại đa số con người trên hành tinh này sẽ không có khái niệm gì về những chuyện con nói – về tiềm năng tiến đến thời hoàng kim? Như câu nói thông dụng, họ mù tịt về chuyện này.

Bởi vì họ không thể hiểu nổi họ có thể nâng cao tâm thức và nhờ vậy đưa địa cầu lên một trạng thái cao hơn một cách hệ thống. Thậm chí họ không nghĩ cả tới chuyện họ có thể chủ tâm nâng cao tâm thức của họ. Họ không sẵn lòng xem xét bản thân hay nhìn vào cái xà trong mắt họ, như Giê-su gọi vây. Cho nên chừng nào họ còn trong tâm thái đó thì làm thế nào đưa họ vào thời hoàng kim, và làm thế nào đưa địa cầu vào thời hoàng kim?

Nhiều người trong số đó sống một đời sống mà con có thể gọi là nghèo nàn, nhưng họ vẫn cố bám lấy nó. Con hãy nhìn biết bao người ở những vùng nghèo của thế giới đã lớn lên trong nghèo khó với viễn quan là họ chỉ có thể nghèo khó, và họ còn chống đối những thay đổi trong xứ họ sẽ đem lại nhiều sung túc hay nhiều tự do hơn cho họ. Con nhìn xem bao nhiêu người khắp thế giới đang cưỡng lại sự tiến bộ. Làm thế nào con có thể thị hiện thời hoàng kim trên một hành tinh với quá nhiều người – đa số mọi người – cưỡng chống lại sự tiến bộ cho dù là tiến bộ nào? Họ không có viễn ảnh nào về thời hoàng kim nhưng họ chống đối tiến bộ vì họ cố bám lấy bất kể những gì họ đang có.

Làm thế nào con có thể thị hiện thời hoàng kim trên một hành tinh như thế này? Con chỉ có thể thực hiện được một khi những người đó chuyển đổi tâm thức của họ và trở nên sẵn lòng trải nghiệm tiến bộ, sẵn lòng trải nghiệm hoàn cảnh của họ được cải thiện. Là một đệ tử tâm linh, hẳn con đang nghĩ: “Nhưng nếu người ta đau khổ, tại sao người ta lại không muốn cải thiện hoàn cảnh của mình?” Nhưng họ không muốn. Đây chính là sự khác biệt giữa con và đa số mọi người trên hành tinh này.  

Con muốn nâng cao cuộc sống của con, con muốn khắc phục đau khổ, con muốn đạt được tự do và con sẵn lòng tự thay đổi để đạt được. Đó là tại sao con là một đệ tử tâm linh. Nhưng hầu hết mọi người chưa ở mức nhận biết này. Họ không thể có viễn ảnh về một thời hoàng kim hay về đường tu tâm linh. Họ chỉ biết những gì họ đang có. Họ không muốn đánh mất cái đó cho nên họ cưỡng lại thay đổi – họ cho rằng thay đổi chỉ có nghĩa là mất mát chứ không là lợi lạc.

Động lực trên địa cầu

Làm thế nào con thị hiện thời hoàng kim trên một hành tinh như thế này? Đấy, con phải tìm ra cách chuyển hóa tâm thức con người. Và đây là chỗ con cần hiểu động lực của ý chí tự quyết. Cách đây hai ba ngàn năm, việc thị hiện thời hoàng kim như Saint Germain mường tượng sẽ không thể thực hiện được. Tại sao vậy? Vì vào thời đó, rất rất ít người có thể nắm bắt khái niệm thời hoàng kim, khái niệm con đường tâm linh, khái niệm tự thay đổi bản thân, khái niệm rằng việc thay đổi tâm thức có khả năng ảnh hưởng đến các điều kiện của hành tinh.

Nhưng ngày nay, rất rất nhiều người đã bước vào nhận biết đó. Nhiều người dù chưa bao giờ nghe nói về chân sư thăng thiên hay ngay cả về đường tu tâm linh, đã cởi mở hơn với sự thay đổi, đã nhận ra là các điều kiện có thể thay đổi. Họ nhìn vào khối lượng tiến bộ đã xảy ra trong mấy thế kỷ qua và họ thấy là tiến bộ có thể tiếp tục trong tương lai, họ chấp nhận, họ mong muốn tiến bộ.

Trái đất đã vượt quá số lượng tới hạn khi có đủ túc số những người muốn thay đổi, và vì vậy định luật không cho phép những kẻ chống đối thay đổi có thể kìm hãm bước tiến dẫn đến thời hoàng kim. Mặc dù đa số còn kháng cự sự thay đổi, nhưng vẫn có một số người tới hạn đã đón nhận sự thay đổi, và đây chính là khối người sẽ đẩy mạnh động cơ dẫn đến thời hoàng kim.

Họ là những người đang quyết định hướng đi chung của hành tinh, vì họ là số 10% ở trên cùng về mặt tâm thức và đông hơn cả số 10% đó. Cho nên luật tự quyết được thiết lập để đảm bảo là khi có đủ số lượng tới hạn những người muốn thay đổi trên một hành tinh, thì thay đổi này phải được phép trải bày ra.

Nhưng điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là thành phần dân chúng kháng cự lại sự thay đổi sẽ không bị ép buộc phải thay đổi, mà điều sẽ xảy ra là nghiệp chướng của họ sẽ không còn được trì hoãn lại – nếu đây là một cách giải thích. Có thể nói là đã có một thời gian miễn thứ khi nghiệp chướng của con người được trì hoãn, được giữ lại, để tạo điều kiện cho con người tăng triển. Nhưng khi chu kỳ xoay vòng, nghiệp chướng sẽ được phóng thích. Có nghĩa là Trường đời Cay đắng sẽ giáng thêm nhiều cay đắng cho họ.

Con cũng có thể nhìn sự việc một cách khác và nói rằng sự phản hồi của tấm gương vũ trụ được gia tốc, cho nên cũng như trên, Trường đời Cay đắng sẽ giáng những cú mạnh hơn trong một thời gian ngắn hơn. Và qua đó họ sẽ bắt buộc phải thay đổi tâm thức, nhưng yếu tố sẽ bắt buộc họ thay đổi không phải là khối người mong muốn thay đổi, cũng không phải là các chân sư thăng thiên, mà là chính những chọn lựa của họ trong quá khứ. Thay vì được phép làm ngơ các chọn lựa cũ thì giờ đây họ phải giáp mặt với các chọn lựa này và không thể nào bỏ qua được nữa.

Bóng hình trên vách

Đây là động lực đang diễn ra trên trái đất. Làm thế nào sự thể này sẽ giúp con, một đệ tử tâm linh, thay đổi cái nhìn của mình về trái đất? À, chúng ta hãy bắt đầu bằng hang động của Plato, một truyện ngụ ngôn từ lâu đời do nhà hiền triết Plato đưa ra. Con có một hang đá. Trong hang có một nhóm người bị xiềng xích khiến họ không thể quay đầu ngó ra đằng sau. Họ ngồi đối mặt với vách đá.

Ngoài hang trời nắng chói chang, có người đi lại bên cửa hang, và ánh sáng mặt trời chiếu lên vách bóng hình những người qua lại. Theo một nghĩa nào đó, những người trong hang cảm nhận là có chuyện gì đang xảy ra sau lưng họ, một chuyện gì ở ngoài hang, nhưng họ không thể thấy chính xác đó là gì, mà họ chỉ thấy bóng hình trên vách đá.

Tất nhiên, Plato muốn dùng hình ảnh này để minh họa sự kiện là những gì con nhìn thấy với tâm vỏ ngoài và giác quan vật lý chỉ là hình bóng của những căn nguyên đang hiện hữu ở những cõi cao hơn, mà ông gọi là “cõi của hình tượng lý tưởng”. Điều này cũng tương tự như những gì các thày gọi là cõi cảm xúc, cõi lý trí và cõi bản sắc, nơi các hình ảnh do mỗi người và nhân loại nói chung cầm giữ được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật trong bát cung vật lý. Thế giới vật chất chỉ là hình bóng của những hình ảnh và hình tượng ở ba cõi cao.

Bản đồ các tầng tâm thức con người

Này con cũng biết khoa học đã tạo ra nhiều loại dụng cụ đo lường khác nhau. Con có vệ tinh không ngừng bay quanh trái đất, dõi tìm một số vật cụ thể trên mặt đất. Con hãy tưởng tượng con đang bay trên quỹ đạo trái đất trong trạm vũ trụ nhìn xuống mặt đất như một con người. Con thấy gì? Con thấy phong cảnh, con thấy những khu rừng, con thấy đại dương, con thấy nhiều thành phố, con thấy đường xá, con thấy cả người ta. Là một con người, xu hướng tự nhiên của con là chú tâm nhìn sinh hoạt con người.

Bây giờ con có một vệ tinh rà xét nhiệt độ. Con thấy mặt đất hiện ra như một mô hình, nhưng vì vệ tinh này chỉ thấy được khác biệt nhiệt độ cho nên một số vùng lạnh hơn sẽ màu xanh, một số vùng ấm hơn sẽ màu đỏ. Vệ tinh không thấy được người ta, không thấy thành phố, không thấy đường xá, mà chỉ thấy sự khác biệt về nhiệt độ.

Rồi có một máy rà xét khác tìm kiếm khoáng chất, nó thấy được những cấu trúc địa chất, những loại quặng sắt. Một chiếc máy khác tìm kiếm dầu hỏa, một chiếc khác nữa đo đạc độ cao và nó chỉ thấy được những khác biệt về độ cao.

Con có thể tạo một bản đồ trái đất về những thứ do bàn tay con người xây dựng. Trên bản đồ có thành phố, đường xá, ranh giới giữa các quốc gia. Hay con có thể tạo ra đủ loại bản đồ khác dựa trên những tiêu chuẩn khác nhau, như nhiệt độ, độ cao, lượng mưa, quặng mỏ hay bất cứ gì khác. Có rất nhiều cách nhìn trái đất. Là một đê tử tâm linh, con có thể sử dụng cách thức này, con có thể bước lui lại và nói: “Trái đất là gì? Trái đất là gì, đặc biệt trong giai đoạn chúng ta đang tiến về thời hoàng kim?”

Chúng ta đang đến gần điểm thời hoàng kim sẽ bắt đầu xuất hiện, nhưng để cho thời hoàng kim thị hiện, rất nhiều thay đổi phải cần xảy ra. Con có thể bước lui lại và có được một cách nhìn khác về trái đất. Con có thể nói: “Sẽ cần gì để cho thời hoàng kim thị hiện? Sẽ cần một số lớn những người này phải xoay chuyển nhận biết của mình.”

Thậm chí con có thể tạo ra một bản đồ trưng bày những nơi nào có người tập trung sinh sống cùng với mức tâm thức của họ. Liệu loài người đã đến gần hơn với tâm thức thời hoàng kim? Còn xa đến bao nhiêu? Và con có thể lập ra một bản đồ nhiều màu cho thấy là ở một số vùng trên thế giới có nhiều người đã đạt gần đến mức tâm thức thời hoàng kim, trong khi ở những vùng khác thì hầu hết mọi người vẫn còn rất xa. Và như vậy con có thể nói: “Sẽ cần gì để khiến cho những người còn xa tâm thức hoàng kim xoay chuyển được tâm thức của họ đây?”

Trường đời Cay đắng

À, một giáo lý tâm linh sẽ không đủ để làm chuyện này. Những loại giáo lý khác, ngay cả tư tưởng về dân chủ chẳng hạn, cũng sẽ không đủ để làm chuyện này. Các giáo lý về giải phóng phụ nữ, bình đẳng nam nữ, tính nhân bản cao hơn, cách hành xử trung thực và tử tế giữa mọi người, tất cả những giáo lý và tư tưởng như vậy cũng không đủ để làm chuyện này, bởi vì nếu chúng đủ thì chúng đã làm được rồi.

Vậy sẽ phải cần gì để những người đó chuyển đổi? Đấy, họ còn trong Trường đời Cay đắng, cho nên những cú giáng phải trở nên dữ dội đến độ họ thực sự chú ý. Ngay bây giờ, con có thể nói là họ đang đau khổ, họ đã đau khổ từ rất lâu, có thể họ đã phải nếm mùi đủ loại cay đắng, đủ loại tai ương, đủ loại hoạn nạn, nhưng vẫn không đủ để lay họ thức giấc khỏi trạng thái tâm thức hiện thời, không đủ để khiến họ ngộ ra: “Không, chính chúng ta mới phải thay đổi.” Câu hỏi đặt ra là những cú giáng mà các nhóm người trải nghiệm phải dữ dội đến chừng nào trước khi họ chứng được điều này: “Chúng ta cần thay đổi, chúng ta không thể cứ tiếp tục như thế này”?

Cuộc sống trên trái đất là một màn trình diễn

Khi con ngộ ra điều đó, con có thể nói: “Trái đất là gì chứ?” Con có thể trở về thời Hy Lạp cổ với những nhà hát ngoài trời để trình diễn kịch nghệ. Một loại kịch là bi kịch. Mục đích của bi kịch – mà các sọan giả lẫn diễn viên đều biết rõ – là trình bày một số tình huống trong đời sống, diễn xuất một số cảm xúc đặc thù, một số hoàn cảnh khó xử mà mọi người đều sống qua, hầu cử toạ có dịp giải quyết một vấn đề nào đó trong tâm thức của mình khi xem kịch thay vì phải trải nghiệm tình thế đó trong đời sống thật, hay có lẽ cử toạ có thể học được điều gì từ vở kịch sẽ áp dụng cho đời sống thật.

Đấy, theo một nghĩa nào đó, Trường đời Cay đắng cũng giống như một vở kịch. Mục đích của nó là đánh thức cử toạ nhìn ra nhu cầu phải thay đổi. Câu hỏi là loại kịch nào sẽ cần được trình diễn cho một nhóm người đặc thù để họ thức tỉnh trước nhu cầu phải thay đổi. Và do đó con có thể thấy là các biến cố vỏ ngoài đang xảy ra trên điạ cầu, tuy có vẻ rất dữ dội và đáng lo ngại, nhưng chúng chỉ là những phương tiện để đạt cứu cánh. Kỳ thực, các biến cố vật lý vỏ ngoài đang diễn ra trên địa cầu có thể ví như màn trình diễn trên sân khấu.

Vấn đề là khi con ngồi trong một rạp hát vật lý theo dõi một màn trình diễn kịch nghệ, con biết rõ những gì xảy ra trên sân khấu không có thật, đó không phải là cuộc đời thật. Vậy tại sao con không nhận ra điều này khi xem cái gọi là cuộc đời thật – rằng những hình dạng diễn ra trên địa cầu thật ra không có gì thực hơn một màn trình diễn trong nhà hát? Vấn đề ở đây là không có sân khấu, mà có một môi trường nơi con đã nhập vai, đã chìm đắm vào đó, cho nên nó có vẻ thực hơn. Thày không đang nói đến đa số con người nhận ra được điều này, mà thày nói đến con là đệ tử tâm linh nhận ra rằng những gì xảy ra trên địa cầu là một màn trình diễn có mục đích đánh thức một số người đang cưỡng lại bước tiến về thời hoàng kim. Và do đó, vấn đề chỉ đơn giản là liệu sự kháng cự của con người sẽ lớn đến chừng nào, và các cú giáng sẽ phải dữ dội đến chừng nào trước khi họ thức tỉnh.

“Chuyện này đáng lẽ không được xảy ra”

Và khi con nhận ra, khi con chấp nhận điều này, con sẽ có thể nói: “Ừ nhỉ, tại sao tôi phải xem đó là hệ trọng? Tại sao tôi phải coi đó là chuyện cá nhân của mình? Tại sao tôi phải cưỡng lại những gì đang xảy ra? Taị sao tôi phải dùng giáo lý tâm linh để lượng định: Ồ, chuyện này đáng lẽ không được xảy ra?” Vị sứ giả này khi vụ xâm lăng Ukraine xảy ra đã cảm thấy rõ ràng: “Ồ, chuyện này đáng lẽ không được xảy ra.” Trước khi nó xảy ra và bất chấp các dấu hiệu báo trước, ông nghĩ: “Chuyện này sẽ không xảy ra đâu. Không có cách chi Putin không thấy được hậu quả, không có cách chi giới lãnh đạo nước Nga không thấy được hậu quả. Họ không thể đui mù đến như vậy.” Nhưng như mọi người có thể chứng kiến hôm nay, họ đã đui mù đến như vậy.

Sứ giả này đã thấy được hậu quả và ông đã phóng chiếu trạng thái tâm thức của ông rằng nhất định phải có ai đó trong giới lãnh đạo nước Nga cũng sẽ thấy được hậu quả và sẽ ngăn cản vụ này. Nhưng ông đã lầm và ông chịu nhìn nhận là mình lầm. Cũng vậy, con có thể dần dần nhìn nhận là trên trái đất có nhiều người cần đến những kịch bản vô cùng dữ dội được trải bày ra trên sân khấu địa cầu mà họ xem là đời sống thực trong thế giới vật chất, trước khi họ có thể thức tỉnh thấy được nhu cầu một sự thay đổi.

Nhưng con không nằm trong số những người đó. Con là một người tâm linh. Con cởi mở tiếp nhận sự hướng dẫn từ một cõi vượt khỏi tâm con cùng vũ trụ vật chất. Con không ở trong Trường đời Cay đắng. Tại sao con lại xem đó là hệ trọng đến vậy, thậm chí con còn xem đó là chuyện cá nhân? Tại sao con lại cưỡng lại? Tại sao con lại cố thay đổi nó đi? Nó là một phần của tiến trình đưa địa cầu đến gần với thời hoàng kim.

Chắc chắn con không thể chờ đợi mọi người có khả năng bước tới thời hoàng kim như con đang bước? Con cần nhìn nhận là nhiều người cần đến Trường đời Cay đắng để có thể bước tới. Điều con có thể làm là lui lại và nhận ra là cho dù những chuyện này có vẻ thực đến đâu, đó chỉ là một vở kịch đang được trình diễn. Thày biết, điều này sẽ có vẻ thật vô cảm đối với nhiều người vì hiển nhiên thế giới đang chứng kiến nhiều khổ đau có thực như chết chóc, bom đạn và tất cả những thứ đó. Thày không yêu cầu con vô cảm. Nhưng thày xin con hãy lui lại và nhận ra là trong tư cách một người tâm linh, con cần cho phép vở kịch này trải bày ra để những ai không thể được đánh thức bởi một giáo lý tâm linh có thể được đánh thức bởi các biến cố đang diễn ra trong cái họ tưởng là đời sống thực.

Tránh không bị i kéo vào màn trình diễn

Tất nhiên là có hậu quả tàn khốc cho nhiều người. Tất nhiên con muốn tránh cho nó không xảy ra. Tất nhiên các chân sư thăng thiên cũng muốn tránh cho nó không xảy ra. Nhưng một khi nó không thể tránh được thì con có thể tránh bị lôi kéo vào trong đó, bị cuốn hút vào các cảm xúc, các ý nghĩ, các cơn lốc, thậm chí vòng xoáy vật lý của các biến cố này. Con có thể đứng lui lại và quan sát, và con quan sát y như con đang ngồi trong nhà hát xem vở bi kịch cổ Hy Lạp được trình diễn trên sân khấu. Thày không nói là con cần thưởng thức vở kịch, nhưng con có thể xem đó như một buổi biểu diễn và con tránh không bị cuốn hút vào đó. Con có thể tránh không phản ứng lại như thể đó là một điều đáng lẽ không được xảy ra.

Từ một nhãn quan nào đó, đúng vậy, tốt hơn là nó không xảy ra. Sẽ tốt hơn biết mấy nếu con người có thể tăng triển mà không đau khổ. Nhưng nếu họ không thể, thì trong chiều dài của thời hoàng kim, nó vẫn gây ra ít khổ đau hơn trong dài hạn so với kịch bản con người không thay đổi. Một khi con hiểu luân hồi thì vấn đề ở đây là con nhận ra, cho dù ai đó có phải rời kiếp đầu thai quá sớm do chiến tranh, thì cơ hội của họ vẫn chưa kết thúc. Họ sẽ lại có cơ hội trở lại hiện thân trong một hoàn cảnh khác và do đó họ sẽ vẫn bước tới.

Cho nên ngay cả nếu con nhìn từ nhãn quan một linh hồn, con có thể nói là người đó có thể đã đau khổ dữ dội trong một thời gian ngắn trong kiếp này, nhưng nó có thể ngăn chặn sự khổ đau kéo dài hơn rất nhiều trong những kiếp tới. Từ một quan điểm toàn bộ, đây là một kết quả xây dựng hơn.

Con hiểu là thày không đang ngồi đây như một chân sư thăng thiên và đưa ra những lời đánh giá như vậy. Thày đã trình bày những điểm này với con như một cách để giúp con tránh không bị lôi cuốn vào sợ hãi, vào phản ứng dựa trên sợ hãi hay nỗi giận hay lòng oán hận hay bất kỳ phản ứng nào khác mà con có thể bị cuốn hút vào khi con chứng kiến những biến cố như vậy. Con có thể trụ ở trung tâm, con có thể tiếp tục tập trung vào công cuộc đưa hành tinh tiến bước về hướng thời hoàng kim. Con có thể đọc bài chú bài thỉnh, con có thể nâng cao tâm thức, con có thể làm việc với Sứ vụ Thiêng liêng của con và nhờ vậy đưa hành tinh đi tới, thay vì bị trật đường rày hay chui vào ngõ hẻm do con phản ứng quá mạnh trước các biến cố.

Mọi thứ đều là dáng vẻ

Con hãy lấy câu này trong bài chú của thày: “Địa cầu là hình bóng, chẳng có chi là thật.” Câu này khiến cho nhiều người xốn xang, nhưng con là một đệ tử tâm linh, con có thể bước lên một tầm nhìn khác và nhận ra là tất cả mọi thứ con người nhìn thấy, mọi thứ con người trải nghiệm đều là một vẻ ngoài. Vẻ ngoài được tạo ra do sự phối hợp giữa những gì xảy ra bên ngoài tâm con với những gì xảy ra bên trong tâm con. Nói cách khác, có những sự kiện bên ngoài, nhưng con cũng có phin lọc nhận thức sẽ pha màu cách con nhìn sự kiện đó.

Có những nhà khoa học đang tranh luận nghiêm túc rằng khi có hai người nhìn vào bãi cỏ, họ có thể đồng ý là cỏ màu xanh lá cây, nhưng liệu họ có thật nhìn thấy cùng một màu xanh hay là cách nhận thức màu xanh của mỗi người là một cái gì cá nhân? Vấn đề này – con có tin không – là chủ đề của một cuộc tranh luận nghiêm túc, và cuộc tranh luận này không vô căn cứ vì nó mở đầu cho việc ngộ ra là mọi người đều mang những phin lọc nhận thức cá nhân. Và đây không chỉ là chuyện nhìn màu sắc, vì nếu việc nhìn màu sắc cũng đã chủ quan và cá nhân, thì việc nhìn các biến cố, các tư tưởng và đời sống riêng của mình sẽ chủ quan hơn đến chừng nào?

Con nhận ra là khi con nhìn vấn đề này từ một nhãn quan thăng thiên, con có thể nói: “Các Elohim đã thị hiện hành tinh Địa cầu. Với tầm mức nhận biết của các vị đó thì Địa cầu là thực, có một hành tinh có thực.” Nhưng nếu con nhìn từ nhãn quan con người đang đầu thai, họ không đang thấy hành tinh thực sự mà họ thấy một vẻ ngoài được chế tạo bên trong tâm họ. Từ nhãn quan một người đầu thai, địa cầu là một hình dạng không có gì là thực, vì cái họ nhận thức không phải là cái được các Elohim tạo ra, mà là một hình dạng bị chính tâm họ ảnh hưởng sâu đậm. Và nếu họ càng ở trong trạng thái tâm thức thấp bao nhiêu, nếu tâm họ càng khép kín bao nhiêu, nếu họ càng chống lại sự thay đổi bao nhiêu, thì họ sẽ chỉ càng thấy được cái hình dạng chứ không phải thực tại.

Cái gì là thực?

Bây giờ con có thể xét tới nhiều điểm khác và hỏi: “Khi bảo rằng một cái gì có thực thì có nghĩa là gì?” Và nhiều người sẽ trả lời, đó là một cái gì mang trải nghiệm khách quan, độc lập với tâm. Có một chút giá trị trong quan điểm này nếu con nhận ra là đối với những người ở trong tâm thức nhị nguyên, tâm họ hoàn toàn chủ quan và tất cả mọi thứ họ thấy đều chủ quan. Con có thể nói là ở bên ngoài tâm đó – cái tâm tách biệt nhị nguyên – có một sự hiện hữu khách quan. Nhưng con không thể bảo rằng chỉ những gì không do tâm tạo ra hay ảnh hưởng mới là thực, bởi vì làm thế nào các Elohim tạo ra địa cầu chứ? Qua uy lực của tâm họ. Các Elohim cũng đã hình thành những hình tư tưởng, đã phóng chiếu chúng lên Ánh sáng Mẫu-Vật và thị hiện hành tinh.

Và đấy, tất cả phần còn lại của vũ trụ cũng y chang như vậy. Tất cả mọi thứ đều được tạo ra từ tâm, cho nên nếu con bảo bất cứ gì tạo ra từ tâm đều không thực một cách tối hậu, thì chẳng có gì là thực trong toàn bộ vũ trụ. Nhưng tất nhiên trên một hành tinh như trái đất, điều thực tiễn hơn là nhận ra rằng khi tâm càng chủ quan, càng khép kín thì tâm này sẽ chỉ càng thấy được những hình dạng không có gì là thực.

Điều nói trên sẽ hữu ích như thế nào cho con, một đệ tử tâm linh? À, con có thể một lần nữa neo chặt vào ẩn dụ rạp hát hồi nãy, và nói rằng trong rạp hát không có gì là thực một cách tối hậu – đó là một buổi trình diễn nhằm ảnh hưởng tâm khán giả. Toàn bộ hành tinh là một màn trình diễn, nhưng sự khác biệt giữa rạp hát với hành tinh nằm ở chỗ mọi người trên địa cầu không chỉ là kẻ bàng quan thụ động, mà họ cũng tham gia vào màn trình diễn. Có thể nói, họ ở trên sân khấu, họ là một phần của vở kịch, nhưng tất nhiên họ lại nghĩ đấy là cuộc đời thật. Nhưng con là một đệ tử tâm linh, con có khả năng giải thoát tâm con khỏi ảo tưởng này về một thế giới có thực. Và lợi ích cho con khi con làm vậy là con có thể nhận ra làm thế nào một cái gì không thực có khả năng ảnh hưởng tâm con?

Ảo tưởng về một thế giới khách quan

Con đã được nuôi dạy suốt nhiều kiếp sống và bị sa nhân lập trình để nghĩ rằng có một thế giới thực, một thế giới khách quan, và tâm con không có quyền lực nào trên thế giới khách quan đó, mà ngược lại thế giới khách quan có quyền lực trên tâm con. Nó có khả năng ảnh hưởng tâm con. Đây là điều sa nhân muốn con tin – có một thế giới khách quan không do tâm tạo ra, cho nên những gì con có thể thay đổi trong hoàn cảnh cá nhân của mình hay những gì nhân loại có thể thay đổi trên hành tinh, có giới hạn.

Sa nhân muốn con tin là con đang sống trong một thế giới thực. Con không thể thay đổi nó, cho nên con không thể thay đổi ảnh hưởng của nó trên tâm con cho tới giờ. Con không có quyền năng thay đổi sự thể này. Thế giới đang đi theo một cách nào đó, như đang có chiến tranh trên thế giới. Điều này ảnh hưởng tâm con theo một cách nào đó, và chừng nào còn có chiến tranh trên thế giới thì con không thể thay đổi cách nó ảnh hưởng tâm con. Đây là điều sa nhân muốn con tin và tất nhiên, đây là một lời nói dối xảo quyệt.

Thực tại mà các chân sư thăng thiên đã giảng dạy từ rất lâu là chính con có quyền năng thay đổi tâm con, để con thay đổi cách thế giới bên ngoài tâm con ảnh hưởng thế giới bên trong tâm con. Thật ra, con có thể đạt tới một tâm thái khi không có gì trên thế giới có thể ảnh hưởng tâm thái của con. Con chọn lựa tâm thái của con một cách độc lập đối với những sự kiện bên ngoài xảy ra trên thế giới.

Đây là điều mà Phật Gautama dạy là “chánh đạo” – Bát chánh đạo – qua đó con lần hồi đạt tới điểm không có gì trên thế giới ảnh hưởng được con. Quỷ dữ của Mara, ông hoàng của thế gian này không thể ảnh hưởng được con, ép buộc con bước vào một phản ứng nào đó.

Quả vị Phật và quả vị Ki-tô

Nhiều người trong các con chưa bắt đầu nắm bắt được điều này. Một số các con đã hiểu được một cách trí thức nhưng con chưa thể nhập được hoàn toàn. Quả vị Phật, quả vị Ki-tô có nghĩa là con đạt tới điểm không có gì xảy ra trên thế giới có thể kiểm soát tâm thái của con. Không có gì có thể buộc con phản ứng lại. Con tự do, cho nên con có thể nhìn vào bất kỳ biến cố nào trên địa cầu mà hoàn toàn tự do chọn lựa phản ứng của mình, chọn lựa những gì mình cảm nhận, những gì mình suy nghĩ, những gì mình tự đồng hóa trong quan hệ với biến cố, và những cách mình sẽ hành động trong quan hệ với biến cố. Con tự do. Con không bị các sự kiện bên ngoài ép buộc.

Làm thế nào con đến được trạng thái này? Bằng cách nhận ra là con mang một số ngã – những cái ngã tách biệt dựa trên ảo tưởng rằng tâm con phải bị các điều kiện bên ngoài ảnh hưởng, và chúng chỉ có thể bị ảnh hưởng theo một cách nào đó. Điều này trở ngược về thuở con đến địa cầu lần đầu tiên và nhận chịu những cú sốc kia. Con trải nghiệm trên địa cầu có chiến tranh. Con trải nghiệm sự tàn nhẫn tuyệt đối của một số sa nhân khi chúng sẵn sàng giết hại hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn hay hàng triệu người chỉ để thỏa mãn tự ngã của chúng. Con bị chấn động đến độ con tạo ra một cái ngã tách biệt để đối phó với sự thể hầu con vẫn giữ được một chút cảm giác thăng bằng, tức là cho dù con phải sống trên một hành tinh khó khăn, nó cũng không hoàn toàn điên rồ đến nỗi con không thể sống sót về mặt tâm lý.

Đó là một phản ứng dễ thông cảm khi con mới đến trái đất lần đầu, nhưng con đã ở đây rất lâu rồi, con đã bước chân trên đường tu và đã đến lúc con cần xem xét ngã tách biệt này, những cái ngã tách biệt này, và để cho chúng chết đi. Điều này không có nghĩa là con trở nên vô cảm theo nghĩa là con phủ nhận sự đau khổ đang tiếp diễn hay con không có lòng từ bi đối với mọi người. Nhưng nó có nghĩa là con nhận ra mặc dù vẫn có chiến tranh trên trái đất, con có khả năng chọn lựa cách phản ứng của mình, hay con chọn không phản ứng trong sợ hãi, trong tách biệt. Thay vào đó, con chọn nói rằng: “Tôi sẽ giữ vững viễn quan. Tôi sẽ đọc chú đọc thỉnh để vấn đề này được vượt thăng. Tôi sẽ nỗ lực nâng cao tâm thức tập thể để vấn đề này được vượt thăng và không thể nào tái diễn.”

Nhưng con không bị xáo trộn, con không bị cuốn hút vào phản ứng tiêu cực của giận dữ, sợ hãi hay thù hận. Con tiếp tục không dính mắc. Không có nghĩa là con không hành động, con không làm tất cả những gì có thể làm để thay đổi tình thế, nhưng con không hành động từ trạng thái dính mắc, xáo trộn, bởi vì trạng thái này đến từ một ngã tách biệt và khi con hành động dựa theo đó, tác động của con sẽ yếu ớt hơn nhiều so với nếu con hành động từ trạng thái cao của quả vị Ki-tô và quả vị Phật.

Con cũng có thể nói là Hiện diện TA LÀ của con có thể gửi xuống một xung lực vào bốn tầng của tâm con nhằm biến hóa năng lượng đang lôi kéo người ta vào cuộc chiến, nhưng năng lượng này phải đi qua các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc, và khi nó đi qua như vậy, nó sẽ tương tác với bất kỳ khuôn nếp phản ứng nào có mặt ở đó, khiến cho sức mạnh của xung lực bị giảm bớt. Cho nên khi con loại bỏ được các khuôn nếp phản ứng, các ngã tách biệt này, xung lực có thể đi từ cái ta cao xuyên qua tâm con mà không bị cản trở, và nhờ vậy nó có tác động lớn hơn rất nhiều.

Đừng trì hoãn vô hạn định quả vị Ki-tô

Tất nhiên, việc nhìn ra là không có gì thực một cách tối hậu còn có một lợi điểm nữa, là nó có thể giúp con đạt được trạng thái an bình với sự hiện diện của mình trên trái đất ngay cả trong các điều kiện hiện thời.

Để thị hiện quả vị Ki-tô hay quả vị Phật khi con vẫn hiện thân trong một cơ thể vật lý, con sẽ cần những gì? À, một trong những cơ chế do sa nhân tạo ra là chúng phóng chiếu: “Bạn là một đệ tử tâm linh có trách nhiệm. Bạn đang nỗ lực đạt được một mức nhận biết cao hơn. Bạn đã đạt đến một mức nhận biết cao hơn nhưng bạn cần dấn thân vào những gì đang xảy ra trên trái đất. Bạn không thể lạnh nhạt đứng ngoài cuộc. Bạn không thể rút lui, bạn không thể thản nhiên không quan tâm gì đến người khác.” Cho nên chừng nào địa cầu còn những điều kiện khủng khiếp như chiến tranh chẳng hạn, con sẽ không thể biểu hiện quả vị Ki-tô của con. Con sẽ cần triệt tiêu các điều kiện vỏ ngoài đó để địa cầu được thái bình hơn, rồi sau đó con mới có thể biểu hiện quả vị Ki-tô của mình.

Sa nhân luôn luôn nói: “Bạn cần phải dấn thân vào các điều kiện hiện thời và tìm cách thay đổi chúng đi, sau đó bạn mới có thể biểu hiện quả vị Ki-tô của bạn.” Và như thế nếu con đồng ý làm vậy, chúng khiến con trì hoãn lại quả vị Ki-tô của con một cách vô hạn định: “Ồ, có chuyện này tôi phải lo cái đã.” Đây chính là truyện ngụ ngôn của Giê-su với chàng thanh niên kia đến nói với Giê-su: “Con muốn theo thày nhưng thày cho phép con chôn cất cha con cái đã.” Phản ứng của Giê-su là gì? “Hãy để cho người chết đi chôn người chết.” Bởi vì điều chàng thanh niên muốn nói là: “Con muốn theo thày. Con muốn cất bước trên đường tu dẫn đến quả vị Ki-tô, nhưng có đúng một chuyện này trong thế gian mà con phải lo cái đã. Có chuyện này con phải làm, rồi sau đó con mới có thể tập trung vào quả vị Ki-tô.”

Đấy, có thể có những công việc là một phần chính đáng trong Sứ vụ Thiêng liêng của con mà con phải làm, hay con phải trải nghiệm để thoát ra khỏi nó, và việc này nằm trong con đường của con dẫn đến quả vị Ki-tô. Nhưng điều sa nhân phóng chiếu vào con là có một tình huống vỏ ngoài nào đó, và chừng nào tình huống này còn tồn tại thì con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô. Tất nhiên, đâu là cách duy nhất để loại trừ chiến tranh khỏi trái đất? Là khi có một lượng tới hạn những con người thể hiện được quả vị Ki-tô của mình, và nhờ vậy họ có thể kéo tâm thức tập thể đi lên hầu càng ngày càng có nhiều người thức tỉnh với cái nhìn đổi khác về chiến tranh.

Thế bí lưỡng nan

Vậy nếu con trì hoãn quả vị Ki-tô của mình bởi vì chiến tranh, làm thế nào chiến tranh sẽ được loại bỏ đây? Đây là một thế kẹt, một thế bí lưỡng nan do sa nhân tạo ra và chúng đã tạo ra nhiều thế kẹt kiểu như vậy. Sẽ tới một điểm con cần xem xét điều này và nhận ra là bất kể trên hành tinh đang trải bày ra điều kiến gì, con có quyền gỡ mình ra khỏi nó và tập trung vào sự phát triển tâm linh của mình và thể hiện quả vị Ki-tô. Bởi vì một khi con đạt đến một trạng thái nhận biết cao hơn, con sẽ có tác động lớn hơn trong việc chuyển đổi các điều kiện trên địa cầu, nhưng con sẽ không thể làm vậy nếu con còn bị dính mắc và phản ứng lại theo một ngã tách biệt.

Nhưng cũng có một góc nhìn khác mà con có thể xem xét. Như thày vừa nói, sa nhân đã dựng lên nhiều điều bí ẩn, một thế kẹt khó xử, một thế tiến thoái lưỡng nan, một tình huống không có giải pháp. Có một ví dụ điển hình là sa nhân tấn công con trong vật lý và hăm dọa giết con. Con làm gì đây? Liệu con sẽ để yên cho chúng giết con hay con đánh trả và giết chúng? Đây chỉ là một trong nhiều tình huống. Sa nhân gây ra một cuộc chiến. Một nước tấn công một nước khác. Con sẽ làm gì?

Chấp nhận trọn vẹn quyền tự quyết

Đó là những thế kẹt mà sa nhân tạo ra và con bị cuốn hút vào đó khi con ở trong tâm thức nhị nguyên và mang những ngã tách biệt đó, nó khiến con cảm thấy mình phải làm một cái gì. Tất nhiên, cách tối hậu là con giải quyết những ngã vỏ ngoài đó. Nhưng con cũng có thể xoay chuyển thái độ của mình và nói: “Nhưng tôi đang sống trên một hành tinh nơi định luật tối hậu là quyền tự quyết. Nếu người khác dùng quyền tự quyết của họ để làm một chuyện gì, tại sao tôi lại phải ra tay chỉnh sửa? Tôi không có vai trò thay đổi quyền tự quyết của người khác. Tôi có quyền tự quyết của riêng tôi. Vai trò của tôi, thẩm quyền của tôi là những chọn lựa mà tôi lấy, chứ tôi không chịu trách nhiệm những gì người khác làm với quyền tự quyết của họ, và tôi không có thẩm quyền ép buộc họ đổi ý, ép buộc họ đổi ý chí tự do của họ. Cho nên khi có ai làm gì đó, tại sao tôi lại phải phản ứng lại? Tại sao tôi phải tìm cách thay đổi chọn lựa của họ? Tại sao tôi không thể đơn giản để yên cho họ trình diễn nó ra rồi gánh lấy hậu quả?”

Trong một số trường hợp, đó là vì con muốn bảo vệ chính mình khỏi hậu quả, nhưng trong tư cách là người tâm tinh – hầu hết các con – thật ra đó là vì con muốn bảo vệ họ khỏi hậu quả chọn lựa của họ, vì con thấy được những hậu quả đó và con không muốn họ khổ đau. Nhưng trên một hành tinh với quyền tự quyết, con không có trách nhiệm ngăn chặn người ta chọn lựa hay ngăn chặn người ta đau khổ do hậu quả các chọn lựa này.

Như các thày đã có nói, nhiều avatar đến trái đất là vì họ đã chưa neo chặt, chưa hoàn toàn thể nhập quyền tự quyết. Đây là một trong những thử thách mà các avatar phải đối mặt trên hành tinh này – là đạt tới điểm con có thể nhìn sự việc xảy ra, nhìn những người đang làm việc đó, và thay vì tìm cách ngăn chặn họ có những chọn lựa gây ra khổ đau, con đứng lui lại và nói: “Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Để yên cho họ nếm trải hậu quả vì đằng nào họ cũng không nghe tôi nói. Họ không thể học hỏi từ ai đó nói cho họ nghe, mà họ chỉ học hỏi bằng cách nếm trải hậu quả. Tại sao tôi lại ngăn cản không cho họ học hỏi qua cách duy nhất mà họ có thể học hỏi? Tại sao tôi có nhiệm vụ chèn mình vào giữa họ và quả báo của họ? Là một avatar trên địa cầu, vai trò của tôi có thật là ngăn chặn người khác gặt hái hậu quả những chọn lựa của họ bằng cách ngăn chặn không để họ chọn lựa như vậy? Tôi có ở đây để khiến họ thay đổi tâm họ, hay tôi ở đây để thay đổi tâm tôi, nâng cao tâm thức của tôi, thoát ra khỏi bất kỳ ảo tưởng nào mà tôi đang có về quyền tự quyết và thăng vượt nó?” Khi con nhận ra điều này, con sẽ có thể đứng lui lại, nhìn địa cầu và để yên cho mọi chuyện trải bày.

Bí ẩn gắn sẵn với quyền tự quyết

Trên đây là những điều liên quan đến các thế kẹt do sa nhân tạo ra để khiến con mắc bẫy và lôi kéo con vào vòng xoáy bất tận của phản ứng. Nhưng cũng có một số điều khó xử không do sa nhân. Chúng ta có thể nói là những điều này đã được gắn sẵn vào quyền tự quyết và nguyên tiến trình nâng cao tâm thức. Có một số điều khó xử hay bí ẩn như vậy, nhưng điều thày muốn đề cập ở đây là như sau. Như các thày đã nói, con được sinh tạo như một sinh thể cá biệt với một ý chí tự do cá biệt. Các thày có nói con là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con đang hiện hữu ở cõi tâm linh. Ở cõi tâm linh, mọi người, mọi sinh thể đều cảm thấy mình nối kết với mọi sinh thể khác, mình là thành phần của một tâm, và thế giới là một tổng thể tương kết. Con đã được gửi xuống một bầu cõi chưa thăng thiên như một sinh thể cá biệt. Con có sự tùy chọn để bước vào nhị nguyên và xem mình là một sinh thể tách biệt, nhưng điều thày đang đề cập là sự kiện con đã đến đây như một sinh thể cá biệt.

Con trù hoạch sẽ trải nghiệm thế giới này như một sinh thể cá biệt từ góc nhìn đặc thù của con. Con trù hoạch sẽ tăng triển, sẽ mở rộng sự nhận biết của mình, nhưng vẫn trong tư cách một sinh thể cá biệt. Thế rồi khi con đạt đến một tầng nhận biết nào đó, con có thể từ bỏ đời sống cá biệt này và trở về với Hiện diện TA LÀ của con – hay bất kỳ cách giải thích nào khác mà các thày đã cố đưa ra bằng ngôn từ nhưng sẽ không bao giờ thỏa đáng. Bí ẩn được gắn sẵn trong tiến trình này là: Làm thế nào con cân bằng được quyền tự quyết cá nhân của mình với sự kiện con không sống một mình trong thế giới này và trên hành tinh có đến 8 tỷ người khác với quyền tự quyết của họ? Làm thế nào con cân bằng được điều này?

Các thày có nói là trên một hành tinh tự nhiên, con không đánh mất cảm giác nối kết. Nhưng các thày cũng có nói là trên một hành tinh tự nhiên, con vẫn phải khởi đầu với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm. Con thấy mình là một sinh thể cá biệt, con nhận ra là con nối kết với một cái gì vượt khỏi tâm con – con nối kết với mọi người khác, con nối kết với môi trường xung quanh, nhưng con vẫn là một sinh thể cá biệt. Cho nên ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, con cũng có bí ẩn này, tình trạng khó xử này. Làm thế nào con giải quyết sự kiện mình có quyền tự quyết cá biệt và mọi người khác trong môi trường của mình cũng có quyền tự quyết cá biệt? Làm thế nào con xử lý được đây?

Nhưng này, thày không đang trình bày cho con điều này với ý nghĩ là sẽ có một cách nhiệm màu để xem xét và giải quyết bí ẩn. Thày không đang nói con có một nhận thức sai lầm, con có một cái nhìn sai lầm và con nên xoay chuyển cái nhìn đó thì con sẽ giải quyết được bí ẩn. Khi con thăng thiên, con có thể nói là con đã giải quyết bí ẩn, nhưng chừng nào con chưa thăng thiên thì thày không thể cho con những từ ngữ và lời dạy sẽ giải quyết bí ẩn dùm con.

Cân bằng ý muốn của con với ý muốn người khác

Chuyện đó không thể diễn tả bằng lời, nhưng điều con có thể làm là chấp nhận bí ẩn có ở đó. Con có thể chấp nhận là chừng nào con còn đầu thai, ngay cả khi con đạt đến tầng tâm thức 144, con vẫn phải xử lý nhu cầu giữ sự cân bằng giữa quyền tự quyết của con và quyền tự quyết của người chung quanh.

Con thử nhìn hai người sống trong một mối quan hệ. Họ sống với nhau trong cùng ngôi nhà, họ có thể có con với nhau, họ có cuộc sống chung. Hãy giản dị hóa và chỉ nhìn vào hai người. Cả hai có thể rất yêu nhau, hiểu nhau sâu sắc và kính trọng lẫn nhau, nhưng hai con vẫn là hai cá thể. Hai con có góc nhìn khác nhau, có quan điểm khác nhau về cuộc đời, có ý chí tự quyết cá biệt. Làm thế nào con sẽ cân bằng đây? Xử lý thế nào khi một người muốn cái này và người kia muốn cái kia?

Một lần nữa thày không đang bảo là có một giải pháp rõ ràng sẽ giải quyết vấn đề. Thày chỉ đang chỉ ra cho con, đây là một bí ẩn sẽ đeo đuổi con chừng nào con còn sống cuộc đời cá biệt này trong một bầu cõi chưa thăng thiên, và ngay cả ở một hành tinh tự nhiên vì đó vẫn là một bầu cõi chưa thăng thiên. Là một người tâm linh, con có thể làm gì? Tại sao thày lại nói cho con điều này nếu con không thể giải quyết hay làm bất cứ gì?

À, con có thể dùng cái đó để nhìn vào toàn bộ hành tinh một lần nữa và con có thể nói: “Lẽ tự nhiên, tôi cần tìm ra cách cân bằng quyền tự quyết của tôi với quyền tự quyết của những người gần gũi với tôi, là những người tôi có mối quan hệ riêng tư trực tiếp. Nhưng phần còn lại của nhân loại, tôi không có nhu cầu làm vậy. Cho nên tôi có thể đứng lui lại và nói: “Tám tỷ người kia trên hành tinh này đều có quyền tự quyết cá nhân, nhưng tôi không chịu trách nhiệm về quyền tự quyết của họ. Tôi không trách nhiềm về các chọn lựa của họ. Tôi không có nhu cầu điều chỉnh quyền tự quyết của tôi dựa trên chọn lựa của họ.”

Khi con ở trong một mối quan hệ riêng tư trực tiếp, con cần điều chỉnh quyền tự quyết cùng các chọn lựa của mình theo người chung quanh. Nhưng con không cần làm vậy đối với nhân loại nói chung. Con thử suy ngẫm, làm sao con có thể làm được điều đó? Có quá nhiều người khác nhau muốn làm quá nhiều chuyện khác nhau.

Điều con có thể làm như một người tâm linh là bước lui lại và nói: “Tôi không trách nhiệm chọn lựa của những người đó. Tôi không cần phản ứng lại các chọn lựa hay hậu quả chọn lựa của họ. Tôi cần tiếp tục không dính mắc và để yên cho các hậu quả này trải bày ra. Chúng có thể ảnh hưởng đến cá nhân tôi nhưng tôi cần càng không dính mắc càng tốt và hiểu ra là họ cần nếm trải các hậu quả này để chuyển đổi tâm thức. Tôi cần hoàn toàn không dính mắc và chú tâm vào trạng thái tâm thức của tôi. Tôi không trách nhiệm chọn lựa của những người đó. Tôi không cần điều chỉnh quyền tự quyết của tôi dựa trên chọn lựa của họ. Tôi có quyền tập trung vào sự phát triển tâm linh của tôi, con đường tâm linh của tôi, và chú ý tối thiểu đến chọn lựa của người khác. Cho dù nó có tác động đến tôi trong cõi vật lý, tôi có thể tìm ra cách để nó tác động càng ít càng tốt đến tâm và tâm thái của tôi.”

Làm thế nào an bình trong một thế giới hỗn loạn

Điều trên sẽ không giải quyết được bí ẩn, nhưng chắc chắn nó sẽ giúp con dễ sống hơn trên một hành tinh có quá nhiều biến động. Và nó là một phần trọng tâm của những gì các thày muốn trao cho con tại hội nghị này. Hy vọng của các thày là giúp con an bình hơn trong một thế giới hỗn loạn. Và làm thế nào con sẽ an bình hơn? Bằng cách chấp nhận sự hỗn loạn, đón nhận sự hỗn loạn, nhận ra là bất kể chọn lựa của người khác, con vẫn có thể có chọn lựa của riêng con. Và cho dù con không thể kiểm soát các tình huống vỏ ngoài, con có thể làm chủ tâm thái của con một cách độc lập khỏi chọn lựa của người khác. Nói cách khác, con có thể nói: “Tôi không cho phép sự hỗn loạn do chọn lựa của người khác gây ra đi vào tâm tôi và ảnh hưởng chọn lựa của tôi. Tôi vẫn đang lèo lái trên Dòng sông sự Sống với một ý hướng rõ ràng mình muốn đi về đâu. Và cho dù điều gì có xảy ra, cho dù phải quẹo trái hay quẹo phải, tôi chỉ đơn giản tìm về hướng đi mà tôi đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.”

Thày biết rất rõ những gì thày vừa trao không phải là một phương thuốc thần kỳ. Mục đích không phải để con có thể nghiên cứu các giáo lý được ban ra ở hội nghị này và bỗng chốc giải quyết được cảm giác xáo trộn rồi lập tức an bình. Nhưng không có phương thuốc thần kỳ đâu con ạ. Và các thày đã giải thích tại sao.

Đường tu đích thực là gì?

Con cần học hỏi, con cần trải nghiệm, con cần thay đổi tâm thức của mình. Đó là cách con tăng triển nhận biết. Quá nhiều người tâm linh đến với đường tu tâm linh với mục đích đạt được một tâm thái nào đó, và tâm thái này có thể cao hơn nhiều bậc so với tâm thái hiện thời của họ. Nhưng họ thấy được mục tiêu ở đó, cho dù con gọi là quả vị Ki-tô hay quả vị Phật hay giác ngộ hay tâm thức cao, và họ nói với vị thày tâm linh: “Thày hãy cho con phương thuốc thần kỳ để con lập tức có thể bước từ mức hiện thời của con lên cái mức mà con thấy ở trên kia. Thày hãy chỉ con cách làm thế nào từ nơi con đứng, con có thể nhảy cóc lên nơi thày đứng.”

Nhưng làm thế nào thày đã đạt được mức tâm thức hiện tại của thày? Bằng cách bước từng bước một. Vì bằng cách bước từng bước một mà thày đã lần hồi biến đổi tâm thức thày. Làm sao con có thể nhảy cóc lên mức tối hậu từ mức hiện thời của con? Không thể được. Con cần sẵn lòng kinh qua cùng cái quá trình mà mọi người thăng thiên từ trái đất đã sẵn lòng kinh qua.

Nếu con muốn đường tắt, nếu con muốn nhảy bước, thì con chưa thật sự sẵn sàng với đường tu đích thực đã được truyền dạy suốt mọi thời đại trong nhiều bối cảnh khác nhau. Theo một nghĩa nào đó, con còn tìm kiếm con đường tay trái của các thày giả, họ đưa ra đủ loại hứa hẹn mà họ biết rõ không thể nào giữ lời.

Một vị thày chân chính sẽ không đưa ra một lời hứa không thể nào thực hiện. Làm vậy để làm gì? Một vị thày chân chính không cần gì từ đệ tử. Thày giả cần một điều gì đó từ đệ tử, có thể là ánh sáng của con, năng lượng của con, cũng có thể sự vâng lời của con, một số hành động từ con. Nhưng thày chân chính đã thăng vượt tâm thức nhị nguyên cùng bầu cõi chưa thăng thiên, vị ấy không cần gì từ con. Vị ấy muốn con tăng triển và do đó chỉ có thể cho con một con đường mô tả cách duy nhất để tăng triển – từng bước một.

Mỗi bước là một bí ẩn mà con cần phải giải quyết, một ảo tưởng mà con cần phải vượt qua. Đôi khi đệ tử sẽ nghĩ: “À, mục tiêu chót cùng là giải thoát khỏi mọi ảo tưởng, vậy tại sao tôi không thể nhảy lên đó và được tự do? Hãy cho tôi cái sáng ngộ thần kỳ để tôi giác ngộ ngay lập tức.” Nhưng mục đích thật ra không phải là giải thoát khỏi các ảo tưởng. Mục đích là kinh qua tiến trình giải quyết các ảo tưởng, từng cái một, vì chính qua sự giải quyết ảo tưởng mà con mở rộng nhận biết. Điều sẽ mở rộng nhận biết của con không phải là trạng thái tự do khỏi ảo tưởng. Điều sẽ mở rộng nhận biết của con là tiến trình giải quyết ảo tưởng. Đây mới là đường tu đích thực.

Hành trình mới cốt yếu chứ không phải mức đến

Một khi con nắm bắt điểm này, một khi con chấp nhận điều này, con sẽ có thể an bình bước theo con đường tuần tự đó. Con có thể chấp nhận, con có thể đón nhận từng bước mà con đang đi, con có thể tập trung vào cái ảo tưởng hiện tại. Con không phải lo lắng về những ràng buộc cao hơn tầm tay của con. Con chú tâm vào cái ảo tưởng trước mặt, con làm việc với cái bí ẩn này, con nhìn ra ngã tách biệt, con buông bỏ nó xong con vươn lên mức kế tiếp. Con bằng lòng là mình đã vươn đến mức này. Nhưng sau một thời gian con nói: “Đâu là ảo tưởng kế tiếp? Đâu là bí ẩn của tầng này?” Và con lại tập trung vào đó. Và cứ như vậy, con an bình với sự kiện mình sẽ tiếp tục làm vậy chừng nào mình còn hiện thân trên trái đất.

Hãy bước từng bước một, giải quyết từng ảo tưởng một. Và khi con neo chặt vào tiến trình này, khi con ôm lấy nó, con sẽ có thể khắc phục thái độ thiếu hụt, mà qua đó con cảm thấy mình bất toàn khi mình biết là mình chưa đến mục tiêu chót cùng. Thay vào đó, con có thể cảm thấy là con trọn vẹn khi tham gia vào tiến trình. Như người ta thường nói, và câu này phần nào đã trở thành sáo ngữ: “Hành trình mới là cốt yếu chứ không phải mức đến.” Nhưng trong câu đó có một sự thật. Rất rất nhiều người tiếp cận đường tu tâm linh với thái độ thiếu hụt đó cho rằng họ sẽ không bao giờ an bình, sẽ không bao giờ toại nguyện hay viên mãn cho tới khi họ đến được tầng mức tối hậu của giác ngộ.

Hãy trung hòa khi quan sát mọi sự trải bày

Nhưng con có thể xoay chuyển thái độ để con an bình, con toại nguyện khi con đang bước trên đường tu, nhìn thấy tiến trình trải bày, cảm thấy tràn đầy mỗi lần con bước lên một nấc, thậm chí còn cảm thấy tràn đầy ở ngay mức hiện thời của mình, tràn đầy khi con quan sát thế giới qua tầng tâm thức hiện thời của mình.

Con có thể đạt tới điểm con an bình quan sát màn trình diễn của địa cầu đang trải bày ra, con thấy rõ mọi người đang phản ứng như thế nào, thấy rõ mọi người đang làm gì. Con quan sát và không có nhu cầu phán xét, con chỉ quan sát xem một số nhóm người có thể rơi vào đối cực đến chừng nào trước khi những cú giáng của Trường đời Cay đắng mới mạnh đủ để khiến họ chú ý và nhận ra sự cần thiết mình phải thay đổi chính mình. Con có thể quan sát điều này. Con hãy quan sát nó trải bày ra như thể con đang theo dõi một bộ phim hay một vở kịch trên sân khấu.

Cuối cùng thì mục tiêu của bất kỳ vị thày tâm linh nào là các thày mong muốn đệ tử của mình có thể đạt được cùng tầng mức tâm thức, cùng sự nhận biết như các thày. Cuối cùng tất nhiên, thày muốn con, mỗi người trong các con, sẽ thăng thiên và nghiệm được sự tự do cùng niềm vui hiện hữu ở cõi thăng thiên, nhưng thày cũng biết điều này không thực tế.

Cho nên điều thứ nhì mà thày muốn, mà tất cả các thày đều muốn cho đệ tử của mình, là trong khi con còn đầu thai trong thế giới hỗn loạn này, con vẫn có thể đạt được một sự giải quyết nội tâm, một sự an bình nội tâm, một sự chấp nhận nội tâm đối với thế giới mình đang sống, đối với các biến cố đang diễn ra cùng tiến trình nâng cao tâm thức của mình và tham gia vào việc nâng cao thế giới cho gần hơn với thời hoàng kim.

Các thày, các chân sư thăng thiên tìm thấy sự toại nguyện khi góp phần vào tiến trình này. Các thày mong con cũng tìm thấy sự toại nguyện mặc dù các thày cũng biết đối với con sẽ khó khăn hơn khi con còn ở trong sự dày đặc của bốn tầng cõi vật chất. Nhưng dẫu vậy, con có thể đạt được sự giải quyết nội tâm đó khi con ngừng cưỡng lại tiến trình để mà ôm lấy nó. Con đón nhận sự hỗn loạn, con đón nhận các biến chuyển và sự năng động trong môi trường của con.

Khao khát tĩnh lặng

Điều thú vị – và đây là một bí ẩn khác – là sự kiện con đã được Hiện diện TA LÀ của con gửi vào thế gian để cho Hiện diện TA LÀ những trải nghiệm khi bước qua các giai đoạn. Có thể nói là Hiện diện TA LÀ của con an bình hơn, tự tại hơn, trong khi một bầu cõi chưa thăng thiên thì chuyển động theo cách khác. Theo một nghĩa nào đó, con đã được gửi ra khỏi sự tĩnh lặng để bước vào chuyển động, nhưng con vẫn khao khát trở về với tĩnh lặng.

Thày không nói là cõi thăng thiên đứng yên một chỗ, nhưng thày đang cố cho con một sự tương phản có thể diễn tả bằng lời. Con bước ra khỏi tĩnh lặng đi vào một thế giới chuyển động. Con là một sinh thể chuyển động nhưng con lại khao khát tĩnh lặng, và con nghĩ cách duy nhất để đạt được tĩnh lặng là ngừng chuyển động. Nhưng đây là một ảo tưởng. Cách duy nhất để đạt được tĩnh lặng là đón nhận chuyển động và nhìn thấy sự chuyển động chỉ có thể có được nhờ sự hiện hữu của một hậu cảnh tĩnh lặng.

Và khi con hoà điệu vào hậu cảnh đó, con có thể cảm nhận sự an bình cho dù con đang chuyển động. Và đây là điều tất cả các thày đều đã làm được ở các tầng cao hơn của đường tu. Nhưng không có quy luật nào bảo rằng con phải ở các tầng cao hơn của đường tu để đạt được điều đó. Con có thể đạt được điều đó hầu như ở bất kỳ tầng nào trên tầng 48 và chắc chắn khoảng tầng 96. Đây là điều mà Gautama lẫn thày đây mong muốn cho con, rằng con sẽ có được một niềm an bình nào đó khi đang chuyển động.

Với lời này, con nhận được lòng biết ơn của Gautama lẫn của thày vì con đã sẵn lòng làm dụng cụ để tiếp nhận vào tâm mình rồi toả ra tâm tập thể. Các thày mong mỗi cá nhân con đã được lợi lạc. Các thày biết tâm thức tập thể đã được lợi lạc. Việc truyền rải một lời dạy như thế này là một bước quan trọng, không những nó được truyền rải vào cõi vật lý mà vào cả bốn tầng của vũ trụ vật chất.

Với lời này và lòng biết ơn sâu xa, cả Gautama lẫn thày niêm các con trong sự bình an mà các thày là. So với mọi người trên trái đất thì các thày an bình nhưng các thày vẫn chuyển động, bởi vì ngay cả trên cõi thăng thiên cũng có sự tự thăng vượt, và các thày đón nhận tiến trình này.

Các con được niêm trong sự chuyển động của an bình, sự chuyển động bình an.


* Cho năm nay, chúng ta sẽ dùng cùng hình tư tưởng Mặt trời như năm ngoái:

Phật Gautama, thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất.”

Saint Germain, thày là tấm gương tuyệt hảo cho nền kinh tế.”

Mẹ Mary, thày là tấm gương tuyệt hảo cho phụ nữ.”

Buông mọi ý niệm nghĩa vụ đối với địa cầu

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên PadmaSambhava qua trung gian Kim Michaels ngày 10/10/2022. Bài giảng này được ban truyền nhân dịp Webinar 2022 cho Hoa Kỳ – Khôi phục nn dân chủ.

TA LÀ chân sư PadmaSambhava. TA LÀ một Đạo sư Kim cương (Vajra Guru). Điều này biểu thị ta đã đạt đến một mức quả vị Phật với quyền ở đây trên trái đất, giảng dạy trên trái đất. Ta không thường phát biểu theo cách này nhưng ta muốn nhân cơ hội này trao cho con một lời giảng có thể đem lại lợi lạc cho con.

Thày Astrea đã trình bày về khả năng bị ghiền một sự kích thích nào đó trên địa cầu. Là một người đang bước đi trên con đường quả vị Ki-tô, con vươn lên khỏi các thói nghiện ngập đối với những thứ của thế gian. Nhưng có thể con vẫn gần như bị ghiền việc giải quyết các vấn đề, giải quyết mọi chuyện trong tâm hồn, trong tâm lý của con.

Xu hướng tập trung vào các vấn đề

Ta muốn cho con một hình ảnh. Có một phong cảnh bao la, một đồng bằng rộng lớn với đồi núi bao quanh trải dài đến chân trời xa tắp. Bên trên là bầu trời xanh bát ngát có mặt trời sáng rỡ tuyệt đẹp. Dưới đất ngay giữa đồng bằng rộng lớn đó có một người đang đứng. Trên đầu người đó là một đám mây đen rất nhỏ. Và y ngước mắt nhìn lên đám mây rồi bảo: “Ồ, xem mây đen kia kìa, chắc chắn thế giới sắp đến ngày tận thế”. Y hoàn toàn không để ý gì đến cảnh vật bao la, đến bầu trời xanh ngắt và ánh nắng tươi sáng, mà chỉ chú tâm vào đám mây đen.

Ta biết rất rõ – chúng ta đều biết rất rõ – rất nhiều giáo lý mà các thày đã ban ra, đặc biệt qua trung gian vị sứ giả này, về việc giải quyết tâm lý, khắc phục chấn thương nhập đời cùng giải thể các ngã tách biệt của con, có thể gần như choáng ngợp đối với con. Như một số các con có bày tỏ, con cảm thấy gần như vô vọng, gần như không có cách nào nhìn hết được những khía cạnh thâm sâu đó của tâm lý mình. Nhưng một số khác đã đạt được kết quả đáng kể, và con nhận ra là con đã giải quyết nhiều cái ngã, nhiều vết thương, nhiều vận đề trong tâm lý mình.      

Sứ giả này đã bước trên đường tu suốt hơn 45 năm qua. Đã có một giai đoạn trong thập niên 1990 khi ông thường xuyên có ý nghĩ: “Tôi đã nhìn ra và đã giải quyết quá nhiều chuyện trong tâm lý của tôi, nhưng những chuyện mới cứ không ngừng xuất hiện. Đến bao giờ mới hết đây?” Và tất nhiên, ông vẫn còn tìm kiếm các vấn đề trong tâm lý của ông. Nhưng từ khá lâu nay, ông chỉ đơn giản mở tâm ra quan sát rồi giải quyết chúng. Ông không tập trung vào chúng. Ông không bị chúng đè nặng. Chúng không lấy đi sự an bình của ông. Chúng không khiến ông bực dọc.

Điều ta muốn nói ở đây là đặc biệt trong cương vị một avatar, con đã đến địa cầu với ý định tạo ra một sự thay đổi tích cực, cho dù con đã nhìn việc đó như thế nào trước khi con đến, con đã thay đổi cách nhìn của con như thế nào, con đã thay đổi phương thức hoạt động của con như thế nào sau khi con đến hiện thân ở đây. Nhưng con vẫn còn mang một cách nhìn nào đó về lý do tại sao con ở đây, những gì con định bụng sẽ làm hay sẽ hoàn thành. Và cái nhìn này có thể cho con một xu hướng tập trung vào các vấn đề, tập trung vào những gì chưa được giải quyết. Và con giống như anh chàng kia đứng giữa phong cảnh bao la mà không ngắm phong cảnh, chỉ lo chú mục vào đám mây đen nhỏ xíu trên đầu mình.

Đúng, con có thể còn sót một số vấn đề tâm lý chưa giải quyết. Đúng, như các thày đã nói, vẫn còn một số ảo tưởng mà con cần nhìn xuyên thấu trước khi con thăng thiên. Nhưng nếu như những điều còn sót lại không nhiều như con tưởng thì sao? Nếu như con đã giải quyết xong phần lớn những gì con cần giải quyết nhưng con không nhìn ra điều này, con không công nhận điều này vì con quá tập trung vào vấn đề kế tiếp? Gần như con ghiền chuyện giải quyết các vấn đề, ghiền cảm giác kích thích mà nó cho con mỗi khi con giải quyết hay chú tâm vào vấn đề.

Một lần nữa, ta không đang bảo con phải ngừng giải quyết tâm lý của con. Ta chỉ nói là thỉnh thoảng con hãy bước lui lại, và con tiếp tục bước lui lại cho đến khi con nhìn xa hơn đám mây đen kia trên đầu mình và thấy được quang cảnh rộng lớn, bầu trời xanh tươi của tâm hồn con, thấy được mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con đang toả ánh nắng, và cảm thấy hơi ấm của Hiện diện TA LÀ đang chiếu rọi trên con.

Nhìn nhận mình đã có tiến bộ

Các thày đã trao cho con rất nhiều lời dạy về tâm thức nhị nguyên. Nhưng ta tự hỏi không hiểu con đã nắm bắt được một khía cạnh của những lời dạy đó và áp dụng trên bản thân mình hay chưa? Các thày đã nói đến sự cân bằng, nói đến Con đường Trung đạo, không đi về đối cực nhị nguyên này lẫn đối cực nhị nguyên kia. Nhưng các thày cũng đã nói là tâm thức nhị nguyên có khả năng chụp lấy bất kỳ lời nào của một vị thày tâm linh và khiến nó trở nên mất quân bình. Liệu con đã hoàn toàn nắm bắt là khi các thày trao cho con một giáo lý, thì sẽ có một cái ngã tách biệt trong tâm con – thậm chí cả các tà lực ở ngoài tâm con – sẽ kéo con vào cực đoan đối chọi, hoặc cái mà tâm nhị nguyên xem là cực đoan đối chọi?

Các thày đã khá nhiều lần đề cập đến các đệ tử bước vào đường tu, đã đến với các chân sư thăng thiên vì họ muốn cảm thấy mình đặc biệt. Họ muốn cảm thấy họ đã tiến xa hơn các đệ tử khác, thậm chí còn là đệ tử tâm linh cao cấp nhất trên hành tinh. Nhiều các con đã nhận các giáo lý này và quyết định là con muốn khắc phục xu hướng nói trên nếu con đang mang xu hướng đó, hoặc con không muốn rơi vào xu hướng đó. Nhưng lại có một cái ngã trong tâm con bảo rằng, để tránh cảm thấy mình đặc biệt, con phải tránh không được cảm thấy bất cứ gì về mình. Nói cách khác, con không được phép công nhận mức chứng đạt của mình, công nhận những gì mình đã giải quyết trong tâm lý bởi vì làm vậy có thể khiến con kiêu mạn.

Có một cái ngã muốn con cảm thấy kiêu mạn và cũng có một cái ngã bảo con không được kiêu mạn và do đó con không được công nhận bước tiến của mình. Nhưng con đường quả vị Ki-tô là gì chứ? Đó là con đường tiến bước, tự thăng vượt. Nếu con không công nhận mức tự thăng vượt của mình thì con sẽ rơi vào một vùng hoang địa nơi con sợ cảm thấy kiêu mạn đến độ con không dám công nhận mình đã thật sự có tiến bộ, mình đã đạt tới một mức nào đó. Đây chính là tác động của tâm thức nhị nguyên trên những ngã này.

Bây giờ con hãy quan sát bản thân. Con có thể nhìn vào sự kiện này. Con có xu hướng gì khi con nghe ta trình bày những điều trên? Con có thể cảm thấy những loại ngã nào? Xong con có thể sử dụng các dụng cụ của các thày để làm việc trên điểm này, khắc phục những cái ngã đó cho tới khi con đạt tới điểm con buông được nhu cầu cảm thấy mình đặc biệt, mình cao trội, mình kiêu mạn. Và như vậy con cũng buông luôn cái ngã cho con sự khiêm tốn giả tạo, sự nhún nhường giả tạo không muốn công nhận bước tiến của mình. Con có thể đơn giản buông chúng ra và nhờ vậy trụ trong một tâm thái trung hòa nơi con có thể nhận diện, con có thể nhìn lại con đường của mình và nói: “Thật ra tôi đã đi được nhiều bước trên con đường của tôi. Tôi đã kinh qua nhiều trải nghiệm. Tôi đã nhìn ra nhiều điều trong tâm lý của tôi. Tôi đã giải quyết được nhiều chuyện. Tôi thực sự đã có tiến bộ.” Không phải là con tự hào mà con cảm thấy vui mừng.

Và tại sao con lại không được cảm thấy ngày càng vui hơn khi con bước cao hơn trên đường tu chứ? Tâm Ki-tô vốn hoan hỉ. Tâm Ki-tô không nghiêm nghị như quá nhiều người vẫn tưởng vậy, thậm chí nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên lẫn nhiều tín hữu Cơ đốc giáo vẫn tưởng rằng Ki-tô thật nghiêm trang, Thượng đế thật nghiêm trang. Ki-tô vốn vui mừng. Tại sao con không có quyền cho phép mình vui mừng khi con đã có chứng đạt trên đường tu? Đây không phải là một niềm vui nghịch với đối cực ngược lại, không phải là hạnh phúc nghịch với sự bất hạnh theo một định nghĩa nhân thế nào đó. Mà đây là niềm vui vượt khỏi cặp đối cực phàm phu, vượt khỏi mọi nhị nguyên và phân cực. Con có quyền cảm thấy niềm vui này. Tại sao không cho phép mình cảm thấy nó, ghi nhận nó?

Con đường Thương khó

Các thày chưa bao giờ bảo rằng con đường dẫn đến quả vị Ki-tô là Con đường Thương khó (Via Dolorosa). Không, các thày đã nói điều ngược lại. Ai đã chế ra Con đường Thương khó, ai đã chế ra toàn bộ khái niệm này? À, tất nhiên là sa nhân rồi. Chúng muốn vắt kiệt niềm vui khỏi mọi người đến độ người ta không thể mua được cái ảo tưởng phổ biến trong đạo Cơ đốc về con đường cứu rỗi tự động: Con hãy đi lễ nhà thờ, hãy tuân theo các luật lệ và quy tắc, hãy tin vào giáo điều thì con sẽ tự động được cứu rỗi. Luôn luôn có những người muốn nhiều hơn, thế là sa nhân dựng lên khái niệm bảo rằng đây là con đường hy sinh, đây là con đường đau đớn, cho nên không hề có niềm vui nào trên con đường của các vị thánh.

À, tất nhiên khi con có một giáo hội đặt nền tảng trên tâm thức của Peter và tâm thức của phản Ki-tô, thì làm sao có niềm vui được? Làm sao những người lãnh đạo giáo hội đó cảm thấy vui mừng? Và nếu các lãnh đạo không vui mừng thì tại sao bất cứ ai khác trong giáo hội lại vui được? Nói cho cùng, bản chất con là một kẻ có tội. Làm sao con có thể cho phép mình vui sướng khi con là một kẻ tội đồ khốn nạn đúng lý phải ăn năn xấu hổ chỉ vì mình đang tồn tại? Tất cả thật là vô lý. Vô lý. Con hãy buông nó ra. Hãy nhận diện những cái ngã đó, nhìn thẳng vào mặt chúng và bảo: “Mi không phải là ta. Ta không phải là mi. Ta không muốn mi nữa. Ta để cho mi chết đây.” Đây chính là những gì Ki-tô muốn nói khi thày bảo: “Ai sẵn sàng vì ta bỏ đời sống, sẽ tìm thấy sự sống.” Con sẽ tìm thấy một dạng sống cao hơn vượt khỏi những cái ngã tách biệt đó.

Lý do đưa con đến địa cầu

Khi con nhìn lịch sử, nhìn vào ngày hôm nay, phải nói là những gì loài người có thể tin được thật đáng kinh ngạc. Bao nhiêu dối trá, bao nhiêu ảo tưởng mà con người đã có thể tin theo, thật không thể nào ngờ được. Đối với một chân sư thăng thiên thì không đến nỗi nào, vì các thày đã chứng kiến đủ mọi chuyện. Tuy nhiên vẫn là một khối lượng lừa dối và ảo tưởng khó tin. Con người có khả năng tin những chuyện đó, thậm chí còn tin rằng chúng diễn tả một chân lý nào đó, hay chúng đã được ban ra bởi Thượng đế, hay bởi đức Phật, hay Krishna, hay Ki-tô, hay bất kỳ thẩm quyền nào mà họ nhìn thấy. Con hãy nhìn vào đó và nhận diện đó là chuyến hồ đồ, vô lý. Xong con chỉ đơn giản buông nó ra.

Có lẽ con có thể nhận diện một cái ngã mà hầu hết mọi avatar đều có, và các con đã mang ngã này ngay từ lúc đầu thai. Đó là hệ quả của sự kiện con đến đây với lòng mong muốn giúp đỡ mọi người, tạo cuộc thay đổi. Để giúp người khác, con cảm thấy con phải lắng nghe họ, phải nhạy bén với họ. Con gặp những người tin vào các dối trá đó hay con gặp sa nhân và con nghĩ: “Tôi nên để ý và quan tâm những gì họ nói. Tôi nên mở tâm lắng nghe họ.” Con bắt đầu hấp thụ, con cảm thấy một nghĩa vụ. Khi sa nhân ném cho con một ý tưởng sai lầm, con cảm thấy mình có bổn phận xem xét nó: “Không hiểu trong lời nói này có gì đáng xem xét chăng? Có thể nào đó là sự thật?” Con thấy chuyện này xảy ra ngay cả trong câu chuyện Vườn Eden khi Eva cảm thấy bắt buộc phải lắng nghe lời nói của rắn và cân nhắc xem nó nói gì. Là một avatar, sẽ tới điểm con cần nhìn vào sự kiện này. Con cần nhìn xem con có cảm thấy nghĩa vụ nào đối với trái đất, đối với người khác, thậm chí đối với cả sa nhân. Và con cần bác bỏ ngã đó và để cho nó chết hầu con có thể nhìn nhận: “Tôi không bắt buộc phải làm bất cứ gì trên địa cầu. Tôi không có nghĩa vụ gì trên địa cầu.”

Bây giờ, để đi muốt toàn bộ tiến trình này, có thể con sẽ phải xét xem những gì đã đưa con đến trái đất, những gì con muốn thực hiện, những gì con muốn hoàn tất, vì đó chính là cái đã cho con cảm giác nghĩa vụ. Con muốn hoàn thành một điều gì đó và để làm vậy, con có bổn phận ra tay. Con cảm thấy mắc kẹt, vướng víu vì con đã nghiệm thấy là khi con làm những gì con nghĩ mình có bổn phận phải làm, thì thật ra con không đạt được kết quả con muốn. Vậy con có chọn lựa nào không?

Nhiều người hết kiếp này tới kiếp khác cứ cố đẩy tới, cố tìm cách thị hiện được kết quả mong muốn. Nhưng chỉ có một lối thoát duy nhất khỏi sự khó xử này, điều bí ẩn này, tình trạng tiến thoái lưỡng nan này, đó là nghĩ xem có phải con đã thiếu cố gắng? Không, vấn đề có thể nằm ngay ở mục tiêu của con. Và có thể con sẽ phải xét lại chính cái lý do đã đưa con đến địa cầu, ngộ ra nó không là cao nhất. Nó là một sản phẩm của mức tâm thức mà con đã có vào thuở đó. Nhưng giờ đây con đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn thì con có khả năng nhìn vào nó, tái xét nó, và con buông nó ra. Buông nó ra!

Vị sứ giả này đã làm việc trên vấn đề này được năm sáu năm từ khi các thày ban truyền các giáo lý về ngã tách biệt. Ông đã mô tả bước đột phá quan trọng đầu tiên mà ông có được khi ông nhận ra: “Tôi không phải làm gì trên trái đất.” Nhưng kể từ đó, ông đã có thêm nhiều đột phá khác liên quan đến điểm này – tại sao ông có mặt trên địa cầu, ông xem vai trò của mình là gì, muc tiêu của mình là gì khi ở đây – và ông đã sẵn lòng cứu xét lại tất cả. Việc này vượt khỏi chấn thương nhập đời vì nó được định đoạt trước khi con gặp phải chấn thương nhập đời.

Đó là những gì con đã đem theo con từ một hành tinh tự nhiên, những gì đã đưa con đến đây từ một hành tinh tự nhiên. Và đây là bước kế tiếp sau khi con giải quyết chấn thương nhập đời, là con xem xét các khía cạnh sâu sắc hơn, chẳng hạn như: Tại sao con lại có mặt ở đây? Bởi vì nếu con không giải quyết chuyện này thì làm sao con sẽ rời được nơi đây? Làm sao con có thể thăng thiên? Làm sao con có thể đứng đó trước cánh cổng, nhìn lại trái đất một lần chót và tìm xem còn điều gì níu con ở lại? Làm sao con có thể nhìn quỷ Mara đang cố kéo con vào một phản ứng mà vẫn không phản ứng lại? Chỉ khi nào con cảm thấy con không còn việc gì cần làm trên trái đất thì con mới có thể tránh không phản ứng lại bất kỳ điều kiện nào trên trái đất.

Một số các con chưa đạt tới mức sẵn sàng với lời dạy này. Nhưng ta muốn đem nó vào cõi vật lý để những ai đã sẵn sàng có thể tiếp nhận được, và những ai sẽ sẵn sàng trong tương lai có thể tìm thấy và đọc được. Và với tư cách một Đạo sư Kim cương, ta có quyền đem lại bất kỳ giáo lý nào ta muốn khi có cánh cửa mở ra cho giáo lý đi vào. Và như vậy, ta nói Vajra, Vajra, Vajra. PadmaSambhava TA LÀ.

Hãy buông cái cũ!

Bài giảng của chân sư thăng thiên PadmaSambhava qua trung gian Kim Michaels ngày 1/10/2021, nhân dịp Webinar 2021 cho Hàn quốc – Là Cánh cửa Mở cho Địa cầu. 

TA LÀ chân sư thăng thiên PadmaSambhava.

Ta là Phật PadmaSambhava. Ta là Vajra Guru PadmaSambhava. Có thực tế, có huyền thoại. Có sự thật, có hư cấu. Có một sự tạo dựng công phu trong Phật giáo Tây tạng và các dạng khác của Phật giáo chung quanh PadmaSambhava – danh tính của PadmaSambhava, PadmaSambhava là ai, làm gì, hiện ra lúc nào, hiện ra như thế nào, khoác lấy những thị hiện nào, vân vân và vân vân.

Lần xuất hiện của PadmaSambhava

Nếu con nhìn vào khối tài liệu công phu, rất công phu này, con phải nói rằng phần rất lớn đều là hư cấu, là huyền thoại. Điều này không có nghĩa là nó hoàn toàn vô dụng theo nghĩa là xuyên qua các thời đại, đã có những người đã dùng được tài liệu đó một cách xây dựng. Nhưng cũng có rất nhiều người, thật ra là tuyệt đại đa số đã bị mắc kẹt trong hình dạng vỏ ngoài của tài liệu, rồi đã tập trung vào hình dạng vỏ ngoài này và không thể nhìn xa hơn.

Tất nhiên, đây là thách đố mà chúng tôi là các chân sư thăng thiên, những sinh thể tâm linh, phải đối diện, đã từng và sẽ phải đối diện trên một hành tinh phi tự nhiên. Chúng tôi sẽ phải đối diện với điều này chừng nào địa cầu còn là một hành tinh phi tự nhiên, bởi vì khi đó sẽ còn có rào cản, còn có khoảng cách khiến cho con không thể nhận thức được trực tiếp rằng vật chất là một dạng năng lượng và cõi vật chất không tách biệt khỏi cõi tâm linh, mà là sự biểu hiện của cõi tâm linh, sự nối dài của cõi tâm linh, sự hiện thân của cõi tâm linh.

Vì thế con mới tìm đến một số huyền thoại cùng ý tưởng đã được tạo dựng, và con thấy có một truyền thống bảo rằng đức Phật Gautama – hay Thích ca Mâu ni như danh tính được sử dụng trong các truyền thống này – đã thấy trước sự xuất hiện của PadmaSambhava. Một số truyền thống cho rằng Gautama thấy trước sự xuất hiện của một vị Phật tương lai còn giác ngộ hơn cả chính mình. Nhưng khi các truyền thống đó cũng nói rằng Gautama đã hoàn toàn giác ngộ thì làm sao có ai có thể giác ngộ hoàn toàn hơn được, cho nên đó không thể là ý nghĩa thực sự. Nhưng đó cũng cho thấy PadmaSambhava quan trọng như thế nào trong tâm của đức Phật. Đây là một ví dụ điển hình của cái tâm đường thẳng khi nó chụp lấy những khái niệm tâm linh rồi cố biến thành sự thật đường thẳng để tâm có thể nắm bắt và điều khiển.  

Đâu là sự thật? Sự thật là Gautama là một sinh thể đã khoác lấy hiện thân vật lý. Con là đệ tử của chân sư thăng thiên đã được dạy rằng Gautama đã đầu thai lần đầu trên địa cầu cách đây rất lâu, rằng thày đã bước xuống tâm thức nhị nguyên, đã bị mắc kẹt và chìm đắm trong nhị nguyên, nhưng sau nhiều kiếp đã bắt đầu thức tỉnh khỏi nhị nguyên. Sau thêm nhiều kiếp nữa, thày đã đạt được mức tâm thức hội mọi điều kiện để thày đầu thai lần chót và trở thành Phật – vì trong kiếp đó, thày đã đắc quả vị Phật. Như vậy, Gautama là một tấm gương cho tất cả nhân loại noi theo, là tấm gương chứng tỏ mọi người đều có khả năng giác ngộ. Tại sao như vậy? Vì mọi thứ đều mang sẵn Phật tánh nơi mình. Cho nên mỗi người đều có tiềm năng đạt được trạng thái tâm thức mà Gautama gọi là quả vị Phật, hay niết bàn, hay giác ngộ.  

Như vậy thì Gautama đúng ra phải là một tấm gương. Nhưng tâm đường thẳng đã biến Gautama thành gì? Phải, tâm đường thẳng muốn so sánh. Không một tôn giáo nào xuất hiện trong hư không, cho nên Phật giáo cũng đã xuất hiện trong một quốc gia, trong một truyền thống tâm linh, trong một vùng nằm dưới ảnh hưởng của Ấn giáo và đã từng bị tư duy Ấn giáo chi phối từ rất lâu. Đối với Ấn giáo, Gautama cống hiến một chọn lựa mới, nhưng tâm đường thẳng của những người sau này tự xưng mình là tín đồ của Gautama lại muốn so sánh Phật giáo với Ấn giáo. So sánh nghĩa là gì? Là phải tốt hơn, phải cao hơn, phải tiến bộ hơn Ấn giáo.

Vì thế họ mới tạo ra huyền thoại rằng Gautama không chỉ là một người đã vươn lên đến quả vị Phật sau nhiều kiếp đầu thai. Gautama phải thật đặc biệt ngay từ khi sinh ra, thậm chí có thể là chưa từng đầu thai bao giờ như người ta vẫn nói, mà đã sẵn hiện thân như một đấng giác ngộ.

Và Gautama vô cùng đặc biệt trong cách chào đời, có cả phép lạ chung quanh ngày đản sanh của thày, y như những phép lạ đã bao quanh ngày Giê-su ra đời và nhiều chuyện như thế. Vậy thì tâm đường thẳng đã làm gì với tấm gương của Phật? Nó đã khiến cho tấm gương này trở nên vô giá trị và vô hiệu lực, bởi vì giờ đây Gautama đặc biệt đến độ không ai còn có thể noi gương và sánh bước được với thày. Hoặc là con phải sinh ra sẵn như vậy, hoặc con không thể hy vọng đạt được cùng tâm thức như Gautama.

Thế là do muốn đạo Phật cao trọng hơn đạo Ấn – thậm chí là tôn giáo tối hậu – Gautama nhất định phải là đấng giác ngộ tối thượng, nhất định phải hoàn toàn giác ngộ. Cho nên khi chính Gautama nói rằng có một người đến sau sẽ giác ngộ hơn mình, tâm đường thẳng không thể nào chấp nhận lời tuyên bố đó, vì nó chỉ biết nhìn vào giác ngộ duy một cách mà thôi. Trong cách nhìn này, nếu đức Phật là vị thày tâm linh tối thượng thì bắt buộc thày đã phải đạt mức tâm thức cao nhất. Nhưng sự thật, tất nhiên, là trong cách giải thích giản dị nhất, giác ngộ có nghĩa là một người đã đạt đến mức tâm thức cao nhất có thể có trên địa cầu, và ở trên mức này hiển nhiên là cõi thăng thiên.

Nơi cõi thăng thiên có một chuỗi rất dài, trải ra từ các hành tinh liên hệ với bầu cõi chưa thăng thiên hiện nay, cho đến những bầu cõi cao hơn từng có trước đây mà chúng tôi đã có nói đến. Cho nên có rất, rất, rất, rất nhiều, thật ra là có vô số sinh thể trong cõi thăng thiên với tâm thức cao hơn nhiều và do đó cao hơn hẳn mức giác ngộ mà Gautama đã chứng đạt trong kiếp chót của thày – hay mức chứng đạt của Giê-su trong kiếp chót của Giê-su. Chuỗi này trải mãi lên tới tận mức tâm thức viên mãn của Đấng Sáng tạo, và cao hơn nữa, tâm thức vẫn còn có khả năng thăng vượt lên. Và như thế, ngay từ buổi đầu của huyền thoại về sự xuất hiện của PadmaSambhava, đã có một sự hiểu lầm len lỏi vào cách diễn giải.

Vậy đâu là sự thật? Sự thật là mọi thứ đều có một khía cạnh Alpha và một khía cạnh Omega. Khía cạnh Omega mà các chân sư có thể thực hiện từ cõi tâm linh là qua trung gian một sự hiện thân trong kiếp đầu thai. Sau khi đã đạt tới một mức tâm thức cao trong tiền kiếp, một người có thể đầu thai, và trong kiếp đầu thai chót, người đó chứng ngộ mức tâm thức cao nhất có thể được chứng ngộ trên địa cầu, hay ít ra một mức tâm thức vô cùng cao, và sau đó thì người đó thăng thiên. Đây là khía cạnh Omega, và đúng thật có một sự đầu thai vật lý.

Khía cạnh Alpha có nghĩa là trong một số hoàn cảnh, một số điều kiện, một chân sư thăng thiên có thể được phép hiện ra trước mặt loài người đang đầu thai. Đây không phải là đầu thai. PadmaSambhava là một sự xuất hiện chứ không đầu thai. Ta đã không đầu thai trong một thân xác vật lý. Ta đã không khoác vào một cơ thể vật lý (như một số chân sư thăng thiên đã làm trong một số dịp hiếm hoi). Sự xuất hiện của ta hoàn toàn tâm linh – nghĩa là sao? Nghĩa là không thể nhìn thấy bằng mắt thịt. Hầu hết những ai đã từng tiếp xúc với ngoại hình của ta sẽ không thể nhìn thấy ta. Có thể có hai người đứng ngay cạnh nhau, nhưng một người sẽ không thấy điều gì lạ trong khi người kia sẽ thấy được – hay đúng hơn, chiêm nghiệm được – sự xuất hiện của PadmaSambhava.

Mục đích là để làm gì? Để trưng bày sự tiến bộ tâm linh xảy ra như thế nào trên địa cầu. Tiến bộ xảy ra qua sự hiện thân vật lý, qua trung gian tiến trình mà ngày nay gọi là sự tiết lộ tuần tự, hay tiết lộ liên tục. Nếu con xem kỹ những gì Phật đã nói, thì Phật nhìn nhận sự cần thiết của một tiến trình truyền pháp tuần tự và liên tục. Thày đã đến để đem lại một giáo lý, một chân lý nhất định, nhưng sẽ có một vị thày cao hơn đến sau, một chân sư thăng thiên sẽ đến để đem lại một chân lý cao hơn cả những gì mà Gautama đã được phép đưa ra trong hoàn cảnh tâm thức tập thể thời đó. Sự truyền pháp đã luôn luôn xảy ra như vậy.

Cho nên, sự thật ở đây là ta là PadmaSambhava, ta đã từng là và hiện đang là một chân sư thăng thiên. Sự kiện ta đã thăng thiên ở đâu và vào thời nào không liên quan gì đến cuộc thảo luận hôm nay, nhưng nó đã xảy ra cách đây rất lâu nơi một thiên hà xa, rất xa. Và ta đã xuất hiện trên địa cầu như một sinh thể thăng thiên, một chân sư thăng thiên. Thời đó chưa dùng cách gọi này nhưng đó là điều đã xảy ra.

Nhu cầu đổi mới mọi lãnh vực xã hội

Khái niệm mà ta đã đến để truyền giảng là sự kiện có một số giáo lý bí truyền (terma) chỉ có thể được khám phá bởi những đệ tử đã tự dọn mình để mà tìm thấy (tertons). Thời nay, người ta sẽ diễn tả như sau: Có những giáo lý được tiết lộ từ cõi thăng thiên nhưng chưa đi xuống cõi vật lý, không được viết ra thành chữ, không được thốt ra thành lời bởi một vị sứ giả đang đầu thai. Những giáo lý này tuyệt đối chỉ hiện hữu nơi cõi bản sắc, và chỉ những ai đã nâng tâm thức mình lên tới mức đó và đã hòa điệu trực tiếp thì mới có thể nắm bắt mà thôi.

Vậy có một vị thày giác ngộ xuất hiện trong một hình dạng vật lý, giảng dạy một số giáo lý. Mục tiêu của giáo lý này có hai khía cạnh. Trước hết như trong trường hợp của Giê-su giảng dạy cho số đông qua ngụ ngôn, một số giáo lý được đưa ra cho quần chúng rộng lớn chưa sẵn sàng nhận giáo lý cao hơn, để cho họ một cái gì đó mà nhắm hướng, để họ sử dụng hầu nâng cao tâm thức nếu họ muốn. Nhưng song song còn có một giáo lý cao hơn, như Giê-su đã giải thích mọi điều cho môn đồ khi thày gặp riêng, và cũng vậy, Gautama đã giải thích mọi điều cho đệ tử của thày khi thày ngồi riêng với họ và chỉ có mặt những người sẵn sàng tiếp nhận giáo lý cao hơn. 

Nhưng xa hơn, cả Giê-su lẫn Gautama đều công nhận là sẽ có những vị thày khác cao hơn, như Giê-su có nói, “Ta sẽ cầu nguyện Cha để ngài gửi xuống một vị An ủi khác,” vân vân. Cho nên tiến trình tiết lộ tuần tự và liên tục này đã luôn luôn hiện hữu cho những ai có khả năng và sẵn lòng nâng cao tâm thức mình để nắm bắt lấy.

Đâu là kết quả mà chúng tôi muốn nhìn thấy qua sự tiết lộ mà chúng tôi đã trao truyền qua sứ giả này? Phải, chúng tôi muốn thấy ít nhất có những đệ tử sẽ lấy các giáo lý vỏ ngoài được ban truyền, rồi vượt xa hơn để nắm bắt những gì chúng tôi trao trực tiếp từ cõi thăng thiên hầu họ không cần đến trung gian của một sứ giả nữa.

Có thể nói đây là một cơ hội có một không hai, vì trong suốt bao nhiêu thời đại, đa số sứ giả đã bám mắc vào địa vị của mình, bám mắc vào giáo lý vỏ ngoài mà họ truyền đạt và muốn nó có vẻ như cao nhất. Nhưng vì sứ giả này đã thăng vượt nhu cầu đó, cho nên chúng tôi có thể nói công khai và rõ ràng rằng hiển nhiên, mục đích của chúng tôi là mọi đệ tử sẽ không phải lệ thuộc vào sứ giả này trong cõi vật lý khi họ muốn tiếp xúc với chúng tôi, các chân sư thăng thiên. Chúng tôi mong muốn đệ tử, càng nhiều càng tốt, có thể liên lạc trực tiếp với chúng tôi.

Điều này không có nghĩa là tất cả các con sẽ bắt đầu nhận bài truyền đọc hay đưa ra giáo lý cạnh tranh với sứ giả này, vì như vậy sẽ chỉ gây lộn xộn, mà nó có nghĩa là rất nhiều người trong số các con có tiềm năng nhận được trực tiếp điều gì đó từ chúng tôi, mà con có thể sử dụng để khai sáng một lãnh vực đặc thù nơi con có kinh nghiệm và hiểu biết chuyên môn. Chẳng hạn, điều này áp dụng cho mọi tôn giáo, vì mọi tôn giáo đang đều có nhu cầu đổi mới to lớn. Nếu con lấy Phật giáo, con sẽ thấy đạo Phật nói chung đã đi qua cùng một tiến trình giống như đạo Ấn, nghĩa là đã trở nên mê mải, cuốn hút vào trong những dạng vỏ ngoài của giáo lý. Hiển nhiên, đây không bao giờ là ý định. Sự tập trung vào hình tướng vỏ ngoài không phải là mục đích của giáo lý – sự thăng vượt hình tướng vỏ ngoài mới là mục đích của giáo lý. 

Và như vậy, một số các con đã kinh nghiệm đạo Phật cùng một số dạng của đạo Phật, như Thiền tông và một số nữa, và các con có tiềm năng đem lại sự đổi mới. Giáo lý mà sứ giả này trao cho con có thể giúp con mở tâm ra, nhưng một số các con có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết về Phật giáo hơn sứ giả này rất nhiều. Cho nên con có khả năng bày tỏ, có khả năng tiếp nhận từ chúng tôi những tư tưởng cùng lời dạy mà sứ giả này không thể nhận được trừ khi ông bỏ ra rất nhiều thời gian để tìm hiểu, và điều này thì chúng tôi không thật sự muốn ông làm. Tất nhiên, vấn đề cũng tương tự như vậy đối với đạo Cơ đốc, đạo Ấn, đạo Hồi, hay nhiều lãnh vực khác trong xã hội.

Hiển nhiên cũng phải nói tới khoa học, nơi nhu cầu đổi mới cũng rất lớn, và một số các con đã được đào tạo làm nhà khoa học. Các con có tiềm năng nhận được từ chúng tôi. Điều này không có nghĩa là giờ đây con sẽ đứng ra nói: “Tôi là một nhà vật lý nhưng tôi tin vào chân sư thăng thiên.” Không, con chỉ cần đưa ra các ý tưởng đó như thể là ý tưởng của con, đến từ cảm hứng của con. Bởi vì điều quan trọng là phải đưa ra được ý tưởng. Điều này cũng sẽ nhẹ nhõm hơn cho hầu hết các con, vì hiện nay có một sự chống đối, kháng cự, đối với ý tưởng chân sư thăng thiên cũng như việc làm sứ giả cho chân sư, như vị sứ giả này đã phải đối phó ngay từ buổi đầu. Và cũng sẽ dễ dàng hơn cho con vì con không phải nói rõ ý tưởng đến từ đâu – con chỉ việc trình bày và để yên cho ý tưởng làm công việc của ý tưởng. Cho nên quả thực là trong mọi lãnh vực của xã hội, giáo dục, chữa bệnh, văn hóa, triết lý, bất cứ khía cạnh nào của xã hội cũng đều mang tiềm năng đó.

Cách đây rất lâu, ta đã đưa ra khái niệm về một số người làm thợ săn châu báu. Họ đi tìm những kho báu ẩn tàng này. Nhiều người trong đạo Phật đã diễn giải là những kho báu trong cõi vật lý mà người ta có thể phát hiện ra, hay thậm chí là một quyển kinh cụ thể được khám phá trong một hang động bí mật trên núi Himalaya và bỗng nhiên mở ra trước mặt họ. Kho báu hoàn toàn không có nghĩa là vậy. Đó là một lời dạy, một lời dạy được nhận thẳng từ cõi thăng thiên, thường không nói thành lời nhưng đôi khi cũng được nói thành lời. Đây là vai trò mà chúng tôi muốn nhìn thấy nơi đệ tử của chúng tôi, càng nhiều càng tốt.

Sẽ không có nghĩa là con cần phải tách ra khỏi sứ giả này, coi thường sứ giả này, tấn công ông, chứng minh là ông sai, hay này kia nọ. Mà sẽ chỉ có nghĩa là con nhận ra ở đây có một tiềm năng để con bước vào bên trong, sử dụng giáo lý vỏ ngoài để thiết lập sự kết nối nội tâm và nhận được một điều gì đó từ chúng tôi.

Vậy chính xác có nghĩa là gì? Chúng tôi chẳng đã có sáng kiến như vậy trong các đợt truyền pháp trước hay sao? Tất nhiên là có. Nhưng tiếc thay, nhiều người trong các đợt trước đã diễn giải điều này theo một cách riêng. Họ diễn giải là họ đã sẵn sàng tiếp nhận những ý tưởng đó, và mỗi khi họ nghe về một ý tưởng thì chắc hẳn là vì họ đã sẵn sàng tiếp nhận ý tưởng này. Cho nên họ cho rằng họ chỉ cần đọc bài chú, hay học hỏi bài truyền đọc, hay nghe bài truyền đọc rồi hoà điệu với chân sư thì họ sẽ nhận được ý tưởng.

Nhưng con yêu dấu có thấy không, làm thế nào sứ giả này đã trở thành được sứ giả? Điều này ít khi nào con nghĩ tới, và ngay cả vị sứ giả này cũng ít khi nào nhận ra. Đâu là những xung lực đầu tiên mà ông đã nhận được từ các chân sư thăng thiên? Đó không phải là điều tiết lộ gì, hay sáng ngộ gì, hay giáo lý gì cao siêu lắm đâu. Đó là những sáng ngộ về tâm lý của chính ông cùng những điều mà ông cần giải quyết trong tâm lý của ông. Giai đoạn này đã kéo dài hơn 15 năm trước khi ông sẵn sàng bước vào khóa huấn luyện trực tiếp với Giê-su và trở thành người sứ giả mà ông đã trở thành, và tất nhiên ngày nay ông đã vượt xa hơn nữa.

Buông bỏ cái cũ

Vậy thì đâu là tiết lộ đầu tiên mà con sẽ nhận được từ cõi thăng thiên? Đó sẽ là một số gợi ý, hướng dẫn, cảm giác, khải tượng, ấn tượng về những điều mà con cần chữa lành trong chính tâm lý của con. Đó là khoá huấn luyện. Đó là điều mà mọi người phải kinh qua. Con có nghe rõ không – ta nói, mọi người. Không ai được miễn. Nếu con nghĩ là con được miễn thì con đang tự lừa dối con và con sẽ đi vào ngõ cụt, và rất có thể con sẽ tiếp xúc với những kẻ mạo danh trong hàng ngũ tà đạo, là những kẻ sẽ mừng rỡ khen con là tuyệt vời xuất chúng, với dụng ý giữ con trong ngõ cụt đó cho tới cuối kiếp đầu thai này của con.

Tất cả các con sẽ phải kinh qua giai đoạn này. Rất nhiều các con đã khởi sự tiến trình này rồi, đã nhận được nhiều ấn tượng từ chúng tôi và đã sử dụng một cách xây dựng để nâng cao tâm thức. Ta không nói là ngay bây giờ, mọi người đều phải khởi đầu từ mức thấp nhất, nhưng tất cả các con đều phải sẵn lòng nhìn vào một điều gì đó trong tâm lý của mình. Nếu con không sẵn lòng làm chuyện này, thì đúng vậy, con đang chặn nghẽn cánh cửa tâm con. Cánh cửa tâm con chưa mở ra.

Chúng tôi muốn nói gì qua câu “cánh cửa tâm con”? Hiển nhiên, cánh cửa tâm con có thể bị chặn lại ở tầng bản sắc, tầng lý trí, tầng tình cảm, hay ở tầng vật lý, tức là cái mà chúng tôi gọi là tâm ý thức. Cuối cùng hết, để con có thể chuyển dời tâm thức, con cần có một sáng ngộ ý thức. Con cần quyết định là con sẵn lòng buông bỏ những cái cũ và ôm lấy một hiểu biết cao hơn, một viễn kiến cao hơn, một nhận thức cao hơn. Con cần sẵn lòng buông bỏ cái cũ. Con có nghe ta nói không, con yêu dấu? Con cần sẵn lòng buông bỏ cái cũ.

Đây là hạn chế lớn nhất mà các chân sư phải đối mặt – là khi đệ tử không chịu buông bỏ cái cũ. Con người hay bám mắc vào quá nhiều thứ và không chịu buông nó ra. Chúng tôi đều sẵn sàng, đều sẵn lòng trao cho con sáng ngộ cao hơn đó. Con đã chuẩn bị bản thân, và trong bản sắc thể, trí thể và cảm thể của con đã có một khoảng trống. Nhưng ở mức tâm ý thức, tâm vỏ ngoài của con vẫn còn bám mắc vào một cái gì đó mà con không muốn buông ra, cho nên con không thể neo trụ một cách ý thức điều sáng ngộ mà chúng tôi trao cho con. Một ví dụ: quan điểm kiên cố, cứng nhắc.

Suốt trong năm qua, một số các con đã bày tỏ những quan điểm thật cứng nhắc về dịch COVID, chích ngừa, đeo khẩu trang. Một số đã bày tỏ những quan điểm cứng nhắc về cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ và một vị tổng thống nào đó. Ta không ở đây để tranh luận với con về những quan điểm đó. Ta chỉ đơn giản chỉ ra cho con là bất cứ khi nào con có ý kiến cứng nhắc, thì con không đang sẵn lòng nhìn xa hơn, con không sẵn lòng tra vấn, con không sẵn lòng chấp nhận là có thể có một cái nhìn cao hơn.

Bất cứ khi nào con như vậy thì con đang chặn nghẽn dòng chảy. Con không phải là một người đi tìm, một terton, con không là một kẻ săn kho báu vì con nghĩ con đã có kho báu rồi, tức là quan điểm của con. Đó là kho báu của con. Con cảm thấy “chuyện này đúng tuyệt đối, chuyện này vô cùng quan trọng đối với tôi”. Đây là khó báu của con và con ôm chặt lấy nó. Con nắm chặt ý tưởng trong tay, như nhà Thiền tông sẽ nói. Dù cho kho báu của con là gì, con yêu dấu, thì chúng tôi cũng sẽ chấp nhận quyền tự quyết của con, cũng như quyền con nắm giữ nó cho tới khi con còn cần trải nghiệm này.

Ta không đang bảo con phải làm gì hay không làm gì. Ta chỉ đơn giản chỉ ra là con không thể ăn hết cái bánh mà vẫn còn nguyên cái bánh. Con không thể cầm giữ bất cứ gì trên địa cầu mà nhận được tư tưởng cao hơn từ cõi thăng thiên. Chuyện đó . không . thể . xảy . ra.

Có lẽ một số các con đã chán nghe mấy chuyện này lắm rồi. Có lẽ con nghĩ chúng tôi đã lặp đi lặp lại chuyện này nhiều lần suốt hai năm qua.

Đó là vì chúng ta đang ở một thời điểm nhất định là có nhiều đệ tử đã sẵn sàng vượt trên mức những giáo lý được ban truyền cho tới giờ, nhưng chúng ta vẫn chưa đạt được đủ túc số những đệ tử đó. Do đó chúng tôi không thể nâng lên một cấp và ban truyền một trình độ giáo lý cao hơn. Sứ giả này có khả năng và cũng sẵn lòng làm chuyện đó. Nhưng chúng ta cần đến khía cạnh Omega, tức là có đủ túc số những đệ tử sẵn sàng nhìn xa hơn những ý tưởng cũ, chứ không cầm giữ, nắm chặt ý tưởng cũ.

Nhiều người trong số các con hiểu khá rõ các chân sư thăng thiên là ai, dạy những gì, vũ trụ vận hành làm sao. Con hiểu tất cả tiến trình tạo dựng các bầu cõi trước, các sa nhân cùng tất cả những vấn đề đó. Nhưng chúng tôi có nhiều điều hơn nữa để ban truyền cho con. Vậy câu hỏi là như sau, đến bao giờ sẽ có đủ số đệ tử mong muốn nhiều hơn hầu chúng tôi có thể trao cho họ? Một lần nữa, chúng tôi không bảo con phải làm gì hay không làm gì. Chúng tôi chỉ đơn giản nói rõ tình hình cho con thấy.

Nhưng song song chúng tôi cũng nói, nếu trong số các con có ai đã mở tâm ra những lời dạy cao hơn thì hãy đừng chờ đợi người khác. Hãy đi thẳng vào bên trong và chụp lấy lời dạy đó. Những gì chúng tôi có thể đem vào hình dạng vật lý qua sứ giả này chỉ giới hạn, nhưng những điều mà mỗi đệ tử có thể nhận được trong nội tâm thì vô hạn. Giới hạn duy nhất là sự rộng mở của tâm con.

Và như vậy, thực tế tình hình trên trái đất là tuyệt đại đa số con người đang đầu thai đều mang trong tâm mình một số ý tưởng gọi là “cấm kỵ”, tức là những điều mà họ cầm giữ, bám chặt và không thể nào buông bỏ. Đây là điều đang ngăn chặn tâm thức dời chuyển vào thời hoàng kim. Như Phật Gautama đã giải thích thật kỹ lưỡng nhân dịp cuộc hội thảo trên web về ý thức hệ, có quá nhiều người bị vướng mắc vào những loại ý thức hệ không phải là ý thức hệ truyền thống mà là những ý tưởng mà họ tin là không thể tra vấn. Và như Quan Âm đã bày tỏ trong bài giảng tuyệt vời của thày, có quá nhiều sự hiểu lầm, giới hạn, rào cản trong tâm con người về vật chất, về bản chất của vật chất vật lý, và về những gì có thể được thay đổi hay không thể thay đổi.

Hãy để ta nói cho con cái gì có thể được thay đổi hay không thể thay đổi. Tất cả mọi thứ đều có thể được thay đổi. Tất cả . đều . có thể . được . thay đổi. Không có gì là không thể thay đổi. Bởi vì nếu con nâng vật chất lên cho bớt dày đặc đi, thì những chuyện bây giờ tưởng chừng là bất khả thi sẽ tức khắc trở thành khả thi. Tại sao con nghĩ dưới lòng đất có nhiều nguồn tài nguyên hơn là đã từng được khám phá cho tới giờ? Phải, con có thể nói là vì loài người giờ đây có công nghệ để khám phá tài nguyên, như các loại cảm biến và radar xuyên đất hay cái này cái nọ. Nhưng câu hỏi thực sự là: tại sao loài người lại có công nghệ như vậy ngày nay mà không có cách đây 50 năm về trước? Là vì tâm thức tập thể đã nâng lên, và khi tâm thức tập thể nâng lên thì kết quả là vật chất bớt dày đặc đi.

Điều này có nghĩa là công nghệ hiện hành đang có mặt, trong khi 50 năm trước đây, công nghệ đó đã không thể có mặt vì vật chất dày đặc hơn và các tia sáng đó không thể đâm xuyên qua vật chất vào thời điểm đó. Những ý tưởng như thế này thật là quá nhiều, quá vi tế và mang những hệ quả sâu rộng đến độ chúng tôi biết hầu hết mọi người sẽ bị choáng ngợp. Đối với các đệ tử như các con, chắc các con cũng bị choáng ngợp. Nhưng một lần nữa, con không cần hiểu biết tất cả mọi thứ về mọi lãnh vực trong xã hội. Bao nhiêu lần chúng tôi đã nói điều gì? Con hãy chọn lấy một lãnh vực mà con thực sự ưa thích trong tim con, hãy tập trung vào đó và học hỏi để trở thành một nhà chuyên môn.

Con không nhất thiết cần phải (cho dù ta không nói là con không nên) đi học đại học và lấy bằng tiến sĩ trong ngành đó. Nhưng con hãy trở thành một nhà chuyên môn để con hiểu biết, tài giỏi hơn một người trung bình trong lãnh vực này. Và như vậy, con sẽ ăn nói với sáng ngộ sâu sắc hơn và khiến cho mọi người phải suy ngẫm. Con yêu dấu, đây không phải là chuyện đi thuyết phục hay cải đạo người khác, mà là khiến cho họ suy ngẫm.

Nếu con chưa biết rồi thì con nên tìm hiểu các cuộc đối thoại của Socrates, tìm hiểu cái gọi là phương pháp Socrates. Socrates không hề có mục đích thuyết phục một ai tin vào một triết lý, một tôn giáo hay một lý thuyết nào đó. Ông chỉ muốn khiến người ta suy ngẫm xa hơn tư tưởng mà mình hiện có. Cho nên ông không bảo họ phải nghĩ làm sao, mà ông tra vấn các niềm tin và tư tưởng hiện thời, chỉ ra những điểm mâu thuẫn, thiếu sót, không nhất quán, và như vậy ông khiến cho một số người phải suy ngẫm. Cũng có những người đã nổi giận, muốn bác bỏ ông và rốt cuộc kết án ông tử hình, nhưng chuyện này khó lòng xảy ra cho con trong thế giới ngày nay. Cho nên con hãy hăng hái lên, hãy sẵn sàng đặt lại vấn đề, và bằng lòng khiến người ta tra vấn quan điểm.

Con yêu dấu, đối với người tâm linh thì điều tối quan trọng là con cần từ bỏ tâm thức cho rằng mọi nỗ lực của con phải đạt được kết quả vật lý có thể đo lường được. Trong các cõi vật lý, tình cảm, lý trí và bản sắc thấp, có một tâm thức vô cùng mạnh mẽ do sa nhân tạo ra cho rằng trừ khi con đạt kết quả có thể thấy và đo được thì nỗ lực của con đã thất bại. Nhưng chúng tôi đã nhắc đi nhắc lại điều gì? Rằng yếu tố thực sự quyết định sự tiến bộ của địa cầu là việc nâng cao tâm thức tập thể. Dù con có làm gì, như tự giáo dục, mở tâm ra một ý tưởng mới mẻ hay học hỏi một bộ môn mới, thì con cũng đang nâng cao tâm thức của con, và như vậy con đang nâng cao cả tổng thể. 

Thật là con đã có tác động rồi đó. Đọc bài chú và bài thỉnh có một tác động, nhưng có thể con không thấy được kết quả trực tiếp trong cõi vật lý. Chúng tôi thừa hiểu là con đã lớn lên trong một nền văn hóa, đặc biệt là những ai đã lớn lên tại phương Tây, cho rằng trong nhân và quả, con phải có khả năng tách riêng ra một kết quả duy nhất và một nguyên nhân duy nhất. Nhưng trong những năm qua, chúng tôi đã dạy con về lý nhân duyên, qua đó tất cả mọi thứ đều được nối kết trong mạng lưới cực kỳ phức tạp của sự sống. Trong thế gian liên kết chặt chẽ này, con không thể chỉ ra một nguyên nhân tách biệt cũng như một hệ quả tách biệt. Điều này không có thật, điều này là hư cấu. Nó cũng hư cấu y như bảo rằng PadmaSambhava hay Gautama là những đấng cực kỳ đặc biệt. Đó là một huyền thoại khoa học thay vì là một huyền thoại tôn giáo, nhưng vẫn hư cấu y như vậy.

Không hề có nguyên nhân nào tách biệt, không hề có hệ quả nào tách biệt. Điều mà con có thể làm được là nói: “Đâu là kết quả trên tâm thức của tôi? Liệu tôi có thấy được việc học hỏi và thực hành giáo lý cũng như việc sử dụng các dụng cụ tâm linh, đã có nâng cao tâm thức của tôi hay không?” Đấy, con có một kết quả mà con có thể đo lường được, và đó là kết quả duy nhất mà con cần đến. Nhưng tất nhiên, con cần biết là khi con nâng cao tâm thức của con thì con cũng nâng cao tâm thức của người khác. Con có thể thấy được là khi con nói chuyện với người khác, có lẽ con đã giúp, đã tạo cảm hứng cho họ. Nhưng một lần nữa, đừng bị bận tâm khi con nói chuyện với họ là con phải cải đạo họ để họ tin vào các chân sư, hay tin vào mọi điều con tin về các chân sư, hay họ phải bắt đầu đọc bài chú, phải làm cái này hay cái nọ.

Ta không bảo con làm điều đó. Ta chỉ bảo con hãy trở thành vị đại sứ cho ý tưởng, để con quảng bá ý tưởng. Nếu có ai đó muốn biết ý tưởng đó từ đâu đến thì tất nhiên, con có thể nói cho họ biết, tuy nhiên mục đích của con không phải là đi quảng bá chân sư thăng thiên hay giáo lý của chân sư thăng thiên, quảng bá vị sứ giả này hay quyển sách nọ. Sứ giả này hoàn toàn bằng lòng sống hết kiếp này càng ẩn danh càng tốt với tương đối ít người biết đến mình. Cá nhân ông không cần mấy chuyện đó, và chính con cũng không cần đến chuyện đó khi con bỏ được những cái ngã tách biệt khiến con nghĩ là con cần.

Thế nào là không dính mắc

Giản dị là con chỉ cần ở nơi đây, nâng cao tâm thức, và đóng góp bằng cách tốt nhất mà con có thể. Nhưng con yêu dấu, câu sau đây chính là phương châm cho tất cả các chân sư thăng thiên mặc dù chúng tôi thật chẳng cần đến phương châm nào: “Khi món quà đã trao thì công việc đã hoàn thành.” Vấn đề không nằm ở chỗ món quà có được người ta nhận lấy hay không, vì đó không phải là trách nhiệm của con. Bởi vì định luật tối hậu của vũ trụ này là gì? Là quyền tự quyết. Con thật không muốn tạo nghiệp khi con cố kiểm soát cách người khác phản ứng lại món quà mà con trao cho họ. Con cần để họ tự do, để yên cho họ là như họ là. Con hãy bằng lòng là con đã gieo hạt giống, có thể một ngày nào đó nó sẽ mọc thành cây, nhưng đó không phải là trách nhiệm của con. Đó là trách nhiệm của người kia, là quyền tự quyết của họ. Con chỉ nên quan tâm tới một chuyện mà thôi, là trao món quà, làm cánh cửa mở.

Chuyện gì xảy ra không thành vấn đề. Con là cánh cửa mở, có nghĩa là ánh sáng và tư tưởng tuôn chảy qua tâm thức con đi vào hệ thống năng lượng của địa cầu. Một khi nó đã rời khỏi cánh cửa của con, trách nhiệm của con đã xong. Không có vấn đề phải đạt được một kết quả nào đó, hay nhận được một điều gì trở ngược về con. Nhiều người đã quá quen sống với một số tin tưởng ẩn náu không bao giờ được chất vấn, và họ muốn nhận được sự phản ứng khi mình làm bất cứ điều gì.

Như chúng tôi đã có nói, nếu con không nhìn thấy hậu quả của chọn lựa của con thì làm sao con biết được con đã có chọn lựa đó? Nhưng đó chỉ là vấn đề khi con còn ở một mức tâm thức thấp hơn, khi con chưa bắt đầu thể hiện quả vị Ki-tô. Bởi vì khi con thể hiện quả vị Ki-tô, con sẽ hoàn toàn bằng lòng một khi con đã cho ra, và khi con đã trao món quà thì con không còn quan tâm gì nữa đến kết quả. Phần nào, quả vị Ki-tô nghĩa là như vậy.

Thế nhưng chúng tôi đã chứng kiến nhiều đệ tử đã bám mắc vào kết quả suốt hàng mấy chục năm trời. Hiện có một số đệ tử từ những đợt truyền pháp trước vẫn còn mơ mộng về ngày mà giáo lý cùng vị sứ giả của họ sẽ được công nhận là khuôn mặt tâm linh nổi bật nhất của Thời đại Bảo bình. Còn họ thì sẽ được công nhận là những môn đồ cao trọng nhất, y như tông đồ của Giê-su vậy. Chính họ mới là những người đã đột phá, đã giải cứu hành tinh này cho Saint Germain, và còn bao nhiêu giấc mơ khác nữa. Nhưng khi nào con nghĩ như vậy thì con sẽ còn bị kẹt lại ở một mức tâm thức nhất định – vì con mong muốn phản hồi từ địa cầu.

Chúng tôi đã nói gì? Con phải vượt qua các bám mắc của mình. Con cần đạt đến một điểm khi ông hoàng của thế gian này và ma quỷ của Mara không còn nắm được gì nơi con khi chúng cố cám dỗ con vào phản ứng. Vậy thì đâu là phản ứng cơ bản nhất của con? Đó là khi con muốn một phản ứng từ thế gian, từ cõi vật lý, từ người khác. Cho tới khi nào con còn vướng mắc đó, ma quỷ của Mara sẽ vẫn nắm được con. Vì thật là quá dễ khuynh loát người ta để họ chối bỏ con. Nhưng cho dù con có thể khiến cho mọi người ủng hộ một quan điểm cứng nhắc của con thì ngay cả chuyện này cũng sẽ đánh bẫy con. Cho nên cho dù con có được ủng hộ hay bị bác bỏ thì con vẫn sẽ bị mắc kẹt trong trò chơi phản hồi. Con muốn một sự phản hồi.

Hành động và phản ứng. Con làm một hành động và con chờ đợi một phản ứng từ vũ trụ. Chuyện đó tự nhiên thôi, chúng tôi hiểu. Chúng tôi đã nói gì bao nhiêu lần rồi? Và con có thể nói, ta đang mâu thuẫn với những gì các chân sư vẫn nói, rằng vũ trụ là một tấm gương, rằng bất kỳ điều gì con gửi ra sẽ được phản chiếu ngược về cho con. Phải, con yêu dấu, điều đó hoàn toàn đúng ở một mức tâm thức nào đó. Nhưng khi con đạt tới những mức tâm thức cao hơn, những mức cao hơn của quả vị Ki-tô và quả vị Phật, và con vượt qua mọi bám mắc, con sẽ hoàn toàn thản nhiên cho dù có phản hồi hay không phản hồi. Con không quan tâm đến phản ứng. Con không đang tìm một sự xác nhận của ai đó hay đạt được một kết quả nào đó. Đây là không vướng mắc.

Đồng ý, thật là quá dễ cho ta nói ra những lời này vì ta không còn đầu thai trên địa cầu. Nhưng ta đã từng đầu thai trong cõi vật lý ở những hành tinh khác, và ta biết rõ dính mắc dễ xảy ra đến chừng nào. Dù sao thì chuyện dễ dính mắc cũng không thay đổi được thực tế cơ bản. Con chỉ có thể giải thoát khỏi vật một khi con giải thoát khỏi sự dính mắc vào vật. Không có cách nào khác. Chưa từng có và sẽ không bao giờ có cách nào khác.

Nếu con thấy mình có những quan điểm kiên cố, cứng nhắc về bất cứ điều gì, con hãy xét xem tại sao con lại có quan điểm cứng nhắc và tin tưởng kiên cố như vậy. Tại sao đề tài đó lại quan trọng với con đến vậy? Tìm hiểu xem con đang cố tạo ra phản ứng gì từ thế gian trên đề tài này. Con có đang tìm sự xác nhận, sự chứng thực từ ai đó? Con có đang cố khiến người ta đồng ý với con, yêu mến con, xem con là thông minh, thông minh hơn họ, hay cái gì khác? Những ngã tách biệt của con sẽ được hưởng lợi gì khi con dính mắc vào chuyện trên địa cầu? Luôn luôn có một cái ngã được hưởng lợi lạc. Con cần phải tỉnh giác về điểm này và tự hỏi: “Có phải đây thật sự là lợi lạc mà tôi muốn để nó tiếp tục khống chế đời tôi, hay là tôi chỉ đơn giản muốn ngã này chết đi?”

Làm thế nào con trở thành một cánh cửa mở? Đúng vậy, cửa của con phải mở ra, tâm con phải mở ra. Đâu là tinh túy giáo lý của Phật? Là làm thế nào giữ cho tâm mình mở rộng. Đâu là tinh túy giáo lý của Giê-su? Là làm thế nào giữ tâm mình mở rộng cho dòng chảy của tánh linh. “Chuyện kia liên hệ gì đến con? Con hãy theo ta.” Không có cách nào khác, thật là quá giản dị. Quá cơ bản nhưng lại quá khó nắm bắt đối với biết bao người tâm linh, quá khó khăn. Con nhìn vào thế gian, nhìn vào lịch sử của người tâm linh trên hành tinh này, và con thấy khó khăn làm sao để người ta hiểu được đúng một điều này thôi, đúng một yếu tố này trên đường đạo.

Tinh túy của tăng trưởng tâm linh

Con hãy nhìn vào thời kỳ của đức Phật dưới sự thống trị của đạo Ấn. Đạo Ấn đã trở thành gì? Ấn giáo đã khởi sự với một số kinh sách, một số truyền thống được truyền miệng, và bình thường kinh Veda là một sự tiết lộ trực tiếp. Nhưng lần hồi nó bị trộn lẫn với nhiều thứ khác. Lần hồi nó trở thành một cấu trúc tạo dựng ngày càng phức tạp hơn. Thế là bỗng nhiên hiện ra những lý thuyết mâu thuẫn lẫn nhau, và các nhà Bà la môn bắt đầu cãi nhau về điều này điều nọ – như cõi tâm linh ra làm sao, cách này là thực hay cách kia mới là thực, và như vậy đủ kiểu tranh luận trí thức, học thuật, khởi lên.

Đức Phật nhìn thấy vậy mới nói: “Với tất cả những quan điểm khác nhau như thế này thì làm thế nào giải quyết được đây? Làm thế nào ta có thể đem lại một giáo lý giải quyết được toàn bộ vũng lầy này, toàn bộ tình trạng hỗn tạp này với đủ loại quan điểm, đủ loại phe phái đang tranh cãi và giao chiến với nhau?”

“Ta có thể làm được gì đây?” Gautama tự hỏi, “Ta có thể làm gì để thay đổi được tình thế chứ không chỉ lại tạo thêm một nguyên nhân chia rẽ, tranh luận và cãi vã?” Và như vậy, thày nhận được sự sáng ngộ – nhân tiện cũng xin nói, sáng ngộ này đến từ chính ta và các chân sư thăng thiên khác – rằng mình cần đem lại một giáo lý không nhằm giải quyết các tranh chấp trong đạo Ấn, mà tránh hẳn vấn đề cốt lõi, là “có chăng một Thượng đế và cõi tâm linh như thế nào?” Thay vào đó, thày nói: “Chúng ta hãy thực tế, chúng ta hãy tập trung vào những gì có khả năng thay đổi tâm thức con người, nâng cao tâm thức con người. Một khi chúng ta đã nâng cao tâm thức thì có lẽ chúng ta sẽ có khả năng nhìn xa hơn tất cả những mối chia rẽ đó.” Và đây là mục đích của Phật giáo trong dạng thuần khiết.

Nhưng tất nhiên khi con nhìn vào Phật giáo bây giờ thì con lại thấy một cấu trúc phức tạp đã được tạo dựng lên, và yếu tố nguyên thủy kia đã phần lớn bị quên lãng. Tuy nhiên, hẳn là nó có thể được tái khám phá bởi những ai quan tâm đến Phật giáo, là những người có cái nhìn sâu sắc lẫn kinh nghiệm, con có nghĩ vậy không?

Vậy thì con không thấy hay chăng một điều tương tự như vậy cũng xảy ra với giáo lý của các chân sư thăng thiên? “Ồ, đợt truyền pháp này mới là đợt chân chính nhất, sứ giả này mới là sứ giả cao nhất, không thể có một sứ giả nào khác và không thể có sứ giả nào sau sứ giả này.” Đủ thứ lập luận như thế, chia rẽ như thế. Chỉ có một cách để vượt lên trên mà thôi, đó là cá nhân mỗi người hãy hòa điệu vào cõi thăng thiên. Bởi vì chúng tôi vượt lên trên mọi vũng lầy nhân thế. Chỉ khi nào con tiếp xúc với chúng tôi thì con mới trải nghiệm được một cái gì không những vượt lên trên vũng lầy nhân thế mà cũng vượt lên trên ngoại tâm của con.

Ngoại tâm của con có thể bám mắc vào quan điểm một cách dữ dội. Nhưng đó chỉ là một quan điểm trên trái đất. Con chỉ có thể bám mắc vào nó khi nào con chưa trải nghiệm được một tâm thức cao hơn hẳn, nơi quan điểm đó chẳng có gì là hệ trọng giữa vô số quan điểm khác. Cho nên, điều duy nhất sẽ thay đổi tình thế của con là con cần có trải nghiệm đó. Con trải nghiệm được cái mà chúng tôi gọi là cái Ta Biết. Sự nhận biết thuần khiết không hề bị lôi kéo vào tất cả những sự chia rẽ, quan điểm và bám mắc đó. Đây là giải pháp duy nhất, sự tiến bộ duy nhất.

Chúng tôi mong muốn tất cả các con có được chứng nghiệm này. Một số các con đã có được rồi, và con biết chính xác ta đang nói về điều gì. Nhưng con cũng sẽ thấy là những ai đã có được chứng nghiệm đó sẽ không là kẻ đứng ra hô hào quan điểm cứng nhắc về bất cứ chuyện gì. Cho nên đối với những ai đang bám mắc vào quan điểm của mình, đang thèm khát được người ta chứng thực mình, các con cần xét xem mình muốn làm gì với phần còn lại của đời mình. Liệu con có sẵn lòng đưa đường tu của mình lên một mức cao hơn? Bởi vì chúng tôi đã giải thích cho con bằng đủ mọi cách là con hiện không đang ở mức cao đó. Vậy liệu con có chịu chuyển vọt hay không?

Chúng tôi đã truyền cho con bao nhiêu giáo lý và dụng cụ để giúp con làm điều đó. Nếu con làm được thì nó sẽ trao uy lực cho con. Hãy lắng nghe! Lắng nghe những lời dạy một lần nữa. Lắng nghe thực sự. Hãy mở tâm ra để lắng nghe và thôi tìm cách chứng minh một quan điểm có sẵn. Làm sao khác con có thể trở thành một cánh cửa mở đây? Nhiều người trong số các con mơ ước mình sẽ nhận được ý tưởng cao siêu sẽ đem lại danh vọng hay của cải cho mình. Nhưng làm sao con nhận được nếu tâm con không có một lỗ mở? Và làm sao tâm con có lỗ mở nếu con cứ bám mắc vào những thứ vỏ ngoài đó? Điều đó không thể xảy ra, con yêu dấu. Con đang cố làm chuyện bất khả thi. Con đang có một giấc mơ bất khả thành. Thế rồi con lại cho phép con nghĩ thế này: “Đáng lý tôi đã phải đạt được một số kết quả rồi chứ. Nếu giáo lý thực sự hiệu nghiệm thì tôi đã phải đạt được kết quả. Nhưng vì tôi không thấy kết quả nào, nhất định phải có điều gì không ổn với người sứ giả, không ổn với giáo lý, thậm chí cả chân sư thăng thiên cũng có thể không có thật”, vân vân và vân vân.    

Không phải là giáo lý không hiệu nghiệm, mà chính con đã không hiệu nghiệm khi sử dụng giáo lý. Con không đang áp dụng giáo lý.  Con không đang lắng nghe. Con giống như lời mô tả của Mẹ Mary: “nhìn mà không nhìn thấy, nghe mà không nghe thấy.” Nhưng không chỉ có con mà thôi. Hãy nhìn vào 99,9% loài người trên trái đất, họ đều nhìn mà không nhìn thấy, nghe mà không nghe thấy. Lấy tất cả các Phật tử đã theo học giáo lý này, và lấy một số Phật tử đã vô cùng nhiệt tình với PadmaSambhava trong tâm họ. Liệu họ có nghe được những gì ta đang cố nói với họ trong nội tâm của họ? Không, vì họ quá bám mắc vào hình tướng. Hình tướng vỏ ngoài. Hình tướng vỏ ngoài. Đừng chiều theo hình tướng vỏ ngoài. Nếu con là một terton, một người đi tìm kho báu, nếu con tìm kiếm các chân lý terma – con hãy đừng chạy theo hình tướng vỏ ngoài.

Con yêu dấu, nhiều khi con có thể tự hỏi tại sao chúng tôi cứ nhắc đi nhắc lại cùng một chuyện hoài. Con có thể tự hỏi liệu chúng tôi có kỳ vọng một kết quả nào khác hơn hầu hội đủ định nghĩa của Einstein về sự điên rồ. Nhưng kỳ thực, chúng tôi không mong đợi kết quả. Chúng tôi truyền rải một giáo lý từ một góc độ nào đó, với một năng lượng nào đó, và nó sẽ chạm được một số người. Lời dạy mà ta vừa trao cho con hôm nay đã chạm được một số người mà lời dạy trước đã không thể với tới. Đó là cách vận hành của tiết lộ tuần tự. Lời dạy này sẽ vẫn chưa chạm được nhiều người, và điều này cũng hoàn toàn bình thường thôi.

Nhưng có một tiềm năng thật lớn cho các đệ tử tâm linh, không chỉ đệ tử của chân sư thăng thiên mà nhiều người tầm đạo tâm linh khác, nếu họ trở nên ý thức hơn và sẵn sàng lùi lại một bước để xem xét: “Đường tu tâm linh thật sự là gì, liệu tôi đã thực sự hiểu thấu nó hay chưa, liệu tôi đã nắm bắt được ý nghĩa của sự tự thăng vượt, sự nâng cao tâm thức, sự chuyển vọt tâm thức? Liệu tôi đã thực sự nhìn ra sự cần thiết phải thấy được những gì tôi chưa thấy? Liệu tôi có thực sự nắm được ý nghĩa? Rằng đó không phải là chuyện đạt được sáng ngộ tối thượng mà liên tục nhìn thấy một tiết lộ cao hơn rồi cao hơn nữa? Đây là một tiến trình liên tục cho tới khi nào tôi còn đầu thai trong cuộc đời này. Liệu tôi đã chấp nhận điều đó hay không? Hay là tôi vẫn còn đang mơ mộng mình sẽ đạt được trạng thái tối hậu, và khi đó người đời sẽ phải quỳ lạy và thờ phượng mình?”

Rất nhiều người trong số các con đã thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình với mục tiêu đạt mức tâm thức cao hơn rất nhiều những gì mình đã đạt được cho tới giờ. Nhưng con sẽ không đạt được mức đó nếu con không chịu lùi lại một bước và tái cứu xét, đặt ra những câu hỏi để con nhìn ra những gì con chưa nhìn thấy bây giờ. Con ở mức hiện tại của con là vì con không thể thấy xa hơn một rào cản nào đó. Con sẽ chỉ vượt qua được một khi con nhìn thấy xa hơn. Và điều này có nghĩa là con sẵn lòng mở tâm con ra và đặt ra một số câu hỏi mà con chưa đặt.

Vị sứ giả này, như ông đã viết và kể lại, đã khởi sự với một hiểu biết vô cùng ngây thơ về sự tăng triển tâm linh cũng như về ý nghĩa của tăng triển tâm linh. Làm sao ông có thể làm khác được khi ông đã lớn lên trong một xã hội Tây phương chối bỏ mọi sự thật tâm linh? Nhưng rồi ông tới một điểm khi ông nhận ra rằng tinh túy của đường tu tâm linh là nhìn vào trong bản thân mình và thấy được một cái gì đó cho dù là nó vô cùng khó chịu và tự ngã gạt bỏ nó. Tự ngã gạt bỏ ý tưởng đó ra và kháng cự lại. Nhưng nếu con sẵn lòng nhìn nó, thấy nó, nỗ lực đi muốt qua nó, vượt qua nỗi đau của nó, thì bỗng nhiên con thấy là thực sự con đã thay đổi. Con đã chuyển vọt. Con ở một mức cao hơn trước đây, có lẽ là một mức cao hơn cả những gì con chờ đợi.

Đây là tinh túy của sự tăng triển tâm linh. Không có gì là vẻ vang mà là một công việc nặng nhọc. Đó là từng bước nhỏ một ở mỗi lúc. Không có những đột phá to lớn và chứng ngộ huy hoàng. Ừm… đột phá và chứng ngộ có thể xảy ra, tuy nhiên khi con càng đi lên cao hơn trên đường đạo, thì những trải nghiệm chứng ngộ này sẽ ngày càng ít vẻ vang hơn vì sự tương phản càng ít rõ rệt hơn. Cho nên niết bàn không hẳn giống như những gì con chờ đợi – hoặc để dùng một cách mô tả phổ biến, niết bàn được đánh giá quá cao bởi những ai cho rằng đó là một trạng thái cực lạc tối hậu nào đó. Nhưng so với trạng thái tâm thức phân cực, nhị nguyên mà hầu hết mọi người đều kinh nghiệm, thì niết bàn là một trạng thái tâm thức hoàn toàn trung hòa. Không có điểm cao hay điểm thấp, không có vui lòng hay buồn lòng. Không có đau khổ. Nhưng cũng không có cảm giác thích thú và thành đạt giả tạo mà con có trên địa cầu. Tất cả đều trung hòa, ít ra là khi so sánh với những gì con người trải nghiệm trên trái đất. Tất nhiên là có một niềm vui không dứt, một cảm giác thỏa nguyện, là những cảm giác không có đối cực.

Trong trạng thái thăng thiên, tâm thức của con không hề có đối cực. Không có tương phản. Không có chuyện đu đưa giữa trạng thái này rồi trạng thái kia, và đây là một trong những thứ mà con phải bỏ lại. Con phải bỏ lại kịch tính – kịch tính rằng con xuất chúng, rằng con làm được những chuyện thật đặc biệt.

Hôm nay ta đã trao cho con rất nhiều điều để con suy ngẫm nếu con sẵn lòng đọc lại hay nghe lại bài giảng này. Có rất nhiều điều ẩn giấu đằng sau lời nói. Ẩn giấu giữa những dòng chữ. Và nếu con sử dụng bài truyền đọc này cùng với băng thâu âm của câu thần chú mà ta đã cho con trước đó, con có thể hòa điệu với ta.

Con có khả năng tìm thấy kho báu ẩn tàng mà ta mong mỏi sẽ trao cho con. Con có thể trở thành một người terton của ta, một số các con đã là terton rồi đó, vậy thì các con hãy tiếp tục nỗ lực thật tốt, bởi vì ta không giữ lại bất cứ điều gì khỏi con. Chính con mới giữ lại một điều gì đó khỏi ta. Nhưng tất nhiên đó là chọn lựa của con. Là quyền của con chọn lựa như vậy. Một lần nữa ta chỉ hỏi: “Con muốn cái này hay con muốn cái kia?” Vì con không thể có cả hai, đây chính là tinh túy của cuộc sống trên địa cầu, vì có một số thứ loại bỏ lẫn nhau. Tâm đóng kín và tăng trưởng tâm linh là hai thứ loại bỏ lẫn nhau. Bám mắc vào quan điểm và tăng trưởng tâm linh cũng loại bỏ lẫn nhau.

Vậy thì con yêu dấu, tới đây ta sẽ niêm con trong ngọn lửa vui mừng mà Ta Là. Vì Ta Là PadmaSambhava. Ta Là Vajra Guru, có nghĩa là “Ta sử dụng quyền thị hiện trên địa cầu qua trung gian những ai có thể hòa điệu với Hiện diện của ta, Bản thể của ta.”

Nhìn sọ người và bông hồng trong nhận biết thuần khiết

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên PadmaSambhava ngày 27/11/2011, nhân một hội nghị tại Sneek, Hòa Lan.

Phật TA LÀ.
PadmaSambhava là tên ta.
Cái Một là lửa của ta.
Bất nhị là sân chơi của ta.
Không gì chế ngự được ta,
vì ta không cầu tiếng thơm,
ta không biết xấu hổ,
và ta không bao giờ như cũ.  

Tại sao khi ta đang giảng thì ta lại bảo sứ giả này cầm một sọ người và một bông hồng? Con thử ngẫm xem ý nghĩa biểu tượng mà loài người đã phóng chiếu vào hai vật này xuyên qua các thời đại là gì.  

Sọ người thường là biểu tượng cho sự chết, ngay cả có lẽ cho bóng tối, cho địa ngục, cho những gì đối chọi với Thượng đế. Bông hồng thường là biểu tượng cho cái đẹp, cho nữ tính thiêng liêng, cho thi ca và những gì gây phấn chấn.  

Thế nhưng trong thời đại khoa học của con, con dư biết rằng sọ người lẫn bông hồng đều được tạo bằng phân tử. Phân tử được tạo bằng nguyên tử, nguyên tử được tạo bằng hạt hạ nguyên tử, và hạt hạ nguyên tử được tạo bằng năng lượng thuần khiết.

Liệu con có nghĩ một hạt nguyên tử trong chiếc sọ người kia biết rằng nó là thành phần của một đơn vị được loài người gọi là sọ người và gán cho một số cảm xúc lẫn một số liên tưởng? Liệu con có nghĩ hạt nguyên tử trong bông hồng kia biết tới ý nghĩa biểu tượng mà con gán cho bông hồng? Không đâu, bởi vì hạt nguyên tử chỉ giản dị là.

Cho nên mục đích của ta là gì khi cầm hai biểu tượng này lên? Đó là để cho con một khung tham chiếu về mục đích của giáo lý đức Phật, về mục đích của giáo lý mà chính ta đã ban truyền khi đem đạo Phật sang Tây Tạng và khởi sự các môn phái bất nhị. Đó cũng là cùng mục đích mà Giê-su đã giảng dạy cũng như tất cả mọi vị thày chân truyền đã cống hiến suốt các thời đại.

Đó là để giúp con thấy được rằng những sự liên kết mà con gán cho các biểu tượng, cho những vật tựa như bông hồng hay sọ người, chẳng qua chỉ là những hình ảnh trong tâm. Chúng chỉ hiện hữu trong tâm. Chúng được tạo ra trong tâm. Chúng chỉ có thể được giải thể nơi chúng được tạo ra, tức là trong tâm – trong tâm của con.

Tâm ảnh được tạo ra như thế nào

Chắc chắn ý nghĩa biểu tượng mãnh liệt được phóng chiếu vào sọ người suốt các thời đại đã không được tạo ra – trong dạng rộng của nó – trong tâm cá nhân con. Phần lớn hệ thống biểu tượng đen tối được tìm thấy trên hành tinh này đã được tạo ra trong tâm của những sinh thể bị rơi vào bẫy của tách biệt. Họ đã phóng chiếu nó lên người khác, và lần hồi họ đã tạo dựng toàn bộ ảo giác này trong tâm thức tập thể. Đa số các con đã đầu thai lần đầu trên địa cầu sau khi ảo giác đó được tạo dựng – cái ảo giác của sự chết trong tâm thức tập thể. Cho nên con đã nhận nó từ ngoài; con đã không chỉ ngồi đó mà tự mình tạo ra nó.

Tuy nhiên, đây là chìa khóa cốt yếu cho những ai muốn hiểu rõ giáo lý của Phật. Cho dù con đã nhận nó từ ngoài hay nó đã khởi phát từ trong tâm con, thì con cần hiểu rằng những gì hiện hữu trong tâm con ngay lúc này đã không thực sự đến từ ngoài. Tâm con đã có đáp lại một sự phóng chiếu từ ngoài, nhưng cái đang hiện điện trong tâm con không phải là sự phóng chiếu đó mà là phản ứng. Cái đang kìm hãm con không phải là hành động của người khác gây ra cho con, mà đó là phản ứng của con đối với mọi xung lực đến từ ngoài tâm con.  

Đây là chìa khóa đích thực cho sự giác ngộ. Tất cả những gì đang cản trở con giác ngộ, đang giữ con kẹt lại trong Biển Luân hồi, “vật đó” đang nằm trong tâm con. Vật đó – phản ứng đó, nhận thức đó, tâm ảnh đó – đã được tạo ra trong tâm con. Và vì vậy, nó chỉ có thể được giải hóa ngay nơi nó được tạo ra: trong tâm con.

Chừng nào con còn phóng chiếu là người khác phải chịu trách nhiệm về những gì diễn ra trong tâm con, thì con không thể đạt được giác ngộ. Đó là chuyện không thể, y như chiếc sọ người này không thể nào bỗng nhiên biết nói. Chừng nào con còn phóng chiếu là Thượng đế phải chịu trách nhiệm về những gì diễn ra trong tâm con, chừng nào con còn phóng chiếu là người khác hay tà lực phải chịu trách nhiệm về những gì diễn ra trong tâm con, thì con không thể đạt đến giác ngộ.

Đổ trách nhiệm cho thày sẽ không giúp con học bài học

Nhưng ở một tầng cấp sâu hơn nữa, có một sự phóng chiếu còn vi tế hơn mọi thứ khác, đó là sự phóng chiếu được thày Maitreya mô tả thật chi tiết trong sách Chìa khóa cho Tự do Tâm linh (Master Keys to Spiritual Freedom) là khi con phóng chiếu rằng vị thày phải chịu trách nhiệm những gì diễn ra trong tâm con.

Chính điều này đã khiến con rời bỏ nơi trú ẩn an toàn, khu Vườn Eden – nếu có thể gọi như vậy – là biểu tượng cho dòng tông các vị đạo sư chân truyền đi trở ngược xuyên qua các hàng ngũ tâm linh cho đến Đấng Sáng tạo. Vườn Eden nhằm mục đích bảo vệ các dòng sống tân lập để họ tìm được nơi vị đạo sư một hệ tham chiếu, hầu họ có thể đối phó với sự khai ngộ không thể tránh khỏi của cõi vật chất được biểu tượng trong Kinh Sáng thế qua hình ảnh quả trái của cây hiểu biết thiện ác.

Đó chính là tâm thức nhị nguyên, như chúng tôi gọi như vậy ở phương Đông. Và như đã được giải thích, đó không chỉ là khi có một sự khác biệt hiện hữu, mà là khi có hai biểu hiện của sự khác biệt có thể đối chọi với nhau, hay bị tách rời khỏi tổng thể. Đây chính là lời gian dối, là ảo tưởng cứ giữ con kẹt lại trong Biển Luân hồi, trong vòng khổ đau – bởi vì con không ngừng phóng chiếu ra là con cần phải thay đổi một cái gì hay một ai đó ở ngoài phạm vi quyền tự quyết cá nhân của con.

Phạm vi quyền tự quyết của con là gì chứ? Đó chính là tâm con! Con không chịu trách nhiệm bất cứ gì ở ngoài phạm vi tự quyết của con. Cho nên con cũng không chịu trách nhiệm những gì diễn ra trong tâm của anh chị em con.

Và như các Thượng sư đã giảng dạy, chừng nào con còn phóng chiếu ra để tìm cách thay đổi người khác – thay đổi tâm họ, thay đổi phản ứng của họ – thì con sẽ không thể nhìn vào chính con. Và nếu con không nhìn vào chính mình thì con không thể thấy được chính những phản ứng, những khuôn nếp trong tâm con đang giam giữ con lại.

Công việc của sa nhân thật dễ dàng

Vì con chẳng thấy hay sao với tất cả những giáo lý chúng tôi đã ban truyền, là sa nhân có một công việc thật dễ dàng khi chúng quyết định chống lại Thượng đế và kéo mọi người xuống vòng xoắn ốc dường như bất tận của hành động và phản ứng? Con chẳng thấy hay sao là chúng chỉ cần làm đúng một chuyện: tạo ra một hành động vượt ngoài những gì con chờ đợi như một sinh thể mới đầu thai trên địa cầu?

Một khi chúng đã khiến con bị chấn động bởi một điều gì đó mà con không chờ đợi, thì con dễ dàng cảm thấy là mình phải phản ứng lại cái đó. Lúc đầu, con chỉ phản ứng chút đỉnh. Nhưng khi chúng cứ tới tấp làm tiếp thì cuối cùng con đã vượt qua một lằn ranh khi con không chỉ phản ứng mà thôi. Giờ đây con bắt đầu nghĩ, bởi vì những chuyện chúng làm là sai trái, cho nên con phải có hành động để chặn đứng sai trái đó và phục hồi điều phải.

Như vậy con bắt đầu phóng chiếu ra những hành động của chính con. Rồi người khác cũng bắt đầu phản ứng lại hành động của con, và điều này gây sốc cho con nhiều hơn nữa, vì con có cảm tưởng là con chỉ có thiện ý thì tại sao họ lại phản ứng khi con bảo họ phải làm gì? Đấy, con yêu dấu, họ phản ứng lại vì cùng cái lý do mà con phản ứng. Đây là một cơ chế vô cùng giản dị một khi con hiểu – một khi con nhìn thấy, một khi con trải nghiệm, một khi con có khung tham chiếu của một vị đạo sư chân chính. Vị này không ở trong nhị nguyên cho nên có thể chuyển cho con luồng ánh sáng là thuốc giải độc duy nhất cho các độc tố của nhị nguyên.

Thực tế đơn giản là như sau: Con đã được vị đạo sư chân truyền hướng dẫn là khi con dấn thân vào một cõi nơi quyền tự quyết là quy luật tối hậu, thì con không thể cho phép mình mang kỳ vọng về những gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Thế nhưng sự kiện này đã xảy đến cho nhiều người – và con yêu dấu, nó hoàn toàn thông cảm được. Có lẽ con cảm thấy một nét nghiêm nghị trong giọng nói của ta? Đó là vì ta có ý định đâm thủng qua các lớp dày đặc đã được dựng lên trong tâm thức đại chúng. Nhưng mãnh lực này cũng chính là ngọn lửa tình thương của Tia sáng Hồng ngọc vốn chỉ chứa đựng tình thương trìu mến nhất.

Bởi vì chúng tôi, tất cả chúng tôi, đều hiểu rõ việc bước vào cõi đó khó khăn đến chừng nào. Chúng tôi hiểu rõ sự quyến rũ của tâm nhị nguyên vi tế tới chừng nào. Dù sao thì ta cũng không ở đây để lên án và hạ thấp con mà để cho con cái chìa khóa hầu thoát khỏi nhị nguyên. Và chỉ có một chìa khóa mà thôi, đó là nhận ra điều sau đây: Con đã được vị đạo sư hướng dẫn là trong cõi này, quyền tự quyết ngự trị tối cao. Cho nên con có một phạm vi tự quyết của con, và đó là tâm con.  

Tạo một hành động để ảnh hưởng chọn lựa của người khác

Tuy nhiên, có khả năng con dùng tâm mình để tạo ra một hành động và phóng chiếu nó ra bên ngoài tâm con với mục đích cố tình ảnh hưởng tâm người khác. Con biết rõ là con không thể cho phép mình chờ đợi là sẽ không phải gặp chuyện như vậy. Bởi vì hầu như không thể tránh được là con sẽ phải chạm trán với một ai đó ở ngoài tâm con, ở ngoài phạm vi quyền tự quyết của con, sẽ phóng chiếu một hành động chống lại con với mục đích cố tình thay đổi một điều gì đó trong phạm vi tự quyết của con, thay đổi suy nghĩ của con, thay đổi hay ảnh hưởng chọn lựa của con.

Và như vậy, điều xảy ra cho biết bao người là họ dần dần quên mất lời hướng dẫn nói trên. Và một lần nữa, không có sự khiển trách nào ở đây. Đơn giản là chuyện đó đã xảy ra, và nó xảy ra vì con làm một chọn lựa. Như Maitreya đã giải thích trong sách của thày, mỗi dòng sống đều có một lý do riêng để làm chọn lựa đó. Không có lý do nào là sai, không có lý do nào hay hơn lý do kia – đó là lý do của riêng con.

Khi con phát hiện ra lý do cá nhân đó, con có tùy chọn để thay đổi nó. Nhưng con sẽ không thể phát hiện được nó trừ khi con bắt đầu nhìn vào bên trong chính mình. Và để bắt đầu nhìn vào, con phải phá vỡ cái chu kỳ hành động và phản ứng. Và vì vậy con phải nhận ra một sự thật giản dị mà đức Phật đã dạy cũng như tất cả những vị trong dòng tông đức Phật: Cho dù người khác có làm gì con thì cũng không có định luật tự nhiên nào, hay quy luật tâm linh nào, bảo rằng con phải phản ứng lại.

Điều đó con phải hiểu là chỉ nằm độc nhất trong tâm con. Hoàn toàn có thể xảy ra trường hợp có một ai đó tấn công con và con có hành động né tránh hay thậm chí tự vệ. Nhưng hành động vỏ ngoài này vẫn không có nghĩa là con phải phản ứng lại bên trong tâm con bằng cách tạo ra những khuôn nếp cảm xúc và lý trí sẽ lưu lại trong tâm ngay cả khi hành động vỏ ngoài đã chấm dứt.

Con thấy đó – như Phật đã chứng tỏ và Giê-su cũng đã chứng tỏ – con hoàn toàn có khả năng ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian, con có thể trải nghiệm những hành động đến với con từ người khác mà không khởi lên một phản ứng nội tại tạo ra một khuôn nếp bên trong chính con. Và khuôn nếp này lần hồi tạo ra một cái trớn cho tới khi khuôn nếp đó, những năng lượng cảm xúc và lý trí đó, trở nên mãnh liệt đến độ con mất sự kiểm soát của tâm con. Con mất sự kiểm soát các phản ứng của con.

Và giờ đây con bắt đầu nghĩ là để bảo vệ bản thân, hay để bảo vệ kế hoạch của Thượng đế, hay để quảng bá một đại nghĩa tối thượng nào đó, con phải ra tay hành động. Con phải thay đổi những ai đang tìm cách thay đổi con, vì bây giờ con đã tin vào lời gian dối rằng có những điều phải và những điều trái. Cho nên những gì mà con trải nghiệm người khác gây cho con là trái, và con phải chỉnh đốn lại sai trái đó.

Bị đánh lừa bởi thiện ý

Con có thấy chăng là biết bao người suốt các thời đại đã có thể mang thiện ý tốt lành nhất để làm công việc của Thượng đế, nhưng họ đã bị đánh bẫy để mà sử dụng những phương thức rõ ràng đi ngược lại kinh sách của chính tôn giáo mình, hay đi ngược lại những gì ai ai cũng biết là cách cư xử phải lẽ đối với người khác? Bởi vì tất nhiên, tất cả các con đều biết theo một nghĩa nào đó, việc một người can thiệp vào quyền tự quyết của một người khác là không phải lẽ. Nhưng con cũng cần biết trong cõi này nơi quyền tự quyết ngự trị tối cao, rằng con sẽ không thể tránh gặp chuyện đó.

Cho nên, thay vì cố thay đổi chọn lựa và hành động của người khác, điều con cần làm là tập trung hoàn toàn vào chính con. Và con tập trung vào việc không phản ứng lại, không tạo ra một khuôn nếp phản ứng. Và khi con lỡ tạo ra những khuôn nếp như vậy – như tất nhiên tất cả chúng ta đều đã làm khi chúng ta đầu thai và phải đối phó với cõi vật lý – thì con nỗ lực gỡ bỏ khuôn nếp đó ngay lập tức.

Nếu con muốn giác ngộ, nếu con muốn thăng thiên trong kiếp này, nếu con muốn đạt được tâm an bình, nếu con muốn hoàn thành tiềm năng cao nhất của con, thì con cần làm một chọn lựa, lấy một quyết định, là bắt đầu tháo gỡ các khuôn nếp hành động và phản ứng. Con cho là con phải phản ứng lại khi người ta làm hay nói một số điều. Con cho là con phải hành động, ngay cả trong dài hạn, do con nghĩ là việc phụng sự Thượng đế có nghĩa là mình phải tìm cách ảnh hưởng người khác. Và như thế, con phóng chiếu ra một tầm ảnh hưởng từ chính tâm con.

Con cần suy ngẫm sự khác biệt tinh tế đó, vì tất nhiên con cần nhận ra rằng quả trái của sự hiểu biết thiện ác tượng trưng cho đặc tính chủ yếu của tâm nhị nguyên: rằng không có câu nói nào là tuyệt đối, không có lập luận nào là tuyệc đối. Con có thể chụp lấy chữ nghĩa và bẻ cong đủ kiểu để biện luận chống lại hay thuận theo bất kỳ quan điểm nào, bất kỳ vấn đề nào.     

Con chẳng thấy các thày thông giáo và Pharisi đã bẻ cong ngôn từ để phản bác lại Ki-tô Hằng sống hay sao, khi Ki-tô đứng ngay trước mặt họ bằng xương bằng thịt? Con chẳng thấy là xuyên qua các thời đại, mọi vị đạo sư chân truyền đều đã phải đối mặt với một số người gọi là đệ tử chỉ đến để tranh cãi ở trình độ chữ nghĩa, để vặn vẹo ngôn từ, để phóng chiếu ra một cách diễn giải nào đó?

Cho nên con không thể dựa trên ngôn từ để thực sự phân biện giữa sự thật và sai lầm. Con không thể phán đoán một người, con không thể biết rõ một người, dựa trên những lời mà họ nói ra, và đặc biệt những lời mà họ viết xuống. Và do đó con cần vượt xa hơn ngôn từ, và con có khả năng hòa nhập để cảm nhận không những độ rung của người đó mà cả ý định của họ nữa. Con có thể làm điều đó một khi con bắt đầu nhận biết khuôn nếp hành động và phản ứng nơi chính tâm con, và con cũng bắt đầu xây dựng khả năng phân biện, qua đó con cảm được điều này nơi người khác.

Thu hút thày giả

Con có thể tức khắc cảm nhận khi một ai đó đến với con, và có lẽ họ nói ra những lời lẽ dường như trung hòa hay tử tế, nhưng đằng sau có một ý định muốn ảnh hưởng ý chí tự quyết của con, muốn bắt mạch bất kỳ khuôn nếp hành động và phản ứng nào mà con đang mang trong tâm con, rồi tìm cách sử dụng để khiến con phản ứng lại – và như vậy con sẽ làm hành động mà họ muốn phóng chiếu vào tâm con. Cho nên con chẳng thấy hay sao là chừng nào con còn bị mắc kẹt, chừng nào con còn hoàn toàn đồng hóa với khuôn nếp hành động và phản ứng đó – dựa theo định luật muôn đời rằng khi học trò sẵn sàng thì vị thày sẽ xuất hiện – thì con sẽ không thể tránh khỏi bị thu hút bởi, hay chính con là người thu hút mình vào một đạo sư mà chúng ta có thể gọi là thày giả.

Bởi vì tất nhiên, câu nói “khi học trò sẵn sàng thì vị thày xuất hiện” có nghĩa là học trò luôn luôn sẵn sàng cho một vị thày nào đó, và vị thày xuất hiện chính là vị thày mà học trò có khả năng nhìn thấy ở mức tâm thức hiện thời của mình. Vì vậy khi con bị mắc bẫy và đồng hóa toàn diện với khuôn nếp hành động và phản ứng, con chỉ có thể thấy được một đạo sư cũng ở trong cùng khuôn nếp đó, nhưng là một đạo sư đã đưa khuôn nếp đó tới một mức cùng cực hơn con. Do đó vị ấy sẵn sàng phóng chiếu vào học trò của ông những gì họ phải làm, những hành động và phản ứng mà họ phải có đối với giáo lý của ông – hoặc đối với một vấn đề nào đó trong cuộc sống mà ông phóng chiếu ra là họ cần giải quyết.

Cho nên chỉ khi nào con bắt đầu nhìn ra khuôn nếp hành động và phản ứng này trong đời mình thì con mới có thể từ hóa (magnetize) chính con đến một vị thày gọi là chân chính – một cách chọn từ giả tạo, tất nhiên – hay nói cách khác, một đạo sư đã ít nhất bắt đầu nhìn thấy và tách mình ra khỏi sự đồng hóa với những khuôn nếp đó. Đó là lúc con có thể mở tâm ra với một giáo lý đến từ dòng tông của các vị thày chân truyền, là những vị thày không giảng dạy vì họ mang một khuôn nếp hành động và phản ứng mà họ muốn phóng chiếu. Họ giảng dạy vì họ không phóng chiếu – họ chỉ chia sẻ sự Hiện diện của họ tựa như mặt trời chia sẻ ánh sáng của nó.

Mặt trời không chiếu sáng trên trái đất với mục đích ảnh hưởng con người. Mặt trời là mặt trời; nó sẽ tỏa sáng ngay cả khi không có hành tinh nào quay quanh nó, vì nó là một quả cầu tự phát sáng, là cánh cửa mở giữa cõi vật chất và các cõi cao hơn. Nó chỉ đơn giản tỏa sáng vì đó là niềm vui của nó. Vị thày cũng giảng dạy vì đó là niềm vui của thày. Đó là một biểu hiện của con người mà thày là.

Và đây là tại sao một trong những cạm bẫy vi tế cho nhiều học trò là cứ dõi nhìn vào một vị thày nào đó, nhìn vào giáo lý vỏ ngoài, nhìn vào ngôn từ hay cách dùng từ, nhìn vào các ý tưởng, nhìn vào chính vị thày đó – dáng vẻ ngoài của thày, cách ăn mặc của thày, cách cư xử của thày, cái này hay cái nọ của thày – và họ tập trung vào hình thức vỏ ngoài của thày thay vì nhận ra rằng hình thức vỏ ngoài chỉ là một cỗ xe, rằng nó không hẳn quan trọng bằng sự kiện nó đủ trong suốt để cho phép cõi cao chiếu xuyên qua.

Và cho dù hình dạng vỏ ngoài của thày có vẻ không được toàn hảo theo chuẩn mực của con, thì chuẩn mực đó của con cũng là sản phẩm của những khuôn nếp hành động và phản ứng mà con mang trong tâm. Cho nên nếu con tìm cách áp đặt chuẩn mực của con lên thày, thì làm sao vị thày đó có thể hữu dụng cho con được? Bởi vì cách duy nhất để vị thày hữu dụng cho con là con thấy có một ánh sáng tỏa rạng xuyên qua hình dạng vỏ ngoài của thày, rồi con với lấy ánh sáng đó, đi theo ánh sáng đó. Con hãy dõi theo ánh sáng, con yêu dấu. Con biết trong thế gian người ta thường nói: “Dõi theo đồng tiền,” nhưng ta thì nói: “Dõi theo ánh sáng!”

Hãy nhìn vượt xa hơn hình dạng vỏ ngoài của vị thày cùng giáo lý, cho dù giáo lý hay vị đó như thế nào. Hãy bước theo ánh sáng đang chiếu xuyên qua. Chính nhờ ánh sáng đó mà con sẽ có một khung tham chiếu tạo uy lực giúp con thăng vượt các khuôn nếp hành động và phản ứng đang giữ con kẹt lại ở mức tâm thức hiện thời của con. Bởi vì chỉ khi nào con cảm nhận được một cái gì vượt xa hơn đang tỏa chiếu xuyên qua vị thày thì con mới có thể bước ra ngoài các khuôn nếp đó trong tâm con – và như vậy, đột nhiên, con sẽ trải nghiệm được khoảnh khắc nhận biết thuần khiết đó.

Sự quan trọng của nhận biết thuần khiết

Và đâu là tầm quan trọng của việc con trải nghiệm nhận biết thuần khiết? Đó là vì khi con trải nghiệm nhận biết thuần khiết, con trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng. Và như vậy con có thể nhận ra là ánh sáng mà cho tới giờ con thấy chiếu xuyên qua vị thày, giờ đây nó có thể chiếu xuyên qua con. Và như vậy con đã sử dụng vị thày trong cách cao nhất, bằng cách nhận ra là khi con bước theo một vị thày cho tới mức hiện thân được lời dạy thì con cũng hiện thân được ánh sáng, rồi con trở thành cái mắt xích kế tiếp trong dây chuỗi các vị thày chân chính.

Chính con cũng trở thành thày cho dù con không toàn hảo. Bởi vì ít ra khi con có được những thoáng hiện của nhận biết thuần khiết vượt khỏi khuôn nếp phản ứng và hành động đó, thì con trở thành một cánh cửa mở cho ánh sáng. Rồi con có thể tỏa ra một lượng ánh sáng nào đó cho ai khác.

Ánh sáng vượt khỏi lời dạy

Khi ta đưa đạo Phật đến Tây Tạng, ta đã thành lập một trường học đào tạo những đạo sư hiểu rằng mục đích của họ không cứ là đem lại một giáo lý vỏ ngoài, mà là chuyển đạt áng sáng trực tiếp đến học trò của mình, vì họ hiểu rằng cho dù giáo lý có hay đến chừng nào thì đó cũng chỉ là chữ nghĩa, và chữ nghĩa thì có thể bị bẻ cong và hiểu lầm.   

Nhưng ánh sáng không thể bị hiểu lầm. Vì học trò hoặc sẽ trải nghiệm được áng sáng, hoặc sẽ không trải nghiệm được chút nào khi y chỉ nhìn thấy những phóng chiếu mà y phóng chiếu vào thày. Cho nên họ biết rằng khi họ có thể quy tụ học trò, chia sẻ Hiện diện của họ, chia sẻ ánh sáng của họ, thì có thể sẽ tới một điểm học trò cũng trải nghiệm được ánh sáng và suy nghiệm xem ánh sáng đến từ đâu – vì y ngộ ra là ánh sáng không đến từ thày mà nó đến xuyên qua thày. Và khi y nắm bắt được thực tại này, y sẽ có thể bước vào sự nhận biết thuần khiết rồi trở thành một cánh cửa mở cho ánh sáng.

Và khi đó vị thày đã làm xong công việc chuyển đạt ánh sáng, thậm chí chuyển đạt cả giáo lý nữa. Bởi vì giáo lý là gì chứ? Phải chăng là ngôn từ vỏ ngoài? Không đâu, giáo lý chính là ánh sáng, giáo lý là Hiện diện. Vì mọi thứ đều là Phật tánh, cho nên mục đích của Phật đâu có gì khác hơn là để giúp con ngộ ra là con chính là Phật tánh – bằng cách trực tiếp trải nghiệm Phật tánh thay vì ngồi đó trong tâm mình và cho rằng mình đã hiểu Phật tánh là gì.   

Nhưng con chỉ có một tâm ảnh mà thôi, và con say mê tâm ảnh đó đến độ con không muốn cả Phật đến phiền con. Vì con chỉ muốn ngồi đó đánh bóng tấm hình đó, cố làm sao cho nó thật toàn hảo, và do đó con không biết là con đã gặp Phật trên đường, và con không thể nào áp dụng lời khuyên nhủ là con phải “giết Phật khi gặp Phật.”   

Và ý nghĩa câu đó, tất nhiên, là nếu con nhận dạng được Phật trong một hình tướng nào đó ở ngoài con thì tâm ảnh đó sẽ ngăn cản con chứng được Phật tánh của chính con. Và như vậy đức Phật, trong ý định tốt nhất của Phật, đã đột nhiên biến thành phản-Phật. Vị đạo sư, với ý định tốt nhất của vị đó, đột nhiên biến thành phản đạo sư. Đương nhiên, cả Phật lẫn đạo sư không tự nhìn mình theo cách đó, nhưng trong thực tế con lại nhìn họ theo cách đó, vì con từ chối thu nhận, nhập tâm và trở thành giáo lý.

Chìa khoá của giác ngộ

Đây là bài giảng mà các con đã xứng đáng nhận được qua dịp cuối tuần này khi con đi qua nguyên tiến trình mà con đã đi qua trong đời mình, khi con sẵn lòng chất vấn, sẵn lòng nhìn vượt xa hơn, sẵn lòng với tới những lời dạy cao hơn, những tầm hiểu cao hơn, những trải nghiệm cao hơn. Nhưng ta sẽ nói thêm là tất cả các con đều có thể lợi lạc nếu các con thực sự suy nghiệm và nhập tâm bài giảng mà ta đã ban ra biết bao thế kỷ trước, là bài giảng mà gần đây ta đã hướng dẫn sứ giả này tìm lại, về “Tự giải thoát qua cái thấy trong nhận biết trần trụi.”  

Bởi vì một trong những cám dỗ cuối cùng mà con cần khắc phục trên đường tu tâm linh là cứ luôn luôn cố đạt được một trải nghiệm cao siêu, phi phàm. Nhưng con yêu dấu, thực tế là ý tưởng cho rằng con sẽ đạt được một trải nghiệm cao siêu nào đó khi gặp Phật hay được giác ngộ, chính là trở ngại cuối cùng trên đường tới giác ngộ. Vì như ta có nói trong bài giảng, một khi con chứng nghiệm nhận biết thuần khiết, con sẽ thấy đó có thể gọi là nhận biết “bình thường”, theo nghĩa là không có sự tương phản nào cả. Không có nhị nguyên ở đó để tạo ra sự tương phản giữa thấp và cao, giữa sướng và khổ.

Đó là tại sao đức Phật đã cố đưa ra một từ không có đối nghịch nhị nguyên. Cho nên thày đã nói đến “cực lạc”, như người ta đã dịch. Nhưng tất nhiên con vẫn có thể bảo: “Thế nhưng phản cực lạc thì sao? Hay phi cực lạc, hay vô cực lạc?” Và một lần nữa, con lại rơi vào cạm bẫy bẻ cong ngôn từ thay vì vượt khỏi ngôn từ và trải nghiệm trạng thái nhận biết thuần khiết nơi không có cao hay thấp, không có tương phản.  

Và như vậy thậm chí con có thể gọi là “nhận biết thuần khiết” được không? Không được, nhưng làm thế nào con có thể nói về điều gì mà không dùng đến ngôn từ, con yêu dấu? Đây là nỗi khó khăn mà ngay cả chúng tôi là thày chân chính cũng phải đối mặt. Nhưng chúng tôi không xem đó là một vấn đề, vì chúng tôi luôn luôn tìm cách làm nhiều hơn là từ ngữ: chúng tôi chuyển đạt ánh sáng. Mỗi bài truyền đọc được một chân sư thăng thiên ban ra là một biểu hiện của ngọn lửa tâm linh (fohat), trong đó từ ngữ là những cái chén ánh sáng. Một số đệ tử không nhìn ra điều này mà chỉ thấy được từ ngữ.

Nhưng rồi cuối cùng, nhiều người cũng sẽ cảm được là trong đó có nhiều hơn là từ ngữ. Và khi con tiếp tục bước theo cái nhiều hơn đó, tiếp tục bước theo ánh sáng, thì con sẽ đạt tới chìa khóa của giác ngộ. Nơi đó con thấy được rằng mặc dù đạo sư là một cánh cửa mở cho ánh sáng, vị ấy không phải là cánh cửa mở duy nhất, vì ngay bên trong con cũng có một cánh cửa mở khác. Và khi con trở thành cửa mở, đó chính là giác ngộ.

Có một số người muốn nắm lấy giác ngộ và phóng chiếu lên nó một khái niệm cho rằng giác ngộ có một số giai đoạn. Nhưng cũng hữu ích không kém là bảo rằng không có những giai đoạn giác ngộ, mà giác ngộ là khi con ngộ ra sự sống không đứng yên một chỗ, sự sống là thăng vượt. Và như vậy các giai đọan đó chỉ đơn giản là dòng chảy không ngừng của Dòng sông sự Sống, khi con không xem đó là những giai đoạn có thể được đặt lên một thang điểm cao thấp. Bởi vì con đã thăng vượt nhu cầu bảo rằng: “Ồ, tôi đang đứng ở tầng giác ngộ thứ 33, cho nên tôi cao hơn tất cả những ai đang đứng dưới tôi.”

Nhưng khi đó thì hiển nhiên, con chưa giác ngộ, phải không? So sánh liệu có ích chi? Lập ra thang điểm có ích gì? Phải, ở một mức tâm thức nào đó thì người ta cần làm vậy. Nhưng sẽ tới một điểm khi con vượt quá nhu cầu này, và con không quan tâm đến cả chuyện mình có giác ngộ hay đang ở tầng này tầng nọ. Con chỉ lo biểu lộ ánh sáng, để cho ánh sáng chảy xuyên qua con, chia sẻ Hiện diện của con mỗi ngày càng nhiều hơn mà không có mục đích gì hết.  

Bởi vì sẽ tới một điểm khi con buông bỏ mục đích. Ở một giai đọan nào đó thì có mục đích là một điều phải lẽ, nhưng sẽ phải tới một điểm khi con buông cả khái niệm mục đích, một mục đích mà con ra sức đạt được – vì con buông bỏ ý niệm có một cái gì tách biệt với con mà con cần đi tới.

Thay vào đó, con là người mà con là. Con là cánh cửa mở cho bất kỳ biểu hiện nào mà Tánh linh quyết định biểu hiển. Con sẵn lòng mở miệng nói mà không biết điều gì sẽ được thốt ra qua cửa miệng. Cho nên thỉnh thoảng con sẽ ngạc nhiên, và người khác cũng sẽ ngạc nhiên như con, bởi những điều con nói.

Và đó chính là dòng chảy của Tánh linh, con yêu dấu. Tất cả các con đều mang tiềm năng làm cánh cửa mở. Nếu con thấy sứ giả này là cánh cửa mở thì con đừng rơi vào cạm bẫy sùng bái thần tượng, mà hãy dõi bước theo ánh sáng cho đến khi con nhìn thấy ánh sáng trong con. Bởi vì con sẽ thấy chính con cũng là cửa mở.

ĐÓ là lời dạy muôn đời, vượt thời gian. Đó cũng là món quà của ta hôm nay. Với tình yêu của ta, ta niêm con lại trong tim ta.