Thử thách của con là giải quyết bí ẩn của quyền tự quyết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 31/12/2021. Đăng ngày 3/1/2022.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Thật là một niềm vui cho tất cả chúng tôi, các chân sư thăng thiên, được dõi nhìn các con, các đệ tử trực tiếp của chúng tôi, trong suốt năm vừa qua. Rất nhiều người trong số các con đã sử dụng giáo lý của chúng tôi và đã có những tiến bộ vượt bực trên đường tu. Thường khi, có thể ta không là người đầu tiên ban lời khen ngợi, nhưng dù sao thì ta muốn ghi nhận bước tinh tấn này – bước đó đã rất đáng kể đối với nhiều người trong số các con đã dùng những lời dạy này.

Khi ta nói tiến bộ tâm linh, tất nhiên là ta muốn nói đến sự tiến bộ trong việc giải quyết tâm lý của con, là tâm lý đang buộc chặt con lại với địa cầu, bởi vì đó chính là mục đích của tiến bộ tâm linh. Trước đây chúng tôi đã có đề cập đến một tình thế oái oăm mà chúng tôi gặp khi làm việc với con người trên trái đất. Thày Giê-su có nói là chúng tôi giống như những nhân viên bán xe cũ, sử dụng kỹ thuật nhử mồi xong đánh tráo. Để khiến con bước qua ngưỡng cửa, chúng tôi phải đưa cho con một lời dạy hấp dẫn đối với con, sau đó chúng tôi hy vọng là con sẽ có thể tiến xa hơn, tự điều chỉnh và nhận diện được mục đich thực sự của đường tu tâm linh.

Tất nhiên khi con nhìn địa cầu trong tổng thể, có một số đáng kể những người tự xem mình là tâm linh nhưng họ vẫn bước đi trên con đường vỏ ngoài, con đường công truyền. Họ nghĩ đó chỉ là chuyện sử dụng một kỹ thuật tâm linh, tìm hiểu một giáo lý tâm linh, học hỏi nó một cách trí thức, đi theo một vị đạo sư, thì một ngày kia họ sẽ tự động đạt đến cái mà họ xem là mục tiêu, cho dù mục tiêu đó là gì. Như chúng tôi đã giải thich rất nhiều lần, tất nhiên chuyện đó không phải vậy. Đó là một ảo tưởng được khởi xướng bởi các sa nhân, các thày giả muốn giam giữ con người kẹt lại trên địa cầu, kẹt lại dưới quyền kiểm soát của chúng.

Điều gì cho phép một thế lực nào đó – cho dù là con người hay những sinh thể phi hiện thân – nắm quyền kiểm soát trên con? Phải, ngoại trừ một nhà độc tài kiểm soát được thân xác của con, thì đó chỉ có thể là một sự kiểm soát tâm lý. Vậy điều gì cho phép một ai đó kiểm soát tâm lý của con? Đó là một cái gì trong chính tâm lý con mà họ có thể sử dụng để kiểm soát con. Ông hoàng của thế gian nắm được trong con một cái gì đó để y sai khiến con. Y có thể bắt con làm những điều y muốn con làm. Y có thể khiến con phản ứng, giống như bọn quỷ của Mara đã mưu toan khiến ta phản ứng lại khi ta sẵn sàng bước vào Niết bàn.

Tại sao con không sẵn sàng bước vào Niết bàn chứ? Vì bọn quỷ của Mara nắm được một phản ứng nơi con mà chúng có thể dùng để kéo con vào vở tuồng, như ta đã giảng dạy hồi năm ngoái. Điều gì lôi kéo và khiến con tập trung vào vở tuông đang được trình diễn trên địa cầu? Có một dính mắc nào đó. Nhiều người trong các con đã nghe nói về “dính mắc”, có người đã nghe nói nhiều năm rồi, nhưng liệu con đã nắm bắt được dính mắc thật sự là gì chăng?  

Thế nào là một dính mắc? Con thử lấy tình cảnh được mô tả trong kinh Tân ước. Có một thanh niên kia đến với Giê-su, nói: “Thưa thày, con thực sự muốn đi theo thày, nhưng trước tiên xin thày cho phép con đi chôn cha con đã.” Giê-su nói với anh ta: “Hãy để cho người chết đi chôn người chết.” Rồi có một tình cảnh khác khi Giê-su bước đến các môn đồ tương lai của thày đang vá lưới đánh cá, và thày nói: “Hãy bỏ lưới lại và đi theo ta.” Chàng thanh niên kia muốn chôn cha mình thì bị dính mắc vào một loại phong tục tập quán. Và nếu các môn đồ kia không chịu rời bỏ lưới cá của họ ngay tức khắc thì đó cũng là vì họ có dính mắc.

Nói cách khác, vị thày tâm linh luôn luôn tìm cách thực hiện điều gì? Đó là giúp con chuyển dời từ tầng tâm thức của con ngay bây giờ để bước lên tầng tâm thức cao hơn một bậc. Cho nên vị thày sẽ luôn luôn đến và nói: “Con hãy bước với ta lên tầng kế tiếp.” Nếu trong con có cái gì đó mà con dính mắc, con sẽ trả lời: “Ồ, con sẽ đi theo thày, nhưng trước tiên con phải làm xong việc này hay việc nọ cái đã.” Con không thể theo thày được, và có thể con sẽ nói: “Nhưng chắc hẳn con sẽ có thể theo thày sau đó.” Tất nhiên là con có thể, chúng tôi không bảo là hoặc có hoặc không – phải ngay bây giờ hay không bao giờ.

Nhưng đằng khác, liệu con có xét xem con có một Sứ vụ Thiêng liêng hay chăng? Liệu con có xét xem trong Sứ vụ Thiêng liêng đó, khi con hoạch định kiếp đầu thai sắp tới của con – tức kiếp này đây – chính con đã có một viễn quan cao hơn. Con đã định ra một muc tiêu, và con thấy được là để đạt mục tiêu mà con định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng, con sẽ phải kinh qua một tiến trình, vì con sẽ phải chuyển từ mức tâm thức sẵn có khi con bước vào hiện thân, để vươn lên mức tâm thức cần thiết cho việc hoàn thành mục tiêu trong Sứ vụ của con.

Con cũng định ra một mốc thời gian, và con nói, lý tưởng nhất con muốn đạt mục tiêu trước khi con mãn kiếp đầu thai này, hoăc ở một thời điểm nhất định nào đó, một độ tuổi nào đó. Cho nên con không có nhiều thì giờ để do dự lần lữa, đi lạc đường hay chui vào ngõ cụt đâu con. Con đã có một thời khóa biểu mà con định ra cho chính mình. Khi vị thày đến với con, thày không đến bởi thày muốn ép uổng gì con. Thày đến là vì trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, con đã muốn thày đến nhắc nhở cho con là đã tới lúc con cần bước đi. Cho nên nếu bấy giờ con nói: “Ồ, xin thày để yên con một lúc, con đang bận đây,” không phải là con đang thất hứa với thày mà con thất hứa với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cho nên đó là tại sao tất cả các con sẽ được ích lợi rất nhiều nếu các con ghi nhớ rằng: “Tôi đã định ra những gì trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi? Tôi đã muốn thực hiện những điều gì trong kiếp này?”  

Khi đó, con có thể nhìn vào bản thân và nói: “Tôi thấy là trong hai ba năm vừa qua, tôi đã trở nên dính mắc với một số quan điểm, một số vấn đề đã chiếm mất quá nhiều sự chú ý của tôi. Thực sự chúng đã hút mất một khối năng lượng đáng kể, cả về lý trí lẫn tình cảm, vì tôi đã nghĩ ngợi quá nhiều về các vấn đề này rồi cứ nghiền đi nghiền lại, duyệt qua đủ loại kịch bản trong tâm trí mình và cố thuyết phục người khác là mình đúng. Tôi mang quan điểm thật dứt khoát về các vấn đề đó.” Nếu con nhận thấy tâm trạng này trong con, con có thể nói: “Liệu chuyện này sẽ giúp hay sẽ ngăn cản Sứ vụ Thiêng liêng của mình? Liệu chuyện này sẽ giúp mình tiến gần hơn đến mục tiêu, hay nó sẽ khiến mình bị kẹt lại một mức tâm thức nào đó? Vậy đây có phải là một dính mắc hay không?”

Và rồi có lẽ con sẽ có một căn bản tốt hơn để quyết định: “Bây giờ đã đến lúc tôi buông nó ra. Bởi vì so với Sứ vụ Thiêng liêng, liệu vấn đề này sẽ quan trọng lắm không, cho dù là nó thế này, thế kia hay thế nọ? Nó quan trọng thế nào? Liệu tôi sẽ nói được với Giê-su: Chuyện đó có là gì đâu đối với con, vì con sẽ bước theo thày.”

Liệu con sẽ nói được với vị thày: “Con sẽ đi theo thày. Con sẽ bỏ lại lưới cá của con. Con sẽ để yên cho những người chết đi chôn người chết. Con sẽ để yên cho những kẻ chết bàn cãi, tranh luận về vấn đề này hay vấn đề nọ. Con sẽ chỉ BUÔNG nó ra và bước chân đi tiếp.”

Đây là điểm khác biệt giữa những người có thể tận dụng một vị thày tâm linh và những người không thể. Đó là điểm khác biệt giữa những ai sẽ đạt được mục tiêu và những ai không đạt được. 

Nếu con so sánh đợt truyền pháp này mà chúng tôi đã ban truyền qua sứ giả này, với đợt trước qua tổ chức Summit Lighthouse, con sẽ thấy là nhiều người trong Summit Lighthouse đã ý thức rõ ràng hơn nhiều rằng cốt yếu của đường tu tâm linh là kỷ luật, là đi theo vị thày, tuân lời đạo sư, nhắm theo một hướng nhất định nào đó. Họ đặt trọng tâm nhiều hơn vào mục tiêu.

Trong đợt truyền pháp này, chúng tôi đã không đặt áp lực nào lên các con. Chúng tôi đã để yên cho con tự ý chọn cách thi hành lời dạy, định ra tốc độ thăng tiến của mình. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là cách tiếp cận này hay hơn cách trước. Chỉ là hai cách tiếp cận khác nhau mà thôi, vì khi con nhìn vào Summit Lighthouse, con sẽ thấy rất nhiều thành viên có mục tiêu rõ ràng, họ rất kỷ luật, rất quyết chí trong tâm vỏ ngoài để dành ra rất nhiều giờ đọc chú mỗi ngày, để thi khảo hạch và nhiều thứ khác. Nhưng họ đã không thực sự tinh tấn nhiều lắm vì họ vẫn còn dính mắc. Họ dính mắc với cách thức làm việc, họ cũng dính mắc với một số quan điểm cứng nhắc, kể cả quan điểm về tầm quan trọng của bản thân họ trong vai trò đệ tử tâm linh đang đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain, hay đang cứu nguy địa cầu cho Saint Germain theo cách nhìn của họ.

Phương pháp mà chúng tôi sử dụng thật không quan trọng mấy, vì không có gì bảo đảm là học viên sẽ đáp ứng. Chuyện này tùy thuộc vào học viên có đáp ứng hay không. Con thấy chẳng hạn, sứ giả này đã không tự xưng mình là đạo sư, ông đã không quy tụ một nhóm tín đồ chung quanh ông và bảo họ rằng: “Phải làm cái này, phải làm cái kia.” Nhưng ông đã làm gương cho con. Ông rất chuyên chú nhắm đến mục tiêu. Khi ông khám phá con đường tâm linh, khi ông tìm ra các giáo lý, ông đã tỏ ra rất chuyên cần. Cách đây rất lâu rồi, ông đã tới điểm là ông quyết định làm việc trực tiếp trên tâm lý của ông. Ông rất kỷ luật, rất sẵn lòng xem xét tâm lý mình, học tập giáo lý cùng sách vở. Ông rất sẵn lòng nắm lấy các giáo lý được ban truyền qua trung gian chính ông và ông không lý luận: “Ồ, lý do tại sao các chân sư truyền giáo lý này xuyên qua tôi là vì tôi đã vượt xong tất cả các khai ngộ đó rồi.” Ông đã không cho phép mình suy luận như thế. Trái lại, ông nắm lấy các lời dạy, soi vào gương và nói: “Những lời này áp dụng cho tôi như thế nào?”

Tất nhiên, tất cả các con đều có cùng tiềm năng như vậy. Chúng tôi không đang tâng ông lên mà thật sự chúng tôi muốn nói: “Điều gì một người làm được thì mọi người cũng làm được.” Liệu con quyết tâm như thế nào để hoàn thành những mục tiêu mà con đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng của con cho kiếp này? Con cảm thấy mình đã hoàn thành được tới đâu? Liệu con có sẵn lòng tự hỏi, hay hỏi một chân sư, hay hỏi một vị Thượng sư? Vào ngày 2 tháng 1 tới đây, các con sẽ tiếp tục khóa canh thức với các Thượng sư, liệu con có sẵn lòng hỏi thày Lanto và sau đó các Thượng sư kia rằng: “Xin thày chỉ cho con thấy con đang ở điểm nào trên đường tu. Liệu con có bị trễ trong Sứ vụ Thiêng liêng hay con đang đồng hành với Sứ vụ? Xin thày chỉ cho con thấy con còn thiếu sót chỗ nào, và dính mắc nào đang kìm hãm con lại?” Với khoá canh thức này, đây là một cơ hội to lớn cho các con trong cương vị một cộng đồng. Nó có thể đem lại sự tăng triển vượt bực cho những ai trong số các con thật chuyên cần.

Như ta vừa nói, sứ giả này đã sẵn lòng thực hành các lời dạy, xem xét tâm lý của mình, không những để giải quyết chấn thương nhập đời vũ trụ khi ông mới đến địa cầu, mà còn để nhận ra một điều mà chúng tôi chưa đề cập nhiều lắm – đó là sự kiện ông đã không đến địa cầu với một tâm lý đã giải quyết xong xuôi hoàn toàn. Khi ông đến địa cầu, ông chưa sẵn sàng thăng thiên. Ông đến địa cầu với một thái độ nào đó, một tư duy nào đó, và như ông đã sẵn lòng nhận ra, tư duy đó đã khiến ông nghĩ mình đến đây là để giúp nâng cao địa cầu, giúp giải thoát người khác.

Kỳ thực, ông đến đây là để tự giải thoát chính ông khỏi tư duy đã cầm chân ông lại trên một hành tinh tự nhiên. Tất nhiên điều này cũng đúng với tất cả các con là avatar. Tại sao chúng ta đã đến địa cầu chứ? Không phải như con nghĩ bởi vì chúng ta là những người xấu ác hay ích kỷ chỉ biết lo lợi cho mình, và do đó chúng ta đã xứng đáng đi xuống một hành tinh như thế này. Không phải vậy đâu con. Chúng ta xuống đây là để giúp nâng cao địa cầu bằng cách có một trạng thái tâm thức cao hơn hầu hết mọi người khác trên trái đất, hầu chúng ta có thể kéo tập thể đi lên. Nhưng chúng ta cũng không đến đây với một mục đích nhất định để đem lại một số thay đổi nhất định và để thay đổi một số người nhất định.

Nói cách khác, trước khi ta đến địa cầu như một avatar, ta đã không có ý định đặc biệt gì để sáng lập một tôn giáo có tên là Phật giáo. Trước khi Giê-su đến địa cầu như một avatar, thày cũng không có ý định đặc biệt trở thành Ki-tô hiện thân cũng như sáng lập một tôn giáo toàn cầu. Ngược lại với các tín đồ của chúng tôi muốn tin là chúng tôi thật đặc biệt, chúng tôi không có gì là đặc biệt so với tất cả mọi avatar khác đã đến địa cầu. Chúng tôi mang cùng tiềm năng y như mọi avatar khác, nhưng tiềm năng này chỉ có thể trải bày ra khi chúng tôi đáp ứng với sự có mặt của mình trên địa cầu, là khi chúng tôi bắt đầu khắc phục phản ứng ban đầu, chấn thương nhập đời và những phản ứng của mình đối với địa cầu, cũng như khắc phục chính cái tâm lý đã đưa chúng tôi tới đây.

Đâu là tầng giáo lý kế tiếp mà chúng tôi muốn trao truyền trong khuôn khổ công việc tiết lộ tuần tự về các avatar? Đó là sự kiện trong cương vị một avatar, con đã nhập thế gian trên một hành tinh tự nhiên, có nghĩa là ở đó không có sa nhân, không có chuyện phần lớn dân cư bị rơi vào nhị nguyên và tách biệt. Có tiềm năng là con sẽ rơi vào tâm thức tách biệt, tương tự như ở địa cầu trước khi nó biến thành một hành tinh phi tự nhiên, nhưng chuyện này không có gì là chắc chắn.

Con khởi sự trên một hành tinh tự nhiên cũng gần giống như chúng tôi đã nói về địa cầu, nghĩa là con khởi sự với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm. Nhưng khác với địa cầu, trên một hành tinh tự nhiên con khởi sự ở tầng tâm thức thấp nhất có mặt trên hành tinh đó (vì chỉ trên hành tinh phi tự nhiên con mới bắt đầu ở tầng 48 và có nhiều tầng khác ở dưới mức này). Trên một hành tinh tự nhiên, con khởi sự ở tầng tâm thức thấp nhất mà hành tinh đó được thiết kế, xong con lần hồi vươn lên cao hơn cho tới tầng cao nhất có mặt trên hành tinh đó.

Tất nhiên, điều xảy ra trên một hành tinh tự nhiên là sẽ có một số dòng sống đi qua tiến trình này nhanh hơn một số dòng sống khác. Một số chuyên cần hơn, họ tận dụng những vị thày mà họ có, nghĩa là họ đạt tới tầng tâm thức cao nhất hiện diện trên hành tinh đó.

Vấn đề đặt ra là khi đó họ sẽ làm gì đây? Bởi vì chẳng có lý do gì mà họ ở lại trên hành tinh đó, ít ra là không quá một thời hạn nào đó. Trong một thời gian, con có thể phụng sự trong một tư cách lãnh đạo, nhưng sẽ tới một điểm con khao khát một việc làm khác hơn. Con biết là con sẽ cần tiến lên bước kế tiếp. Đối với các avatar đã đạt đến mức này, có hai chọn lựa mở ra cho họ. Một là có những hành tinh tự nhiên khác đang ở tâm thức cao hơn hành tinh nơi con đã khởi sự, và con có thể chuyển sang một hành tinh như thế. Và chọn lựa thứ hai là con có thể di đến một hành tinh phi tự nhiên.

Là một sinh thể đã đạt đến tầng tâm thức cao nhất có thể có trên một hành tinh tự nhiên, vì lý do gì con lại muốn chọn đến một hành tinh phi tự nhiên chứ? Điều này tùy thuộc phần lớn vào trình độ tâm thức của con lúc đó. À, ta vừa nói là trên mỗi hành tinh tự nhiên (vì hiển nhiên các con không đều đến từ cùng một hành tinh tự nhiên) thì trên hành tinh đó có một tầng tâm thức cao nhất. Nhưng điều này không nhất thiết là con đã sẵn sàng thăng thiên. Không phải là khi con đi mút tíến trình tăng trưởng trên một hành tinh tự nhiên thì con sẽ tự động sẵn sàng thăng thiên để trở thành chân sư đâu.

Lý do là vì để trở thành chân sư thăng thiên, con phải giải quyết xong toàn bộ bí ẩn của quyền tự quyết. Con cần thực sự thể nhập và hiểu rõ quyền tự quyết là gì và mang ý nghĩa như thế nào. Con cần giải được tại sao đó là một quyết định kỳ tài, một tuyệt tác của Đấng Sáng tạo khi ngài ban quyền tự quyết cho mọi sinh thể tự nhận biết. Sự thật là tất nhiên, đấng Sáng tạo đã không phát minh ra khái niệm đó, và quyền tự quyết đã được sử dụng trong nhiều cuộc sáng thế khác – nhưng không trong mọi cuộc sáng thế, vì đã có một số Đấng Sáng tạo đã thử nghiệm một quyền tự quyết không hoàn toàn tự do, và tất cả các Đấng ấy đều đã học được bài học là việc hạn chế quyền tự quyết không mấy thành công. Thật sự cách duy nhất để sáng thế, để sáng tạo một thế giới hình tướng bền vững là ban cho nó quyền tự quyết toàn diện.

Để thăng thiên từ một bầu cõi phi tự nhiên, con cần giải quyết bí ẩn đó. Một số các con sẽ nói: “Được rồi, tôi sẽ cố làm vậy trên một hành tinh tự nhiên.” Nhưng cũng có một số khác – thành thật mà nói, đó là những người có can đảm bảo rằng: “Tôi không nghĩ tôi hiểu được chuyện này. Tôi không nghĩ tôi hiểu được quyền tự quyết. Tôi không hiểu tại sao Đấng Sáng tạo của chúng ta lại ban cho mọi người quyền tự quyết.” Và số đó trong các con sẽ nhìn về các hành tinh phi tự nhiên và nói: “Khi tôi nhìn một hành tinh phi tự nhiên, tôi thật sự không hiểu nổi tại sao Đấng Sáng tạo lại ban quyền tự quyết cho mọi người. Nhưng tôi muốn nắm bắt lý do tại sao như vậy. Tôi muốn nắm bắt nó và đó là lý do tôi sẵn lòng đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên. Tôi sẵn lòng trải nghiệm trong chính bản thể của mình thực tế của những con người bị kẹt vào nhị nguyên và tôi thì không thể nào thuyết phục họ. Tôi muốn trải nghiệm thực tế của những sinh thể sa ngã bị mắc kẹt trong nhị nguyên đến độ họ không thể được thuyết phục, mà ngược lại họ còn cố bịt miệng tôi hay chứng minh là tôi sai, hoặc thậm chí họ cố cải tạo tôi để tôi cũng rơi vào trạng thái tâm của họ.”

Nói cách khác, có một số sinh thể trên hành tinh tự nhiên sẽ nói: “Tôi thực sự muốn giải quyết vấn đề này và có lẽ cách hay nhất là tôi đi đến một hành tinh phi tự nhiên nơi quan điểm mà tôi đã tạo dựng về cuộc sống và tiến trình sáng tạo, về quyền tự quyết trên hành tinh tự nhiên ấm cúng này của tôi, sẽ bị thách thức. Hay nói cách khác nữa, con nói: “Tôi muốn quan điểm của tôi bị thách thức. Tôi muốn đi đến một chỗ nơi tôi không thể tìm ra lý lẽ nào sẽ thuyết phục được người khác, như tôi vẫn từng quen làm trên một hành tinh tự nhiên.” Khi con là người lãnh đạo, khi con ở một tầng tâm thức cao trên một hành tinh tự nhiên, con quen nghĩ rằng con có khả năng đưa ra một tiến trình suy luận sẽ giúp cho những ai ở một tầng tâm thức thấp hơn thấy được là “con có lý”, và do đó họ sẽ đi theo con, họ sẽ nghe theo lời khuyên nhủ và hướng dẫn của con.

Đó là cách vận hành trên một hành tinh tự nhiên nơi ai nấy đều cởi mở học hỏi điều mới, học hỏi những điều mà họ chưa biết. Nhưng trên hành tinh phi tự nhiên thì không như thế, như chắc chắn các con sẽ đều đồng ý như vậy. Đó là tại sao trong số chúng ta có những người – mà ta không nhất thiết gọi là tinh tấn hơn, hay hăng hái hơn, hay can đảm hơn – nhưng chúng ta đã quyết định: “Chúng tôi muốn tự thách thức mình bằng cách đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên.”

Đối với đệ tử nào đã sẵn sàng cho lời dạy này, điều có thể ích lợi cho con là con bắt đầu một cách rất chậm, rất lần hồi, xét xem con sẽ nhìn vấn đề tự quyết như thế nào, và con sẽ giáp mặt với nó như thế nào. Quan điểm của con về vấn đề đó là gì? Đâu là phản ứng cố hữu, phản ứng tức thì từ ruột gan – nếu có thể gọi như vậy. Khi con chứng kiến tình trạng thảm hại mà con người đã tạo ra trên địa cầu, khi con thấy sa nhân đã lạm dụng quyền tự quyết của chính họ lẫn của người khác như thế nào, phản ứng của con ra sao? Từ đó con có thể bắt đầu xét xem thái độ nào, tin tưởng nào đứng đằng sau phản ứng đó, phản ứng từ ruột gan đó. Con nghĩ gì trong đầu về quyền tự quyết? Sau đó con có thể đi vào tầng bản sắc và khởi sự xem xét: “Tôi tự nhìn mình như thế nào trong cương vị một sinh thể có quyền tự quyết đang tương tác với người khác cũng có quyền tự quyết? Tôi tự nhìn mình thế nào như một sinh thể ít ra đã bắt đầu vươn lên khỏi nhị nguyên, đang tương tác với những người ở trong nhị nguyên và do đó họ không thực sự sử dụng ý chí tự do vì ý chí của họ chưa tự do?”

Rồi con có thể bắt đầu làm sáng tỏ vấn đề này, và như vậy con có thể nhìn ra bài toán về quyền tự quyết mà con chưa giải quyết trên hành tinh tự nhiên. Rồi con có thể bắt đầu nhìn vào địa cầu và thật sự xem xét: “Làm thế nào tôi giải quyết được đây?” Chúng tôi các chân sư đã ban ra nhiều lời dạy có thể hữu ích cho con, và con có thể xem các lời dạy này. Nhưng trong tương lai chúng tôi sẽ ban ra nhiều hơn nữa, vì tất nhiên đây chỉ là bước khởi đầu của một cấp giảng dạy mới.

Cảm giác của con đối với quyền tự quyết như thế nào? Con nghĩ quyền tự quyết vận hành thế nào và nó có thể vận hành cách khác hay không? Con tự xem mình ra sao như một sinh thể có quyền tự quyết trong quan hệ với người khác? Con nghĩ làm thế nào con sẽ thoát ra khỏi hành tinh này – hành tinh điên đảo này như một số chúng ta thường cảm thấy, kể cả chính ta ở một giai đoạn nào đó? Điều gì sẽ giải quyết được vấn đề tự quyết, và con có những dính mắc nào về quyền tự quyết đang níu giữ con ở lại đây? Không phải vì con bị bó buộc ở đây, nhưng vì con không muốn rời nơi đây trước khi con thực hiện được mục đích của con khi đến đây. Con không muốn rời nơi này cho tới khi con giải quyết được bí ẩn đã đem con tới đây, đã khiến con quyết định tới đây.

Điều con có thể khởi sự là có lẽ con bắt đầu xoay chuyển thái độ của con đối với sự hiện diện và trải nghiệm của mình trên địa cầu, kể cả chấn thương nhập đời, kể cả toàn bộ nỗi bực dọc khi con thấy người ta tự gây tổn thương cho họ mà vẫn không muốn ngừng tự gây tổn thương. Họ không muốn biết họ đang làm hại chính họ. Họ không muốn lắng nghe con là người hiểu biết hơn lại có khả năng giúp họ thoát khỏi khổ đau. Họ cứ muốn sống tiếp trong đau khổ, và không những họ phớt lờ con, họ còn tích cực bác bỏ, hạ thấp, chế giễu con, thậm chí tra tấn hay giết hại con để bịt miệng con. Làm sao con đương đầu với sự thể này? Con nhìn chuyện đó như thế nào?

Đấy, điều con có thể làm là làm như sứ giả này. Con có thể nói: “Liệu tôi có là một tên ngu ngốc khi tôi chọn đến hành tinh này hay không? Liệu tôi có đáng chịu tất cả mọi chuyện xảy ra cho tôi? Liệu tôi phải cảm thấy tội lỗi về hành vi của mình trên hành tinh này, vế cách ứng xử của mình?” Hiển nhiên, có lẽ con có thể bắt đầu xoay chuyển tâm trạng đó và nói: “Không, thật ra tôi đã rất tỉnh trí, rất chín chắn, rất mong muốn tăng triển, và đó là tại sao tôi đã quyết định đến đây.” Quyết định đó của con dựa trên mong muốn tăng triển. Con không hề bị bó buộc. Không phải là con không thể tiến xa hơn trên hành tinh tự nhiên nên con đã phải hiện thân trên địa cầu. Không, con ở đây là vì con đã quyết định đây là cơ hội tăng triển tối đa cho con.

Khi đó, con có thể bắt đầu xét đến một điểm khác nữa sẽ giúp con ứng phó với sự có mặt của con trên địa cầu, và điểm đó như sau. Như chúng tôi có nói, khi con đến địa cầu như một avatar, con đi xuống tầng tâm thức thứ 48 để hiện thân. Đương nhiên, với mỗi bước đi xuống từ tầng 144, con khoác vào một ảo tưởng. Ảo tưởng này trở thành cái phin lọc nhận thức sẽ che khuất tầm nhìn của con cũng như ký ức về thời con ở trên một hành tinh tự nhiên. Nhưng điều này không có nghĩa là con không đem theo con một số hành trang.

Không phải là một ký ức rõ mồn một về thời con từng ở trên hành tinh tự nhiên, nhưng con đem theo với con một thái độ nào đó về cuộc sống, một thái độ nào đó về bản thân như một avatar, kể cả khi con ở tầng tâm thức 48. Dĩ nhiên, khi con nâng tâm thức lên thì điều này trở nên càng rõ ràng hơn. Một lần nữa con có thể lấy ví dụ của sứ giả này, và tuy mỗi người mỗi khác, nhiều người trong số các con sẽ nhận ra điều ta nói ở đây. Sứ giả này đã cảm thấy có một số lỗi lầm trên địa cầu mà ông không nên mắc phải. Có một số việc trên địa cầu mà ông không nên làm, một cấp độ nào đó mà ông không nên hạ mình xuống, và ông nên đứng trên một số hỗn tạp mà ông tìm thấy ở đây. Trong suốt kiếp này cũng như những kiếp trước đi ngược trở về kiếp đầu thai đầu tiên của ông, ông đã luôn luôn vô cùng khó tính với bản thân mình.

Nhiều người trong số các con sẽ nhận ra mình cũng như vậy. Con có thể vô cùng dễ tính đối với người khác, nhưng con không tha thứ được chính con, vì con đã đến đây với một thái độ nhất định về cuộc sống dựa trên cách sống trên một hành tinh tự nhiên. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con đã tạo ra một chuẩn mực cho bản thân về cách cư xử, về những gì con phải làm hay không được làm. Và nếu con đi ngược lại chuẩn mực đó, con cảm thấy mình đã làm chuyện tồi tệ nhất có thể có trong toàn thể vũ trụ.

Chúng tôi đã nói gì về sa nhân, rằng chúng đã làm gì cho tan nát mọi chuyện trên trái đất? Phải, chúng đã tạo ra một chuẩn mực và phóng chiếu khiến mọi người phải đánh giá mọi chuyện dựa theo tiêu chuẩn đó. Sự khác biệt ở đây là chuẩn mực do sa nhân tạo ra là một chuẩn mực nhị nguyên phát sinh từ tâm thức nhị nguyên. Là một avatar trên một hành tinh tự nhiên nơi con đã đạt đến mức tâm thức cao nhất ở đó, con không ở trong tình trạng nhị nguyên. Con đã không tạo ra một chuẩn mực dựa trên nhị nguyên.

Nhưng con thấy đó, điều này nghĩa là gì? Giờ đây con đến một hành tinh nơi mọi chuyện bị thấm đẫm, bị ô nhiễm bởi nhị nguyên, vậy mà con lại cho rằng có những chuyện con không được làm trong nhị nguyên, và cũng có những chuyện con phải làm. Con không nhận ra – bởi vì con không thể nhận ra điều này cho tới khi con đạt đến một mức tâm thức và một trình độ phân biện Ki-tô nào đó – rằng con không thể nào thấy sự khác biệt giữa chuẩn mực của con và chuẩn mực của sa nhân.

Con cho rằng nếu con không hành xử theo đúng tiêu chuẩn của con thì con đã làm chuyện gì đó xấu xa, sai trái. Trên một hành tinh tự nhiên, con đã từng có một chuẩn mực để đánh giá cách cư xử của mình, nhưng con không xét đoán theo tiêu chuẩn đúng-sai, con không đánh giá chủ quan bởi vì đó là nhị nguyên. Nhưng bây giờ con ở trên một hành tinh thấm đẫm nhị nguyên, và con bắt đầu áp dụng cách đánh giá chủ quan đúng-sai nhị nguyên đó đối với bản thân con. Đó là tại sao con cảm thấy: “Vì tôi đã hành xử như vậy, liệu tôi có khá hơn bọn sa nhân chút nào không, hay là tôi cũng xấu như sa nhân?”

Tất nhiên, sa nhân sẽ khai thác điểm này một cách không thương tiếc. Đâu là cách thoát ra? Con không thể lật ngược những gì con đã làm. Con không thể thay đổi những gì đã xảy ra trong quá khứ. Điều con có thể làm là nói: “Được rồi, tôi đã làm chuyện đó, nhưng chuyện tôi đã làm, cho dù chỉ mới năm phút trước, cũng không còn đó nữa. Đó không phải là một thực tế đang hiện thực vật lý. Trong hành vi đó, điều ảnh hưởng đến tôi chính là phản ứng của tôi. Vậy thì phản ứng của tôi xuất phát từ đâu – từ sự kiện tôi đã tạo ra những cái ngã tách biệt.”

Như vậy con có thể xem xét những ngã tách biệt này, con có thể dùng các dụng cụ của chúng tôi để giải hóa chúng, nhưng con cần đi xa hơn nữa. Thật sự con cần nói: “Nhưng một số ngã này không phải là ngã tách biệt được tạo ra trên địa cầu. Đó là một thái độ mà tôi đã đem theo tôi từ một hành tinh tự nhiên và tôi cần giải hóa nó. Tôi cần buông nó ra và nói: Tuyệt đối không có nghĩa lý gì mà tôi áp dụng một chuẩn mực từ một hành tinh tự nhiên khi tôi đang đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên. Những gì tôi đã làm trên hành tinh dày đặc hỗn tạp này có quan trọng lắm không? Nếu tôi đã lầm lỗi nơi đây, điều đó có quan trọng hay không? Ngay cả việc đánh giá xem đó là lỗi lầm hay không lỗi lầm, liệu nó có ích gì không? Những hành vi của tôi phát xuất từ một mức tâm thức nào đó với một số ngã tách biệt nào đó. Nếu tôi vượt qua được thì tôi sẽ giải thoát khỏi nó. Nếu tôi sẵn sàng tự giải phóng khỏi nó thì tôi phải được giải thoát khỏi nó.”   

Nói cách khác, điều ta muốn nói là như sau. Tất cả chúng ta đã làm y hệt như con đã làm. Chúng ta đã đến với một chuẩn mực, rồi đã làm gì đó trên địa cầu này mà mình cảm thấy không đúng với chuẩn mực. Chúng ta bị rơi vào vực thẳm, rơi vào hố đen của tự trách, của tủi hờn và tiếc nuối, chúng ta ghét bỏ và oán giận bản thân vì chúng ta đã không toàn hảo, không luôn luôn tự chủ mọi phản ứng của mình.

Gần như là do trên hành tinh tự nhiên chúng ta đã luôn luôn “bình thản, điềm tĩnh và trầm lặng”, cho nên chúng ta cũng chờ đợi là khi bước xuống tình trạng hỗn loạn toàn diện của hành tinh địa cầu, chúng ta cũng sẽ vẫn giữ được thái độ “bình thản, điềm tĩnh và trầm lặng” đó, chúng ta sẽ luôn luôn hoàn toàn tự chủ.

Thế nhưng, con yêu dấu, đó là một chuẩn mực hoàn toàn không thực tế. Chưa từng có ai thực hiện được điều đó. Chưa từng có ai, bất kể trình độ tâm thức, đã làm tròn được một chuẩn mực như vậy. Là Phật, ta đã không làm được. Là Ki-tô, Giê-su đã không làm được. Thày Maitreya cũng đã không làm được – không một ai đã từng hiện thân nơi đây làm được. Chuyện đó không thể làm được – vì con phải đi xuống tầng tâm thức 48 và phản ứng dựa theo mức tâm thức ở tầng 48. Làm sao khác được? Đó chính là cơ chế của việc hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên.

Trên một hành tinh tự nhiên thì con sẽ phản ứng một cách khác. Ở đây, con không thể giữ bình tĩnh, nhưng tại sao con lại cần bình tĩnh? Tại sao con phải bình tĩnh? Tại sao con phải đặt ra tiêu chuẩn đó cho con? Điều ta muốn nói là như thế này. Tất cả chúng ta đều đã làm vậy, chúng ta đều đã rơi xuống vực thẳm của tự trách móc. Chúng ta đều đã phải bò ra khỏi vực thẳm đó từng bước một, bằng cách bám chặt vào cái thang dây mà các chân sư thăng thiên đã hạ xuống cho chúng ta, rồi chúng ta đã trèo lên bằng cả tay lẫn chân, từng bước một. Chúng ta đã leo đến bờ vực thẳm, nhưng cách duy nhất để rời khỏi vực thẳm là nhìn vào chuyện này và nói: “Tại sao tôi lại tự trách mình chứ? Tại sao tôi cảm thấy có lỗi? Tại sao tôi lại giận mình? Tại sao tôi nghĩ mình phải toàn hảo, rằng đáng lẽ mình đã không được phản ứng lại? Tại sao tôi lại nghĩ ngợi kiểu đó? Có thật sự hợp lý hay không, có nghĩa lý gì hay không?”

Thế rồi con đạt tới một điểm, không phải là một quyết định vỏ ngoài với tâm vỏ ngoài, mà con chỉ nhìn thấy nó. Con nhìn thấy cái ngã mà con đã mang trên một hành tinh tự nhiên. Vì trên một hành tinh tự nhiên, làm thế nào con tăng triển, làm thế nào con có thể tăng triển? Trên một hành tinh tự nhiên, con khởi sự ở mức tâm thức thấp nhất trên hành tinh đó. Nghĩa là gì? Đúng vậy, có một số ảo tưởng mà con chưa giải hóa. Bởi vì ngay cả một hành tinh tự nhiên cũng có ảo tưởng, nếu không thì làm thế nào có nhiều tầng tâm thức được? Làm thế nào tăng triển được nếu không có những tầng tâm thức? Con tăng triển như thế nào chứ? Chúng tôi đã dạy con điều gì, làm thế nào con học hỏi được chứ?

Con là một sinh thể đồng sáng tạo, con học hỏi bằng cách đồng sáng tạo. Làm thế nào con đồng sáng tạo? Con tạo ra một tâm ảnh, con phóng chiếu tâm thức và năng lượng qua tâm ảnh đó lên trên vật chất, và nó khoác một hình tướng. Xong con lượng định. Nhưng khi con đồng sáng tạo, con làm gì chứ? Chúng tôi vừa nói là con tạo ra một tâm ảnh, đúng vậy, nhưng kỳ thực con đang tạo ra một cái ngã, con đang tạo ra một ý niệm bảo rằng: “Đây là con người mà tôi là, đây là bản sắc của tôi, đây là trí thể của tôi, đây là cảm thể của tôi và đây là cơ thể vật lý của tôi. Đây là con người mà tôi là.” Và cái đó trở thành một cái ngã mà con đang phóng chiếu qua.

Khi con tiến lên những tầng tâm thức cao hơn, con sẽ để cho một cái ngã chết đi, con tạo ra một cái ngã khác, y hệt như con làm trên địa cầu. Sự khác biệt, tất nhiên, là con không đi vào nhị nguyên, nhưng con vẫn tạo ngã, con vẫn tạo những cái ta. Lần lần khi con vươn lên cao hơn trên một hành tinh tự nhiên, càng ngày con càng tạo ra ý niệm bản ngã tinh xảo hơn. Như chúng tôi đã nói, y như con làm trên điạ cầu giữa tầng 48 với 96. Đây chỉ là một tiến trình tăng trưởng trong tâm thức.

Nhưng làm thế nào con thăng thiên? Phải, con thăng thiên bằng cách khắc phục những cái ngã đó. Đối với những sinh thể đã đạt đến tầng trên cùng ở hành tinh tự nhiên của họ và chuyển sang một hành tinh tự nhiên cao hơn, họ đem theo những cái ngã mà họ đang có, và ngã này trở thành điểm khởi đầu của họ trên hành tinh thứ hai. Lẽ tự nhiên đối với con khi con quyết định đến một hành tinh phi tự nhiên, con cũng đem theo những ngã này, và ở một mức nào đó, chúng trở thành khởi điểm cho thái độ của con đối với bản thân con ở nơi đây, thậm chí cả thái độ của con đối với địa cầu.

Vậy con cần làm gì để thăng thiên? Đối với chúng tôi là những con người đã thăng thiên từ địa cầu, tất cả chúng tôi đã cần làm gì? Chúng tôi đã cần xem xét những ngã đó và buông chúng ra. Chúng dễ buông bỏ hơn vì chúng không xuất phát từ nhị nguyên, chúng không là cùng một loại ảo tưởng. Nhưng mặt khác, con chỉ có thể buông chúng ra khi con nhìn thấy chúng, và trên một hành tinh phi tự nhiên dày đặc như trái đất, con khó nhìn thấy chúng hơn rất nhiều, con khó lòng nhìn ra những cái ngã con đã đem theo từ một hành tinh tự nhiên.

Đó là tại sao trước tiên, con cần giải quyết chấn thương nhập đời và nhiều cái ngã mà con đã tạo ra nơi đây trên địa cầu trước khi con có thể bắt đầu xét đến những gì đã đưa con tới đây. Nhưng trong số các con, có khá nhiều người đã sử dụng giáo lý mà chúng tôi ban ra về avatar, về việc chữa lành các chấn thương tâm linh và nhiều hơn thế, cho nên giờ đây con đã sẵn sàng tiến lên bước kế tiếp và bắt đầu xem xét những cái ngã mình đã đem theo với mình, giải hoá chúng đi, hầu con đạt tới điểm khi con nhìn lại địa cầu và bảo: “Không có gì ở đây có thể níu kéo tôi lại.” Nhưng con cũng có thể nhìn vào toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên và nói: “Thật chẳng có một hành tinh tự nhiên nào khác lôi kéo được tôi nữa. Tôi đã sẵn sàng thăng thiên. Tôi sẵn sàng bỏ lại đằng sau nguyên bầu cõi chưa thăng thiên này.” Đó là cách con trở thành một chân sư thăng thiên.

Với lời này, ta đã trao cho con những gì ta muốn trao trong bài giảng dịp Tân niên này. Chúng tôi sẽ nhìn xem có lời dạy nào khác chúng tôi mong muốn trao truyền về đề tài này trong năm sắp tới hay không. Ta muốn cảm ơn các con đã sử dụng những giáo lý trước đây, vì các con là những người tiên phong đã khai mở tâm thức của tập thể đến mức bài giảng này có thể được ban ra trong cõi vật lý. Một lần nữa, con hãy nhận lòng biết ơn sâu đậm của ta. Lòng biết ơn này sẽ còn tiếp tục vì tất nhiên, bất cứ lời truyền đọc nào mà chúng tôi ban ra cũng chỉ là một trong chuỗi dài những tiết lộ liên tục.

Ta biết, đôi khi một số trong các con có thể có cảm giác – và ngay cả vị sứ giả này cũng có cảm giác rằng: “Bài truyền đọc hôm nay thật đặc biệt, nó ở một tầng cấp cao hơn và tự thân nó gần như trọn vẹn.” Thật tốt lành thay khi con có cảm giác như thế, nhưng tất nhiên, bất kỳ bài truyền đọc nào cũng chỉ là một viên ngọc quý trong một chuỗi ngọc trải dài về tương lai, và hiện không có cách nào nói trước được nó sẽ kéo dài đến bao giờ. Nhưng chắc chắn chúng tôi dự kiến một chuỗi liên tục thật dài sẽ đem lại những hòn ngọc nhận thức cao hơn.

[Hình tư tưởng của Phật được sử dụng trong năm 2022 sẽ là cùng hình tư tưởng về Mặt trời giống như năm ngoái:

  • “Phật Gautama, thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất.”
  • “Saint Germain, thày là tấm gương tuyệt hảo cho nền kinh tế.”
  • “Mẹ Mary, thày là tấm gương tuyệt hảo cho phụ nữ.”]

[Bạn cũng có thể đọc thêm bài vấn đáp do chân sư thăng thiên Saint Germain: “Avatar và những cái ngã được tạo ra trên một hành tinh tự nhiên”]

Bước ra khỏi cơ chế vận hành tự ti và tự đại

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Sanat Kumara qua trung gian Kim Michaels ngày 2/10/2021, nhân Webinar 2021 cho Hàn quốc – Là Cánh cửa mở cho Hành tinh Địa cầu. Đăng ngày 20/10/2021.

TA LÀ chân sư thăng thiên Sanat Kumara. Ta đến đây với lòng biết ơn đối với các con đã đọc bài thỉnh vừa rồi cũng như đối với rất nhiều người đã thỉnh ta suốt nhiều năm trời, không những trong đợt truyền pháp này mà các đợt khác nữa. Việc này đã cho phép ta nhập cuộc và truyền rải nhiều năng lượng cùng một số ý tưởng đến địa cầu mà nhiều người đã tiếp nhận được. Nhiều người trong số này không nhất thiết là học trò của chân sư thăng thiên. Và một trong những đóng góp thực sự mà các con có thể làm trong tư cách là học trò của chân sư là nhận ra thời đại hoàng kim cần có rất nhiều ý tưởng được nhân loại hiện đang đầu thai tiếp nhận, đem ra áp dụng và thực hiện.

Và nhiều khi các con, những đệ tử của chân sư thăng thiên, sẽ không ở trong cương vị tốt nhất để nhận hay để thực hiện một ý tưởng. Và do đó con không thể bị dính mắc là liệu con có là người nhận được ý tưởng cùng với niềm vinh dự, hay có người khác nhận được. Khi con mang viễn quan làm đệ tử của chân sư thăng thiên, con có thể trau dồi lòng sẵn sàng cầu thỉnh, nâng cao tâm thức mình và tu học các giáo lý, và đồng thời con cũng có viễn quan là những ai có khả năng nhận được một số ý tưởng quả nhiên sẽ nhận được, sẽ áp dụng và sẽ theo đó mà hành động, rồi từ đó có thật nhiều người hơn chấp nhận ý tưởng giúp nó lan truyền. Đây chính là một phần của viễn quan mà con cầm giữ, một phần của việc phụng sự của con.

Vượt qua mặc cảm tự ti-tự đại

Điều này gắn liền với chủ đề đầu tiên mà ta muốn nêu lên. Làm thế nào con trở thành một cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu? À, con phải vượt qua cái thường được gọi là mặc cảm tự ti-tự đại. Suốt nhiều thập niên trao truyền giáo lý trực tiếp, các thày đã và đang nhìn thấy hai xu hướng rõ rệt trong số học trò của mình.

Một số học trò rất, rất sốt sắng áp dụng giáo lý, học hỏi giáo lý. Họ đưa ra bộ mặt là những học trò rất chăm chỉ, rất háo hức. Nhưng họ thường làm vậy vì họ mang một mặc cảm tự tôn. Họ mong muốn là người tốt đẹp hơn người khác, là học trò cao cấp hơn học trò khác, cho nên họ bị thôi thúc bởi mong muốn sử dụng giáo lý để nâng cao bản thân và đạt được một cảm giác vượt trội nào đó.

Xu hướng kia mà các thày nhận thấy là có nhiều học trò, thường là đa số, chấp nhận giáo lý, học hỏi giáo lý, thực hành các bài chú bài thỉnh, nhưng họ không thực sự chấp nhận là mình có thể liên lạc trực tiếp với các thày, nhận được ý tưởng hay xung lực từ các thày, hay làm được gì đó đáng kể cho các thày. Họ thỏa mãn với chuyện theo chân tổ chức, theo chân một sứ giả hay một đạo sư, làm những gì họ được chỉ bảo và họ sẽ thành tâm làm việc đó nhưng họ không thực sự chuyển tâm để nghĩ rằng có lẽ họ không phải luôn luôn là những kẻ theo chân.

Con thấy đó, có những người muốn lãnh đạo và có những người muốn đi theo, và tiếc thay điều này thường tạo ra một tình trạng rất không lành mạnh và không quân bình trong tổ chức. Ta không chỉ nói đến các tổ chức của chân sư thăng thiên, và con có thể thấy cùng tình trạng này trong rất nhiều tổ chức khác khắp thế giới. Điều ta muốn chú trọng nói đến ở đây chính là cách vận hành đó, cơ chế tự ti-tự đại.

Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là không có mặc cảm tự đại mà chỉ có mặc cảm tự ti. Thật không phải là vấn đề người ta cảm thấy tự đại hay tự ti, bởi vì trong rất nhiều kiếp sống mọi người đã phải giáp mặt với sa nhân trên hành tinh này, đã bị chúng khuynh loát và dồn vào thế cảm thấy tự ti. Thật không phải vấn đề người ta cảm thấy tự ti hay tự đại – vì họ đều cảm thấy tự ti – mà là vấn đề ứng phó như thế nào. Một số ứng phó bằng cách chấp nhận sự thua kém của mình, khiến họ trở thành kẻ đi theo. Một số khác ứng phó bằng cách chối bỏ sự thua kém của mình, cố gắng dựng lên một vẻ mặt cao trội để có thể cảm thấy cao trội bề ngoài, và như vậy họ phủ nhận cái mặc cảm tự ti vẫn nằm đó sâu bên trong tâm lý họ.

Thêm vào đó tất nhiên là có các sa nhân đang đầu thai. Dĩ nhiên có một số ít sa nhân đã bị thu hút hay được gửi vào tham gia các giáo lý cùng tổ chức của chân sư thăng thiên, và con có thể nói khi con nhìn những sa nhân đó, chắc chắn họ mang một mặc cảm tự tôn. Họ cho là họ thật sự cao trội hơn người khác, nhưng nếu con nhìn kỹ hơn, con sẽ thấy là ngay cả các sa nhân này cũng mang một mặc cảm tự ti ở sâu bên dưới, được che lấp bởi quá nhiều lớp phủ nhận đến độ họ cũng cảm thấy mình thua kém. Và họ là ví dụ điển hình của những người phản ứng lại sự thua kém của mình bằng cách che lấp nó đi và tìm cách dựng lên một cảm giác cao trội trong thế gian này qua những vật của thế gian.

Tìm lại quân bình

Điều các thày mong nhìn thấy nơi học trò của mình tất nhiên là các con tìm được một trạng thái cân bằng. Và các thày đã thấy, chẳng hạn trong một đợt truyền pháp trước – đợt chót mà các thày đã có thể trao truyền trong Thời đại Song ngư – là có một nhóm học trò khá đông cảm thấy mình cao trội. Trong tổ chức có một nét văn hóa cho rằng: “Chúng ta có giáo lý tâm linh tinh tiến nhất trên hành tinh, chúng ta là những người tiên phong cho Thời Hoàng kim của Saint Germain, chúng ta giống như các tông đồ của Giê-su và do đó rõ ràng chúng ta là những đệ tử cao cấp nhất trên hành tinh.” Hiển nhiên, điều này không đến nỗi phổ biến trong đợt truyên pháp này vì các thày đã cho con bao nhiêu lời dạy để các con khắc phục xu hướng này. Nhưng ta vẫn muốn bàn đến cảm giác tự ti.

Con cũng hiểu là mục tiêu chính của sa nhân trên trái đất là kiểm soát loài người, kiểm soát các avatar, kiểm soát các cư dân nguyên thủy của địa cầu. Chúng muốn kiểm soát mọi người. Như các thày có giảng nhiều lần, điều này khó lòng thực hiện qua sự kiểm soát vật lý, cho nên phải có một yếu tố kiểm soát tâm lý. Và yếu tố kiểm soát tâm lý quan trọng nhất chính là mặc cảm tự ti.

Khi con có thể khiến người ta cảm thấy thua kém, khi con khiến số đông quần chúng cảm thấy thua kém một nhóm nhỏ thượng lưu, thì con có thể kiểm soát đại bộ phận dân chúng. Thiểu số thượng lưu có thể kiểm soát quần chúng qua cảm giác tự ti này. Con thử nhìn lại biết bao nền văn minh khắp thế giới trong quá khứ và nhận thấy là đã có một niềm tin cho rằng có một tầng lớp thượng lưu với phẩm chất đặc biệt, khả năng và quyền uy đặc biệt. Một cách nào đó, họ khác biệt mọi người. Họ mang máu mủ đặc biệt, họ mang gốc gác khác thường, họ mang dòng dõi khác thường, cho nên họ thật xuất chúng. Họ có thể làm những chuyện không ai khác làm được.

Con chỉ cần nhìn quá biên giới sang Bắc Hàn, và ở đó người ta tin gì về lãnh tụ của họ? Một lần nữa, một con người xuất chúng từ một dòng dõi đặc biệt, đặc biệt ngay từ khi sinh ra, và vì vậy lời nói của ông ta luôn luôn thập toàn. Ông ta không thể nào sai lầm, không thể nào phạm lỗi, vân vân. Con thấy được niềm tin vô cùng lâu đời vào chủ nghĩa tinh hoa cho rằng có một nhóm nhỏ thượng tôn, cho nên tuyệt đại đa số dân chúng phải thấp kém hơn.

Nhưng này, có một tiến trình để leo ra khỏi tình trạng thấp kém này. Để leo ra khỏi thấp kém, một số người sẽ bơi sang đối cực ngược lại và cố dựng lên một cảm giác cao trội. Đây thực chất là tại sao các thày đã cho phép nét văn hóa cao trội kia hình thành trong đợt truyền pháp trước, bởi vì các thày thấy rõ là có những người ở cuối Thời đại Song ngư cần đến cảm giác cao trội này, trải nghiệm cao trội này, để tìm đường trở lại trạng thái quân bình nơi họ không cần cảm thấy cao trội nữa nhưng cũng không xem mình là thấp kém. Các thày đã cho phép họ tạm thời có cảm giác cao trội để họ có thể khắc phục tự ti.

Điều các thày mong thấy trong đợt truyền pháp này là con tìm được một cách tiếp cận quân bình hơn, qua đó con không cần bước vào cảm giác tự đại mà con lần hồi đạt được một thế cân bằng biết mình là ai. Và ta muốn nói gì qua từ “cân bằng”? À, tất nhiên ta muốn nói đây là cốt yếu của quả vị Ki-tô.

Trải nghiệm nhận biết thuần khiết

Như các thày có nói, quả vị Ki-tô có một số giai đoạn. Có giai đoạn quả vị Ki-tô nơi con bắt đầu vươn lên trên tâm thức tập thể. Như các thày cũng nói, có một con quái vật  tập thể, một lốc xoáy tập thể vô cùng mạnh mẽ cuốn hút con người vào cảm giác thua kém. Và để bước chân trên đường tu tâm linh và vượt lên trên tầng tâm thức thứ 48, con phải tách mình ra khỏi lực kéo hướng hạ của tâm thức tập thể. Có nghĩa là cuối cùng con sẽ hiểu biết nhiều hơn một người trung bình, con có kỷ luật tự giác cao hơn một người trung bình, con có một số sáng ngộ nội tâm vượt quá một người trung bình, và do đó con có thể nói là con đạt được một sự vượt trội nào đó – nếu con muốn dùng thuật ngữ này.

Khi con bước từ tầng 48 đến tầng 96, con xây dựng một cảm nhận là con khác biệt hầu hết mọi người – không nhất thiết là cao trội, nhưng đối với nhiều đệ tử, cảm nhận này biến thành một cảm giác cao trội. Ở giai đọan này thì điều đó chấp nhận được. Nhưng để đi xa hơn tầng 96, con sẽ cần bắt đầu vượt quá trạng thái này. Con không thể tiến xa hơn tầng 96 nếu con còn một cảm nhận cao trội mạnh mẽ hay một cảm nhận thua kém mạnh mẽ. Con cần tìm ra một cách tiếp cận quân bình hơn, và cách tiếp cận quân bình này chỉ có thể tìm được bằng một cách: qua trải nghiệm.

Con không thể tìm được một cách lý thuyết. Con không thể tìm được một cách trí thức. Con không thể tìm được chỉ qua hiểu biết. Sẽ đến một điểm con không thể thoát khỏi thế bí này trừ khi con trải nghiệm cái mà các thày gọi là cái Ta Biết, khi nó bước ra ngoài bốn thể phàm của con và trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết. Con yêu dấu, con không thể làm được, chưa có ai có thể làm được bằng trí năng. Con có thể làm được một số chuyện bằng trí năng, con có thể khiến mình tin rằng mình không thua kém hay không cao trội, nhưng tâm thức con sẽ không xoay chuyển cho đến khi con trải nghiệm nhận biết thuần khiết. Tại sao như vậy?

Vì như các thày mô tả rất nhiều lần, nhận biết thuần khiết vượt khỏi nhị nguyên. Không có phân cực, không có những đối cực nhị nguyên. Và khi con trải nghiệm nhận biết thuần khiết, con cũng nghiệm thấy là tất cả mọi phân rẽ hay phân cực nhị nguyên đơn giản tan biến mất. Chúng trở thành lỗi thời, chúng trở nên vô nghĩa. Chúng không còn quan trọng gì với con. Và khi con chán chê các trải nghiệm này, kết quả sẽ là một xự xoay chuyển trong tâm thức khi con bắt đầu chuyển dần ra khỏi cảm nhận đó.

Việc con cao trội hơn người có quan trọng gì không? Trong nhận biết thuần khiết, nó có giá trị gì không? Việc con thua kém người khác có quan trọng gì không? Trong nhận biết thuần khiết, nó có quan trọng gì không? Con trải nghiệm trực tiếp là có một mức tâm thức vượt khỏi mức con người, và ở đó tất cả những chuyện quan trọng biết mấy cho con người sẽ hoàn toàn và tuyệt đối không quan trọng gì nữa. Chúng chỉ tan biến mất.

Bước vào tâm bình đẳng

Đây là một trong những đặc tính của giác ngộ. Con nhìn vượt khỏi cái mà Phật gọi là “những cặp” khi luôn luôn có hai đối cực. Và con thấy là không có chuyện đối cực này đúng, đối cực kia sai. Cả hai đều lỗi thời, đều vô nghĩa, đều không thực. Không phải là chuyện đúng hay sai, tốt hay xấu, mà là chuyện thực hay không thực. Và khi con kinh nghiệm nhận biết thuần khiết, con trải nghiệm một thực tại vượt khỏi tâm thức con người, vượt khỏi tâm thức tập thể, vượt khỏi cả mức tâm thức hiện thời của con. Và thực tại này, con trải nghiệm nó thực hơn là trạng thái tâm thức bình thường của con.  

Đây thật là điều duy nhất sẽ xoay chuyển con ra khỏi tự đại lẫn tự ti. Vì khi con đến với trải nghiệm đó và kinh qua nó nhiều lần, con nhận ra là chuyện hơn thua người khác chẳng quan trọng gì nữa. Giản dị là nó không quan trọng gì nữa đối với con. Ngay cả việc lượng định xem mình đứng ở đâu trên thang điểm ai cao ai thấp, cũng không quan trọng gì. Ta không bảo là điều này sẽ xảy ra trong một giây phút giác ngộ huy hoàng mà nó xảy ra lần hồi trên một khoảng thời gian. Nhiều người trong các con đã bắt đầu kinh qua điều này, và tất cả các con đều có tiềm năng kinh qua như vậy khi con ngộ ra là nếu mọi con người đều đến từ cùng một nguồn cội thì ai có thể thấp hơn, ai có thể cao hơn được đây?

Những khái niệm đó, những phân chia đó, những phân cực đó chỉ đơn giản là vô hiệu lực. Chúng chỉ hiệu lực cho một mức tâm thức nào đó. Nhưng khi con nếm được nhận biết thuần khiết, tâm thức nhị nguyên sẽ tự thân nó trở nên vô giá trị. Và khi chính tâm thức nhị nguyên vô giá trị thì tất cả mọi phân chia khởi lên từ tâm thức nhị nguyên cũng vô giá trị y như vậy. Còn quan trọng gì nữa?

Con thử nhìn xem tất cả những kịch bản kia, tất cả những nền văn hóa kia do loài người tạo ra suốt các thời đại. Con hãy trở ngược lại và đọc sách lịch sử, đọc xem người ta tin gì về các nền văn minh bao ngàn năm về trước với lãnh tụ xuất chúng biết mấy so với dân chúng bình thường. Con sẽ tìm thấy những chuyện như thế khắp mọi nơi, ở mọi quốc gia, ở mọi vùng thế giới, con sẽ tìm thấy. Xong con nhìn xem nền văn hiến kia có thể đã vĩ đại và hưng thịnh 5 ngàn năm về trước, liệu nó có liên quan gì đến con người ngày nay không? Có ai còn quan tâm nữa không? Trong một vài trường hợp thì có thể, nhưng trong đa số trường hợp chẳng ai quan tâm gì nữa. Đế chế La Mã ư? Ngày hôm nay có ai quan tâm đến đế chế La Mã? Dân tộc Inca, dân tộc Aztec, một vài nền văn mình cổ ở châu Á như Trung quốc, Hàn quốc, Nhật bản? Có ai lo lắng gì về họ? Liệu có quan trọng gì không?

Khi con nhìn những gì xảy ra cho các đế chế vĩ đại đó trong lịch sử, con chẳng thấy được hay sao, con chẳng phóng chiếu được vào tương lai hay sao? Như các thày đã nói, khi con hiểu các xu hướng của quá khứ, con sẽ có thể phóng chiếu vào tương lai, cho nên con chẳng thấy hay sao là trong một hai ngàn năm nữa, hay năm ngàn năm nữa, nền văn minh của con cũng sẽ không quan trọng y như vậy đối với con người tương lai? Điều này có nghĩa là các con, trong tư cách đệ tử chân sư thăng thiên, có thể nhìn vào nền văn minh của mình, nhìn vào nền văn hóa của mình và nói: “Chuyện này có quan trọng gì với tôi? Chuyện này có quan trọng gì với tôi? Nó có là gì đối với tôi? Tôi sẽ theo chân Giê-su bước vào tâm thức Ki-tô.”

Con có thể nhìn nền văn hóa của con, xã hội của con, văn minh của con và thấy là ngay cả ở các nước dân chủ cũng có một hệ thống tin tưởng vô cùng vi tế cho rằng có một số người cao trội, còn số đông thì thấp kém. Có một số người thông minh hơn mọi người. Có một số người được trang bị tốt hơn để lãnh đạo các tập đoàn khổng lồ, lãnh đạo chính phủ hay bất cứ gì khác. Vẫn có một nét văn hóa hơn thua vô cùng vi tế. Người ta phải biết vị trí của mình và chấp nhận vị trí này trong xã hội. Văn hóa này, mọi quốc gia đều có. Ngay cả những quốc gia dân chủ hiện đại nhất cũng mang một phiên bản của nó. Nó thường không được nói đến vì nhiều nước dân chủ vẫn muốn tạo ra bộ mặt là ai ai cũng bình đẳng, và vì vậy họ không muốn thừa nhận điều này. Nhưng họ vẫn mang cái đó. Con vẫn thấy cái đó trong mọi nền văn hóa cho dù con có ở đâu trên địa cầu. Con đã được lập trình để mang mặc cảm thua kém này so với giới lãnh đạo.

Trung hòa để trở thành cánh cửa mở

Làm thế nào con trở thành một cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu? À, con cần xem xét điều này. Con cần khắc phục nó. Bởi vì nếu không, rất có thể con sẽ mang trong tiềm thức niềm tin vi tế chưa được nhận diện, bảo rằng: “Ồ, tôi sinh trưởng trong một gia đình tầm thường. Tôi chỉ là một người tầm thường. Tôi không giỏi gì đặc biệt khi đi học. Làm sao tôi có thể nhận được từ Saint Germain một ý tưởng sẽ giúp đem lại thời hoàng kim? Làm sao tôi có thể xứng đáng được như vậy? Cho nên tôi sẽ ngồi yên đây và đọc thỉnh đọc chú, nhưng tôi không dám nghĩ đến chuyện nhận được một gợi ý nào đó.”      

Đối cực ngược lại với thái độ trên là những học trò háo hức quá đáng cho mình là người đặc biệt, mình là người xứng đáng nhận được gợi ý. Và họ luôn luôn chú mục vào việc nhận được những ý tưởng sẽ đem lại vẻ vang và vinh dự cho họ, sẽ khiến họ được người khác khâm phục. Và dù thế nào đi nữa, dù con có xem mình là cao trội hay thua kém, thì chính cái cảm giác cao trội hay thua kém này, chính sự phán xét giá trị này mà con áp đặt lên chính mình sẽ đóng cánh cửa của con lại. Nó sẽ ngăn cản không cho con làm cánh cửa mở.

Các thày đã nói điều gì rất nhiều lần? Sứ giả này đã nói gì rất nhiều lần? Con phải cần có gì để nhận bài truyền đọc từ các chân sư thăng thiên? Con phải ở trong một tâm thái trung hòa. À, điều này nghe có vẻ tốt thôi, nhưng tương đối chỉ ít người có thể nắm bắt được thế nào là tâm thái trung hòa. Nhưng tất cả các con đều có tiềm năng trau dồi, lần hồi trau dồi khả năng đó, là khả năng không những bước ra ngoài sự hơn thua, mà còn bước ra ngoài mọi định kiến về những gì nên làm, những gì có thể làm, những gì không thể làm – và con chỉ trung hòa tiếp nhận ý tưởng.

Con sẽ thấy là nhiều khi con tìm hiểu khoa học, chẳng hạn khi một nhà khoa học đã nỗ lực nghiên cứu một vấn đề cụ thể trong lãnh vực của mình. Ông đã làm việc ráo riết và đã tập trung tất cả chú ý vào đó. Ông biết là có một điều gì ông chưa thể hiểu nhưng ông không thể nắm được. Tâm trí ông không thể nắm lấy nó. Thế rồi ông nghỉ ngơi một chặp, ông đi đâu khác, ông làm gì đó hoàn toàn khác, và bỗng nhiên ý tưởng nảy ra trong tâm ông. Và ông nhìn thấy nó trong một trải nghiệm trực giác nội tâm.

Và điều này cũng tương tự với mọi người. Con cần nhìn nhận là việc tiếp nhận một ý tưởng đòi hỏi một sự thay đổi bên trong. Trước hết con tập trung. Con tìm hiểu một đề tài. Con suy nghĩ về đề tài. Con đặt chú tâm vào nó, nhưng sẽ tới một điểm khi đơn giản con cần buông nó ra. Thế là có một khoảng trống, rồi có một khe hở để ý tưởng đi vào tâm con. Con có thấy tại sao không? À, đó là vì khi một nhà khoa học chẳng hạn nghiên cứu một đề tài, ông ta đã có sẵn một giả thuyết về những gì phải xảy ra, những gì cuộc thử nghiệm phải chứng minh và bước đột phá mới phải là gì. Cái gì đã đóng chặt tâm ông? Định kiến. Ông không cởi mở. Ông không trung hòa. Ông muốn một kết quả nhất định được thể hiện.

Con có hiểu điều này liên quan thế nào với con trong tư cách là đệ tử của chân sư thăng thiên? Nếu con mang lớp phủ cao trội này thì con đang muốn một kết quả nào đó thể hiện. Nếu con mang lớp phủ thua kém kia, con cũng muốn một kết quả nào đó không thể hiện. Nhưng con vẫn có định kiến. Giê-su đã nói gì rất, rất nhiều năm trước đây? “Ta không thể tự mình làm gì cả.” Đây là một cách khác để đối phó với mặc cảm tự ti-tự đại khi con là đệ tử của chân sư thăng thiên. Các thày đã dạy con điều gì?

Hành động và phản ứng

Các thày đã dạy con là con có bốn thể phàm. Các thày đã dạy con là trong bốn thể phàm này không những có những cái ngã tách biệt mà còn có rất, rất nhiều những niềm tin, rất nhiều ý tưởng cùng khuôn nếp mà con đã dựng lên suốt nhiều kiếp sống về cách tương tác với trái đất, với môi trường nơi con hiện thân. Điều này cũng tốt thôi – ta không bảo tất cả là sai trái, mà ta chỉ ra cho con là con đang mang cơ chế này trong bốn thể phàm, nó cho con một cái nhìn về bản thân, về con người mà con là, về hành tinh và cách con tương tác với hành tinh cũng như người khác. Và những thứ này hình thành một lớp phủ. Các thày đã gọi đó là một phin lọc nhận thức.

Cái đó, như các thày đã giảng cho con nhiều lần, không phải là con người thực của con. Đó chỉ là một cái gì con đã khoác vào khi liên hệ với trái đất, liên hệ với việc đầu thai trên trái đất. Toàn bộ giá trị của giáo lý về cái Ta Biết nằm ở chỗ là trong bản thân con có một thành phần – mà con có thể gọi bất cứ tên gì con muốn – nhưng có một thành phần của con có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm, bước ra ngoài cái tâm và nhân cách bình thường của con. Giáo lý này đã có mặt trong mọi giáo lý thần bí được biết đến trên trái đất, nó đã mang nhiều tên khác nhau và không nhất thiết gọi là cái Ta Biết, nhưng trong mọi giáo lý thần bí đều có khái niệm là trong con có một thành phần có khả năng bước ra ngoài cái con bình thường gọi là “cái tôi”, là nhân cách, là cá tính của con hay bất kỳ tên gọi nào khác.

Khi con trải nghiệm điều này, rằng con là nhiều hơn tâm vỏ ngoài, thì con có thể nhận ra là tâm vỏ ngoài này có thể làm nhiều chuyện – hay đúng hơn, con có thể làm nhiều chuyện xuyên qua tâm vỏ ngoài. Nhưng con cũng bắt đầu thấy là thường thường những gì con có thể làm bị giới hạn. Khi con hành động qua tâm vỏ ngoài, con thường tạo ra một số hậu quả không còn là những gì con muốn. Và đây là điều Giê-su đã cố giảng giải, Phật đã cố giảng giải và nhiều vị thày tâm linh khác đã cố giảng giải, là sẽ có một điểm trên đường tu tâm linh khi con bắt đầu tách mình ra khỏi sự đồng hóa với nhân cách vỏ ngoài.

Con hướng chú ý vào bên trong. Con hướng chú ý vào cốt lõi sinh thể của con là Hiện diện TA LÀ của con. Là một con người, con có hai cách hành động: con có thể hành động xuyên qua nhân cách vỏ ngoài, hay con có thể bước ra ngoài nhân cách vỏ ngoài và cho phép Hiện diện TA LÀ hành động xuyên qua con. Như Giê-su nói, chính Cha trong tôi, Hiện diện TA LÀ trong tôi, làm mọi việc. Đây là những chọn lựa, những chọn lựa cơ bản mà con có. À, hầu hết mọi người không có chọn lựa này vì họ không có hiểu biết hay nối kết với Hiện diện TA LÀ của họ. Nhưng con là học trò của chân sư thăng thiên, con càng bước lên cao hơn trên đường tu thì con sẽ càng có nhiều chọn lựa. Liệu con sẽ hành động xuyên qua nhân cách vỏ ngoài? Hay liệu con sẽ bước qua bên và để cho Hiện diện TA LÀ hành động xuyên qua con?

Con có thể nói ở đây có một bí ẩn, là sẽ tới một điểm con bắt đầu nắm bắt được những lời dạy này, cho dù một lời dạy thần bí hay một lời dạy khác. Nhưng hãy thử lấy cách trình bày của các thày trong đợt truyền pháp này. Con đang bắt đầu nắm bắt là có một phần cốt lõi của con là cái Ta Biết. Con đã bắt đầu trải nghiệm nhận biết thuần khiết. Và con đã bắt đầu trải nghiệm là con có khả năng tách mình ra khỏi nhân cách vỏ ngoài và không hành động qua nhân cách đó. Con không phản ứng lại – nếu có thể nói như vậy, vì nhân cách vỏ ngoài thật ra không thể hành động mà chỉ có thể phản ứng. Con có thể nói chọn lựa cơ bản mà con có là: Liệu con sẽ phản ứng xuyên qua nhân cách vỏ ngoài hay con sẽ hành động bằng cách để cho Hiện diện Ta LÀ chảy xuyên qua con? Lý do nhân cách vỏ ngoài chỉ có thể phản ứng là vì nó đã được tạo ra trong sự phản ứng đối với các điều kiện con gặp trên trái đất. Nó được tạo ra như một phản ứng và do đó nó luôn luôn phản ứng. Đây chính là lời dạy về các ngã tách biệt được lập trình giống như một máy tính. Bất cứ khi nào chúng bị kích hoạt thì lần nào như lần nấy, chúng sẽ phản ứng lại theo một cách nhất định.

Tôi là ai?

Nhưng tới một thời điểm, sự bối rối sẽ xuất hiện, và sẽ có một giai đọan con cần sẵn lòng kinh qua nỗi bối rối huy hoàng này là câu hỏi: Ai đang là “tôi” trong lúc này? Con có một giai đoạn, và hầu hết mọi người vẫn còn trong giai đoạn này, khi con bị hoàn toàn đồng hóa với nhân cách vỏ ngoài. Khi con bảo “tôi” thì cái đó là nhân cách vỏ ngoài. Sau đó sẽ đến giai đoạn khi con bắt đầu nhận ra con là nhiều hơn nhân cách vỏ ngoài. Nhưng khi đó, “tôi” là ai chứ?

Tôi có phải là Hiện diện TA LÀ? Không, vì Hiện diện TA LÀ ở cõi tâm linh. Tôi có phải là cái Ta Biết? Cái Ta Biết là gì? Các thày đã nói đó là nhận biết thuần khiết. Gần như các thày đã mô tả như thể nó không là gì cả. Nó giống như một cái chấm. Nó là gì? Tôi là ai ngay lúc này? Và con yêu dấu, đây chỉ là một giai đoạn cần thiết và con cần sẵn lòng đi xuyên thấu nỗi bối rối này. Tất cả những ai đã từng hiện thân và đã thăng thiên đều đã phải đi xuyên thấu nỗi bối rối này. Đôi khi nó có thể kéo dài nhiều năm, thậm chí mấy chục năm trời.

Tôi là ai khi tôi bảo “tôi”? Tôi biết tôi không phải là nhân cách vỏ ngoài, nhưng nếu vậy thì tôi là ai hay tôi là gì? Không có lời dạy nào các thày có thể cho con sẽ giải quyết được bí ẩn này tức thì. Điều thật sự cần xảy ra là con đạt đến một điểm khi câu hỏi đó trở nên vô hiệu lực. Sự kiện tôi là ai hay là gì thật không quan trọng, bởi vì tôi chỉ là. Từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc sau, tôi chỉ là, cho dù tôi có là gì. Trong khoảnh khắc này tôi có thể hành động cách này, và trong khoảnh khắc sau tôi có thể hành động cách kia. Nhưng dù tôi có là gì thì tôi vẫn là. Con không cần phân tích, con không cần suy tư, con không cần mang ý tưởng là con luôn luôn phải là cùng y như vậy.

Hành động không cần có lý do

Sau đây là yếu tố chót ta muốn trao cho con trong bài giảng này vì ta biết ta đã cho con một số khái niệm rất tinh tế, phức tạp. Nhưng nhiều người trong các con đã sẵn sàng để bắt đầu suy ngẫm. Yếu tố chót này là khi con nhìn thế giới, các thày đã nói trong những bài giảng trước ở nơi đây là trong tâm thức tập thể có những rào cản, có những con xoáy, có những cơn lốc tìm cách lôi kéo con vào, nhưng cũng có những rào cản ngăn chặn những gì con người có thể thấy và có thể nghĩ. Và một trong những rào cản này, trong số những rào cản thực sự vi tế, thực sự gian xảo, thực sự làm tổn thương và tê liệt, là ý tưởng cho rằng con luôn luôn phải có một lý do để làm những gì con đang làm. Và con phải nhất quán trong những gì con làm.  

Nói cách khác. con quyết định phản ứng lại một tình huống nào đó theo một cách nào đó, và con phải có khả năng đưa ra một cách giải thích hợp lý, đường thẳng, lô-gíc về lý do con hành xử như vậy. Xong một khi con đã hành xử như vậy trong một tình huống thì con luôn luôn phải hành xử theo cùng cách đó trong những tình huống tương tự. Đây là điều mà văn hóa của con đòi hỏi con làm. Đây là điều xã hội của con đòi hỏi con làm, là điều mọi người chung quanh con sẽ đòi hỏi con làm. Họ đòi hỏi con phải có lý do. Họ đòi hỏi một sự nhất quán.

Đằng sau tất cả sự thể này cuối cùng là sa nhân, chúng muốn kiểm soát con. Bởi vì chúng bảo, con luôn luôn phải có một lời giải thích hữu lý về lý do con làm những gì con làm. Nhưng điều này thực sự nghĩa là gì? Nghĩa là con cần có một lời giải thích có thể chấp nhận được ở đây trên trái đất, trong xã hội và nền văn hóa đặc thù của con. Và nếu xã hội và văn hóa này bị sa nhân chi phối thì con sẽ chỉ có thể hành xử theo những cách được chấp nhận bởi chuẩn mực và quy định của chúng. Và sau đó tất nhiên, một khi con đã làm vậy một lần thì con sẽ phải đi theo đường rày này cho đến mãn kiếp. Con sẽ phải luôn luôn làm cùng một chuyện như vậy.

À, con yêu dấu, trong Kinh thánh có nói gì về Thánh linh? Rằng Thánh linh thổi nơi nào nó muốn. Có nghĩa chăng là Thánh linh không tuân theo quy tắc nào? Ấy, chúng ta có thể bàn cãi liệu Thánh linh có theo quy tắc nào hay không, nhưng điều chắc chắn chúng ta có thể nói là Thánh linh không tuân theo quy tắc nào do con người đặt ra. Thánh linh không tuân theo quy tắc do sa nhân quy định.

Sa nhân muốn đóng chặt Tánh linh để Tánh linh không thể tuôn chảy. Đây là mục đích chính của chúng. Mối đe doạ lớn nhất đối với chúng là có người đạt đến một mức tâm thức khi có gì từ cõi tâm linh tuôn chảy xuyên qua họ. Đây là mối đe dọa chủ yếu và cũng là điều chúng muốn ngăn cản bằng mọi cách có thể. Chúng muốn mọi chuyện phải tiên đoán được, phải kiểm soát được, và tất nhiên điều này không ảnh hưởng chút nào đến Tánh linh.

Đây là một trong những bước đột phá to lớn con có thể ngộ được trên đường tu tâm linh, con đường quả vị Ki-tô, khi không những con hiểu bằng trí năng mà con còn thấy được. Con thấy được là Tánh linh hoàn toàn độc lập và không bị tác động bởi các lý thuyết cùng tin tưởng của con người trên trái đất – và tất nhiên của sa nhân. Không một niềm tin nào trên trái đất có bất kỳ ảnh hưởng nào trên Tánh linh. Nếu con muốn một minh họa về điểm này thì con hãy lấy một chiếc búa thật lớn, chiếc búa lớn nhất mà con có thể cầm trong tay, con đi xuống bãi biển một hôm đẹp trời và con lấy búa đập vào đại dương với tất cả sức bình sinh của con. Đồng ý, nước sẽ bắn tung tóe, nhưng chỉ vài giây sau, đại dương sẽ làm gì? Đại dương sẽ êm đềm lại như cũ. Đấy, điều này phần nào minh họa cho Tánh linh, ngoại trừ điểm khác biệt là dù con có chế tạo một chiếc búa vĩ đại đến chừng nào trên trái đất thì con vẫn không thể khiến cho Tánh linh bắn tung tóe. Tánh linh hoàn toàn không bị tác động bởi hành động con người.

Sa nhân có một niềm tin vô cùng lâu đời mà nhiều người đã hấp thu. Chúng nghĩ là những gì chúng làm, hay con người làm ở đây trên trái đất có thể ảnh hưởng được cõi tâm linh, ảnh hưởng các thiên thần, ảnh hưởng Thượng đế. Sa nhân muốn tin là chúng có thể thay đổi quan điểm của Thượng đế và được giao phó việc cai quản tạo vật của ngài. Nhiều người muốn tin là Thượng đế chú ý đặc biệt đến họ, ban cho họ ân huệ. Tất cả chỉ là chuyện hư cấu, con yêu dấu. Tất cả đều là hư cấu. Các thày đã từng nói rồi đó. Các thày là chân sư thăng thiên chứ không phải là thần thánh đáp ứng lời cầu của con. Các thày ở đây để giúp con tự giải thoát khỏi tâm thức con người chứ không để ban cho con những ân huệ mà con nghĩ là quan trọng trong tâm thức con người.

Tánh linh hoàn toàn thản nhiên trước quan điểm và tin tưởng của con người. Điều này nghĩa là gì? Làm thế nào con trở thành một cánh cửa mở cho Tánh linh? Bằng cách, ở mức độ cao nhất mà con có thể, giải phóng tâm con khỏi tất cả những quy tắc, luật lệ do con người đặt ra. Đây là điều các thày gọi là đi vào tâm thái trung hòa. Điều này đã được gọi bằng nhiều tên khác nhau trong các giáo lý thần bí: Hồng ân lắng nghe, tâm thức thuần khiết lắng nghe, sự nhận biết thuần khiết. Còn nhiều tên gọi nữa, nhưng tên gọi không quan trọng. Điều quan trọng là con, tất cả các con, có thể vun bồi một cách ý thức khả năng bước vào tâm thái trung hòa và đơn giản mở cửa ra cho Tánh linh.

Tôi buông, tôi buông, tôi buông

Chắc chắn sẽ có những người không làm được chuyện này vì tâm họ mở ra quá lớn với cõi cảm xúc hay cõi lý trí. Nhưng các con là đệ tử của chân sư thăng thiên, con đã thực tập các bài chú của các thày để tự bảo vệ tâm linh, con đã thỉnh gọi Astrea, đã đọc các bài thỉnh, đã nỗ lực giải quyết tâm lý của mình, thì hầu hết các con đều có thể được lợi lạc – một khi con đã giải quyết phần nào tâm lý của mình và không bị buộc vào các thế lực thấp kém kia – con có thể được lợi lạc dành ra một chút thì giờ để ngồi xuống trong một tư thế thoải mái, hay con nằm xuống, và con chỉ bước vào tâm thái trung hòa này. Ta biết là ta đang nói “con chỉ bước vào”, nhưng kỳ thực đây là một trong những việc khó làm nhất do có quá nhiều áp lực từ ngoại cảnh trên tâm con cứ muốn kéo con ra khỏi tâm trung hòa. Nhưng dẫu vậy, ít nhất con có thể bắt đầu tiến trình này.

Con có thể dành ra một chút thời gian. Và một cách là con thực hiện một đợt canh thức (novena) như các thày ta đã có bàn đến. Các thày có một canh thức cho Đại chỉ đạo Thiêng liêng khi con đọc bài chú Đại chỉ đạo Thiêng liêng 9 lần (hay 14 lần – có hai bài chú cho Đại chỉ đạo Thiêng liêng, và cho canh thức thì con dùng bài nào cũng được). Sau đó con ngồi lại đó với một tờ giấy trắng và một cây bút, và con ghi xuống bất cứ gì khởi lên trong con. Tương tự như vậy, con cũng có thể làm canh thức cho ta bằng cách đọc bài chú của ta 9 lần, xong con ghi xuống bất cứ gì đến với con mà không có phán xét, không có định kiến gì hết.

Nhưng chuyện này cũng không cần nghi thức đến vậy. Con có thể chỉ đơn giản bước vào một trạng thái lắng nghe. Con không cần ghi xuống, nhưng đôi khi việc ghi xuống có thể giúp con vô hiệu hóa tâm mình. Nhưng nếu con có thể, con chỉ đi vào một tâm thái trung hòa. Điều có thể giúp con là con nằm xuống, hay con nhắm mắt, con ngồi thẳng nhắm mắt, và con chỉ chú ý đến ý tưởng của mình. Nhiều hình thức thiền định bảo con chú ý đến hơi thở, và nếu điều này hữu ích cho con thì cũng tốt thôi, nhưng con hãy chú ý đến ý tưởng của mình. Và bất cứ khi nào một ý tưởng hiện ra, con thầm nói trong tâm: “Tôi buông, tôi buông nó” [surrender trong tiếng Anh có mấy nghĩa: buông bỏ, từ bỏ, hàng phục, trả lại]. Con không cần suy nghĩ. “Tôi không cần suy nghĩ về chuyện này. Tôi không cần giải quyết bất cứ gì. Tôi chỉ buông nó ra. Tôi để cho nó ra đi. Tôi buông, tôi buông, tôi buông.” Con có khả năng làm được.

Vị sứ giả này đã làm như vậy rất nhiều lần trong đời ông và ông vẫn tiếp tục làm vậy. Con có thể làm vậy một cách thường xuyên, chỉ cần một vài phút, hay con có thể làm lâu hơn, bất cứ gì con muốn. Nhưng con chỉ buông. Con không có ý là chuyện gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Con chỉ đi vào trung hòa. Con không có ý là một chân sư thăng thiên phải hiện ra trước mặt con và cho con một ý tưởng huy hoàng nào đó. Con không có định kiến về điều gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Con hãy lưu ý điều ta vừa nói: “điều gì phải xảy ra hay không được xảy ra”. Con không có ý tưởng là không gì được xảy ra, hay con không xứng đáng được nhận ý tưởng nào. Nhưng con cũng không có ý tưởng là con muốn như vậy.

Nếu con có thể trau dồi khả năng lắng nghe nội tâm này, con có thể thấy như các thày có nói là lúc đầu con nhận được một số sáng ngộ về những gì con cần giải quyết trong tâm lý. Và nếu con sẵn lòng thì với thời gian, con sẽ bắt đầu xoay chuyển và con nhận được những ý tưởng khác nữa về những gì con có thể làm – những gì con có thể làm trong đời mình, làm cho các chân sư thăng thiên, làm cho Saint Germain.

Để yên cho Tánh linh làm việc xuyên qua con

Và làm sao con có thể nói được với tâm thái hiện thời của con là chuyện này sẽ dẫn con xa đến đâu? Con hiểu là ngay bây giờ, ngay ở đây, con đang lắng nghe bài truyền đọc này, hay con đang đọc bài giảng này. Ngay bây giờ con đang ở một tầng nào đó trong số 144 tầng tâm thức. Cho dù tầng tâm thức của con là gì, con nhìn nhận là khi con cứ tiếp tục tiến bước trên đường tu tâm linh và thực hành các giáo lý mà các thày đã cho con, con sẽ lần hồi nâng cao tâm thức. Nhưng các thày đã nói gì với con? Khi con khởi sự ở tầng 144 và đi xuống, con khoác vào một ảo tưởng để bước xuống tầng 143. Và con cứ khoác thêm từng ảo tưởng như vậy để đi xuống tầng tâm thức hiện thời của con. Có nghĩa là nếu con đang ở tầng 80 chẳng hạn, con vẫn còn mang khá nhiều ảo tưởng ngăn cản con nhìn thấy rõ.

Con cần nhìn nhận ở đây là ở tầng tâm thức hiện thời của con, con không thể nào thấy được con sẽ như thế nào khi con ở 10, 20 hay 30 tầng cao hơn bây giờ. Con cần phải nhìn ra và chấp nhận với tâm ý thức là khi con tiếp tục bước chân trên đường tu, con sẽ đi lên cao hơn và một ngày kia con sẽ ở 20 tầng cao hơn ngày hôm nay.

Điều gì quan trọng với con bây giờ? Là con không cho phép tâm vỏ ngoài, hay bất kỳ thế lực nào đang lôi kéo tâm con, khiến con tin rằng có sự giới hạn trong những gì con có thể làm. Thật vô cùng quan trọng con nhìn nhận là ở mức hiện thời, con đang có một viễn quan nào đó. Và ở mức này thì đúng vậy, có những điều con không thể làm được. Nhưng cũng thật quan trọng con nhận ra là khi con nâng cao tâm thức, viễn quan hiện thời của con sẽ không còn hạn chế con nữa. Và do đó, con không thể quyết định với tâm vỏ ngoài: “Ồ, tôi sẽ không bao giờ làm được chuyện này.” Suốt các thời đại, quá nhiều người đã nhìn vào Giê-su, chẳng hạn, cùng toàn bộ câu chuyện về những phép lạ của thày và nói: “Tôi sẽ không bao giờ đi bộ được trên mặt nước.”

Nhưng này con, trong thời đại hôm nay chuyện đi bộ trên nước thật không có ý nghĩa gì mấy, cho nên ta không yêu cầu con nuôi dưỡng ý tưởng là một ngày kia con sẽ có thể đi bộ trên nước, và nếu con không thể thì con là một kẻ thất bại. Con hãy để cho ý tưởng đó tàn lụi, vì có nhiều cách khác để con biểu hiện quả vị Ki-tô. Và thật vô cùng quan trọng là con đừng nhìn vào Ki-tô rồi thần tượng hóa, đừng rơi vào sự sùng bái thần tượng đã được xây đắp chung quanh Giê-su hay chung quanh Phật, để rồi quyết định bằng tâm vỏ ngoài: “Ồ, tôi không thể nào làm được những gì Giê-su hay Phật đã làm.” Trên thực tế, điều thật quan trọng là con không tìm cách so sánh mình với các vị đó để mà nghĩ rằng nếu con đạt được quả vị Ki-tô hay quả vị Phật thì con phải làm được y như họ đã làm.

Bởi vì với mức tâm thức hiện giờ của con, làm sao con biết được những gì Tánh linh sẽ thực hiện xuyên qua con khi con bước lên 20 tầng cao hơn? Làm sao con thấy được? Thực tế là con không thể nào thấy được do những ảo tưởng mà con chưa giải quyết. Nhưng có những người – và người ta làm chuyện này thường xuyên – vẫn có thể quyết định với tâm vỏ ngoài: “Ồ, tôi không thể nào làm được. Không bao giờ tôi sẽ làm được.” Ấy, con không bao giờ nên nói “không bao giờ”, vì khi con quyết định vỏ ngoài như vậy, thật ra con có thể hạn chế những gì tâm vỏ ngoài của con có thể chấp nhận. Và điều này có nghĩa là giờ đây có thể có tình huống là con đã thực sự bước cao hơn 20 tầng trên đường tu và Tánh linh có khả năng làm gì đó xuyên qua con mà trước đó nó không thể làm, nhưng tâm vỏ ngoài của con thì không thể chấp nhận. Tâm vỏ ngoài không thể chấp nhận sự chứng đạt của con, cho nên điều này ngăn chặn Tánh linh làm việc qua con.

Sứ giả này vào thời Summit Lighthouse khi ông ngồi đó lắng nghe hàng trăm bài truyền đọc do bà Elizabeth Clare Prophet trao truyền, một số bài truyền đọc rất cao siêu, rất dũng mãnh, thì ông đã có thể nói: “Ồ, tôi sẽ không bao giờ làm được như vậy.” Nếu con nhìn lại và so sánh, con có thể nói là một số bài truyền đọc của bà ấy rất khác với những gì sứ giả này đang trao truyền. Có người sẽ bảo là chúng cao hơn, có người sẽ bảo là chúng nhiều uy lực hơn, nhưng liệu so sánh như vậy có nghĩa lý gì không? Sứ giả này không có mục đích làm giống y như bà Elizabeth Clare Prophet mà ông chỉ có mục đích cho phép Tánh linh làm việc xuyên qua ông theo cách Tánh linh muốn làm việc xuyên qua ông.

Không ích gì mà so sánh những gì Tánh linh làm qua một người với những gì Tánh linh làm qua một người khác. Tánh linh thổi nơi nào nó muốn. Thật không ích gì con tự so sánh với Giê-su, với Phật hay với một vị thày tâm linh nào khác, hay với sứ giả này. Những loại so sánh như vậy chẳng ích lợi gì hết. Con không biết được Tánh linh sẽ làm gì xuyên qua con trong tương lai. Và quan trọng hơn, con không biết được Tánh linh sẽ không làm gì, cho nên con đừng quyết định với tâm vỏ ngoài là Tánh linh phải làm gì hay không được làm gì xuyên qua con. Đây là một trong những cách thông thường nhất mà người tâm linh giới hạn những gì Tánh linh có thể làm xuyên qua mình.

Con hãy sẵn lòng nhận bài truyền đọc này, nhận những bài truyền đọc khác từ hội nghị này, và nhìn xem: “Tôi đang giới hạn Tánh linh như thế nào?” Sứ giả này nhiều năm trước đây đã đi đến kết luận đó. Ông đã có thể hòa điệu và nhận được ý tưởng đó, và như vậy ông đã bắt đầu xem xét: “Tôi đang giới hạn Tánh linh như thế nào? Tôi đang giới hạn cách Tánh linh chảy qua tôi như thế nào?” Và việc quán chiếu này đã là một trong những yếu tố chủ yếu dẫn ông vào tâm thái qua đó Giê-su đã có thể khởi sự huấn luyện ông cho sứ mạng đặc thù hiện nay của ông. À, sứ mạng của con sẽ khác, nhưng điều quan trọng là con xem xét những giới hạn con đang áp đặt lên Tánh linh như thế nào, hay con đang tìm cách hướng dòng chảy của Tánh linh đi về đâu để đem lại một số kết quả mà tâm vỏ ngoài của con mong muốn.

Giai đoạn vô vi

Sứ giả này trước khi ông bắt đầu luyện tập với Giê-su, đã chứng được sáng ngộ là quá nhiều nỗ lực của mình trên đường tu tâm linh đã bị sai khiến bởi tự ngã. Ông đã mong muốn trở thành một đệ tử tinh tấn với dáng vẻ một đệ tử cao cấp. Quá nhiều chuyện ông làm đã bị thúc đẩy bởi động cơ này. Và như các thày có nói, chuyện này cũng thật hợp lẽ giữa tầng 48 và 96 vì con cần vươn lên khỏi tâm thức tập thể. Nhiều các con sẽ có cảm nhận tương tự, cảm giác tương tự như vậy, và con sẽ có thể nhìn ra điều này nếu con sẵn lòng, và con sẽ làm được những gì sứ giả này đã làm – con chỉ buông bỏ, con chỉ để cho nó ra đi và con ngộ: “Không có gì mà tôi muốn làm trên hành tinh này.”    

Và khi không có gì mà con – cái nhân cách vỏ ngoài – muốn làm trên hành tinh này thì đó là lúc Tánh linh có thể nói: “Vậy con có cho phép ta làm gì đó xuyên qua con hay chăng?” Giờ đây, con không cần đạt tới điểm buông bỏ mọi thứ, mọi mong muốn của con người. Nhưng con cần có một khe mở để Tánh linh làm việc xuyên qua con theo những cách con không đoán trước được hay không cố gắng kiểm soát.

Con yêu dấu, sa nhân đang mưu toan kiểm soát Tánh linh. Là đệ tử của chân sư thăng thiên, con thật sự không muốn làm cùng chuyện đó. Thánh linh thổi nơi nào nó muốn. Có nghĩa là để cho Thánh linh thổi xuyên qua con, con phải sẵn lòng để yên cho nó thổi theo những cách con không thể tiên đoán, không thể dự trù, không thể điều khiển. Nếu con muốn kiểm soát trước dòng chảy của Tánh linh thì Tánh linh sẽ phải đứng lui lại và đợi cho đến khi con mở cửa ra. Không thể nào khác được, con yêu dấu, vì Thánh linh sẽ không vi phạm quyền tự quyết của con, ý chí tự do của con. Vậy con có thể hỏi: “À, thế khi sứ giả này khởi sự vào năm 2002 hay 2001, liệu ông có biết ông sẽ làm gì ngày hôm nay không? Ông có biết trước việc gì sẽ xảy ra không?” Không, ông không biết. Vậy thì làm thế nào ông đã tự do chọn lựa? Nhưng ông đã tự do chọn lựa là ông sẽ bỏ sang bên các mong muốn cùng tham vọng của con người phàm. Ông sẽ mở rộng ra với Tánh linh và nói: “Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra, Tánh linh cứ việc tuôn chảy xuyên qua tôi.” Đó cũng là một chọn lựa tự do đó con.

Chỉ có tâm vỏ ngoài mới muốn kiểm soát kết quả, muốn tiên đoán kết quả. Nó muốn biết trước kết quả sẽ ra sao, nó muốn một sự đảm bảo. Nhưng không có gì là đảm bảo. Ác quỷ sẽ cho con một hợp đồng. Tánh linh không cho con hợp đồng nào. Con có rộng mở ngay bây giờ hay chăng? Nếu thế thì Tánh linh sẽ chảy qua con. Nếu ngày mai con không rộng mở thì ngày mai Tánh linh sẽ không chảy qua con. Nếu 10 năm sau con lại rộng mở, Tánh linh sẽ lại chảy qua con một lần nữa – bất cứ khi nào có sự cởi mở. Không có hợp đồng, không có nghĩa vụ, không có bó buộc. Quá nhiều người cho rằng để là cánh cửa mở cho chân sư thăng thiên, con như thể phải mặc vào một bộ áo tù khóa chặt chân tay. Giờ đây con phải làm mọi chuyện cho thật chỉnh. Các thày đã nói gì chứ? Câu hỏi duy nhất đặt ra là liệu sự cởi mở có mặt hay không, có một khe mở hay không, có một cửa mở hay không? Khi đó Tánh linh có thể và sẽ tuôn chảy. Thường khi vấn đề không phải là con phải làm một điều gì đó, mà là không làm một điều gì đó.

Điều nghịch lý tất nhiên là hầu hết mọi người khi cất bước trên đường tu tâm linh đều có quá nhiều năng lượng tha hóa trong cảm thể và trí thể, quá nhiều ảo tưởng đến độ họ cần phải dọn dẹp đi phần nào, cho nên trong một thời gian họ sẽ phải làm một điều gì đó. Con phải đọc chú, đọc thỉnh để giải tỏa các năng lượng, con phải làm việc trên các ngã tách biệt và ảo tưởng của con, con phải học tập các giáo lý. Con phải nỗ lực một thời gian để dọn sạch những rác rưởi trong bốn thể phàm sẽ đóng chặt tâm con, vì đó cũng là một cách đóng tâm con lại. Nhưng một khi con đã làm công việc này, vấn đề không phải là làm nữa mà kỳ thực là không làm.

“Vô vi nhi vô bất vi” – không làm nhưng cũng không không làm – là một khái niệm trong đạo Phật mà con có thể quán chiếu. Vô vi nhi vô bất vi. Một số các con đã sẵn sàng để bắt đầu quán chiếu bí ẩn này. Một số thì chưa hẳn như vậy cho nên con có thể bỏ qua điểm này, nhưng sẽ tới một điểm khi con không còn là tác nhân nữa. Nhưng dẫu sao con cũng nhìn nhận là có một số công việc phải được chăm sóc trong đời sống thực tế, và con hãy chăm sóc chúng, rồi sau đó con hãy tập trung vào các hoạt động tâm linh của con. Nhưng phần nào con luôn luôn mở ra, con luôn luôn lắng nghe, luôn luôn trong tâm con có một khoảng trống, một khe mở. Có thể con đang chú tâm vào một số vấn đề trong cuộc sống, nhưng vẫn có một phần trong con mở ra để tiếp nhận một sáng ngộ mới, một ý tưởng mới. Nhiều khi giữa sinh hoạt hàng ngày, con vẫn có thể nhận được một sáng ngộ nào đó, một xung lực nào đó.

Đây là điểm các thày muốn con đạt được, là khi con bắt đầu có được hồng ân lắng nghe – nếu các thày có thể gọi như vậy – là sự cởi mở nội tâm mở ra phần nào với Tánh linh, với Hiện diện TA LÀ, với các chân sư thăng thiên. Và ai nói được Tánh linh có thể làm gì xuyên qua con? Chắc chắn không người nào khác nói được là Tánh linh có thể hay không thể làm gì xuyên qua con. Ta có ý gì khi ta bảo là không người nào khác có thể nói cho con? À, bốn thể phàm, nhân cách vỏ ngoài của con là gì chứ? Đó là một con người, cho nên chính nhân cách vỏ ngoài của con không thể nói cho con Tánh linh có thể hay không thể làm gì xuyên qua con.

Với lời này, ta đã trao cho con những ý tưởng mà ta muốn trao. Ta cũng biết – nếu có thể nói vậy – đây là một bài truyền đọc thật huyền bí hay thần bí, đòi hỏi nơi con rất nhiều suy ngẫm. Đối với một số các con, có thể nó sẽ không vang dội trong con vì con chưa ở mức cần đến nó. Nhưng với một số khác, nó đúng là điều con đang cần để bước lên thêm một tầng nữa trên đương tu. Ta để con tùy tiện sử dụng thế nào cũng được. Nhưng như ta có nói, nếu con nỗ lực tập trung vào Bản thể của ta, vào Hiện diện của ta, thì ta sẽ làm mọi cách để cho con những sáng ngộ mà con cần hầu bước lên một mức độ phụng sự và hòa điệu cao hơn. Với lời này, ta niêm con trong ngọn lửa vui mừng mà TA LÀ.

Cách giao tiếp không ép buộc

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/9/2021, nhân Webinar 2021 cho Hoa kỳ – Tiến tới các Quan hệ của Thời Hoàng kim. Đăng ngày 9/10/2021.

TA LÀ chân sư thăng thiên Hilarion, Thượng sư của Tia sáng thứ Năm. Tia thứ Năm thường được xem là Tia của Sự thật, hay Tia của Chữa lành. Đâu là mối liên hệ giữa sự thật và chữa lành? Nghĩ cho cùng, con cần chữa lành cái gì chứ? Con cần chữa lành khỏi tâm lý mà con chưa giải quyết. Nhưng tâm lý chưa giải quyết đến từ đâu? Nó dựa trên gì? Nó dựa trên một ảo tưởng. Ảo tưởng là sự vắng mặt của sự thật. Khi con đem lại sự thật thì con thực hiện việc chữa lành.

Chính xác điều này có nghĩa là gì trong lãnh vực các mối quan hệ? À, chúng tôi các chân sư thăng thiên đã nói gì? Con hãy lấy một mối quan hệ điển hình trên địa cầu. Cả hai người đều mang tâm lý chưa giải quyết. Con có thể định ra một cách đo lường hay một cái thang khi nhìn con người. Con có thể nói là ở đầu bên này là những người mà toàn bộ hành động, toàn bộ cảm xúc, toàn bộ ý nghĩ và toàn bộ ý niệm bản sắc của họ đều là sản phẩm của một tâm lý chưa giải quyết. Đây là điều mà con nhận thấy nơi các sa nhân ở gần tầng tâm thức thấp nhất có thể có trên địa cầu. Và ở đầu bên kia của cái thang, của quang phổ tâm thức, là những người chỉ còn rất ít tâm lý chưa giải quyết, đến độ họ tự do hơn rất nhiều để không những chọn lựa hành động của mình, mà chọn lựa cả phản ứng của mình. Nói cách khác, họ chọn lựa cảm xúc của họ, chọn lựa ý nghĩ của họ, chọn lựa ý niệm bản sắc của họ.

Khi con nhìn vào tuyệt đại số con người trên địa cầu, con sẽ thấy là hầu hết mọi người ở một mức không hoàn toàn bị tâm lý chưa giải quyết chế ngự, nhưng họ vẫn bị tâm lý đó tác động rất, rất mạnh mẽ. Con nhìn vào mối quan hệ điển hình thì con sẽ thấy gần như mọi chuyện trong quan hệ đó hoặc là hệ quả, hoặc bị ảnh hưởng và bị tô màu một cách vô cùng sâu đậm bởi tâm lý chưa giải quyết của cả hai người. Như thày Serapis có nói, nó tương tự như ngã tách biệt này đang tương tác với ngã tách biệt khác. Những ngã tách biệt của một người tương tác với ngã tách biệt của người kia, quy định cách họ hành xử với nhau và phản ứng lẫn nhau.

Lẽ tự nhiên, trong cương vị một người tâm linh, con đã bắt đầu khắc phục được phần nào vấn đề nói trên. Và lẽ tự nhiên, con cũng nhận ra, hay con có khả năng nhận ra nhanh chóng, là toàn bộ mục tiêu của con đường tâm linh là đạt tới điểm khi các mối quan hệ của con không còn bị chế ngự và không còn bị hoàn toàn chi phối bởi tâm lý chưa giải quyết của con. Như chúng tôi có nói, trong bất kỳ quan hệ nào, con đừng nên tập trung vào người kia, vào đối tác, vào người bạn đường của con. Con hãy tập trung vào những gì con có quyền năng thay đổi, mà cái đó chính là bản thân con, là tâm lý của con. Khi nói đến các mối quan hệ, đấy có thể được xem là sự thật cao nhất. Con không có khả năng thay đổi người bạn đường của con nhưng con có khả năng thay đổi chính con. Cho nên nếu con muốn được nội lực, nếu con muốn tăng triển, con phải tập trung vào những gì con có quyền năng thay đổi.

Tuy nhiên, ta cũng muốn nói với con là việc thay đổi tâm lý của mình không hoàn toàn là một tiến trình nội tâm. Nếu con lấy các giáo lý mà chúng tôi đã ban ra thì con đã có thể nói: “Bây giờ tôi nhận ra những gì các thày đã dạy về tâm lý của tôi. Nếu tôi lấy tất cả những lời giảng dạy đó thì tôi phải có thể rút về một hang đá trên núi Himalaya, sử dụng các giáo lý đó để xem xét tâm lý mình, rồi với thời gian, lần lần tôi sẽ giải quyết hết mọi tâm lý chưa giải quyết cho tới khi tôi sẵn sàng thăng thiên. Cá nhân tôi phải làm được chuyện đó mà không cần tương tác chút nào với người khác, vì như các thày có nói, tôi có trọn vẹn quyền năng trên tâm lý của tôi. Tôi hoàn toàn có khả năng thay đổi ngã tách biệt của tôi, tháo gỡ chúng ra, buông bỏ mọi ảo tưởng và chuyển hóa mọi năng lượng.”

Điều đó đúng, con có thể làm như vậy. Có những người đã làm được như vậy, đã rút về ở ẩn nơi hang đá trên núi Himalaya, rồi nhiều năm sau họ bước ra khỏi hang sau khi đã thực hiện một số tiến bộ tâm linh. Tuy nhiên đó không phải là cách nhanh nhất để phát triển tâm linh. Và nếu con đang sống kiếp đầu thai chót của con và con muốn hội đủ tư cách để thăng thiên, đó không phải là cách hiệu quả nhất để đạt tới thăng thiên. Bởi vì chúng tôi đã nói gì chứ? Trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, con đã tự đặt mình vào mối quan hệ với một số người nhất định chính vì con đã thấy được đây là cách nhanh nhất để mà tinh tấn.

Trên lý thuyết thì con có thể ngồi đó, và trong tâm con có thể hoàn toàn giải quyết tâm lý của con, nhưng điều này sẽ tốn rất nhiều thời gian, vì với một tiến trình hoàn toàn nội tâm như vậy, con không có cùng khung tham chiếu, con không nhận được sự phản hồi, con không có tương tác nào với người khác để mà có được một tầm nhìn về bản thân mình, hay để nó bắt buộc con phải phản ứng một cách nào đó, rồi chính cách phản ứng này làm lộ ra cái ngã tách biệt mà con cần thấy.

Có những người, thật ra có khá nhiều người, đã rút vào một khung cảnh tu viện, cho dù họ theo đạo Cơ đốc, đạo Phật hay bất kỳ tôn giáo nào khác. Họ rút hẳn khỏi thế giới để ẩn mình trong tu viện nơi mọi chuyện đều có luật lệ nghiêm ngặt rõ ràng. Họ dành ra một phần thời gian để làm việc, một phần thời gian để tu tập, và có thể một phần thời gian để nghiên cứu. Tất cả mọi thứ đều tuân theo luật lệ. Và khi họ chấp nhận bước vào sống trong một môi trường như thế, thường khi tự ngã của họ sẽ thở phào nhẹ nhõm, bởi vì giờ đây họ sẽ sống trong một khung cảnh kềm chế nơi họ không phải phản ứng lại bất cứ điều gì, và như thế tự ngã mới có chỗ để lẩn trốn. Có nhiều người tưởng mình đã tinh tấn, nhưng đó là vì tự ngã đã luôn luôn tìm được cách lẩn tránh. Họ không thấy được tự ngã vì không có gì đẩy nó ra ngoài cho nó lộ diện.

Chính con đã chọn tự đặt mình vào một số mối quan hệ vì con nhận ra đây là cách nhanh nhất. Điều này không có nghĩa là con phải ở lại trong quan hệ đó mãi mãi, mà chỉ cho tới khi con giải quyết được những gì con cần giải quyết trong quan hệ đó. Nhưng bằng cách tham gia năng động vào xã hội, có nhiều quan hệ khác nhau, nhận sự phản hồi của người khác và giám sát cách phản ứng của mình đối với người khác, đó thật là cách nhanh nhất để con tăng triển tâm linh. Đối với tuyệt đa số mọi người, cách này hiệu quả hơn hẳn một lối sống ẩn dật.

Điều này có thể hơi khác cho những ai đã làm công việc này trong tiền kiếp, nhưng đối với tuyệt đại đa số người tầm đạo, cuộc sống năng động và việc tương tác với người khác là cách hữu hiệu hơn rất nhiều. Điều này có nghĩa gì? Như ta vừa nói ở trên, điều này có nghĩa là cách hữu hiệu nhất không phải là một tiến trình hoàn toàn nội tâm, và việc tương tác với người khác là cách hữu hiệu hơn.   

Và tất nhiên, nó có nghĩa trước hết là con nói chuyện với người kia. Thày Lanto có bảo là con hãy bước ra lãnh vực thế tục và tìm hiểu các nghiên cứu về quan hệ, và nếu con làm việc đó, con sẽ thấy đa số các chuyên gia về quan hệ đều chỉ ra rằng vấn đề hàng đầu trong mọi quan hệ, đặc biệt các mối quan hệ trục trặc, là sự thiếu giao tiếp – không có dòng giao tiếp chảy tự do. Có thể trong một số trường hợp dòng giao tiếp có mặt, nhưng là một dòng trục trặc.

Nói cách khác, trong các mối quan hệ không diễn ra tốt đẹp, con thường thấy hai thái cực. Một thái cực là hai người không còn nói chuyện với nhau nữa. Hoàn toàn không có giao tiếp xảy ra, hoặc là họ không giao tiếp, hoặc họ chỉ giao tiếp về một số đề tài vô hại như thời tiết, hàng xóm, con cháu hay bất kỳ chuyện gì khác. Đây là thái cực đầu, người ta không nói chuyện với nhau.   

Có một thái cực thứ nhì là họ có nói chuyện với nhau, nhưng thay vì nói chuyện về mối quan hệ, họ lại nói về những chuyện khác, hay họ chỉ trích lẫn nhau, cằn nhằn với nhau, tìm cách ép buộc nhau phải nhìn theo cách của mình. Nói cách khác, họ dùng một dạng giao tiếp ép buộc nơi họ tìm cách kiểm soát, hay có lẽ thay đổi người kia.

Dù sao thì trong cả hai cách đều có sự ép buộc, có vũ lực, vì cách duy nhất để hai người không thể nói chuyện với nhau là ép buộc mình, là đè nén xuống. Hoặc khi hai nguời cãi nhau và tìm cách lấn át nhau, thì hiển nhiên cả hai cũng đang dùng lực.

Món quà dựa trên Tia thứ Năm mà ta muốn tặng cho con là con có khả năng thiết lập một dạng giao tiếp khác hơn. Chúng ta có thể gọi đó là dạng giao tiếp không ép buộc, giao tiếp không dựa trên lực. Bình thường con sẽ có thể hỏi: “Nhưng giao tiếp chẳng phải là một con đường hai chiều hay sao? Tôi có thể học một cách giao tiếp tiến bộ mới mẻ và tôi có thể nói điều gì đó cho người bạn đường của tôi, nhưng nếu người ấy chỉ lạnh lùng nhìn tôi, hay nhún vai bước ra khỏi phòng, hay nổi giận và bắt đầu la hét thì sao?”

Nhưng chúng tôi đã nói gì? Con cần giành lại uy quyền trên những gì con có quyền năng thay đổi, và cái đó là chính con, là tâm lý của con, phản ứng của con. Con sẽ thấy nhiều người trên thế giới mang thói quen lạm dụng giọng nói của mình. Họ lạm dụng quyền năng của lời nói bằng cách miệt thị, tranh cãi, xúc phạm, mỉa mai, chế nhạo người khác, hay bằng những cách khác như la hét, chửi mắng người khác. Nhiều người có rất nhiều khí lực và họ không ngần ngại dùng khí lực đó trong giao tiếp.

Nhưng đa số các con là người tâm linh, các con không thuộc loại người đó. Con thuộc loại người không muốn lạm dụng giọng nói của mình, và do đó trong đa số trường hợp, con có xu hướng giữ im lặng. Con có xu hướng không nói lên những gì mình cảm thấy, những gì mình suy nghĩ, những gì mình trải nghiệm. Điều ta muốn gợi ý cho con, trong tư cách là người tâm linh thuộc loại này, thì con cần làm việc trên bản thân để con đạt tới mức con không bị hạn chế trong những điều con có thể bày tỏ với người khác, hay với người bạn của con trong quan hệ. Ngay trong bản thân, con có tự do nói ra bất cứ gì con cảm thấy mình cần nói ra.

Và điều này sẽ đòi hỏi rất nhiều người trong số các con bỏ ra một số nỗ lực. Con cần nỗ lực nắm bắt toàn bộ khái niệm này. Con cần nhìn xem tại sao con cảm thấy miễn cưỡng làm chuyện đó, tại sao một số các con lại sợ làm chuyện đó. Có khi là vì con sợ phản ứng của người kia. Nhưng rất nhiều các con mang một nỗi sợ phát biểu mà con không thật sự nhận diện được. Và đối với nhiều người trong các con, vấn đề này đi trở ngược về thuở chấn thương nhập đời của con khi con từng lên tiếng chống lại sa nhân, xong con bị chúng đánh gục tàn bạo đến độ con quyết định là mình sẽ không bao giờ làm như thế nữa. Nhưng con chẳng thấy hay sao là con đang dùng vũ lực chống lại chính mình? Và con không thể vừa làm vậy mà vừa thăng thiên. Khi con ở tầng 144 hay gần tới đó, con tự do nói lên bất cứ gì. Không có hàng rào nào trong tâm con ngăn cản con bày tỏ bằng lời nói những gì con có trong tâm. Tất nhiên là có rất nhiều thứ không nằm trong tâm con, nhưng dù sao đi nữa…

Điều con cần nhìn nhận ở đây là sa nhân mơ ước chúng là thẩm quyền tối thượng mà không ai có thể phản bác. Không ai có thể nói gì về chúng để thách thức uy quyền của chúng, hay để chất vấn chúng, hay để nói lên những điều chúng không muốn nghe. Chắc chắn con không thể nói ra bất cứ gì khiến chúng có vẻ sai trái, hay khiến chúng cảm thấy bối rối xấu hổ, cho dù một sa nhân thường không thể cảm thấy như vậy. Chúng muốn bịt miệng mọi người, bịt miệng mọi sự chống đối, và do đó chúng đã thiết lập một loạt cơ chế rất đa diện để bưng bít mọi người và khiến mọi người phải ngừng nói.

À, con sẽ có thể hỏi: “Làm thế nào chuyện đó có thể thành công?” Nó có thể thành công vì con đã từng có trải nghiệm lên tiếng rồi đã gặt hái hậu quả đau đớn. Con đã quyết định – con đã tạo ra một cái ngã tách biệt quyết định – là con sẽ không bao giờ lên tiếng kiểu đó nữa, hay bất cứ kiểu nào khác nữa. Con đang mang những ngã tách biệt đó, và trong khuôn khổ sự phát triển của con, con cần giải quyết chúng đi, con cần để cho chúng chết đi và được tự do.

Con có thể tự theo dõi, tự giám sát mình. Con có thể tự xem xét mình trong những hoàn cảnh quá khứ, hay ngay cả những hoàn cảnh hiện tại, và con có thể tự hỏi một số câu hỏi giản dị: “Liệu tôi có thể nhận diện những tình huống mà tôi không muốn lên tiếng hay không? Tôi có thể nhận diện những tình huống khi tôi muốn nói điều gì đó nhưng lại nhịn không nói? Tôi có thể nhận điện những tình huống khi tôi có lên tiếng, nhưng giọng nói của tôi đượm một nỗi cảm xúc tạo ra phản ứng tức thì nơi người kia trong quan hệ?”

Con cũng có thể cân nhắc xem con có bị rơi vào khuôn nếp sau đây hay không. Rất nhiều người tâm linh kinh qua một số tình huống với một đối tác nhất định trong quan hệ khi không chịu lên tiếng. Họ có một số cảm xúc, một số ý nghĩ, một số điều mà họ muốn nói nhưng họ lại không nói. Kết quả là một sự căng thẳng bắt đầu chồng chất trong cảm xúc. Năng lượng xúc cảm bắt đầu tích tụ lại nơi cảm thể, một số ý nghĩ bắt đầu tích tụ nơi trí thể, và lần hồi sau một thời gian, cường độ của nó cứ thế dâng tràn.  

Bấy giờ nó trở nên dữ dội đến độ con không thể chịu đựng được nữa, con không thể cầm giữ nó lại, thế là con lên tiếng với người bạn đường của con. Nhưng con lên tiếng một cách rất cường độ, mất cân bằng. Con nổi giận, con bực tức, con đổ lỗi cho người kia, con chỉ ra lầm lỗi của họ, những gì họ đã làm sai trái và những gì đáng lý họ phải làm. Và con phóng chiếu theo một cách mà chính con cũng nhận thấy là quá cường độ. Nếu người kia đã cư xử với con như con đang cư xử với họ thì chính con cũng sẽ không phản ứng tich cực được. Và vì thế, người bạn đường của con sẽ phản ứng tiêu cực, và cuối cùng hai con sẽ cãi nhau. Và cho dù con có cố giải quyết hay bước ra khỏi tình huống đó và phần nào giải tỏa căng thẳng, nhưng vấn đề vẫn không thực sự được giải quyết. Thế tương tác giữa hai con vẫn y nguyên, thế là hai con lại bắt đầu một chu kỳ mới, lại thêm một vòng xoáy mới dồn nén năng lượng và gia tăng cường độ cho tới khi con không thể kiểm soát được nữa. Và một lần nữa, con lại lên tiếng hùng hổ quá trớn, và vân vân.      

Nếu con có thể nhận diện bất kỳ xu hướng nào giống như vậy, con cần nhận ra nguyên nhân ở đây chính là những cái ngã tách biệt tác động lên cách con phát biểu. Con không đang tự do phát biểu – có thể nói con không tự do phát biểu từ trái tim, và vì vậy con phát biểu từ ngã vỏ ngoài, từ những cái ngã tách biệt. Và hiển nhiên – tất cả các con đều thấy được điều này – đó không phai là hình thức giao tiếp cao nhất giữa con người.

Điều ta muốn nói là một trong những mục tiêu con cần đạt đến trong quan hệ là khả năng phát biểu từ một trạng thái tâm trung hòa. Con không mang một nỗi niềm động cảm nào cả. Con không cảm thấy mình bị bó buộc phải nói ra điều đó, và người kia phải bắt buộc hiểu ra, phải chấp nhận điều đó, và phải thay đổi. Con chỉ nói lên từ một trạng thái trung hòa và con chia sẻ: “Đây là cách tôi nhìn sự thể. Đây là những gì tôi cảm nhận về sự việc. Đây là những cảm xúc mà cách hành xử và lời nói của bạn – hay của anh, của em – khơi lên trong tôi.” Nhưng con không nói vậy khi trong lòng con chất chứa một động cảm muốn đổ lỗi, con không làm vậy với nỗi sợ hãi phản ứng của người kia. Con chỉ đơn giản có khả năng phát biểu một cách trung hòa.

Đây là một mục tiêu mà con có thể quyết định trong ý thức là con sẽ sẵn lòng hướng tới. Một lần nữa, trong xã hội thế tục có những lời dạy nói về sự giao tiếp giữa con người mà con sẽ được ích lợi học hỏi, nhưng điểm học hỏi chính yếu không phải là kiến thức trí thức mà là những phản ứng nó khởi lên trong con. Nó sẽ làm rõ, làm lộ ra những cái ngã tách biệt trong con đang ngăn chặn sự giao tiếp của con. Và nếu con áp dụng điều này vào mối quan hệ nồng nàn nhất của mình thì nó sẽ tác động tích cực lên tất cả mọi mối quan hệ của con. Thực tế là nó sẽ chuyển đổi đáng kể các mối quan hệ của con.

Trong nhiều năm qua, sứ giả này đã tu tập về vấn đề này, và mặc dù ông chưa hoàn toàn điều ngự được, ông đã tinh tấn đáng kể so với lúc đầu. Ông đã đạt tới một điểm khi ông nhận ra là ông có xu hướng lo sợ cách phản ứng của người khác vì ông không muốn làm họ phiền lòng – không hẳn là ông sợ phản ứng của họ nhưng ông không muốn làm họ phiền lòng, vì ông sẽ tự trách mình đã làm cho người khác phiền lòng. Ông không muốn làm tổn thương cảm xúc của họ vì ông sẽ cảm thấy mình đáng trách, cho nên – nếu có thể nói như vậy – ông cứ cố đoán trước phản ứng của họ.

Và tất nhiên, ông đã thu hút về phía ông một số người rất dễ giận hờn bởi lời nói của người khác về mình. Người đầu tiên trong trường hợp này là chính cha ông – cha ông có một số “nút bấm” nhất định mà nếu có ai nhấn vào thì ông sẽ nổi giận tức khắc. Sứ giả này đã học được điều này ngay từ tuổi thơ ấu. Nhưng rồi đến một thời điểm khi ông vừa thành niên, ông nhận ra là khi ông nói chuyện với cha một cách nào đó, chủ yếu với một giọng nói trung hòa, thì ông có thể nói ra một số điều mà ông không thể nói được trong động cảm, bởi vì cha ông sẽ phản ứng lại sự động cảm thay vì lắng nghe lời ông nói. Nhưng nếu ông phát biểu không động cảm thì, ít ra thỉnh thoảng, cha ông sẽ sẵn sàng lắng nghe ông nói. Nói cách khác, cảm xúc đã che lấp mất thông điệp. Và sau này trong đời sống, khi ông ngày càng biết cách phát biểu trung hòa, chính ông đã ngạc nhiên thấy mình có thể nói rất nhiều thứ với người khác mà không gây ra phản ứng tiêu cực.

Một số các con sẽ nhận xét thấy là khi các con nói chuyện với sứ giả này, thỉnh thoảng ông phát biểu một cách rất trung hòa không làm con khó chịu, mặc dù ông đang nói ra một số điểm rất thẳng thắn về chính con hay tâm lý của con. Một số khác trong các con cũng có thể nhận xét thấy những khi con bị phiền lòng bởi lời đó của ông, nhưng con không dám nói ra vì con cho ông là người thẩm quyền và con không muốn nói ngược lại thẩm quyền, thì điều này có nghĩa là con mang một số ngã tách biệt con chưa giải tỏa được.

Điểm ở đây là nếu con nỗ lực đạt khả năng giao tiếp trung hòa, khi con có thể lên tiếng một cách trung hòa, thì con sẽ kinh ngac nhìn thấy các mối quan hệ của mình cải thiện đến chừng nào. Nhưng con cũng sẽ kinh ngạc là trong tiến trình tu tập dẫn tới điểm đó, con nhìn thấy nhiều điều hiện rõ ra trong tâm lý mình. Tất nhiên, ta không đang bảo là giờ đây con cần đem tất cả những lời dạy này, rút vào hang đá kia rồi nói: “Tôi sẽ làm việc trên tâm lý của tôi cho tới khi tôi có khả năng phát biểu một cách hoàn toàn trung hòa. Và cho tới khi đó, tôi sẽ không nói gì hết.” Đó không phải là điều ta muốn nói. Trong tiến trình tu tập hướng đến mục tiêu trên, con sẽ phải có can đảm nói lên những gì trước đó con không dám nói. Và bằng cách phát biểu trong khả năng phát biểu của con vào thời điểm đó, con sẽ nhận được phản ứng từ người kia trong quan hệ. Và bằng cách giám sát phản ứng của mình, con sẽ có thể tự nhủ: “Tôi đang có ngã tách biệt nào đang đứng đằng sau cách phản ứng này của tôi?” Và một lần nữa, con sẽ tiến nhanh hơn là nếu con chỉ ngồi một mình trong hang đá. Đây là cách mà con có thể, trong một thời gian tương đối ngắn, đạt tới điểm con có thể giao tiếp trung hòa hơn hẳn.          

Ta đã bắt đầu bài giảng này với câu nói rằng sự thật dẫn đến chữa lành. Có một số vết thương mà con đã nhận lãnh trong tiền kiếp khi con bị hà hiếp nhưng lại không lên tiếng phản đối, và chúng tôi có nói là con cần nhận diện ngã tách biệt đó, tách rời ra khỏi nó, nhìn thấy nó không phải là mình và để cho nó ra đi. Nhưng có một số ngã tách biệt đó liên quan đến phát biểu mà con không thể buông bỏ được nếu con không lên tiếng. Con không thể buông ngã đó ra mà không nói lên những gì con chưa nói. Nếu con chưa đứng lên quả quyết thì con cần đứng lên quả quyết trước khi con có thể cho ngã đó ra đi. Nếu con chưa vạch ra lằn ranh và nói: “Điều này, tôi sẽ không chấp nhận”, thì con cần vạch ra lằn ranh đó để hoàn toàn buông bỏ nó đi.

Sự thật – là sự thật mà con nói lên như con đang thấy – có thể đem lại chữa lành, vì khi con đạt tới điểm con có thể phát biểu mà không sợ phản ứng, thì đó là lúc con nhận ra: “À, sự lên tiếng không đến nỗi nguy hiểm như mình vẫn tưởng, vậy tại sao mình lại lo lắng về chuyện đó? Tại sao mình lại cảm thấy miễn cưỡng, lo sợ, tại sao trong tiềm thức mình lại gánh nguyên cái khối khổng lồ của sự lên tiếng?” Gần giống như một số các con sợ bóng tối khi còn nhỏ. Đến một lúc nào đó, con đã phải bước vào một căn phòng tối đen hay bước ra ngoài trời tối để đối đầu với bóng tối. Và khi con thấy không có ma quỷ nào ở đó để vồ lấy con, thì cuối cùng con đã có thể trút bỏ nỗi sợ hãi. Như sứ giả này đã từng mô tả, ông đã tự nhốt mình trong một phòng tối với một bộ xương người, và bằng cách sống sót qua trải nghiệm đó, ông đã có thể trút bỏ nỗi sợ hãi những bộ xương.

Con hãy sẵn lòng tập tành như vậy. Hãy sẵn lòng nói ra sự thật như con đang thấy. Hãy để ý phản ứng, làm việc trên phản ứng cho tới khi con có thể tự do lên tiếng, nhưng con lên tiếng một cách trung hòa. Thật ra con không phát biểu để thay đổi người kia hay khiến họ buồn phiền. Như chúng tôi có nói nhiều lần, con chỉ đơn giản chia sẻ ý nghĩ và cảm xúc của con với họ. Và khi con có thể tự do nói ra điều đó thì con cũng giải thoát cho họ tự do phản ứng theo cách họ muốn. Và nếu họ không tiếp nhận những điều con nói một cách tích cực, nếu họ nổi giận, nếu họ phản bác hay phớt lờ, thì chuyện đó cũng chẳng quan trọng với con. Nó không quan trọng với con vì con đã tăng triển, con đã trở nên tự do. Và điều tất phải đến là tới lúc người kia sẽ không còn nắm được gì nơi con làm cho con phiền hà nữa. Không có gì về người kia làm cho con phiền hà vì họ không có quyền năng gì trên phản ứng của con, trên cảm xúc, ý nghĩ và trạng thái tâm con. Thật sự, khi con không có phản ứng tiêu cực nào đối với họ thì con đâu có vấn đề gì mà có quan hệ với họ? Nếu đó là một người thân thiết trong gia đình mà con cảm thấy không thể cắt đứt mọi liên lạc, con vẫn có thể tiếp tục quan hệ với người đó mà không đặt vấn đề gì cho con. Nhưng trong nhiều trường hợp, điều xảy ra là con có thể sẽ rời khỏi quan hệ đó. Con tìm được những người mà con có thể có quan hệ cởi mở tự do hơn, mà con có thể giao tiếp dễ dàng tốt đẹp hơn.

Điều hoàn toàn có khả năng xảy ra là con kinh qua tiến trình tăng triển này và con thay đổi, nhưng người kia thì không thay đổi. Bây giờ thử lấy ví dụ này, là có hai người trong một mối quan hệ cho dù là bạn bè, tình yêu, kinh doanh hay bất cứ gì khác. Và mặc dù cả hai có thể không phải là học trò chân sư thăng thiên, nhưng cả hai đều sẵn lòng cải thiện chính mình lẫn tâm lý của mình, sẵn lòng nỗ lực cải thiện quan hệ.    

Điều các con có thể làm là dành ra một thời gian để ngồi xuống nói chuyện với nhau: “Bây giờ chúng ta sẽ giao tiếp một cách không rủi ro. Chúng ta sẽ hứa với nhau là mình sẽ cho phép người kia tự do phát biểu và mình sẽ không phản ứng lại tiêu cực.” Một người sẽ bắt đầu nói, dành ra một thời gian để bày tỏ những gì mình muốn bày tỏ, và người kia không phản ứng lại. Sau khi một người đã nói xong phần mình, có thể dành ra một chút thời gian để suy ngẫm hay có thể để người kia đặt câu hỏi. Có thể ngay sau đó hay trong một buổi khác, đến lượt người thứ hai bày tỏ một cách tự do, nhưng sự giao tiếp vẫn cần xảy ra một cách không rủi ro. Làm như vậy, các con sẽ có thể giúp nhau cùng tiến tới điểm mình dám phát biểu tự do – tự do phát biểu một cách trung hòa.   

Vừa rồi là một số ý nghĩ mà ta muốn trao cho con từ nhãn quan Tia thứ Năm. Ta không đang bảo là con nên cố gắng biểu đạt những sự thật tối thượng, mà con nên biểu đạt những gì con thấy ngay lúc này, và tất nhiên con cũng nhận thức là con đang ở một tầng tâm thức nơi con chỉ thấy được những gì con thấy, và khi con tiếp tục nâng cao tâm thức thì con sẽ thấy nhiều thứ con chưa thấy được hôm nay. Điều này có thể cho con một góc nhìn hoàn toàn khác lạ, và do đó con không cần bám giữ ý tưởng sai lầm là con hiện đã nắm được sự thật cao nhất, hay quan điểm cao nhất, hay sự hiểu biết cao nhất có thể có về một vấn đề. Kỳ thực, con không thể thật sự giao tiếp trung hòa nếu con nghĩ là có một hiểu biết tối thượng và con đang nắm giữ sự thật hay hiểu biết tối thượng này.

Và như vậy, ta niêm con trong Tia sáng Sự thật màu xanh lục bảo mà TA LÀ.  

Không ai đã từng làm con điều gì

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/9/2021, nhân dịp Webinar 2021 cho Mỹ châu – Tiến tới quan hệ Thời Hoàng kim.

TA LÀ chân sư thăng thiên Serapis Bey, Thượng sư của Tia sáng thứ Tư, thường được gọi là Tia Thanh tịnh, nhưng ta ưa gọi là Tia Gia tốc.

Từ góc nhìn của Tia thứ Tư, ta mong muốn trao cho con điều gì? Các thượng sư khác đã trình bày về điều gì? Chúng tôi đã nói về sự kiện tất cả mọi người trên địa cầu đều mang những nét tâm lý chưa giải quyết. Trong sứ vụ thiêng liêng của con, con đã ghi vào mục đích là sẽ giải quyết một số khía cạnh đặc thù của tâm lý mình. Đa số những vấn đề này đã được tạo ra trong những kiếp trước, có lẽ từ nhiều tiền kiếp trước đây, trở ngược về tới tận chấn thương nhập đời của con. Chúng tôi cũng có nói rằng con đã tự đặt mình vào những mối quan hệ với một số người cũng mang tâm lý chưa giải quyết như vậy, và đó là tại sao họ đã hành xử theo cách của họ, và điều này đã khơi lên những tâm lý chưa giải quyết nơi con và khiến con phản ứng lại.    

Khi con nhìn vào thế giới rộng lớn, con sẽ thấy là mỗi con người đều có một số tâm lý chưa giải quyết, và nhiều người có một số rất lớn tâm lý chưa giải quyết. Điều này thực sự nghĩa là gì? Trong một nghĩa nào đó, rằng mọi công việc mà con người làm đều là kết quả, hay ít ra bị ảnh hưởng bởi những vấn đề tâm lý chưa giải quyết.   

Con là một học trò tâm linh, con có nhận thức khá tốt về đường tu tâm linh và con nhìn ra, như chân sư More có nói, rằng tinh túy của con đường tâm linh là nâng cao tâm thức bằng cách vượt qua tâm lý chưa giải quyết ở trình độ hiện tại của con.

Khi con lùi lại một bước và nhìn kỹ điều này, con có thể nhận thấy trong đời mình có bao nhiêu việc đã làm là kết quả của tâm lý chưa giải quyết. Nhìn lại đời con, con có thể thấy một số thời điểm khi con đã phản ứng một cách nào đó, đã lấy những quyết định nào đó, đã có những hành động nào đó đã đưa tới những hậu quả mà con không mong muốn. Nhưng con cũng thấy được là nguyên do con đã hành xử như vậy là bởi tâm lý chưa giải quyết của con.

Sau đây là điểm đầu tiên ta muốn trao cho con. Từ góc độ của các chân sư thăng thiên và đặc biệt từ Tia thứ Tư là tia gia tốc, con hoàn toàn không có gì phải xấu hổ nếu con có tâm lý chưa giải quyết. Ta biết rõ là hầu hết mọi người sẽ hơi sốc khi nghe câu nói vừa rồi. Bởi vì suốt nhiều kiếp sống, con đã bị lập trình, con đã bị tẩy não bởi sa nhân khiến con nghĩ rằng đáng lý ra con phải toàn hảo. Và nếu con không toàn hảo thì con phải cảm thấy mình có lỗi. Đây là một trong những cách thức chủ yếu mà sa nhân sử dụng để kiểm soát, kềm giữ, hạ thấp và tiêu diệt con. Chúng muốn con nghĩ rằng sự kiện con đang mang tâm lý chưa giải quyết cho thấy nơi cốt lõi của con có điều gì đó sai trái, tồi tệ, xấu xa, đáng xấu hổ.    

Ta xin con hãy lùi về một bước và nhìn xem địa cầu này là loại hành tinh như thế nào? Như chúng tôi đã nhắc con nhiều lần, đây không phải là một hành tinh lý tưởng. Hãy nhìn những chuyện đang diễn ra, nhìn xem con người đang đối xử với nhau như thế nào. Làm sao con có thể hiện thân trên một địa cầu như thế này suốt nhiều kiếp sống mà không phải gánh chịu những vết thương và chấn thương tâm lý? Làm sao con có thể không có vấn đề tâm lý chưa giải quyết? Thật chúng tôi đã nói gì? Rằng con cần phải giải quyết hết vấn đề tâm lý này đến vấn đề tâm lý khác cho đến khi con lên tới tầng thứ 144. Và khi con không còn tâm lý nào chưa giải quyết thì con sẽ không thể cầm giữ xác thân vật lý này của con nữa và con sẽ thăng thiên. Chỉ duy sự kiện con còn hiện thân trên địa cầu cũng đủ để cho thấy con còn tâm lý chưa giải quyết.  

Cho nên nếu có những chuyện con không thể tránh được thì đâu có lý do gì con phải cảm thấy xấu hổ? Có lý do gì mà con phải tự trách thân? Thế con có tự trách thân là mình có màu da hay màu mắt của mình hay không? Chuyện đó chỉ giản dị xảy ra như vậy. Con sống trên một hành tinh đầy những chuyện xảy ra như vậy và thật là không có lý do gì con phải cảm thấy xấu hổ hay tội lỗi.

Tại sao các sa nhân lại muốn con cảm thấy xấu hổ, tội lỗi? Bởi vì nó sẽ ngăn chặn con thực sự xem xét tâm lý của con. Và nếu con không thể xem xét phần tâm lý chưa giải quyết thì con sẽ không bao giờ giải quyết nó được. Muốn giải quyết thì phải nhìn vào tâm lý, nhìn thấu qua các ảo tưởng, hóa giải các năng lượng, hóa giài các tin tưởng giả trá. Nếu con không thể nhìn vì con quá xấu hổ hay sợ hãi hay tội lỗi, con sẽ không giải quyết được và con sẽ bị kẹt lại. Và ta có thể cam đoan với con rằng chúng tôi là những sinh thể phụng sự trên tia sáng thứ tư cuả gia tốc, chúng tôi không muốn con bị kẹt lại. Chúng tôi muốn con gia tốc. Kẹt lại là đối nghịch của gia tốc. Đúng là con mang tâm lý chưa giải quyết nhưng đó chỉ là một chuyện đang xảy ra. Không có lý do gì con phải cảm thấy xấu hổ. Con có thể nói, đấy chỉ là một chuyện cỏn con. Đấy là một chuyện mình sẽ giải quyết cho xong để mình bước đi tiếp.   

Bây giờ hãy nhìn sâu sắc hơn. Suốt rất nhiều kiếp, con đã bị lập trình, bị rửa não là nếu con đã làm điều gì bị người ta xem là sai trái, đã nói điều gì bị xem là sai trái, đã không làm điều gì đáng lý con phải làm, hay đã không nói điều gì đáng lý con phải nói, thì chính con là người sai trái do hành xử như vậy.

Giả dụ con đã làm chuyện gì đó trong đời con mà con xem là sai trái và hầu hết mọi người cũng xem là sai trái. Chẳng hạn, con đã làm hay nói điều gì khiến cho người khác bị tổn thương, buồn phiền. Nhưng tại sao con làm vậy? Con làm vậy vì con có tâm lý chưa giải quyết. Tâm lý chưa giải quyết nghĩa là gì? Đúng vậy, trong giáo lý mà chúng tôi đã ban cho con, nó có nghĩa là con có một cái ngã tách biệt đã khiến con làm điều con đã làm.  

Nhưng chúng tôi đã nhắc đi nhắc lại điều gì? Đâu là ý tưởng chủ yếu đằng sau giáo lý về cái Ta Biết? Rằng nơi cốt lõi của chính con là sự nhận biết thuần khiết. Có nghĩa là gì? Rằng cái Ta Biết không có đặc tính nào nằm trong thế gian, nó không thể sai trái. Nó cũng không thế đúng đắn – trong nghĩa nhị nguyên. Bởi vì trong tinh túy của nó, cái Ta Biết không thể làm bất cứ điều gì trên địa cầu. Để làm được gì trên địa cầu, cái Ta Biết phải tự biểu đạt qua một cái ngã tách biệt.

Đó là cách thức con hành động qua bốn thể phàm của con. Ai là người hành động, ai là người làm? Ai đã làm nhưng điều con làm mà con coi là sai trái? Thật không phải là cái Ta Biết đâu, mà là một cái ngã tách biệt. Ngã tách biệt đó chính là người làm. Ngã tách biệt đã làm cái mà con đã làm. Ai là người coi đó là sai trái? Có phải cái Ta Biết không? Cũng không luôn, bởi vì cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, nó không vận hành trong đúng và sai. Ai nghĩ điều con làm là sai trái? Phải, một cái ngã tách biệt nghĩ đó là sai trái.

Vậy thì ở đó đang có một ngã tách biệt khiến con làm một chuyện gì đó, và đang có một ngã tách biệt khác khiến con cảm thấy tội lỗi về chuyện đó. Nhưng cả hai không phải thực sự là con. Làm thế nào con sẽ vượt qua đây? Cuối cùng con sẽ chỉ vượt qua được bằng cách nhìn thấy đó không phải là con.

Đó là một cái ngã. Nó mang một tin tưởng, nó mang một cái khuôn năng lượng nào đó. Nhưng nó chỉ là một cái ngã. Nó không thực, và chắc chắn nó không phải là con. Khi con nhìn ra điều này, con có thể buông bỏ tin tưởng đó, con có thể giải phóng năng lượng đó, và con có thể để cho ngã đó chết đi, bởi vì con không còn nuôi dưỡng nó nữa. Nói cách khác, con đã làm điều mà con làm vì tâm lý chưa giải quyết của con.   

Bây giờ con hãy nhìn vào người khác mà xem. Con thấy rất rõ là họ cũng có tâm lý chưa giải quyết. Tại sao họ đã làm chuyện đó? Tại sao họ đã làm con những chuyện đó? Cũng vì tâm lý chưa giải quyết của họ. Có nghĩa là gì? Rằng họ cũng có một cái Ta Biết nằm trong cốt lõi của chính họ. Và cái Ta biết của họ thực sự đã không làm chuyện đó đến cái Ta Biết của con. Chỉ có ngã tách biệt của họ đã làm chuyện đó đến ngã tách biệt của con. Có nghĩa là gì?

Và đây là món quà ta muốn tặng cho con từ Tia sáng thứ Tư, là điều này đây: Không có ai đã từng làm con một điều gì. Không có ai thực sự hiện hữu đã từng làm bất cứ điều gì đến cái ta thực của con. Chỉ có hai ngã tách biệt tương tác với nhau mà thôi. Ngã tách biệt của người kia đã khiến họ tức giận đối với con, khiến họ tố cáo con, khiến họ phóng chiếu ý tưởng rằng con phải cảm thấy xấu hổ hay tội lỗi bởi hành vi của con. Tất cả chì toàn là ngã tách biệt với nhau mà thôi.

Cũng đúng là người kia có thể đã đối xử rõ ràng là tồi tệ. Nhưng có phải điều họ làm đã tác động trên con? Thực tế là không. Phải, ở đây ta cũng biết cần phân biệt giữa sự ngược đãi vật lý trực tiếp với sự ngược đãi thiên về tâm lý, tình cảm hay tinh thần. Đương nhiên, nếu có ai đánh đập, hành hung con, thì đấy là một hành động vật lý. Nhưng một hành động vật lý chỉ gây tác động trên xác thân vật lý, và nó sẽ không tác động trực tiếp trên các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Sự ngược đãi xác thân có thể vượt quá một lằn ranh nào đó, nhưng nó vẫn vận hành trên cùng một căn bản như sự ngược đãi tâm lý, bởi vì điều tác động trên con không phải là hành vi vật lý hay lời nói của người kia, mà điều tác động trên con là những gì diễn ra bên trong tâm lý của con, bên trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Chính phản ứng của con đã tác động trên con. Nó tác động trên con như thế nào? Bằng cách khiến cho con tạo ra một cái ngã tách biệt, hoặc nó khiến con củng cố hay khuấy động một cái ngã tách biệt sẵn có.

Tại sao điều này lại quan trọng? Vậy Tia sáng thứ Tư bản chất là gì? Phải rồi, là gia tốc. Nhưng làm thế nào con gia tốc? Sự thật là ta có quyền năng rất lớn. Ta có thể truyền rải những lượng ánh sáng to lớn. Ngay cả trong tư cách là thượng sư, với lượng ánh sáng it hơn các bậc Đại thiên thần và Elohim, ta vẫn có khả năng gia tốc tức thì hành tinh này lên một mức cao hơn. Chắc chắn ta có thể rải truyền đủ ánh sáng đề gia tốc tức thì bất cứ người nào lên một mức cao hơn. Nhưng làm như vậy hiển nhiên sẽ vi phạm quyền tự quyết. Ta không thể gia tốc cho con. Sinh thể duy nhất có khả năng gia tốc cho con là chính con. Nhưng sinh thể nào, thành phần nào trong con có thể được gia tốc? Không phải những cái ngã tách biệt đâu, bởi chúng không có khả năng tự nhận biết. Chỉ có cái Ta Biết mới có thể tự gia tốc mà thôi – bằng cách con hiểu ra rằng con không phải là ngã tách biệt và con quyết định tự gia tốc để vượt khỏi nó. Con vượt khỏi cái khuôn đúc, vượt khỏi những tin tưởng và những năng lượng của ngã tách biệt.

Nhưng làm thế nào con thực hiện được chuyện này? Chỉ khi nào con giành lại được quyền năng của con. Và tại sao con phải giành lại quyền năng? Bởi vì các sa nhân đã tìm được cách tước lấy quyền năng khỏi con. Tất cả mọi con người đều đã bị chúng tước đi quyền năng, ít hay nhiều. Điều này không sao tránh khỏi. Con không thể hiện thân trên địa cầu này mà không bị lấy mất quyền năng – bởi vì có quá nhiều những phóng chiếu nhắm vào con hầu tước đi quyền năng của con. Chẳng hạn con lấy lời dạy mà ta vừa cho con. Đa số người ta sẽ nói: “Kẻ này đã làm gì tôi, kẻ kia đã làm gì tôi.” Có nghĩa là gì? Rằng kẻ đó đã có quyền năng trên con. Làm thế nào con lấy lại quyền năng từ người kia đây?  

Chỉ khi nào con nhìn nhận điều ta vừa nói. Không ai đã từng làm con một điều gì cả. Có nghĩa là không ai có quyền năng gì trên những phản ứng của con trong tâm lý của con. Tất nhiên là câu “Không ai đã từng làm con điều gì” có thể được thay đổi bởi vì, trong một nghĩa nào đó, trong một kiếp trước đã có kẻ làm điều gì đó thật hung bạo và dữ tợn đến độ nó khiến con phải tạo ra một cái ngã tách biệt.

Ta biết là ta hơi khắt khe khi nói rằng không ai từng làm con điều gì, nhưng ta nghĩ con cũng đã hiểu ý. Cuối cùng thì không ai đã từng làm con điều gì, và ngay cả khi sa nhân đã giáng cho con cái chấn thương vũ trụ nhập đời, thì cũng chính là con đã tạo ra ngã tách biệt đó, và ngã này từ đó đã không ngừng nhào nặn cách phản ứng của con. Có thể nói là người khác có quyền năng trên con, nhưng họ chỉ có quyền năng qua trung gian những cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra. Đây là điểm thiết yếu.

Bởi vì nếu con nghĩ rằng sa nhân, hoặc người khác, có quyền năng ảnh hưởng tâm lý của con và tạo ra ngã tách biệt trong tâm con, thì họ sẽ có quyền năng trên con và con không thể giành lại quyền năng của con. Con chỉ có thể giành lại bằng cách nhìn nhận chính con đã tạo ra ngã tách biệt này. Tại sao điều này quan trọng? Bởi vì chỉ có người đã tạo ra ngã tách biệt mới có thể giải thể ngã tách biệt. Chỉ khi nào con chấp nhận là con đã tạo ra cái ngã tách biệt đã khiến con phản ứng một cách nào đó đối với người khác, thì con mới có thể chấp nhận rằng con là người duy nhất có khả năng giải thể ngã đó.

Tại sao điều này quan trọng? Bởi vì đó chính là cách con giành lại quyền năng của con. Hãy tưởng tượng con quan hệ với một người. Đây là mối quan hệ yêu thương với một người phối ngẫu mà con đã chung sống suốt nhiều năm. Trong quan hệ này có một khuôn nếp khiến con hay rơi vào một cách phản ứng nào đó. Nếu con cho rằng để con thoát khỏi mô thức phản ứng này, người kia phải thay đổi, thì quả là con đã không lấy lại quyền năng của con, mà ngược lại con đã trao một phần quyền năng đó cho người kia. Chỉ khi nào con nhìn nhận rằng con là người duy nhất có quyền năng tạo ra và giải thể ngã tách biệt, thì con mới thực sự lấy lại quyền năng của con – bởi vì con có khả năng tự thay đổi cho dù người kia không sẵn lòng thay đổi.

Chúng tôi đã nói gì? Rằng con đã tự đặt mình vào những mối quan hệ với những người có một tâm lý đặc thù nào đó sẽ bắt buộc con phải giải quyết các vấn đề tâm lý của con. Một số những người này mang tâm lý rất nan giải, một số còn là sa nhân với rất ít hy vọng sửa đổi. Có lẽ tất cả các con đều quen biết một số người có rất ít hy vọng sửa đổi khi con nhìn vào chính họ và quá khứ của họ. Làm thế nào con có thể tự thay đổi, làm thế nào con có thể tự giải thoát khi họ sẽ không thay đổi?

Đúng vậy, con sẽ chỉ tự do được khi con nhìn nhận là con có khả năng tự thay đổi cho dù người khác không thay đổi, bởi vì con có quyền năng giải thể những ngã tách biệt mà con đang mang. Chính những ngã tách biệt này đã khiến con phản ứng lại người kia, và do đó, chính ngã tách biệt này đã khiến con bị quấy nhiễu bởi người kia. Và cách duy nhất để vượt qua cảm giác này, vượt qua phản ứng này, là giải quyết ngã tách biệt.

Đâu là phép lạ của lời dạy này về ngã tách biệt? Phép lạ đó là như sau: Không hề có vấn đề gì mà con cần phải giải quyết. Trong lối suy nghĩ của thế gian, nếu có ai đó gần gũi với con đang làm khổ con, con sẽ nghĩ: “Vấn đề này nằm ở cách cư xử của người kia, cho nên cách duy nhất để tôi thoát ra là phải thay đổi người kia. Tôi phải giải quyết vấn đề cư xử của người kia.”

Phép lạ của lời dạy về ngã tách biệt chỉ giản dị là con có khả năng lấy lại quyền năng của con và nói: “Tôi không cần phải thay đổi người kia hầu thoát khỏi các khuôn nếp phản ứng của tôi. Tôi có thể tự thay đổi, tôi có thể để cho ngã chết đi. Hoàn toàn không có một điều gì, không có một vấn đề gì mà tôi cần phải giải quyết. Tôi chỉ cần đơn giản nhìn ra rằng phản ứng của tôi bắt nguồn từ một cái ngã tách biệt. Và khi tôi để cho ngã này chết đi, phản ứng sẽ không còn đó nữa, và do đó vấn đề cũng được giải quyết.” Bởi vì một lần nữa, vấn đề của con là gì chứ nhỉ? Có thật là vấn đề của con là cách cư xử của người kia hay không? Không đâu, vấn đề của con là phản ứng của con, bởi vì chính phản ứng này mới tác động trên con.  

Con có thể giải quyết vấn đề phản ứng của con mà không giải quyết vấn đề cư xử của người kia. Đây là một lời dạy cách mạng, một lời dạy thần diệu so với những gì đã được giảng dạy trong ngành tâm lý học hay các giáo lý tâm linh.  Nhiều người trong số các con đã áp dụng được rồi và đạt được kết quả đáng kinh ngạc. Nhiều người trong số các con cũng sẽ kinh ngạc khi các con thấy nó hiệu nghiệm như thế nào. Và tất cả các con đều có thể kinh nghiệm điều này. Thật là có một phép thần diệu ở đây. Chúng ta có thể gọi đó là phép thần diệu của gia tốc.

Đây là khi con nhìn nhận, như các thượng sư khác có dạy, rằng con đã cố tình tự đặt mình vào một mối quan hệ với một người vô cùng khó khăn. Con đã làm như vậy để buộc bản thân con, buộc ngoại tâm của con, phải công nhận rằng con có những điều mà con cần vượt qua trong tâm lý mình, trong bản thân mình. Con tự buộc con phải giải quyết nó, phải cải sửa nó, hầu con tự giải thoát khỏi nó. Con giải thoát khỏi nó để con có thể phụng sự cao hơn và hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con trong kiếp này và những kiếp sau, hoặc để con được tự do mà thăng thiên.    

Nhưng ta cũng biết, sự gia tốc có thể dễ dàng bị hiểu lầm. Thực tế là trong nhiều đợt truyền pháp trước đây, nhiều học trò đã hiểu lầm điểm này. Rồi họ xem Serapis Bey là một vị thày vô cùng nghiêm ngặt, luôn luôn có giọng nói nghiêm khắc – y như ta đang làm ngay bây giờ đây, con có nghĩ vậy không? Và hình như ta luôn luôn đòi hỏi kỷ luật sắt đá từ học trò của ta. Sự thật là ta chỉ muốn gia tốc. Đó là tại sao ta nói năng mạnh mẽ. Hầu ta cắt xuyên qua mọi kháng cự. Tuy nhiên ta không hề có ý định thúc ép học trò gia tốc, và ta cũng không muốn học trò của ta sử dụng vũ lực.     

Ta vẫn biết là khi con lái một chiếc xe cần gia tốc, làm thế nào con cho nó gia tăng tốc độ đây? Con phải đạp mạnh chân ga để chiếc xe nhận thêm sức mạnh phóng tới đằng trước. Nhưng trên phương diện tâm linh, đó không phải là cách mà con gia tốc. Tại sao không? Bởi vì gia tốc trong ý nghĩa tâm linh không phải là chuyện vận dụng sức mạnh. Ngược lại, đó là chuyện lấy đi sức mạnh, là cái sức mạnh đang giữ con buộc chặt vào địa cầu, là cái sức mạnh khiến con giảm tốc, kéo con xa hơn Hiện diện TA LÀ và gần hơn với trái đất. Khi con loại bỏ sức mạnh này đang giữ con lại địa cầu, con sẽ tự động gia tốc về phía Hiện diện TA LÀ và sự thăng thiên.

Không một ai đã từng thăng thiên mà lại vận dụng quyền năng vật lý to lớn đó, sức mạnh vật lý khổng lồ đó. Mà trái lại, thăng thiên xảy ra do sự buông bỏ, là đối nghịch của vũ lực – hay đúng hơn, là sự thăng vượt hoàn toàn mọi vũ lực. Con buông ra, con đầu hàng, con bỏ lại. Và khi đó, sinh thể đã từng đi xuống từ thiên đàng sẽ tự động được gia tốc và thăng trở lên thiên đàng, là nơi không còn một sức mạnh nào sẽ buộc nó vào trái đất. Đây là cách con thăng thiên. Đây là những gì ta giảng dạy trong khóa nhập thất của ta tại Luxor cho những học trò nào đã sẵn sàng, và tất nhiên điều này cần một chút thời gian.

Trên căn bản, con cần lên cao hơn tầng tâm thức thứ 124 trước khi con thể nhập được hoàn toàn điều này, nhưng ta vẫn đưa ra cho con hôm nay để ít ra con sẽ giữ nó trong ngoại tâm của con. Rồi đôi khi con có thể suy ngẫm về điểm này, và chắc chắn con có thể đem ra áp dụng hầu ngộ được sự thật rằng việc vượt qua ngã tách biệt không phải là chuyện vận dụng sức mạnh.

Chúng tôi đã chứng kiến một số học trò, đặc biệt là học trò từ các lần truyền pháp trước, đã từ lâu quen thói đem bài chú ra đọc mỗi khi họ cần vượt qua một vấn đề nào đó. Và họ cho rằng để thật sự khắc phục được trở ngại, họ cần sử dụng càng nhiều sức mạnh càng tốt. Tất nhiên là việc đọc chú với một khí thế nào đó cũng rất hữu ích. Tuy nhiên như chúng tôi đã từng trình bày, nhiều người lại tạo thêm nghiệp quả khi họ phú cho bài chú một rung động phát xuất từ sợ hãi, và họ không gia tốc được. Sự sợ hãi sẽ giảm tốc, trong khi tình thương sẽ gia tốc. Con thấy không, mặc dù chúng tôi đã nói với con rằng con đọc chú để làm tan năng lượng, nhưng chúng tôi không muốn con đọc chú trong sự sợ hãi. Con không nên nghĩ rằng con cần phải sử dụng sức mạnh to lớn đó, và nếu con không đạt được kết quả con muốn qua đọc chú thì con phải đọc to hơn, nhanh hơn, nhiều hơn, lâu hơn nữa. Nhưng con yêu dấu, con không đang chạy đua tại Thế vận hội. Con không phấn đấu để luôn chạy xa hơn.      

Nếu con khôn ngoan, con sẽ nỗ lực tìm ra một cách tiếp cận nào khác, một cách tiếp cận sự phát triển tâm linh không phát xuất từ vũ lực. Vũ lực sẽ không bao giờ đưa con vào thiên đàng. Không một vũ lực nào sẽ đưa con vào thiên đàng. Nếu có thể làm được chuyện đó thì từ lâu các sa nhân đã vào được thiên đàng rồi, và chúng đã tung hoành khắp cõi tâm linh và làm hỏng mọi chuyện. Nhưng điều này sẽ không bao giờ xảy ra. Nói giản dị, đây là cơ năng an toàn của cõi tâm linh, và chỉ có tình thương và phi vũ lực mới giúp con trở thành một sinh thể quyền năng như một chân sư thăng thiên, một đại thiên thần, một elohim, hay thậm chí cả những sinh thể ở những tầng cao hơn của đại đoàn vũ trụ.

Ta đã vừa trao cho con điều ta muốn trao trong lần giảng dạy này. Ta tin rằng nó sẽ ích lợi cho một số trong các con. Lẽ tự nhiên, mỗi chúng tôi là thượng sư của bảy tia sáng sẽ trao cho con một số ý tưởng. Con không nhất thiết phải chú ý đồng đều đến mỗi ý tưởng được ban ra, mà con cần nhập vào câu hỏi: Tôi đang ở mức nào trong hiện tại? Tôi cần làm gì ngay bây giờ? Sau đó con hãy tập trung vào một tư tưởng từ một vị thày, trong số những giáo lý con nhận được trong webinar này, và con tận dụng tối đa tư tưởng đó. Rồi sẽ tới một điểm trong tương lai khi con sẽ sẵn sàng xem đến những ý tưởng kia. Nhưng chắc chắn chúng tôi hy vọng rằng bảy chiếc chìa khóa mà chúng tôi đang trao cho con sẽ quý giá đối với con ở những giai đoạn khác nhau trên hành trình tâm linh của con, cũng như cuộc hành trình mà con đang đi hầu giải quyết thái độ của con trong quan hệ. Với lời này, ta niêm con trong ngọn lửa trắng, nóng và gia tốc của tia sáng thứ tư mà TA LÀ.       

Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra!

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/10/2021, nhân dịp Webinar 2021 cho Hàn quốc – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Thày Giê-su vừa nói đến sự kiện có quá nhiều tín đồ đạo Cơ đốc không thấy được mối liên hệ nào giữa thày và công nghệ hiện đại. Chắc chắn một điều tương tự cũng có thể nói về rất nhiều Phật tử không thấy mối liên hệ nào giữa sự thị hiện rất “phi công nghệ” của ta cách đây 2500 năm và xã hội phương Tây là xã hội hiện đại với công nghệ rất cao. Nhưng ta đang giữ một trách nhiệm tâm linh cho hành tinh này, là Chủ tể của Thế giới. Vậy chức năng của trách vụ này là gì?

Nạn nghèo đói và ý thức hệ

Hiển nhiên, đó là nâng cao tâm thức loài người, và ta hỗ trợ hoàn toàn mục tiêu xóa nghèo. Và tất nhiên ta biết rõ, như các thày Saint Germain và Giê-su đã có trình bày, để cho điều này xảy ra, để mức sống vật chất của con người được nâng lên, chúng ta cần đến những hình thức công nghệ mới, bởi vì vấn đề này chỉ có một giải pháp công nghệ.

Chắc con cũng nhận thấy khi ta thị hiện 2500 năm về trước, toàn bộ dân số trên địa cầu rất, rất ít so với ngày nay. Do đó hầu hết mọi người vào thời đó, ít ra trong khu vực ta thị hiện, có một mức sống tương đối thoải mái trong một xã hội nông nghiệp. Con có thể thấy trên thế giới đã có những thời kỳ xã hội nông nghiệp khi cuộc sống con người tuy không mấy sung túc, nhưng người ta cũng không đến nỗi chết đói, không đến nỗi phải lo lắng bữa cơm tới của mình sẽ đến từ đâu. Cái giá mà họ phải trả, dĩ nhiên, là họ phải bỏ ra phần lớn thời gian làm lụng để duy trì một mức sống vật chất, một đời sống vật chất nào đó.

Rõ ràng là trong những xã hội này, cách duy nhất để con người có thể tập trung vào việc tu tập tâm linh là rút về một tu viện hay một nơi ẩn cư nơi họ không có nhu cầu phải bỏ ra toàn bộ thời gian lo việc nuôi thân. Đây là một mô thức khá thực tế cho thời đó, nhưng kể từ đó tất nhiên với sự gia tăng dân số mạnh mẽ trên địa cầu, con gặp phải tình trạng một xã hội nông nghiệp không còn khả năng cung ứng mức sống tốt đẹp cho số đông được nữa. Và cũng vậy, xã hội vật chất hay công nghệ cũng không có khả năng cung ứng mức sống đó. Tuy vậy, phải nói là nếu các nguồn tài nguyên sẵn có được phân phối đồng đều hơn, thì nạn nghèo đói, ít ra là trong những dạng cùng cực nhất, chắc chắn có thể được giảm thiểu đáng kể.

Như luôn luôn, vấn đề không chỉ là công nghệ, mà vấn đề là tư duy, là ý thức hệ, và đặc biệt là ý thức hệ đã khoác vào nhiều dạng cụ thể, và tất cả những dạng này đều hỗ trợ cho sự hiện hữu của một giai cấp thượng lưu nhỏ hẹp với một mức sống khác hẳn mức sống của quần chúng rộng lớn. Con có cái mà ta gọi là những ý thức hệ thường tình phổ quát, vượt ra khỏi các dạng hệ tư tưởng đặc thù hơn, sự phân biệt ưu tú đặc thù hơn. Và một trong những ý thức hệ này nằm sâu bên dưới là sự phân chia xã hội thành những phân loại hay giai cấp tách biệt. Đây tất nhiên, phần nào là vấn đề mà ta đã cố giúp xã hội và dân chúng thời đó vượt lên khỏi. Con sẽ thấy là khi ta bước chân trên địa cầu, xã hội thời đó là một xã hội nông nghiệp bị Ấn giáo chi phối, và Ấn giáo chủ trương phân chia con người thành bốn giai cấp thật rõ ràng, và ngay cả ngày nay con vẫn thấy hệ thống giai cấp này được Ấn giáo tiếp nối và duy trì. Đương nhiên, điều ta đã cố làm là thành lập một tôn giáo không chấp nhận, hay không dựa trên một sự phân chia con người như thế.   

Khi con nhìn đạo Phật, con thấy là tất nhiên, tâm thức phân rẽ đã len lỏi vào được trong đó, cho nên mới có sự phân biệt giữa người đạo Phật và người không đạo Phật, người thuộc môn phái này hay biến thể kia của đạo Phật. Một số tự xem mình là cao trội và các môn phái khác là thua kém, vân vân. Và lại có cả những người xem giai cấp tu sĩ đạo Phật phần nào đứng cao hơn quần chúng, nhưng ngay cả quần chúng thì vẫn cao hơn những kẻ chưa sẵn sàng nhận được bất kỳ giáo lý tâm linh nào. Một lần nữa, con tìm thấy những phân chia như vậy trong xã hội, và đó tất nhiên là điều mà ta đã cố giúp con người vượt qua bằng cách khắc phục tâm thức nhị nguyên.

Vấn đề kiểm soát

Bởi vì dĩ nhiên, chính tâm thức nhị nguyên là nền tảng và cũng là phương pháp mà cách phân chia như thế được tạo ra. Ở đây ta muốn giảng cho con một số điều tiếp nối những gì chúng tôi, các chân sư, đã trao cho con trước đây, nhưng đi xa hơn một chút. Con có thể xem đến một số lời dạy của chúng tôi về sa nhân, là những kẻ đã thực sự đưa hành tinh địa cầu vào vòng xoáy đi xuống khi chúng đem tới đây một cách hiểu cực đoan hơn về nhị nguyên. Chúng tôi có nói là các xã hội trên địa cầu đã rơi vào nhị nguyên trước đây nhưng không đến nỗi những hình thức hung hãn của nhị nguyên, vì đây chính là hình thức mà sa nhân đã đem đến đây. Chúng tôi có nói là các sa nhân hình thành một nhóm thượng lưu quyền lực khi chúng đầu thai, và chúng lập ra nhiều nhóm ở các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc. Chúng tôi cũng có nói là mục đích của chúng là nắm quyền kiểm soát địa cầu, kiểm soát loài người trên địa cầu, trong âm mưu rộng lớn hơn là chứng minh Thượng đế sai lầm.

Điều ta muốn bàn đến ở đây là chủ đề kiềm soát. Có vẻ như trên địa cầu có một số xã hội gần như bị hoàn toàn kiểm soát bởi một thiểu số thượng lưu. Chúng có thể là chế độ độc tài, như các nước cộng sản chẳng hạn, Liên xô dưới Stalin, Đức dưới Hitler, Trung quốc dưới Mao và nhiều ví dụ khác nữa, Bắc Hàn dưới chế độ hiện hữu. Dựa trên đó, con có thể nghĩ sa nhân có khả năng áp đặt một độ kiểm soát rất cao trên các xã hội. Có người cho rằng sa nhân cũng kiểm soát chặt chẽ một số xã hội đã trở thành dân chủ và các xã hội này thực sự là những chế độ độc tài, nhưng thực tế là ngay cả ở một nước nghiêm ngặt như Liên xô, sa nhân cũng không nắm được kiểm soát toàn diện.

Chúng chưa bao giờ toàn quyền kiểm soát được địa cầu, và chúng sẽ không bao giờ làm được chuyện đó, tại sao vậy? Bởi vì sa nhân là nạn nhân của chính tâm lý của chúng. Chúng tôi nói sa nhân đã làm gì? Chúng đã bị rơi vào tâm thức nhị nguyên, chúng đã hoàn toàn bị bao trùm, bị chế ngự, bị đui mù, bị mắc bẫy, bị đồng hóa với tâm thức nhị nguyên. Nhưng điều gì xảy ra trong tâm thức nhị nguyên chứ?

Trong tâm thức đó, con lấy toàn bộ chiều rộng của nhận thức con người, xong con tập trung vào một lãnh vực nhất định và con nâng nó lên vị thế tuyệt đối của một chân lý – như một ý thức hệ cao trội, hay tôn giáo cao trội, hay cái gì gì nữa. Và con dùng cái đó, đưa nó ra làm chuẩn mực để lượng định xem mọi thứ là đúng hay sai, tốt hay xấu. Và con có thể nghĩ, những kẻ đã chiếm đoạt được đặc quyền định nghĩa vấn đề là gì, đã kiểm soát chuẩn mực để đo đạc mọi thứ theo chuẩn mực đó, thì chúng phải kiểm soát được sự suy nghĩ của mọi người.

Tuy nhiên trong nhị nguyên, con không bao giờ có thể kiểm soát được toàn diện, vì lý do giản dị là khi con lấy ra một đơn vị khỏi tổng thể và nâng nó lên vị thế cao trội, con bắt buộc sẽ tạo ra một sự mất cân bằng cơ bản. Chúng tôi đã có nói về định luật thứ hai của nhiệt động học sẽ đưa mọi vật trở về trạng thái năng lượng thấp nhất có thể có, nhưng chúng tôi cũng có thể bảo đó thực sự chỉ là sự minh hoạ của định luật cân bằng của vũ trụ. Không phải là luật cân bằng, hay ngay cả định luật thứ hai của nhiệt động học, cố đưa tất cả vào một trạng thái không phân biệt, mà quy luật vũ trụ được thiết lập để đảm bảo mọi thứ tăng trưởng đến những trạng thái ngày càng cao hơn, nhưng là một sự tăng trưởng bền vững, liên tục và tuần tự.

Điều con làm trong nhị nguyên là con tách rời con ra khỏi sự tăng trưởng vững bền liên tục đó, và con tạo ra một trạng thái mất cân bằng bằng cách con chù trương, thay vì tổng thể được tăng trưởng, con lại muốn sự tăng trưởng cục bộ của một ý thức hệ, một nhóm người hay một tầng lớp thượng lưu mà thôi, và điều này chỉ có thể xảy ra bằng cách tước đi một cái gì đó từ tổng thể. Nói cách khác, một nhóm ít người tước đoạt một cái gì đó từ tổng thể, và chính điều này vi phạm quy luật cân bằng của vũ trụ, vì khi tổng thể mất cân bằng thì quy luật vũ trụ sẽ kéo nó trở về cân bằng.

Luôn luôn sẽ có một đối cực kéo bất kỳ mất cân bằng nào trở về trạng thái cân bằng. Đây là điều mà chúng tôi đã mô tả là một đặc điểm của nhị nguyên, nghĩa là khi con tạo ra một đối cực nhị nguyên, nó cũng đồng thời tạo một đối cực nhị nguyên trái ngược. Đây là điểm mà triết gia Hegel đã mô tả là phép biện chứng, nghĩa là khi một tư tưởng hay một lý thuyết trở thành luận đề tạo ra phản đề, thì sẽ có một cuộc đấu tranh giữa hai lực, dẫn đến kết quả một trạng thái mới gọi là tổng hợp, tuy nhiên chính tổng hợp này lại trở thành luận đề kế tiếp tạo ra một phản đề mới nữa, rồi lại có một cuộc đấu tranh, vân vân và vân vân cho đến vô tận. Hegel tin đó là cách thức người ta đạt được tiến bộ và là cách thức duy nhất. Đấy là sự giới hạn trong cái nhìn của Hegel.

Thật ra đó lá cách thức vận hành trong một trạng thái mất cân bằng, bởi vì khi con có cân bằng, con vẫn tăng trưởng nhưng không có đấu tranh, không có đối lập, không có căng thẳng giữa hai đối cực. Tất cả những gì xảy ra trong một trạng thái cân bằng trên một hành tinh tự nhiên đều nhắm vào việc nâng cao tổng thể. Chỉ khi con tìm cách nâng cao một thành phần của tổng thể qua việc hạ thấp phần còn lại của tổng thể, thì con mới có mất cân bằng, mới có đối lập, mới có đấu tranh biện chứng. Điều mà Hegel và Marx đã làm là nhìn vào một trạng thái mất cân bằng xuất hiện đâu đó trên địa cầu, rồi cố dùng nó để tạo ra một xã hội lý tưởng hơn không còn xung đột mâu thuẫn. Hiển nhiên, chuyện này không bao giờ có thể thực hiện được, vì một dạng mất cân bằng không thể dẫn đến hài hòa và trọn vẹn, mà nó chỉ dẫn đến một dạng mất cân bằng khác mà thôi.

Tại sao ta nói là sa nhân không có quyền kiểm soát? Bởi vì mỗi khi chúng lấy một tư tưởng, một nhóm người hay một tôn giáo và nâng lên vị thế cao trội, chúng cũng tạo ra một đối nghịch. Nghĩa là chúng sẽ không bao giờ có thể đạt đến trạng thái mà chúng mơ ước, tức là một quyền kiểm soát vĩnh viễn mà không gì có thể đe dọa. Luôn luôn sẽ có một sự đối lập, hay đe doạ, cho quyền kiểm soát của chúng. Tất nhiên, điều này chúng không thể nào chịu được, cho nên chúng bắt buộc phải tìm cách tiêu diệt đối lập. Đó là vì sao con thấy tất cả những ý thức hệ loại đó luôn luôn chứa đựng ý tưởng là có phải và trái, có đúng và sai. Có những người theo phe đúng, có những người theo phe sai, và những ai theo phe đúng phải tiêu diệt những ai theo phe sai. Vì thế mới có đấu tranh liên tục. Chuyện này là một đặc điểm không thể thiếu của nhị nguyên.

Không có an bình trong phản ứng  

Nhưng bây giờ con hãy nhìn vào tâm lý của sa nhân. Chuyện gì xảy ra trong tâm lý sa nhân? Như các chân sư khác đã nói, khi con là avatar mới đến địa cầu, con đã phải nhận chịu một chấn thương gọi là chấn thương nhập đời. Còn sa nhân thì sao? Nơi bầu cõi chúng bị sa ngã, khi chúng phải đối mặt với các chân sư thăng thiên, đối mặt với sự thật là có một quyền uy lớn hơn quyền năng của chúng, thì chúng cũng nhận chịu một chấn thương, hay chúng tạo ra chấn thương, như chính con cũng từng làm vậy.

Kể từ đó trở đi, sa nhân đã luôn tìm cách bù đắp cho chấn thương mà cảm giác mất mát đó đã gây ra. Chúng đã mưu toan giành lấy quyền kiểm soát hầu tìm cầu một tâm trạng bình an, không bị phân rẽ, không bị tổn thương và đau đớn bởi chấn thương. Nhưng tất nhiên, điều này chúng không thể làm được vì chúng cố làm qua trung gian tâm thức nhị nguyên, mà nhị nguyên thì bắt buộc phải tạo ra đối nghịch. Luôn luôn phải có một cặp đối nghịch. Vậy có nghĩa là gì?

Có nghĩa là một sa nhân, một sa nhân nào đó, sẽ bắt đầu tìm cách nâng cao, chẳng hạn, một tôn giáo nào đó thành tôn giáo cao trội. Nó sẽ tin là nếu nó có thể tạo ra một tình trạng trên địa cầu nơi ai ai cũng đi theo tôn giáo đó và không có ai thách thức, không có ai chống đối tôn giáo đó, thì hẳn là nó sẽ vô cùng yên trí. Nó sẽ nắm quyền kiểm soát. Và nó sẽ cảm thấy là nó nắm toàn quyền, vì đó là cách duy nhất mà một sa nhân có thể mường tượng sự yên trí. Không hẳn là sa nhân tìm cầu sự yên trí, mà nó tìm kiếm một thế cân bằng nào đó nơi nó có thể cảm thấy mình làm chủ tình hình, và cách duy nhất nó có thể nghĩ ra là nắm quyền lực một cách độc đoán. Nhưng cho dù sa nhân có phấn đấu đến đâu, nó cũng sẽ không bao giờ đạt được trạng thái tâm lý nơi nó cảm thấy nó làm chủ và nắm quyền lực tuyệt đối.

Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là, như chúng tôi đã có nói, tâm lý của một sa nhân thật sự là định nghĩa chính xác nhất về chứng rối loạn đa nhân cách (split personality disorder), chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive disorder). Một sa nhân có vẻ như kiểm soát được tình hình, chẳng hạn như Stalin, nếu nói về sự kiểm soát trong cõi vật lý thì Stalin hoàn toàn kiểm soát Liên xô, vì ông muốn gì thì người ta răm rắp làm theo. Nhưng nhìn vào tâm lý của Stalin, con sẽ thấy ông hoàn toàn không kiểm soát được trạng thái tâm ông, vì ông luôn luôn cảm thấy mình bị đe dọa, luôn luôn sợ hãi, luôn luôn tìm cách triệt hạ mọi tiềm năng đe dọa bằng cách sát hại ngay cả những cộng tác viên thân cận nhất của mình. Mao, Hitler, cũng tương tự như thế. Điều con thấy ở đây là sa nhân bị mắc kẹt trong nhu cầu ám ảnh cưỡng chế đó, luôn tìm cách tạo ra một trạng thái – có thể nói là – yên tâm, hay ít ra không bị đe dọa, nhưng nó lại làm vậy bằng cách tiêu diệt một cái gì khác.

Hiển nhiên, không một sự an bình hay một thế cân bằng nào có thể đạt được qua hủy diệt, nhưng sa nhân sẽ không bao giờ nhìn ra được chuyện đó từ tâm thức nhị nguyên. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói là sa nhân có vẻ như kiểm soát được ngoại cảnh, nhưng trong nội tâm, sa nhân không ngừng phản ứng, và tất nhiên, khi con phản ứng lại những hoàn cảnh vượt quá tầm kiểm soát của mình, làm sao con có thể giữ được kiểm soát? Không thể được. Sa nhân không bao giờ kiểm soát được chính tâm lý của chúng. Chúng luôn luôn phản ứng lại những mối đe dọa, cho dù là thực hay là tưởng tượng.

Khi ta nói “thực”, tất nhiên là ta dùng dấu ngoặc kép, mặc dù con có thể bảo là có một số đe dọa hiện hữu trong cõi vật lý, và có một số đe dọa khác thì do sa nhân bịa đặt ra trong tâm trí. Kỳ thực, khi con trong tư cách là một học trò tâm linh nhận ra điều này, đương nhiên con sẽ nhận ra là tâm lý của sa nhân cũng không khác tâm lý của con người trên cơ bản. Sa nhân chỉ cực đoan hơn mà thôi. Con là một học trò tâm linh, chừng nào con còn mang chấn thương nhập đời, thì con cũng sẽ ở trong tâm trạng phản ứng lại những sự kiện có vẻ vượt khỏi tâm kiểm soát của con, và con cũng làm vậy bằng cách tạo ra một cảm giác cân bằng, an tâm, yên trí nào đó.

An bình nội tâm

Khi con nhận ra điều này, con cũng nhận ra đây là một tâm thức vô cùng xưa cũ trên hành tinh địa cầu, một động lượng đã có từ rất lâu, thậm chí một con quái vật tập thể luôn khiến con người tạo dựng một cảm giác an tâm qua nhiều phương cách. Một phương cách, chẳng hạn, trong cõi vật lý là xây thành lũy kiên cố với tường dày đến độ không một kẻ thù nào có thể đâm thủng, rồi con tích trữ lương thực để cố thủ trong đó thật lâu, chẳng khác gì cách phản ứng sợ hãi của những kẻ gọi là lãnh đạo xã hội thời trung cổ. Hay con cũng có thể dùng nhiều phương cách khác, qua khoa học, qua công nghệ, hay con mua bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ hoặc mọi loại bảo hiểm mà con có thể nghĩ ra, hay con cũng có thể tích trữ nhiều tiền bạc đến độ con tưởng con sẽ có thể tung tiền mà thoát khỏi mọi khó khăn. Nhưng phương cách của con cũng có thể là tôn giáo hay giáo lý tâm linh. Con thấy Giê-su đã nói gì về những tín đồ Cơ đốc tạo dựng một tâm trạng mà họ tưởng là cân bằng do họ tin chắc là họ sẽ được cứu rỗi khi Giê-su tái lâm, và họ tin chắc là họ chỉ cần tiếp tục sống cuộc đời thoải mái và có lẽ đóng góp một chút tiền bạc cho từ thiện.

Con thấy trong Phật giáo có bao nhiêu người, ngay cả những vị tu sĩ trong tu viện, cũng đã tạo ra một trạng thái tương tự như vậy, có vẻ rất cân bằng và yên ổn vì họ cho là mình chỉ cần tiếp tục sống cuộc đời tu hành, tuân thủ mọi yêu cầu tụng niệm, cầu nguyện, tu tập, thiền định, và điều này và điều kia. Nói cách khác, đó là con đường vỏ ngoài, con đường tự động mà qua đó con nghĩ con có thể đắc đạo hay nhập niết bàn mà không cần xem xét đến tâm thức của mình và chuyển đổi tâm thức.

Tất nhiên, như chúng tôi đã nói nhiều lần, có những học trò tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên cũng đã cố làm y chang như thế với giáo lý của chân sư, và hiển nhiên, đó là chuyện khả thi. Chuyện này dễ hơn trong những đợt truyền pháp trước, và nó khó hơn hẳn trong đợt truyền pháp này, vì lần này, lần đầu tiên ít ra là trong lịch sử được ghi chép, chúng tôi đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm để phơi bày ra các cơ chế tâm lý, hầu con chỉ có thể vừa ở lại với giáo lý, vừa xây đắp một cảm giác yên ổn, bằng cách con bỏ qua, hay phủ nhận, một phần đáng kể của giáo lý. Nếu con là người cởi mở, tất nhiên con nhận ra là con không thể là một cánh cửa mở hoàn toàn nếu con dùng giáo lý theo cách đó. Con cần bước vào một trạng thái – và đa số các con đã bước vào rồi – nơi mình sẵn lòng xem xét tâm lý mình một cách liên tục, sẵn lòng giải quyết những gì cần giải quyết, rồi vươn lên cao hơn hầu thực sự trở thành một cánh cửa mở.

Tất nhiên, điều mà con cũng gặt hái được qua cách này là một trạng thái an bình chân thực hơn. Chúng tôi có nói là luôn luôn sẽ có những ảo tưởng mà con cần vượt qua cho tới khi con thăng thiên, nhưng chúng tôi cũng có nói là điều này không có nghĩa là con phải sống hết kiếp này trong một tâm trạng thiếu sót, cảm thấy như mình luôn luôn bất cập, khiếm khuyết, như luôn luôn có điều gì mình chưa làm hay cần phải làm. Điểm mà con cần thực sự đạt đến là sự chấp nhận. Con chấp nhận chính mình như một học trò sẵn lòng bước đi trên đường tu, luôn luôn tìm xem mình có cần nhìn ra điều gì trong tâm mình, trong tâm lý mình. Một khi con vượt qua được điểm đó, là điểm mà chúng tôi gọi là điểm kháng cự không muốn nhìn vào tâm lý mình, thì con sẽ có được một cảm giác an bình nội tâm nào đó, vì không có điều gì trong tâm mà con sợ nhìn vào, không có gì trong tâm lý của con mà con không thể khắc phục, không có gì trong thế gian mà con cần sợ hãi.

Điều kiện ngoại cảnh có mục đích gì

Tại sao con người lại sợ ngoại cảnh? Họ có nhiều lý do. Họ nói, tôi sợ đau ốm, tôi sợ đau đớn, tôi sợ này sợ kia. Phải, điều này có thể thông cảm được. Nhưng dù sao đi nữa, tại sao họ lại sợ một điều kiện bên ngoài chưa thị hiện? Bởi vì họ sợ nó sẽ tác đông đến tâm lý của họ như thế nào. Như chúng tôi đã có trình bày, không phải là điều kiện vỏ ngoài khiến con đau đớn. Nỗi đau hiện hữu trong tâm con. Ngay cả đau đớn thể xác cũng hiện hữu trong tâm con, hay ít nhất nó khơi ra một phản ứng trong tâm con. Đó là điều khiến nó không chịu đựng nổi. Kỳ thực, con luôn luôn lo sợ phản ứng của con đối với một điều kiện bên ngoài thay vì chính điều kiện đó. Nhưng nếu con biết là con có thể khắc phục phản ứng đó bằng cách nhìn vào phản ứng cũng như ngã tách biệt đằng sau nó, thì tại sao con lại cần lo sợ phản ứng? Và nếu con không lo sợ phản ứng thì tại sao con lại cần sợ hãi điều kiện đó?

Thật sự, điều mà một số các con đã bắt đầu sẵn sàng nhìn nhận là con không có lý do gì để sợ hãi bất cứ điều kiện nào trên địa cầu. Phần nào đây cũng là điều mà Giê-su đã chứng tỏ khi thày chấp nhận để mình bị đóng đinh trên thập tự giá. Con có thể nói là nếu việc bị đóng đinh và chịu đựng nỗi đau đớn tạm thời đó đã giúp cho thày đủ tư cách thăng thiên, thì liệu việc trải qua nỗi đau nhất thời đó chẳng bõ lắm hay sao? Con thử nhìn xem Giê-su sau khi thày thăng thiên. Thày có thể nhìn lại những giờ phút đau đớn đó, nhưng chuyện đó còn hề chi nữa? Trong trạng thái thăng thiên, bất cứ gì đã xảy ra trên địa cầu có còn quan trọng gì nữa không?

Chúng tôi đã nói gì về mục đích thực sự của địa cầu, của trải nghiệm của con trên địa cầu? Đó là để nâng cao tâm thức. Một phần công việc nâng cao tâm thức là con phải vượt qua một cái gì đó nơi bản thân con – những cái ngã tách biệt, hay cái gì khác nữa. Và để vượt qua cái đó, con phải nhìn thấy nó. Và để nhìn thấy nó, chuyện gì cần xảy ra? Phải, đôi khi con có thể nhìn thấy nó qua một tiến trinh nội tâm. Nhưng có những thứ mà con không thể nhìn thấy, hoặc ít ra con sẽ nhìn thấy nhanh chóng hơn nếu nó được các điều kiện ngoại cảnh kích hoạt cho hiển lộ ra.

Đâu là mục đích của bất kỳ trải nghiệm nào mà con có thể có trên địa cầu? Đó là để làm hiện rõ ra trong nội tâm của con một số điều kiện đang hạn chế con – đó chính là tại sao con mới có một phản ứng khó chịu – hầu con có thể nhìn thấy điều kiện đó, giải quyết nó và được giải thoát khỏi nó. Và một khi con đã giải thoát khỏi điều kiện đó trong chính con, thì điều kiện bên ngoài hoàn toàn vô can, không dính dáng gì đến con nữa. Nếu con không có phản ứng tiêu cực nào đối với điều kiện, thì nó có quan trọng gì nữa không? Nó không kìm hãm được sự tăng trưởng tâm linh của con.

Một khi con bắt đầu suy ngẫm điều này, con có khả năng đạt đến một điểm khi con xoay chuyển một cách ý thức, và con nói: “Tại sao tôi lại sợ tất cả những điều kiện đó có thể xảy đến? Tại sao tôi lại cần sợ tất cả những điều kiện đó? Bất cứ gì xảy ra cũng sẽ tạo ra phản ứng. Khi tôi nhìn thấy phản ứng, đó là cơ hội cho tôi tìm kiếm những ảo tưởng, những cái ngã tách biệt đã gây ra ảo tưởng, hóa giải những ảo tưởng đó, để cho ngã tách biệt chết đi, và khi đó tôi được tự do. Tại sao tôi lại sợ những chuyện xảy ra cho mình khi thật sự chúng sẽ giúp mình đạt được giải thoát tối hậu và thăng thiên? Tại sao tôi cần phải sợ bất cứ điều kiện nào? Liệu tôi có thể nói, “Chuyện gì xảy ra cũng được! Bất cứ gì xảy ra cũng được!”?

Hết sợ hãi

Một lúc nào đó con hãy thử ngồi xuống trong một khung cảnh yên lắng, nhắm mắt lại, tập trung vào trái tim rồi nói: “Bất cứ gì xảy ra cũng được.” Xong con dõi nhìn xem phản ứng đến từ bên ngoài tim con, đặc biệt từ những luân xa bên dưới, từ cảm thể của con. Con nhìn xem con có phản ứng thế nào. Thử theo dõi phản ứng. Thử nhìn xem con có nhận diện được một ngã tách biệt nào hay không. Nhìn xem cái tin tưởng đứng đằng sau nó. Con đang thực sự sợ hãi điều gì? Tại sao con lại nghĩ, đây là một chuyện khủng khiếp mình cần phải tránh? Cái gì ở trong điều kiện đó mà con thực sự sợ hãi, và con sẽ thấy đó là phản ứng bên trong con, nhưng một phản ứng bên trong thì con có khả năng ảnh hưởng. Con có thể bó tay không làm gì được đối với điều kiện bên ngoài, nhưng con có thể làm gì đó với phản ứng của con. Không phải đây chính là cốt lõi lời dạy của các chân sư hay sao?

Tại sao con thực sự sợ nó? Con có nghĩ là con cần sợ nó? Điều này sẽ lần hồi dẫn con – đồng ý, tất cả các con sẽ cần thời gian để đạt tới đó – nhưng nó sẽ dẫn con đến điểm khi con có thể nói: “Ừ nhỉ, bất cứ gì mà tôi gặp trên địa cầu chỉ là một thử nghiệm. Nó không có gì là thực, theo nghĩa là nó không có quyền năng gì trên tôi để có thể định nghĩa được tôi.” Và khi con có thể nhìn mọi chuyện xảy ra cho mình chỉ là thêm một thử nghiệm trong số muôn vàn thử nghiệm khác, thì con sẽ có khả năng vượt qua nỗi sợ hãi mà biết bao người gán ghép cho tương lai, là nỗi sợ những chuyện có thể xảy ra.

Khi ta hiện thân trên địa cầu, trong sáu năm trời ta đã sống trong rừng, ta đã ngồi đó và bỏ đói thân mình, ta đã đối mặt với đủ loại điều kiện trong thể xác. Qua đó ta đã học được điều này, rằng không một điều kiện nào của thể xác có quyền lực đối với tâm mình trừ khi ta cho nó quyền lực. Qua đó ta đạt được một sự thản nhiên nào đó đối với thân xác mình và những gì có thể xảy ra cho thân xác, và hơn thế nữa, đối với những gì có thể xảy đến cho ta trong cõi vật lý. Trong phần còn lại của cuộc đời phụng sự, chắc chắn là sau khi ta trở về giảng dạy, ta không có sợ hãi nào về tương lai. Con có thể nói: “Nhưng chuyện đó quá dễ, thày đã có một cuộc đời quá dễ dàng.” Đúng, nhưng ta vẫn đang là người đầu thai giữa tâm thức tập thể của loài người, và tâm thức này luôn luôn tác động lên ta y như mọi người khác. Chỉ vì ta không phản ứng lại bọn quỷ của Mara mà ta mới giải thoát ra được mà thôi.

Giải phóng khỏi ngoại cảnh

Cho dù chuyện gì có xảy ra trong điều kiện bên ngoài, con vẫn mang sẵn tiềm năng thoát ra khỏi phản ứng của mình, và do đó, con không thể bị quỷ Mara cám dỗ. Điều gì gây ra phản ứng chứ? Tại sao con lại phản ứng tiêu cực trong một số hoàn cảnh mà không phản ứng tiêu cực trong một số hoàn cảnh khác? Đó là vì trong tâm, con có một cái chuẩn bảo con: “Chuyện này được xảy ra cho tôi, chuyện kia không được xảy ra cho tôi.”

Khi có điều gì xảy ra nằm trong danh mục “những chuyện được xảy ra”, con có một cảm giác tích cực. Con có một phản ứng tích cực. Nhưng khi có điều gì xảy ra nằm trong danh mục “không được xảy ra”, con rơi vào phản ứng tiêu cực, và con cho đó là cách duy nhất để nó diễn ra. Nhưng tại sao đó là cách diễn ra duy nhất? Đó chỉ là cách duy nhất trong tâm thức nhị nguyên mà thôi, nơi con có một cái chuẩn và một phán đoán giá trị. Nhưng khi con giải thoát khỏi nhị nguyên, nó sẽ phai nhạt đi. Tại sao lại có hoàn cảnh tích cực và hoàn cảnh tiêu cực? Tại sao một cái dẫn đến phản ứng hân hoan mất cân bằng, còn cái kia dẫn đến phản ứng tiêu cực cũng mất cân bằng? Tại sao có bất cứ gì mà con cần phải tránh né? Cho dù chuyện gì có xảy ra thì đó là một trải nghiệm, và bất kỳ chuyện gì xảy ra trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng là điều thích hợp để phơi bày ra một điểm nào đó trong tâm lý của con mà con chưa nhìn thấy. Vậy không tích cực lắm hay sao?

Con có thể nói: “Nhưng vẫn có những trải nghiệm trên địa cầu mà con không muốn có.” Điều này có thể hiểu được. Nhưng có một sự khác biệt giữa (1) sợ hãi và muốn tránh né một cái gì đó, và (2) quyết định là mình thật sự không muốn có trải nghiệm đó. Khi con làm điều thứ hai, con sẵn sàng nói: “À, vậy thì tôi cần làm gì để tránh loại trải nghiệm đó? Tôi cần tim xem trong tâm lý mình có điều gì sẽ được đưa ra ánh sáng bởi trải nghiệm đó, rồi tôi cần giải hóa điều kiện tâm lý đó hầu tôi không cần phải trải nghiệm điều kiện bên ngoài.”

Không có trừng phạt ở đây. Không có cưỡng ép, theo nghĩa là mọi chuyện xảy ra là để giải quyết vấn đề tâm lý. Mà nếu con giải quyết được tâm lý thì con không cần phải có biến cố bên ngoài xảy ra cho con. Trừ khi con làm vậy để chịu gánh nặng cho người khác – luôn luôn có ngoại lệ cho mọi quy luật – nhưng đối với đa số các con, nếu con giải quyết được điều kiện tâm lý thì con sẽ không cần trải nghiệm điều kiện bên ngoài. Giản dị như vậy đó.

Dựa trên đó, con thấy được là đối với số đông các con đã thực hành lời dạy này trong một thời gian, việc đạt được trạng thái cân bằng, an bình đó là một điều khả thi và thực tế. Nhưng nó không dựa trên sự phủ nhận. Ta có nói là nhiều Phật tử có được một cảm giác cân bằng, nhiều tín đồ Cơ đốc cũng có được cảm giác cân bằng, nhưng đó là vì họ phủ nhận một điều gì đó trong tâm lý họ. Họ làm ngơ. Họ từ chối nhìn vào, và do đó họ mang ảo giác yên tĩnh mà không thực sự an bình. Nhưng con có khả năng áp dụng các lời dạy của chúng tôi để đạt được trạng thái đó nơi tâm – là khi những chuyện ngoại cảnh không làm phiền con, con không phản ứng, con có thể nhìn quỷ Mara diễn hành trước mặt mình mà không phản ứng. Có nghĩa là khi đó con đạt được tự do tư duy để thực sự tự vấn: “Tôi thực sự muốn những loại trải nghiệm nào cho phần còn lại của kiếp này?” Và nhiều người trong số các con sẽ có khả năng xoay chuyển và nhận ra: “Chính những gì đang xảy ra là những trải nghiệm mà tôi muốn có, bởi vì trải nghiệm này nằm gọn trong tiến trình tăng trưởng của tôi. Đây là mong muốn mà tôi đang có, và bằng cách kinh qua và trải nghiệm nó, tôi có thể tự giải phóng mình khỏi mong muốn đó.”

Nhiều người trong số các con sẽ thấy mình đạt tới điểm này khi mình tự dưng biết rõ là đã đến lúc mình cần thay đổi cuộc sống, cho dù cuộc sống đó là gì trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con. Con có thể thực hiện thay đổi đó và con có thể có một trải nghiệm khác xa những gì con đã sống qua trước đây. Và trải nghiệm này là một phần của tiến trình tăng trưởng của con. Nó cũng có thể là một phần của món quà mà con muốn mang lại qua sứ vụ thiêng liêng của con.

Ngoại cảnh tự nhiên thay đổi

Một số các con có thể sẽ tự hỏi: “Tôi muốn loại trải nghiệm nào? Chẳng hạn tôi muốn trải nghiệm việc bày tỏ một ý tưởng nào đó.” Nhưng để làm điều này, con cần một số thay đổi, rồi con phải thực hiện những thay đổi đó. Ta sẽ không nói chi tiết những thay đổi cần thiết là gì. Chính con, tất nhiên, sẽ nhận thấy khi nào con sẵn sàng thay đổi. Đây không phải là một điều mà con áp đặt bằng tâm vỏ ngoài, mà nó sẽ xảy đến khi nào con đã đạt được trạng thái an bình nội tâm một khi con giải quyết tâm lý mình. Khi đó con sẽ ý thức tự đặt câu hỏi: “Tôi muốn loại trải nghiệm nào trong giai đoạn kế tiếp của đời tôi?”

Rất nhiều các con sẽ nhận thấy là một khi con sáng rõ, một khi con không còn bị phân ly trong tâm nữa, thì hoàn cảnh cuộc sống sẽ tự nhiên ăn khớp vào nhau và con thấy mình sống trong một tình cảnh đổi mới. Đây là tình huống mới được thị hiện một cách không khó nhọc. Nó xuôi chảy với Dòng sông sự Sống khi con không kháng cự lại bất cứ gì. Con không đang tìm cách gò ép cho điều gì xảy ra – có thể nói là con chỉ quan sát nó xảy ra. Con quan sát mọi sự trải bày ra.

Liệu ta có đang bày đặt một ảo mộng gì đó ở đây? Liệu chuyên này chỉ xảy ra cho một số ít người? Không đâu, nó áp dụng cho tất cả những ai sẵn lòng thực hành lời dạy và giải quyết tâm lý của mình. Tại sao nó lại có thể xảy ra? Tại sao khi con thay đổi trạng thái tâm mình thì hoàn cảnh vỏ ngoài cũng có thể thay đổi theo? Đây không phải là hiện tượng mà người ta thường gọi là lấy tâm điều khiển vật chất. Con thấy đó trên thế giới, có cả một phong trào những kẻ cố sức đạt được quyền năng lấy tâm điều khiển vật chất, ép buộc vũ trụ phải ban cho họ những gì họ muốn. Họ muốn ép buộc chì phải biến thành vàng, hoặc thế này thế khác – bất cứ gì mà họ mơ ước. Nhưng đó là sa nhân đang tìm cách sử dụng điều mà các chân sư gọi là ma thuật để thị hiện một số kết quả nào đó.

Điều mà ta đang nói đến ở đây là thị hiện mà không chút cố gắng và cũng không dùng đến sức lực hay quyền lực. Con thấy không, khi tâm lý con đã giải quyết, con không cần phải gò ép gì nữa. Bởi vì con không tìm cách tránh né bất cứ gì. Con không tìm cách cưỡng bách bất cứ gì lên bất cứ ai, hoặc xua đuổi bất cứ gì. Tại sao khi con xoay chuyển trong tâm, thì bên ngoài, các tình huống lại có thể xảy ra như ăn khớp vào với nhau?

Tất cả đều nối kết

Phải, điều đó xảy ra được là do một nguyên lý mà ta đã giảng dạy bao nhiêu năm về trước, đó lý duyên khởi (interdependent originations). Đây là một khái niệm vô cùng thâm sâu. Các chân sư đã có đề cập rồi và đã khuyến khích con nên suy ngẫm, và một lần nữa, ta lại khuyên con nên suy ngẫm và từ từ chiêm nghiệm nguyên lý này. Con cần nhìn nhận là con đã lớn lên trong thế giới hiện đại, là môt thế giới chủ yếu dựa vào, không những một nhân sinh quan dựa trên sức mạnh, một hệ tư tưởng dựa trên sức mạnh, mà cả một hệ tư tưởng dựa trên tách biệt. Ta đã nói gì về tâm thức nhị nguyên? Trong nhị nguyên, con nhìn vào toàn bộ tấm thảm của sự tồn hữu con người, xong con lấy ra một phần, con nâng nó lên, đồng thời con cũng kéo thấp những phần khác xuống. Con tạo ra một sự mất cân bằng. Nhưng trong lý duyên khởi không hề có mất cân bằng, tất cả đều nối kết với nhau.

Nhưng con đã lớn lên và được dạy dỗ cái nhìn cho tằng tất cả mọi thứ đều không nối kết với nhau. Tất cả đều là những thực thể tách biệt. Chúng hiện hữu riêng rẽ. Chúng là những thứ riêng rẽ bị tác động bởi những nguyên nhân riêng rẽ. Khi con nhìn khoa học, khoa học hiện đại, con sẽ thấy khoa học đặt nên tảng trên cái nhìn tách biệt này. Con cho rằng con có thể nhìn vào tấm thảm của vũ trụ và lôi ra một sự kiện nào đó, một điều kiện nào đó, và cô lập nó ra rồi bảo: “Đây là một hiệu ứng biệt lập, và hiệu ứng biệt lập này là do nguyên nhân biệt lập kia. Hiệu ứng này hoàn toàn được gây ra bởi nguyên nhân kia, và nguyên nhân kia là nguyên nhân độc quyền gây ra hiệu ứng này.” Đây là cái nhìn tách biệt mà khoa học phương Tây vẫn tiếp tục cổ võ, cho dù nó đã bị chính khoa học phương Tây – vật lý lượng tử – bác bỏ.

Có lẽ con cần bỏ ra thì giờ để suy ngẫm về điều này và nhận ra cách nhìn về nguyên nhân tách biệt và hệ quả tách biệt chỉ hữu ích cho một giai đoạn nào đó. Đó là một giai đoạn cần thiết khi loài người cần chuyển từ thế giới quan tôn giáo thời trung cổ sang thế giới quan khoa học, lý tính, hiện đại hơn. Không phải là cách nhìn đó sai – nó không sai khi xã hội cần kinh qua giai đoạn đó, nhưng đó chỉ là một giai đoạn, hay ít nhất, đó là một giai đoạn mà xã hội phải đi qua nhưng nó không thể đưa xã hội hay loài người quá một trình độ nào đó.

Là học trò tâm linh, con sẽ muốn suy ngẫm xem làm thế nào con có thể giải thoát tâm con khỏi niềm tin đó. Một lần nữa, con có thể hỏi, tại sao mình lại sợ một tình huống nào đó? Phải chăng là vì con cho rằng có nguyên nhân tách biệt kia sẽ tác động đến con là một sinh thể tách biệt, và con như một sinh thể tách biệt sẽ phản ứng lại nguyên nhân đó? Và con như một sinh thể tách biệt sẽ muôn tránh né nó, muốn tránh né nguyên nhân đó? Nhưng con đang nhìn bản thân như một sinh thể hiện hữu trong một tổng thể rộng lớn hơn. Con biết điều đó. Con đang sinh sống trên một hành tinh với bảy tỷ người khác, với đủ loại điều kiện vật lý khác nhau, có cả những chuyện như thời tiết, và nếu trời mưa và con ra ngoài đường thì con sẽ bị ướt. Con biết là con đang sống trong cái tổng thể đó, nhưng thay vì nhìn vào tổng thể, con lại tập trung vào một số khía cạnh đặc thù của tổng thể, và con xem mình như một sinh thể tách biệt đang hiện hữu trong tổng thể, và con nghĩ đối với sinh thể tách biệt đó, có những chuyện nên xảy ra cho nó và những chuyện khác không được xảy ra cho nó.

Xong con tìm cách làm thị hiện những chuyện nên xảy ra và xua đuổi những chuyện không được xảy ra, dựa theo tiêu chuẩn của con. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói con là một sinh thể cá biệt với quyền tự quyết cá nhân, nhưng con không nhận ra là con hiện hữu trong một tổng thể với bảy tỷ cá nhân khác cũng có quyền tự quyết. Có nghĩa lý gì mà lại cho rằng con có thể tự cô lập khỏi tổng thể đó và không bị tác động bởi những chọn lựa tự quyết của người khác? Nghĩ như vậy có thực tế hay chăng?

Nhiều người nghĩ như vậy. Như ta vừa nói, có những người xây thành lũy với tường thật dày để cố cách ly, tưởng là mình có thể tự cô lập khỏi tổng thể, nhưng tất nhiên họ không thể. Họ có thể tạm thời tạo cảm tưởng là họ có thể, nhưng thực tế là họ không thể. Toàn bộ ý tưởng cho rằng mình có thể cách ly khỏi tổng thể để che chở bản thân khỏi một số điều kiện – và hấp dẫn một số điều kiện khác – là một ảo tưởng. Dù con có ưa hay không ưa, con vẫn là một phần của tấm thảm nhân loại. Điều ta gợi ý cho con ở đây, và cũng là điều xảy ra cho những ai đã vươn lên một mức tâm thức Ki-tô nào đó và đã bắt đầu khoác vào tâm thức Phật, là con có khả năng xoay chuyển cách nhìn của mình về cuộc sống.

Con có thể khởi sự suy ngẫm là có một cách khác để nhìn cụôc sống hơn là nhìn từ quan điểm một cá nhân tách biệt đang cố tránh né một số chuyện và tìm cầu một số chuyện khác. Con có thể nhận ra là với tư cách một cá nhân tách biệt, thật chẳng có nghĩa lý gì khi con muốn cái này và không muốn cái kia. Bởi vì thực tế là mọi thứ đều nối kết với nhau, và rất có thể điều gì con muốn có sẽ khiến cho ai khác không có được, và điều gì con tránh né sẽ khiến cho ai khác không tránh được. Nói cách khác, nếu mọi sự đều là một tổng thể liên kết và con ở trong tổng thể đó, con không thực sự là một thành phần (a part) của tổng thể vì con không hề tách rời (apart) khỏi tổng thể. Mà giản dị, con là một khía cạnh trọn vẹn và không thể thiếu của tổng thể. Thật sự không có nghĩa lý khi nói: “Tôi muốn gì như một cá nhân tách biệt?”

Có một cách nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống, và đó là nhìn cuộc sống từ một cá nhân nối kết, một người nối kết với tổng thể – tức là thật sự sẽ không nghĩa lý gì khi con bảo: “Liệu tôi có thể trở thành tỷ phú bằng cách lấy tiền của người khác hay không?” Con có thể làm vậy như một số người đã từng làm, nhưng kỳ thực con không tách rởi khỏi tổng thể. Khi con tạo ra một sự mất cân bằng thì con sẽ trải nghiệm một sự mất cân bằng nơi chính con. Khi con tạo một sự mất cân bằng tác động lên người khác, con sẽ tạo một sự mất cân bằng tâm lý tác động lên chính con. Con cũng sẽ tạo ra một đối nghịch vật lý có thể sẽ tác động đến con trong tương lai. Vì tác động này có thể bị trì hoãn tới một kiếp sau cho nên con không thể thấy được, nhưng con sẽ trải nghiệm một sự mất cân bằng tâm lý. Chẳng hạn như con thấy đó, tất cả những ai làm giàu do tước đoạt của người khác cũng đều phải chịu những mất cân bằng tâm lý sẽ liên tục gây tổn hại cho họ.

Mục đích là nâng cao tổng thể

Có một cách nhìn cuộc sống khác hẳn cái nhìn tách biệt mà con đã được giáo dục, được lập trình và đã phải tiếp cận suốt nhiều kiếp sống. Con sẽ cần trang bị lại tâm trí để có thể xoay chuyển, nhưng ở đây thày đang chỉ ra cho con những giai đoạn khởi đầu của tiến trình đó. Con có thể bắt đầu suy ngẫm và chuyển dời tâm thức. Con có thể bắt đầu trau dồi nhận thức là con không thực sự ở đây để tự nhấc mình lên, ít ra là không tạo sự mất cân bằng sẽ làm hại đến người khác. Con ở đây để nâng cao tổng thể.

Liệu điều này có ăn khớp với đường tu tâm linh dẫn đến quả vị Ki-tô hay không, vì chúng tôi đã có nói là ở những chặng đầu của đường tu, công việc quan trọng nhất của con là tách mình ra khỏi tâm thức tập thể? Đúng vậy, có vẻ như con cần tự tách ra khỏi một cái gì đó, và theo một ý nghĩa nào đó, con đang tự tách mình ra khỏi tâm thức tập thể. Nhưng tâm thức tập thể là gì? Đó là tâm thức tách biệt. Khi con tách mình ra khỏi tâm thức tách biệt, liệu con đang tách ra khỏi một cái gì đó, lánh xa một cái gì đó, hay con đang bước vào tâm thức hợp nhất, tâm thức nối kết? Con không thể thực sự tách ra khỏi sự tách biệt. Con chỉ có thể đi vào tâm thức vượt khỏi tách biệt, tức là đi vào hợp nhất. Con nhận ra là để nâng cao tổng thể, con cần phải tách mình ra khỏi tâm thức tập thể hầu con có thể nâng cao chính tâm thức cá nhân của mình, và khi con làm vậy, con tạo ra một lực kéo theo cả tập thể đi lên.

Sự khác biệt vi tế nằm ở chỗ một số đệ tử sẽ tìm cách làm vậy với động lực nâng mình lên như một cá nhân tách biệt. Đây là điều chúng tôi từng đề cập là ở tầng thứ 96, con cần tìm ra đáp số cho bí ẩn là con không còn cố nâng mình lên như một cá nhân tách biệt, mà con nhìn ra sự nối kết với tổng thể. Đây là tâm thức Ki-tô, không phải mức cao nhất nhưng chắc chắn là chặng khởi đầu của tâm thức Ki-tô. Khi con xoay chuyển, con nhận ra là tất cả mọi thứ đều tương kết với nhau. Theo một nghĩa, con có thể nói là tâm lý của mọi người trên địa cầu đều nối kết với nhau. Có một vài ngã tách biệt mà mọi người đều có, và có rất rất nhiều ngã tách biệt mà hầu hết mọi người đều có.

Vậy sẽ cần gì để nâng cao nhân loại? Sẽ cần gì để nâng cao tâm thức tập thể? Cần giải quyết những cái ngã tách biệt. Nhưng làm thế nào? Điều này không thể xảy ra trên bình diện tập thể, vì tập thể không có ý thức và mọi người đang bị những cái ngã tập thể phân rẽ. Không có hy vọng nào khơi lên ý thức này, ít ra là trong tương lai gần, vì mọi người đều có ngã tách biệt và đều cần khắc phục nó cái đã. Tuy nhiên, con có thể thấy một số chuyển đổi tập thể đang diễn ra, nhưng những chuyển đổi này khởi lên là do một số cá nhân đã bắt đầu tự xoay chuyển bản thân, và điều này tạo ra động lượng khiến cho nhiều người khác cũng chuyển đổi theo.

Nhân loại được nâng lên là nhờ một số người đã sẵn sàng xem xét và giải quyết ngã tách biệt của riêng mình. Điều này tạo ra một khuôn mẫu, một khung sườn, một đường khai thông cho người đi sau, một động lượng cho tập thể. Nếu có một người nhìn thấu qua một ngã tách biệt nào đó, thì sẽ có một người khác khắc phục ngã tách biệt đó dễ dàng hơn do người kia đã làm được trước đó. Rồi sẽ có một người thứ ba cũng thấy dễ dàng hơn nữa, và nó sẽ lan rộng ra giống như vòng tròn trên mặt nước, cho tới khi tập thể được xoay chuyển, và bỗng nhiên nó gần như trở thành một loại kiến thức phổ thông, hay ít nhất một chuyện đầu môi của nhiều người. Ngay cả chỉ trong một đời người, con đã thấy trong lãnh vực xuất bản sách tự cải tiến, đã xảy ra những chuyển đổi khiến cho một vấn đề nào đó bỗng nhiên trở nên thời trang và được nhiều người nói tới. Chẳng hạn ngay giờ đây, con có thấy đề tài về những kẻ ích kỷ yêu mình quá độ đang trở thành phổ biến hay không? Tất cả đã bắt đầu là do có một vài người sẵn sàng tự cải sửa rồi kéo theo mọi người đi lên.

Không còn kháng cự

Như vậy có nghĩa là bây giờ con có thể trở về với khái niệm ta đề cập ở trên, là có một số điều kiện mà con muốn tránh né, nhưng giờ đây con nói: “Phải, có một điều kiện này mà tôi không muốn xảy ra nhưng nó vẫn xảy ra như thường, vậy có nghĩa là gì?” Có lẽ có nghĩa là: “Cho dù tôi có muốn tránh né với tâm vỏ ngoài, nhưng trong sứ vụ thiêng liêng của tôi, chính tôi đã hứa là mình sẽ tiếp nhận điều kiện đó để nó giúp mình giải quyết cái tâm lý ở đằng sau, và nhờ vậy tôi sẽ nâng cao tổng thể.” Nói cách khác, những gì xảy ra cho con không phải là điều gì nhằm đánh phá con, nó không phải là điều gì mà con cần kháng cự lại. Trái lại, đó là một điều mà con cần ôm lấy và nói: “Tôi có thể học được gì từ chuyện này? Có gì trong bản thân mình mà tôi cần nhìn thấy qua chuyện này? Làm thế nào tôi có thể giúp giải quyết một điều gì đó trong tâm thức tập thể và nhờ đó nâng cao tập thể?”

Một lần nữa, cách suy nhĩ này là một phần của câu “Bất cứ gì xảy ra cũng được”. Khi con nói “Bất cứ gì xảy ra cũng được”, nó không có nghĩa là chỉ có những thứ dễ chịu mới được quyền xảy ra. Mà nó có nghĩa là “bất cứ gì”. “Dù bất cứ gì xảy ra, tôi cũng sẽ gặp gỡ nó với tâm tích cực, tôi sẽ tìm cách tận dụng nó tốt nhất, và tôi sẽ vui mừng vì những gì tôi đã phải chịu đựng đều đã đóng góp nâng cao tổng thể.”

Điều này sẽ xoay chuyển trạng thái tâm con, khiến con không cưỡng chống lại bất cứ gì nữa. Và tất nhiên, con không thể an bình nội tâm khi con còn cưỡng chống hay tìm cách tránh né bất cứ gì. Làm sao an bình được? Và điều này ăn nhập thế nào với đề tài trở thành cánh cửa mở? Thật hiển nhiên là khi con càng giải quyết được tâm lý của con thì con sẽ càng sẵn sàng nói “Bất cứ gì xảy ra cũng được”, và con càng trở thành một cánh cửa mở. Khi còn đầu thai trong cõi vật lý, con luôn luôn gặp thử thách mình bị mù quáng bởi toàn bộ hoàn cảnh mà mình đang trải qua, bởi tâm thức tập thể, bởi chính bốn thể phàm của mình, và con không thấy được rõ ràng trong tâm ý thức những gì con đã thảo ra trong sứ vụ thiêng liêng của con. Con không nhìn thấy sự nối kết rộng lớn với công cuộc nâng cao tổng thể mỗi khi con trải qua một tình huống. Nhưng tư duy mà con có thể trau dồi là không những con sẽ cởi mở đón nhận những ý tưởng tuyệt vời từ cõi tâm linh, mà con cũng sẽ cởi mở để trải nghiệm tất cả những tình huống mà con đã quyết định trong sứ vụ thiêng liêng, là những trải nghiệm mà con muốn kinh qua và đương đầu hầu giúp nâng cao tập thể. Thậm chí có cả những bệnh tật mà con muốn chuốc lấy.

Làm hòa với sự đầu thai trên địa cầu

Điều ta cố trao cho con ở đây là ý tưởng con có khả năng làm hòa với sự đầu thai của con trên địa cầu, cho dù hành tinh này có đày đặc và khó khăn như hiện tại. Điều này không có nghĩa là ta yêu cầu con phủ nhận những điều kiện hiện hữu trên trái đất. Khi con nâng cao tâm thức, con nhìn thấy rõ hơn mọi điều kiện. Nhưng con cũng nhìn những điều kiện đó mà không có phán đoán nào về giá trị, là sự phán đoán của tâm thức nhị nguyên, và đây là điểm mà một số người đã không hiểu. Một số người đã đi qua giai đoạn mà thày Saint Germain đã giải thích rất tỉ mỉ là những giai đoạn khởi đầu trên con đường quả vị Ki-tô, khi con vẫn con suy nghĩ mọi chuyện theo đen và trắng. Con vẫn còn cho rằng cái này đúng, cái kia sai. Nếu cái này đúng thì cái đối nghịch phải sai. Đấy là cách con suy nghĩ ở một giai đoạn nào đó. Đó là khởi đầu của phân biện nhưng đó chưa thực sự là quả vị Ki-tô, vì quả vị Ki-tô là khi con bước lên cao hơn một chút, và con bắt đầu nhìn vượt khỏi mọi phán đoán giá trị. Khi nào con còn ở trong tâm trạng trắng đen này thì con sẽ vẫn phán xét giá trị, con sẽ vẫn cho rằng cái gì sai là xấu, là ác, là cần tránh né, là không có quyền hiện hữu.

Khi con bước lên cao hơn trong tâm thức Ki-tô, con nhận ra là bất cứ gì hiện hữu cũng chỉ là quyền tự quyết của con người đang trải bày ra. Khi con lên cao hơn nữa vào những mức tâm Phật, con bắt đầu bỏ lại toàn bộ ý thức lượng định là một điều gì đó phải hiện hữu hay không được hiện hữu. Khi con nối kết với bản chất nối kết của tổng thể cũng như với quyền tự quyết được trải bày ra, con nhận ra là theo một nghĩa nào đó, từ một quan điểm nào đó, hoàn toàn không có gì mà không được hiện hữu – bởi vì bất cứ gì hiện hữu cũng là sự trải bày của tâm thức con người sống trên địa cầu, và tâm thức này đang trải bày nó ra để làm cho nó lộ diện. Khi con thấy được cách vận hành của bộ máy giả thực tại này, và thấy được loài người đã bước vào nhị nguyên như thế nào, thì bất cứ gì hiện hữu cũng hiện hữu như sự trải bày của một cái gì đó khó nhìn thấy, bây giờ được hiển lộ ra cho con thấy. Nhìn từ góc độ đó, nó phải hiện hữu.

Con thử lấy tất cả những đánh giá mà nhiều người có trên hành trình tu tập, thì con có thể nói tiến trình đi tới quả vị Ki-tô và quả vị Phật là khi con bắt đầu kết nối với tổng thể, cho nên con trải qua một giai đọan khởi lên lòng trắc ẩn đối với tha nhân. Con nhìn thế giới ngày nay, nhìn rất, rất nhiều người mà xem. Có thể họ đi theo hay không theo tôn giáo nào, nhưng con thấy là rất nhiều người – mà chúng ta có thể gọi là người tiến bộ, thiện tâm – được thúc đẩy bởi lòng trắc ẩn. Họ có lòng thương xót đối với nỗi đau khổ của người khác, và với lòng thương xót đó, họ nói: “Ồ, điều kiện tệ hại này không được có mặt ở đây. Người ta phải đau khổ như thế này thì thật là sai trái. Những chứng bệnh này không được hiện hữu, tình trạng nghèo đói này không được hiện hữu, tra tấn, bạo lực, chiến tranh này không được hiện hữu.”

Hiển nhiên, con có thể lấy quan điểm đó và bảo rằng theo nguyên tắc lý tưởng, theo cách vận hành của một hành tinh tự nhiên, thì những chuyện như vậy sẽ không có mặt ở đây nếu địa cầu là một hành tinh tự nhiên. Nhưng một lần nữa, mục đích của chúng ta trên địa cầu là gì chứ? Phải, tối hậu là đưa địa cầu trở về trạng thái một hành tinh tự nhiên, nhưng đó vẫn chưa phải là mục đích thật. Mục đích thật là nâng cao tâm thức. Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, không ngồi đây bảo: “Ồ, địa cầu là một hành tinh đen tối thật, và chúng tôi phải cố gắng hết sức hồi phục địa cầu về vị thế một hành tinh tự nhiên càng sớm càng tốt, bất chấp điều gì xảy ra.”

Không, thật ra chúng tôi nói: “Với tình trạng hiện nay của địa cầu, trong những điều kiện hiện tại, làm thế nào chúng tôi có thể nâng cao tâm thức loài người bằng cách làm hiển lộ cái tâm thức đã tạo ra những điều kiện đó?” Khi con nối kết với điều này, con sẽ tránh bị mắc kẹt trong lòng trắc ẩn, bởi vì kỳ thực, nhiều người thiện tâm và nhạy cảm bị mắc kẹt trong lòng trắc ẩn. Chính sứ giả này cũng từng bị mắc kẹt như vậy trong những năm đầu của kiếp này, ngay cả những năm đầu sau khi ông cất bước trên đường tu, thậm chí sau khi ông tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên. Rất nhiều các con có thể nhận thấy một điều tương tự nơi chính mình. Con cảm thấy một lòng trắc ẩn mãnh liệt đối với sự khổ đau của mọi người đến độ con sẵn sàng sử dụng vũ lực để loại bỏ khổ đau.

Các chân sư thăng thiên cũng muốn xóa bỏ đau khổ của loài người, nhưng tại sao chúng tôi đã không dùng quyền năng lớn lao của mình để xóa bỏ nạn nghèo đói trên trái đất? Phải, bởi vì như vừa nói, mục đích chủ yếu của chúng tôi không phải là xóa bỏ nghèo đói, xóa bỏ cách thể hiện vỏ ngoài của nghèo đói, mà chúng tôi muốn giúp con người thăng vượt cái tâm thức đã làm thị hiẹn tình trạng nghèo đói đó. Chúng tôi muốn dùng nghèo đói để khiến cho tâm thức đó hiển lộ ra hầu mọi người có thể nhìn thấy và giải quyết. Đó là mục đích chúng tôi. Đó là cách chúng tôi làm việc. Nhiều người trong số các con đã không hiểu điều này, nhưng khi con hiểu ra thì con cũng sẽ xem xét và chấp nhận là con không cần khiến cho lòng trắc ẩn của mình trở thành một chứng ám ảnh cưỡng chế, khi con luôn bị thôi thúc phải làm cái gì đó để giảm bớt một dạng đau khổ nào đó, và con không thể an bình cho tới khi điều này xảy ra.

Rất nhiều người thiện tâm mà ta đang nói tới, ngay cả một số đệ tử của chân sư thăng thiên, bị rơi vào trạng thái ám ảnh cưỡng chế này khi họ không thể an bình cho tới khi vấn nạn này hay vấn nạn kia vẫn còn hiện hữu. Sứ giả này đã sống qua một thời kỳ ở tổ chức Summit Lighthouse khi ai nấy đọc bài chú trong những buổi canh thức kéo dài hàng giờ nhằm chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản, ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, hay đem lại một số thay đổi nào khác. Không phải là những công việc đó vô ích và vô giá trị. Nhưng sứ giả này đã nhận ra là mình ở trong một trạng thái tâm thức ám ảnh cưỡng chế, và ông thấy nhiều người khác cũng giống như ông. Con không an bình khi con ở trong trạng thái tâm thức đó.

Chắc chắn chúng tôi mong muốn đệ tử của mình kêu gọi thay đổi một số điều kiện trên thế giới, nhưng có bao giờ chúng tôi bảo các con phải làm vậy trong tâm trạng ám ảnh cưỡng chế đâu? Tại sao chúng tôi lại muốn đệ tử của mình hành động với tâm mất cân bằng trong khi chúng tôi luôn cân bằng? Chúng tôi muốn đệ tử có những gì mà chúng tôi có – tâm cân bằng. Con có thể nói là trong trạng thái thăng thiên, chúng tôi nào cần đến tâm cân bằng vì ở đây không thể có sự mất cân bằng. Nhưng con đang sống trong một môi trường khác, nơi tâm mất cân bằng là chuyện khả dĩ, và có rất, rất nhiều thế lực tác động lên tâm con để lôi kéo con vào những phản ứng mất cân bằng.

Các chân sư cố giúp con đạt được trạng thái tự do khỏi tất cả những thế lực đó, những con quỷ của Mara, hầu con cũng có thể ngồi dưới cây bồ đề mà không mảy may bị quỷ Mara ảnh hưởng, hay bị phiền hà bởi ông hoàng của thế gian tới đòi phần ăn của y. Chúng tôi đã trao cho con những dụng cụ để con đạt được điều đó. Con sẽ cần thời gian, nhưng bằng cách ý thức nhận biết điều đó và đặt nó làm mục tiêu ý thức, con sẽ đạt được nhanh chóng hơn rất nhiều.

Nhiều người trong số các con gần hơn là các con tưởng, nhiều người trong số các con gần hơn là các con tưởng.

Như chúng tôi đã nói: “Hãy hỏi thì con sẽ nhận được”. Con hãy hỏi chân sư gần gũi nhất với con, hãy yêu cầu thày giúp con nhìn ra trong thái độ của con có điều gì đang kéo con ra khỏi bình an. Nhưng cũng đừng quên hỏi vị sứ giả này, vì ông đã đạt được một mức độ bình an rất cao và sẵn lòng làm việc với con để con cũng đạt được như vậy. Một lần nữa, con sẽ cần đến gì để con cũng trở thành cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu? Hãy hỏi và sẵn sàng nhận.

Và một nhận xét chót – ta muốn gửi đến tất cả các con lòng biết ơn sâu xa của các chân sư khi con đã sẵn lòng tham gia vào tiến trình buổi hội thảo này. Rất đông các con đã hòa điệu để cùng nhau đọc bài thỉnh, các con đã thực sự hoàn thành một công việc tuyệt vời để nâng cao tâm thức tập thể. Các con đã vượt quá chỉ tiêu ban đầu của chúng tôi, đã vượt quá mục đích đó, và các con hãy nhận lòng biết ơn của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng là chính các con cũng cảm thấy hội nghị này đã nâng tâm thức mình lên cao hơn cả kỳ vọng ban đầu của mình.

Chắc chắn bây giờ sứ giả này có thể thư giãn, như ông thường làm sau những buổi hội thảo như thế này, và ông kinh ngạc nhìn vào số lượng giáo lý mới mà chúng tôi ban truyền. Đôi khi ông cảm thấy rất nhiều lời dạy đã được đưa ra, và ông tự hỏi, không hiểu làm sao chúng tôi lại có thể đưa ra nhiều thêm nữa như vậy, nhưng ông luôn vui mừng khi được trải nghiệm nhiều bài giáo lý mới và chúng tôi thì luôn luôn sẵn lòng đưa ra nhiều hơn. Chúng tôi hy vọng các con đã có cùng trải nghiệm đó, đã vui mừng được chiêm nghiệm dòng chảy của Tánh linh và sự trải bày của những ý tưởng này. Ta hy vọng một số các con có thể đã cảm thấy là mình vừa nhận được một điều gì đó mà mình không yêu cầu. Nhưng con đã chỉ nhận được những gì con không yêu cầu một cách ý thức, chứ trong tiềm thức, chắc chắn là con đã yêu cầu. Và điều đó, một lần nữa, chúng tôi thật biết ơn. Và như vậy, ta niêm các con, ta niêm hội nghị này trong sự an bình vui mừng của Phật.

Hãy buông cái cũ!

Bài giảng của chân sư thăng thiên PadmaSambhava qua trung gian Kim Michaels ngày 1/10/2021, nhân dịp Webinar 2021 cho Hàn quốc – Là Cánh cửa Mở cho Địa cầu. 

TA LÀ chân sư thăng thiên PadmaSambhava.

Ta là Phật PadmaSambhava. Ta là Vajra Guru PadmaSambhava. Có thực tế, có huyền thoại. Có sự thật, có hư cấu. Có một sự tạo dựng công phu trong Phật giáo Tây tạng và các dạng khác của Phật giáo chung quanh PadmaSambhava – danh tính của PadmaSambhava, PadmaSambhava là ai, làm gì, hiện ra lúc nào, hiện ra như thế nào, khoác lấy những thị hiện nào, vân vân và vân vân.

Lần xuất hiện của PadmaSambhava

Nếu con nhìn vào khối tài liệu công phu, rất công phu này, con phải nói rằng phần rất lớn đều là hư cấu, là huyền thoại. Điều này không có nghĩa là nó hoàn toàn vô dụng theo nghĩa là xuyên qua các thời đại, đã có những người đã dùng được tài liệu đó một cách xây dựng. Nhưng cũng có rất nhiều người, thật ra là tuyệt đại đa số đã bị mắc kẹt trong hình dạng vỏ ngoài của tài liệu, rồi đã tập trung vào hình dạng vỏ ngoài này và không thể nhìn xa hơn.

Tất nhiên, đây là thách đố mà chúng tôi là các chân sư thăng thiên, những sinh thể tâm linh, phải đối diện, đã từng và sẽ phải đối diện trên một hành tinh phi tự nhiên. Chúng tôi sẽ phải đối diện với điều này chừng nào địa cầu còn là một hành tinh phi tự nhiên, bởi vì khi đó sẽ còn có rào cản, còn có khoảng cách khiến cho con không thể nhận thức được trực tiếp rằng vật chất là một dạng năng lượng và cõi vật chất không tách biệt khỏi cõi tâm linh, mà là sự biểu hiện của cõi tâm linh, sự nối dài của cõi tâm linh, sự hiện thân của cõi tâm linh.

Vì thế con mới tìm đến một số huyền thoại cùng ý tưởng đã được tạo dựng, và con thấy có một truyền thống bảo rằng đức Phật Gautama – hay Thích ca Mâu ni như danh tính được sử dụng trong các truyền thống này – đã thấy trước sự xuất hiện của PadmaSambhava. Một số truyền thống cho rằng Gautama thấy trước sự xuất hiện của một vị Phật tương lai còn giác ngộ hơn cả chính mình. Nhưng khi các truyền thống đó cũng nói rằng Gautama đã hoàn toàn giác ngộ thì làm sao có ai có thể giác ngộ hoàn toàn hơn được, cho nên đó không thể là ý nghĩa thực sự. Nhưng đó cũng cho thấy PadmaSambhava quan trọng như thế nào trong tâm của đức Phật. Đây là một ví dụ điển hình của cái tâm đường thẳng khi nó chụp lấy những khái niệm tâm linh rồi cố biến thành sự thật đường thẳng để tâm có thể nắm bắt và điều khiển.  

Đâu là sự thật? Sự thật là Gautama là một sinh thể đã khoác lấy hiện thân vật lý. Con là đệ tử của chân sư thăng thiên đã được dạy rằng Gautama đã đầu thai lần đầu trên địa cầu cách đây rất lâu, rằng thày đã bước xuống tâm thức nhị nguyên, đã bị mắc kẹt và chìm đắm trong nhị nguyên, nhưng sau nhiều kiếp đã bắt đầu thức tỉnh khỏi nhị nguyên. Sau thêm nhiều kiếp nữa, thày đã đạt được mức tâm thức hội mọi điều kiện để thày đầu thai lần chót và trở thành Phật – vì trong kiếp đó, thày đã đắc quả vị Phật. Như vậy, Gautama là một tấm gương cho tất cả nhân loại noi theo, là tấm gương chứng tỏ mọi người đều có khả năng giác ngộ. Tại sao như vậy? Vì mọi thứ đều mang sẵn Phật tánh nơi mình. Cho nên mỗi người đều có tiềm năng đạt được trạng thái tâm thức mà Gautama gọi là quả vị Phật, hay niết bàn, hay giác ngộ.  

Như vậy thì Gautama đúng ra phải là một tấm gương. Nhưng tâm đường thẳng đã biến Gautama thành gì? Phải, tâm đường thẳng muốn so sánh. Không một tôn giáo nào xuất hiện trong hư không, cho nên Phật giáo cũng đã xuất hiện trong một quốc gia, trong một truyền thống tâm linh, trong một vùng nằm dưới ảnh hưởng của Ấn giáo và đã từng bị tư duy Ấn giáo chi phối từ rất lâu. Đối với Ấn giáo, Gautama cống hiến một chọn lựa mới, nhưng tâm đường thẳng của những người sau này tự xưng mình là tín đồ của Gautama lại muốn so sánh Phật giáo với Ấn giáo. So sánh nghĩa là gì? Là phải tốt hơn, phải cao hơn, phải tiến bộ hơn Ấn giáo.

Vì thế họ mới tạo ra huyền thoại rằng Gautama không chỉ là một người đã vươn lên đến quả vị Phật sau nhiều kiếp đầu thai. Gautama phải thật đặc biệt ngay từ khi sinh ra, thậm chí có thể là chưa từng đầu thai bao giờ như người ta vẫn nói, mà đã sẵn hiện thân như một đấng giác ngộ.

Và Gautama vô cùng đặc biệt trong cách chào đời, có cả phép lạ chung quanh ngày đản sanh của thày, y như những phép lạ đã bao quanh ngày Giê-su ra đời và nhiều chuyện như thế. Vậy thì tâm đường thẳng đã làm gì với tấm gương của Phật? Nó đã khiến cho tấm gương này trở nên vô giá trị và vô hiệu lực, bởi vì giờ đây Gautama đặc biệt đến độ không ai còn có thể noi gương và sánh bước được với thày. Hoặc là con phải sinh ra sẵn như vậy, hoặc con không thể hy vọng đạt được cùng tâm thức như Gautama.

Thế là do muốn đạo Phật cao trọng hơn đạo Ấn – thậm chí là tôn giáo tối hậu – Gautama nhất định phải là đấng giác ngộ tối thượng, nhất định phải hoàn toàn giác ngộ. Cho nên khi chính Gautama nói rằng có một người đến sau sẽ giác ngộ hơn mình, tâm đường thẳng không thể nào chấp nhận lời tuyên bố đó, vì nó chỉ biết nhìn vào giác ngộ duy một cách mà thôi. Trong cách nhìn này, nếu đức Phật là vị thày tâm linh tối thượng thì bắt buộc thày đã phải đạt mức tâm thức cao nhất. Nhưng sự thật, tất nhiên, là trong cách giải thích giản dị nhất, giác ngộ có nghĩa là một người đã đạt đến mức tâm thức cao nhất có thể có trên địa cầu, và ở trên mức này hiển nhiên là cõi thăng thiên.

Nơi cõi thăng thiên có một chuỗi rất dài, trải ra từ các hành tinh liên hệ với bầu cõi chưa thăng thiên hiện nay, cho đến những bầu cõi cao hơn từng có trước đây mà chúng tôi đã có nói đến. Cho nên có rất, rất, rất, rất nhiều, thật ra là có vô số sinh thể trong cõi thăng thiên với tâm thức cao hơn nhiều và do đó cao hơn hẳn mức giác ngộ mà Gautama đã chứng đạt trong kiếp chót của thày – hay mức chứng đạt của Giê-su trong kiếp chót của Giê-su. Chuỗi này trải mãi lên tới tận mức tâm thức viên mãn của Đấng Sáng tạo, và cao hơn nữa, tâm thức vẫn còn có khả năng thăng vượt lên. Và như thế, ngay từ buổi đầu của huyền thoại về sự xuất hiện của PadmaSambhava, đã có một sự hiểu lầm len lỏi vào cách diễn giải.

Vậy đâu là sự thật? Sự thật là mọi thứ đều có một khía cạnh Alpha và một khía cạnh Omega. Khía cạnh Omega mà các chân sư có thể thực hiện từ cõi tâm linh là qua trung gian một sự hiện thân trong kiếp đầu thai. Sau khi đã đạt tới một mức tâm thức cao trong tiền kiếp, một người có thể đầu thai, và trong kiếp đầu thai chót, người đó chứng ngộ mức tâm thức cao nhất có thể được chứng ngộ trên địa cầu, hay ít ra một mức tâm thức vô cùng cao, và sau đó thì người đó thăng thiên. Đây là khía cạnh Omega, và đúng thật có một sự đầu thai vật lý.

Khía cạnh Alpha có nghĩa là trong một số hoàn cảnh, một số điều kiện, một chân sư thăng thiên có thể được phép hiện ra trước mặt loài người đang đầu thai. Đây không phải là đầu thai. PadmaSambhava là một sự xuất hiện chứ không đầu thai. Ta đã không đầu thai trong một thân xác vật lý. Ta đã không khoác vào một cơ thể vật lý (như một số chân sư thăng thiên đã làm trong một số dịp hiếm hoi). Sự xuất hiện của ta hoàn toàn tâm linh – nghĩa là sao? Nghĩa là không thể nhìn thấy bằng mắt thịt. Hầu hết những ai đã từng tiếp xúc với ngoại hình của ta sẽ không thể nhìn thấy ta. Có thể có hai người đứng ngay cạnh nhau, nhưng một người sẽ không thấy điều gì lạ trong khi người kia sẽ thấy được – hay đúng hơn, chiêm nghiệm được – sự xuất hiện của PadmaSambhava.

Mục đích là để làm gì? Để trưng bày sự tiến bộ tâm linh xảy ra như thế nào trên địa cầu. Tiến bộ xảy ra qua sự hiện thân vật lý, qua trung gian tiến trình mà ngày nay gọi là sự tiết lộ tuần tự, hay tiết lộ liên tục. Nếu con xem kỹ những gì Phật đã nói, thì Phật nhìn nhận sự cần thiết của một tiến trình truyền pháp tuần tự và liên tục. Thày đã đến để đem lại một giáo lý, một chân lý nhất định, nhưng sẽ có một vị thày cao hơn đến sau, một chân sư thăng thiên sẽ đến để đem lại một chân lý cao hơn cả những gì mà Gautama đã được phép đưa ra trong hoàn cảnh tâm thức tập thể thời đó. Sự truyền pháp đã luôn luôn xảy ra như vậy.

Cho nên, sự thật ở đây là ta là PadmaSambhava, ta đã từng là và hiện đang là một chân sư thăng thiên. Sự kiện ta đã thăng thiên ở đâu và vào thời nào không liên quan gì đến cuộc thảo luận hôm nay, nhưng nó đã xảy ra cách đây rất lâu nơi một thiên hà xa, rất xa. Và ta đã xuất hiện trên địa cầu như một sinh thể thăng thiên, một chân sư thăng thiên. Thời đó chưa dùng cách gọi này nhưng đó là điều đã xảy ra.

Nhu cầu đổi mới mọi lãnh vực xã hội

Khái niệm mà ta đã đến để truyền giảng là sự kiện có một số giáo lý bí truyền (terma) chỉ có thể được khám phá bởi những đệ tử đã tự dọn mình để mà tìm thấy (tertons). Thời nay, người ta sẽ diễn tả như sau: Có những giáo lý được tiết lộ từ cõi thăng thiên nhưng chưa đi xuống cõi vật lý, không được viết ra thành chữ, không được thốt ra thành lời bởi một vị sứ giả đang đầu thai. Những giáo lý này tuyệt đối chỉ hiện hữu nơi cõi bản sắc, và chỉ những ai đã nâng tâm thức mình lên tới mức đó và đã hòa điệu trực tiếp thì mới có thể nắm bắt mà thôi.

Vậy có một vị thày giác ngộ xuất hiện trong một hình dạng vật lý, giảng dạy một số giáo lý. Mục tiêu của giáo lý này có hai khía cạnh. Trước hết như trong trường hợp của Giê-su giảng dạy cho số đông qua ngụ ngôn, một số giáo lý được đưa ra cho quần chúng rộng lớn chưa sẵn sàng nhận giáo lý cao hơn, để cho họ một cái gì đó mà nhắm hướng, để họ sử dụng hầu nâng cao tâm thức nếu họ muốn. Nhưng song song còn có một giáo lý cao hơn, như Giê-su đã giải thích mọi điều cho môn đồ khi thày gặp riêng, và cũng vậy, Gautama đã giải thích mọi điều cho đệ tử của thày khi thày ngồi riêng với họ và chỉ có mặt những người sẵn sàng tiếp nhận giáo lý cao hơn. 

Nhưng xa hơn, cả Giê-su lẫn Gautama đều công nhận là sẽ có những vị thày khác cao hơn, như Giê-su có nói, “Ta sẽ cầu nguyện Cha để ngài gửi xuống một vị An ủi khác,” vân vân. Cho nên tiến trình tiết lộ tuần tự và liên tục này đã luôn luôn hiện hữu cho những ai có khả năng và sẵn lòng nâng cao tâm thức mình để nắm bắt lấy.

Đâu là kết quả mà chúng tôi muốn nhìn thấy qua sự tiết lộ mà chúng tôi đã trao truyền qua sứ giả này? Phải, chúng tôi muốn thấy ít nhất có những đệ tử sẽ lấy các giáo lý vỏ ngoài được ban truyền, rồi vượt xa hơn để nắm bắt những gì chúng tôi trao trực tiếp từ cõi thăng thiên hầu họ không cần đến trung gian của một sứ giả nữa.

Có thể nói đây là một cơ hội có một không hai, vì trong suốt bao nhiêu thời đại, đa số sứ giả đã bám mắc vào địa vị của mình, bám mắc vào giáo lý vỏ ngoài mà họ truyền đạt và muốn nó có vẻ như cao nhất. Nhưng vì sứ giả này đã thăng vượt nhu cầu đó, cho nên chúng tôi có thể nói công khai và rõ ràng rằng hiển nhiên, mục đích của chúng tôi là mọi đệ tử sẽ không phải lệ thuộc vào sứ giả này trong cõi vật lý khi họ muốn tiếp xúc với chúng tôi, các chân sư thăng thiên. Chúng tôi mong muốn đệ tử, càng nhiều càng tốt, có thể liên lạc trực tiếp với chúng tôi.

Điều này không có nghĩa là tất cả các con sẽ bắt đầu nhận bài truyền đọc hay đưa ra giáo lý cạnh tranh với sứ giả này, vì như vậy sẽ chỉ gây lộn xộn, mà nó có nghĩa là rất nhiều người trong số các con có tiềm năng nhận được trực tiếp điều gì đó từ chúng tôi, mà con có thể sử dụng để khai sáng một lãnh vực đặc thù nơi con có kinh nghiệm và hiểu biết chuyên môn. Chẳng hạn, điều này áp dụng cho mọi tôn giáo, vì mọi tôn giáo đang đều có nhu cầu đổi mới to lớn. Nếu con lấy Phật giáo, con sẽ thấy đạo Phật nói chung đã đi qua cùng một tiến trình giống như đạo Ấn, nghĩa là đã trở nên mê mải, cuốn hút vào trong những dạng vỏ ngoài của giáo lý. Hiển nhiên, đây không bao giờ là ý định. Sự tập trung vào hình tướng vỏ ngoài không phải là mục đích của giáo lý – sự thăng vượt hình tướng vỏ ngoài mới là mục đích của giáo lý. 

Và như vậy, một số các con đã kinh nghiệm đạo Phật cùng một số dạng của đạo Phật, như Thiền tông và một số nữa, và các con có tiềm năng đem lại sự đổi mới. Giáo lý mà sứ giả này trao cho con có thể giúp con mở tâm ra, nhưng một số các con có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết về Phật giáo hơn sứ giả này rất nhiều. Cho nên con có khả năng bày tỏ, có khả năng tiếp nhận từ chúng tôi những tư tưởng cùng lời dạy mà sứ giả này không thể nhận được trừ khi ông bỏ ra rất nhiều thời gian để tìm hiểu, và điều này thì chúng tôi không thật sự muốn ông làm. Tất nhiên, vấn đề cũng tương tự như vậy đối với đạo Cơ đốc, đạo Ấn, đạo Hồi, hay nhiều lãnh vực khác trong xã hội.

Hiển nhiên cũng phải nói tới khoa học, nơi nhu cầu đổi mới cũng rất lớn, và một số các con đã được đào tạo làm nhà khoa học. Các con có tiềm năng nhận được từ chúng tôi. Điều này không có nghĩa là giờ đây con sẽ đứng ra nói: “Tôi là một nhà vật lý nhưng tôi tin vào chân sư thăng thiên.” Không, con chỉ cần đưa ra các ý tưởng đó như thể là ý tưởng của con, đến từ cảm hứng của con. Bởi vì điều quan trọng là phải đưa ra được ý tưởng. Điều này cũng sẽ nhẹ nhõm hơn cho hầu hết các con, vì hiện nay có một sự chống đối, kháng cự, đối với ý tưởng chân sư thăng thiên cũng như việc làm sứ giả cho chân sư, như vị sứ giả này đã phải đối phó ngay từ buổi đầu. Và cũng sẽ dễ dàng hơn cho con vì con không phải nói rõ ý tưởng đến từ đâu – con chỉ việc trình bày và để yên cho ý tưởng làm công việc của ý tưởng. Cho nên quả thực là trong mọi lãnh vực của xã hội, giáo dục, chữa bệnh, văn hóa, triết lý, bất cứ khía cạnh nào của xã hội cũng đều mang tiềm năng đó.

Cách đây rất lâu, ta đã đưa ra khái niệm về một số người làm thợ săn châu báu. Họ đi tìm những kho báu ẩn tàng này. Nhiều người trong đạo Phật đã diễn giải là những kho báu trong cõi vật lý mà người ta có thể phát hiện ra, hay thậm chí là một quyển kinh cụ thể được khám phá trong một hang động bí mật trên núi Himalaya và bỗng nhiên mở ra trước mặt họ. Kho báu hoàn toàn không có nghĩa là vậy. Đó là một lời dạy, một lời dạy được nhận thẳng từ cõi thăng thiên, thường không nói thành lời nhưng đôi khi cũng được nói thành lời. Đây là vai trò mà chúng tôi muốn nhìn thấy nơi đệ tử của chúng tôi, càng nhiều càng tốt.

Sẽ không có nghĩa là con cần phải tách ra khỏi sứ giả này, coi thường sứ giả này, tấn công ông, chứng minh là ông sai, hay này kia nọ. Mà sẽ chỉ có nghĩa là con nhận ra ở đây có một tiềm năng để con bước vào bên trong, sử dụng giáo lý vỏ ngoài để thiết lập sự kết nối nội tâm và nhận được một điều gì đó từ chúng tôi.

Vậy chính xác có nghĩa là gì? Chúng tôi chẳng đã có sáng kiến như vậy trong các đợt truyền pháp trước hay sao? Tất nhiên là có. Nhưng tiếc thay, nhiều người trong các đợt trước đã diễn giải điều này theo một cách riêng. Họ diễn giải là họ đã sẵn sàng tiếp nhận những ý tưởng đó, và mỗi khi họ nghe về một ý tưởng thì chắc hẳn là vì họ đã sẵn sàng tiếp nhận ý tưởng này. Cho nên họ cho rằng họ chỉ cần đọc bài chú, hay học hỏi bài truyền đọc, hay nghe bài truyền đọc rồi hoà điệu với chân sư thì họ sẽ nhận được ý tưởng.

Nhưng con yêu dấu có thấy không, làm thế nào sứ giả này đã trở thành được sứ giả? Điều này ít khi nào con nghĩ tới, và ngay cả vị sứ giả này cũng ít khi nào nhận ra. Đâu là những xung lực đầu tiên mà ông đã nhận được từ các chân sư thăng thiên? Đó không phải là điều tiết lộ gì, hay sáng ngộ gì, hay giáo lý gì cao siêu lắm đâu. Đó là những sáng ngộ về tâm lý của chính ông cùng những điều mà ông cần giải quyết trong tâm lý của ông. Giai đoạn này đã kéo dài hơn 15 năm trước khi ông sẵn sàng bước vào khóa huấn luyện trực tiếp với Giê-su và trở thành người sứ giả mà ông đã trở thành, và tất nhiên ngày nay ông đã vượt xa hơn nữa.

Buông bỏ cái cũ

Vậy thì đâu là tiết lộ đầu tiên mà con sẽ nhận được từ cõi thăng thiên? Đó sẽ là một số gợi ý, hướng dẫn, cảm giác, khải tượng, ấn tượng về những điều mà con cần chữa lành trong chính tâm lý của con. Đó là khoá huấn luyện. Đó là điều mà mọi người phải kinh qua. Con có nghe rõ không – ta nói, mọi người. Không ai được miễn. Nếu con nghĩ là con được miễn thì con đang tự lừa dối con và con sẽ đi vào ngõ cụt, và rất có thể con sẽ tiếp xúc với những kẻ mạo danh trong hàng ngũ tà đạo, là những kẻ sẽ mừng rỡ khen con là tuyệt vời xuất chúng, với dụng ý giữ con trong ngõ cụt đó cho tới cuối kiếp đầu thai này của con.

Tất cả các con sẽ phải kinh qua giai đoạn này. Rất nhiều các con đã khởi sự tiến trình này rồi, đã nhận được nhiều ấn tượng từ chúng tôi và đã sử dụng một cách xây dựng để nâng cao tâm thức. Ta không nói là ngay bây giờ, mọi người đều phải khởi đầu từ mức thấp nhất, nhưng tất cả các con đều phải sẵn lòng nhìn vào một điều gì đó trong tâm lý của mình. Nếu con không sẵn lòng làm chuyện này, thì đúng vậy, con đang chặn nghẽn cánh cửa tâm con. Cánh cửa tâm con chưa mở ra.

Chúng tôi muốn nói gì qua câu “cánh cửa tâm con”? Hiển nhiên, cánh cửa tâm con có thể bị chặn lại ở tầng bản sắc, tầng lý trí, tầng tình cảm, hay ở tầng vật lý, tức là cái mà chúng tôi gọi là tâm ý thức. Cuối cùng hết, để con có thể chuyển dời tâm thức, con cần có một sáng ngộ ý thức. Con cần quyết định là con sẵn lòng buông bỏ những cái cũ và ôm lấy một hiểu biết cao hơn, một viễn kiến cao hơn, một nhận thức cao hơn. Con cần sẵn lòng buông bỏ cái cũ. Con có nghe ta nói không, con yêu dấu? Con cần sẵn lòng buông bỏ cái cũ.

Đây là hạn chế lớn nhất mà các chân sư phải đối mặt – là khi đệ tử không chịu buông bỏ cái cũ. Con người hay bám mắc vào quá nhiều thứ và không chịu buông nó ra. Chúng tôi đều sẵn sàng, đều sẵn lòng trao cho con sáng ngộ cao hơn đó. Con đã chuẩn bị bản thân, và trong bản sắc thể, trí thể và cảm thể của con đã có một khoảng trống. Nhưng ở mức tâm ý thức, tâm vỏ ngoài của con vẫn còn bám mắc vào một cái gì đó mà con không muốn buông ra, cho nên con không thể neo trụ một cách ý thức điều sáng ngộ mà chúng tôi trao cho con. Một ví dụ: quan điểm kiên cố, cứng nhắc.

Suốt trong năm qua, một số các con đã bày tỏ những quan điểm thật cứng nhắc về dịch COVID, chích ngừa, đeo khẩu trang. Một số đã bày tỏ những quan điểm cứng nhắc về cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ và một vị tổng thống nào đó. Ta không ở đây để tranh luận với con về những quan điểm đó. Ta chỉ đơn giản chỉ ra cho con là bất cứ khi nào con có ý kiến cứng nhắc, thì con không đang sẵn lòng nhìn xa hơn, con không sẵn lòng tra vấn, con không sẵn lòng chấp nhận là có thể có một cái nhìn cao hơn.

Bất cứ khi nào con như vậy thì con đang chặn nghẽn dòng chảy. Con không phải là một người đi tìm, một terton, con không là một kẻ săn kho báu vì con nghĩ con đã có kho báu rồi, tức là quan điểm của con. Đó là kho báu của con. Con cảm thấy “chuyện này đúng tuyệt đối, chuyện này vô cùng quan trọng đối với tôi”. Đây là khó báu của con và con ôm chặt lấy nó. Con nắm chặt ý tưởng trong tay, như nhà Thiền tông sẽ nói. Dù cho kho báu của con là gì, con yêu dấu, thì chúng tôi cũng sẽ chấp nhận quyền tự quyết của con, cũng như quyền con nắm giữ nó cho tới khi con còn cần trải nghiệm này.

Ta không đang bảo con phải làm gì hay không làm gì. Ta chỉ đơn giản chỉ ra là con không thể ăn hết cái bánh mà vẫn còn nguyên cái bánh. Con không thể cầm giữ bất cứ gì trên địa cầu mà nhận được tư tưởng cao hơn từ cõi thăng thiên. Chuyện đó . không . thể . xảy . ra.

Có lẽ một số các con đã chán nghe mấy chuyện này lắm rồi. Có lẽ con nghĩ chúng tôi đã lặp đi lặp lại chuyện này nhiều lần suốt hai năm qua.

Đó là vì chúng ta đang ở một thời điểm nhất định là có nhiều đệ tử đã sẵn sàng vượt trên mức những giáo lý được ban truyền cho tới giờ, nhưng chúng ta vẫn chưa đạt được đủ túc số những đệ tử đó. Do đó chúng tôi không thể nâng lên một cấp và ban truyền một trình độ giáo lý cao hơn. Sứ giả này có khả năng và cũng sẵn lòng làm chuyện đó. Nhưng chúng ta cần đến khía cạnh Omega, tức là có đủ túc số những đệ tử sẵn sàng nhìn xa hơn những ý tưởng cũ, chứ không cầm giữ, nắm chặt ý tưởng cũ.

Nhiều người trong số các con hiểu khá rõ các chân sư thăng thiên là ai, dạy những gì, vũ trụ vận hành làm sao. Con hiểu tất cả tiến trình tạo dựng các bầu cõi trước, các sa nhân cùng tất cả những vấn đề đó. Nhưng chúng tôi có nhiều điều hơn nữa để ban truyền cho con. Vậy câu hỏi là như sau, đến bao giờ sẽ có đủ số đệ tử mong muốn nhiều hơn hầu chúng tôi có thể trao cho họ? Một lần nữa, chúng tôi không bảo con phải làm gì hay không làm gì. Chúng tôi chỉ đơn giản nói rõ tình hình cho con thấy.

Nhưng song song chúng tôi cũng nói, nếu trong số các con có ai đã mở tâm ra những lời dạy cao hơn thì hãy đừng chờ đợi người khác. Hãy đi thẳng vào bên trong và chụp lấy lời dạy đó. Những gì chúng tôi có thể đem vào hình dạng vật lý qua sứ giả này chỉ giới hạn, nhưng những điều mà mỗi đệ tử có thể nhận được trong nội tâm thì vô hạn. Giới hạn duy nhất là sự rộng mở của tâm con.

Và như vậy, thực tế tình hình trên trái đất là tuyệt đại đa số con người đang đầu thai đều mang trong tâm mình một số ý tưởng gọi là “cấm kỵ”, tức là những điều mà họ cầm giữ, bám chặt và không thể nào buông bỏ. Đây là điều đang ngăn chặn tâm thức dời chuyển vào thời hoàng kim. Như Phật Gautama đã giải thích thật kỹ lưỡng nhân dịp cuộc hội thảo trên web về ý thức hệ, có quá nhiều người bị vướng mắc vào những loại ý thức hệ không phải là ý thức hệ truyền thống mà là những ý tưởng mà họ tin là không thể tra vấn. Và như Quan Âm đã bày tỏ trong bài giảng tuyệt vời của thày, có quá nhiều sự hiểu lầm, giới hạn, rào cản trong tâm con người về vật chất, về bản chất của vật chất vật lý, và về những gì có thể được thay đổi hay không thể thay đổi.

Hãy để ta nói cho con cái gì có thể được thay đổi hay không thể thay đổi. Tất cả mọi thứ đều có thể được thay đổi. Tất cả . đều . có thể . được . thay đổi. Không có gì là không thể thay đổi. Bởi vì nếu con nâng vật chất lên cho bớt dày đặc đi, thì những chuyện bây giờ tưởng chừng là bất khả thi sẽ tức khắc trở thành khả thi. Tại sao con nghĩ dưới lòng đất có nhiều nguồn tài nguyên hơn là đã từng được khám phá cho tới giờ? Phải, con có thể nói là vì loài người giờ đây có công nghệ để khám phá tài nguyên, như các loại cảm biến và radar xuyên đất hay cái này cái nọ. Nhưng câu hỏi thực sự là: tại sao loài người lại có công nghệ như vậy ngày nay mà không có cách đây 50 năm về trước? Là vì tâm thức tập thể đã nâng lên, và khi tâm thức tập thể nâng lên thì kết quả là vật chất bớt dày đặc đi.

Điều này có nghĩa là công nghệ hiện hành đang có mặt, trong khi 50 năm trước đây, công nghệ đó đã không thể có mặt vì vật chất dày đặc hơn và các tia sáng đó không thể đâm xuyên qua vật chất vào thời điểm đó. Những ý tưởng như thế này thật là quá nhiều, quá vi tế và mang những hệ quả sâu rộng đến độ chúng tôi biết hầu hết mọi người sẽ bị choáng ngợp. Đối với các đệ tử như các con, chắc các con cũng bị choáng ngợp. Nhưng một lần nữa, con không cần hiểu biết tất cả mọi thứ về mọi lãnh vực trong xã hội. Bao nhiêu lần chúng tôi đã nói điều gì? Con hãy chọn lấy một lãnh vực mà con thực sự ưa thích trong tim con, hãy tập trung vào đó và học hỏi để trở thành một nhà chuyên môn.

Con không nhất thiết cần phải (cho dù ta không nói là con không nên) đi học đại học và lấy bằng tiến sĩ trong ngành đó. Nhưng con hãy trở thành một nhà chuyên môn để con hiểu biết, tài giỏi hơn một người trung bình trong lãnh vực này. Và như vậy, con sẽ ăn nói với sáng ngộ sâu sắc hơn và khiến cho mọi người phải suy ngẫm. Con yêu dấu, đây không phải là chuyện đi thuyết phục hay cải đạo người khác, mà là khiến cho họ suy ngẫm.

Nếu con chưa biết rồi thì con nên tìm hiểu các cuộc đối thoại của Socrates, tìm hiểu cái gọi là phương pháp Socrates. Socrates không hề có mục đích thuyết phục một ai tin vào một triết lý, một tôn giáo hay một lý thuyết nào đó. Ông chỉ muốn khiến người ta suy ngẫm xa hơn tư tưởng mà mình hiện có. Cho nên ông không bảo họ phải nghĩ làm sao, mà ông tra vấn các niềm tin và tư tưởng hiện thời, chỉ ra những điểm mâu thuẫn, thiếu sót, không nhất quán, và như vậy ông khiến cho một số người phải suy ngẫm. Cũng có những người đã nổi giận, muốn bác bỏ ông và rốt cuộc kết án ông tử hình, nhưng chuyện này khó lòng xảy ra cho con trong thế giới ngày nay. Cho nên con hãy hăng hái lên, hãy sẵn sàng đặt lại vấn đề, và bằng lòng khiến người ta tra vấn quan điểm.

Con yêu dấu, đối với người tâm linh thì điều tối quan trọng là con cần từ bỏ tâm thức cho rằng mọi nỗ lực của con phải đạt được kết quả vật lý có thể đo lường được. Trong các cõi vật lý, tình cảm, lý trí và bản sắc thấp, có một tâm thức vô cùng mạnh mẽ do sa nhân tạo ra cho rằng trừ khi con đạt kết quả có thể thấy và đo được thì nỗ lực của con đã thất bại. Nhưng chúng tôi đã nhắc đi nhắc lại điều gì? Rằng yếu tố thực sự quyết định sự tiến bộ của địa cầu là việc nâng cao tâm thức tập thể. Dù con có làm gì, như tự giáo dục, mở tâm ra một ý tưởng mới mẻ hay học hỏi một bộ môn mới, thì con cũng đang nâng cao tâm thức của con, và như vậy con đang nâng cao cả tổng thể. 

Thật là con đã có tác động rồi đó. Đọc bài chú và bài thỉnh có một tác động, nhưng có thể con không thấy được kết quả trực tiếp trong cõi vật lý. Chúng tôi thừa hiểu là con đã lớn lên trong một nền văn hóa, đặc biệt là những ai đã lớn lên tại phương Tây, cho rằng trong nhân và quả, con phải có khả năng tách riêng ra một kết quả duy nhất và một nguyên nhân duy nhất. Nhưng trong những năm qua, chúng tôi đã dạy con về lý nhân duyên, qua đó tất cả mọi thứ đều được nối kết trong mạng lưới cực kỳ phức tạp của sự sống. Trong thế gian liên kết chặt chẽ này, con không thể chỉ ra một nguyên nhân tách biệt cũng như một hệ quả tách biệt. Điều này không có thật, điều này là hư cấu. Nó cũng hư cấu y như bảo rằng PadmaSambhava hay Gautama là những đấng cực kỳ đặc biệt. Đó là một huyền thoại khoa học thay vì là một huyền thoại tôn giáo, nhưng vẫn hư cấu y như vậy.

Không hề có nguyên nhân nào tách biệt, không hề có hệ quả nào tách biệt. Điều mà con có thể làm được là nói: “Đâu là kết quả trên tâm thức của tôi? Liệu tôi có thấy được việc học hỏi và thực hành giáo lý cũng như việc sử dụng các dụng cụ tâm linh, đã có nâng cao tâm thức của tôi hay không?” Đấy, con có một kết quả mà con có thể đo lường được, và đó là kết quả duy nhất mà con cần đến. Nhưng tất nhiên, con cần biết là khi con nâng cao tâm thức của con thì con cũng nâng cao tâm thức của người khác. Con có thể thấy được là khi con nói chuyện với người khác, có lẽ con đã giúp, đã tạo cảm hứng cho họ. Nhưng một lần nữa, đừng bị bận tâm khi con nói chuyện với họ là con phải cải đạo họ để họ tin vào các chân sư, hay tin vào mọi điều con tin về các chân sư, hay họ phải bắt đầu đọc bài chú, phải làm cái này hay cái nọ.

Ta không bảo con làm điều đó. Ta chỉ bảo con hãy trở thành vị đại sứ cho ý tưởng, để con quảng bá ý tưởng. Nếu có ai đó muốn biết ý tưởng đó từ đâu đến thì tất nhiên, con có thể nói cho họ biết, tuy nhiên mục đích của con không phải là đi quảng bá chân sư thăng thiên hay giáo lý của chân sư thăng thiên, quảng bá vị sứ giả này hay quyển sách nọ. Sứ giả này hoàn toàn bằng lòng sống hết kiếp này càng ẩn danh càng tốt với tương đối ít người biết đến mình. Cá nhân ông không cần mấy chuyện đó, và chính con cũng không cần đến chuyện đó khi con bỏ được những cái ngã tách biệt khiến con nghĩ là con cần.

Thế nào là không dính mắc

Giản dị là con chỉ cần ở nơi đây, nâng cao tâm thức, và đóng góp bằng cách tốt nhất mà con có thể. Nhưng con yêu dấu, câu sau đây chính là phương châm cho tất cả các chân sư thăng thiên mặc dù chúng tôi thật chẳng cần đến phương châm nào: “Khi món quà đã trao thì công việc đã hoàn thành.” Vấn đề không nằm ở chỗ món quà có được người ta nhận lấy hay không, vì đó không phải là trách nhiệm của con. Bởi vì định luật tối hậu của vũ trụ này là gì? Là quyền tự quyết. Con thật không muốn tạo nghiệp khi con cố kiểm soát cách người khác phản ứng lại món quà mà con trao cho họ. Con cần để họ tự do, để yên cho họ là như họ là. Con hãy bằng lòng là con đã gieo hạt giống, có thể một ngày nào đó nó sẽ mọc thành cây, nhưng đó không phải là trách nhiệm của con. Đó là trách nhiệm của người kia, là quyền tự quyết của họ. Con chỉ nên quan tâm tới một chuyện mà thôi, là trao món quà, làm cánh cửa mở.

Chuyện gì xảy ra không thành vấn đề. Con là cánh cửa mở, có nghĩa là ánh sáng và tư tưởng tuôn chảy qua tâm thức con đi vào hệ thống năng lượng của địa cầu. Một khi nó đã rời khỏi cánh cửa của con, trách nhiệm của con đã xong. Không có vấn đề phải đạt được một kết quả nào đó, hay nhận được một điều gì trở ngược về con. Nhiều người đã quá quen sống với một số tin tưởng ẩn náu không bao giờ được chất vấn, và họ muốn nhận được sự phản ứng khi mình làm bất cứ điều gì.

Như chúng tôi đã có nói, nếu con không nhìn thấy hậu quả của chọn lựa của con thì làm sao con biết được con đã có chọn lựa đó? Nhưng đó chỉ là vấn đề khi con còn ở một mức tâm thức thấp hơn, khi con chưa bắt đầu thể hiện quả vị Ki-tô. Bởi vì khi con thể hiện quả vị Ki-tô, con sẽ hoàn toàn bằng lòng một khi con đã cho ra, và khi con đã trao món quà thì con không còn quan tâm gì nữa đến kết quả. Phần nào, quả vị Ki-tô nghĩa là như vậy.

Thế nhưng chúng tôi đã chứng kiến nhiều đệ tử đã bám mắc vào kết quả suốt hàng mấy chục năm trời. Hiện có một số đệ tử từ những đợt truyền pháp trước vẫn còn mơ mộng về ngày mà giáo lý cùng vị sứ giả của họ sẽ được công nhận là khuôn mặt tâm linh nổi bật nhất của Thời đại Bảo bình. Còn họ thì sẽ được công nhận là những môn đồ cao trọng nhất, y như tông đồ của Giê-su vậy. Chính họ mới là những người đã đột phá, đã giải cứu hành tinh này cho Saint Germain, và còn bao nhiêu giấc mơ khác nữa. Nhưng khi nào con nghĩ như vậy thì con sẽ còn bị kẹt lại ở một mức tâm thức nhất định – vì con mong muốn phản hồi từ địa cầu.

Chúng tôi đã nói gì? Con phải vượt qua các bám mắc của mình. Con cần đạt đến một điểm khi ông hoàng của thế gian này và ma quỷ của Mara không còn nắm được gì nơi con khi chúng cố cám dỗ con vào phản ứng. Vậy thì đâu là phản ứng cơ bản nhất của con? Đó là khi con muốn một phản ứng từ thế gian, từ cõi vật lý, từ người khác. Cho tới khi nào con còn vướng mắc đó, ma quỷ của Mara sẽ vẫn nắm được con. Vì thật là quá dễ khuynh loát người ta để họ chối bỏ con. Nhưng cho dù con có thể khiến cho mọi người ủng hộ một quan điểm cứng nhắc của con thì ngay cả chuyện này cũng sẽ đánh bẫy con. Cho nên cho dù con có được ủng hộ hay bị bác bỏ thì con vẫn sẽ bị mắc kẹt trong trò chơi phản hồi. Con muốn một sự phản hồi.

Hành động và phản ứng. Con làm một hành động và con chờ đợi một phản ứng từ vũ trụ. Chuyện đó tự nhiên thôi, chúng tôi hiểu. Chúng tôi đã nói gì bao nhiêu lần rồi? Và con có thể nói, ta đang mâu thuẫn với những gì các chân sư vẫn nói, rằng vũ trụ là một tấm gương, rằng bất kỳ điều gì con gửi ra sẽ được phản chiếu ngược về cho con. Phải, con yêu dấu, điều đó hoàn toàn đúng ở một mức tâm thức nào đó. Nhưng khi con đạt tới những mức tâm thức cao hơn, những mức cao hơn của quả vị Ki-tô và quả vị Phật, và con vượt qua mọi bám mắc, con sẽ hoàn toàn thản nhiên cho dù có phản hồi hay không phản hồi. Con không quan tâm đến phản ứng. Con không đang tìm một sự xác nhận của ai đó hay đạt được một kết quả nào đó. Đây là không vướng mắc.

Đồng ý, thật là quá dễ cho ta nói ra những lời này vì ta không còn đầu thai trên địa cầu. Nhưng ta đã từng đầu thai trong cõi vật lý ở những hành tinh khác, và ta biết rõ dính mắc dễ xảy ra đến chừng nào. Dù sao thì chuyện dễ dính mắc cũng không thay đổi được thực tế cơ bản. Con chỉ có thể giải thoát khỏi vật một khi con giải thoát khỏi sự dính mắc vào vật. Không có cách nào khác. Chưa từng có và sẽ không bao giờ có cách nào khác.

Nếu con thấy mình có những quan điểm kiên cố, cứng nhắc về bất cứ điều gì, con hãy xét xem tại sao con lại có quan điểm cứng nhắc và tin tưởng kiên cố như vậy. Tại sao đề tài đó lại quan trọng với con đến vậy? Tìm hiểu xem con đang cố tạo ra phản ứng gì từ thế gian trên đề tài này. Con có đang tìm sự xác nhận, sự chứng thực từ ai đó? Con có đang cố khiến người ta đồng ý với con, yêu mến con, xem con là thông minh, thông minh hơn họ, hay cái gì khác? Những ngã tách biệt của con sẽ được hưởng lợi gì khi con dính mắc vào chuyện trên địa cầu? Luôn luôn có một cái ngã được hưởng lợi lạc. Con cần phải tỉnh giác về điểm này và tự hỏi: “Có phải đây thật sự là lợi lạc mà tôi muốn để nó tiếp tục khống chế đời tôi, hay là tôi chỉ đơn giản muốn ngã này chết đi?”

Làm thế nào con trở thành một cánh cửa mở? Đúng vậy, cửa của con phải mở ra, tâm con phải mở ra. Đâu là tinh túy giáo lý của Phật? Là làm thế nào giữ cho tâm mình mở rộng. Đâu là tinh túy giáo lý của Giê-su? Là làm thế nào giữ tâm mình mở rộng cho dòng chảy của tánh linh. “Chuyện kia liên hệ gì đến con? Con hãy theo ta.” Không có cách nào khác, thật là quá giản dị. Quá cơ bản nhưng lại quá khó nắm bắt đối với biết bao người tâm linh, quá khó khăn. Con nhìn vào thế gian, nhìn vào lịch sử của người tâm linh trên hành tinh này, và con thấy khó khăn làm sao để người ta hiểu được đúng một điều này thôi, đúng một yếu tố này trên đường đạo.

Tinh túy của tăng trưởng tâm linh

Con hãy nhìn vào thời kỳ của đức Phật dưới sự thống trị của đạo Ấn. Đạo Ấn đã trở thành gì? Ấn giáo đã khởi sự với một số kinh sách, một số truyền thống được truyền miệng, và bình thường kinh Veda là một sự tiết lộ trực tiếp. Nhưng lần hồi nó bị trộn lẫn với nhiều thứ khác. Lần hồi nó trở thành một cấu trúc tạo dựng ngày càng phức tạp hơn. Thế là bỗng nhiên hiện ra những lý thuyết mâu thuẫn lẫn nhau, và các nhà Bà la môn bắt đầu cãi nhau về điều này điều nọ – như cõi tâm linh ra làm sao, cách này là thực hay cách kia mới là thực, và như vậy đủ kiểu tranh luận trí thức, học thuật, khởi lên.

Đức Phật nhìn thấy vậy mới nói: “Với tất cả những quan điểm khác nhau như thế này thì làm thế nào giải quyết được đây? Làm thế nào ta có thể đem lại một giáo lý giải quyết được toàn bộ vũng lầy này, toàn bộ tình trạng hỗn tạp này với đủ loại quan điểm, đủ loại phe phái đang tranh cãi và giao chiến với nhau?”

“Ta có thể làm được gì đây?” Gautama tự hỏi, “Ta có thể làm gì để thay đổi được tình thế chứ không chỉ lại tạo thêm một nguyên nhân chia rẽ, tranh luận và cãi vã?” Và như vậy, thày nhận được sự sáng ngộ – nhân tiện cũng xin nói, sáng ngộ này đến từ chính ta và các chân sư thăng thiên khác – rằng mình cần đem lại một giáo lý không nhằm giải quyết các tranh chấp trong đạo Ấn, mà tránh hẳn vấn đề cốt lõi, là “có chăng một Thượng đế và cõi tâm linh như thế nào?” Thay vào đó, thày nói: “Chúng ta hãy thực tế, chúng ta hãy tập trung vào những gì có khả năng thay đổi tâm thức con người, nâng cao tâm thức con người. Một khi chúng ta đã nâng cao tâm thức thì có lẽ chúng ta sẽ có khả năng nhìn xa hơn tất cả những mối chia rẽ đó.” Và đây là mục đích của Phật giáo trong dạng thuần khiết.

Nhưng tất nhiên khi con nhìn vào Phật giáo bây giờ thì con lại thấy một cấu trúc phức tạp đã được tạo dựng lên, và yếu tố nguyên thủy kia đã phần lớn bị quên lãng. Tuy nhiên, hẳn là nó có thể được tái khám phá bởi những ai quan tâm đến Phật giáo, là những người có cái nhìn sâu sắc lẫn kinh nghiệm, con có nghĩ vậy không?

Vậy thì con không thấy hay chăng một điều tương tự như vậy cũng xảy ra với giáo lý của các chân sư thăng thiên? “Ồ, đợt truyền pháp này mới là đợt chân chính nhất, sứ giả này mới là sứ giả cao nhất, không thể có một sứ giả nào khác và không thể có sứ giả nào sau sứ giả này.” Đủ thứ lập luận như thế, chia rẽ như thế. Chỉ có một cách để vượt lên trên mà thôi, đó là cá nhân mỗi người hãy hòa điệu vào cõi thăng thiên. Bởi vì chúng tôi vượt lên trên mọi vũng lầy nhân thế. Chỉ khi nào con tiếp xúc với chúng tôi thì con mới trải nghiệm được một cái gì không những vượt lên trên vũng lầy nhân thế mà cũng vượt lên trên ngoại tâm của con.

Ngoại tâm của con có thể bám mắc vào quan điểm một cách dữ dội. Nhưng đó chỉ là một quan điểm trên trái đất. Con chỉ có thể bám mắc vào nó khi nào con chưa trải nghiệm được một tâm thức cao hơn hẳn, nơi quan điểm đó chẳng có gì là hệ trọng giữa vô số quan điểm khác. Cho nên, điều duy nhất sẽ thay đổi tình thế của con là con cần có trải nghiệm đó. Con trải nghiệm được cái mà chúng tôi gọi là cái Ta Biết. Sự nhận biết thuần khiết không hề bị lôi kéo vào tất cả những sự chia rẽ, quan điểm và bám mắc đó. Đây là giải pháp duy nhất, sự tiến bộ duy nhất.

Chúng tôi mong muốn tất cả các con có được chứng nghiệm này. Một số các con đã có được rồi, và con biết chính xác ta đang nói về điều gì. Nhưng con cũng sẽ thấy là những ai đã có được chứng nghiệm đó sẽ không là kẻ đứng ra hô hào quan điểm cứng nhắc về bất cứ chuyện gì. Cho nên đối với những ai đang bám mắc vào quan điểm của mình, đang thèm khát được người ta chứng thực mình, các con cần xét xem mình muốn làm gì với phần còn lại của đời mình. Liệu con có sẵn lòng đưa đường tu của mình lên một mức cao hơn? Bởi vì chúng tôi đã giải thích cho con bằng đủ mọi cách là con hiện không đang ở mức cao đó. Vậy liệu con có chịu chuyển vọt hay không?

Chúng tôi đã truyền cho con bao nhiêu giáo lý và dụng cụ để giúp con làm điều đó. Nếu con làm được thì nó sẽ trao uy lực cho con. Hãy lắng nghe! Lắng nghe những lời dạy một lần nữa. Lắng nghe thực sự. Hãy mở tâm ra để lắng nghe và thôi tìm cách chứng minh một quan điểm có sẵn. Làm sao khác con có thể trở thành một cánh cửa mở đây? Nhiều người trong số các con mơ ước mình sẽ nhận được ý tưởng cao siêu sẽ đem lại danh vọng hay của cải cho mình. Nhưng làm sao con nhận được nếu tâm con không có một lỗ mở? Và làm sao tâm con có lỗ mở nếu con cứ bám mắc vào những thứ vỏ ngoài đó? Điều đó không thể xảy ra, con yêu dấu. Con đang cố làm chuyện bất khả thi. Con đang có một giấc mơ bất khả thành. Thế rồi con lại cho phép con nghĩ thế này: “Đáng lý tôi đã phải đạt được một số kết quả rồi chứ. Nếu giáo lý thực sự hiệu nghiệm thì tôi đã phải đạt được kết quả. Nhưng vì tôi không thấy kết quả nào, nhất định phải có điều gì không ổn với người sứ giả, không ổn với giáo lý, thậm chí cả chân sư thăng thiên cũng có thể không có thật”, vân vân và vân vân.    

Không phải là giáo lý không hiệu nghiệm, mà chính con đã không hiệu nghiệm khi sử dụng giáo lý. Con không đang áp dụng giáo lý.  Con không đang lắng nghe. Con giống như lời mô tả của Mẹ Mary: “nhìn mà không nhìn thấy, nghe mà không nghe thấy.” Nhưng không chỉ có con mà thôi. Hãy nhìn vào 99,9% loài người trên trái đất, họ đều nhìn mà không nhìn thấy, nghe mà không nghe thấy. Lấy tất cả các Phật tử đã theo học giáo lý này, và lấy một số Phật tử đã vô cùng nhiệt tình với PadmaSambhava trong tâm họ. Liệu họ có nghe được những gì ta đang cố nói với họ trong nội tâm của họ? Không, vì họ quá bám mắc vào hình tướng. Hình tướng vỏ ngoài. Hình tướng vỏ ngoài. Đừng chiều theo hình tướng vỏ ngoài. Nếu con là một terton, một người đi tìm kho báu, nếu con tìm kiếm các chân lý terma – con hãy đừng chạy theo hình tướng vỏ ngoài.

Con yêu dấu, nhiều khi con có thể tự hỏi tại sao chúng tôi cứ nhắc đi nhắc lại cùng một chuyện hoài. Con có thể tự hỏi liệu chúng tôi có kỳ vọng một kết quả nào khác hơn hầu hội đủ định nghĩa của Einstein về sự điên rồ. Nhưng kỳ thực, chúng tôi không mong đợi kết quả. Chúng tôi truyền rải một giáo lý từ một góc độ nào đó, với một năng lượng nào đó, và nó sẽ chạm được một số người. Lời dạy mà ta vừa trao cho con hôm nay đã chạm được một số người mà lời dạy trước đã không thể với tới. Đó là cách vận hành của tiết lộ tuần tự. Lời dạy này sẽ vẫn chưa chạm được nhiều người, và điều này cũng hoàn toàn bình thường thôi.

Nhưng có một tiềm năng thật lớn cho các đệ tử tâm linh, không chỉ đệ tử của chân sư thăng thiên mà nhiều người tầm đạo tâm linh khác, nếu họ trở nên ý thức hơn và sẵn sàng lùi lại một bước để xem xét: “Đường tu tâm linh thật sự là gì, liệu tôi đã thực sự hiểu thấu nó hay chưa, liệu tôi đã nắm bắt được ý nghĩa của sự tự thăng vượt, sự nâng cao tâm thức, sự chuyển vọt tâm thức? Liệu tôi đã thực sự nhìn ra sự cần thiết phải thấy được những gì tôi chưa thấy? Liệu tôi có thực sự nắm được ý nghĩa? Rằng đó không phải là chuyện đạt được sáng ngộ tối thượng mà liên tục nhìn thấy một tiết lộ cao hơn rồi cao hơn nữa? Đây là một tiến trình liên tục cho tới khi nào tôi còn đầu thai trong cuộc đời này. Liệu tôi đã chấp nhận điều đó hay không? Hay là tôi vẫn còn đang mơ mộng mình sẽ đạt được trạng thái tối hậu, và khi đó người đời sẽ phải quỳ lạy và thờ phượng mình?”

Rất nhiều người trong số các con đã thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình với mục tiêu đạt mức tâm thức cao hơn rất nhiều những gì mình đã đạt được cho tới giờ. Nhưng con sẽ không đạt được mức đó nếu con không chịu lùi lại một bước và tái cứu xét, đặt ra những câu hỏi để con nhìn ra những gì con chưa nhìn thấy bây giờ. Con ở mức hiện tại của con là vì con không thể thấy xa hơn một rào cản nào đó. Con sẽ chỉ vượt qua được một khi con nhìn thấy xa hơn. Và điều này có nghĩa là con sẵn lòng mở tâm con ra và đặt ra một số câu hỏi mà con chưa đặt.

Vị sứ giả này, như ông đã viết và kể lại, đã khởi sự với một hiểu biết vô cùng ngây thơ về sự tăng triển tâm linh cũng như về ý nghĩa của tăng triển tâm linh. Làm sao ông có thể làm khác được khi ông đã lớn lên trong một xã hội Tây phương chối bỏ mọi sự thật tâm linh? Nhưng rồi ông tới một điểm khi ông nhận ra rằng tinh túy của đường tu tâm linh là nhìn vào trong bản thân mình và thấy được một cái gì đó cho dù là nó vô cùng khó chịu và tự ngã gạt bỏ nó. Tự ngã gạt bỏ ý tưởng đó ra và kháng cự lại. Nhưng nếu con sẵn lòng nhìn nó, thấy nó, nỗ lực đi muốt qua nó, vượt qua nỗi đau của nó, thì bỗng nhiên con thấy là thực sự con đã thay đổi. Con đã chuyển vọt. Con ở một mức cao hơn trước đây, có lẽ là một mức cao hơn cả những gì con chờ đợi.

Đây là tinh túy của sự tăng triển tâm linh. Không có gì là vẻ vang mà là một công việc nặng nhọc. Đó là từng bước nhỏ một ở mỗi lúc. Không có những đột phá to lớn và chứng ngộ huy hoàng. Ừm… đột phá và chứng ngộ có thể xảy ra, tuy nhiên khi con càng đi lên cao hơn trên đường đạo, thì những trải nghiệm chứng ngộ này sẽ ngày càng ít vẻ vang hơn vì sự tương phản càng ít rõ rệt hơn. Cho nên niết bàn không hẳn giống như những gì con chờ đợi – hoặc để dùng một cách mô tả phổ biến, niết bàn được đánh giá quá cao bởi những ai cho rằng đó là một trạng thái cực lạc tối hậu nào đó. Nhưng so với trạng thái tâm thức phân cực, nhị nguyên mà hầu hết mọi người đều kinh nghiệm, thì niết bàn là một trạng thái tâm thức hoàn toàn trung hòa. Không có điểm cao hay điểm thấp, không có vui lòng hay buồn lòng. Không có đau khổ. Nhưng cũng không có cảm giác thích thú và thành đạt giả tạo mà con có trên địa cầu. Tất cả đều trung hòa, ít ra là khi so sánh với những gì con người trải nghiệm trên trái đất. Tất nhiên là có một niềm vui không dứt, một cảm giác thỏa nguyện, là những cảm giác không có đối cực.

Trong trạng thái thăng thiên, tâm thức của con không hề có đối cực. Không có tương phản. Không có chuyện đu đưa giữa trạng thái này rồi trạng thái kia, và đây là một trong những thứ mà con phải bỏ lại. Con phải bỏ lại kịch tính – kịch tính rằng con xuất chúng, rằng con làm được những chuyện thật đặc biệt.

Hôm nay ta đã trao cho con rất nhiều điều để con suy ngẫm nếu con sẵn lòng đọc lại hay nghe lại bài giảng này. Có rất nhiều điều ẩn giấu đằng sau lời nói. Ẩn giấu giữa những dòng chữ. Và nếu con sử dụng bài truyền đọc này cùng với băng thâu âm của câu thần chú mà ta đã cho con trước đó, con có thể hòa điệu với ta.

Con có khả năng tìm thấy kho báu ẩn tàng mà ta mong mỏi sẽ trao cho con. Con có thể trở thành một người terton của ta, một số các con đã là terton rồi đó, vậy thì các con hãy tiếp tục nỗ lực thật tốt, bởi vì ta không giữ lại bất cứ điều gì khỏi con. Chính con mới giữ lại một điều gì đó khỏi ta. Nhưng tất nhiên đó là chọn lựa của con. Là quyền của con chọn lựa như vậy. Một lần nữa ta chỉ hỏi: “Con muốn cái này hay con muốn cái kia?” Vì con không thể có cả hai, đây chính là tinh túy của cuộc sống trên địa cầu, vì có một số thứ loại bỏ lẫn nhau. Tâm đóng kín và tăng trưởng tâm linh là hai thứ loại bỏ lẫn nhau. Bám mắc vào quan điểm và tăng trưởng tâm linh cũng loại bỏ lẫn nhau.

Vậy thì con yêu dấu, tới đây ta sẽ niêm con trong ngọn lửa vui mừng mà Ta Là. Vì Ta Là PadmaSambhava. Ta Là Vajra Guru, có nghĩa là “Ta sử dụng quyền thị hiện trên địa cầu qua trung gian những ai có thể hòa điệu với Hiện diện của ta, Bản thể của ta.”

Từ bỏ ý thức cá nhân trong quan hệ cá nhân

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels ngày 5/9/2021, nhân dịp Webinar 2021 cho Mỹ quốc – Tiến tới Quan hệ Thời đại Hoàng kim.

TA LÀ chân sư thăng thiên Nada, Thượng sư của Tia sáng thứ Sáu. Đặc tính của Tia thứ Sáu mà ta muốn đặt trọng tâm ở đây là sự an bình.

Nhiều người trong số các con nhìn vào các quan hệ của mình và có thể thấy được trong rất nhiều quan hệ, con không an bình. Trong quan hệ không có an bình. Nhiều người nhìn vào một số quan hệ cụ thể với những người khó tính và tự hỏi: “Liệu có bao giờ tôi sẽ được an bình trong quan hệ với người này hay không?” Chắc chắn điều này sẽ tùy thuộc vào câu hỏi, liệu con đang tìm an bình vỏ ngoài hay an bình nội tâm?

Thật vậy, có nhiều người mà con không thể đạt được an bình vỏ ngoài với họ, vì họ vẫn còn những phần tâm lý chưa giải quyết. Họ không sẵn lòng thay đổi tâm lý của họ. Họ không sẵn lòng khắc phục cái khuôn nếp cứ phóng ra ý tưởng con luôn luôn là người có lỗi, và họ không nhận trách nhiệm về bất cứ điều gì. Con không thể có an bình vỏ ngoài với những người như thế, có thể là cho tới hết kiếp này, hay ít ra hết kiếp này cho một trong hai người. Nhưng như các Thượng sư khác đã trình bày, cho dù người đó có làm gì đi nữa thì con vẫn có thể có được an bình nội tâm. Con có thể có an bình trong quan hệ của con. Nhưng con cần làm gì để đạt được kết quả đó?

Tất nhiên như các Thượng sư khác có nói, con cần nhận diện ra những cái ngã tách biệt đặc thù đã tước mất sự an bình của con bằng cách khiến con phản ứng lại người kia một cách không an bình. Cả hai đều có những cái ngã tách biệt đặc thù từ những kiếp trước, nơi con cảm thấy khi ai đó làm gì con thì con chỉ có thể phản ứng bằng một cách mà thôi, tức là một cách không an bình. Con yêu dấu, cách duy nhất để con gỉai quyết chuyện này là con tự hỏi: “Ai là kẻ cảm thấy không thể phản ứng an bình trong tình huống này? Phải chăng đó là cái Ta Biết hay một ngã tách biệt?”

Các chân sư đã nói gì về cái Ta Biết? Đó là sự nhận biết thuần khiết. Có nghĩa là gì? Chắc chắn đây là một khái niệm trừu tượng, nhưng trong cách diễn giải trần trụi và thẳng thừng nhất, nó có nghĩa là cái Ta Biết không có cảm xúc. Con thử suy nghĩ câu này. Cái Ta Biết không có cảm xúc, ít ra là những cảm xúc trong quan niệm thường tình của con người. Chúng ta có thể nói cho câu trên nhẹ bớt và bảo rằng cái Ta Biết không có cảm xúc xuất phát từ sợ hãi. Nhưng điều này cũng không hẳn chính xác. Tuy vậy, chúng ta cứ dùng tạm xem sao.

Những cảm xúc phổ biến nhất mà con thấy nơi con người là cái mà chúng tôi gọi là cảm xúc phát xuất từ sợ hãi. Nhiều người trong các con sẽ nói: “Nhưng khi người ta giận dữ, họ đâu có vẻ gì là sợ hãi? Vì nếu thật sự họ sợ hãi thì tại sao họ lại hung hãn đến thế?” Thực tế là họ hung hãn chính là vì họ sợ hãi. Hầu kìm nén nỗi sợ của mình, họ khoác lấy cái tư thế nóng giận hung hăng kia để hung hăng khiến con phải khuất phục họ, để cố kềm giữ nỗi sợ của họ. Những kẻ hung hãn nhất thực sự cũng là những kẻ sợ hãi nhất.

Cái mà con thường gọi là cảm xúc con người – tất cả – đều dựa trên sợ hãi. Kỳ thực, cái mà nhiều người gọi là tình yêu, như các thày đã giảng, là một trò chơi kiểm soát lẫn nhau, và nó cũng dựa trên sợ hãi. Tự ngã người đó sợ đánh mất cảm giác nó làm chủ tình hình. Do đó, nó sử dụng tình yêu như một phương thức để khuynh loát, để khiến người kia phải phục tùng mình, hầu tự ngã cảm thấy nó vẫn nắm quyền kiểm soát và không bị đe dọa.

Rất nhiều cảm xúc mà người ta có như vậy phát xuất từ lòng sợ hãi. Nhưng vì cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, nó không thể cảm thấy sợ hãi. Cái Ta Biết không bao giờ có thể sợ hãi bất cứ điều gì. Chỉ một cái ngã tách biệt mới có thể sợ hãi. Tại sao vậy? Bởi vì cái Ta Biết, khi nó hòa điệu với con người mà nó là, với cái mà nó là, biết rằng nó không thể chết. Nó là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, mà Hiện diện TA LÀ thì là một sinh thể bất tử. Cái Ta Biết không thể chết. Con không thể chết. Nhưng ngã tách biệt biết rõ nó có thể chết, và nó sợ chết.

Khi con bắt đầu vật lộn với những khái niệm trên, mặc dù chúng có thể trừu tượng lúc ban đầu, nhưng con có thể đạt tới điểm khi con khởi sự trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết đó, ý niệm vượt khỏi sợ hãi đó, sự gia tốc đó, cảm giác im lặng hay an bình nội tâm đó. Và nó cho con một tầm nhìn khác hẳn, có thể là về mọi thứ trong cuộc sống, nhưng chắc chắn là về mọi thứ trong tâm lý của con cũng như trong các quan hệ của con.

Bây giờ giả dụ con đang có một mối quan hệ khó khăn với một người nào đó. Con phần nào e ngại nói năng một cách thoải mái với họ vì đã quá nhiều lần con gặp phải phản ứng tiêu cực của họ. Điều này có nghĩa là đối với con, họ đã đạt được một vị thế nào đó trong tâm con. Theo một nghĩa nào đó, con sợ họ. Và qua lòng sợ hãi đối với họ, con đã gán cho họ một tầm quan trọng nào đó. Người kia chiếm giữ một địa vị, và một phần lượng chú ý của con bị kéo hút về phía họ. Giống như là trong tâm con, người kia đã nhận được một ngôi vị lớn hơn thực tế. Điều này có nghĩa là gì? Rốt cuộc ra, nó có nghĩa là con có một số ngã tách biệt đang nhìn người đó một cách đặc biệt nào đó.

Hẳn một số trong các con đã nhìn thấy điều này nhiều năm trước đây, khi sứ giả này có đưa cho con xem một hình vẽ minh họa các trung tâm thần kinh trên cơ thể vật lý con người. Và hình vẽ cho thấy một số bộ phận trong cơ thể có nhiều dây thần kinh hơn và do đó nhạy cảm hơn. Và các bộ phận này được vẽ lớn hơn bình thường, lớn hơn kích thước vật lý của chúng. Nói cách khác, chẳng hạn cái lưỡi có rất nhiều thụ quan cảm giác, nên nó được vẽ lớn hơn cánh tay, vì trên cánh tay không có nhiều thụ quan thần kinh bằng.

Nếu con nhìn vào tâm lý, nhìn vào tâm tiềm thức của mình, con sẽ thấy người khó tính kia hiện hữu ở đó, là người mà con có quan hệ khó khăn. Và trong tâm con, họ to lớn hơn hẳn kích thước vật lý thật của họ. Có thể là trong vòng quen biết của con, có một người nào đó hiện ra to lớn hơn mọi người khác. Điều này cho thấy là người này vô cùng quan trọng đối với con. Con phải lắng nghe họ nói gì. Có lẽ họ có ảnh hưởng lớn trên con, hay có lẽ đơn giản là con chỉ sợ nói chuyện thoải mái với họ. Làm thế nào con đối phó với sự thể này đây?

Đúng vậy, bằng cùng phương thức mà con dùng để khắc phục nỗi sợ bóng tối. Con phải lên tiếng và nhận ra là việc lên tiếng sẽ không giết con chết. Nhưng để có thể làm vậy, con hãy tự giúp mình và khiến cho công việc mình nhẹ nhàng hơn bằng cách giảm thiểu kích thước của người đó trong tâm con. Để mượn một thành ngữ quen thuộc, con có thể đặt họ lại đúng vị thế, để họ không quá to lớn trong tâm con và vượt khỏi kích thước bình thường của họ. Làm thế nào con làm được chuyện này? Con phải nhìn tình huống từ một góc độ khác. Con phải điều chỉnh lại tỷ lệ, vì con đang nhìn họ và tầm quan trọng của họ với một con mắt bóp méo tầm vóc thật của họ.

Gần đây, sứ giả này vừa làm một chuyện mà cả đời ông chưa từng làm. Ông ngủ ngoài trời dưới những vì sao. Ông đã từng ngủ trong lều, nhưng ông chưa bao giờ ngủ mà không có gì che chắn bầu trời. Và ông nằm ngửa ở đó trong một tư thế thoải mái, nhìn thẳng lên trời ngắm dải ngân hà. Tất nhiên là ông vẫn biết, và cũng đã từng trải nghiệm nhiều lần, rằng mọi thứ trên địa cầu không có tầm quan trọng tối hậu nào. Nhưng khi ông ngẩng mặt nhìn lên khoảng mênh mông của dải ngân hà, và ngắm xem có bao nhiêu tinh tú trên trời, ngắm xem chúng xa xôi đến chừng nào, vũ trụ vĩ đại đến chừng nào, và trái đất nhỏ nhoi đến chừng nào, thì ông nghiệm ra là thật sự, trên địa cầu chẳng có gì là quan trọng lắm đâu so với vũ trụ bát ngát đó. Điều gì trong tình cảnh cá nhân của mình có thể thực sự quan trọng trong khoảng vũ trụ rộng lớn đó?

Và ông ngộ ra là so với vũ trụ rộng ngút ngàn, tất cả mấy chuyện cá nhân mà mình phải kinh qua trong cuộc sống trên trái đất thật sự không thể quan trọng lắm. Chúng không thể quan trọng như tầm vóc mà chúng hiện ra trong tâm mình. Nhưng ai đã khiến cho chúng trở nên quan trọng đến thế? Có phải là cái Ta Biết? Không, bởi vì chính cái Ta Biết vừa trải nghiệm sự kinh ngạc kỳ diệu trước vũ trụ vô biên. Vậy thì cái gì đã khiến cho mấy chuyện kia quan trọng? Chỉ có thể là một cái ngã tách biệt.

Hiển nhiên, sứ giả này đã nhiều lần, đặc biệt là khi ông nhận bài truyền đọc, trải nghiệm được tâm của các chân sư thăng thiên. Ông trải nghiệm được sự khác biệt to lớn so với cái nhìn của mình trong kiếp đầu thai. Và so với tầm nhìn của chân sư, ông trải nghiệm được tầm nhìn của mình trong tư cách một con người hiện thân thật sư không quan trọng lắm đâu. Và tất nhiên, điều này đã giúp ông có đủ uy lực để có một tầm nhìn khác hẳn về chính đời mình cũng như những gì mình trải nghiệm trong cuộc sống. Điều này không có nghĩa là ông không còn quan tâm, mà có nghĩa là ông không rơi vào ám ảnh cho rằng bất cứ điều gì xảy ra cho mình cũng cực kỳ quan trọng.

Nói cách khác, ta đang nói về cái gì đó? Ta đang nói về một tiến trình mà tất cả các con đều có thể đi qua. Ta không đang tìm cách tâng bốc sứ giả này, mà chỉ dùng ông ta như là một ví dụ về những gì tất cả các con đều có thể thực hiện. Và đó là tiến trình buông bỏ ý thức cá nhân trong các mối quan hệ cá nhân của mình, hay thậm chí bỏ cả ý thức cá nhân trong đời sống cá nhân của mình.

Làm thế nào con có thể đạt được an bình trong mối quan hệ với một người bất an nếu con không bỏ ý thức cá nhân trong quan hệ đó, hầu con không còn xem những gì họ nói hay làm nhắm vào cá nhân con? Tất nhiên, người kia sẽ coi đó là chuyện cá nhân. Nhưng con yêu dấu, có định luật tự nhiên nào phán rằng nếu có ai xem điều con nói và làm là những chuyện nhắm vào cá nhân họ, thì con cũng phải hành xử tương tự như họ? Có định luật tự nhiên nào phán rằng nếu họ nóng giận với con, thì con phải cảm thấy bực bội? Rằng con phải phản ứng lại? Rằng con phải xem đó là chuyện hệ trọng, rồi con cho là con cần phải làm gì đó để họ khuây khỏa? Có định luật tự nhiên nào phán như vậy? Không. Thế có định luật tâm linh, vũ trụ nào phán như vậy? Cũng không.

Vậy thì nó đến từ đâu? Nó đến từ các sa nhân, chúng muốn con cảm thấy con phải phản ứng lại chúng. Con phải xem chúng là hệ trọng. Con phải xem những gì chúng làm hay nói về con là nhắm vào cá nhân con, vì khi con coi đó là chuyện cá nhân thì chúng sẽ kiểm soát được con. Vì khi con coi đó là chuyện cá nhân, con trao cho nó một tầm quan trọng trong tâm con.

Điều tồi tệ nhất mà con có thể làm đối với một sa nhân là con hoàn toàn an bình cho dù chúng có nói hay làm gì, hoàn toàn không dính mắc, hoàn toàn vô phản ứng. Chúng không thể chịu nổi khi chúng bị phớt lờ. Chúng không thể chịu đựng được những ai không nghĩ là chúng quan trọng. Chúng không thể chịu đựng được khi chúng không nhận được sự chú ý mà chúng thèm khát hơn hầu hết mọi thứ khác. Hiện đang có một con quái vật tập thể vô cùng dũng mãnh phóng chiếu vào mọi người ý tưởng là con phải xem người khác là chuyện cá nhân. Khi con bắt đầu khắc phục được nó, rất có thể là sẽ có những người trách cứ con là con không quan tâm đến họ. Rằng con không thương họ. Rằng con không xem họ là hệ trọng. Vì họ cảm được là họ không còn quyền kiểm soát mà họ vẫn có trên con. Chuyện này, con cũng không được dính mắc. Và con làm vậy bằng cách, một lần nữa, chú tâm vào câu: “Điều gì mới thực sự quan trọng cho tôi? Tôi là ai? Tôi là một sinh thể tâm linh. Tôi là một học trò tâm linh. Tôi là một đệ tử của chân sư thăng thiên. Tôi nỗ lực hội đủ mọi điều kiện để thăng thiên. So với việc thăng thiên của tôi, liệu còn gì trên địa cầu quan trọng nữa không?”

Phải, ngay bây giờ con chưa ở tầng tâm thức 144, cho nên có thể có một số điều còn quan trọng đối với con vì con chưa sẵn sàng thăng thiên. Và do đó, ngay bây giờ có thể có những điều quan trọng hơn là việc thăng thiên. Nhưng nói cho cùng, không thể có gì trên trái đất quan trọng hơn việc thăng thiên của con đối với con. Bởi vì nếu có, thì con không thể thăng thiên. Một lần nữa, con cần ngoái lại nhìn địa cầu một lần chót đi. Và nếu có điều gì trên địa cầu quan trọng hơn là được bước qua cánh cổng dẫn vào cõi thăng thiên, thì hiển nhiên con không thể bước qua cổng đó. Con phải trở lại địa cầu và trải nghiệm những gì quan trọng đối với con cho tới khi nó hết còn quan trọng nữa.

Con có thể nói, như các chân sư cũng đã từng nói, rằng làm thế nào con vươn từ tầng tâm thức này lên tầng kế tiếp? Đúng, bằng cách vượt qua ảo tưởng mà con đang có. Nhưng con cũng có thể nói là con đã nhìn ra những gì trước kia quan trọng ở tầng đó, nhưng bây giờ chúng không còn quan trọng nữa. Và vì vậy, con vươn lên tầng kế tiếp là nơi có điều gì khác quan trọng hơn. Và sau một thời gian, con lại thấy chính cái này cũng hết quan trọng, và con bước lên tầng cao hơn nữa. Và cứ như vậy khi con đạt đến tầng 144, thì không còn gì trên địa cầu quan trọng đối với con nữa. Bấy giờ, điều quan trọng là con bước qua cánh cổng đó để nhập vào cõi thăng thiên.

Nhưng ngay cả trước khi con tới được tầng 144, con có thể sử dụng một cách ý thức những ý tưởng mà ta vừa trao cho con. Con có khả năng bỏ đi ý thức cá nhân trong đời con. Và con có khả năng đạt tới điểm khi con có sự an bình nội tâm về các mối quan hệ của mình. Cho dù người kia có bất an đi nữa, con vẫn có thể an bình. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là đối với một avatar, đây là thử thách tối hậu. Bởi vì như chúng tôi đã giảng, đã có một thời điểm khi sa nhân được phép đầu thai trên địa cầu và một số avatar đã tình nguyện hiện thân trên trái đất để cầm giữ thế cân bằng, hầu sa nhân không thể chiếm hữu và tàn phá địa cầu.

Điều này có nghĩa là với tư cách một avatar, con đã gặp gỡ sa nhân trong những kiếp trước, rất có thể là ngay kiếp đầu thai đầu tiên của con. Và do đó theo một nghĩa nào đó, các sa nhân biểu tượng cho thử thách chủ yếu của con trên mặt quan hệ, vì chúng chính là những kẻ đã hung hăng tìm cách tiêu diệt con. Thử thách tối hậu của con là con quan hệ thế nào với sa nhân.

Và thử thách thực sự là giờ đây con đã tới một điểm khi con có thể đối mặt với sa nhân, và cho dù chúng có làm gì hay nói gì, dù chúng có ném gì vào con rồi đổ lỗi cho con, thì con vẫn hoàn toàn bình an. Con không có mong muốn thay đổi chúng. Con không có mong muốn tự biện hộ, chứng minh là chúng sai trái hay chứng minh là con đúng và rốt cuộc con là người có lý.

Và con có thể trau dồi sự an bình nội tâm đó, không từ giây phút này tới giây phút khác, mà con thực sự trau dồi nó. Và con sẽ thấy khi con đạt được an bình nội tâm phi cá nhân đó, tất cả mọi quan hệ của con sẽ đều hưởng lợi. Khi con đến được điểm này của an bình nội tâm, con sẽ có những quan hệ xây dựng hơn hẳn, hài hòa hơn hẳn, vì giờ đây, không còn gì mà con muốn từ người khác sẽ khiến con muốn ép buộc họ nữa. Và cũng không có gì mà con cảm thấy phải làm sẽ khiến cho người khác có thể ép buộc được con. Điều con đã thực hiện được qua an bình nội tâm là con đã lấy vũ lực ra khỏi các mối quan hệ của con.

Ta nghĩ hầu hết các con đều mường tượng được thế nào là một quan hệ không dựa trên vũ lực. Có lẽ con đã kinh nghiệm được điều này với một số người, những bạn thân của con, khi không có bất kỳ ý muốn nào để ép buộc lẫn nhau. Các con chỉ vui hưởng tình bạn bè với nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Và quan hệ này, con cũng có thể có với nhiều người khác – không phải với tất cả, nhưng khi đó thì hoặc con có thể tiếp tục mối quan hệ với những người khó tính đó vì họ không còn quấy rầy an bình nội tâm của con nữa, cho nên quan hệ với họ có vấn đề gì đâu? Hoặc đơn giản là con sẽ trôi xa khỏi họ, con quyết định là con sẽ không dành thời gian cùng sự chú ý cho họ, và như vậy con bước lên một mức phụng sự cao hơn. Tất nhiên, Tia sáng thứ Sáu cũng là tia sáng của phụng sự. Nhưng con phải cần gì để cống hiến phụng sự tối hậu? Con cần một tâm lý đã phần nào được giải tỏa, bởi vì phụng sự tối hậu không dựa trên vũ lực. Và nếu không dựa trên vũ lực thì nó dựa trên gì? Nó dựa trên an bình.

Nhiều người trong số các con khi thảo ra sứ vụ thiêng liêng, đã quyết định tự đặt mình vào những mối quan hệ khó khăn vào tuổi thơ ấu và tuổi mới trưởng thành, với mục đích cụ thể là giải quyết tâm lý mình càng nhanh càng tốt hầu còn được tự do phụng sự sau này trong đời. “Sau này trong đời” là một cách nói uyển chuyển. Ta không muốn con cảm thấy mình đáng trách nếu mình đã đứng tuổi mà vẫn chưa đạt được sự an bình mà mình mong muốn. Ta không trao cho con những lời dạy này để con tự trách móc.

Ta ban cho con lời dạy này để giúp con nhận ra là con có khả năng vươn lên một mức độ an bình cho phép con khởi đầu phụng sự dựa trên an bình. Và điều này sẽ đem lại thỏa nguyện cho con nhiều hơn hẳn so với những việc con đã làm cho tới nay, vì trước đây có thể con đã tự ép mình phải phuc vụ vì con coi đó là bổn phận phải làm. Và có thể con cũng nhận ra là con đã tự ép mình vào những quan hệ với một số người vì con cảm thấy đó là điều cần làm vì lý do nào đó.

Nhưng sẽ tới một điểm khi con đã từ bỏ ý thức cá nhân trong quan hệ của mình, khi con nhận ra là con không bị ép buộc phải quan hệ với bất cứ ai. Con không có bổn phận phải ở lại trong quan hệ với bất cứ ai. Có thể con đã chọn tự đặt mình vào một gia đình, một số người thân. Con đã chọn lựa như thế và tất nhiên, con nên nỗ lực học hỏi bài học mà con mong muốn học hỏi từ những người đó. Nhưng sẽ tới một điểm khi con cảm thấy đã học xong bài học, con đã đạt được một an bình nội tâm nào đó, và con có thể tự do chọn lựa: “Liệu tôi có muốn tiếp tục quan hệ này hay không khi tôi không còn cảm thấy tôi phải ở lại trong quan hệ đó?”

Có thể nói, an bình đích thực có nghĩa là con không còn những chữ “phải” trong tâm thức của con nữa. Bây giờ chỉ là chuyện con muốn gì, con thực sự muốn gì. Và chủ đề này, ta sẽ nhường lại cho bài giảng của thày Saint Germain vì nó gần hơn với ngọn lửa tự do của thày.

Với câu này, ta niêm con trong ngọn lửa an bình sống động nồng nhiệt. Bởi vì đây không phải là an bình thụ động. Đây là an bình sống động mà ta là. TA LÀ Nada.

Mối quan hệ trực tiếp của con với các chân sư thăng thiên

Bài truyền giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 5/9/2021, nhân Webinar 2021 cho Hoa kỳ – Hướng tới các quan hệ Thời Hoàng kim.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

TA LÀ với an bình. TÀ LÀ trong an bình. TA LÀ sự an bình. Ta truyền giảng từ an bình. Làm sao có thể có vũ lực trong Phật? Điều này thật không thể, vì Phật vượt khỏi vũ lực. Phật không phản vũ lực mà vượt lên trên vũ lực.

Phật biết gì về các mối quan hệ? Chẳng phải là khi ta còn hiện thân, ta đã bỏ lại vợ hiền cùng con thơ, bỏ lại mọi người để ra đi sống trong rừng giữa thú hoang lẫn con người hoang dại? Đúng vậy, nhưng Phật đã làm gì trong cuộc đời sau đó? Chẳng phải là ta đã thiết lập một cộng đồng và quy tụ các đệ tử đến học từ Phật?

Cho nên ít ra Phật cũng biết đôi điều về mối quan hệ giữa thày và đệ tử. Và tất nhiên trong tư cách một chân sư thăng thiên, ta cũng biết đôi điều về mối quan hệ giữa chân sư thăng thiên và những sinh thể chưa thăng thiên trên địa cầu. Chúng ta hãy bàn về mối quan hệ này. Bởi vì như các thày đã có nói, các thày không hẳn mong con tìm thấy một vị đạo sư trong cõi vật lý, mà hơn thế các thày mong muốn con có khả năng nhận được sự hướng dẫn ngay trong nội tâm của con từ các chân sư thăng thiên.

Việc khám phá mối quan hệ tốt nhất với các chân sư thăng thiên sẽ đòi hỏi nơi con những gì? À, trước hết, con cần suy ngẫm rào cản lớn nhất cho một mối quan hệ trực tiếp với chân sư thăng thiên là việc sùng bái thần tượng. Thần tượng hóa là khi con đặt một ai đó lên làm thần tượng, ở một địa vị cao hơn con đến độ nhân vật đó vượt khỏi tầm với của con.

Vị sứ giả này sống ở vùng quê và khi ông lái xe ra thành phố, ông thường đi ngang một cơ sở Phật giáo, một trong vài cơ sở hiện diện trên đất Đan mạch này. Sau nhiều năm lái xe ngang qua đó, một hôm ông quyết định tra cứu trên mạng internet xem cơ sở này như thế nào. Ông ngạc nhiên tìm ra là cái nhìn của họ về Phật rất khác với những gì ông thường nghĩ người Phật tử nhìn Phật. Họ có cái nhìn rất sùng bái về ta. Không những họ nghĩ rằng ta thật đặc biệt ngay từ lúc sinh ra đời mà ta còn đặc biệt trước cả khi sinh ra đời. Ta thuộc về một hạng người hoàn toàn cách biệt khỏi mọi người khác trên địa cầu, và đó là tại sao ta đã có thể là vị thày độc nhất vô nhị này, tại sao Phật giáo là tôn giáo độc nhất vô nhị sẽ dẫn con người đến một cõi cao siêu hơn.

Sứ giả này thấy rõ chính cách nhìn thần tượng hóa này đã ngăn chặn các Phật tử đó có được một mối quan hệ cá nhân với đức Phật đích thực, vì họ chỉ có thể tương tác với thần tượng mà họ đã tạo ra trong tâm họ. Làm sao họ có thể thực sự bước theo lời dạy chân chính của Phật, và lời dạy chân chính của Phật là gì chứ? À, chẳng phải là ta đã dạy mọi thứ đều là Phật tánh hay sao? Tất cả mọi thứ đều mang Phật tánh ở bên trong. Mỗi con người đều có Phật tánh trong bản thân mình, và điều này có nghĩa là mỗi người đều có tiềm năng trở thành Phật.

Nhưng làm thế nào con trở thành Phật đây? Bằng cách học hỏi và nhận linh hứng, bằng cách đi theo tấm gương của Phật cho tới khi con trở thành một với Phật. Nhưng làm sao con có thể trở thành một với Phật nếu con nghĩ Phật ở quá cao trên con đến độ Phật thuộc về một phạm trù hoàn toàn riêng biệt?

Con thấy đó, trên hành tinh này có một truyền thống rất, rất lâu đời sùng bái thần tượng kiểu đó. Tất nhiên, nó do sa nhân tạo dựng. Sa nhân là những kẻ muốn tự đặt mình vào một phạm trù mà trong cơ bản khác hẳn mọi người khác trên địa cầu. Theo một nghĩa nào đó, đúng là chúng khác mọi người vì tâm thức của chúng thấp hơn hẳn mọi người trên trái đất, nhưng điểm này không khiến chúng đặc biệt mà chỉ khác biệt mà thôi. Chắc chắn nó không khiến chúng cao trội hơn, mặc dù chúng tin là chúng có trí tuệ và hiểu biết cao siêu hơn, hay ngay cả trong một số trường hợp, một số khả năng vượt trội do chúng đã có nhiều thời gian hơn để rèn luyện các khả năng này.

Con thấy sự thần tượng hóa này – được tìm thấy trong biết bao tôn giáo – thật ra là điều mà sa nhân mơ ước. Chúng mới là kẻ mơ ước được thờ phượng y như nhiều người thờ phượng Thượng đế vậy. Chúng là những kẻ muốn trở thành thần thánh trên trái đất, thậm chí loại thần thánh ở cõi bản sắc được con người tôn thờ như những kẻ tự thân đã siêu đẳng – một hạng người đặc biệt mà không ai có thể với tới. Điều này khiến chúng cảm thấy chúng thật đặc biệt, trong khi một chân sư thăng thiên thì không hề có mong muốn cảm thấy mình đặc biệt, không có nhu cầu cảm thấy đặc biệt, thậm chí còn không nghĩ tới chuyện đặc biệt hay có gì đặc biệt nhiều hay ít.

Là học trò của chân sư thăng thiên, con có thể quán chiếu những ý tưởng này. Con có thể nhìn vào bất cứ tôn giáo nào mà con đã lớn lên trong kiếp sống này. Con có thể nhìn vào những tôn giáo mà con đã tiếp cận trong tiền kiếp và nhận diện hiện tượng sùng bái đó. Con có thể nhìn ra làm thế nào những tôn giáo gọi là độc thần (monotheistic) tuyên bố Thượng đế của họ mới là cao trội, và đồng thời họ gán cho Thượng đế này một số đặc tính kỳ thực chỉ phản ánh cái tâm lý chưa giài quyết của chính họ. Con người phóng chiếu ra là Thượng đế cũng giống như họ vậy, cho nên đó là một thượng đế nóng giận ở trên trời, đó là thượng đế thù hằn có ý muốn đập tan mọi kẻ thù và đày đọa những ai cả gan chống đối vào nỗi thống khổ triền miên nơi địa ngục.

Rõ ràng một số những điều trên phát xuất từ sa nhân vì chúng là kẻ muốn tiêu diệt hay trừng phạt bất cứ ai chống lại chúng. Con thấy được ở đây, con có thể bắt đầu nhận diện ở đây ảnh hưởng của sa nhân trên các tôn giáo trên địa cầu to lớn đến chừng nào, ngay cả trên nhiều khía cạnh của đạo Phật. Khi con làm vậy thì con có thể khởi sự giải tỏa những ảo tưởng đó khỏi tâm mình. Con còn có khả năng nhận ra là trong những kiếp trước, con đã từng tiếp xúc với hình thức tôn giáo này, với hậu quả là con đã gây dựng một số ngã tách biệt.

Có một thời điểm sứ giả này đã nhận biết là mình mang một cái ngã tách biệt – mà vào thời đó ông chưa gọi là ngã tách biệt – nhưng ông mang trong tâm lý của ông một khía cạnh sợ hãi xúc phạm Thượng đế. Ông sợ mình có thể nói ra hay thậm chí nghĩ ngợi một số chuyện sẽ khiến cho Thượng đế phật lòng. Khi đó ông đã là một đệ tử của chân sư thăng thiên trong một đợt truyền pháp trước, nhưng ông đã bỏ ra một thời gian khá dài vật lộn với ảo tưởng này trước khi ông nhận ra thượng đế đó không thể nào là Thượng đế đích thực. Cái đó bắt buộc phải là một thượng đế giả, vì thực sự, làm thế nào Thượng đế đích thực lại có thể bị xúc phạm bởi bất cứ điều gì trên trái đất?

Thế rồi ông chứng nghiệm được Thượng đế đích thực, Đấng Sáng tạo đích thực vượt khỏi mọi hinh tướng như ông từng mô tả trong một số bài viết của ông. Lý do ông mở tâm ra với sự chứng nghiệm này là vì ông đã vật lộn với hình ảnh Thượng đế đó. Ông đã từng vật lộn với hình ảnh một Thượng đế nóng giận xét đoán, một Thượng đế xa vời ở trên trời muốn được thờ phượng và có khả năng bị con người làm tổn thương. Ông ngộ ra là một sinh thể ở cõi tâm linh không thể nào thực sự bị bất cứ hành vi nào của con người trên trái đất làm cho tổn thương. Làm sao chuyện này có thể hữu lý được khi sinh thể đó vượt khỏi mọi điều trên trái đất? Cho nên ông ngộ ra vị thượng đế có thể bị xúc phạm đó cũng chỉ là sự phóng chiếu của một tâm lý chưa giải quyết, mà nói cho cùng là tâm lý của sa nhân và cũng là tâm lý dễ bị xúc chạm của rất nhiều người trên địa cầu.

Nếu con nhìn sự kiện các tôn giáo độc thần đều bắt nguồn ở vùng Trung Đông, con có thể thấy là ngay cả ngày nay, rất nhiều người ở Trung Đông rất dễ bị xúc chạm. Họ vô cùng nhạy cảm và dễ bị nhục mạ khi có ai đó nói điều gì mà họ cho là không được nói ra. Họ nổi giận, trở nên hằn học và mong muốn trừng phạt những ai làm nhục họ như vậy. Đây là những đặc điểm của một nhóm người đặc thù được chính họ phóng chiếu lên hình ảnh của họ về Thượng đế.

Một khi con nhận ra vấn đề này trong các tôn giáo lớn, con có thể bắt đầu xem xét mối quan hệ của con với các chân sư thăng thiên. Con có thể nhận ra thử thách lớn nhất mà các thày phải đối mặt trong tư cách chân sư thăng thiên là các đệ tử của mình không phải là những tờ giấy trắng tinh khi họ đến với giáo lý. Các con đều đến với một loại gốc tích, một loại hành lý nào đó, các con đã tiếp xúc với một hay nhiều tôn giáo khác nhau, cả trong kiếp này lẫn các kiếp trước. Con đến với một số kỳ vọng và định kiến, con đến với một cái nhìn nhất định về một sinh thể tâm linh là như thế nào và phải như thế nào.

Và nếu con sẵn lòng, con có thể nhận ra là các quan điểm mà con đã khoác vào về Thượng đế cùng các sinh thể tâm linh là sự phản ánh của chính tâm lý chưa giải quyết của con. Con có thể nhận ra hạn chế lớn nhất mà các thày phải đối mặt khi cố giúp con phát triển tâm linh, tất nhiên, là sự phóng chiếu đó đến từ tâm lý chưa giải quyết của con.

Khi con mang một tâm lý chưa giải quyết mà con phóng chiếu lên các thày, và khi một khía cạnh của tâm lý chưa giải quyết đó là con cho rằng các thày toàn hảo và do đó cái nhìn của con về các thày cũng toàn hảo, thì làm thế nào con có thể giải thoát mình khỏi điều này đây? Đó là một thế tiến thoái lưỡng nan. Có hai quan điểm đang khóa sừng chống chọi nhau trong bài toán nan giải này, vì làm thế nào con có thể nhận ra rằng quan điểm của mình về chân sư thăng thiên là giới hạn nếu con nghĩ các thày toàn hảo và cái nhìn của con cũng toàn hảo, hoặc nếu con nghĩ các thày sẽ bị xúc phạm nếu con chất vấn cái nhìn của con về chân sư thăng thiên? Nhiều các con mang cảm nhận vi tế là con không thể chất vấn cái nhìn của mình về chân sư thăng thiên vì con nghĩ đó không phải là một cái nhìn, mà con nghĩ các thày là y như vậy, và con nghĩ các thày sẽ bị xúc phạm nếu con chất vấn cái nhìn của con về các thày.

Một lần nữa, con yêu dấu, các thày đã thăng thiên. Các thày không hề bị xúc phạm bởi bất cứ gì trên trái đất. Không có gì con làm, nói, nghĩ hay cảm thấy có thể xúc chạm được các thày. Điều duy nhất các thày có thể làm nếu con ở trong một tâm thái khiến các thày không thể giúp con ngay lúc này là để yên cho con một mình. Nếu đệ tử của các thày cần nhận thêm nhiều cú giáng từ Trường đời Cay đắng, thì đôi khi các thày phải để yên họ một thời gian cho tới khi họ nhận đủ những cú giáng rồi mở tâm ra để các thày lại có thể giúp được họ trực tiếp hơn.

Nhưng điều này không có nghĩa là các thày bị xúc chạm. Các thày không bị xúc chạm khi bị con từ chối hay làm ngơ. Các thày không thể bị bất cứ gì xúc chạm. Con có thể nghĩ các thày có thể bị như vậy, con có thể phóng chiếu ra là các thày có thể bị như vậy, con có thể cảm thấy là mình đã xúc chạm các chân sư và do đó con không xứng đáng được tiếp xúc với chân sư. Cho nên con chui vào cái hang nhỏ nơi con cảm thấy buồn rầu tủi thân, và con phóng chiếu lên các thày rằng các thày mới là kẻ đang trừng phạt con vì con đã hư đốn chất vấn một tâm ảnh do chính con tạo ra về các thày. Nhưng các thày nhìn thấy rất rõ các tâm ảnh của con. Và làm sao các thày có thể bị xúc phạm khi con chất vấn một hình ảnh không liên quan gì đến bản thể thực của các thày – ngay cả trong trường hợp không thể xảy ra là các thày có thể bị xúc phạm?

Một lần nữa con thấy đó, các thày không thể giận hờn. Điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là như đã nói nhiều lần, các thày ở trong một trạng thái tâm thức khác hẳn trong bản chất so với tâm thức của con người chưa thăng thiên. Ta cũng biết đây là một khái niệm thật trừu tượng, ta biết là con không thể nắm bắt được hoàn toàn khi con vẫn con đầu thai, nhưng ít nhất nhiều người trong số các con có thể bắt đầu hé thấy, bắt đầu có một trải nghiệm nào đó về trạng thái tâm thức của các thày, giống như sứ giả này đã trải nghiệm khi ông nhận bài truyền đọc, hay giống như con có thể trải nghiệm khi con lắng nghe bài truyền đọc hay con thiền quán về các thày trong tim con. Và một khi con có trải nghiệm đó, con có thể đạt đến một chứng nghiệm, và ta sẽ cho con chứng nghiệm này từ bên ngoài, nhưng nó sẽ chỉ thực sự có giá trị đối với con khi nào nó cũng đến từ bên trong.

Chứng nghiệm đó là như sau – mối quan hệ của con với chân sư thăng thiên sẽ không giống như mối quan hệ của con với con người. Hạn chế lớn nhất mà các thày phải đối diện khi thiết lập mối quan hệ trực tiếp với con là sự kiện con chụp lấy cách nhìn của con về quan hệ con người rồi chuyển nó sang các thày. Cho nên ví dụ, nhiều các con có thái độ là nếu con là đệ tử của chân sư thăng thiên, nếu con muốn quan hệ trực tiếp với các thày, thì có một số điều con phải làm hay không được làm, một số điều con phải nói hay không được nói, một số điều con phải cảm thấy hay không được cảm thấy, một số chuyện con phải nghĩ hay không được nghĩ.

Các thày đã chứng kiến, đặc biệt trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước, các đệ tử có thể trở nên gần như cuống cuồng, gần như điên loạn khi cố sức đáp ứng tất cả mọi đòi hỏi mà họ phóng chiếu ra là các thày đang phóng chiếu lên họ. Họ cứ tưởng chính các thày đang phóng chiếu tất cả những yêu cầu đó lên họ. Nhưng những yêu cầu này dựa trên những quan hệ giữa con người bị ảnh hưởng nặng nề bởi tâm thức sa ngã, những cái “phải làm” và những cái “không được làm”, ý thức nghĩa vụ và bổn phận, ý thức mình phải trung thành với người khác, vân vân và vân vân.

Nhưng các thày không mang tâm lý của người phàm, các thày không có tâm lý sa ngã. Tại sao con lại cho rằng các thày phản ứng giống như sa nhân hay cư xử giống như con người? Điều này không hữu lý, không lô-gíc chút nào, và khi con bắt đầu suy ngẫm thì con sẽ có khả năng lần lần thoát mình ra khỏi nó, có nghĩa là ít ra con có thể khởi sự đáp ứng được yêu cầu duy nhất để bắt liên lạc với các thày, đó là một tâm cởi mở, một tâm trung hòa.

Trong tâm con phải có khoảng trống để các thày bước vào, và nếu con cứ mang những cái “phải” và những cái “không được”, những quan điểm cố định, cái nhìn sùng bái thần tượng nói trên, thì đâu là khoảng trống đây? Các thày sẽ không cưỡng ép con, các thày sẽ không hiện ra trong một dạng thị hiện không thể nào chối cãi, ngoại trừ trong một số trường hợp thật hiếm hoi khi việc này nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, là một điều mà con đã quyết định trước khi đầu thai trong kiếp này.

Các thày sẽ không bao giờ vi phạm quyền tự quyết của con người, cho nên các thày sẽ chỉ bắt liên lạc với một sinh thể chưa thăng thiên khi trong tâm con có khoảng trống để các thày bước vào, và điều này không có nghĩa là con phải có một ý định ý thức muốn liên lạc với các thày. Các thày đã chứng kiến nhiều đệ từ tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên rồi họ quyết định: “À, tôi muốn một trải nghiệm trực tiếp, một sự tiếp xúc trực tiếp với các chân sư, tôi muốn nhận được một thông điệp cá nhân từ chân sư,” thế rồi họ nghĩ họ phải làm chuyện này chuyện nọ, phải đọc bài chú, phải cầu nguyện, phải thỉnh gọi các thày. Họ trở nên gần như cuống cuồng, gần như điên loạn làm những chuyện mà họ nghĩ họ cần phải làm để có liên lạc trực tiếp đó.

Nhưng họ đang làm gì chứ? À, họ đang chất đầy tâm họ với tất cả những hoạt động đó, tất cả những ý nghĩ đó, tất cả những lời cầu đó, tất cả những hình dung đó khi họ tưởng tượng việc liên hệ trực tiếp với các thày sẽ tuyệt vời đến chừng nào, khi các thày ban cho họ những khả năng đặc biệt như thế nào, và giờ đây họ trở thành đặc biệt đến làm sao, họ sẽ thực hiện bao điều kỳ diệu mà ai nấy đều ngưỡng mộ, hay bất kỳ mơ tưởng nào mà con người có thể nghĩ đến. Và như vậy, càng ngày họ càng lấp đầy tâm họ với nhiều tiếng ồn ào hơn. Đâu là sự tĩnh lặng, đâu là khoảng trống để các thày bước vào? Cho nên các thày phải lui lại, chờ cho tới khi có lẽ họ sẽ mệt mỏi, sẽ chán ngán tất cả những hoạt động cuồng nhiệt đó, cho tới khi một khoảnh khắc tĩnh lặng hiện ra và đột nhiên mối liên lạc với chân sư thăng thiên xảy đến.

Bây giờ, một thử thách lớn khác mà các thày phải đối diện trong quan hệ với một đệ tử chưa thăng thiên là, tất nhiên, nhiều người chờ đợi việc tiếp xúc với chân sư thăng thiên phải là một trải nghiệm tột đỉnh tuyệt vời, ấn tượng, siêu phàm. Và đúng thế, một số đã có trải nghiệm như vậy, nhưng rất, rất hiếm hoi trải nghiệm đó đến từ chân sư thăng thiên. Họ đã có một cảm giác kịch tính dữ dội như vậy là do, như các thày đã giảng, sự tương phản to lớn giữa trải nghiệm đó và trạng thái tâm thức bình thường của họ. Nhưng thực tế là các thày không hề tìm cách cho con những trải nghiệm ngoạn mục tuyệt vời.

Các thày cố gắng cho con một khung tham chiếu để con thẩm định trạng thái tâm thức hiện thời của con. Các thày cố gắng cho con một sự hướng dẫn có thể giúp con bước lên bước kế tiếp. Cho nên nếu con đang ở tầng tâm thức thứ 60, các thày sẽ cố cho con một xung lực giúp con vươn lên tầng 61. Các thày không tìm cách cho con một loại trải nghiệm tột đỉnh ngoạn mục nào đó mà con có thể có ở những tầng tâm thức cao hơn vì con chưa sẵn sàng nhận lấy, và hầu hết mọi người nếu họ kinh qua trải nghiệm này sẽ cảm thấy choáng ngợp. Sứ giả này đã có được trải nghiệm Thượng đế vô hình tướng vì ông đã sẵn sàng, nhưng ông vẫn tốn nhiều năm trời để suy nghiệm và thể nhập trải nghiệm đó.

Cho nên nói chung, con thường không có trải nghiệm ấn tượng, siêu phàm đó khi tiếp xúc trực tiếp với các thày. Thật ra nhiều người đã nhận được một sự hỗ trợ trực tiếp từ các thày mà không hay biết nó đến từ đâu vì nó có vẻ quá bình thường, nó quá tầm thường đối với họ. Vì vậy con có thể bắt đầu nhìn xem kỳ vọng của con là gì trong việc quan hệ với chân sư. Con có thể bắt đầu xem xét liệu con có mang những kỳ vọng thiếu thực tế đó, những mong muốn trải nghiệm đặc biệt khiến mình cảm thấy mình là đặc biệt, và cũng khiến người khác cảm thấy con là người đặc biệt vì họ đã không có được trải nghiệm đó. Xuyên qua các đợt truyền pháp khác nhau, nhiều đệ tử đã ấp ủ giấc mơ này – là ảo giác mình vĩ đại cao quý khi mơ ước đạt được những khả năng đặc biệt sẽ khiến người ta nể phục, ngưỡng mộ mình. Và không cứ tất cả các đệ tử đó đều là sa nhân mặc dù một số là sa nhân.

Ta đoán con cũng biết là khi một sa nhân đang hiện thân tìm được một giáo lý của chân sư thăng thiên, sa nhân đó chỉ nhìn vào giáo lý cùng các chân sư với ý định: “Làm thế nào cái này có thể giúp tôi ra vẻ là người đặc biệt? Làm thế nào nó khiến tôi cảm thấy đặc biệt? Tôi có thể dùng giáo lý này như thế nào để cất mình lên cao hơn?” Tất nhiên, đó không phải là động lực mà hầu hết các con đều có, nhưng chắc hẳn con có mang một số ngã từ tiền kiếp khi con hứng chịu sự hiếp đáp của sa nhân khiến con tạo ra một số ngã muốn đền bù bằng cách nâng mình lên cao, bằng cách tỏ ra đặc biệt hơn người, hay bằng cách đạt một khả năng nào đó hầu chứng minh sa nhân sai trái. Có thể có những cái ngã đủ loại giống như vậy, và khi con tìm ra giáo lý của chân sư thăng thiên thì những ngã này sẽ muốn dùng giáo lý để thực hiện kỳ vọng của chúng – nhưng tất nhiên đây là một kỳ vọng rỗng tuếch. Cácc thày sẽ không bao giờ cho con cái đó, vì nếu các thày cho con thì chuyện gì xảy ra chứ? Ngã sẽ càng được củng cố, và con sẽ càng đồng hóa nhiều hơn với ngã, khiến con càng khó lòng tách ra khỏi nó và cho nó chết đi.

Cho nên con nhận ra ở đây là các thày, các chân sư thăng thiên, không cảm thấy mình đặc biệt. Tại sao vậy? Con có thể bảo: “Nhưng chẳng phải các chân sư đặc biệt lắm hay sao? Chẳng phải các chân sư ở trong một trạng thái tâm thức cao hơn con người chưa thăng thiên hay sao?” Và đúng thế, các thày có như vậy thật, nhưng vì sao các thày lại ở trong trạng thái tâm thức cao hơn đó chứ? Bởi vì các thày đã thăng vượt nhị nguyên. Cảm nhận mình đặc biệt có thể có mặt ở đâu chứ? Chỉ có thể trong cõi nhị nguyên, vì khi có ai đặc biệt thì điều này ngụ ý một sự so sánh giữa những người đặc biệt và những người không đặc biệt, và đó chính là cốt lõi của nhị nguyên – cái thang điểm đó, sự tương phản đó, sự xét đoán giá trị đó.

Các thày đã thăng vượt cái đó rồi. Thậm chí các thày còn không nghĩ tới chuyện đặc biệt. Các thày không nhìn thấy con là người kém cỏi, thiếu sót hay tội lỗi. Các thày không tìm cách trừng phạt con dù bằng cách nào đi nữa, các thày không tìm cách khiến con cảm thấy xấu hổ. Các thày không tìm cách khiến con phải nhận tội hay khai tội. Các thày chỉ cố giúp con thăng vượt tất cả cái tâm thức phàm phu đó. Cho nên các thày chỉ có một mục đích, một mong muốn thôi là giúp con thăng vượt mức tâm thức hiện thời của con và cứ tiếp tục làm vậy cho đến khi con thăng thiên. Không hề có một mong muốn nào khác.

Ta cũng biết là trong các đợt truyền pháp trước đã có trọng tâm đặt vào việc phụng sự thày Saint Germain và đem lại thời hoàng kim, và ở đây con cũng có thể nói là các thày có đặt một chút trọng tâm vào công việc này. Tất nhiên là các thày mong muốn con phụng sự, nhưng chỉ khi nào đó là một việc con đã quyết định trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Các thày không tìm cách ép buộc con làm vậy. Các thày không tìm cách khiến con cảm thấy là mình bắt buộc phải làm, mình có bổn phận đối với chân sư. Các thày không tìm cách khiến con cảm thấy là con phải làm chuyện này và không được làm bất cứ gì khác, nhất là bất cứ gì thú vị.

Con thấy là trong tôn giáo, trong các giáo lý tâm linh, có một truyền thống rất lâu đời cho rằng thế giới tự thân nó xấu xa, rằng các sinh hoạt thế tục là tội lỗi, rằng chúng khiến con xao lãng mà xa rời việc tăng triển tâm linh, vân vân và vân vân. Và điều này đã tạo ra cái tư duy mà nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên bị lạc vào, kể cả sứ giả này trong những năm đầu. Con nghĩ, bây giờ con đã tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên thì con phải tập trung tất cả chú ý của mình vào chuyện này, con phải chú tâm vào việc phụng sự, dù là qua các bài chú hay một cách nào khác, và con không được làm bất cứ gì khác, bất cứ gì đem lại thú vị cho con. Con phải làm tối thiểu để kiếm kế sinh nhai hay làm tròn bổn phận đối với gia đình, nhưng con không được làm bất cứ gì để tìm niềm vui thú.

Đấy như các thày đã nói, con đã thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng từ một mức tâm thức cao hơn mức hiện tại của con. Nếu con đã quyết định là có một số trải nghiệm con muốn kinh qua vì các thày sẽ giúp con sạch hết lỗi lầm để sẵn sàng bước tới, thì không những đó là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng mà đó còn là một hoạt động vô cùng tâm linh cho con. Chúng sẽ chỉ thúc đẩy chứ không cản trở sự tăng triển tâm linh của con. Cho nên con không thể mang thái độ trắng đen đó mà cho rằng mọi sinh hoạt thế gian đều là phản tâm linh và con phải kềm chế chúng lại. Đặc biệt con không nên có thái độ đó.

Ta nhận thấy là ta đang sử dụng các từ “phải” với “không được”, nhưng dù sao đi nữa, thật sẽ không xây dựng cho con nếu con mang thái độ là các thày đang áp đặt con phải làm gì hay không được làm gì, rằng các thày đang bắt con không được cho phép mình hưởng thụ mà chỉ được sống tối thiểu cuộc đời thế gian, và con không được thực sự hưởng thụ vì như vậy sẽ chứng tỏ con không phải là người tâm linh. Con yêu dấu, con không cần chứng tỏ cho các thày rằng con là người tâm linh, và con không cần chứng tỏ điều đó qua hoạt động vỏ ngoài. Các thày đã chứng kiến những người tìm ra giáo lý chân sư, gia nhập một tổ chức rồi bỏ ra không biết bao nhiêu giờ đọc chú, tham dự hội nghị, tham dự các buổi lễ và tất cả những thứ đó. Họ tuân thủ tất cả những thứ vỏ ngoài đó nhưng họ không vui thú. Không có niềm vui nào trong việc làm đó mà họ chỉ làm do bổn phận.

Đâu là cái tư duy đằng sau cách hành xử như vậy? Đó là điều các thày đã từng đề cập, là sự kiện nhiều người mộ đạo tìm cách mặc cả với Thượng đế. “Chúa ơi, con đang thờ phượng ngài như một tín đồ ngoan đạo. Con đang xưng tội với ngài đây. Con không đang làm gì thú vị cả. Con đang sám hối. Con đang làm đúng tất cả mọi điều quy định, và Chúa ơi, khi nào con làm vậy đủ lâu, khi nào con đã khiến mình bị đau đớn đủ nhiều, thì đương nhiên ngài sẽ phải cho con lên thiên đàng.” Nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã tìm cách mặc cả với các thày: “Khi nào con đọc xong tất cả các bài chú này để cứu nguy thế giới, khi nào con tự chế không làm tất cả những chuyện kia, thì thày phải cho con thăng thiên,” hoặc “thày phải biến con thành một người đặc biệt,” hoặc “thày phải cho con một chứng ngộ gì đó.”

Con yêu dấu, con không thể mặc cả với chân sư thăng thiên. Tại sao con không thể? Trước hết vì như các thày có nói, con không thể dùng vũ lực để xông lên thiên đàng. Nhưng thêm vào đó, vì các thày không muốn thấy con tìm cách dùng vũ lực xông lên thiên đàng, vì các thày biết rõ cách duy nhất để thăng thiên là buông bỏ. Một lý do nữa là muốn mặc cả, phải có điều gì đó mà cả hai bên đều mong muốn. Nhưng trên địa cầu liệu có điều gì mà một chân sư thăng thiên có thể mong muốn hay chăng?

Biết bao nhiêu các con đã bị cái nhìn tôn giáo truyền thống kia ảnh hưởng và cho rằng Thượng đế, đấng Thượng đế tối cao của vũ trụ, cần được thờ phượng bởi những con người trên hành tinh nhỏ bé này, và do đó họ phải đến nhà thờ mỗi chủ nhật, phải quỳ gối và lẩm nhẩm những lời cầu nguyện đã được định sẵn, như thể Thượng đế cần chuyện đó, như thể ngài cần sự chú ý hay năng lượng của con người. À, ai mới là kẻ cần đến chú ý và năng lượng của con người? Sa nhân, tà lực, là những kẻ không có khả năng tự mình nhận được năng lượng từ một nguồn cao hơn.

Các thày đã thăng thiên là vì các thày nhận năng lượng trực tiếp trong bản thể mình từ một nguồn cội cao hơn. Các thày tự đủ. Các thày không cần bất kỳ năng lượng nào từ ngoài mình. Các thày không cần sự chú ý từ ngoài mình. Các thày có cần gì nữa hay muốn gì nữa chăng? Không gì nữa, tuyệt nhiên không có gì nữa. Một khi đã thăng thiên thì không cần gì nữa từ địa cầu. Các thày không cần con chú ý. Các thày không cần ai thờ phượng, cho nên làm sao con có thể mặc cả với các thày đây? Làm sao con có thể cống hiến điều gì để các thày nói: “Ừ há, người này đã cho ta điều ta muốn, cho nên ta sẽ cho người đó thăng thiên?” Làm sao các thày có thể cho con thăng thiên? Làm sao các thày có thể cho phép con thăng thiên? Đây hoàn toàn là sự chọn lựa tự quyết của con dựa trên sự buông bỏ mọi dính mắc với địa cầu.

Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là không có một khối lượng bài chú nào mà con có thể đọc để hội đủ tư cách thăng thiên. Điều này không có nghĩa là con không cần đọc chú để biến hóa năng lượng, nhưng tự thân bài chú không thể đưa con lên cõi thăng thiên, vì trong tâm con cần có một sự giải quyết, là buông bỏ mọi dính mắc, buông bỏ mọi ham muốn và đạt tới điểm con có thể ngoái nhìn lại trái đất mà không còn gì níu kéo con trở xuống đó. Con có thể ngồi dưới cây Bồ đề, con có thể nhìn tất cả ma quỷ của Mara, tất cả mọi thế lực của thế gian này diễn hành trước mắt, và cho dù chúng có làm gì, nói gì, bày ra những gì, cho dù chúng có làm gì với nhau, có làm gì tới con người, thì không có gì ở đây, không có gì trong đó mà con phản ứng lại.

Điều này không thể thực hiện được bằng vũ lực, không thể đạt được bằng bài chú, và không thể làm được bằng học tập. Con chỉ có thể đạt được qua một sự nhận biết nhạy bén giúp con nhìn ra các ảo tưởng và từ bỏ chúng. Đó là sự buông bỏ, buông bỏ, buông bỏ sau khi buông bỏ sau khi buông bỏ. Có lúc nào sự buông bỏ sẽ ngừng lại chăng? Có, sau khi con thăng thiên, nhưng ngay cả khi đó, con vẫn buông bỏ cái ý niệm bản sắc giới hạn như một chân sư thăng thiên để đạt đến một bản sắc cao hơn nữa như một chân sư thăng thiên. Các thày đã có nói là con thăng thiên trong tư cách Ki-tô, nhưng sau khi thăng thiên một thời gian, con có thể đạt đến mức quả vị Phật. Nhưng con chỉ làm được vậy bằng cách buông bỏ ý niệm bản sắc giới hạn để vươn lên một ý niệm bản sắc cao hơn.

Mối quan hệ các thày mong muốn là như thế nào? À, các thày mong muốn một mối quan hệ mà trước hết, con cởi mở để nhận được một điều gì đó từ các thày. Con mở tâm ra để nhận những gì các thày thấy sẽ giúp con vươn lên từ tầng tâm thức hiện thời của con lên tầng kế tiếp. Điều này có nghĩa là nếu con muốn như vậy từ các thày, con cần nhìn vào các kỳ vọng của con. Làm đệ tử của chân sư thăng thiên có nghĩa là gì, và quan hệ với các thày có nghĩa là gì? Con có thể nhận được gì từ các thày? Con muốn điều gì từ các thày? Con chờ đợi những gì? Liệu con chờ đợi như ta đã nói, một loại trải nghiệm siêu phàm nào đó khi con gặp chân sư? Liệu con chờ đợi các thày sẽ hiện ra trước mắt con và trao cho con những chỉ dẫn cụ thể sẽ khiến con cảm thấy mình thật đặc biệt, đặc biệt hơn người khác?

Nếu con có những kỳ vọng như thế thì chúng sẽ chặn nghẽn khả năng của các thày để giao tiếp với con một cách trực tiếp hơn, vì kỳ thực con sẽ làm ngơ hay bác bỏ những điều các thày nói. Con sẽ nghĩ: “Ồ, cái này không thể đến từ chân sư thăng thiên. Nó không đúng với kỳ vọng của tôi về những gì một chân sư thăng thiên phải nói với tôi, cách chân sư phải phát biểu như thế nào và phải hiện ra như thế nào.”

Một lần nữa, ở những mức sơ khởi trên đường tu, nhiều khi các thày sẽ không cho con một sự giao tiếp trực tiếp vì con không cởi mở với nó, cho nên các thày sẽ cố giao tiếp với con qua những người khác. Đó là vì sao nếu vị sứ giả là một con kiến thì con hãy lắng nghe nó, vì con chưa sẵn sàng nghe thấy các thày trực tiếp.

Nhưng vấn đề tệ nhất cho các thày, trở ngại khó khăn nhất cho các thày là loại đệ tử có thành kiến rất cố định về mối quan hệ của họ với các thày phải như thế nào. Trong một số môn phái Phật giáo, đặc biệt là Thiền tông, người ta có khái niệm “nắm chặt, giữ chặt lấy quan điểm của mình.” Đó là vì các vị thày Phật giáo đó nhận thấy nhiều người đến tu tập với quan điểm và niềm tin có sẵn, và họ cứ nắm chặt lấy như thể đó là chuyện sinh tử. Các vị thày đó đã nhận ra là loại học trò này không cởi mở.

Các thày đã nói điều này nhiều lần và ta sẽ nói lại một lần nữa, nếu con thực sự muốn có quan hệ với các thày, con hãy xem xét bản thân mình. Hãy xem xét quan điểm của mình. Liệu con có một số quan điểm thật kiên cố? Những quan điểm mà con bám lấy rất chặt? Mà con cảm thấy nhu cầu phải bênh vực? Mà con cảm thấy phải bác bỏ bất cứ ai chất vấn hay không chia sẻ quan điểm của mình? Liệu con có một ý tưởng rất, rất kiên cố về những gì một chân sư thăng thiên phải nói hay không được nói? Trong trường hợp đó, nếu con sẵn lòng thành thật với chính mình, con sẽ biết là con không cởi mở với một sự tương tác trực tiếp với các chân sư thăng thiên.

Suốt nhiều năm trời với những đợt truyền pháp khác nhau của chân sư thăng thiên, các thày đã chứng kiến một khuôn nếp nhất định cứ diễn đi diễn lại hoài hoài. Chẳng hạn các thày thấy một nhóm học trò – có thể là một nhóm học trò từ một quốc gia nào đó – và dựa trên văn hóa cùng lịch sử của quốc gia này, họ mang sẵn một quan điểm mà họ vô cùng gắn bó. Nó vô cùng quan trọng trong nền văn hóa của họ. Họ giữ chặt ý tưởng là nó phải đúng, do đó vì chân sư là bậc cao siêu chắc chắn phải biết rõ sự thật, cho nên chân sư không bao giờ được nói gì sẽ chất vấn điều họ tin là cái nhìn tối hậu về một sự việc nào đó.

Khi các thày nói ra một điều gì chất vấn niềm tin đó thì các thày từng thấy nguyên nhóm học trò xác quyết: “Ồ, sứ giả này không phải là sứ giả đích thực, bởi vì một chân sư thăng thiên đích thực không thể nào nói ra lời này.” Thế là họ rút ra khỏi giáo lý. Các thày từng thấy những cá nhân cũng hành xử tương tự bởi nhiều lý do khác nhau. Thường là vì trong tâm lý của họ, họ chạm trán với một điều gì mà họ không sẵn sàng xem xét hay từ bỏ, mà các thày thì lại nói ra những lời chất vấn cái đó, cho nên họ phải gạt bỏ lời nói của các thày. Có một số học trò đến với giáo lý của chân sư thăng thiên với một số ngã tách biệt mà họ không sẵn sàng xem xét, không sẵn sàng buông bỏ. Họ đã tạo ra một ngã tách biệt khác bảo rằng: “Tôi không phải từ bỏ điều này.” Họ không phải xem xét nó vì họ nghĩ người ta có thể thăng thiên mà không cần xem xét khía cạnh này của tâm lý mình. Họ tin rằng họ có thể làm những chuyện khác, chẳng hạn như nếu họ thỉnh đủ số lượng lửa tím thì họ sẽ không cần nhìn vào điều này trong tâm lý họ mà vẫn có thể thăng thiên.

Rất nhiều lần các thày đã nói gì? Con không thể thăng thiên với một tâm lý chưa giải quyết. Một chân sư thăng thiên không có tâm lý chưa giải quyết. Con thấy có những người bị phật lòng vì điều này. Đó là những người trong một đợt truyền pháp trước – khi có lời dạy được đưa ra là con có thể thăng thiên sau khi cân bằng 51% nghiệp chướng của mình – đã hiểu lời đó theo nghĩa đen, nghĩa là nếu có ai cân bằng được 51% nghiệp của mình thì người đó có thể thăng thiên, và một khi họ thăng thiên thì họ trở thành một chân sư thăng thiên. Nhưng nếu con biết một số người đã băng qua tấm màn cuộc đời sau khi được sứ giả đợt truyền pháp đó cho biết là họ đã cân bằng 51% nghiệp chướng, thì con sẽ dễ dàng thấy được là họ vẫn còn một số tâm lý chưa giải quyết. Điều mà họ không sẵn lòng xem xét là liệu họ có thể thực sự trở thành chân sư thăng thiên khi họ vẫn còn tâm lý chưa giải quyết? Hiển nhiên là không.

Có thể có ai đó đã cân bằng hơn 51% nghiệp của mình và không phải trở lại đầu thai, nhưng người đó vẫn phải bỏ ra một thời gian trước khi trở thành chân sư thăng thiên, vì trước tiên họ phải giải quyết xong tâm lý cái đã. Như Mẹ Mary có giảng, phần 51% nghiệp chướng là nghiệp con mang với người khác và phần 49% là nghiệp con mang với chính con dưới dạng tâm lý chưa giải quyết, nhưng phần này thì con có thể cân bằng mà không đầu thai. Đối với hầu hết mọi người, nếu họ ở trong hiện thân thì họ sẽ cân bằng nhanh hơn là khi đứng ngoài hiện thân. Nhưng đối với một số người, họ đã chọn làm vậy và do đó họ sẽ tốn một số thời gian.

Có người bám quá chặt vào những điều được nói trong các đợt truyền pháp trước đến độ họ đã chối bỏ khi các thày chất vấn điều đó trong đợt truyền pháp này. Họ chối bỏ sứ giả này. Họ chối bỏ các thày vì các thày không nói những điều mà họ nghĩ các thày phải nói.

Nhiều người khác trong các đợt truyền pháp khác nhau có cùng những dính mắc đó vào một số quan điểm, một số góc nhìn đến độ họ đến với giáo lý cốt yếu là để xác chứng các niềm tin kiên cố của họ. Và khi không nhận được xác chứng thì họ tìm ra một lý cớ nào đó để chối bỏ giáo lý.

Nhiều người bị rơi vào một khuôn nếp đặc trưng là họ tìm thấy một lời dạy, họ chấp nhận sứ giả là vị sứ giả của đợt truyền pháp đó, và họ tin đó là vị sứ giả đích thực nhận được lời truyền đọc từ chân sư thăng thiên. Nhưng rồi xuyên qua sứ giả, các thày chất vấn một trong những quan điểm mà họ không sẵn sàng từ bỏ hay tra vấn.

Thế là họ lý luận: “Ồ hỏng rồi, chuyện gì đã xảy ra cho sứ giả rồi. Khi chúng ta bước vào tổ chức này, chúng ta đã không sai lầm nhận định sứ giả này là vị sứ giả chân chính. Nhưng giờ đây có chuyện gì đã xảy đến và sứ giả này không còn là sứ giả chân chính nữa. Ông ấy hay bà ấy đã bị tước mất trách vụ và hiện đang liên lạc với hàng ngũ thày giả hay những kẻ mạo danh. Cho nên chúng ta phải rời tổ chức và bác bỏ bất cứ lời dạy nào từ một thời điểm nào đó trở đi.” Các thày đã chứng kiến sự kiện này mấy lần trong mấy đợt truyền pháp, mỗi lần đại khái với cùng những lập luận như thế. Và tại sao chứ? Bởi vì đó là cùng cái tâm lý chưa giải quyết nơi đệ tử khiến họ phải bác bỏ sứ giả hầu họ không phải nhìn vào cái đà trong mắt họ.

Đây là một điểm con có thể cảnh giác nơi chính mình, con có thể nhìn xem: “Liệu tôi có một niềm tin nào mà tôi bám chặt đến độ tôi không muốn các chân sư thăng thiên thách đố?” Và nếu con có mang loại niềm tin đó thì con có thể nói: “À, không thể nào chính tôi trong tư cách cái Ta Biết đang bám chặt lấy quan điểm đó, bởi vì cái Ta Biết không thể bám vào bất cứ quan điểm nào trên địa cầu, cho nên đây chỉ có thể là một cái ngã tách biệt. Và nếu tôi muốn tinh tiến, tôi sẽ phải xem xét ngã tách biệt này và đạt tới điểm có thể buông nó ra, buông cho nó chết đi, buông quan điểm đó và ngộ ra là phải có một cách hiểu biết cao hơn. Và tôi muốn hiểu biết cao hơn này thay vì cứ bám giữ cái hiểu biết giới hạn kia.”

Nói cho cùng, điều gì sẽ giúp con hội đủ tư cách để thăng thiên? Phải chăng là bám giữ ý tưởng của mình, ôm chặt lấy ý tưởng, hay là buông nó ra? Chỉ bằng cách buông bỏ thì con mới có thể trở về trạng thái mà cái Ta Biết đã đi xuống thế gian và do đó cũng sẽ thăng lên. Như Giê-su đã diễn tả thật hùng hồn cách đây 2000 năm: “Chỉ duy nhất con người đã đi xuống từ thiên đàng mới có thể thăng trở lại lên thiên đàng.”

Con muốn gì từ một mối quan hệ, từ mối quan hệ của con, mối quan hệ cá nhân của con với các chân sư thăng thiên? Con muốn gì? Không phải cái mà sa nhân muốn hay cái mà sa nhân muốn con muốn. Không phải cái mà người đời muốn hay cái mà họ muốn con muốn. Không phải cái mà tự ngã hay ngã tách biệt của con muốn hay cái mà nó muốn con muốn. Không, con muốn gì chứ? Ở mức tâm thức hiện thời của con, với mức nhận biết hiện thời của con, mức nối kết hay không nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, trải nghiệm hiện thời hay thiếu trải nghiệm của con về sự nhận biết thuần khiết, con muốn gì chứ? Con có muốn bước lên bực thang kế tiếp trên cái thang 144 bực? Nếu con muốn vậy thì cái cơ chế, cơ học của chuyện này thật giản dị. Ngay bây giờ con đang mang một ảo tưởng mà con không thể nhìn thấy. Chỉ bằng cách nhìn ra ảo tưởng đó và đón nhận một tầm nhìn cao hơn – cao hơn một chút thôi – thì con mới có thể vươn lên bước kế tiếp. Con không thể nhảy từ nơi con đang đứng lên thẳng tầng 144. Con phải đi qua tất cả mọi bước, từng bước một.

Con muốn gì chứ? Nếu con muốn sự tăng triển này thì con không thể nắm chặt vào các ý tưởng của mình. Con không thể nắm chặt vào ảo tưởng đã ngăn con vươn lên bước kế tiếp mà đồng thời lại vươn lên được bước kế tiếp. Con không thể ăn hết bánh mà lại vẫn còn bánh. Con không thể có được đức Phật của con mà lại thần tượng hóa đức Phật. Con không thể có được các chân sư thăng thiên của con mà lại phóng chiếu những đặc tính nhân phàm hay sa ngã lên chân sư thăng thiên. Đơn giản là có những thứ không thể đi đôi với nhau.

Các thày thấy có một số đệ tử không tin như vậy. Họ không chấp nhận điều đó, vì họ cả tin vào lời dối gạt của sa nhân rằng họ có thể tìm cách gian lận để lên thiên đàng. Một số sa nhân vẫn tin là chúng có thể tìm ra cách thay đổi quan điểm của Thượng đế vì chúng xem đó là quan điểm của Thượng đế, là sự phán xét của Thượng đế đối với chúng. Chúng nghĩ là ngài đã phán xét chúng, ngài đã cưỡng ép chúng phải sa ngã, và chúng phóng chiếu ra là một sinh thể bên ngoài đã gây chuyện đó cho chúng. Và do đó để quay trở về trạng thái cũ, chúng phải thay đổi sinh thể bên ngoài đó, phải thay đổi quan điểm cùng sự phán xét của sinh thể đó đối với chúng. Và chúng vẫn nghĩ là chúng có thể tìm ra cách làm chuyện này vì chúng vẫn chưa nhìn nhận là chính những chọn lựa của chúng mới khiến chúng sa ngã, và sự thay đổi duy nhất mà chúng cần làm là thay đổi các chọn lựa đó đi, thay đổi cái tâm lý đó đi.

Cho nên chính chúng mới cần thay đổi. Đây là một sự thay đổi nội tâm cần phải xảy ra, và không một nỗ lực gian lận hay khuynh đảo nào sẽ đem chúng lên thiên đàng. Và đối với các con cũng vậy, các đệ tử của chân sư thăng thiên. Con không thể khuynh loát các thày, con không thể đánh lừa các thày, con không thể mặc cả với các thày. Con không thể khiến các thày thương hại con. Tại sao như thế? Vì các thày không muốn con lên thiên đàng trong tư cách một con người – nếu giả dụ điều này có thể xảy ra.

Các thày muốn con trở thành chân sư thăng thiên như các thày đang là, và con chiêm nghiệm sự tự do cùng niềm vui không sao tưởng tượng nổi mà các thày đang cảm thấy, vì nó vượt khỏi mọi cảm giác mà con có được trên địa cầu. Các thày không thể nào truyền đạt được cảm giác này cho con, chắc chắn là không thể qua ngôn từ. Nhưng các thày hy vọng có thể trao cho con một hé thoáng là trên cõi thăng thiên có một điều gì đó mà con mong muốn hơn bất cứ gì trong tâm thức nhân phàm. Và làm thế nào con đạt được chứ? Bằng cách từ bỏ tâm thức nhân phàm. Yêu cầu chỉ có vậy thôi. Các dính mắc đều đến từ tâm thức nhân phàm. Chúng phải được buông bỏ. Con thử nhìn xem con có đang bám giữ cái gì không. Đâu là cách duy nhất để giải thoát khỏi cái đó? Nếu con cứ nắm chặt một cái gì trên địa cầu thì con cũng buộc chặt con vào địa cầu. Đâu là cách duy nhất để được tự do? Có phải đó là thay đổi một cái gì trên địa cầu hay là đơn giản buông tay ra và để cho nó rơi xuống?

Chính sự buông tay này sẽ giải thoát con khỏi dính mắc. Chừng nào con còn nắm chặt ý tưởng của mình, làm sao con có thể thoát khỏi chúng đây? Điều này không thể. Cho dù con có tìm cách thao túng thế giới, thao túng người khác, Thượng đế hay các chân sư thăng thiên đến chừng nào, thì con cũng không thể thoát ra được. Chỉ có một cách mà thôi, và để giúp con tìm đường trở về, các thày cống hiến cho con một mối quan hệ trực tiếp với các thày. Nhưng các thày không thể cưỡng ép con, các thày sẽ không cưỡng ép con. Con mới là người phải đáp ứng các yêu cầu bằng cách tiếp nhận lời dạy của các thày, đem ra áp dụng và buông những gì ngăn cách con với các thày.

Con không thể có một mối quan hệ trực tiếp với các thày xuyên qua tự ngã của con hay các ngã tách biệt, mà chỉ bằng cách vượt khỏi ngã tách biệt và ngộ ra sự nhận biết thuần khiết của con. Nhận biết thuần khiết là một tâm thái trung hòa. Nó không mang đặc tính những quan điểm kiên cố, quan điểm đối cực hay cảm xúc mãnh liệt. Ta là Phật. Ta trụ trong một tâm thái trung hòa so với tâm thái nhị nguyên. Đề mô tả nó đầy đủ, ta có thể dùng những từ khác, nhưng những từ này sẽ ích gì cho con? Ta sẽ mô tả là nó khác biệt với tâm thái của con để con có thể nhìn ra đây thực là cái con muốn. Trong số các con có ai là avatar thì đang mong mỏi trở về với tâm thái tự nhiên hơn mà con từng có trên một hành tinh tự nhiên. Và con có khả năng có được tâm thái này, con có thể có nó ngay trên hành tinh này nhưng chỉ khi nào con buông bỏ những gì đang ngăn cách con khỏi nó.

Với lời này, ta đã trao cho con những gì ta muốn trao trong bài truyền giảng này. Ta có thể nói nhiều hơn nữa, và rất nhiều điều hơn nữa sẽ được ban truyền. Sứ giả này đã nỗ lực tu tập trong một thời gian dài để sẵn sàng nhận được một lời dạy trực tiếp hơn từ ta, nó có thể sẽ được ban truyền trong một tương lai không quá xa. Ta có rất nhiều điều để trao cho con cùng những ai trên địa cầu cởi mở với một lời dạy trực tiếp từ chân sư thăng thiên Phật Gautama.

Giờ đây ta cũng gửi lời cảm tạ của ta cũng như tất cả các thày đến tất cả các con đã tham dự buổi hội nghị này. Một lần nữa, các thày đã đạt được những gì các thày mong muốn đạt được, các thày đã vượt quá mức tối thiểu mà các thày mong muốn đạt được, qua số người cùng sự sẵn lòng của các con mở tâm ra, buông bỏ định kiến để nhận được lời dạy.

Các thày rất biết ơn điều đó. Một lần nữa, nó đã xoay chuyển tâm thức tập thể, nó đã giải thoát nhiều người là những con người sáng tạo hơn, cởi mở với các ý tưởng mới về quan hệ. Và với thời gian, nó sẽ tỏa rộng giống như những vòng tròn trên mặt nước và thực sự mở ra khả năng càng ngày càng có nhiều người hòa điệu với mối quan hệ của Thời Hoàng kim. Họ có khả năng mở tâm ra để thử nghiệm mối quan hệ này, và trải nghiệm một dạng quan hệ mới hơn và cao hơn không dựa trên vũ lực, mà dựa trên dòng chảy tự do của năng lượng sáng tạo của Thượng đế. Với lời này, ta biết ơn và niêm các con trong sự an bình hoan hỉ của đức Phật mà ta là.