Họa sĩ Van Gogh có nhận cảm hứng từ các chân sư?

Hỏi: Phải chăng họa sĩ Van Gogh đã nhận được cảm hứng trực tiếp từ các chân sư thăng thiên để cho chúng ta thấy là toàn bộ thế giới hình tướng là sự tương tác quay cuồng giữa các sóng ánh sáng? Phải chăng cách vẽ này là cách các thày muốn nói lên là chúng con cần rèn luyện giác quan của mình nhận thức ánh sáng vật chất như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa Kỳ – Phục hồi nền dân chủ. Đăng ngày 13/11/2022.

Phải, chúng ta có thể nói là Van Gogh đã nhận được cảm hứng từ các chân sư thăng thiên. Câu hỏi đặt ra là cảm hứng này trực tiếp đến chừng nào vì tâm ông phần nào thiếu cân bằng. Nhưng rất đúng là các bức họa của ông có khả năng tạo cảm hứng cho con luyện tập cách nhìn ánh sáng vật chất để thấy nó được cấu tạo bởi năng lượng không ngừng chuyển động. Không nhất thiết là năng lượng chuyển động theo như con thấy trên các bức họa của ông, nhưng đó là những gì Van Gogh đã có thể nắm bắt. Chắc chắn ông cảm nhận được là thế giới được tạo bằng năng lượng. Và mặc dù ông không thể thực sự diễn tả bằng lời nói, thay vào đó ông đã minh họa qua hình vẽ.

Con cần nhìn nhận là rất nhiều người khắp thế giới có tầm nhìn, có viễn quan cao hơn bình thường, họ phần nào bị mất cân bằng về mặt tâm lý. Đây là một khuôn mẫu quen thuộc con có thể nhận thấy suốt chiều dài lịch sử, là những người mở ra một cách nhìn khác biệt về thực tại thường quá rộng mở. Và do đó họ bị choáng ngợp bởi các ấn tượng mà họ nhận được. Trong một số trường hợp, các ấn tượng này có thể đến từ cõi trung giới, như con thấy một số bức tranh vô cùng đen tối vào thời Trung cổ hay những truyện kể vô cùng đen tối được viết ra. Nhưng ấn tượng cũng có thể đến từ cõi cảm xúc cao, từ cõi lý trí, ngay cả từ cõi bản sắc, và trong một vài trường hợp từ cõi tâm linh. Nhiều người như vậy thấy được một khải tượng đích thực, họ có cảm nhận nối kết với một cái gì vượt khỏi cõi vật chất, chắc chắn là vượt khỏi tâm thức tập thể vào thời của họ. Nhưng họ lại không có khả năng sống một cuộc đời cân bằng.

Đây là một điều con cần suy ngẫm khi con là một đệ tử của chân sư thăng thiên, nghĩa là mặc dù việc nỗ lực đạt được một viễn quan nào đó là một điều tốt, nhưng con vẫn cần phải có một sự quân bình trong cuộc sống. Lý do duy nhất vị sứ giả này đã sống sót sau gần 20 năm trong cương vị của ông là vì hầu như từ tuổi niên thiếu, ông đã nhận biết là ông cần giữ một sự quân bình nào đó. Và mặc dù một số người sẽ nói đời ông đã không quân bình theo một tiêu chuẩn bình thường, ít ra ông đã đủ quân bình trong tâm lý để có thể tiếp tục công việc ông đang làm. Và đây là điều tất cả các con cần cố gắng làm.

Con cần tránh rơi vào hai đối cực. Con cần tránh có những nhu cầu ám ảnh cưỡng chế, như: “Có một chuyện cần phải xảy ra, một sự cố quan trọng cần phải xảy ra trong đời tôi, và nó phải xảy ra ngay tức khắc.” Và vì thế con trở nên mất cân bằng – con tìm cách chiếm đoạt thiên đàng bằng vũ lực như nhiều người đã từng làm.

Cân bằng thực sự là bí quyết để bền vững – sự bền vững trong nỗ lực của con. Và điều này có nghĩa là con có thể tiếp tục làm cánh cửa mở, tiếp tục có được tầm viễn quan rộng lớn trong một thời gian dài hơn, thay vì rơi vào hội chứng sụp đổ toàn diện mà chúng ta hay thấy xảy ra với nhiều người cấp tiến đi tiên phong. Các thày không muốn nhìn thấy điều này nơi đệ tử của mình. Đó là vì sao các thày đã trao cho con một con đường cân bằng hơn nhiều, với những dụng cụ và kỹ thuật cân bằng mà con có thể dùng để giải quyết cái tâm lý khiến con mất cần bằng.

Vì tất nhiên, tại sao Van Gogh lại mất cân bằng? Là vì ông mang tất cả những cái ngã tách biệt được tạo ra trong tiền kiếp đi ngược trở về thuở lần đầu tiên ông đến địa cầu như một avatar và phải hứng chịu chấn thương nhập đời. Và như vậy, sự mất cân bằng của ông cứ ngày càng tồi tệ hơn trong mấy kiếp đầu thai, cho đến khi nó lên đến cực điểm như con thấy trong kiếp vừa rồi của ông.

Alexander Đại đế có phải là một sa nhân?

Hỏi: Alexander Đại đế có phải là một sa nhân?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 28/10/2021.

Phải.

Câu hỏi về Nikola Tesla

Hỏi: Nhà khoa học Tesla có sẽ trở lại đầu thai trong Thời Hoàng kim?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị ở Washington D.C., Hoa Kỳ năm 2019. Đăng ngày 5/12/2019.

Dòng sống đã đầu thai như Nikola Tesla đã tái đầu thai rồi đó, và một lần nữa là một nhà khoa học. Chắc chắn ta sẽ không tiết lộ vị ấy là ai. Nhưng theo một nghĩa nào đó có thể nói rằng câu hỏi thật vô nghĩa, vì tất nhiên Tesla đã không trở lại là Tesla. Khi con đã trải qua một kiếp sống, cho dù kiếp sống này có trải ra như thế nào, thì con học hỏi từ kiếp sống đó, con tăng triển từ kiếp sống đó. Và nếu con thật sự tăng triển – và Tesla là một trong những dòng sống đang tăng triển – thì con đâu có muốn lặp lại kiếp sống vừa qua của con. Con muốn thăng vượt nó, con muốn đi xa hơn.

Điều xảy ra là với một số nhân vật nổi danh như vậy, loài người trong hiện thân thường tạo dựng một loại hình ảnh biểu hiện cách họ nghĩ về người đó như thế nào. Trong hầu hết mọi trường hợp, hình ảnh này hoàn toàn xa lạ với con người thực của người đó. Thật ra họ đâu muốn Tesla trở về mà họ muốn hình ảnh của Tesla trở về, để Tesla làm tiếp những gì hình ảnh này sẽ làm nếu như kiếp sống trước của ông không bị gián đoạn. Cách nhìn này thật không thực tiễn.

Con biết không, thật ra con cần để yên cho dòng sống các nhân vật nổi tiếng đó được tự do bước tới theo ý của họ trên hành trình tâm linh riêng của họ. Nhưng có những người đang đầu thai tạo ra một lực kéo mãnh liệt đến độ nó có thể tác động đến các dòng sống và ngăn trở dòng sống tiến bước.

Đối với riêng bản thân ta, chắc chắn đây đã có thể là một tình thế mà ta phải đương đầu nếu như ta nổi danh hơn trong kiếp chót của ta. Nhưng vì loài người chỉ thực sự biết đến ta hàng mấy thế kỷ sau, cho nên đó đã không hẳn là một vấn đề cho ta. Nhưng đúng là đã có những vị nổi danh với tiềm năng thăng thiên, nhưng do họ cảm thấy lực kéo mãnh liệt của những ai đã biết đến họ khi họ còn sinh tiền, cho nên họ không buông ra được để mà bước đi tiếp.

Mẹ Teresa đã thăng thiên hay chưa?

Hỏi: Câu hỏi này là về Mẹ Teresa. Theo một câu trả lời trước, Mẹ Teresa đã không thăng thiên sau khi Mẹ từ trần. Vậy bây giờ thì sao?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2017. Đăng ngày 17/9/2018.

Dòng sống của Mẹ Teresa đã không thăng thiên mà đã tái đầu thai. Điều này sẽ khiến cho nhiều người ngạc nhiên vì họ sẽ nghĩ là một vị đã từng phụng sự tha nhân một cách vô vị lợi suốt từng nấy năm trời nhất định phải đã thực hiện rất nhiều việc thiện lành và hội đủ tư cách thăng thiên.

Nhưng con hãy lắng nghe những gì các chân sư đã trình bày trong hội nghị này, kể cả sự kiện là con có thể hội đủ những điều kiện thăng thiên bằng cách đi theo một con đường tu tập khổ hạnh, nhưng nếu con chưa hoàn thành được mọi mong muốn của con trên địa cầu thì con thực sự chưa thể thăng thiên và bỏ địa cầu lại đằng sau.

Trên trang mạng này có nhiều lời day chi tiết về Mẹ Teresa cũng như cuộc khủng hoảng nội tâm của Mẹ [chưa dịch sang tiếng Việt], và nếu con tìm hiểu các bài giảng đó, con sẽ thấy là mặc dù Mẹ Teresa đã hoàn thành rất nhiều công việc từ thiện cho tha nhân, Mẹ vẫn chưa làm đủ về mặt tâm lý để giải quyết tâm lý của Mẹ. Đó là lý do vì sao Mẹ chưa sẵn sàng thăng thiên.

Điều mà con không thấy là quan điểm truyền thống của đạo Cơ đốc hoàn toàn không đúng khi cho rằng con có thể hội đủ tư cách thăng thiên bằng cách thực hiện nhiều công việc thiện lành. Thật sự con có thể hiểu được điều này nếu con nhìn vào lời dạy của Giê-su khi thày giải thích rằng Vương quốc Thiên đàng không đến qua sự tuân thủ những luật lệ và giáo lý vỏ ngoài của một tôn giáo. Lý do là vì Nước Trời nằm ngay trong con và đó chính là nơi con phải tìm Nước Trời. Điều này có nghĩa là con phải giải quyết những vấn đề trong tâm lý của con đang ngăn cản con đứng trong Nước Trời.

Nhà thơ Rumi có đã thăng thiên?

Hỏi: Nhà thơ của phái Sufi, Jalal ad-Din Rumi, có đã thăng thiên và đạt đến hợp nhất với Thượng đế hay chưa? Ông có viết một bài về cái Một và tình yêu Thượng đế.


Trả lời của chân sư thăng thiên Kuthumi qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc, năm 2016. Đăng ngày 22/4/2017.

Nhà thơ Rumi đã không thăng thiên nhưng không phải vì ông không có khả năng thăng thiên, mà vì ông đã chọn tái đầu thai.

Có một số lý do phức tạp, nhưng trên hết, ông đã tăng triển tới mức ông có khả năng cầm giữ một sự cân bằng tâm linh cho địa cầu, và do đó ông đã quyết định duy trì một xác thân vật lý.

Ông chọn không là một người được công chúng biết đến, mà ông sống ẩn danh, hay sống ẩn dật, để ông có thể cầm giữ một sự cân bằng tâm linh trong khi thế giới bên ngoài hoàn toàn không biết đến ông. 

Giáo hoàng John Paul đã, hay sắp, được thăng thiên?

Hỏi: Kính thưa Giê-su, Giáo hội Công giáo đang đẩy nhanh tiến trình phong thánh cho cố Giáo hoàng John Paul II. Nhưng trên trang mạng này, hình như thày không xem những việc làm thế gian như vậy có tầm quan trọng trong cõi tâm linh. Liệu John Paul II đã hội đủ điều kiện để thăng thiên, và liệu ông đang là, hay sắp là, một chân sư thăng thiên?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Hãy để ta cho con một tầm nhìn để con có thể so sánh. Sau kiếp hiện thân là Moses (Môi-se), Moses đã không thăng thiên ngay. Ông đã phải tái đầu thai để quân bình một số nghiệp quả mà ông đã tạo ra, và ông cũng cần vượt qua khuynh hướng hay phản ứng nóng giận trong một số tình huống. Thánh Paul (sứ đồ Phaolô) đã không thăng thiên ngay sau kiếp đó mà phải tái đầu thai để giải quyết một số vấn đề tâm lý và quân bình nghiệp quả.

Ta nói những điều này để con thấy là nhiều người được xem là lãnh tụ lớn lao, hay những bậc thánh, đã không nhất thiết thăng hoa ngay sau kiếp đầu thai làm nhân vật lịch sử nổi tiếng. Lý do là vì khi con lãnh đạo một tổ chức rộng lớn hay một quốc gia, những quyết định của con ảnh hưởng đến hàng triệu hay hàng tỷ người, và con dễ dàng tạo ra những nghiệp chướng sẽ cần thời gian để quân bình. 

Con cũng dễ dàng bị cuốn hút vào trách vụ của con đến độ con không còn thì giờ hay chú tâm để giải quyết những vấn đề tâm lý của con. Và thật vậy, một số dòng sống lý luận rằng vì họ được giao phó một địa vị quan trọng trong xã hội loài người thì họ không cần phải tu sửa tâm lý của họ. Một số người khác thì gạt các vấn đề tâm lý sang một bên vì sứ mạng thế gian của họ có vẻ quan trọng hơn sứ mạng tổng quát là thực hiện sự thăng thiên.

Trong trường hợp của John Paul II (Gioan Phaolô đệ nhị), quả là sứ vụ thiêng liêng của ông có bao gồm việc lãnh đạo Giáo hội Công giáo và cố gắng trở thành giáo hoàng. Tuy nhiên, sứ vụ thiêng liêng của ông cũng bao gồm việc tiếp tục tiến trình đưa Giáo hội Công giáo vào thế kỷ thứ 21 mà Giáo hoàng John 23 đã khởi đầu.  

Nếu con nghiên cứu cuộc đời của John 23, con sẽ thấy ông có viễn kiến thật rõ ràng rằng cơ cấu lãnh đạo tập quyền của Giáo hội Công giáo đã lỗi thời và cần được cải tổ. Ông cũng biết là có nhiều học thuyết của đạo Công giáo cần được duyệt sửa, không chỉ để phản ánh thời đại mới mà phản ánh sự thật trong giáo lý tâm truyền của ta mà ông thấu hiểu. Con thấy được là John 23 thật sự đã bị các phần tử bảo thủ trong giới lãnh đạo Giáo hội bài bác là người chuộng tân thời. Kỳ thực, ông gần gũi với giáo lý chân truyền của ta – và nhu cầu kiến tạo một giáo hội hiện đại phản ánh những gíáo lý đó – hơn giới lãnh đạo Công giáo bảo thủ rất nhiều.

Ta không có ý nói là ta hay Mẹ Mary đồng ý với tất cả những gì xảy ra trong hội nghị mang tên Cộng đồng Vatican II, nhưng ta nói rằng hội nghị này là một bước đầu cần thiết trong một tiến trình đã có thể dẫn tới việc cải tổ toàn bộ Giáo hội Công giáo và biến Giáo hội thành một tổ chức sống động, bền vững với tiềm năng đóng góp trong chu kỳ tâm linh kế tiếp.

Nếu tiến trình này đã được tiếp tục trong tinh thần của Giáo hoàng John 23 thì đến nay rất nhiều tiến bộ đã có thể đạt được.Con đã không phải chứng kiến số lượng tín hữu suy giảm trầm trọng như đã xảy ra trong những thập niên qua. Đáng lý con cũng đã được thấy một giáo hội có khả năng gấp bội để giải quyết vụ tai tiếng lạm dụng tình dục, thay vì che đậy và mong rằng vấn đề sẽ biến mất nếu mình cứ ngồi ì làm ngơ.

Ta phải nói là Mẹ Mary đã hỗ trợ mạnh mẽ cho Giáo hoàng John 23 và các nỗ lực của ông nhằm cải tổ Giáo hội Công giáo. Ta cũng có thể nói thêm là John 23 đã thăng thiên sau kiếp đầu thai đó – không hoàn toàn là do những gì ông đã thực hiện trong kiếp đó, mà do ông đã chứng đạt cao độ trước kiếp đầu thai cuối cùng này. Ông đã thể nhập các giáo lý tâm truyền của ta cũng như Ngọn lửa Hòa bình của Thượng đế nơi chính ông, đến độ nhiều người cảm được sự Hiện diện của Hòa bình bao quanh ông.     

Ta nói với con những điều này để con có một tầm nhìn về John Paul II và triều giáo hoàng của ông. Con sẽ thấy ông là một giáo hoàng vô cùng bảo thủ. Trong cuộc sống riêng tư, ông có những khuynh hướng thần bí, nhưng ông cảm thấy rất khó mà chuyển cảm hứng thần bí thành hành động nhằm hiện đại hóa Giáo hội cho theo đúng giáo lý chân truyền của ta.

Một phần do vụ mưu toan ám hại và phần khác do ông đã lớn lên trong một cộng đồng bảo thủ tại Ba lan, ông quyết định giữ kín những khuynh hướng thần bí này, và ông tự biến mình thành một nhà quản lý tiếp nối chủ trương mà các tấm gương bảo thủ của ông coi là chủ trương chính đáng duy nhất cho Giáo hội. Ông cũng sử dụng nhu cầu chống lại chủ nghĩa cộng sản như là cái cớ để không cải tổ Giáo hội, và như vậy ông đã làm mồi cho cái xu hướng ngàn đời là cho phép một kẻ thù vỏ ngoài đánh lạc hướng mình để không còn chiến đấu kẻ thù bên trong. Điều này vô cùng đáng tiếc, và rõ ràng là không đúng với sứ vụ thiêng liêng mà ông cùng với các vị thày tâm linh của ông đã thảo ra trước khi ông đầu thai. Tuy rằng các hành động của Giáo hoàng đã có tác động vỏ ngoài là đẩy mạnh sự chống đối đối với chủ nghĩa cộng sản, nhưng nguyên nhân thực sự cộng sản đã sụp đổ một phần là do các mâu thuẫn nội tại của chính chủ nghĩa cộng sản, và phần khác là do sự cầu nguyện kiên trì của rất nhiều học trò của Saint Germain.    

Mặc dù John Paul có một đời sống tâm linh tốt đẹp, mặc dù ông hoàn thành được nhiều điều tốt đẹp, nhưng trong kiếp hiện thân đó, ông đã tạo ra nhiều nghiệp quả hơn là ông đã cân bằng. Con thấy không, nghiệp không nhất thiết là những việc con làm mà người đời xem là tốt hay xấu, mà con có thể gây ra nghiệp do sự thiếu sót, tức là con không làm xong một công việc quan trọng mà con có tiềm năng hoàn thành.     

John Paul thực sự đã có tiềm năng lớn lao – lớn lao hơn bất cứ một cá nhân nào khác trong lịch sử cận đại – để chuyển đổi Giáo hội Công giáo thành một tổ chức tâm linh hiện đại, nhưng ông đã không làm được trên hầu hết các phương diện. Điều này tạo ra một cái nghiệp khiến ông phải trở lại thế gian để quân bình. Thêm vào đó, ông tạo ra nghiệp quả nghiêm trọng khi trong tư cách người lãnh đạo tối cao của Giáo hội, ông đã không đối phó với vụ tai tiếng lạm dụng tình dục một cách công khai và quyết liệt.

Vì ông là người độc nhất có quyền hạn chỉ đạo chủ trương của Giáo hội về vấn đề này, nên ông phải gánh chịu một phần lớn nghiệp chướng mà mỗi linh mục tạo ra. Mặc dù cá nhân ông không phạm lỗi lạm dụng nhưng ông đã có thể ngăn chặn, và có thể làm nhiều hơn để ngăn chận những vụ lạm dụng tương lai. Ông cũng đã có thể làm rất nhiều hơn trong cách xử lý vấn đề hầu cải thiện hình ảnh của Giáo hội thay vì phá tan phần lớn uy tín của Giáo hội.   

Do đó John Paul sẽ không trở thành một chân sư thăng thiên cho tới khi ông tái đầu thai và quân bình nghiệp quả. Thêm vào đó, dòng sống của ông mong muốn mãnh liệt được chuộc lỗi và được có cơ hội thứ nhì để cải tổ Giáo hội Công giáo.   

Mặc dù John Paul đã dang tay đón nhận người đạo Do Thái, ông không hoàn thành được tiềm năng của triều giáo hoàng của ông để biến cải Giáo hội Công giáo thành một tổ chức tâm linh phổ quát hơn. Làm như vậy sẽ đòi hỏi phải cải tổ toàn diện các học thuyết Công giáo cũng như cơ cấu lãnh đạo, trao quyền tự quản cho các lãnh đạo Công giáo địa phương để họ có thể thích ứng với điều kiện ở mỗi quốc gia.

Vì vậy mà John Paul đã không thăng thiên được. Ta nói cho con những điều này để con thấy thực tế là con không thể đánh giá mọi người theo cùng một tiêu chuẩn. Mỗi người đều có một sứ vụ độc nhất, và tùy theo sứ vụ của con, nhiều khi một cuộc sống gọi là tốt thiện vẫn chưa đủ. Đó là tại sao ta đã nói, trừ khi đạo đức của con vượt trội đạo đức của các thày thông giáo và người Pha-ri-si thì con không vào được thiên đàng.   

Ta không muốn nói là John Paul là một thày thông giáo, một người Pha-ri-si hay một kẻ đạo đức giả. Ông quả thực là người chính trực trong các vấn đề vỏ ngoài, nhưng ông không có chính trực để luôn luôn trung thực với viễn quan nội tâm cao nhất của ông. Và ông không mở tâm ra để nhớ lại trong ý thức sứ vụ thiêng liêng của mình. Sự mở tâm này là cách duy nhất để bảo đảm kiếp sống này của con đạt được tiềm năng cao nhất.

Ta hiểu là khi một dòng sống bước vào những năng lượng dày đặc của địa cầu, thật là dễ dàng quên đi sứ vụ thiêng liêng của mình. Tuy nhiên, bất kỳ dòng sống nào cũng có thể, bằng cách giữ cho con tim và tâm trí mình mở rộng, tái khám phá sứ vụ thiêng liêng của mình. Vấn đề là khi mình dùng một hệ thống tín ngưỡng vỏ ngoài để nhận lấy những niềm tin đi ngược lại sứ vụ thiêng liêng, mình thường không muốn biết sứ vụ đó là gì. Lý do là nếu mình nhớ lại sứ vụ thì mình sẽ phải thay đổi cuộc sống một cách lớn lao đến nỗi những gì mà tâm vỏ ngoài đã chọn làm sự thật tuyệt đối có thể bị tổn thương. Vì vậy, thường là trong tiềm thức, dòng sống thà là bịt tai không biết, để mình không phải có những thay đổi to lớn mà mình không mong muốn. Đây là trường hợp của John Paul và đó là lý do khiến ông đã không hội đủ điều kiện để thăng thiên.  

Ta biết những tiết lộ này sẽ gây ngạc nhiên, thậm chí buồn phiền, cho một số người, nhưng ta hy vọng là những người còn lại sẽ sử dụng thông tin này để mở rộng hiểu biết về tầm quan trọng to lớn của việc ghi nhớ trong ý thức sứ vụ thiêng liêng của mình, cũng như dồn mọi nỗ lực và khả năng để hoàn thành sứ vụ đó. Không những con sẽ tạo thêm nghiệp quả khi con không hoàn thành sứ vụ, mà con còn tạo cho dòng sống của con một cảm giác tiếc nuối cơ hội đã mất, khiến con rất khó từ bỏ địa cầu.  

Nói cách khác, không hoàn thành được sứ vụ có thể khiến dòng sống của con mong muốn mãnh liệt trở lại địa cầu để sửa lỗi, đến nỗi con không còn muốn thăng thiên. Cho nên ta hy vọng con sẽ sử dụng các dụng cụ tu tập được đăng tải trong Hộp Dụng cụ, kể cả các bài nguyện tràng hạt của Me Mary và bài chú Đại chỉ đạo Thiêng liêng, hầu con có thể tái phát hiện sứ vụ thiêng liêng của mình và hoàn thành đầy đủ.

Con hãy nhớ là con phải hoàn thành sứ vụ cá nhân dành riêng cho con. Cho nên con đừng để ác quỷ dụ dỗ rằng, “Kìa, nếu một người tâm linh như đức Giáo hoàng mà không hội đủ điều kiện để thăng thiên thì tôi có hy vọng gì?” Thật sự không một ai biết được mức chứng đạt của mình, và do đó con luôn luôn phải sống như thể con có cơ hội thăng thiên trong kiếp này. Đừng rơi vào cái bẫy nghĩ rằng con phải làm được điều công ích gì, hay việc vỏ ngoài gì lớn lao để được thăng thiên. Con hãy nhờ lời ta dạy rằng chỉ những ai trở thành trẻ nhỏ mới vào được thiên đường. Hãy tập trung hoàn thành sứ vụ thiêng liêng cá nhân của con. Hãy dùng tấm gương của người khác để tự khích lệ, nhưng đừng dùng ví dụ của người khác để khiến mình nản lòng. Con đường của con là độc nhất, và con chỉ có thể biết được sứ vụ thiêng liêng của con bằng cách đi vào bên trong và liên lạc với cái ta Ki-tô của con.

Hitler đã lên thiên đàng?

Hỏi: Con đọc được tài liệu từ người đồng bóng có nội dung rằng Hitler đã lên thiên đàng. Điều này con cảm thấy là không phải, nhưng con xin thày cho biết ý kiến.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Nếu con muốn dùng thuật ngữ hoàn toàn kỹ thuật, con có thể nói là câu trên chính xác. Sau cái chết của cơ thể vật lý của ông ta, dòng sống của Adolf Hitler quả là đã được đem lên thiên đàng. Tuy nhiên, dòng sống đó được đưa tới một tầng cấp của cõi tâm linh gọi là Tòa án Lửa thiêng. Đây là nơi mà những dòng sống nhận được sự phán xét cuối cùng. Phán xét cuối cùng là cơ hội chót để quỳ gối trước thực tại của Thượng đế.   

Phán xét này chỉ được ban ra cho những dòng sống đã liên tục phủ nhận Thượng đế nơi chính mình cũng như nơi người khác, và đã nổi loạn chống lại ý muốn của Thượng đế suốt nhiều kiếp sống. Dòng sống được ban cho một bản duyệt xét thật minh bạch về cuộc nổi lọan đó chống lại Thượng đế và một cơ hội cuối cùng để quỳ gối rồi cất bước trên con đường tâm linh sẽ dẫn nó trở về Thượng đế. 

Nếu dòng sống từ chối quỳ gối, nó sẽ bị xóa sạch bởi ngọn lửa thiêng. Đây là điều mà Sách Khải huyền gọi là hồ lửa. Dòng sống của Adolf Hitler quả là đã từ chối quỳ gối và đã bị xóa sạch trong ngọn lửa thiêng. Vì vậy, dòng sống đã từng là Adolf Hitler trong kiếp đầu thai chót của nó trên địa cầu, không còn nữa. Ta cho rằng đây không hẳn là cách diễn giải mà hầu hết mọi người nghĩ tới khi đọc câu nói rằng Hitler đã lên thiên đàng. 

Ghi chú: Xin xem một câu trả lời khác ở đây.

Mẹ Teresa có đã trở thành một sinh thể thăng thiên?

Hỏi: Thày Giê-su, xin thày nói về Mẹ Teresa. Mẹ Teresa có đã trở thành một sinh thể thăng thiên hay chưa, theo nghĩa là dòng sống của Mẹ đã hoàn tất cuộc hành trình trong đời hay chưa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Một dòng sống phải hội đủ một số yêu cầu trước khi có thể đi qua nghi thức thăng thiên. Một số yêu cầu này cần được hoàn thành khi dòng sống còn đang hiện thân vật lý, và Mẹ Teresa quả thực đã hoàn tất các yêu cầu này. Do đó, dòng sống của Mẹ Teresa không phải trở lại một kiếp đầu thai mới.

Nhưng vẫn còn một số yêu cầu có thể được hoàn tất nơi cõi tâm linh, và dòng sống của Mẹ Teresa hiện đang nỗ lực chu toàn các yêu cầu này. Khi nào hội đủ, dòng sống của Mẹ sẽ bước vào nghi thức tâm linh của thăng thiên. Ta tiên liệu điều này có thể xảy ra trong một chục năm nữa hay ít hơn.

Điều mà Mẹ Teresa chưa hoàn tất là các yêu cầu về việc giải quyết tất cả mọi vết thương, hay niềm tin gây giới hạn, trong tâm lý. Nói cách khác, có những nghiệp quả mà con mang đối với người khác, được tạo ra qua những việc con đã làm trong kiếp này hay những kiếp trước. Mẹ Teresa đã đáp ứng đầy đủ những yêu cầu này do Mẹ đã hiến dâng cả cuộc đời để phụng sự tha nhân.

Nhưng thêm vào đó còn có những nghiệp quả đối với chính mình, tức là trạng thái tâm thức của mình. Một số nghiệp này có thể được giải tỏa trong lúc dòng sống không đang đầu thai vật lý, và Mẹ Teresa chưa hoàn tất xong phần này vì Mẹ chưa giải quyết được mối quan hệ của Mẹ với Thượng đế. Sự thể này phần nào là do Mẹ đã tuân thủ giáo lý Công giáo một cách nghiêm ngặt, và khi làm vậy thì rất khó lòng giải quyết quan hệ của mình với Thượng đế.

Quả thực Mẹ Teresa đã nêu một tấm gương sáng ngời của một người đã hiện thân được lời dạy của ta, là yêu thương người lân cận như chính bản thân mình. Mẹ đã hoàn thành sứ vụ cá nhân cũng như thiên hướng của mình, và Mẹ đã làm đúng những gì Mẹ cần phải làm trong đời mình. Kết quả là Mẹ đã hội đủ những đòi hỏi vỏ ngoài của thăng thiên và không cần trở lại địa cầu.

Tuy nhiên, một điều rất quan trọng mà con cần hiểu là không phải ai ai cũng có cùng sứ vụ hay cùng loại sứ mệnh như Mẹ Teresa. Nói cách khác, một số người sẽ hành xử phải lẽ nếu họ tích cực noi gương cuộc đời của Mẹ, nhưng đối với một số người khác, làm như vậy sẽ không phải. Mỗi người đều có sứ vụ riêng và cần đi theo con đường riêng của mình.

Chẳng hạn, hãy cho ta nêu ra là nếu mọi người đều có cùng một cách tiếp cận giáo hội vỏ ngoài giống như Mẹ Teresa thì Giáo hội Công giáo sẽ có rất ít hy vọng đổi mới. Như đã được giải thích khắp trang mạng này, đặc biệt bởi Mẹ Mary yêu dấu của ta, thực sự Giáo hội Công giáo đang có một nhu cầu cải cách rất cấp bách.

Mẹ Teresa đã không tham gia vào bất kỳ nỗ lực nào để cải tổ Giáo hội, và nếu Mẹ làm vậy thì Mẹ đã gây thiệt hại cho sứ mạng cá nhân của Mẹ. Tuy nhiên, điều quan trọng là người khác không nên theo đó mà suy luận rằng họ cũng phải chấp nhận Giáo hội như Mẹ đã chấp nhận.

Nếu con phân tích kỹ lưỡng cuộc đời của Mẹ Teresa, con sẽ thấy là Mẹ đã sẵn sàng đi theo tiếng gọi của Thượng đế khi ngài nhủ thầm bên trong tim Mẹ. Nếu Mẹ không đi theo tiếng gọi nội tâm đó thì Mẹ đã trở thành một nữ tu Công giáo chẳng khác gì mọi nữ tu khác và Mẹ cũng đã không bao giờ khởi xướng được sứ vụ của Mẹ tại Calcutta. Chính trên đường lên núi Himalaya mà Mẹ đã nghe thấy tiếng gọi của Thượng đế bảo Mẹ đến Calcutta phục vụ cho những kẻ nghèo nhất trong số người nghèo. Trong một trường hợp như vậy thì nhiều tín hữu Công giáo chính thống, hoặc sẽ làm ngơ trước lời gọi đó, hoặc sẽ phản ứng với lòng sợ hãi và gán cho đó là lời của ác quỷ. Nhưng Mẹ Teresa thì không – Mẹ đã có can đảm nghe theo tiếng gọi, và đó là tại sao Mẹ đã hoàn thành được sứ mạng cá nhân của mình.

Tiếng gọi Thượng đế mà Mẹ Teresa nghe được chính là lời gọi của một sinh thể thăng thiên, một chân sư thăng thiên là vị thày cá nhân của Mẹ. Thày được biết đến trong một số tổ chức tâm linh dưới danh xưng El Morya hay Chân sư MORE.

Khi suy ngẫm về cuộc đời của Mẹ Teresa, ta mong muốn mọi người rút tỉa được bài học là họ cần đi theo giọng nói nơi nội tâm của riêng mình. Thay vì suy luận rằng họ phải sống cụôc đời vỏ ngoài như Mẹ Teresa đã sống, họ nên học hỏi từ tấm gương của Mẹ là đi theo tiếng gọi bên trong. Nếu tiếng gọi bên trong bảo con đi đến Calcutta và phục vụ những kẻ nghèo nhất trong số người nghèo, thì bằng mọi cách, con hãy làm điều đó. Nhưng nếu tiếng gọi bên trong bảo con làm gì khác thì con hãy bước theo hướng đó.

Và nếu giọng nói nội tâm bảo con nên lên tiếng chống lại hiện trạng trong Giáo hội Công giáo và biến đổi Giáo hội thành một giáo hội hằng sống, thì con hãy làm theo tiếng gọi đó bằng mọi cách. Nếu không có ai đứng lên phản đối những sự lạm dụng quyền lực đang diễn ra trong Giáo hội Công giáo thì sẽ rất ít hy vọng cải hóa được Giáo hội. Và như Mẹ Mary đã giải thích, sự phán quyết của Thượng đế có thể vô cùng nhanh chóng.

Ghi chú: Mấy năm sau câu trả lời nói trên, chân sư thăng thiên Mẹ Mary đã ban ra một câu trả lời cập nhật hơn. Xin đọc ở đây.

Ngoài ra còn có một loạt đối thoại giữa chân sư Giê-su và ông Kim Michaels về “bóng tối nội tâm của Mẹ Teresa” mà bạn có thể tham khảo (chưa dịch sang tiếng Việt)