Làm thế nào ứng phó với một người không muốn sống

Hỏi: Con gái của con bị chứng tâm thần phân liệt (schizophrenia) và nó không muốn sống nữa. Làm thế nào con có thể làm việc trên tâm lý của chính con? Và làm thế nào con có thể giúp tâm lý con gái của con? Chấn thương nào là chấn thương mấu chốt ở đây? Và điều gì cần được giải quyết trước tiên? Con đã thử nhiều phương thức khác nhau, kể cả cầu nguyện, đọc thỉnh, xua đuổi các tà thể bệnh tật nhân danh Giê-su Ki-tô và cái Ta Là, cũng như nhiều cách khác, nhưng vẫn không đủ. Con có cảm giác là khi con càng thỉnh cầu ánh sáng thì tình trạng của con gái con càng trầm trọng hơn.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Con cần nhìn ra ở đây là không một lời cầu nguyện, một lời chú, một lời thỉnh nào có khả năng đi ngược lại quyền tự quyết của một người. Đó là vì sao trong một số hoàn cảnh, con càng thỉnh cầu ánh sáng thì tình trạng dường như lại càng tệ hơn, vì ánh sáng đang tác dụng trên người đó nhưng họ lại không muốn quyết định xoay chuyển để trở về một thái độ tích cực hơn đối với sự sống. Và do đó, ánh sáng khiến họ bị dao động xốn xang, hay làm dao động những con quỷ hay tà thể đang xâm chiếm họ, khiến họ xử sự càng cực đoan hơn nữa.

Có thể điều cần thiết trong những cảnh huống như vậy là con hãy tạm ngừng thỉnh cầu ánh sáng thay mặt cho người đó. Điều có thể cần thiết trong trường hợp như thế này – và ta đang trình bày một cách tổng quát về những ai đang ở trong một hoàn cảnh tương tự – là con nên ngừng chú tâm vào người kia, và thay vào đó, con chú tâm vào chính con cũng như tâm lý của con, và con tìm cách giải quyết tâm lý của mình. Con cũng có thể tập trung và thỉnh cầu việc hóa giải mọi nghiệp chướng mà con còn mang với người kia.

Ta cũng biết đây là một thông điệp mà một số người sẽ rất khó lòng lắng nghe, nhưng con sống trong một thế giới nơi quyền tự quyết là định luật tối cao. Có thể có những hoàn cảnh mà một người không muốn sống, và đương nhiên con cảm thấy bắt buộc phải giải cứu họ khỏi tình trạng của họ để họ có thể tiếp tục sống, bởi vì con không muốn một người thương yêu phải qua đời. Nhưng có thể có những trường hợp mà con cần cho phép người đó qua đời, vì đó là cách duy nhất để dòng sống của họ học được bài học cần học – cụ thể là sự tự vẫn, hay thậm chí cả cái chết, sẽ không giải thoát họ khỏi tình trạng mà họ đang mang, vì con người luôn luôn mang theo tâm lý của mình với mình.

Ở đây ta không đang khuyến khích bất cứ ai hãy cứ để yên cho người khác tự vẫn hay để yên cho họ qua đời. Nhưng ta muốn nói là tới một điểm con cần ngừng sử dụng các dụng cụ tâm linh. Ta không đang đề cập tới chuyện vi phạm luật pháp, mà ta chỉ nói là nếu các bài thỉnh, bài chú, khiến cho tình trạng càng thêm bất ổn, thì rất có thể con cần ngừng sử dụng và cho phép tình hình trải bày ra cho đến kết cuộc.

Điều con có thể làm là con nỗ lực cải thiện tâm lý của con, tìm cách giải quyết những phản ứng mà toàn bộ cảnh huống đó khơi lên nơi bản thân con. Đây có thể là những điều vô cùng vi tế, sâu sắc, về cách con nhìn người khác, cách con nhìn chính mình cũng như trách nhiệm của con đối với người khác. Con cần nhận diện ở đây là con đang sống trên một hành tinh rất tăm tối, rất hỗn loạn. Con chỉ cần nhìn lại lịch sử và nhận ra biết bao người phải gặp chấn thương trầm trọng trong tiền kiếp của họ. Ngày nay có những người bước vào đầu thai đã mang sẵn những chấn thương vô cùng sâu đậm như vậy từ một tiền kiếp không xa.

Trách nhiệm của con có thể không phải là cứu sống người đó hay chữa lành chấn thương đó, vì chuyện này không thể. Mà trách nhiệm của con là trao cho người đó cơ hội tìm kiếm sự chữa lành. Nhưng nếu họ không muốn sử dụng cơ hội thì điều này có thể có nghĩa là trách nhiệm của con đối với họ đã chấm dứt. Ta nói ra điều này để con có thể đương đầu với những cảm giác trách nhiệm, tội lỗi, vô vọng và tuyệt vọng khi con không có khả năng giúp đỡ người đó.

Có những thời điểm trong đời khi con không thể giúp đỡ một người thân thuộc hay ngay cả một người con gặp trong việc làm. Và vì thế, con chỉ có thể đứng quan sát họ tiếp tục hành xử theo cách hành xử tự hủy diệt của họ. Một lần nữa, ta không đang nói tới chuyện vi phạm luật pháp. Nhưng sẽ tới một điểm khi con cần buông bỏ trách nhiệm của con đối với người kia và cho phép quyền tự quyết tự trải bày ra.

Ta cũng không đang bảo đây là việc đầu tiên mà con cần làm, bởi vì hiển nhiên con đã làm tất cả các biện pháp khác rồi. Điều con phải làm là đứng lui lại một bước khỏi tình thế trước mặt và tự nhủ: “Tôi sẽ tập trung vào việc cải sửa tâm lý của tôi”. Và khi con làm vậy, đôi khi một sáng ngộ trực giác có thể bật lên từ nội tâm, rằng giờ đây con đã giải quyết được một điều gì đó trong bản thân mình và con có thể tiếp cận người kia một cách khác hơn. Và điều này có thể giúp con giúp đỡ họ theo một chiều hướng mà trước đây con không thể làm được khi tâm lý của con tạo ra những phản ứng ngăn cản con giúp họ.

Tại sao bệnh tâm thần ngày một gia tăng

Hỏi: Con có một câu hỏi về bệnh tâm thần trong thế giới hiện đại. Chúng ta sống trong một thế giới mà hậu quả của chứng trầm cảm và rối loại tâm lý là một căn bệnh vô hình ảnh hưởng rất nhiều người, và nó dường như đang xảy ra với những người ngày càng trẻ hơn. Y học hiện đại hình như chỉ làm được rất ít để giúp những người gặp vấn đề và mang triệu chứng. Con tự hỏi liệu có hy vọng nào cho những người mắc bệnh trầm cảm và tâm thần ngoại trừ phải lặng lẽ đau khổ suốt đời?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hoà Lan năm 2016. Đăng ngày 21/2/2017.

Những chữ chủ yếu trong câu hỏi của con là “căn bệnh vô hình”. Nhưng con có thấy không, con yêu dấu, bệnh tâm thần chỉ vô hình bởi vì khoa học muốn nhìn mọi chuyện từ một góc độ duy vật. Từ góc độ của ta là đại diện cho Mẹ Thiêng liêng, bệnh tâm thần vô cùng hữu hình, và ta có thể dễ dàng thấy được khi nào hiện ra những mô thức trong các thể tình cảm, lý trí hay bản sắc đang tạo điều kiện cho người ta mắc bệnh tâm thần.

Đáng lý ra khoa học cũng có thể nhìn thấy được như thế nếu khoa học nhìn xa hơn hệ tư tưởng duy vật và khám phá ra công nghệ đã sẵn có ở đó để nhìn thấy các thể cao hơn. Người ta có thể khiến cho những thể này hiện ra trên một màn ảnh máy tính, học hỏi cách chẩn bệnh và nhìn xem khi nào cảm thể có những vấn đề cần được chữa trị. Nhưng tất nhiên, muốn làm điều này thì khoa học phải vượt ra ngoài hệ tư tưởng máy móc cứ cho rằng mỗi hiệu ứng hữu hình đều phải có một nguyên nhân cơ học cần phát hiện, và phải dùng thuốc hóa học để thay đổi nguyên nhân cơ học đó hầu đạt được kết quả cơ học, vật lý trên cơ thể.  

Con yêu dấu, có nghĩa lý gì khi người ta bàn chuyện bệnh tâm thần mà chỉ thấy được giải pháp duy nhất là một nguyên liệu hoá học, vật chất? Điều này chẳng hợp lý chút nào. Cũng không hợp lý chút nào khi có một hình thức tâm lý học chối bỏ bất cứ điều gì vượt khỏi thế giới vật chất, và cứ cắm đầu tìm cách chữa trị một căn bệnh trong tâm tiềm thức duy bằng những phương tiện trong tâm ý thức. Rồi lại cố làm cho tiềm thức hiện ra, mà trong nhiều trường hợp là điều không thể thực hiện nếu trước đó đã không giải tỏa năng lượng trong các thể cảm xúc hay lý trí.    

Điều khiến cho ngày càng nhiều người hơn không thoát được bệnh tâm thần là sự bướng bỉnh của khoa học cứ cố bám mãi vào hệ thuyết duy vật. Sự gia tăng của bệnh tâm thần, sự gia tăng trong giới trẻ ngày càng bị nhiều hơn, là kết quả trực tiếp của hệ thuyết duy vật đã đi quá thời điểm hữu dụng của nó. Con cũng hiểu là khi con đi ngược trở lại thời Trung cổ mê tín dị đoan, thì quả thật tinh thần khoa học đã là một bước tiến đáng kể giúp cho con người vượt qua tình trạng trì trệ, đặc biệt là tại Âu châu. Nhưng điều đó đáng lý không được khiến cho tinh thần khoa học bị biến thành hệ tư tưởng duy vật ngày hôm nay, cũng đàn áp sự tiến bộ không kém gì hệ tư tưởng của giáo hội Công giáo vào thời Trung cổ.      

Nhưng ngay cả thái độ đó cũng có thể dung thứ được trong một thời gian bởi vì nó cũng vẫn đem lại một số tíến bộ. Cho nên chúng tôi, các chân sư thăng thiên, vẫn thường nói khi có tư tưởng mới hoặc xu hướng mới xuất hiện trong xã hội: “Thôi được, chúng tôi sẽ để cho con người thử nếm mùi trải nghiệm này một thời gian nữa”, và chúng tôi đã cố kềm giữ lại một số hậu quả do thái độ đó tạo ra, và nhờ vậy con người đã chứng kiến những tiến bộ công nghệ lớn lao. Nhưng tới một điểm thì chúng tôi phải nói: “Không, như vậy là đủ rồi, nhân loại đã có đủ thì giờ sống qua trải nghiệm cụ thể này là muốn ép uổng mọi thứ vào trong cái quan điểm duy vật đòi hỏi mọi vấn đề phải có một giải pháp cơ học. Đã đến lúc người ta phải hiểu ra là thái độ đó có giới hạn, đã đến lúc phải bắt đầu nhìn xem bước kế tiếp là gì. Và nếu họ không chịu bước tới, chúng tôi sẽ không thể kềm giữ hậu quả mãi mãi.”      

Và như vậy, những hậu quả sẽ bắt đầu biểu hiện phần nào qua điều mà con chứng kiến là sự tăng gia trong độ trầm trọng và số người mắc bệnh tâm thần. Và con sẽ thấy điều này đặc biệt xảy ra ở những vùng phát triển trên địa cầu, vì đó là nơi có những con người đầu thai đã đạt tới một mức tâm thức khiến họ không còn đi tìm thách thức trong thế giới vật chất hay trong cuộc sống kiếm kế sinh nhai và sống còn nữa. Thay vào đó, thách thức chủ yếu của họ bây giờ là khởi sự làm việc trên tâm lý họ vì họ nay có dư thì giờ rảnh rỗi để cải sửa tâm lý.         

Nhưng vì không ai trao cho họ sự hiểu biết này suốt những năm tháng lớn lên, họ không đang tự nguyện cải sửa tâm lý của họ. Có nghĩa là con sẽ chứng kiến những biểu hiện của bệnh tâm thần bắt buộc họ phải có biện pháp gì đó cho tâm lý họ. Tất nhiên họ đã không tự nguyện cải sửa tâm lý họ do ý thức hệ duy vật, và bây giờ chính ý thức hệ này đang ngăn cản họ giải quyết bệnh tâm thần của họ. 

Ta hoàn toàn hiểu được là điều này gây ra muôn vàn đau khổ. Ta sẵn lòng giúp đỡ mọi người giảm dịu đau khổ này, nhưng ta không thể làm được nếu họ không chịu nhìn xa hơn hệ tư tưởng duy vật, nhận lấy trách nhiệm cho bản thân và nhìn nhận mình là những sinh thể tâm linh. Tất nhiên là mọi loại vấn đề tâm lý đều có hy vọng giải quyết được và đó là mục đích những giáo lý mà chúng tôi đã truyền giảng và những dụng cụ tâm linh mà chúng tôi đã ban ra.

Chúng tôi không hề nói là các giáo lý và dụng cụ cùng các kỹ thuật mà chúng tôi đã phổ biến qua trung gian sứ giả này là cách duy nhất để đối phó với vấn nạn này. Còn nhiều thứ khác là những phương thức mà chúng tôi đã đưa ra, nhưng còn rất nhiều điều nữa vẫn đang chờ dịp thuận tiện khi ngày càng có nhiều người khởi sự nhìn xa hơn mô hình duy vật. Nếu mọi chuyện diễn ra như ta trù liệu, sẽ cần đến hai hay ba thập niên nữa, và khi đó bệnh tâm thần sẽ trở thành một chuyện hiếm hoi. Nhưng nó sẽ chỉ hiếm hoi, tất nhiên, khi hầu hết mọi người được dạy dỗ ngay từ khi còn nhỏ để nhìn cuộc sống như một tiến trình liên tục cải sửa tâm lý mình. Miễn là mọi người đều lo cải sửa tâm lý thì cuộc khủng hoảng mà con gọi ngày nay là bệnh tâm thần sẽ không còn nhu cầu xuất hiện nữa.

Trong thực tế, đó không phải là bệnh tâm thần. Phần lớn những gì ngày nay con coi là bệnh tâm thần là vì con có cái nhìn méo mó về bệnh tật. Con nghĩ là người ta có một trạng thái bình thường, và khi có điều gì xảy ra ngoài bình thường, con coi đó là một bệnh tật cần phải giao chiến với nó. Nhưng kỳ thực, rất nhiều chứng bệnh thể xác, và chắc chắn đa số những bệnh tâm thần, đều là dấu hiệu nói cho con biết là đã tới lúc con phải thay đổi tâm thức của con. Vì con không thay đổi, càng ngày con càng nhận được lời nhắc nhở nghiêm khắc hơn là đã đến lúc con phải bước lên một mức tâm thức cao hơn.  

Đó thực sự là một cơ chế mà nhiều người đã tự mình tạo ra, để nếu họ quên mất chuyện phát triển tâm linh khi họ đầu thai, thì họ muốn có một cơ chế để nhắc nhở về nhu cầu theo đuổi đường tu. Điều con thấy được là rất nhiều người trẻ đã tham gia vào cơ chế này, phần nào vì họ muốn tinh tấn bản thân, phần khác vì họ mong muốn thúc đẩy sư thay đổi trong xã hội hầu xã hội từ bỏ hệ thuyết duy vật. Một cách cho điều này xảy ra là bệnh tâm thần sẽ lan tràn thành dịch bệnh rộng lớn đến độ xã hội cuối cùng phải thấy rõ là không thể đối phó với vấn nạn này mà vẫn duy trì mô hình duy vật. Và như vậy điều tuyệt đối cần thiết là xã hội phải tìm kiếm một giải pháp mới lạ.     

Và đây cũng là một điểm chúng ta đã từng bàn đến: Sự tiến bộ có thể xảy ra qua đổ vỡ khi con người phải đối diện với một cuộc khủng hoảng bắt buộc mình phải tìm cách thay đổi. Hoặc tiến bộ cũng có thể xảy ra một cách tự nguyện khi ngày càng có nhiều người thức tỉnh và khởi sự làm gì đó để sửa đổi hiện trạng. Chính các con, trong nhiều trường hợp, cũng là ví dụ những người đã từng có vấn đề tâm lý, nhưng các con đã đủ can đảm để sử dụng đường tu tâm linh, sử dụng các giáo lý tâm linh, để giải tỏa tâm lý. Các con có thể là những tấm gương và những người thày cho người khác, thậm chí còn có thể phụng sự một cách trực tiếp như những nhà trị liệu hầu giúp cho người khác đối phó với những vấn đề này. Một số các con cũng có thể giúp cho xã hội hiểu biết hơn về nhu cầu phải chuyển hướng, rời khỏi hệ tư tưởng duy vật và tìm kiếm một cách tiếp cận hoàn toàn mới.   

Lời dạy căn bản về phân mảnh linh hồn và bệnh tâm thần

Hỏi: Có những lời dạy tâm linh và tâm lý cho rằng linh hồn có thể bị phân rẽ, chia cắt hay phân mảnh. Thày có đề cập đến điều này trong câu trả lời về bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia). Điều gì xảy ra cho các mảnh vụn của linh hồn bị đánh mất? Có kỹ thuật tâm linh hay tâm lý nào để hồi lại những mảnh đó? Đó có phải là một điều khả thi hay cần thiết để chữa lành các chứng tâm thần nghiêm trọng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đề tài linh hồn phân mảnh (soul fragmentation) hay phân chia (soul division) có thể khá phức tạp. Tuy nhiên vì tính cách câu hỏi, ở đây ta sẽ chú trọng đến khía cạnh thiết thực nhiều hơn là khía cạnh triết lý, hay nói cách khác, là những gì con cần biết về linh hồn phân mảnh để con tự bảo vệ lấy bản thân hay chữa lành một chứng bệnh tâm thần.

Trong câu trả lời sau đây, ta xem như con đã quen thuộc với các giáo lý về bốn tầng của cõi vật chất cũng như về các thành phần của tâm, đặc biệt là quan hệ giữa Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết. Ta cũng coi như con đã đọc câu trả lời trước của ta về đề tài: linh hồn là vật lý hay tâm linh.

Chúng ta hãy khởi sự bằng cách xem xét Hiện diện TA LÀ. Hiện hữu nơi cõi tâm linh, nó có rung động cao hơn hẳn thế giới vật chất, có nghĩa là Hiện diện không thể nào bị các rung động thấp kém của thế giới vật chất hủy diệt hay phân cắt – đồng thời cũng có nghĩa là Hiện diện không thể trực tiếp đi xuống thế giới vật chất. Hiện diện TA LÀ có một cá thể rõ rệt mà nó mong muốn biểu đạt trong thế giới vật chất, và để làm vậy, nó tạo ra một phần nối dài của chính nó có khả năng xuống được thế giới vật chất. Phần nối dài này là cái Ta Biết.

Cái Ta Biết là phần nối dài của tâm thức của Hiện diện TA LÀ, nhưng Hiện diện TA LÀ không “cài đặt” cá thể của nó vào Ta Biết. Cái Ta Biết giống như cái lăng kính qua đó Hiện diện có thể tự biểu đạt và đồng thời có thể chiêm nghiệm thế giới vật chất. Và như thế, cái Ta Biết là cái gì đi xuống những rung động thấp kém của thế giới vật chất, nhưng vì nó là sự nhận biết thuần khiết – và nó là nhận biết thuần khiết vì nó không có cá thể – cho nên nó cũng không thể bị hủy diệt hay phân cách bởi các rung động thấp của thế giới vật chất.

Tuy nhiên – và đây là cốt lõi của vấn đề – ngay cả cái Ta Biết cũng không thể hành động trực tiếp trong thế giới vật chất. Để làm vậy, nó phải tạo ra, hay khoác lấy, một “thân thể” được cấu tạo bằng rung động trong dải tần số vật chất. Như các thày đã có giải thích, cõi vật chất có bốn tầng, cho nên khi nó tạo “thân thể”, điều này có nghĩa là nó tạo ra “bốn thể phàm”, cụ thể là “thể” bản sắc, “thể” lý trí, “thể” cảm xúc và sau cùng là cơ thể vật lý. 

Khi cái Ta Biết được sinh tạo lần đầu, nó thật sự không đủ khả năng tạo ra bốn thể phàm. Nó chưa từng có kinh nghiệm đồng sáng tạo và nó cũng không có kinh nghiệm về rung động của bốn tầng. Cho nên một cái Ta Biết tân lập sẽ phải khởi đầu nơi một trường học, gọi là trường bí giáo được biểu tượng qua Vườn Eden. Đó là một môi trường học hỏi ở cõi bản sắc, ở đó nó sẽ có thể thử nghiệm khoác lên những cái “thể” do vị thày tâm linh tạo ra cho cõi bản sắc.

Đặc tính cơ bản của cái Ta Biết là bởi vì nó là nhận biết thuần khiết, nó có khả năng tự phóng chiếu vào bất cứ điều gì mà nó hình dung, và chính đặc tính này giúp nó đi xuống đầu thai. Nói cách khác, cái Ta Biết không trở thành một thể bản sắc hay một xác thể vật lý, mà nó tự phóng chiếu vào một ý niệm cái ta, một ý niệm bản ngã. Cũng y như một diễn viên mặc vào trang phục trình diễn và hóa trang để đóng một vai tuồng trong vở kịch vậy.

Như vậy cái Ta Biết khởi sự học trường bí giáo khi nó tự phóng chiếu vào một “cái ta bản sắc” do vị thày tâm linh tạo ra. Chúng ta có thể so sánh với một học viên phi công bước vào một cái máy giả lái phi cơ hầu có được cảm giác y như mình đang lái một chiếc phi cơ mà không sợ gây ra tai nạn.

Khi cái Ta Biết bắt đầu thông thạo hơn với một cái ta bản sắc, nó sẽ khoác vào một cái ta bản sắc/lý trí và lại thử nghiệm thêm. Sau đó nó sẽ khoác lên một cái ta bản sắc/lý trí/cảm xúc, và cuối cùng là một cái ta bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý mà không bao giờ nó phải thực sự bước xuống dải tần số vật chất. Nó vẫn còn ở trong một môi trường mô phỏng thế gian.

Sau khi nó tương đối lành nghề với tiến trình này, cái Ta Biết bước vào một giai đoạn mới khi nó sẽ bắt đầu định đoạt cái ta riêng của nó thay vì sử dụng cái ta do thày định ra cho nó. Làm thế nào nó thiết kế cái ta đó? Dựa theo sự liên hệ của nó với Hiện diện TA LÀ và những kinh nghiệm của nó về bốn tầng, cái Ta Biết khởi đầu như một ý niệm bản ngã chỉ to bằng đầu cái kim, qua đó nó biết là nó vẫn kết nối với một cái gì rộng lớn hơn nhưng nó không trực tiếp kinh nghiệm được Hiện diện TA LÀ, và như vậy, nó không thể biểu hiện một cách trọn vẹn cá thể của Hiện diện.

Khi cái Ta Biết thử nghiệm, nó sẽ mở rộng ý niệm bản ngã của nó. Chừng nào nó còn đi theo sự hướng dẫn của vị thày, nó sẽ ngày càng nhận biết rõ hơn nó là cánh cửa mở cho Hiện diện. Và cứ thế, cá thể của Hiện diện ngày càng tỏa sáng mãnh liệt hơn qua nó. Nói cách khác, cái Ta Biết không khoác lấy hay trở thành cá thể của Hiện diện, nó chỉ ngày càng là một cánh cửa mở rộng hơn cho Hiện diện. Điều này có nghĩa là khi cái Ta Biết tạo ra một bản ngã, bản ngã này sẽ phản ánh cá thể của Hiện diện.  

Trong trường hợp lý tưởng, cái Ta Biết sẽ tiếp tục tuân theo sự hướng dẫn của vị thày cho tới khi nó sẵn sàng tạo ra một thể bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý cụ thể và nó tự phóng chiếu vào đó. Bây giờ nó hết còn trong một môi trường mô phỏng mà nó đã giáng xuống thế gian “thực thụ”.  

Mục đích lời trình bày dài dòng ở trên là để giải thích cho con hiểu là cái mà nhiều người xem là hồn thật ra chỉ là một thể gồm bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý do cái Ta Biết tạo ra. Trong điều kiện lý tưởng, cỗ xe 4 lớp này – ta sẽ tránh gọi là hồn từ điểm này trở đi – là sự phản ánh của cá thể của Hiện diện TA LÀ. Lúc đầu, cá thể này sẽ không biểu thị một cách trọn vẹn nhưng sẽ ngày càng rõ nét hơn khi cái Ta Biết có thêm kinh nghiệm tự biểu đạt. Và như vậy, con đường dẫn tới quả vị Ki-tô sẽ lý tưởng là con đường của cái Ta Biết trở thành cánh cửa mở hầu cá thể và quyền năng của Hiện diện TA LÀ được thể hiện hoàn toàn. “Ta và Cha ta là một” trong nghĩa đó.

Làm thế nào cá thể của Hiện diện được phản ánh trong thiết kế của cỗ xe 4 lớp? Chúng ta có thể so sánh với một máy chiếu phim và cá thể của Hiện diện như là cuộn phim. Cá thể đó giống như một hình ảnh được phóng chiếu lên màn ảnh của bốn thể phàm. Tại sao điều này quan trọng? Là vì nó giải thích tại sao trong trường hợp lý tưởng, cỗ xe 4 lớp của con không thể bị chia cắt hay phá hủy.

Hiện nay thế giới vật chất – ít nhất trên hành tinh địa cầu – là một môi trường bị ảnh hưởng sâu xa bởi tâm thức nhị nguyên và các sinh thể sa ngã. Cho nên khi con xuống hiện thân ở đây, rất có thể con sẽ bị chấn thương bằng rất nhiều cách, và chấn thương này có thể khiến cho cỗ xe 4 lớp của con bị hư hại. Trong những điều kiện của thế gian, thật con không có cách nào tránh khỏi điều đó. Tuy nhiên trong trường hợp lý tưởng khi con được vị thày hướng dẫn, chấn thương có thể được chữa lành hầu như tức thì nếu con quyết định trong ý thức là con sẽ không phản ứng lại. Trong trường hợp này, chấn thương xảy ra giống như có ai lấy tay đập vào nước. Nước sẽ văng lên tung tóe nhưng chỉ một lát sau, nước sẽ nhanh chóng bình phẳng trở lại và một tấm gương toàn hảo sẽ lại hình thành trên mặt nước, phản ánh cá thể do Hiện diện TA LÀ phóng chiếu ra.

Nói cách khác, khi cỗ xe 4 lớp của con được chế tạo khi con thấy con là phần nối dài cho Hiện diện TA LÀ, vấn đề phân cách hay phân mảnh linh hồn không hề đặt ra. Chỉ trong trường hợp không lý tưởng thì mới có vấn đề, và bây giờ chúng ta hãy nhìn xem điều gì xảy ra.

Như thày Maitreya có giải thích tường tận trong sách của thày, trong trường bí giáo có một số dòng sống đã quyết định khai mở tâm thức nhị nguyên trước khi họ sẵn sàng. Họ bị tâm nham hiểm của rắn lừa gạt để họ tưởng rằng họ đã đủ trình độ bước xuống hiện thân vật lý – dẫu rằng vị thày nói rõ là họ chưa sẵn sàng. Như vậy họ đã quyết định cố chiếm lấy “thiên đàng” – hay đúng hơn, chiếm lấy sự hiện thân – bằng vũ lực.

Trên thực tế, các dòng sống này chưa có khả năng định hình cỗ xe 4 lớp của họ. Khả năng của họ bị giới hạn ở mức mà họ đã đạt được khi họ quay lưng lại thày mình. Và vì thế, họ khoác vào một cỗ xe 4 lớp gồm một phần do họ tạo dựng và phần kia do các sa nhân tạo dựng. Làm sao đi nữa thì cỗ xe này cũng không phản ánh cá thể của Hiện diện: nó đã được tạo ra dựa trên ảo tưởng tách biệt.

Điều này có hai hệ quả. Một là các ý tưởng, các tâm ảnh và các tin tưởng cấu tạo cá thể của cỗ xe 4 lớp đều bị ảnh hưởng bởi tâm thức nhị nguyên. Những tin tưởng này phần nào dựa trên cá thể của Hiện diện TA LÀ của dòng sống, nhưng cá thể này đã bị biến thái bởi tâm thức nhị nguyên. Như ta đã giải thích, mọi thứ trong tâm thức nhị nguyên phải có một đối cực, nghĩa là khi một đặc tính nhị nguyên gặp đặc tính đối cực của nó, có vẻ như nó sẽ bị đối cực kia triệt tiêu.

Bây giờ con có thể thấy được tại sao khi cỗ xe 4 lớp của con được xây bằng tâm thức nhị nguyên, nó luôn luôn ở trong trạng thái bị đối cực nhị nguyên đe doạ. Ý niệm bản sắc, ý niệm cái ta trong lý trí và ý niệm cái ta trong tình cảm luôn luôn bị đe dọa bởi đối cực nhị nguyên của những tin tưởng cấu tạo các cỗ xe của con.

Bây giờ chúng ta thấy có bốn cách cỗ xe 4 lớp của con – tức hồn của con – có thể bị phân mảnh. Ở tầng vật lý, sự kiện cơ thể con bị giết hại hay bị đau đớn có thể dẫn đến chấn thương trầm trọng đến độ “thể” cảm xúc của con bị phân mảnh. Việc trải nghiệm những xúc động mãnh liệt từ người khác cũng có thể gây ra chấn thương. Con thử nhìn xem con có thể bị tác động dễ dàng thế nào khi người ta giận dữ đối với con hay có ác ý muốn tiêu diệt con. Ở tầng lý trí, khi con thấy những tin tưởng sâu xa của mình bị lật bỏ, con có thể bị chấn thương. Ví dụ như nhiều tín đồ Cơ đốc giáo chính mạch đã cảm thấy niềm tin của mình nơi đạo mình bị khoa học phá tan tành, và điều này có thể gây ra một rạn nứt trong cỗ xe 4 lớp. Tất cả những trải nghiệm đó cũng có thể tạo rạn nứt ở tầng bản sắc khi con cảm thấy chính ý niệm bản sắc của mình bị đe dọa. Và điều này cũng có thể xảy ra khi sa nhân buộc oan con – như chúng thường hay làm – khiến tin tưởng của con về bản chất tốt thiện của con bị đe dọa.

Bây giờ chúng ta hãy đào sâu hơn và thấy rằng cỗ xe 4 lớp gồm có hai thành phần. Một là những tâm ảnh và tin tưởng, và thành phần kia là năng lượng vận động tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng. Các tâm ảnh và tin tưởng hình thành một cái gì có thể so sánh như một cấu trúc tinh thể (crystalline structure). Con cũng biết có những đồ chơi làm bằng mảnh nhựa hay kim khí mà con có thể lắp lại thành cái hộp có khoảng trống bên trong, giống như cái lồng. Thành phần năng lượng là những gì được đặt vào trong cấu trúc đó, gần giống như những quả bóng mà con đặt vào trong lồng.

Trong trường hợp lý tưởng, cỗ xe 4 lớp của con không có bất cứ hình ảnh hay tin tưởng nào dựa trên nhị nguyên. Kết quả là ngay cả khi con bị tấn công, con cũng sẽ không xem đó là một sự tấn công cá nhân, bởi vì con không hề cảm thấy cá nhân mình bị đe dọa. Cho nên mặc dù cấu trúc tinh thể bị hư hại, con có thể, gần như lập tức, chữa lành lặn bằng cách buông bỏ chuyện đó và trở về nhận biết thuần khiết. Đây là ý nghĩa thâm sâu của lời dạy về việc chìa má bên kia. Khi con thực sư chìa má bên kia, không một thế lực thấp kém nào có thể làm hại các thể cao của con.

Trước khi con đạt được quả vị Ki-tô hoàn toàn, con có thể bị tác động tạm thời, và điều này có thể khiến con mất đi một phần năng lượng trong cấu trúc. Nhưng khi con trở về với sự nhận biết thuần khiết, con sẽ từ hóa (magnetize) năng lượng đó trở lại trong con. Nói cách khác, con có thể học cách chữa lành nhanh chóng bất kỳ chấn thương nào mà con phải kinh qua khi đầu thai. Khi con đạt được quả vị Ki-tô, ngay cả xác thân vật lý của con cũng không thực sự là vật lý nữa, và như vậy con có thể hiện thân trong một thể xác trông như là vật lý nhưng không một thế lực nào trên địa cầu có thể giết hại.

Nhưng nếu cỗ xe 4 lớp của con được làm bằng tâm thức nhị nguyên, cấu trúc tinh thể sẽ dễ dàng bị hư hại hoặc vỡ ra thành từng mảnh do các điều kiện trong thế gian, như được mô tả ở trên. Hơn nữa, năng lượng bên trong cấu trúc sẽ rung động ở một độ thấp hơn, có nghĩa là năng lượng dễ dàng bị cuốn hút ra ngoài hay bị mất mát khi có lỗ hổng trong cấu trúc. Cho nên khi cỗ xe bị phân mảnh, đó là vì có cái gì đó đã làm nổ tung và thổi bay một phần cấu trúc tinh thể cùng với năng lượng trong đó. Bây giờ chỉ còn sót lại một cấu trúc khiếm khuyết với một lỗ hổng to tướng, và con cảm nhận điều này như một chấn thương trầm trọng.

Nếu mảnh cấu trúc và năng lượng bị mất đủ lớn, con sẽ cảm thấy mình bị chia cắt – một căn nhà bị chia cắt khỏi chính mình – đến độ con không thể chịu đựng được nữa, và đây là nguyên nhân thực sự của tất cả mọi chứng bệnh tâm thần trầm trọng. Nỗi đau và mất mát to lớn đến độ con không thể sinh hoạt bình thường được, và con nhất định phải làm gì đó để khắc phục cảm giác trống trải, mất mát, đau đớn đó. Nhưng vấn đề là con sẽ làm gì đây? Và đây là lúc chúng ta thấy hiện ra tình thế tiến thoái lưỡng nan quen thuộc, khiến con người bị đóng đinh – trong nghĩa đen – trên cây thập tự của chính cỗ xe 4 lớp của mình.   

Có mấy cách cơ bản để con cố chịu đựng sự phân mảnh của hồn:

  • Con tìm cách khiến mình tê dại để có thể chịu đựng cơn đau, có thể qua chất hóa học hay ma túy, chắc chắn sẽ dẫn đến nghiện ngập. Sự nghiện ngập kéo theo một số biến động khác trong đời con gây thêm chấn thương, khiến hồn bị phân mảnh nhiều hơn nữa. Kết quả là một vòng xoắn ốc hướng hạ sẽ không ngừng kéo con xuống cho đến khi con chạm đáy và quyết định mình phải thay đổi hoàn toàn cách sống. Nhân tiện xin nói thêm là cách sử dụng dược phẩm của khoa tâm thần học hiện đại cũng tương tự như cách trên. Nếu không phối hợp với phép trị liệu đối thoại thì dược phẩm sẽ không giải quyết được sự phân rẽ của hồn. Nhưng con cũng lưu ý là đối với những người bị phân rẽ trầm trọng, rất có thể họ sẽ cần trị liệu tâm thần, và vì vậy ta sẽ không lên án trị liệu và cũng không khuyên ngăn người bệnh đi tìm sự giúp đỡ.
  • Con tìm cách mau chóng chiếm đoạt năng lượng của người khác hầu giảm thiểu nỗi trống trải của mình. Một phương cách là quan hệ tình dục, khi con đoạt lấy năng lượng của người giao phối. Điều này phần nào giải thích những trường hợp hiếp dâm và ấu dâm. Tất nhiên, làm vậy cũng không giải quyết được sự phân chia. Một cách khác nữa là tạo ra tranh cãi, gây ra ẩu đả hay hành hạ người khác bằng đủ mọi cách. Những kẻ tra tấn hay giết người hàng loạt làm như vậy để đánh cắp năng lượng hầu che đậy những phân chia trầm trọng trong hồn mình.
  • Con mời một tà thể ngoại lai vào cỗ xe 4 lớp của con để lấp đầy lỗ hổng. Tà thể này có thể là một hồn bóng không xác, một con quỷ, hay như Phật Gautama có gọi, một con quái vật. Điều này có nghĩa là, trong nghĩa đen, có một sinh thể ngoại lai vào sinh sống trong không gian của cỗ xe 4 lớp của con, và hiển nhiên nó gây ra những chứng bệnh gọi là rối loạn lưỡng cực (bipolar), phân chia nhân cách (split personality), đa nhân cách (multiple personality) hay tâm thần phân liệt (schizophrenia). Có lúc tà thể ngoại lai sẽ chiếm lãnh tâm trí con và có lúc con sẽ giữ được chủ quyền.
  • Con cố tránh cho vết thương con khởi phát bằng cách lánh xa mọi người khác hay lánh xa đời sống. Trong quá khứ, nhiều người đã lui vào tu viện vì lý do này, và ngày nay có nhiều người cũng tìm cách che giấu sự phân chia nội tâm nơi các cộng đồng tâm linh. Tiện đây cũng xin nói, một giáo lý tâm linh quả là có thể bị lạm dụng cho mục đích này.  
  • Con cố tránh cho vết thương khởi phát bằng cách kiểm soát môi trường chung quanh con. Trường hợp này bao gồm nhiều loại người, từ gia chủ của một gia đình đổ vỡ cho đến giám đốc điều hành của một tập đoàn hay nhà độc tài của một quốc gia. Hitler, Stalin, Mao và các nhà độc tài khác đều sẵn sàng giết hại vô số sinh mạng hầu trấn áp môi trường chung quanh, và tất cả đều bị thúc đẩy bởi một linh hồn bị phân rẽ trầm trọng.  
  • Con tìm cách sửa chữa sự rạn nứt trong cỗ xe 4 lớp của con. Điều này có thể thực hiện bằng nhiều cách, nhưng thường con dùng tâm thức nhị nguyên để dựng lên một cấu trúc mới rồi đổ đầy với năng lượng thấp kém. Vết gãy rách đã khiến cho cấu trúc linh hồn nguyên thủy của con bị hư hại và vì vậy con cảm thấy mình khiếm khuyết, không trọn vẹn. Việc đóng lại lỗ hổng có thể cho con cảm giác toàn vẹn hơn. Nói cách khác, dù cỗ xe của con được tạo bằng tâm thức nhị nguyên, nhưng một cấu trúc liền lặn sẽ cho con một cảm giác tương đối toàn vẹn, tự chủ hơn. Một cách sửa chữa hư hại là để cho tự ngã của con tạo ra những tâm ảnh mới phát xuất từ chấn thương. Điều này có thể khiến con xem mình là một nạn nhân, hay khiến con tìm kiếm một con dê tế thần để con đánh nhau với nó hầu tiêu diệt nó. Như thế con sẽ chám được lỗ hổng với một cấu trúc mới phát sinh từ chấn thương mà con đổ đầy với năng lượng sợ hãi hay giận dữ. Tất nhiên, con sẽ không chữa lành được phân chia nội tâm của con nhưng nhiều người đã dựng lên nhiều lớp kiểu này đến độ họ cũng cảm được một chút toàn vẹn và chủ động.

Bây giờ thì con thấy được một số những hành động tàn bạo nhất trong lịch sử loài người là do những kẻ bị phân mảnh linh hồn gây ra. Một số những lạm dụng tồi tệ nhất ở mức cá nhân hay gia đình cũng là do chứng này gây ra. Hầu hết các bệnh tâm thần và các vấn đề tâm lý nghiêm trọng nhất là do sự phân mảnh của cỗ xe 4 lớp. Một khi con nhìn nhận điều này thì các thày mới có thể gợi ra một số cách đối phó.

Trước hết, chúng ta có một nhóm những người bị phân rẽ trầm trọng đến độ họ bị kẹt trong một khuôn nếp độc hại. Chừng nào họ còn bị vòng xoáy hướng hạ cuốn họ đi xuống như thế, thường không có cách gì giúp được họ. Không có cách nào để giao tiếp với họ, và con không thể nói gì với họ để thay đổi tình thế. Họ sẽ phải tiếp diễn khuôn nếp này cho tới khi họ chạm đáy và quyết định làm một điều mà họ chưa từng làm cho tới giờ, đó là nhận lấy trách nhiệm về bản thân mình, nhìn nhận là mình đã tạo ra ngã tách biệt và bây giờ mình chính là người phải gỡ nó đi.

Sau đó chúng ta có một nhóm những người bị phân mảnh nghiêm trọng đến độ họ khó lòng nào, hoặc không thể, chữa lành một mình. Ta thực sự khuyên những người như vậy hãy tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp mà họ có thể. Con đang sống trong một thời kỳ mà sự kỳ thị đối với bệnh tâm thần đã phai nhạt đi và vì vậy, giống như với các bệnh thể xác, không ai phải xấu hổ với bệnh tâm thần nữa. Ngoài các bác sĩ tâm thần và nhà tâm lý học, con cũng có thể chiếu cố các nhà trị liệu không chính mạch, tuy nhiên với hầu hết những cách trị liệu truyền thống, điều quan trọng là tìm được người thích hợp để trợ giúp mình. Thật vậy, người chữa trị quan trọng hơn cách chữa trị. Một khuyến cáo chung chung là con nên xem xét hai cách trị liệu Gestalt và EMDR. Về liệu pháp giải thoát tánh khí (spirit release therapy) hoặc phương pháp của thày cúng (shaman) nhằm phục hồi linh hồn, ta xin nhắc lại một lần nữa: mức độ già dặn của người chữa trị là điều tối quan trọng. Song song, một điều nữa cũng vô cùng quan trọng là cần phối hợp pháp trị liệu với những dụng cụ tâm linh mà ta khuyến cáo ở bên dưới.    

Chúng ta cũng có một nhóm thứ ba, là những người chưa bị phân chia đến độ cần phải điều trị, tuy rằng sự điều trị vẫn có thể ích lợi. Nếu con trong số này, con có thể tự lo lấy một số điều, là những điều gì?

Điều đầu tiên cần làm là nhận ra rằng khi cỗ xe 4 lớp của con bị phân mảnh, nó dễ bị ảnh hưởng bởi những thế lực ngoại lai, chẳng hạn những sinh thể bóng tối hay năng lượng thấp kém. Cho nên con cần trước hết thiết lập một lá chắn bảo vệ tâm linh chung quanh trường năng lượng của con. Cách thực hiện dễ nhất là sử dụng các dụng cụ mà các thày đã trao cho con, như bài nguyện của Đại thiên thần Michael và những bài chú Đại thiên thần Michael và Hercules.

Không phải là chuyện lâu lâu đọc chơi một lần mà con phải cam kết một cách chân thành là con sẽ tuân thủ một chương trình đều đặn mỗi ngày. Nỗ lực của con cần tùy thuộc vào độ trầm trọng của sự phân mảnh và mong muốn chữa lành của con. Ta đề nghị con dành ra khoảng nửa giờ hoặc hơn nữa mỗi ngày cho việc bảo vệ tâm linh.

Bước tiếp theo là nhận ra là rất có thể con đã bị xâm nhập, hoặc ít nhất đã tạo ra một mối ràng buộc với những sinh thể hay năng lượng thấp kém. Cách tuyệt đối hiệu quả nhất để cắt đứt các mối ràng buộc đó và tự giải thoát là bài chú Elohim Astrea. Một lần nữa, con sẽ cần nửa giờ đồng hồ hay hơn nữa, thêm vào những bài chú bảo vệ ở trên.

Bước kế tiếp là nhận ra là có thể con đã tiếp nhận một số năng lượng thấp kém và chúng đang lôi kéo con từ bên trong. Cách đối phó là con cầu thỉnh năng lượng tâm linh hầu chuyển hóa năng lượng thấp kém. Ở đây, những bài chú của cả bảy tia sáng sẽ đều hữu dụng, nhưng ta khuyên con nên khởi đầu với các bài chú ngọn lửa tím. Một lần nữa, nửa giờ đồng hồ thêm vào các bài chú ở trên.

Việc đọc chú cùng với những bản ghi âm mà vị sứ giả này đã chuẩn bị có thể sẽ rất hữu ích. Làm vậy không những sẽ giúp con học cách đọc chú, mà qua bản ghi âm, sẽ còn có ánh sáng được truyền rải xuống mà nhiều người bị phân mảnh không có khả năng tự cầu thỉnh một mình.

Một khi con đã cầu thỉnh được tạm đủ ánh sáng để cảm thấy nhẹ nhõm hơn, con có thể bắt đầu sử dụng các dụng cụ khác được đăng tải ở đây. Con có thể bắt đầu với Hộp Dụng cụ cho Khủng hoảng Tâm linh, và sau đó chuyển sang nhiều bài thỉnh khác. Bài thỉnh Đông-Tây đặc biệt nhằm kêu gọi các mảnh linh hồn thất lạc trở về với con.  Tuy nhiên còn có nhiều bài chú khác nhằm giúp con đương đầu với một số vấn đề đặc thù, và một khi con vượt qua được tâm trạng rối loạn nhất, con sẽ nhận được hướng dẫn từ bên trong.

Thật ra những gì ta vừa trình bày cho tới giờ chỉ là một chương trình cấp tốc để giúp con vượt qua những hiệu ứng nghiêm trọng nhất của sự phân mảnh. Trong giai đoạn tiếp theo sau, con phải nhận ra là việc hồi phục sự toàn vẹn tâm linh thực sự là một nỗ lực dài hạn, thậm chí có thể kéo dài suốt đời. Vì vậy con cần có cái nhìn là con đang đi trên một hành trình tâm linh sẽ lần hồi dẫn con từ mức tâm thức hiện thời của con đến tâm thức Ki-tô trọn vẹn. Đó là tiềm năng cao nhất của con nhưng cũng là một mục tiêu thực tế mà con có khả năng đạt được.

Điều này có nghĩa là con hãy nắm lấy con đường tâm linh mà con có thể thấy và hiểu được trong hiện tại, rồi con hãy cứ theo đó mà tiến bước hết sức mình. Nhưng con cũng phải hiểu đó là một con đường tự thăng vượt, tức là có nhiều cấp độ. Sẽ có những lúc con cần bước hẳn lên một bực cao hơn trong viễn quan lẫn cách thực hành.

Trong các giai đọan sau đó, con sẽ thấy lời dạy sau đây của ta có thể hữu dụng, cụ thể là cỗ xe 4 lớp của con – mà hầu hết mọi người gọi là hồn – không phải do Thượng đế tạo ra, và trong hiện tại nó không phản ánh cá thể của Hiện diện TA LÀ của con. Cho nên đối với những ai đã bước xuống tách biệt, con đường dẫn đến quả vị Ki-tô gồm có ba giai đoạn rõ rệt:

  • Trong giai đoạn thấp sơ khởi, con sẽ cần tìm cách chám lại mọi lỗ hổng trong linh hồn hay hồi lại những mảnh đã thất lạc. Đây chỉ là một biện pháp tạm thời để giúp con bước vào con đường thực sự.
  • Trong giai đoạn thứ nhì, con không thực sự tìm cách chữa lành hay hoàn thiện linh hồn con, bởi vì nó đã được tạo ra từ các ảo tưởng của tâm thức nhị nguyên. Do đó thực sự nó không bao giờ có thể được nâng lên tới mức vào được cõi tâm linh. Điều con thực sự cần làm là tháo gỡ cái Ta Biết khỏi sự đồng hóa với hồn phát xuất từ nhị nguyên. Để làm điều này, con thỉnh ánh sáng tâm linh để chuyển hóa các năng lượng thấp trong cỗ xe 4 lớp, và con sử dụng các giáo lý tâm linh để thay thế mọi ảo tưởng nhị nguyên trong cỗ xe của con. Tuy nhiên, điều thiết yếu mà con phải nhận rõ là giai đọan này sẽ không thực sự đưa con tới quả vị Ki-tô, và nó cũng sẽ không tạo đủ điều kiện cho con thăng thiên. Nó sẽ chỉ đơn giản dẫn con trở lại đúng tình trạng của con trước khi con rơi vào vòng nhị nguyên. Nói cách khác, điều con làm trong giai đoạn này KHÔNG PHẢI là hoàn thiện hồn mà là thăng vượt hồn. Con để cho hồn chết đi từng chút và từng chút, như ta đã từng nói là nếu con cố cứu lấy mạng sống – tức là cái linh hồn xuất phát từ nhị nguyên – thì con sẽ đánh mất sự sống. Nhưng nếu con sẵn sàng bỏ mạng sống cho ta – tức là để cho linh hồn nhị nguyên chết đi – con sẽ tìm được sự sống vĩnh hằng qua tâm thức Ki-tô.
  • Trong giai đoạn thứ ba, con mới bắt đầu thực hiện những gì con đã thực sự xuống đây để thực hiện, tức là trở thành cánh cửa mở cho cá thể của Hiện diện TA LÀ được biểu hiện trong thế gian. Con sẽ đạt được tâm Ki-tô trọn vẹn khi con trở thành cánh cửa mở – và không có gì hơn.