Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 26/4/2005.
Trái tim yêu dấu của mẹ, chúng ta đã đi một hành trình dài. Khóa học này quả thật đã là một chuyến đi dài qua nhiều đề tài và thày chắc chắn là hầu hết những đề tài này vượt quá xa những gì các thày bên ngoài nói với con, dù họ thuộc một tôn giáo hay một môi trường thế tục. Thày biết ơn con đã chịu khó lắng nghe thày suốt hành trình dài này. Giờ đây chúng ta tới điểm rất may mắn là nơi có thể nói tới chìa khóa cơ yếu để thị hiện dồi dào trong cuộc sống của con.
13.1. Con làm gì với ánh sáng?
Điều thày đã nói tới trong suốt khóa này là nhu cầu lấy lại bản sắc thật của con như một sinh thể tâm linh có mặt ở đây với một mục đích cao hơn, đó là thị hiện vương quốc Thượng đế bằng cách dùng viễn kiến toàn hảo của tâm Ki-tô và ánh sáng của Thượng đế. Con có thể hướng ánh sáng của Thượng đế tuôn chảy qua viễn kiến – qua cuộn phim – của tâm Ki-tô trong bốn thể phàm của con, qua đó con áp chồng một hình ảnh toàn hảo lên Ánh sáng Mẫu-Vật là chất tạo nên toàn bộ vũ trụ. Để lấy lại vị thế này, để nhân lên cá thể thiêng liêng của con và cai quản trái đất, trước tiên con phải với lên và tái thiết lập dòng chảy của ánh sáng Thượng đế xuyên qua bản thể của con, xuyên qua bốn thể phàm của con. Con cần lấy lại viễn kiến của Ki-tô như là viễn kiến cao nhất cho dòng sống của con, cho tiềm năng của con, cho sứ vụ thiêng liêng của con. Sau đó con cần đem viễn kiến này xuống bốn thể phàm cho tới khi nó tới tầng của tâm vật lý, tâm ý thức. Tuy thế, đơn giản đem viễn kiến và ánh sáng xuống tới cõi vật lý chưa đủ. Chìa khóa thật để thị hiện đời sống dồi dào là con làm gì với ánh sáng và viễn kiến đó.
Nhiều người tâm linh rất chân thành trong nỗ lực tâm linh của họ. Một số đã cố gắng trong mấy thập kỷ để học hỏi, thiền định hay thực tập tâm linh và quả thật họ có tiến bộ. Họ đã nâng tâm thức của họ vượt rất xa trạng thái tâm thức khi họ khởi sự. Nếu con nhìn họ một cách trung thực, thì con sẽ khám phá hai khuynh hướng:
- Một số có viễn kiến rất mạnh về điều gì cần xảy ra để cải thiện hành tinh trái đất và biến nó thành một môi trường tốt hơn cho tất cả. Họ rất giỏi nắm bắt viễn kiến này, họ giỏi giải thích nó nhưng thường khi viễn kiến ở lại trong đầu họ và không dễ dàng chuyển thành hành động.
- Một số đã thiết lập được dòng chảy của ánh sáng Thượng đế ở cấp độ nào đó. Họ có thể rất hùng mạnh, có nhiều uy lực hoặc họ có thể đầy thương yêu và có thể lấp đầy một căn phòng với năng lượng tích cực. Những người như thế giỏi bắt tay vào hành động nhưng đôi khi họ thiếu viễn kiến rộng lớn và chú tâm vào đám cây thay vì thấy khu rừng. Không phải lúc nào họ cũng có viễn kiến cần làm gì với năng lượng và bầu nhiệt huyết của họ, cho nên họ có những hành động thiếu cân bằng không mang lại kết quả mong muốn. Những người này thường nghĩ điều thích nghi là chỉ cần thương yêu tất cả mọi người và chấp nhận mọi chuyện đều tốt.
Có nhiều người trên trái đất ngày nay đạt được một mức độ tâm linh nào đó. Họ tới điểm có tiềm năng làm được nhiều điều tốt và có ảnh hưởng ở mức độ hành tinh. Nhưng họ vẫn chưa bước qua lằn ranh thiết yếu cần phải bước qua trước khi họ có thể đem sự thành tựu từ cõi tiềm năng vào cõi thực tế.
Nhiều người tâm linh gần đột phá tới điểm có thể ảnh hưởng lớn lao và tích cực trên hành tinh này, một ảnh hưởng sẽ nâng cao tâm thức tập thể và đẩy mạnh xã hội tiến lên thời hoàng kim. Họ chưa có ảnh hưởng quyết định vì họ chưa thị hiện đời sống dồi dào trong chính đời sống họ, và ở tầng mức xã hội họ cũng chưa nâng cao phẩm chất cuộc sống cho tất cả. Thày không hề có ý định hạ thấp nỗ lực thành tâm của bất cứ ai. Thày chỉ muốn nói là có một tiềm năng vĩ đại đang chực xuyên phá nhưng vẫn chưa được kéo vào cõi vật lý. Vậy cái gì thiếu, chìa khóa nào chưa có mặt mà con người chưa khám phá hay chưa thể nhập? Để trao cho con chìa khóa này một cách giản dị nhất, thày xin con chiêm nghiệm hình số 8. Quả thực đây là biểu tượng cho điều cần xảy ra để con thiết lập được đời sống dồi dào thật sự.
13.2. Hoàn tất dòng chảy số tám
Khi con nhìn hình số tám, con có thể bắt đầu ở đỉnh tượng trưng cho chính đấng Sáng tạo. Con có thể hình dung ánh sáng tuôn chảy từ đấng Sáng tạo xuống các tầng của cõi tâm linh tượng trưng bởi phần trên của hình số tám. Sau đó ánh sáng đi tới điểm eo kết nối của hình số tám và điểm kết nối này tượng trưng cho thể bản sắc của con, điểm cao nhất của thể bản sắc của con. Đây là điểm gặp gỡ giữa tâm linh và vật chất, giữa Bản thể cao của con là nơi ánh sáng Thượng đế tuôn chảy xuyên qua, và con người phàm của con, bốn thể phàm của con, qua đó con hành động trong thế gian này. Trong các chương vừa qua, thày đã dạy con cách đem dòng chảy của ánh sáng Thượng đế từ điểm nối kết xuống tận đáy của hình số tám là tâm ý thức của con, tâm vỏ ngoài của con và thân vật lý của con. Để thực sự hiển thị sự dồi dào Thượng đế trong đời sống của con, con phải đi hết vòng tròn, hoàn tất dòng chảy hình số tám. Con không thể để ánh sáng tích tụ lại ở đây và không làm gì cả, con cũng không thể dùng ánh sáng cho mục đích vị kỷ. Làm thế là chôn vùi khả năng của con dưới đất.
Câu hỏi thật sự là con làm gì với ánh sáng sau khi đem nó xuống. Con có chọn lựa giữa con đường có vẻ đúng với người thế tục và con đường thật của đời sống vĩnh cửu. Con đường có vẻ đúng với người thế tục là suy luận rằng, vì mình đã bỏ công sức đem ánh sáng xuống, mình có quyền dùng nó cho quyền lợi riêng của mình. Quả thực con thấy nhiều người có thành tựu tâm linh nhưng họ dùng nó cho lợi ích riêng hay thú vui riêng của họ. Một số không bao giờ ngừng tìm cầu việc nâng cao tâm thức, có khi tìm cái gọi là quyền năng siêu thường hay trải nghiệm tột đỉnh, nhưng họ chỉ làm thế để cá nhân họ hưởng. Con hãy nhìn cuộc đời Giê-su và cuộc đời Phật. Nếu hai vị này đã chọn con đường thụ hưởng cá nhân, họ đã ở lại trong rừng hay nơi hoang vắng và dụng công để nâng cao tâm thức. Thay vào đó, họ tới bước ngoặt và trở về thế gian, dành trọn cuộc đời còn lại để giúp đỡ người khác.
Thày có nói tới hai loại người đã không thị hiện điều gì, và quả thực lý do là họ không chịu làm một cái gì với ánh sáng của họ, một cái gì vượt quá cá nhân họ. Thày không nhất thiết nói là những người này ích kỷ hay tôn sùng tự ngã theo nghĩa thấp nhất của từ ngữ. Thày muốn nói là có một số người tâm linh trên hành tinh này đã trở nên tập trung vào chính họ, gần như hoàn toàn chìm đắm trong chính họ và việc tìm cầu tăng triển tâm linh, bất kể họ định nghĩa tăng triển tâm linh là gì. Những người này không tôn sùng tự ngã theo nghĩa họ làm bất cứ gì họ muốn mà không đếm xỉa tới ảnh hưởng trên người khác. Nhiều người thật sự sống đúng theo các nguyên tắc tâm linh và không hại người khác hay môi sinh. Ta có thể tìm thấy những người này trong các cộng đồng Thời đại Mới hay tôn giáo truyền thống kể cả các giáo phái Cơ đốc. Nhìn từ góc độ vỏ ngoài, những người này sống một cuộc sống thiện lành, họ không vi phạm bất kỳ quy luật Thượng đế nào, ít nhất là những quy luật vỏ ngoài mô tả trong nhiều tôn giáo hay triết lý tâm linh. Họ không thực sự tiến lên một bực và xét xem họ có thể làm gì với thành đạt tâm linh của họ để đem vương quốc Thượng đế đến trái đất, tìm ra vị trí của họ trong công trình sáng tạo rộng lớn và vượt thời gian của Thượng đế. Vì họ không vượt lên trên chính họ, họ không hoàn tất được vòng tròn để cho ánh sáng tuôn chảy trở về Thượng đế.
Đây là điều Giê-su mô tả trong ẩn dụ về việc nhân ta-lăng. Chỉ khi con dùng khả năng mình để làm việc tốt thì con mới nhân chúng lên. Chỉ khi những khả năng của con, hay đúng hơn là ánh sáng, được nhân lên thì con mới hoàn tất dòng chảy hình số tám để Thượng đế có thể nhân lên ở Trên Cao những gì con đã nhân lên ở dưới này. Thậm chí, sẽ có nhiều ánh sáng hơn nữa chảy xuống hình số tám tới tâm ý thức của con. Chìa khóa thị hiện đời sống dồi dào trên một căn bản lâu dài là hoàn tất vòng tròn bằng cách cho ra vô điều kiện những gì con đã nhận được vô điều kiện.
13.3. Mọi sự sống là một
Đây là điểm tuyệt đối cơ yếu. Nhiều người tâm linh không hoàn toàn hiểu điểm này. Nhiều người gần hiểu, nhưng họ không có hiểu biết đầy đủ, đúng đắn và trọn vẹn. Nếu con không hoàn toàn nắm bắt điểm này, nỗ lực của thày giúp con thị hiện đời sống dồi dào thật sẽ chẳng đi tới đâu. Một số người đã đem tiến bộ tâm linh của họ chuyển thành vòng xoáy đi xuống mà không biết họ đã đi lầm đường, con đường trông có vẻ đúng đối với người thế tục. Họ đã dùng ánh sáng của họ cho mục đích vị kỷ thay vì vươn lên viễn kiến lớn rộng hơn thấy rằng vì mọi sự sống đều đến từ cùng một nguồn, nên họ là một với mọi sự sống. Những gì họ làm với người khác, họ thực sự làm với mình. Sự thật thô bạo là những người này thường nghĩ họ đang làm đúng mọi chuyện, nhưng họ lại đang đi theo con đường chắc chắn đưa họ tới cái chết tâm linh, cái lỗ đen của sự trở nên càng ngày càng đặt trọng tâm vào cái ta của mình thay vì đặt trọng tâm vào Thượng đế.
Mọi sự sống là một. Khi con bắt đầu hành trình tâm linh, con bị giam trong tâm thức nhị nguyên và không thấy sự thật này. Con quá ư tập trung vào thân vật lý và ngã hữu diệt để nhìn thấy bức tranh lớn hơn, để có được bất kỳ ý niệm là một với tất cả. Con phải bắt đầu nơi con đang là và tìm cách nâng cao tâm thức của mình. Vì tâm thức tập thể trên hành tinh này ở mức quá thấp, nên mọi người tầm đạo cần tách mình khỏi tâm thức đại chúng. Con cần tập trung vào chính mình, vào sự tăng triển của chính mình để thoát khỏi lực kéo xuống của tâm thức đại chúng. Tập trung vào chính mình và sự tăng triển của mình là việc làm có giá trị nhưng điểm cốt yếu là nó chỉ có giá trị trong một thời gian. Con phải tập trung vào chính mình để lấy lại sự nối kết nội tâm và nối kết trực tiếp với Bản thể cao hơn của con. Một khi con nối kết được, con phải bước lên mức kế tiếp và nhận ra con là nối dài của đấng Sáng tạo và mọi người khác cũng thế.
Khi con đạt được một mức hợp nhất nào đó với Thượng đế, con cần phát triển ý niệm hợp nhất với mọi sự sống. Con không còn đơn giản tìm cách nâng cao tâm thức của chính mình, con cũng tìm cách nâng cao tâm thức của người khác và ngay cả tâm thức tập thể. Chỉ khi con tặng ánh sáng của mình để giúp người khác, con mới hoàn tất dòng chảy hình số tám là điều Giê-su mô tả khi thày nói: “Cha ta làm việc cho tới nay và ta cũng làm việc” (John 5:17). Giờ đây con dùng thành đạt của mình, ánh sáng của mình để làm việc cho kế hoạch lớn hơn của Thượng đế là nâng tâm thức mọi người lên tới tâm thức Ki-tô. Nếu con không chuyển tiếp từ cái nhìn đặt mình là trọng tâm sang cái nhìn đặt Thượng đế là trọng tâm, thì con sẽ dùng ánh sáng của mình để củng cố sự ích kỷ của ngã hữu diệt. Sự thật phũ phàng là nhiều người tâm linh chân thành quả thực đã đi theo con đường ích kỷ này. Họ nghĩ họ đang làm đúng mọi chuyện nhưng sự công chính của họ không đạt mục tiêu. Thay vì nhân lên ánh sáng và thành đạt tâm linh của họ bằng cách giúp người khác, thì họ biến ánh sáng đó thành bóng tối chỉ củng cố thêm ngã hữu diệt của họ.
Đây là điều Giê-su nói tới khi đưa ra nhận xét thường bị hiểu sai hay bỏ qua: “Ánh sáng của thân thể là con mắt: cho nên nếu mắt con đơn nhất, toàn thân con sẽ tràn ngập ánh sáng. Nhưng nếu mắt con xấu ác, toàn thân con sẽ tràn ngập bóng tối. Cho nên nếu ánh sáng trong con là bóng tối thì bóng tối ấy lớn lao biết bao!” (Matthew 6:22-23). Nếu mắt con đơn nhất, con thấy cái một của mọi sự sống. Nếu mắt con xấu ác nghĩa là phân rẽ, con nhìn mọi chuyện qua tâm thức tách biệt và do đó con thấy lợi ích của riêng mình đi ngược lại hay cao hơn lợi ích của tổng thể. Khi con tăng trưởng tâm linh, con sẽ tới một ngã rẽ. Nếu con không bắt đầu dùng các thành đạt của mình để nâng cao tổng thể, thì con sẽ không tránh được sự tha hóa ánh sáng và thành đạt của mình, biến chúng thành cái tăm tối của tâm phản Ki-tô là tâm chối bỏ nó là một với đấng Sáng tạo và với mọi sự sống.
13.4. Tình thương vượt lên trên sợ hãi và ích kỷ
Hãy để thày nói tới động lực đằng sau hành động con người và thậm chí cách họ tiếp cận tâm linh. Nhiều tín đồ tôn giáo trên hành tinh này tin rằng họ phải thờ phượng Thượng đế để được cứu rỗi và là con chiên ngoan đạo. Một số còn tin rằng họ phải thờ phượng Giê-su. Nhiều người tin rằng để được cứu rỗi, để được chấp nhận vào vương quốc Thượng đế, thì họ phải làm điều gì đó cho Thượng đế, họ phải làm điều gì đó để hài lòng Thượng đế. Họ phải tuân theo quy luật của sinh thể bên ngoài ở trên trời đó, đã quy định luật lệ nghiêm khắc mà mọi người phải tuân theo không khoan nhượng.
Nếu Thượng đế đã tạo ra toàn bộ vũ trụ này, thì có thể chăng Thượng đế cần điều gì đó từ một con người sống trên hành tinh nhỏ bé này? Con thử nghĩ xem con có thể tặng Thượng đế điều gì mà Thượng đế cần, mà Thượng đế chưa có rồi? Tại sao Thượng đế cần sự thờ phượng của bất kỳ ai khi Thượng đế là Tất cả và do đó trọn vẹn trong chính ngài? Thượng đế đầy đủ đến độ ngài lúc nào cũng cho từ bản thể của ngài, giống như mặt trời lúc nào cũng tỏa ánh sáng của nó. Những người nghĩ họ cần làm điều gì hay tặng cái gì cho vị Thượng đế bên ngoài đang cư xử giống như những người nghĩ họ cần làm một ngọn đèn pha vĩ đại và chiếu nó vào mặt trời để cho mặt trời ánh sáng. Trước tiên con không thể chế tạo một đèn pha lớn đủ để ảnh hưởng được mặt trời. Thứ nhì, tại sao con cần cho mặt trời ánh sáng khi mặt trời hiện hữu để cho trái đất ánh sáng? Những người này suy nghĩ thiếu lô-gíc và quả thật đang kẹt trong tâm thức muốn mua sự cứu rỗi của họ.
Thượng đế, dưới dạng đấng Sáng tạo, không cần gì cả từ con. Thượng đế không muốn con thờ phượng ngài. Giê-su không muốn con thờ phượng thày và đó chính là lý do vì sao thày nói: “Tại sao ngươi gọi ta là lành? Chỉ có một đấng lành mà thôi, đó là Thượng đế” (Matthew 19:17). Thượng đế không cần con vào một nhà thờ hay một ngôi đền và thờ phượng ngài, đốt hương hay dâng vật tế. Thượng đế không cần con xây dựng thánh đường tráng lệ và gọi đấy là nhà của Thượng đế. Thượng đế không cần bất kể các thứ đó. Thượng đế muốn con làm gì với ánh sáng ngài đã cho con?
Chúng ta hãy nhìn những người tâm linh hay tôn giáo đã tiến lên cao hơn. Họ nhận ra rằng mục đích của tôn giáo không phải là thờ phượng một Thượng đế xa xăm không cần thờ phượng. Mục đích của tôn giáo là đưa niềm tin tâm linh vào thực hành bằng cách giúp người khác. Tỷ dụ, có nhiều người Cơ đốc chân thành và sùng đạo đã có thành đạt cao trong lãnh vực này và cống hiến cuộc đời mình để giúp đỡ người khác nhân danh Giê-su. Cũng có nhiều người thuộc các tôn giáo khác hay trong cộng đồng tâm linh Thời đại Mới cũng đang tìm cách nâng cao hành tinh qua việc thỉnh cầu năng lượng tích cực qua nhiều dạng nghi thức khác nhau. Một số trong các người đó quả thực có trái tim thành thật trong sáng. Một số khác vẫn chưa thăng vượt khuynh hướng tập trung vào việc làm điều gì đó cho vị Thượng đế xa xăm trên trời. Nhiều người vẫn còn làm việc giúp đỡ người khác vì họ nghĩ công việc này khiến Thượng đế hài lòng. Họ làm vì họ cảm thấy phải làm; họ làm trong tinh thần trách vụ hay bổn phận, hay vì họ cảm thấy việc làm của họ sẽ bắt buộc Thượng đế phải cứu rỗi họ. Một số còn phụng sự với niềm kiêu hãnh vi tế muốn tỏ cho Thượng đế thấy họ đã làm rất nhiều hơn so với người khác. Những người này chỉ cho để được hưởng lại điều gì đó, họ không cho vì yêu thích cho, vì tình thương trong sáng muốn thấy sự sống tuôn chảy.
Thày có nói sợ hãi là một động lực kém. Thày có nói con cần uy lực ý chí để đột phá lực chống trả sự thị hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất. Nếu uy lực ý chí của con dựa trên sợ hãi, nó sẽ không mạnh đủ để đột phá sự chống đối do tâm thức đại chúng và ông hoàng thế gian tạo ra. Nhiều người đã khắc phục sợ hãi và không thật sự hành động vì sợ hãi. Nhưng họ vẫn còn ý niệm trách vụ và bổn phận và ý niệm này không thật sự vị tha. Nó không dựa trên điều duy nhất có thể khắc phục mọi chống đối. Điều duy nhất đó là sức mạnh tình thương.
Nếu con muốn đột phá lực chống đối sự thị hiện đời sống dồi dào, thì con cần uy lực ý chí hoàn toàn dựa trên tình thương. Tình thương là lực mạnh mẽ nhất trong vũ trụ. Để vượt lên trên sợ hãi và vị kỷ, con cần hiểu tình thương là gì và đây là một vấn đề cho nhiều người, ngay cả nhiều người tâm linh. Nhiều người đã có tiến bộ tâm linh lớn nhưng nhiều người trong số này đã tới mức bằng phảng không tiến lên nữa. Trong một thời gian, họ tăng triển và tiến bộ nhiều nhưng rồi họ tới điểm bắt đầu cảm thấy mình đã hiểu đủ, đã biết đủ, đã làm đủ rồi. Nhiều người cảm thấy họ đã tìm thấy chân lý tối hậu, tổ chức tối hậu, giáo lý hay đạo sư tối hậu. Họ chỉ cần ở lại với giáo lý, tổ chức đó, tiếp tục theo đạo sư đó và một ngày kia họ sẽ được cứu rỗi. Đây là một phiên bản vi tế của ước mơ cứu rỗi máy móc, và ý niệm này vẫn đặt trọng tâm vào chính họ. Động lực đằng sau mọi sự sống là tự thăng vượt, động lực trở nên hơn cái gì con đang là ngay bây giờ. Nếu con nghĩ con đã biết đủ, làm đủ, thì con không thể tránh đặt mình ra ngoài Dòng sông sự Sống và như vậy con không thể hoàn tất dòng chảy hình số tám.
Sẽ có lúc con tới bước ngoặt trên con đường tâm linh. Khi tới điểm này, con không thể và sẽ không tiến bộ tiếp cho tới khi con với lên cái gì vượt quá chính mình. Con sẽ không tiến bộ thêm cho tới khi con bắt đầu cho ra những gì con có và những gì con đã học. Thay vì tập trung vào sự tăng triển tâm linh của chính mình, con phải nhìn quá sự tăng triển của chính mình và nhìn vào toàn thể hành tinh. Con phải bắt đầu xét xem làm sao con dùng được những gì con đã học hỏi, những gì con đã khám phá, những gì con đã thấm nhập để nâng cao tâm thức người khác.
Nếu con không cho những gì con đã học, thì con sẽ không tăng triển thêm quá một điểm nào đó. Con sẽ không thể tránh đình trệ. nhưng không có sự đình trệ. Hoặc con tăng triển qua tự thăng vượt hoặc con sụp đổ qua sự chìm đắm trong cái ta là trọng lực kéo xuống được mô tả trong quy luật thứ nhì của nhiệt động học. Nhiều người trên trái đất cảm thấy họ rất tâm linh, cảm thấy họ đang làm đúng, nhưng họ không đang tăng triển. Họ đạt tới mức cảm thấy họ ngay chính vì họ thuộc về tổ chức này hay tổ chức nọ. Họ nhìn lại cuộc đời mình và họ thấy họ đã làm bao nhiêu việc cho một tổ chức đặc thù hay để nâng cao tâm thức hành tinh. Dù họ đã làm nhiều, nhưng họ đã cho phép sự tăng triển của họ ngừng lại. Họ không thực sự xét xem làm sao họ có thể thăng vượt tổ chức vỏ ngoài hay giáo lý vỏ ngoài. Trước hết, họ không xét xem họ có thể thăng vượt chính mình như thế nào, thăng vượt thái độ và cách họ tiếp cận cuộc sống. Họ hài lòng với hiểu biết họ có và họ không tìm hiểu biết cao hơn có thể dẫn họ lên mức kế tiếp. Họ không hiểu là ngày nào còn hiện thân trên trái đất thì luôn luôn có một mức kế tiếp. Con chỉ thăng lên vĩnh viễn khỏi trái đất khi con sẵn sàng lúc nào cũng vươn lên mức kế tiếp.
Những người này bị kẹt trong sự ngay chính mà Giê-su tố cáo khi thày nói trừ khi sự ngay chính của con trội hơn sự ngay chính của thày thông giáo và người Pha-ri-si thì con không thể vào thiên đàng (Matthew 5:20). Điều này đặt ra một tình huống rất khó xử cho các thày là những thày tâm linh vì nó thường khiến các thày mất những người có thành đạt tâm linh cao nhất. Tình huống khó xử này giản dị. Nhiều người đón nhận giáo lý trong khóa học này là những người đã mở tâm đón nhận con đường tâm linh và đã có những tiến bộ đáng kể trên đường tu. Vấn đề là nhiều người trong số đó thỏa mãn với tiến bộ của họ. Họ có thể đọc khóa học này vì tò mò và họ sẽ lấy một số ý mà họ cảm thấy là hay vì các ý này xác nhận những gì họ đã tin. Nhiều người sẽ cảm thấy khó dùng khóa học này để nhìn vào trong gương và thấy là họ chưa thăng vượt một mức hiểu biết hay thành tựu nào đó. Nhiều người cũng không muốn nhìn nhận sự kiện là mặc dù họ đã tiến bộ tâm linh nhiều, họ vẫn chưa tiến bước tối hậu để thiết lập đời sống dồi dào. Bước tối hậu đó là cho vô điều kiện những gì con đã nhận, dùng nó để giúp người khác bằng cách tạo cảm hứng cho họ tiến lên cao hơn.
13.5. Tình thương thiêng liêng là Dòng sông sự Sống
Tại sao nhiều người đứng ở bước ngoặt nơi họ có tất cả kiến thức và hiểu biết họ cần nhưng vì lý do nào đó họ không thể đem chúng vào hành động và thực sự thị hiện đời sống dồi dào tâm linh cho chính họ và người khác? Lý do là rất nhiều người không hiểu bản chất thật của tình thương. Lý do là họ lớn lên trong một xã hội dựa trên một tầm nhìn hoàn toàn méo mó về tình thương, tầm nhìn nhị nguyên về tình thương, tầm nhìn dựa trên tâm thức phản Ki-tô. Tình thương thế tục không dính dáng gì tới tình thương thiêng liêng. Không phải là tình thương thế tục ngược lại tình thương thiêng liêng. Đơn giản là tình thương thế tục không nối kết với tình thương thiêng liêng. Tình thương thiêng liêng là lực thúc đẩy sáng tạo của Thượng đế và nó là lực tự thăng vượt, lực trở nên hơn nữa. Ngược lại, tình thương thế tục tìm cách sở hữu, tìm cách làm chủ, tìm cách giữ mọi sự đứng yên bằng cách ngừng dòng chảy của sự sống. Khi con sở hữu một vật gì, con muốn giữ nó. Điều này tất nhiên dấy lên nỗi sợ mất mát và để tránh mất mát, con nghĩ con phải kiểm soát hoàn cảnh bằng cách không cho nó thay đổi.
Cốt lõi là con bị kẹt trong một dạng điên rồ tìm cách ngăn cản một điều gì trở nên hơn nữa bằng cách giữ nó trong một trạng thái giới hạn. Con nghĩ những gì con đang có là tất cả những gì con có thể có cho nên con thà giữ trạng thái giới hạn thay vì cho phép nó trở nên hơn nữa. Trên căn bản con đang nói với Thượng đế đang muốn cho con dồi dào vô hạn: “Thượng đế, hãy để tôi yên, tôi muốn giữ những gì tôi có; tôi không muốn trở nên hơn nữa.” Nhiều quan hệ nhân gian nhìn bề ngoài có vẻ thương yêu nhưng thật sự dựa trên ý muốn sỡ hữu người khác hay kiểm soát điều mình có được từ người kia. Dưới bề mặt có vẻ là quan hệ thương yêu là ý muốn kiểm soát một điều gì để giữ nó y như cũ, để con có thể tiếp tục sở hữu nó.
Khi con thấy bản chất phù du của mọi sự trên trái đất, thì phải chăng điều hiển nhiên là con tối hậu không thể sở hữu bất cứ gì, phải không con? Có điều gì mà con có thể giữ được? Con hãy nghĩ tới câu nói dân gian là con không thể đem gì theo con, nghĩa là bất cứ sở hữu vật chất nào, khi con chết. Có một thứ mà con có thể đem theo con, đó là những thành đạt tâm linh con đã thể nhập. Thành đạt tâm linh đó đòi hỏi con hiểu bản chất của tình thương, và bản chất đó là một dòng chảy liên tục, chính là Dòng sông sự Sống, không bao giờ đứng yên.
Dòng sông sự Sống không bao giờ tìm cách làm chủ hay sở hữu bất cứ gì; nó lúc nào cũng cho, cũng chảy, nó thay đổi, vượt thăng chính nó và trở nên hơn nữa. Nó không tìm cách sở hữu bất cứ gì vì nó thấy nó là một với tất cả mọi sự tốt lành và toàn hảo. Nó biết rằng chỉ khi trở nên hơn nữa, khi là một với Dòng sông sự Sống, thì con mới thực sự sở hữu bất cứ gì. Chỉ khi con không tìm cách sở hữu và kiểm soát một thứ, thì con mới cho phép cái Tất cả trở nên hơn nữa. Chỉ khi con cho chính mình, con mới nhân lên các khả năng của con và trở nên hơn nữa. Chỉ khi con tự thăng vượt con mới có sở hữu thật vì chỉ khi con tự thăng vượt con mới ở trong Dòng sông sự Sống. Chỉ khi con ở trong dòng sông này con mới có dồi dào, sự dồi dào thực sự luôn luôn tăng trưởng và trở nên hơn nữa. Đó là lý do tại sao con phải nâng cao hiểu biết về tình thương để nhận chân rằng tình thương thật, tình thương thiêng liêng không bao giờ đứng yên và không bao giờ tìm cách làm chủ, sở hữu hay kiểm soát bất cứ gì. Tình thương thật luôn luôn cho chính nó và chính là trong sự cho chính nó đó mà nó trở nên hơn nữa.
Đây là chìa khóa chủ yếu để thị hiện dồi dào và đây là chân lý mà hầu hết người đi tìm tâm linh không hiểu trọn vẹn, không thể nhập trọn vẹn và không trọn vẹn đem vào hành động. Để duy trì dòng chảy hình số tám, con phải cho ra dưới này những gì con nhận được từ Trên. Đấng Sáng tạo muốn con cho ra không điều kiện những gì con nhận không điều kiện nhưng ngài không muốn con cho ngài vì ngài không cần nó. Nếu đấng Sáng tạo cần gì từ con, thì tại sao ngài lại liên tục cho con ánh sáng? Thượng đế không muốn con cho lại Thượng đế bằng cách thờ phượng một sinh thể xa cách trên trời, bằng cách phục vụ người khác để làm vừa lòng sinh thể xa xăm đó hay bằng cách chú tâm nâng cao chính tâm thức mình để gây ấn tượng với vị Thượng đế xa xăm đó.
Điều Thượng đế cần con làm là nhìn chung quanh mình và xem xét những điều kiện con hiện thấy trên trái đất. Thượng đế cần con có một lượng định thực tế và nói: “Với tất cả những gì tôi biết về Thượng đế như một Sinh thể hoàn toàn tự túc lúc nào cũng cho chính mình, tôi cần nhận ra tình thương của Thượng đế vô điều kiện và vô biên. Thượng đế không có mong muốn nào khác ngoài chuyện thấy vương quốc của ngài thị hiện vật lý trên hành tinh trái đất.” Đấng Cha quả thật hoan hỷ muốn cho mọi người vương quốc của ngài. Ngài không muốn thấy họ chết và lên thiên đàng mới nhận được vương quốc, nhưng ngài muốn cho mọi người vương quốc ngay ở đây trên trái đất.
Điều kiện hiện hành trên trái đất khác xa vương quốc Thượng đế. Thực tại hiện hành khác xa viễn kiến cao nhất của tâm Ki-tô đến độ gần như không thể mô tả được. Lý do vì sao điều kiện hiện hành khác xa viễn kiến Thượng đế chính là vì con người đã rơi vào tâm thức nhị nguyên. Họ lạm dụng quyền năng sáng tạo của họ để tự ngã tạo ra đời sống khổ đau thay vì họ đồng-sáng tạo vương quốc Thượng đế. Cần gì để thay đổi tình trạng này? Cần những người có viễn kiến cao hơn, như chính con, làm hết mọi điều trong khả năng của họ để quảng bá viễn kiến đó và thức tỉnh người khác.
Thượng đế muốn con nhân lên những gì con nhận được từ ngài bằng cách cho nó cho người khác. Đó là lý do tại sao Giê-su nói: “Hễ các con làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các con đã làm điều đó cho chính ta.” (Matthew 25:40). Ở các tầng thấp hơn của tâm thức Ki-tô, con nhận ra con là một với Thượng đế nhưng con không ngừng ở đó. Con cần thăng vượt lên tầng cao hơn và nhận ra con là một với Thượng đế vì Bản thể Thượng đế nằm trong mọi sự đã được sinh tạo. Đấng Sáng tạo sinh tạo mọi sự từ chính Bản thể ngài. Khi con cho chính mình cho người khác hay cho Trái đất Mẹ, con thật sự đang cho Thượng đế. Duy có điều con không cho vị Thượng đế mà con coi như một sinh thể trên trời. Con đang cho vị Thượng đế thật, nội tại hiện hữu bên trong mọi sự.
Con hãy lưu ý sự khác biệt vi tế ở đây. Thày không nói là không có Thượng đế trên cõi cao, vì quả thực có một Sinh thể mà tâm thức tập trung như là đấng Sáng tạo của hệ thống các thế giới này. Một phần của Bản thể đấng Sáng tạo được cài bên trong mọi sự từng được sinh tạo. Có một khía cạnh phi cá nhân của Thượng đế, đấng Sáng tạo trên cõi cao, và có một khía cạnh cá nhân của Thượng đế là Thượng đế hiện hữu trong tất cả. Có Thượng đế là cái Tất cả và Thượng đế ở trong tất cả. Thượng đế là cái Tất cả muốn con cho ánh sáng và tình thương một cách vô điều kiện cho Thượng đế ở trong tất cả. Thượng đế ở trong tất cả đang tạm thời lẩn trốn đằng sau lớp hóa trang của hình tướng vật lý bất toàn. Đấng Sáng tạo muốn con giải thoát Thượng đế này, giải thoát Ánh sáng Mẹ, để trải bày cái toàn hảo mà đấng Sáng tạo đã hình dung. Qua đó, Thượng đế ở trong tất cả sẽ hợp nhất với Thượng đế là cái Tất cả. Sẽ không còn ảo tưởng tách biệt giả tạo do tâm thức phản Ki-tô tạo ra.
13.6. Phát triển nhận biết hoàn vũ
Con yêu dấu, điều sẽ có tác dụng quyết định trên hành tinh này là những người tâm linh tiến bộ hơn khắc phục khuynh hướng tập trung vào chính mình và thay vào đó phát triển một sự nhận biết không những toàn cầu mà toàn vũ. Con ở đây để là một sứ thần cho ánh sáng Thượng đế, sứ thần cho viễn kiến Ki-tô. Con ở đây để là người đồng-sáng tạo và đem vương quốc Thượng đế tới trái đất. Chỉ khi con nhận ra lý do tại sao Bản thể cao của con chọn xuống đây, con mới có thể trải nghiệm và thị hiện đời sống dồi dào. Chìa khóa để thiết lập dòng chảy số tám của đời sống dồi dào là cho ra những gì con có, cho ra những gì con đã nhận, cho ra những gì con thể nhập, cho ra con người mà con đã trở thành. Con phải để cho mặt trời của Hiện diện TA LÀ tỏa rạng xuyên qua bốn thể phàm của con và cho nó rọi sáng người công chính và người bất chính. Điều này đòi hỏi con phải khắc phục lời dối trá cơ bản liên quan tới tình thương do ông hoàng thế gian lan truyền.
Lời dối trá quỷ quyệt nhất do ông hoàng thế gian, do tâm rắn, lan truyền là con phải cho tình thương với điều kiện. Lời dối trá này tìm cách khiến con tin rằng có một số tình huống trên trái đất cho phép con đóng dòng chảy của tình thương vô điều kiện của Thượng đế tuôn chảy qua bản thể con và làm như thế là cần thiết, không thể tránh và đúng lý. Khi con nhìn vào nhân loại ngày nay, con sẽ thấy là gần như hầu hết con người trên hành tinh này bị kẹt trong thái độ là để họ có thể cho tình thương cho một người, thì người ấy phải hội đủ một số điều kiện, như thể họ phải xứng đáng nhận được tình thương. Đây là một lời dối trá quỷ quyệt vì tình thương thật đến từ Thượng đế và Thượng đế cho tình thương một cách vô điều kiện. Ngài cho phép ánh sáng của ngài tỏa sáng trên người ác cũng như người lành và ngài cho phép tình thương của ngài mưa xuống người công chính và người bất chính (Matthew 5:45). Con là ai mà đặt điều kiện khi cho người khác?
Lời dối trá này không chỉ ngăn cản sự thị hiện vương quốc Thượng đế ở tầng mức lớn rộng mà nó còn ngăn cản sự thị hiện đời sống dồi dào cho tất cả mọi người đang bị kẹt trong cách tiếp cận đời sống đó. Mặt trời nhận được niềm vui qua sự tỏa chiếu ánh sáng của nó. Nếu mặt trời đặt điều kiện khiến nó khóa ánh sáng của nó lại, nó sẽ gây tổn thương cho chính nó qua việc tắt đi nguồn vui của nó. Khi con cho phép bất cứ điều kiện nào trong tâm con hay ngoài con ngưng dòng chảy của ánh sáng Thượng đế, tình thương Thượng đế, tuôn chảy xuyên qua con, thì con khóa lại chính nguồn vui của chính con, chính nguồn cội của đời sống dồi dào, vì đời sống dồi dào chính thật là một trạng thái tâm thức.
Rất nhiều người cảm thấy họ chỉ có thể cho tình thương cho người khác nếu người đó hội đủ những điều kiện mà họ đã cho phép đi vào bản thể của họ. Tất cả những điều kiện này, và thày cố ý khẳng đỉnh một điều tuyệt đối ở đây, đều do ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian tạo ra. Bất kỳ điều kiện nào khiến con đóng lại dòng chảy của tình thương Thượng đế xuyên qua bản thể của con phát xuất trực tiếp từ tâm phản Ki-tô và nuôi béo các lực của bóng tối. Không có gì phải bàn cãi về điều này; quy luật này hoàn toàn không có ngoại lệ. Một lần nữa, chúng ta có một sự phân biệt vi tế có thể làm nhiều người rối rắm cho tới khi họ vươn tới cái hiểu cao hơn của tâm Ki-tô.
Thày không nói là con phải đi ra ngoài và cho hết của cải của con một cách không phân biện hay cho đồng đều tất cả mọi người con gặp. Có sự khác biệt cơ bản giữa cho ra có điều kiện và cho ra có khác biệt, có phân biện. Để hiểu khác biệt này, con cần xem bản chất của tình thương là một lực không bao giờ cho phép bất cứ gì đứng yên trong một trạng thái giới hạn. Tình thương Thượng đế luôn luôn muốn mọi sự trở nên hơn những gì nó là bây giờ, thăng vượt tình trạng hiện thời của nó. Thày không nói là con phải đối xử với mọi người với cùng tình thương và lòng trắc ẩn. Thày không nói là con phải hiền dịu và nói nhỏ nhẹ với tất cả mọi người con gặp. Điều thày muốn nói là con cần để cho tình thương Thượng đế chảy qua bản thể con trong tất cả mọi tình huống mà con gặp. Con cần cho tình thương làm việc một cách tự do mà không ngăn nó lại, không áp đặt điều kiện là tình thương Thượng đế có thể làm hay không thể làm điều gì xuyên qua con. Ánh sáng Thượng đế muốn làm gì qua con? Nó muốn thay đổi mọi người nó gặp bằng cách giúp người ấy thức tỉnh và thấy nhu cầu vươn lên cao hơn, tự thăng vượt, trở nên hơn nữa.
Nếu con muốn một thí dụ thì con hãy tìm hiểu đời của Giê-su với một nhận biết mới vượt quá hình ảnh giả do nhiều giáo hội Cơ đốc dựng nên. Giê-su được mô tả như một vị thày tâm linh dễ dãi, hiền từ và thương yêu tất cả mọi người và khi thày nói “hiền từ và thương yêu” thày nói theo nghĩa thế tục. Nhiều người đã khoác vào trạng thái tâm thức tin rằng tình thương luôn luôn nhẹ nhàng và dịu dàng. Nếu con là người thương yêu, con luôn luôn nói nhẹ nhàng với người khác, khiến họ cảm thấy dễ chịu dù họ đang ở trong tình huống xấu hay trạng thái tâm giới hạn. Đây là hiểu sai lầm về bản chất của tình thương và nó tha hóa thành sự cảm thông nhân gian, nó có thể giúp người khác cảm thấy thoải mái nhưng không giúp họ vượt thăng trạng thái đau khổ và giới hạn hiện hành của họ.
Giê-su không phải là loại thày tâm linh như thế. Không phải lúc nào Giê-su cũng nói nhỏ nhẹ hay dịu dàng, nhưng thường rất cương cường và rất thẳng thắn. Con nhìn xem Giê-su chất vấn các thày thông giáo và người Pha-ri-si và đuổi những người đổi tiền ra khỏi đền thờ. Con nhìn xem Giê-su tra vấn các đệ tử bao nhiêu lần và nói họ không có hiểu biết và có ít đức tin. Giê-su có tình thương thiêng liêng thật và do đó, trong mỗi tình huống, mỗi người mà thày gặp, thày muốn mọi sự trở nên hơn nữa. Giê-su không muốn tình huống hay con người vẫn ở y trạng thái cũ sau khi gặp thày. Thày muốn giúp hay tạo cảm hứng cho họ, thậm chí chất vấn và thúc đẩy họ tự thăng vượt, vươn lên cao hơn, trở nên hơn nữa. Đây là tình thương thật. Con không cho phép bất cứ gì y như cũ, con không cho phép tình trạng khốn khổ và vật lộn hiện hành trên hành tinh trái đất tiếp tục như cũ. Chỉ giản dị đi khắp nơi và tỏ lòng thương cảm với mọi người không phải là tình thương. Tình thương là làm gì cần làm để giúp họ thăng vượt tình trạng tâm thức hiện hành của họ vì tình trạng tâm thức này là nguyên nhân thật của những vật lộn trong cuộc đời họ.
Để giúp những người đang kẹt trong ích kỷ và vị kỷ thăng vượt trạng thái tâm thức hiện hành của họ, thì con có thể cần phải rất cương cường và rất thẳng thắn. Điều có thể hoàn toàn cần thiết là con chất vấn và phơi bày những niềm tin nhị nguyên mà họ dính mắc. Có thể con cần làm rúng động niềm tin họ biết hết mọi chuyện hay chất vấn bất cứ cớ nào họ dùng để không thay đổi chính họ. Một số người sẽ cho rằng làm vậy thiếu từ bi nhưng từ một tầm nhìn rộng hơn, làm vậy không thiếu từ bi mà chính là lòng từ bi tối hậu. Để người khác ở lại trong tình trạng tâm thức sẽ bảo đảm họ bị tấm gương vũ trụ tiếp tục trả lại hòa cảnh khốn khổ và vật lộn không phải là lòng từ bi. Lòng từ bi là làm bất cứ gì cần thiết để lay chuyển họ bước ra khỏi trạng thái tâm thức đó và lãnh trách nhiệm cuộc đời họ, để họ có thể phóng chiếu điều gì vào tấm gương vũ trụ sẽ được trả lại như điều kiện sống dồi dào. Đây là lòng từ bi tâm linh thật sự và nó là món hàng hiếm hoi trên trái đất. Con có thể làm cho nó phổ biến hơn nếu con chịu nâng cao hiểu biết của con về bản chất của tình thương.
13.7. Nâng điều kiện hiện hành theo viễn kiến Ki-tô
Chìa khóa chủ yếu để thị hiện đời sống dồi dào cho mình là con nhìn mình là người đồng-sáng tạo với Thượng đế đang có mặt ở đây để giúp trái đất tới gần hơn việc thị hiện vương quốc Thượng đế. Con không ở đây để giản dị chấp nhận hoàn cảnh như chúng đang là hay để giúp con người cảm thấy thoải mái với những giới hạn hiện hành của họ. Con ở đây để giúp họ tiến lên cao hơn, để giúp mọi sự sống tiến lên cao hơn.
Con cần làm gì để thật sự hoàn thành vai trò này? Con cần xoay chuyển nhận biết để khắc phục một ảo tưởng khác trong những ảo tưởng quỷ quyệt do ông hoàng thế gian tạo ra. Ông hoàng thế gian muốn con tin rằng những giới hạn và bất toàn hiện hành mà con thấy trên trái đất có thật theo nghĩa tối hậu. Ông hoàng thế gian muốn con tin rằng tình trạng bất toàn và vât lộn hiện hành không thể tránh được vì Thượng đế không có ở đây trên trái đất, và do đó vương quốc Thượng đế không thể thị hiện trên trái đất. Đây là ảo tưởng tối hậu mà ông hoàng thế gian đưa ra và y đã khôn khéo dùng tình trạng hiện hành của vũ trụ vật chất để xây dựng ảo tưởng này.
Vũ trụ vật chất là bầu cõi sau cùng của công trình sáng tạo của Thượng đế. Khi Thượng đế sinh tạo một bầu cõi mới, bầu cõi này chỉ vừa đủ ánh sáng để khác với cái rỗng không. Các sinh thể tự nhận biết từ một bầu cõi cao hơn đi xuống bầu cõi mới để đem xuống ánh sáng Thượng đế và áp chồng viễn kiến tâm Ki-tô lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Mục đích là khiến bầu cõi sau cùng trải bày viễn kiến Ki-tô. Ngày nào bầu cõi mới chưa được lấp đầy bằng khối lượng ánh sáng tới hạn, không thể tránh là có vẻ như Thượng đế không có mặt nơi bầu cõi đó. Cảm tưởng này do ánh sáng Thượng đế không hiện hữu ở cường độ mạnh đủ để các giác quan thô của thân thể vật lý thấy Thượng đế có mặt. Hiện nay vẫn chưa đủ ánh sáng trong vũ trụ vật chất để giác quan vật lý thấy ánh sáng đằng sau các biểu hiện. Mắt của con không thể thấy là vật chất quả thực được làm ra từ Ánh sáng Mẹ đã khoác vào một hình tướng tạm thời. Ở điểm này của dòng tiến hóa của trái đất, chuyện bình thường là giác quan vật lý của con người không nhìn thấy ánh sáng Thượng đế đằng sau các biểu hiện bên ngoài. Cái Ta Biết hoàn toàn có khả năng thấy ánh sáng Thượng đế. Để thấy được, con phải đứng ngoài màn ảo tưởng do ông hoàng thế gian tạo ra.
Tấm màn ảo tưởng này dựa trên niềm tin là những gì con thấy qua giác quan là thật và những gì con không thấy, tức là ánh sáng Thượng đế, không hiện hữu. Đây là ảo tưởng mà ông hoàng thế gian tạo ra với mục đích kiểm soát thế giới và ngăn cản các đồng-sáng tạo của Thượng đế hoàn thành sứ vụ của họ. Các đồng-sáng tạo này có mặt ở đây để đem ánh sáng Thượng đế. Trước tiên ông hoàng thế gian làm cho những sinh thể tự nhận biết này quên mất bản sắc thật của họ và đồng hóa với thân vật lý. Sau đó, y cố gắng dùng những giới hạn của thân vật lý để giữ mọi người kẹt trong ảo tưởng đó. Y muốn con tin vào ảo tưởng là Thượng đế không có mặt ở đây và các bất toàn hiện hành là thật, không thể tránh và thường trực. Y muốn con tin vào điều này để con không để ánh sáng mình tỏa rạng và qua đó, con đẩy các điều kiện hiện hành đi, nâng chúng lên cao theo viễn kiến toàn hảo của tâm Ki-tô. Đây là âm mưu của ông hoàng thế gian và ngã hữu diệt. Làm sao con khắc phục được ảo tưởng lớn của các thời đại này, ảo tưởng đã giam bẫy 99 phần trăm con người trên trái đất? Làm sao con giải thoát mình khỏi bẫy đó? Con chỉ làm được bằng cách thanh tẩy bốn thể phàm của con. Khi làm vậy, con có thể nắm bắt viễn kiến cao hơn mà Thượng đế giữ cho hành tinh này, mà chúng ta có thể gọi là niệm tinh khôi. Niệm tinh khôi là ý nghĩa thật của thụ thai tinh khôi.
13.8. Giữ niệm tinh khôi
Ta là người sinh ra Giê-su qua cách mà các giáo hội Cơ đốc chính thống gọi là thụ thai tinh khôi (Luke 1:35). Điều này không có nghĩa là Giê-su được thụ thai một cách không tự nhiên hay siêu nhiên. Điều này có nghĩa là sau khi ta được thiên thần tới gặp và ta chấp nhận thay đổi lớn lao là cho ra đời một em bé, ta được trao cho niệm tinh khôi, viễn kiến tinh khôi, về Giê-su và sứ vụ của thày. Ta được trao viễn kiến nội tâm Giê-su là ai như một sinh thể tâm linh. Ta được trao viễn kiến tại sao Giê-su tới trái đất và mục đích của thày là gì trong sống kiếp đó. Suốt cuộc đời Giê-su, bổn phận của ta mà cũng là thử thách của ta, đôi khi cũng là khó khăn của ta, là giữ đúng niệm tinh khôi này. Có những giai đoạn Giê-su là một đứa trẻ khó dạy, một thiếu niên khó dạy và đôi khi thậm chí một người lớn khó tính. Bất kể Giê-su làm gì hay dù bất kể chuyện gì xảy ra, thử thách của ta là trung thành với viễn kiến tinh khôi là Giê-su sẽ biểu hiện quả vị Ki-tô trọn vẹn và hoàn thành sứ vụ của thày.
Sứ vụ của Giê-su trong hoàn cảnh bên ngoài có thể được trải bày qua nhiều diễn tiến khác nhau. Quả thật, tiềm năng cao nhất của sứ vụ của Giê-su là nhiều người dân và thậm chí một số nhà lãnh đạo Do thái giáo sẽ đón nhận thày như đấng Cứu tinh mà đạo Do Thái chờ mong. Hiển nhiên điều này đã không xảy ra, và chúng ta cũng có thể nói điều đã xảy ra gần với tiềm năng thấp nhất, nếu nhìn theo sự việc bên ngoài. Với tầm nhìn cao hơn, thì sứ vụ của Giê-su là một thành công mỹ mãn vì thày đạt được quả vị Ki-tô trọn vẹn và qua đó chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô. Cốt lõi của con đường này là con không ngồi yên và chờ điều kiện lý tưởng xảy ra trên trái đất trước khi con cho phép ánh sáng của con tỏa rạng và cho ra tình thương Thượng đế. Ngược lại, con chấp nhận bất kỳ điều kiện nào con đối mặt, dù chúng khó khăn bao nhiêu, và con để cho ánh sáng và tình thương Thượng đế nâng các điều kiện này lên cao hơn. Bất kể các điều kiện bên ngoài như thế nào và có vẻ bất toàn như thế nào, theo tầm nhìn cao hơn thì sứ vụ của Giê-su đã thành công. Cũng vậy, sứ vụ của con có thể thành công dù hoàn cảnh bên ngoài của con không đạt được tiêu chuẩn thế tục. Chìa khóa là con phải sẵn sàng thăng vượt những giới hạn của con.
Vai trò của ta và thử thách của ta là nhìn quá các hoàn cảnh bên ngoài và luôn luôn thấy Giê-su chiến thắng, nghĩa là thày sẽ đạt được sự phục sinh của thày. Ngay cả khi ta chứng kiến thày bị xét xử, khi ta thấy thày nhọc nhằn vác cây thập tự qua những phố đông người của thành phố Jerusalem, ngay cả khi ta thấy thày bị treo trên cây thập tự, thử thách của ta là nhìn quá những hoàn cảnh bên ngoài rất căng thẳng và rất bất toàn này. Ta phải giữ đúng viễn quan của niệm tinh khôi và kiên định giữ viễn quan Giê-su sẽ vươn lên trên mọi giới hạn nhân phàm và đạt được tự do vĩnh cửu trong sự phục sinh.
Đây là thử thách mà con đối mặt trong đời sống cá nhân của con và đây là thử thách các con đối mặt ở mức hành tinh trong thời đại này. Thử thách chính của cuộc sống trên trái đất là không bao giờ để cho bất kỳ hoàn cảnh nào lừa gạt con để con khóa dòng chảy của ánh sáng và tình thương Thượng đế xuyên qua bốn thể phàm của con. Con phải giữ vững viễn kiến cao nhất của con, không bao giờ chấp nhận các bất toàn là thật, trường tồn hay không thể vượt qua. Con phải nhận ra là đằng sau mọi điều kiện bên ngoài là Ánh sáng Mẫu-Vật thanh khiết và Ánh sáng Mẫu-Vật có tiềm năng trải bày bất kỳ viễn quan nào được phóng chiếu lên nó xuyên qua tâm có tự nhận biết. Ánh sáng vật chất có thể trải bày dễ dàng sự toàn hảo của Thượng đế cũng như nó có thể trải bày những bất toàn hiện hành thấy được trên trái đất.
Điều quan trọng là con người phải thức tỉnh nhận ra sự liên hệ giữa tâm thức của họ và những gì xảy ra trên hành tinh vật lý dưới dạng thiên tai và xung đột giữa con người. Trừ khi con người tự nguyện thức tỉnh để thấy sự thật này, con sẽ chứng kiến nhiều dạng tai ương và biến động trên hành tinh này do tấm gương vũ trụ gửi trả nhân loại những gì nhân loại phóng chiếu ra ngoài. Điều này không xảy ra để trừng phạt, nó xảy ra với hy vọng một ngày kia con người sẽ tỉnh thức nhờ thấy được hậu quả của hành động của họ. Hy vọng họ sẽ bắt đầu suy ngẫm liệu có một nguyên nhân tiềm ẩn và liệu họ cần thay đổi chính họ để tránh các tai ương bên ngoài này. Hy vọng lớn của thày là con người sẽ thức tỉnh qua sự hướng dẫn tâm linh thay vì qua Trường đời Cay đắng.
Thẩm định thực tế là sẽ có nhiều tai ương trước khi có một sự tỉnh thức rộng lớn. Thày phải tiên tri với con là rất có thể sẽ có nhiều thiên tai trước khi sự tỉnh thức đạt mức tới hạn. Điều thày cần nơi những người tỉnh thức tâm linh nhất trên hành tinh này là họ kiên định tuân thủ nhiệm vụ giữ niệm tinh khôi cho nhân loại và hành tinh trái đất. Thày cần những người nhìn vượt quá điều kiện bên ngoài, bất kể những điều kiện này có vẻ khốc liệt tới đâu, và giữ đúng niệm tinh khôi là trái đất đang không ngừng tiến gần hơn sự hiển thị vương quốc Thượng đế.
Khi con nhìn một phụ nữ đang sinh nở, thấy cô ấy trải qua nhiều cơn đau dồn dập đợt này đến đợt kia, con có thể quá lo lắng bấn loạn và quên rằng cô ấy chỉ đang trải qua những cơn đau tạm thời để cho ra đời một hài nhi mới xinh đẹp. Thày cần những người chịu nhìn vào Mẹ Trái đất và thấy là dù mẹ đang trải qua nhiều cơn đau và tai ương, chúng chỉ đơn giản là những cơn đau đẻ dọn đường cho một thời đại mới tốt đẹp hơn, một thời đại hoàng kim. Thày không nói là Thượng đế muốn những tai ương này; thày chỉ đơn giản nói là nhân loại có vẻ không sẵn sàng tỉnh thức nếu chưa cảm thấy trái đất rung chuyển dưới chân họ.
13.9. Luôn luôn đáp trả bằng tình thương
Để có thể giữ đúng niệm tinh khôi, con phải sẵn sàng nhìn quá những bất toàn bên ngoài. Muốn nhất quán làm được điều này cần phải biết một chân lý rất quan trọng. Nhiều người tâm linh cảm hứng hình ảnh không thể lấy bóng tối ra khỏi một căn phòng. Con hãy tưởng tượng có một căn phòng hoàn toàn chìm trong bóng tối. Con không thể mang bóng tối ra ngoài để vứt nó đi. Bóng tối không có thể chất và ta không thể loại bỏ hay tiêu diệt cái không có thể chất. Tâm thức nhị nguyên, tâm thức phản Ki-tô không có thực tại. Nó thật sự không có thực chất, nó không là gì cả mà chỉ là sự vắng mặt của ánh sáng, vắng mặt của sự thật Ki-tô. Hiện nay hành tinh trái đất thiếu vắng ánh sáng trong khi ánh sáng có mặt trong toàn vũ trụ vật chất. Đáng lý đây chỉ là một hoàn cảnh tạm thời sẽ được mau chóng khắc phục khi càng ngày càng nhiều người cho phép ánh sáng Thượng đế tỏa rạng xuyên qua bản thể họ. Chuyện đã xảy ra trên trái đất là ông hoàng thế gian đã thành công trong việc khiến hầu hết con người tin vào lời dối trá là sự thiếu vắng ánh sáng là tình trạng thường trực hay không tránh được. Đó là chứng cớ giả hiệu là Thượng đế không có mặt ở đây, Thượng đế không muốn có mặt ở đây và Thượng đế không quan tâm tới con người. Thậm chí có người còn tin rằng tình trạng thiếu ánh sáng chứng tỏ Thượng đế không hiện hữu.
Suốt dòng lịch sử nhiều người đã bị vướng kẹt trong cuộc chiến chống lại xấu ác. Họ bị mắc kẹt trong niềm tin là để loại bỏ xấu ác, họ phải tiêu diệt nó và những biểu hiện của nó trên trái đất. Trong hầu hết trường hợp, họ nhận diện một nhóm người nào đó là nguyên nhân của xấu ác và như vậy họ rơi vào tròng của lời dối trá khác của quỷ là nếu họ giết hết những người thuộc về chủng tộc đó, quốc gia đó hay tôn giáo đó, họ sẽ loại bỏ được xấu ác khỏi hành tinh. Đây là lời dối trá nói rằng làm ác để đem lại thiện là điều chính đáng. Đây quả thực là một lời dối trá của quỷ bởi vì, như thày đã nói, con không thể loại bỏ cái gì không có thực chất. Nếu con hành động xấu ác để loại bỏ xấu ác, con chỉ tăng thêm bóng tối, tăng thêm năng lượng tha hóa, và như vậy con nuôi béo các lực xấu ác.
Con hãy để thày cho con một sự phân biệt vi tế khác. Bản chất của bóng tối là không có thực chất. Tâm thức nhị nguyên không có thực chất hay thực tại và nó chỉ có thể tiếp tục hiện hữu khi các sinh thể tự nhận biết còn cho phép nó tồn tại trong tâm họ, trong quả cầu cái ta của họ. Trên hành tinh trái đất, con có một hiện tượng tăng cường uy lực của bóng tối và hiện tượng này là những năng lượng tha hóa mà nhân loại đã tạo ra qua các thời đại. Đây là một chất liệu tạm bợ mà những người mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô có thể dùng để gia tăng tầm kiểm soát trên con người. Trước đây thày gọi nó là năng lượng tâm lý bị tha hóa. Bóng tối, nghĩa là cái không thật của tâm thức phản Ki-tô, không có thực chất, không có thực tại và quả thực sự tự nó không làm gì được cả. Một khi các sinh thể tự nhận biết bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên, thì họ có thể dùng năng lượng tâm lý bị tha hóa để có uy lực trên người khác.
Vì năng lượng tha hóa này có thể chất, ta có thể loại bỏ năng lượng tha hóa và qua đó lấy lại giảm sức mạnh các lực bóng tối. Con không thể khắc phục năng lượng tha hóa bằng cách gỡ bỏ hay tiêu diệt nó. Một khi năng lượng đã được đem vào cõi vật chất, con không thể làm cho nó biến mất, con không thể chuyển nó thành hư vô. Cách duy nhất khắc phục năng lượng tha hóa là chuyển hóa nó trở lại trạng thái thuần khiết bằng cách thấm đẫm nó với ánh sáng có tần số cao để nâng cao độ rung của nó lên, và áp chồng viễn kiến thuần khiết của tâm Ki-tô để phú cho nó một hình tướng toàn hảo hơn.
Nếu con cho phép mình bị lôi kéo vào một xung đột với người khác và nghĩ con phải giết người khác nhân danh Thượng đế, thì con chỉ tha hóa thêm năng lượng và qua đó thêm vào tổng số năng lượng tha hóa mà các lực bóng tối sử dụng. Con không thể đánh nhau với bóng tối bằng cảm xúc tiêu cực hay hành động vi phạm luật tình thương của Thượng đế. Con chỉ gia tăng thêm bóng tối, qua đó con bị bao trùm nhiều hơn trong bóng tối và gia tăng lực bóng tối của toàn hành tinh. Năng lượng tha hóa tối hậu không có thật. Nó không thể hiện hữu mãi mãi vì lực co lại của Mẹ rốt cuộc sẽ làm cho mọi cấu trúc làm bằng năng lượng tha hóa tự tiêu hủy. Những điều kiện bất toàn làm bằng năng lượng tha hóa cũng không thực. Con không thể loại bỏ các điều kiện bất toàn khỏi trái đất. Con không thể đơn giản chụp lấy chúng và ném chúng vào một lỗ đen để làm chúng biến mất. Chìa khóa thật để gỡ bỏ bóng tối khỏi trái đất là thấm đẫm nó với ánh sáng, thấm đẫm nó với tình thương, để bóng tối thăng vượt tình trạng giới hạn hiện hành và trở nên hơn nữa.
Nhiều người nhìn vào những bất toàn trên trái đất và bị xao động. Họ nổi giận và cảm thấy họ phải làm gì đó để thay đổi tình trạng, để đánh nhau với bóng tối. Khi con còn bị thúc đẩy bởi sợ hãi hay giận dữ, thì bất cứ gì con làm cũng chỉ tha hóa thêm năng lượng và do đó tăng cường lực của bóng tối. Khi con ở trong trạng thái tâm thức dựa trên sợ hãi, giận dữ, thù hận, kiêu mạn hay cảm xúc tiêu cực khác, con cho phép một số điều kiện ngưng dòng chảy của tình thương Thượng đế xuyên qua bản thể của con.
Điều này thật hiển nhiên khi nhìn một người đang nổi giận. Người ấy có biểu hiện tình thương nào chăng? Lẽ dĩ nhiên là không! Người ấy nói rằng vì ai đó đã làm điều gì sai nên nổi giận là chính đáng và do đó người ấy không đáp trả hoàn cảnh với tình thương. Những người ấy đang nói là nếu ai đó làm điều gì sai trái với họ, họ phải khóa lại dòng chảy của tình thương Thượng đế xuyên qua họ và phản ứng với cảm xúc tiêu cực thay vì phản ứng với tình thương. Chẳng phải là Giê-su bảo con thương yêu kẻ thù của con và chìa má bên kia? Trong tất cả những giáo lý của Giê-su, thày đã tìm cách đưa ra một thông điệp giản dị. Thông điệp cốt lõi mà Giê-su đưa ra là: “Dù chuyện gì xảy ra chăng nữa, dù người khác làm gì chăng nữa với con, dù cuộc đời ném vào mặt con hoàn cảnh gì chăng nữa, con hãy luôn luôn đáp trả bằng tình thương!” Tình thương mà con dùng để đáp trả là tình thương thiêng liêng không chấp nhận bất kỳ bất toàn nào là thật tối hậu hay vĩnh viễn. Con cho phép tình thương Thượng đế chảy xuyên qua bản thể của con và thấm đẫm các điều kiện bất toàn qua đó các điều kiện này sẽ thăng vượt chính nó và trở nên hơn nữa.
Hầu hết mọi người bị mắc kẹt trong một mô thức phản ứng. Ai đó làm hại họ và họ nổi giận với người đó. Giờ đây họ đi vào tâm thái bị chi phối bởi phản ứng chạy hay đánh. Trước tiên họ cố gắng chạy xa người kia, chạy trốn vấn đề. Nếu không làm được, họ tìm cách trả thù hay họ muốn người kia bị trừng phạt. Điều họ làm khi đi vào trạng thái tâm thức này là họ buông bỏ niệm tinh khôi. Họ chấp nhận một hình ảnh bất toàn, một viễn kiến bất toàn về người kia. Họ chấp nhận viễn kiến này là thường trực và họ nói người kia là người xấu. Làm vậy chỉ thêm vào gánh nặng của người kia và thêm vào kho năng lượng tha hóa đang bao phủ hành tinh như một đám mây đen. Qua năng lượng họ tha hóa do viễn kiến bất toàn và cảm xúc tiêu cực của họ, họ củng cố hình ảnh bất toàn về người kia khiến người kia càng khó thoát khỏi hình ảnh bất toàn đó. Đây chính là lý do tại sao rất nhiều xung đột giữa con người đã chuyển thành những vòng xoáy tiêu cực tự củng cố mà không ai có đủ uy lực để ngưng lại. Lý do tại sao con người không có uy lực để ngưng những vòng xoáy đó là vì họ không sẵn sàng dùng chìa khóa mà Giê-su cho họ, là ngưng củng cố vòng xoáy đi xuống bằng cách chìa má bên kia (Matthew 5:39). Chỉ khi một người quyết định tha thứ thay vì tìm cách trả thù (Matthew 18:22) thì vòng xoáy bạo lực, chống trả bằng bạo lực và chống trả bằng bạo lực sự chống trả bằng bạo lực mới phá tan được.
Không một sinh thể tự nhận biết nào được Thượng đế sinh tạo là một sinh thể tự bản chất xấu hay xấu ác. Tất cả được sinh tạo trong niệm tinh khôi và có tiềm năng quay trở về thực tại cao hơn này. Tất cả những người vi phạm quy luật tình thương đã làm thế vì họ bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Nếu con muốn trừng phạt hay tiêu diệt một người như thế, thì con thật sự rơi vào bẫy của cùng trạng thái tâm thức đã khiến người đó làm bất cứ điều gì đó với con. Thay vào đó con phải giữ niệm tinh khôi về người đó và chính con. Con phải làm mọi chuyện có thể làm để giữ mình không phản ứng lại hoàn cảnh một cách nhị nguyên. Con phải giữ viễn kiến là người kia sẽ vượt thăng tin tưởng bất toàn của vị ấy và một lần nữa khám phá ra bản sắc thật là một sinh thể tâm linh được tự do của Thượng đế.
Nhiều người đã gánh chịu những sự tàn bạo lớn lao từ tay người khác. Thày biết rất khó kéo mình ra khỏi những cảm xúc tiêu cực nảy sinh từ những trải nghiệm như thế. Cách duy nhất để con giải thoát mình khỏi những sự cố tiêu cực như thế là nâng mình lên trên tâm thức nhị nguyên muốn lấy mắt trả mắt, lấy răng trả răng. Chỉ khi nào con tập trung tất cả chú ý của mình để nâng cao cả mình và người khác, thì con mới thật sự có thể giải thóat mình và thị hiện đời sống dồi dào hơn.
Giê-su tới trái đất 2,000 năm trước để giúp nhân loại vươn lên trên tâm thức muốn lấy mắt trả mắt. Nếu giáo lý của thày đã được mọi người thể nhập, thì vương quốc Thượng đế đã được thị hiện trên trái đất. Bây giờ vẫn chưa muộn, nhưng chuyện đó sẽ không xảy ra trừ khi những người có nhận biết tâm linh cao nhất hết lòng nỗ lực giải thoát họ khỏi tâm thức nhị nguyên.
13.10. Vượt thăng ngã hữu diệt
Điều thày cần con làm là thay đổi một cách cơ bản cách con nhìn đời và tiếp cận đời. Thày cần con xem ưu tiên lớn nhất trong đời con là giữ đúng niệm tinh khôi, viễn kiến tinh khôi. Thày rất biết là ở điểm này có thể con chưa có viễn kiến tối hậu được lưu trữ trong Hiện diện TA LÀ của con và trong tâm Ki-tô hoàn vũ. Vì con đang theo khóa học này, nên con có một viễn kiến cao hơn, tâm linh hơn rất nhiều so với đại đa số con người trên hành tinh này. Thày cần con giữ đúng viễn kiến cao nhất mà con đang hiện có, và bất kỳ chuyện gì xảy ra ở bên ngoài, trong cuộc sống cá nhân của con hay ở tầm mức hành tinh, thày cần con luôn luôn tập trung chú ý vào viễn kiến cao nhất có thể có. Thày cần con không bao giờ đi xuống thấp hơn viễn kiến này và chấp nhận rằng bất toàn tối hậu có thật hay không thể thay đổi. Thày cần con giữ đúng viễn kiến cao nhất mà con đang hiện có trong khi liên tục tìm cách đạt một viễn kiến cao và rõ hơn bằng cách đi vào bên trong. Con làm vậy bằng cách xin cái Ta Ki-tô và các thày tâm linh của con hướng dẫn con tới viễn kiến cao hơn. Thày cần con liên tục vượt thăng chính mình và liên tục hình dung người khác, hoàn cảnh bên ngoài và toàn thể hành tinh đang thăng vượt và trở nên hơn nữa.
Làm sao con loại bóng tối khỏi trái đất? Con loại bỏ bằng cách yêu nó với tình thương thiêng liêng qua đó bóng tối trở nên hơn nữa, vượt thăng chính nó, chuyển hóa thành ánh sáng Thượng đế và viễn kiến Ki-tô. Thày không nói là con thực sự yêu bóng tối nhưng con yêu Ánh sáng Mẹ đang bị kẹt trong một khuôn đúc không toàn hảo. Con yêu ánh sáng với một lực mạnh tới độ con giải phóng nó khỏi hình tướng bất toàn và biến nó trở về Ánh sáng Mẹ tinh khiết. Thày không nói ở đây tới ánh sáng giả, thậm chí có thể cho Satan dáng vẻ bề ngoài của một thiên thần ánh sáng (2Corinthians 11:14). Thày không nói tới sự giả dối của các thày thông giáo và người Pha-ri-si nghĩ họ thánh thiện hơn người khác vì những điều kiện bên ngoài. Thày nói tới ánh sáng chân chính thấy quá mọi điều kiện vật chất và quá toàn bộ ảo tưởng nhị nguyên. Tâm thức nhị nguyên tạo dựng hai đối cực tốt tương đối và xấu tương đối. Có nhiều điều kiện trên trái đất có vẻ tốt nhưng chúng chỉ tốt tương đối. Chúng không phải là cái tốt không chia cắt của tâm Ki-tô. Thày cần con mài sắc phân biện của con để con thấy quá những vẻ bề ngoài của cả tốt tương đối và xấu tương đối, thậm chí nhìn quá lời dối trá của xấu ác tuyệt đối. Thày cần con giữ đúng niệm tinh khôi và liên tục cố gắng đạt một viễn kiến cao hơn bằng cách khoác vào tâm Ki-tô.
Một quy tắc chung cho hành xử bên ngoài của con là con theo lời khuyên của Giê-su hãy thương yêu mọi sự với tình thương thiêng liêng. Khi con gặp bất kỳ tình huống nào, thì con hãy tự đặt câu hỏi: “Phản ứng của tôi trước hoàn cảnh này có dựa trên viễn kiến cao nhất của tình thương mà tôi hiện có hay không?” Con cũng có thể tự hỏi: “Tôi có đang tìm cách làm cho hoàn cảnh này tốt hơn, giúp nó trở nên hơn nữa, hay tôi đã rơi vào tròng xác nhận trạng thái bất toàn hiện hành không thay đổi được?” Nếu con muốn một quy tắc để đối phó với người khác và ngoại cảnh, thày có thể cho con một hướng dẫn rất giản dị: con hãy ban phước lành cho tất cả mọi sự. Con hãy ban phước lành cho mọi sự bằng cách cho phép chính lực của sự sống, tức là tình thương vô điều kiện của Thượng đế – mà nhiều người Cơ đốc gọi là Thánh Linh – tuôn chảy qua bản thể con. Ban phước lành cho điều gì có nghĩa là con tìm cách làm cho nó tốt hơn, chuyển hóa nó, giúp nó trở nên hơn nữa, gia tốc nó và giúp nó thăng vượt sự bất toàn hiện hành của nó. Con hãy ban phước lành cho mọi người và mọi sự theo khả năng tốt nhất của viễn kiến hiện hành của con. Sau đó con hãy luôn luôn ban phước lành cho chính mình để con có thể nâng cao viễn kiến của con.
Con hãy để thày gom lại những gì chúng ta vừa thảo luận với điều thày đã đề cập trước đây. Nguyên lý cốt lõi ở đây là con không tìm cách tiêu diệt cái xấu nhưng con biến hóa nó thành cái tốt hơn. Trước đây thày có giảng cặn kẽ nhu cầu để cho ý niệm ngã hữu diệt của con chết đi. Thày biết hai lời dạy này có vẻ mâu thuẫn, vậy con hãy để thày giúp con vượt lên trên cái nhìn nhị nguyên phóng chiếu mâu thuẫn nơi không có mâu thuẫn. Thày vừa nói tới hai dạng bóng tối, bóng tối có thể chất và bóng tối không có thể chất. Nếu chúng ta muốn thực sự đầy đủ thì chúng ta có thể nói có ba dạng bóng tối:
- Có bóng tối nguyên thủy hiện hữu trong cái trống không. Nó không xấu ác và không đối nghịch ánh sáng của đấng Sáng tạo. Nó đơn giản là sự vắng mặt của ánh sáng của đấng Sáng tạo và sẽ sẵn sàng để được thay thế bằng ánh sáng. Con không cần quan ngại bóng tối này vì nó không tích cực chống lại sự thị hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất.
- Có bóng tối mà thày gọi là tâm thức nhị nguyên, tâm thức phản Ki-tô. Bóng tối này không thụ động vì nó sinh ra từ một hành động ý chí hay đúng hơn một hành động phản ý chí, nổi loạn chống lại ý chí của đấng Sáng tạo. Bóng tối này tối hậu không thật và không có thực chất, thày muốn nói là nó không có hiện hữu vật chất. Nó chỉ hiện hữu trong tâm những sinh thể tự nhận biết và chỉ có thể tiếp tục hiện hữu khi những sinh thể này chọn thấy nó là thật. Đây là loại bóng tối chống lại sự tăng trưởng của con từ bên trong tâm con và thậm chí qua trung gian người khác. Nó tìm cách làm chủ và kiểm soát tâm con qua các ảo tưởng và lời dối trá nhị nguyên.
- Dạng bóng tối đó đã tạo nên ngã hữu diệt của con và nó đã tạo ra một hình ảnh giả về thế giới, một hình tượng khô chết, một thần tượng. Hình ảnh giả này đã sản sinh ngã hữu diệt của con, ý niệm bản sắc con là một sinh thể hữu diệt, giới hạn và bất toàn. Nếu con tích cực đánh nhau với dạng bóng tối này và tìm cách phá hủy nó hay triệt tiêu nó, thì con sẽ không tránh bị bao trùm nhiều hơn bởi tâm thức nhị nguyên. Con sẽ tha hóa năng lượng, tạo nghiệp và phóng chiếu hình ảnh bất toàn vào tấm gương vũ trụ. Con không bao giờ có thể thật sự phá hủy hay triệt tiêu dạng bóng tối này và đó là lý do tại sao Giê-su bảo con đừng chống cự lại xấu ác (Matthew 5:39).
- Cách duy nhất để khắc phục dạng bóng tối này là thăng vượt nó, vươn lên trên nó, từ chối không chấp nhận nó thật, qua đó con chỉ giản dị bỏ nó lại đằng sau. Đó là lý do tại sao con phải cho phép ý niệm bản sắc hữu diệt của con chết đi. Khi ngã hữu diệt này chết, tâm thức phản Ki-tô, ông hoàng thế gian, sẽ không tìm thấy gì trong con (John 14:30) qua đó y có thể kiểm soát, ép uổng hay cám dỗ con có phản ứng nhị nguyên trước những điều kiện bất toàn. Để có thể làm được điều này một cách đầy đủ, con cần nhận ra nhiều điều kiện nhị nguyên là tha hóa của sự thật Ki-tô. Để có thể cho phép ý niệm bản sắc nhị nguyên hoàn toàn chết đi, con cần nhìn quá nó và nắm bắt bản sắc thật của con. Con không thể hiện hữu trong hư không cho nên con phải nhìn thấy bản sắc thật của con trước khi buông bỏ bản sắc hữu diệt. Chúng ta có thể nói con khắc phục dạng xấu ác dựa trên một lời dối trá này bằng cách thay thế nó với sự thật Ki-tô. Con có thể để cho ý niệm cái ta hữu diệt chết đi và tái sinh trong bản sắc tâm linh thật của con. Dạng bóng tối này giống như một cuộn phim với hình ảnh bất toàn hiện hữu trong tâm những sinh thể có tự nhận biết. Cách duy nhất để khắc phục nó là thay thế nó bằng một cuộn phim khác dựa trên viễn kiến Ki-tô, niệm tinh khôi.
- Dạng bóng tối thứ ba là cái mà thày gọi là năng lượng tha hóa và nó được tạo ra khi lấy Ánh sáng Mẹ tinh khiết và hạ độ rung của ánh sáng bằng cách áp chồng một hình ảnh và cảm xúc nhị nguyên lên trên ánh sáng. Bóng tối này có thực chất vật chất vì nó được làm từ Ánh sáng Mẹ. Chúng ta có thể nói tâm thức nhị nguyên chỉ hiện hữu trong tâm những người đồng-sáng tạo có tự nhận biết và do đó nó không có cái mà các nhà khoa học gọi là một sự hiện hữu khách quan, một sự hiện hữu độc lập với tâm. Ánh sáng Mẹ được đấng Sáng tạo sinh tạo và một khi được hạ thấp độ rung nó có một sự hiện hữu khách quan, nghĩa là nó có thể hiện hữu độc lập với tâm của những người đồng-sáng tạo.
- Ánh sáng Mẹ bị tha hóa không thể thanh tẩy bằng cách làm ngơ. Nó không giản dị chết đi khi con thăng vượt những ảo tưởng phản Ki-tô. Nó chỉ được trong lọc khi con thay thế những hình tướng bất toàn của nó với viễn kiến toàn hảo, viễn kiến không nhị nguyên của tâm Ki-tô. Đây là điều thày gọi là thuật giả kim tâm linh và các bài thỉnh của thày được thiết kế để giúp con cầu thỉnh năng lượng có tần số cao sẽ nâng độ rung của năng lượng tha hóa. Các bài thỉnh này cũng được thiết kế để giúp con giải quyết những tin tưởng nhị nguyên đang ngăn cản con cho ngã hữu diệt chết đi. Các bài thỉnh này có hai chức năng là giúp con khắc phục hai dạng bóng tối ngăn cản con là dưới này tất cả những gì con đã là Trên Kia. Để khắc phục dạng bóng tối này, con phải chuyển hóa nó thành dạng cao hơn.
Con hãy để thày áp dụng các lời giảng trên đây vào lòng ích kỷ. Ta có thể nói vấn đề duy nhất trên trái đất là lòng ích kỷ, tức là các người đồng-sáng tạo với Thượng đế đã quên mất bản sắc thật của họ và đã tập trung vào thân vật lý và ngã hữu diệt, từ đó họ hành xử như thể chỉ có họ là quan trọng. Làm sao con thoát khỏi lòng ích kỷ? Con thoát ra bằng cách chuyển biến các năng lượng tha hóa lôi kéo con vào những khuôn nếp suy nghĩ, cảm xúc và hành động vị kỷ. Con thoát ra bằng cách thăng vượt ý niệm bản ngã có sự chú trọng rất eo hẹp. Khi con biến hóa các năng lượng tha hóa, con có thể mở rộng viễn kiến về cái ta của con.
Thật sự là có một dạng ích kỷ thiêng liêng, tuy gọi nó là quyết tâm thì đúng hơn. Dạng thiêng liêng tương đương với ích kỷ là lòng quyết tâm không khoang nhượng không cho phép bất cứ gì ngăn cản con thực thi sứ vụ thiêng liêng của con. Đây là một đặc tính rất cần thiết và thiếu nó thì không thể có tiến bộ trên trái đất vì lực phản ý chí của tâm thức nhị nguyên sẽ khống chế mọi nỗ lực thay đổi, kéo tất cả mọi người xuống mẫu số chung thấp nhất.
Chìa khóa thật để khắc phục lòng ích kỷ là nới rộng ý niệm cái ta, thăng vượt ý niệm cái ta của con. Con bắt đầu bằng giành lại sự nối kết cá nhân, nội tại với cái ta cao của con. Con thấy con hơn thân thể, hơn ngã hữu diệt, thậm chí hơn bốn thể phàm. Sau đó con lên một tầng nữa và nhận ra con là nối dài của đấng Sáng tạo. Từ đó, con đi tới tầng cuối và thấy là mọi người mọi sự đều được tạo ra từ Sinh thể đấng Sáng tạo. Ý niệm cái ta tối hậu của con bao gồm tất cả mọi người và mọi sự. Khi con đã thiết lập ý niệm cái ta đúng này, con hoàn toàn khắc phục dạng ích kỷ nhân phàm, nhị nguyên. Con không triệt tiêu hay phá hủy nó, con chuyển hóa nó thành dạng thiêng liêng tương đương. Để làm được điều này, con phải buông bỏ ý niệm cái ta dựa trên ích kỷ nhân phàm, con phải sẵn sàng cho cái ta này chết đi.
13.11. Là người bảo hộ Ánh sáng Mẹ
Mọi thứ trong vũ trụ vật chất được làm từ Ánh sáng Mẹ. Ánh sáng Mẹ tự nó không thể khoác lên hình tướng nhưng cần một sinh thể tự nhận biết tác động lên nó. Tất cả con người trên trái đất đang liên tục tác động lên Ánh sáng Mẹ qua khả năng sáng tạo mà Thượng đế phú cho họ, là quyền tự quyết và trí tưởng tượng. Với quyền năng của trí tưởng tượng, họ hình dung những hình ảnh bất toàn, nhị nguyên. Với quyền tự quyết, họ chọn chấp nhận những hình ảnh này là thật và không tránh được. Với quyền năng của viễn kiến, họ áp đặt các hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Đó là lý do tại sao hiện nay hành tinh trái đất có quá nhiều điều kiện bất toàn hầu như không hiểu nổi. Để thay đổi tình trạng đấu tranh và đau khổ hiện hành cần có một nhóm người đúng ra đảm nhận vai trò bảo hộ Ánh sáng Mẹ. Những người này nhận ra mọi sự đều được làm từ Ánh sáng Mẹ. Họ nhận ra mọi điều kiện bất toàn trên hành tinh này được tạo ra vì hình ảnh nhị nguyên được phóng chiếu lên màn hình của Ánh sáng Mẹ. Họ nhận ra mọi sự chỉ thay đổi khi một lượng người tới hạn dùng khả năng sáng tạo của họ để áp chồng một hình ảnh cao hơn, dựa trên Ki-tô, lên Ánh sáng Mẹ, qua đó biến hóa một hành tinh bất toàn thành vương quốc Thượng đế. Đây quả thực là uy lực của thuật hóa kim tâm linh chân chính.
Có thể con đã nghe tới các nhà hóa kim và nỗ lực không thành hóa chì thành vàng của họ. Có thể là con đã nhận được cái nhìn khinh miệt nào đó về những nhà hóa kim này và đúng vậy nhiều nhà hóa kim là người bịp bợm. Tuy nhiên, đằng sau phong trào thường được biết đến là thuật hóa kim là một hiểu biết sâu xa hơn về thực tại đời sống. Một số người đã hiểu rằng có một thuật hóa kim tâm linh không tìm cách biến kim loại thường thành vàng nhưng tìm cách biến “kim loại thường” của tâm thức nhân phàm, tâm thức nhị nguyên thành chất vàng tâm linh của tâm thức Ki-tô. Con không tìm cách loại bỏ cái gì bất toàn, đen tối hay xấu ác. Con tìm cách biến hóa nó thành cái gì hơn nữa, gần viễn kiến Ki-tô hơn. Con lấy cái thấp hơn và biến hóa nó thành cái cao hơn. Thay vì tìm cách tiêu hủy cái thấp hơn, con tìm cách làm cho nó tốt hơn, giúp nó tự thăng vượt và trải bày viễn kiến toàn hảo của Ki-tô. Điều này đặc biệt quan trọng khi đối xử với người khác. Một người chỉ hành xử xấu ác vì họ bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Đằng sau dáng vẻ bề ngoài là cái ta ý thức của người đó được tạo ra trong niệm tinh khôi và khao khát được tự do để biểu hiện viễn kiến đó. Con không yêu dáng vẻ bề ngoài, cái ngã hữu diệt, nhưng con cũng không tìm cách tiêu diệt nó. Con nhìn xuyên thấu nó và tìm cách giải phóng cái ta ý thức để nó được là cái nó thật là.
Có một sự khác biệt cơ yếu giữa tìm cách tiêu diệt một bất toàn và tìm cách biến đổi bất toàn đó thành toàn hảo. Nếu con thấy sự khác biệt thì con thực là một trong những người tiên phong trong những sinh thể tâm linh tới trái đất để thị hiện vương quốc Thượng đế. Con ở trong vị trí độc đáo để nắm lấy vai trò chính đáng là người bảo hộ Ánh sáng Mẹ.
Ánh sáng Mẹ có sự thông minh, có nhận biết. Ánh sáng Mẹ biết rất rõ nó đang không biểu hiện sự toàn hảo của Thượng đế. Ánh sáng Mẹ có thể thấy viễn kiến cao nhất, tiềm năng cao nhất của hành tinh trái đất và không yêu thích gì hơn là biểu hiện tiềm năng đó dưới dạng những điều kiện vật lý toàn hảo. Ánh sáng Mẹ đã nguyện nhận lãnh vai trò cho phép các người đồng-sáng tạo của Thượng đế, là những sinh thể có tự nhận biết mà Thượng đế đã sinh tạo, làm bất cứ gì họ muốn với Ánh sáng Mẹ. Trong thương yêu, Ánh sáng Mẹ đã nguyện sẽ biểu hiện bất kỳ hình ảnh nào mà các sinh thể tự nhận biết phóng chiếu lên nó, qua đó những người đồng-sáng tạo có cơ hội học từ chính những chọn lựa của họ, học bằng cách thấy những hậu quả của chọn lựa của họ trải bày trong vật chất. Đây quả thực là một hành động thương yêu vô điều kiện vì Ánh sáng Mẹ biết tiềm năng cao nhất của trái đất nhưng vẫn cho phép con người tạo ra những điều kiện bất toàn rất xa tiềm năng cao nhất. Nếu đây không phải là tình thương vô điều kiện thì thày không biết tình thương ấy là gì. Ánh sáng Mẹ không yêu thích gì hơn được giải thoát khỏi những hình ảnh bất toàn hiện hành và thay vào đó nhận sự phóng chiếu của những hình ảnh toàn hảo của tâm Ki-tô. Ánh sáng Mẹ muốn biểu hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất. Ánh sáng Mẹ muốn tuân theo ý chí của đấng Cha và viễn kiến của đấng Con.
Toàn thể vũ trụ vật chất được tạo ra từ hai yếu tố cơ bản là lực lan ra của đấng Cha và lực co lại của đấng Mẹ. Lực lan ra của Cha là tình thương vô điều kiện của Thượng đế muốn mọi sự tự thăng vượt. Lực khiến một hình tướng có thể hiện hữu trong thời gian và không gian. Lực co lại cũng có động cơ của tình thương vô điều kiện, đó là lý do vì sao nó không cho phép một sinh thể tự nhận biết bị giam cầm mãi mãi trong một ý niệm cái ta bất toàn. Để một tạo vật được tồn tại, lực lan ra của đấng Cha và lực co lại của đấng Mẹ phải được cân bằng qua viễn kiến của đấng Con, là tâm Ki-tô Hoàn vũ và tâm Ki-tô cá nhân của các người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Nếu hành tinh trái đất thị hiện được vương quốc Thượng đế, thì điều này chỉ xảy ra khi viễn kiến toàn hảo được giữ trong tâm Ki-tô được áp chồng lên Ánh sáng Mẹ. Viễn kiến này chỉ được áp chồng lên khi một số tới hạn người đang hiện thân tỉnh thức nhận ra bản sắc thật của họ và vai trò thật của họ. Nó chỉ xảy ra khi những người này quyết định là những sinh thể Ki-tô trên trái đất, biểu đạt tâm thức Ki-tô và qua tâm thức Ki-tô này phóng chiếu những hình ảnh toàn hảo của vương quốc Thượng đế lên Ánh sáng Mẹ, những hình ảnh sẽ tạo nên hành tinh trái đất.
Đây là ý nghĩa thật của người Con của Thượng đế, người con duy nhất sinh ra từ Cha. Đó là lý do tại sao Giê-su nói nếu con tin thày, đến độ sẵn sàng đi theo bước chân thày và thị hiện tâm thức Ki-tô, thì con có thể làm những công việc thày đã làm (John 14:12). Con cũng có thể trở thành người con trai hay con gái của Thượng đế, hoàn thành vai trò chính đáng của con trên hành tinh này. Khi một số tới hạn con người bắt đầu bảo hộ Ánh sáng Mẹ, hành tinh này sẽ thật sự thị hiện thời hoàng kim của hòa bình và thịnh vượng mà hầu hết con người không thể tưởng tượng được trong trạng thái tâm thức hiện nay của họ. Họ sẽ tức khắc chối bỏ như một huyễn tưởng hoàn toàn, một xã hội không tưởng không thể xảy ra. Xã hội đó có thể xảy ra, nhưng nó chỉ có thể xảy ra khi con người bắt đầu chấp nhận nó, khi họ thấy được viễn kiến và chấp nhận viễn kiến đó là một tiềm năng rất thực. Thậm chí con còn phải thăng vượt điểm chấp nhận nó là một tiềm năng và bắt đầu dùng uy lực ý chí, tưởng tượng và viễn kiến của con để xác nhận nó là một thực tại.
Thày cần tất cả những người bảo hộ Ánh sáng Mẹ dùng uy lực viễn kiến của họ để cho phép con mắt họ đơn nhất, để họ không cho phép viễn kiến của họ bị kéo vào bất kỳ hình ảnh nhị nguyên nào do ông hoàng thế gian tạo ra. Con cần tập trung mắt con với tâm đơn nhất vào viễn kiến Ki-tô, và con cần thấy viễn kiến này được áp chồng lên tất cả điều kiện bên ngoài. Thày cần con thấy điều kiện bên ngoài là tạm bợ và không thật và sau đó thấy chúng được thay thế bằng viễn kiến Ki-tô.
Thày không nói là con cần làm ngơ các bất toàn. Thày đã bỏ nhiều sức để giải thích nhu cầu ngừng chạy trốn trách nhiệm của mình. Thày cần con nhìn nhận những bất toàn hiện hành và thày cần con hiểu chúng phát sinh từ tâm thức nhị nguyên. Con không bao giờ cho phép mình thấy chúng là thật, trường tồn hay không thể thay đổi. Con thấy chúng là tạm bợ, là những ảo giác không thực được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẹ và sau đó con nhìn quá chúng. Con thấy Ánh sáng Mẹ thuần khiết là thực tại bên dưới mọi biểu hiện bên ngoài, và sau đó con thấy thực tại tối hậu là Ánh sáng Mẹ có tiềm năng biểu hiện bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó. Nó giống như màn ảnh chiếu phim sẽ phản ánh bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó qua cuộn phim. Con hình dung là Ánh sáng Mẹ có thể nhanh chóng, đúng hơn là ngay tức khắc, ngưng biểu hiện một viễn kiến bất toàn và bắt đầu biểu hiện một viễn kiến toàn hảo hơn. Sau đó con có thể dùng uy lực viễn kiến của con để hình dung điều kiện bất toàn biến đổi như thế nào và trở nên toàn hảo hơn.
Có một sự khác biệt cơ yếu giữa chạy trốn bất toàn và qua đó cho phép chúng tiếp tục hiện hữu, và nhìn nhận có bất toàn nhưng xem chúng là tạm bợ và không thực rồi qua đó phóng chiếu một hình ảnh thực lên Ánh sáng Mẹ. Đây là sự khác biệt giữa những người nghĩ họ tâm linh, nhưng chưa đem tâm linh vào cõi vật chất và những người thực sự là tâm linh và nhìn nhận họ có mặt ở đây để cai quản trái đất bằng cách thấy Thượng đế đằng sau mọi sự và thấy viễn kiến toàn hảo của Thượng đế biểu hiện trong mọi sự. Thách đố của thày với con là:
- Luôn luôn giữ đúng viễn kiến cao nhất mà con hiện thấy được.
- Liên tục nỗ lực mở rộng tầm nhìn của con để con có thể nắm bắt một viễn kiến cao hơn ngày mai so với hôm nay.
- Không bao giờ cho phép mình bị kẹt trong một thái độ hay hệ thống niềm tin khiến con nghĩ mình có viễn kiến cao nhất hay chân lý tâm linh hay hiểu biết cao nhất.
- Luôn luôn tiếp tục vượt thăng chính mình và vượt thăng viễn kiến của mình về vương quốc Thượng đế.
Khi nào thì con ngưng thăng vượt chính mình và viễn kiến của mình? Giản dị lắm, đó là khi con thấy Thượng đế trong mọi sự, khi con thấy Thượng đế là nguyên nhân đầu tiên đằng sau mọi biểu hiện bên ngoài, dù chúng bất toàn đến đâu chăng nữa, và khi con thấy vương quốc Thượng đế biểu hiện trong mỗi hoàn cảnh mà con gặp. Con sẽ không bao giờ ngưng thăng vượt chính mình vì Thượng đế liên tục thăng vượt chính ngài, đấng Sáng tạo của con lúc nào cũng đang thăng vượt chính ngài và trở nên hơn nữa. Khi con ở trong Dòng sông sự Sống, thì con đang liên tục thăng vượt viễn kiến của con. Đây đúng là đời sống dồi dào thực, nghĩa là con luôn luôn ở trong tiến trình trở nên hơn nữa. Dồi dào không phải là một trạng thái đứng yên sở hữu một số tiền hay của cải vật chất. Dồi dào là một trạng thái sống động, năng động, luôn luôn ở trong tiến trình trở nên hơn nữa.
Ôi con yêu dấu, đây là đời sống dồi dào và đấng Cha hoan hỷ cho con đời sống dồi dào. Thày cũng hoan hỷ cho con những giáo lý này trong đó quả thực có những chìa khóa con cần để thị hiện đời sống dồi dào nếu con sẵn sàng thể nhập lời dạy của thày và áp dụng chúng trong mọi khía cách đời sống của con. Thày đã cho con những gì con cần, giờ đây thách đố là áp dụng chúng, trở thành chúng. Con sẽ lấy chìa khóa chăng, con sẽ để nó vào ổ khóa chăng, con sẽ quay chìa khóa cho tới khi con nghe tiếng “tách” nghĩa là chân lý đã khớp vào tâm con chăng? Con sẽ cho phép bóng đèn bật lên trong tâm con chăng để cuối cùng con thấy là cánh cửa nhà tù của ngã hữu diệt của con chưa bao giờ bị khóa. Con có thể xô cánh cửa đó mở toang và bước ra khỏi nhà tù và bước vào ánh sáng mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con.
Khi con bước ra khỏi nhà tù đó, thày sẽ có đó để đón tiếp con. Cái Ta Ki-tô của con cũng có đó để đón tiếp con. Các thày tâm linh của riêng con cũng có đó để đón tiếp con. Các thày sẽ ôm con trong vòng tay và sẽ chia sẻ một giây phút, một khoảnh khắc hoàn vũ, hợp nhất với con. Trong sự hợp nhất giữa chúng ta này, chúng ta là một với mọi sự sống và là một với đấng Sáng tạo của chúng ta. Trong hợp nhất này chúng ta sẽ khám phá một sự dồi dào vượt quá bất cứ gì có thể tìm thấy trên trái đất, bất cứ gì mà tâm thức nhị nguyên có thể tưởng tượng hay mô tả bằng từ ngữ. Chúng ta sẽ biết sự dồi dào thật sự chỉ được biết qua tâm Ki-tô. Thày ngưng ở đây và tặng con câu: “Khi con thấy mọi sự sống là một, con sẽ được chiến thắng của con.”