15 | Con đã là tâm thức Ki-tô rồi

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Con hãy xem xét chủ đề kết nối với các vị thày tâm linh. Mọi người trên trái đất dễ kết nối với vị thày tâm linh nào nhất? Đó chính là thày, Chân sư Thăng thiên Giê-su.

15.1. Tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi thứ và tất cả mọi người

Câu tuyên bố trên có thể khiến nhiều người nghe giật mình. Lẽ đương nhiên, những ai không theo Cơ đốc giáo sẽ nói: “Chúng tôi dính dáng gì đến Giê-su?” Nhiều tín đồ Cơ đốc cũng cảm thấy rất khó kết nối với thày. Vì sao thày lại nói thày là vị thày dễ kết nối nhất? Bởi vì thày là vị chân sư đại diện tâm thức Ki-tô cho mọi người trên trái đất, và tâm thức Ki-tô là gì? Thánh kinh nói gì về điều này? Không có nó thì không có gì đã được tạo thành, được tạo thành. Do đó, tâm thức Ki-tô là tâm thức hoàn vũ, cái tâm thức hoàn vũ, một, thống nhất, hợp nhất từ đó mọi thứ được tạo thành.

Điều này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Do đó, bất cứ con ở đâu trong cõi vật lý trên trái đất, cho dù hành tinh và địa phương con ở có dày đặc đến đâu, cho dù tâm thức của con có thấp đến đâu, thậm chí nếu con ở tầng tâm thức thấp nhất có thể có trên trái đất, thì con vẫn đắm chìm trong tâm thức Ki-tô.

Con không thể trốn chạy tâm thức Ki-tô. Con không thể xa rời tâm thức Ki-tô, và vì thày là vị chân sư đại diện tâm thức Ki-tô hoàn vũ trong một hình tướng cá thể, nên thày là vị thày dễ kết nối nhất vì không những thày luôn luôn ở sát bên con, thày còn ở bên con ở mọi nơi và bất cứ nơi nào con đang ở.

Lẽ tất nhiên, sa nhân đã làm tất cả những gì họ có thể làm để ngăn cản con người không kết nối được với thày, chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Công cụ chính yếu mà sa nhân đã dùng để đạt mục đích này là gì? Dĩ nhiên đó là Cơ đốc giáo. Sự kiện thảm hại là Cơ đốc giáo đã góp phần nhiều hơn bất cứ nỗ lực nào khác trên trái đất vào việc ngăn cản con người kết nối với các vị thày tâm linh và với tâm thức Ki-tô hoàn vũ.

15.2. Một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô hoàn vũ

Lẽ tất nhiên, quả thực là đa số con người không có khả năng kết nối với tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Đó là lý do họ cần một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô. Thày đầu thai xuống trái đất vào đầu Kỷ nguyên Song ngư để chứng minh cho tất cả mọi người trạng thái tâm thức khiến con có thể nói: “Ta và Cha ta là một”. Đấng Cha ở đây là tâm thức Ki-tô hoàn vũ, và lẽ dĩ nhiên, đấng Sáng tạo, và lẽ dĩ nhiên, các chân sư thăng thiên.

Trước tiên, chính tâm thức Ki-tô là cái mà con, như đấng Con, như Mặt trời của Thượng đế, có thể hợp một với và do đó con biểu lộ và đại diện nó trên trái đất. Đây chính là mục đích của kiếp đầu thai của thày: để chứng minh cho tất cả mọi người là bất kể họ đang ở đâu trong cõi vật lý, bất kể tâm thức của họ đang ở mức nào, thì họ vẫn có thể kết nối và thực sự hợp một với tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Con cũng có thể là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô, như con đã thấy thày là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô.

15.3. Tâm Ki-tô là thực tại bên dưới mọi sự

Cơ đốc giáo đã được dùng như một công cụ, đặc biệt là ngay từ lúc khởi đầu có Giáo hội Công giáo, để phóng chiếu hình ảnh là con không thể đi theo gương thày, con không thể khoác vào tâm thức Ki-tô, con không thể là một với tâm thức Ki-tô, con không thể biểu lộ nó, vì chỉ có thày mới có thể làm việc này, vì thày là người quá đặc biệt. Trong tâm thức Ki-tô, không có ai “đặc biệt” cả.

Vì sao thày lại nói không có ai đặc biệt? Không có sinh thể nào đặc biệt hơn một sinh thể khác vì mọi sinh thể đều xuất phát từ tâm một của tâm thức Ki-tô và tâm của đấng Sáng tạo. Nếu tất cả mọi sinh thể đều xuất phát từ Bản thể của đấng Sáng tạo, thì làm sao bất cứ sinh thể nào lại có thể đặc biệt? Đây là điều con có thể thấy nếu con dùng lô-gíc của tâm Ki-tô. Lẽ tất nhiên, sa nhân đã dùng mọi sắc thái của tâm thức nhị nguyên để che giấu thực tại bên dưới mọi sự này. Như các con đã thỉnh cầu và như trong bài thỉnh mà các con vừa đọc, con có thể thấy là phương tiện chính của sa nhân là khiến một số người cảm thấy đặc biệt. Họ đứng trên luật lệ của con người, nhưng nhiều người còn nghĩ là họ đứng trên luật của Thượng đế, họ có thể dẹp các luật này sang một bên, làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả. Những hậu quả mà đa số con người phải gánh chịu không áp dụng cho họ.

Con thấy rất nhiều thí dụ của tâm thức này, và khi con đi vào trạng thái tâm thức muốn mình đặc biệt, thì con không thể kết nối với Giê-su Ki-tô. Vì thày không ở đây để giúp một số người cảm thấy đặc biệt bằng cách hạ người khác xuống. Thày ở đây, và tâm thức Ki-tô ở đây, để nâng mọi người vào Vương quốc của Thượng đế, và lẽ tất nhiên, vương quốc này đúng thực là trạng thái tâm thức khi con kết nối với Ki-tô bên trong mình. Con tới điểm con chấp nhận con là Ki-tô đang hiện thân trên trái đất. Đây là Vương quốc của Thượng đế trên bình diện cá nhân, và khi có đủ số người, một số lượng tới hạn những con người biểu lộ tâm thức này thì con có Vương quốc của Thượng đế thể hiện trên trái đất.

Lẽ tất nhiên, sa nhân đã làm tất cả những gì họ có thể làm để trì hoãn ngày này, nhưng họ không thể trì hoãn mãi mãi. Họ không thể ngăn chặn ngày này xảy đến vì có quá nhiều người đã mở tâm ra đón nhận một thực tại cao hơn, một viễn quan cao hơn vượt quá chủ trương của các giáo hội Cơ đốc giáo chính thức hay các triết lý khác, như thuyết khoa học duy vật, cộng sản, mác-xít hay những chủ thuyết khác. Các chủ thuyết này được đặc biệt tạo ra để che giấu cái một bên dưới mọi sự sống, chia rẽ con người thành nhiều nhóm, nâng một số nhóm lên như đặc biệt và hạ một số nhóm xuống. Đây là một mô thức mà con có thể thấy đằng sau nhiều lớp hóa trang. Mô thức này luôn luôn phát xuất từ tâm thức nhị nguyên, nhưng tối hậu đó là tâm thức sa ngã và các sa nhân đằng sau tâm thức đó, mà ta có thể gọi là các lực phản-Ki-tô, thậm chí là tâm phản-Ki-tô.

15.4. Hình ảnh giả của Ki-tô trong Cơ đốc giáo

Vì sao thày lại nêu lên những điều này khi chủ đề là cách kết nối với các vị thày tâm linh? Bởi vì nếu con đã từng có bất kỳ quá trình Cơ đốc giáo nào trong kiếp sống này, thì con cần xem xét những hình ảnh mà phiên bản Cơ đốc giáo của con đã phóng chiếu lên thày, một sinh thể tâm linh. Bất kể những hình ảnh này là gì, chúng đều ngăn cản không cho con kết nối với thày.

Con cũng có thể xem xét và nói: “À, tôi không có quá trình Cơ đốc giáo trong kiếp sống này.” Nhưng còn các kiếp trước thì sao? Con có thực sự nghĩ là con có thể đầu thai trên hành tinh này trong khoảng 2000 năm vừa qua mà không có kiếp nào dính dáng đến Cơ đốc giáo và hình ảnh giả của họ về Ki-tô? Thày bảo đảm với con là điều này không có xác suất cao đâu, và do đó tất cả các con đều sẽ được lợi lạc nếu con xem xét các hình ảnh về Ki-tô mà Cơ đốc giáo đã gán cho thày, và sau đó đập tan các hình ảnh này và khám phá các ngã tách biệt đang duy trì các hình ảnh đó.

Tác dụng của những hình ảnh này là gì? Đó là khi con đứng trước hình ảnh Giê-su rất đặc biệt vì Giê-su là người Con duy nhất của Thượng đế, thì có một phản ứng khởi lên trong con. Cho dù con có nhận ra phản ứng này một cách có ý thức hay không, nhưng cái Ta Biết của con cảm thấy là chuyện này không thể thực, không thể đúng. Cái Ta Biết có cảm nhận nó cũng là con của Thượng đế, nó cũng phát xuất từ tâm Một. Khi nó đứng trước lời tuyên bố rất mạnh mẽ, hình ảnh giả đó, thì con phải có phản ứng. Con phản ứng bằng cách tạo ra các ngã tiềm thức có khả năng giải quyết mâu thuẫn trong nội tâm con và dồn nén nó để con có thể sống với nó. Con không bị mâu thuẫn tràn ngập, thắc mắc tại sao Thượng đế lại tạo ra một người Con quá đặc biệt và tất cả các người khác ở địa vị thấp hơn.

Con sẽ được lợi ích nếu con nhìn vào các ngã này, moi chúng ra và con có thể dùng nhiều giáo lý và dụng cụ mà các thày đã trao truyền. Con có thể dùng một số sách của thày để khám phá phản ứng của con với Ki-tô và hình ảnh của Ki-tô đã được đưa ra cho con. Sau đó, khi con tới chỗ nhìn thấy các ngã đó, con có thể tách mình ra khỏi chúng và buông bỏ chúng. Con có thể tới chỗ chấp nhận là con (cái Ta Biết mà con là) là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo. Ngã vỏ ngoài, các ngã vỏ ngoài, tự ngã không phải là phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo. Một khi con bắt đầu trải nghiệm con là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo, thì con sẽ có thể mau chóng khắc phục các ngã tách biệt để con có thể chấp nhận con xứng đáng kết nối với thày, Giê-su, con có khả năng kết nối với thày, Giê-su. Sau đó, lẽ tất nhiên con có thể quyết định: con có sẵn lòng kết nối với thày, Giê-su, hay con chọn kết nối với một chân sư thăng thiên khác?

Lẽ đương nhiên, thày hoàn toàn không có phản ứng gì trước chọn lựa này, thày hoàn toàn không đòi hỏi con phải trung thành với thày. Nếu có một chân sư thăng thiên khác gần gũi hơn trong tim con, thì con nên tập trung vào vị chân sư đó. Con sẽ vẫn dễ kết nối với vị chân sư đó hơn khi con khắc phục những hình ảnh sùng bái Ki-tô. Vì con người có khuynh hướng chuyển các hình ảnh sùng bái này sang bất cứ vị chân sư thăng thiên nào khác, nhìn vị chân sư đó, nhìn các thày như đang ở “trên này” ngoài tầm với của con. Con quả thật khó kết nối với một sinh thể mà mình coi như ngoài tầm với của mình, phải không con?

15.5. “Tôi đã là tâm thức Ki-tô rồi”

Điều gì sẽ giúp con thu hẹp khoảng cách? Một khi con đã xem xét và khắc phục các ngã tách biệt được tạo ra để phản ứng lại Cơ đốc giáo, thì con có thể tiến thêm bước nữa. Thày đã nói gì ở đầu bài? Không có nó, không có tâm thức Ki-tô, thì không có gì đã được tạo thành, được tạo thành. Không có tâm thức Ki-tô thì không có con người nào đã được tạo thành được tạo thành, hay nói đúng hơn, không có gì đã được sinh ra được sinh ra. Vì các con nhớ là theo Kinh Tin kính Cộng đồng Nixêa (Nicene Creed) thì thày không được tạo thành (made) mà được sinh ra (begotten), người con duy nhất được sinh ra từ bản thể đức Cha, nhưng lẽ tất nhiên câu này không chỉ thày, Giê-su Ki-tô, mà chỉ tâm thức Ki-tô. Sự thực là tất cả các con đều sinh ra từ Thượng đế, các con đều xuất phát từ tâm thức Ki-tô, nhưng điều này có nghĩa gì? Điều này có một ý nghĩa rất thâm sâu mà con cần chiêm nghiệm để nắm bắt.

Con, cái Ta Biết, là gì? Con được tạo ra từ đâu? Con được tạo ra từ đâu? Con được tạo ra từ tâm thức Ki-tô, vì nếu không làm sao con có thể có tự nhận biết? Vì chỉ có tâm thức Ki-tô mới có tự nhận biết, do đó con đã xuất phát từ tâm Ki-tô rồi, con là tâm Ki-tô, con đã kết nối với tâm Ki-tô. Con là một với tâm Ki-tô. Con có thể thấy điều này bằng nhiều cách, và con có thể bắt đầu bằng cách thấy mình kết nối với tâm Ki-tô và dần dần tiến tới cảm nhận sâu đậm hơn con là một với tâm Ki-tô.

Sự xoay chuyển mà con trải nghiệm khi con đã khắc phục đủ số các ngã là con nhận ra: “Nhưng tôi là tâm thức Ki-tô, vì không có gì ngoài nó. Bất kể các hình tướng mà tôi thấy trong thế giới hình tướng, đằng sau mọi hình tướng, bên trong mọi hình tướng, là tâm thức Ki-tô. Khi tôi nhận ra cái Ta Biết của tôi không phải là các ngã tách biệt, không phải là tự ngã, không phải là nhân cách vỏ ngoài, thì tôi có thể trải nghiệm mình là nhận biết thuần khiết. Và nhận biết thuần khiết là gì? À, nó có thể là gì nếu không là tâm thức Ki-tô? Không có nhận biết nào ngoài tâm thức Ki-tô.” Con có thể nói: “Nhưng còn bản sắc tách biệt, sa nhân, tâm thức nhị nguyên thì sao?” Tâm thức sa ngã không phải là nhận biết, nó là phản-nhận biết. Con không nhận biết cái Một của mọi sự sống. Nhưng tâm thức Ki-tô vẫn còn ở trong con, vì con không thể trốn chạy tâm thức Ki-tô. Con có thể tạo một ảo tưởng trong tâm, nhưng ảo tưởng chỉ hiện hữu trong tâm mà thôi.

15.6. Các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô cá nhân

Những người trong các con sẽ đạt tới tầng này trong kiếp sống này hay đã đạt tới rồi, sẽ được lợi ích nếu các con chiêm nghiệm các điều này và nhận ra là con đã là tâm thức Ki-tô rồi. Cái Ta Biết là tâm thức Ki-tô. Nhưng con hãy chú ý, thày không nói con là Ki-tô, thày nói con là tâm thức Ki-tô, và đây là một điểm quan trọng mà con cần chiêm nghiệm cho tới khi con hoàn toàn nhận ra con là tâm thức Ki-tô. Sau đó, con có thể chấp nhận: “Tôi là Ki-tô, tôi là Ki-tô Hằng sống đang hiện thân trong cõi vật lý, và tôi ở đây để là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của tôi, cho các chân sư thăng thiên, cho dòng chảy của Thánh linh chảy xuyên qua tôi.”

Lẽ tất nhiên, điều này không có nghĩa là con mất đi ý niệm bản ngã của con, cá tính của con, vì con điều khiển dòng chảy đó, và con có thể càng ngày càng trung hòa hơn trong việc điều khiển dòng chảy. Làm như vậy sẽ khiến con càng ngày càng thêm hân hoan khi con trở nên trung hòa và không dính mắc vào kết quả đặc trưng mà dòng chảy qua con phải tạo ra. Thay vào đó, con chỉ giản dị vui hưởng sự trải nghiệm dòng chảy xuyên qua con, đi vào thế gian và tạo ra bất cứ kết quả nào mà nó tạo ra. Con yêu dấu, đây là một tầng cao hơn mà ta có thể gọi là quả vị Ki-tô cá nhân, là Ki-tô hành động, khi con là cánh cửa mở cho dòng chảy.

Cảm tưởng gần giống như con chỉ là nhân chứng của dòng chảy, vì con nhận ra: “Tự tôi, cái tôi vỏ ngoài, không làm được gì”. Thậm chí con còn nhận ra: “Tự tôi, cái Ta Biết, không làm được gì vì dòng chảy xuất phát từ trên cao và nó chỉ chảy xuyên qua tôi mà thôi. Nhưng nó chảy xuyên qua tôi vì tôi là tâm thức Ki-tô, và do đó tôi là trụ điểm trong thế gian này để tâm thức Ki-tô chảy xuyên qua.”

15.7. Khắc phục ảo tưởng tách biệt với Ki-tô

Đây là một xoay chuyển quan trọng mà con cần chiêm nghiệm. Thày không nói là tất cả các con đều sẵn sàng để thực hiện sự xoay chuyển này. Một số các con chưa sẵn sàng, và điều này, lẽ dĩ nhiên, hoàn toàn phải phép. Các con có thể tiếp tục sử dụng các dụng cụ và tiêu trừ các ngã đang chắn lối các con. Nhưng điều quan trọng cần ghi nhớ là thực tại, thực tại sâu thẳm, là con không trở thành một cái gì mà con không đang là ngay lúc này.

Thày biết là các thày đã cho các con hình ảnh và giáo lý về con đường tu, đi từ tầng tâm thức 48 lên tầng 96. Các thày có giảng về việc khoác vào tâm Ki-tô, khoác vào quả vị Ki-tô cá nhân, trở thành Ki-tô Hằng sống. Đây là ngôn từ thích hợp cho một tầng đặc trưng của con đường tu khi con chưa sẵn sàng làm sự xoay chuyển đó vì con vẫn còn có quá nhiều các ngã đang níu kéo cái Ta Biết để nó tự đồng hóa với chúng và nhìn thế gian xuyên qua chúng.

Khi con tới gần và lên cao hơn tầng 96, thì con bắt đầu chiêm nghiệm sự xoay chuyển là con không trở thành cái mà con không là. Vì khi tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi sự, và không có gì được tạo thành ngoài tâm thức Ki-tô, thì làm sao con có thể trở thành Ki-tô? Làm sao con chưa là Ki-tô rồi? Làm sao con có thể đã từng tách biệt khỏi cái ở khắp nơi và trong mọi sự? Con thấy chăng, vấn đề không phải là vượt qua một khoảng cách, trải qua một thay đổi. Vấn đề là thức tỉnh khỏi ảo tưởng cho rằng có khoảng cách, để tới điểm nhận ra con đã là, con lúc nào cũng đã là, tâm thức Ki-tô.

Lẽ tất nhiên, đúng là con có thể hiểu điều này bằng trí năng ở các tầng thấp của con đường tu, nhưng nếu con vẫn còn quá nhiều ngã níu kéo con nhìn thế gian và chính mình qua phin lọc của chúng, thì con không thể làm sự xoay chuyển tâm thức mà thày nói tới. Một lần nữa, con cứ tiếp tục đi trên con đường tu, sử dụng các dụng cụ và sẽ có một ngày con tới điểm sự xoay chuyển xảy ra. Con không thể khiến nó xảy ra, con không thể ép nó xảy ra, nhưng con chắc chắn có thể làm việc để tiến về hướng đó bằng cách khắc phục các ngã và chuyển hóa các năng lượng đang níu kéo con vào phản ứng.

Như các chân sư khác đã nói về các bí ẩn của con đường tu, thì đây cũng là một bí ẩn nữa. Ở một giai đoạn nào đó, con cần có hình ảnh là con đang trở thành cái gì con không đang là vì con chưa thể thấy mình là Ki-tô vào lúc đó. Con có hình ảnh là con đang đi trên con đường tu. Con đang tiến bước trên con đường tu, con đang chuyển hóa năng lượng, con đang tiêu trừ các ngã. Khi con tiêu trừ một ngã ở tầng 48 thì con lên tầng 49, và cứ tiếp tục như thế. Con tiến bước trên con đường tu, nhưng khi con đến những giai đoạn cao hơn của con đường tu, thì vấn đề là nhận ra điều con cần thực hiện là khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng là con đã từng tách rời, vì tách biệt là một ảo tưởng.

Có phải chăng là thày đã nói nhiều lần: Không có tâm thức Ki-tô thì không có gì đã được tạo thành được tạo thành, do đó tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Không có tách biệt trong thực tại. Không thể nào có, không bao giờ từng có, do đó tách biệt là một ảo tưởng chỉ có thể có mặt trong tâm của những người có tự nhận biết và có quyền tự quyết. Do vậy họ có chọn lựa sử dụng tâm thức nhị nguyên để xây dựng trong tâm bức màn, phin lọc, tấm lá chắn che giấu cái Một bên dưới mọi sự sống và khiến họ tập trung vào những ngã tách biệt và thân thể vật lý, coi mình là sinh thể tách biệt.

Một lần nữa, như các thày đã giảng, điều này nằm trong khuôn khổ Luật Tự quyết. Luật Tự quyết hoàn toàn cho phép con người có trải nghiệm dùng quyền tự quyết như sinh thể tách biệt. Lẽ tất nhiên, khi con sử dụng ý chí của mình với tư cách một sinh thể tách biệt, thì ý chí của con không tự do, và con càng có thêm chọn lựa dựa trên tách biệt thì con càng giới hạn ý chí của mình, con càng giới hạn các chọn lựa mà con có thể có. Con bị nghiệp của mình đè nặng cho tới khi con bị đóng đinh trên thập tự và không còn nhúc nhích được nữa.

15.8. Chối bỏ Ki-tô

Tuy nhiên, đây thuộc vào những trải nghiệm mà con được phép có trên một hành tinh như trái đất. Chính thực là trong giai đoạn hiện nay của trái đất, một trong những mục đích của trái đất là cho con người trải nghiệm này. Con thấy có biết bao nhiêu người trên thế gian xây dựng ý niệm họ đặc biệt, nhiều khi dưới sự lãnh đạo của một hình thức độc tài, hoặc của một nhà lãnh đạo hay của một tổ chức như Giáo hội Công giáo. Họ khiến con người cảm thấy vì họ đi theo chế độ độc tài đó, vì họ tuân phục chế độ độc tài đó, nên họ đặc biệt khi so với những người không tuân phục.

Con thấy chăng là Ki-tô không bao giờ tuân phục bất cứ gì trên trái đất. Đó là điều thày đã chứng minh hai ngàn năm trước đây: rằng con không cần tuân phục. Con không có bổn phận tuân phục. Trái lại, con có quyền không tuân phục, con có quyền đứng lên không tuân phục bất cứ sự độc tài nào và để họ làm bất cứ gì họ muốn tới con và qua đó họ sẽ phải nhận sự phán xử của Ki-tô.

Đây là điều mà nhiều người đã làm. Đây là điều nhiều người đang làm hiện nay. Đó là những người đang phản đối sự độc tài dưới mọi hình thức, họ đang là Ki-tô hành động, dù họ không biết tới quan niệm Ki-tô hành động. Tuy nhiên, đó là điều họ đang làm. Họ không những chỉ đứng lên chống lại và đem lại sự phán xử tới kẻ độc tài, nhưng họ còn chứng minh cho mọi người thấy là ta có thể đứng lên chống những người đang là các lực phản-Ki-tô và tìm cách đàn áp con người.

Làm cách nào họ đàn áp con người? Họ chỉ có thể làm được chuyện này bằng cách khiến những người này chối bỏ họ có Ki-tô trong họ. Chỉ khi những người này thấy họ tách biệt với Ki-tô, với cái Một bên dưới mọi sự, thì họ mới có thể bị đàn áp và kiểm soát. Công việc của sa nhân luôn luôn nhằm khiến con người chối bỏ họ xứng đáng là Ki-tô, chối bỏ họ đã là Ki-tô rồi và họ xứng đáng biểu lộ Ki-tô trên thế gian này.

Các chế độ độc tài đó có thể không dùng danh từ Ki-tô, nhưng con hãy nhìn các tôn giáo, các triết lý chính trị và lẽ dĩ nhiên khoa học duy vật. Họ đều chối bỏ rằng Ki-tô ở trong con. Hoặc họ chối bỏ có cái gọi là Ki-tô, có cái gì ngoài thế giới vật chất. Đây là một sự chối bỏ, và con lúc nào cũng thấy là khi có sự độc tài, thì có một tập đoàn thượng tôn quyền lực. Vì làm sao con có chế độ độc tài nếu nhà độc tài và những người chung quanh y không đặc biệt? Nếu không như vậy thì không có độc tài, mà là dân chủ. Chế độ độc tài lúc nào cũng đưa ra ý niệm là có một số người đặc biệt và đa số dân chúng thuộc giai cấp thấp hơn, và do đó không thể chọn phản đối tập đoàn thượng tôn quyền lực. Dân chúng không có quyền và có thẩm quyền là Ki-tô hành động.

Như thày có nói, tổ chức đứng hàng đầu trong việc khiến con người chối bỏ Ki-tô trong họ là Cơ đốc giáo. Vì lý do này, việc con kêu gọi sự phán xử tôn giáo này là điều chính đáng, chính thày đã tuyên bố sự phán xử này nhiều lần. Đây là một công việc cần thiết vì mỗi lần con kêu gọi sự phán xử, thì có thêm tà lực bị tiêu trừ, có thêm nhiều người được giải thoát và có thể xét lại hình ảnh về Ki-tô mà Cơ đốc giáo đã cho họ từ thuở thơ ấu. Những hình ảnh này về Ki-tô quả thật xuất phát từ tâm phản-Ki-tô, vì sự thực tuyệt đối là Giáo hội Công giáo ngay từ khởi thủy đã bị các lực phản-Ki-tô chiếm hữu và kiểm soát. Giáo hội Công giáo vẫn còn như vậy cho tới ngày nay, và điều này được chứng minh bởi việc Giáo hội Công giáo đã không thể tự cải tổ. Mặc dù các vụ xâm phạm tình dục thiếu nhi được phơi bày, mặc dù tất cả các chuyện khác đang xảy ra, Giáo hội Công giáo vẫn không thể tự cải tổ.

À, các con yêu dấu, tâm thức Ki-tô có thể tự cải tổ vì tâm thức Ki-tô không đứng yên hôm qua, hôm nay và mãi mãi, vì tâm thức Ki-tô là lực liên tục của sự tự thăng vượt. Vì mục đích cuộc sống là gì? Đó là, như các thày đã giảng, con bắt đầu với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm và con dần dần thăng vượt ý niệm đó. Con với lên những tầng bản sắc càng ngày càng cao hơn, cho tới khi con tới ý niệm con là một với tâm Ki-tô, con là một với mọi sự sống. Con là một với đức Cha trên thiên đàng và con khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng mình là một cái ta bé nhỏ bị gò bó trong một khu vực địa phương rất eo hẹp trên hành tinh nhỏ bé gọi là địa cầu này. Thay vào đó, con trải nghiệm sự kết nối với tâm thức Ki-tô là cái Một của mọi sự sống.

Đây là điều mà sa nhân đã chối bỏ trong chính họ. Đây cũng là điều mà họ đang cố sức khiến tất cả mọi người chối bỏ. Các con, là các đệ tử trực tiếp của các thày, có tiềm năng khắc phục sự chối bỏ đó và chứng minh là con đã khắc phục nó, để mọi người có thể thấy là có chọn lựa khác. Quả thực có chọn lựa khác. Qua đó, con người thấy được vì sao thày đã đầu thai hai ngàn năm trước, thày đã chứng minh những gì, và họ tới điểm thấy Giê-su Ki-tô không là một ngoại lệ. Giê-su Ki-tô là một tấm gương cho tất cả mọi người, cho dù họ lớn lên trong một nền văn hóa Cơ đốc giáo hay không. Do đó, con có thể giúp con người khắc phục sự chối bỏ Ki-tô, thực sự là sự chối bỏ chính mình, chối bỏ mình là ai.

15.9. Ki-tô ở trong con

Bây giờ thày trở lại chủ đề của hội nghị này và con đường tu của con. Con là Ki-tô. Đó là lý do vì sao con có thể trải nghiệm là một với thày, Giê-su. Vấn đề không phải là con kết nối với thày, vì nếu con còn thấy mình ở dưới này trên trái đất và thày ở cao trên kia trên thiên đàng, thì con sẽ không thể kết nối. Thày không ở kia trên thiên đàng, thày ở khắp nơi. Thày ở ngay đây bên cạnh con, và nếu con còn tìm thày ở ngoài kia thì làm sao con thấy được thày? Nếu con nhìn qua một ống nhòm và tìm thày ở đằng xa, thì làm sao con có thể thấy là thày không những đang ở ngay cạnh con và còn ở trong con?

Vì Ki-tô ở đâu? Trong Vương quốc Thượng đế! Vương quốc Thượng đế ở đâu? Nó ở bên trong con. Đó là nơi con sẽ tìm thấy thày. Thày không lẩn trốn con. “Thày” không lẩn trốn “con”. Con lẩn trốn chính mình. Thày không tìm cách ép con phải ngưng lẩn trốn. Thày chỉ nói là khi con tới điểm chán ngán lẩn trốn, thì con sẽ khám phá ra thày ở bên trong con. Khi con không chối bỏ mình là Ki-tô, thì con sẽ tìm thấy thày như Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô.

Con yêu dấu, tới đây thì thày niêm phong các con trong niềm vui mà thày LÀ. Niềm vui không phải là niềm vui nhân gian đối ngược với buồn khổ, mà là niềm vui Thiêng liêng không có đối ngược, vì làm sao cái ở khắp mọi nơi lại có thể có đối ngược? Sự thực là Ki-tô không có đối ngược. Phản-Ki-tô không phải là đối ngược của Ki-tô, phản-Ki-tô là đối ngược của một ảo tưởng nhị nguyên khác, một hình ảnh nhị nguyên của Ki-tô. Đây là cái mà phản-Ki-tô có thể chống đối. Phản-Ki-tô không thể chống đối Ki-tô thực.

Con thấy chăng, sa nhân đã làm gì? Họ đã tạo ra hình ảnh giả của Ki-tô và hình ảnh của ác ma chống đối Ki-tô. Cả hai hình ảnh đều không thực, vì trong thực tại không thể có tách biệt vì không có Ki-tô thì không có gì đã được tạo thành được tạo thành. Tới đây thì thày niêm phong các con trong niềm vui của Ki-tô và thày hy vọng là các con sẽ đem niềm vui này tới thế gian.

Quả vị Ki-tô là sự buông bỏ

Bài giảng của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/12/2020. Bài này được truyền đọc trong Webinar 2020 – Tăng triển khả năng phân biện Ki-tô của bạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Chúng ta đã bàn về bốn tầng của tâm, là bốn thể phàm của con, và các sa nhân đã nỗ lực như thế nào để ngăn chặn khả năng phân biện Ki-tô của con ở các thể này bằng cách lôi kéo con vào những cơn lốc xoáy, những khuôn nếp phản ứng khác nhau. Nhưng tại sao chúng lại làm được điều đó? Tất nhiên, chúng làm được là vì con có cái xà trong chính mắt con, con có một số tâm lý chưa giải quyết – là điều hoàn toàn bình thường trên đường tâm linh. Chúng ta đã bàn về các cấp độ khác nhau trên đường tu, về 144 tầng tâm thức, và rõ ràng khi con lần đầu tiên tìm thấy đường tâm linh – bất kể lúc đó con đang ở tầng tâm thức nào trong kiếp đầu thai này – con cũng không thể nắm hết được những khai ngộ và ảo tưởng ở những tầng cao hơn, con không thể nhìn xa hơn tầng tâm thức bấy giờ của con.     

Cho nên, một khi con đã học cách nhận diện phần nào những gì sa nhân đang cố làm từ bên ngoài để phá hoại khả năng phân biện Ki-tô của con, thì con cần bắt đầu xem tới, đâu là những điều kiện bên trong đã khiến con dễ bị chúng thao túng đến thế. Và điều này, tất nhiên, có nghĩa là con cần bắt đầu xem xét tâm lý mình. Và ở đây con cần phân biệt một số chuyện. Ta biết nhiều người trong số các con đã theo học đợt truyền pháp này từ khá lâu và đã vượt qua chướng ngại này, nhưng ta vẫn muốn đưa ra cho những ai lần đầu đọc lời dạy này mà chưa theo dõi những bài dạy trước đây.

Ta đã từng so sánh chúng tôi, các chân sư, với những nhân viên bán xe cũ, chuyên môn nhử mồi xong đánh tráo. Chúng tôi quảng cáo một chiếc xe rẻ mạt, xong một khi con đã vào trong tiệm rồi, chúng tôi mới cố bán cho con một chiếc xe mắc tiền hơn. Nói cách khác, để khiến con đoái nhìn vào giáo lý của chúng tôi, chúng tôi phải đưa ra một cái gì hấp dẫn đối với mức tâm thức hiện tại của con cho dù mức đó là gì. Xong một khi con đã bắt đầu học hỏi giáo lý, chúng tôi cần đưa con lên tầng cao hơn của đường tu nơi con thực sự bắt đầu tinh tấn, là sự tinh tấn đặc trưng của một người đang mặc lên chiếc áo của quả vị Ki-tô cá nhân. Cho nên khi con nhìn vào cộng đồng tâm linh Thời mới nói chung, con sẽ thấy mỗi người đang ở một trình độ tâm thức khác nhau, mỗi người có một trọng điểm khác nhau, ý tưởng và kỳ vọng khác nhau về những điều mình có thể gặt hái trên đường tu tâm linh.

Rồi sẽ đến một điểm khi để tiến xa hơn trong phân biện Ki-tô, con sẽ cần xem xét: “Đâu là động lực đã khiến tôi đi theo con đường tâm linh? Tại sao tôi đã cất bước? Tại sao tôi đã đi cho tới điểm này? Tôi đã chờ đợi những gì từ đường tu?” Có lẽ con chưa từng tự hỏi như thế một cách ý thức – đa số hành giả tâm linh thì không. Thường họ tìm thấy một phong trào tâm linh, rồi phong trào đó, giáo lý đó vang dội với cái gì bên trong họ, và họ không nhận thức rõ ràng rằng sở dĩ họ đi theo như vậy là vì phong trào đã hứa hẹn là họ sẽ thỏa mãn được bất cứ kỳ vọng nào của họ về đường tu. Nói cách khác, đường tu sẽ đem lại gì cho họ? Phong trào hay giáo lý đã vang dội trong họ có hứa ở đâu đó là các kỳ vọng của họ sẽ được thỏa mãn. Cho nên điều rất quan trọng là con phải lui lại và xét xem kỳ vọng của con về đường tu là gì.

Đại đa số hành giả, và các con đã theo đợt truyên pháp này từ khá lâu, sẽ có thể nhìn ngược lại thời con lần đầu tiên ý thức đường tu và sẽ nhận diện được điều này trong tâm mình. Hầu hết các con đều có một kỳ vọng rõ rệt là đường tu sẽ làm gì đó cho mình, sẽ đem lại điều gì đó mà mình muốn hay cần trên địa cầu. Có những lợi lạc liên quan tới đời sống ở đây trên điạ cầu mà con sẽ có được, và con mong mỏi đời con sẽ trải ra như thế nào trong tương lai. Điều này không có gì sai trái – con không thể tránh khỏi đã suy nghĩ như thế, nhất là đối với những ai đã lớn lên trong một xã hội phi tâm linh, dù đó là xã hội tôn giáo hay phi tôn giáo. Các con đều đã được dạy dỗ, được lập trình để coi trọng trên hết đời sống trong vũ trụ vật chất.

Các sa nhân đã từ hàng ngàn năm cố gắng lập trình nhân loại để con người đặt trọng tâm trên hết vào cuộc sống thế gian. Tất nhiên, các tôn giáo cũng đưa cho con một lối thoát khỏi thế giới này, đoán chừng là con sẽ được cứu rỗi sau kiếp này. Nhưng vì chuyện đó xảy ra sau kiếp này, đó không phải là điều mà hầu hết người theo đạo sẽ bỏ thời gian ra mà nghĩ đến – đâu là những yêu cầu để vào được Nước Trời, dù người ta định nghĩa Nước Trời là gì? Và một lần nữa, họ sẽ chỉ tập trung vào những gì tôn giáo họ có thể làm cho họ trong cuộc sống ngay đây trên trái đất. Khi con nhìn vào người tâm linh nói chung, con sẽ thấy họ có rất nhiều kỳ vọng khác nhau về những gì đường đạo sẽ đem lại cho họ. Chẳng hạn, một số người kỳ vọng họ sẽ chữa lành bệnh tật thể chất, một số kỳ vọng sẽ thị hiện rất nhiều tiền để mua sắm bất cứ gì mình muốn, một số kỳ vọng sẽ đạt được tâm hồn thanh thản và đời sống an lạc, có thể nơi một tu viện hẻo lánh. Một số sẽ kỳ vọng cả điều ngược lại là họ sẽ có quyền năng bước ra thế giới và tác động mạnh mẽ trên xã hội và người chung quanh.

Có rất nhiều kỳ vọng dưới nhiều hình thức khác nhau như vậy đối với mỗi người, và như ta vừa nói, chuyện đó không có gì sai trái. Con phải khởi sự ở một mức nào đó, mức tâm thức hiện tại của con. Thật là lô-gíc khi con sẵn sàng bước trên đường tu ở tầng tâm thức thứ 48, con cởi mở hơn với con đường tâm linh để thực sự phát triển tâm thức. Con sẽ có những kỳ vọng này và chúng sẽ theo con cho tới tầng 96. Nhưng sẽ tới một điểm khi con cần cứu xét kỳ vọng đó và bắt đầu tự hỏi: “Đi theo Ki-tô sẽ đòi hỏi tôi phải làm gì?”

Nếu con nhìn ngược lại cuộc đời của ta cách đây 2000 năm, nếu con đọc được giữa những hàng chữ, con sẽ thấy điều mà ta thực sự giảng dạy cho các đệ tử của ta và dân chúng nói chung là con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Đi theo Ki-tô có nghĩa là đi theo một vị thày ở một mức tâm Ki-tô cao hơn mình, và như vậy con mới lần hồi khoác lên tâm Ki-tô. Con có thể đọc lại một số lời ta giảng thời đó và con thấy ta nói đến sự cần thiết phải sẵn sàng mất sự sống để theo Ki-tô. Con phải không bám mắc vào Mammon, con cần để cho những người chết đi chôn người chết. Nói cách khác sẽ tới một lúc, để bước theo Ki-tô con phải buông bỏ một cái gì đó. Điều này thực sự có nghĩa là tạm thời trên đường tâm linh, từ tầng 48 đến tầng 96, con có thể duy trì ảo tưởng rằng đường tâm linh chỉ là chuyện hoàn thành một cái gì đó trong đời sống trên trái đất.

Ta không nói rằng đường tu sẽ không thực hiện được điều gì cho con. Điều ta muốn nói là giữa hai tầng 48 và 96, con có thể duy trì ảo tưởng rằng động lực chủ yếu khi theo đường tu là con kỳ vọng sẽ đạt được lợi lạc gì đó trong đời sống của con nơi vũ trụ vật chất. Bây giờ khi con tiến đến gần mức 96, con cần giải quyết kỳ vọng này bởi vì nó sẽ không đưa con xa hơn mức 96 đâu. Tới một điểm con phải bắt đầu nhìn nhận rằng mục đích thực sự của đường tu không phải là đạt được một lợi thế tạm thời trong thế gian này. Mục đích thực sự là đạt được sự sống vĩnh hằng vượt khỏi thế gian, và đây là một vấn đề rất khác với cái nhìn khi con mới khởi sự. Nó rất khác với cái nhìn mà hầu hết những ai theo tôn giáo đều có về sự cứu rỗi, hay thế nào là vào Thiên đàng cho dù mỗi tôn giáo có định nghĩa Thiên đàng là gì. Và sẽ tới một điểm con cần nhìn nhận rằng những tầng cấp cao hơn của tâm Ki-tô, những tầng tâm Ki-tô có ý thức hơn, sẽ đòi hỏi con bỏ lại mọi thứ.

Thật ra để bước lên những tầng mức cao đó của tâm Ki-tô, con sẽ phải đi qua một giai đoạn nơi con bỏ lại hết thứ này rồi tới thứ khác. Con lần lượt buông bỏ một ý niệm nào đó về sự sống, một kỳ vọng nào đó, một quan điểm nào đó, và một trong những điều con phải buông bỏ là sự mong đợi rằng đường tu sẽ đem lợi lạc gì cho con. Đó là tại sao con cần xem xét các kỳ vọng của con rằng đường tu sẽ làm gì cho mình, và mình sẽ có được gì nhờ nó. Nếu con chờ mong, chẳng hạn, là con sẽ thị hiện được vô số của cải, sẽ tới lúc con phải nhìn lại và tự hỏi tại sao con cần của cải bất tận như thế, con mong thực hiện được điều gì với nó, con sẽ có cảm giác thế nào khi con có của cải? Và con cần bắt đầu tự hỏi: “Ừ nhỉ, ngay cả nếu tôi có số tiền bất tận đó, nó có sẽ nhất thiết cho tôi cảm giác mà tôi đang tìm?”

Con hãy nhìn rất nhiều người giàu có đến độ họ không thể tiêu hết tiền, họ đang cảm thấy thế nào? Tâm trạng tâm lý của họ ra sao? Hầu hết đều không cảm thấy thoải mái, an bình, vì họ lo lắng kiếm tiền nhiều hơn cho dù họ không cần, hay họ lo lắng làm sao không bị mất tiền. Họ vẫn căng thẳng. Họ không an lạc. Họ không dùng tiền của họ để làm gì cho tha nhân, một điều mà bao nhiêu người tâm linh đều mơ ước làm được. Con nhìn thấy vậy và con nghĩ: “Chà, chắc chắn mình sẽ làm tốt hơn vì mình là người tâm linh.” Con sẽ làm tốt hơn nếu con bước lên cao hơn và nhận xét đơn giản: điều mà con đang tìm kiếm – cho dù đó là sự thay đổi vật lý, thành quả vật lý nào đó mà con mong có được do bước chân trên đường đạo – động lực khiến con đi tìm cái đó chỉ là để sản xuất ra một cảm giác nào đó trong tâm con.

Con cần bước lên và nhận ra rằng khi con đạt được những điều kiện vỏ ngoài như thế, con sẽ không tự động sản xuất được cám giác con tìm, bởi vì cảm giác xảy ra trong tâm lý con, mà tâm lý con, ít ra là ở các tầng cao của tâm Ki-tô, thì không lệ thuộc vào điều kiện bên ngoài. Cảm giác bên trong, sự trải nghiệm cuộc sống, kinh nghiệm sống của con, tất cả được định đoạt bởi những gì xảy ra trong bốn thể phàm của con. Vì vậy, dù con có nghĩ rằng sự giàu có sẽ sản xuất ra cảm giác bên trong mà con muốn, nhưng nó không thể làm được. Chỉ khi nào con làm việc trực tiếp với tâm lý của mình, giải quyết những gì đang chặn nghẽn cảm giác bên trong thì con mới có được cảm giác đó. Con có thể kỳ vọng là một ngày kia con sẽ đạt khả năng đi thuyết phục, truyền đạo cho người khác, sẽ cải thiện hành tinh và phục vụ mục tiêu của các chân sư. Đó có thể chỉ là những gì ngoại tâm con nhìn thấy, là cách ngoại tâm con nhìn thấy. Nhưng khi con nhìn vào sâu hơn, có một cảm giác ở đằng sau mà con đang mong có được, và cảm giác này sẽ không do khả năng vỏ ngoài đem lại. Nó chỉ có thể đạt được sau khi con giải quyết những yếu tố tâm lý đang ngăn chặn cảm giác, nếu đó là cảm giác thanh cao chứ không là cảm giác nào đó dựa trên sợ hãi.

Đấy, có một khúc rẽ trên đường đạo mà con sẽ không thể vượt qua cho tới khi con hoàn toàn nhìn nhận rằng bước kế tiếp của con là phải đặt trọng tâm vào việc giải quyết tâm lý của con. Một số người sẽ nhận ra điều này trước tầng 96, nhưng con cần phải nhận ra thì mới bước xa hơn tầng 96. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con đã tới chỗ nhìn nhận rằng con phải buông bỏ mọi kỳ vọng, những kỳ vọng mà con đã ôm giữ từ khi con mới cất bước, những kỳ vọng đã là động cơ khiến con bỏ công sức ra cho đến mức này. Tất cả phải được bỏ lại.

Nhiều hành giả tâm linh, tuy tiếng là người chân thành tu tập theo một giáo lý hay một pháp môn, không sẵn sàng buông bỏ mọi kỳ vọng của mình. Họ bám chặt vào những kỳ vọng này và không thể buông ra. Tại sao như thế? Tại vì cái mà ta gọi là ngã gốc (primal self). Như các chân sư đã giải thích cặn kẽ trong sách “Healing your spiritual traumas” (Chữa lành chấn thương tâm linh) và những quyển khác trong cùng bộ, đã có một thời điểm khi lần đầu tiên con gặp gỡ sa nhân và phải đối mặt với ý muốn vô hạn của chúng nhằm tiêu diệt con như một sinh thể tâm linh. Sự kiện đó đã khiến con bị cú sốc, bị tổn thương sâu sắc, và để đối phó với chấn thương này hầu tiếp tục sống và sinh hoạt trên hành tinh, con đã tạo ra một cái ngã gốc. Ngã gốc đó có chức năng chủ yếu là để kìm nén, che giấu nỗi đau của cái gọi là chấn thương nhập đời, chấn thương vũ trụ nguyên thủy. Ngã gốc được con tạo ra để phản ứng lại những gì xảy ra cho con trên điạ cầu khi con đối diện với sa nhân.

Đối với một vài người, sự kiện này đã xảy ra trên một hành tinh khác, nhưng dù sao thì lần đầu tiên con gặp sa nhân, con đã bị cơn sốc khi nhận ra là có ai đó đang hoàn toàn sẵn sàng tiêu diệt mình nếu họ có thể. Con cảm thấy đau đớn vô cùng vì con không thể tưởng tượng nổi có ai muốn tiêu diệt mình, bởi vì con là một người tích cực luôn muốn giúp mọi người và đưa hành tinh lên một tầm cao hơn. Con không thể tưởng tượng có ai cảm thấy bị đe dọa đến độ phải hủy hoại con. Và con đứng đó, con gặp sự kiện đó, con bị choáng váng, ngập tràn đau khổ khi sa nhân không ngừng tấn công con, buộc con đủ mọi thứ tội vạ trong đủ mọi hoàn cảnh vỏ ngoài khác nhau.

Ngã gốc được tạo ra để bù đắp cho cơn sốc, cho cảm giác mất mát – mất mát sự trong trắng của con – và trên hết để che giấu mất mát đó hầu con không phải sống lại nỗi đau đã trải qua, và hơn nữa để tạo lên niềm kỳ vọng là một ngày kia con sẽ tìm lại được tâm trạng trinh nguyên mà con đã mất. Con có khả năng trở lại cái tâm trinh nguyên ấy, nhưng con thấy không, ngã gốc đã sinh ra từ tình huống này. Nó không sinh ra từ tâm trinh nguyên của con. Ngã gốc thực sự không thể hiểu nổi tâm con trước khi chấn thương xảy ra, nó chỉ có thể đối tác với tâm trạng của con sau đó mà thôi. Ngã gốc không thể cảm thông được tâm Ki-tô, không thể cảm thấu được sự trong trắng chân thực là tâm của con trước sự cố. Ngã gốc định ra những mục đích mà dường như con phải đạt, nhưng đó không phải là mục đích thật, không là mục đích thực tế, không là muc đích có giá trị. Ngã gốc cũng không thể nhìn xa hơn cái tầng tâm thức nơi nó được sinh tạo, tất nhiên là gắn liền với địa cầu, cho nên nó không thể hiểu được tâm Ki-tô  Nó không thể hiểu rằng chỉ bằng cách vượt lên tâm thức cao hơn thì nó mới tìm được sự an bình nội tâm thực sự và lấy lại sự trong trắng.

Ngã gốc chỉ có thể đối tác với trái đất, và bởi vì nó nghĩ rằng một số điều kiện trên trái đất đã khiến con đánh mất trạng thái trinh nguyên, thì bắt buộc phải có những điều kiện khác trên trái đất sẽ giúp con lấy lại được trạng thái đó. Thế là nó bị kẹt cứng trong một vòng luẩn quẩn khiến nó đi tìm một trạng thái của tâm, một điều kiện nào đó trên địa cầu, dựa trên sự kỳ vọng rằng điều kiện này sẽ sản xuất ra một cảm giác không hề có trên địa cầu.

Tâm trong trắng nguyên thủy là cái mà con đã đem theo con trước khi con gặp sa nhân, tâm này không xuất phát từ những điều kiện trên địa cầu. Con đánh mất nó không phải vì con đã thực sự đánh mất nó, mà con chỉ đánh mất sự nhận biết về nó. Bởi vì cái Ta Biết bị cơn sốc nặng nề đến nỗi nó sinh tạo ra những cái ngã tách biệt này, khiến con bây giờ đứng trong ngã tách biệt, con nhìn ra ngoài qua phin lọc của ngã tách biệt, và đây là lý do con không thể thấy được là con chưa bao giờ đánh mất sự trinh nguyên, con chưa bao giờ đánh mất cái gì hết. Là sự nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết, con không thể mất gì được cả. Tâm trong trắng là sự kết nối của con với Hiện diện TA LÀ của con, và sự kết nối này không thể nào đánh mất. Nó chỉ có thể bị bao phủ bởi những cái ngã vỏ ngoài, những cái ngã tách biệt. Con không làm sao thấy được nối kết của con với Hiện diện TA LÀ chỉ vì con đứng trong ngã mà nhìn ra. Cách duy nhất để con lấy lại sự nối kết với Hiện diện TA LÀ là đứng ra ngoài ngã.

Nhưng để đứng ra ngoài ngã, con phải nhìn ngã. Ngã gốc không thể hiểu nổi tiến trình này. Nó nghĩ là trên địa cầu có một số điều kiện đã khiến con mất một cái gì đó. Nó không biết rõ cái đó là gì, nhưng nó biết đại khái con đã mất gì đó. Nó đang cố giúp con lấy lại cái con đã mất. Nhưng nó nghĩ cách duy nhất là con phải có được một số điều kiện nào đó trên trái đất. Và đó là lý do tại sao khi lần đầu tiên con gặp đường tu tâm linh cho dù dưới hình thức nào – một lời dạy của chân sư hay bất cứ gì khác – thì ngã gốc có kỳ vọng rằng bằng cách theo đường tâm linh này, bất kể con định nghĩa đó là gì, con sẽ đạt được khả năng, quyền năng thay đổi hoàn cảnh bên ngoài để nó sản xuất ra cái điều kiện bên trong mà ngã gốc cho là mục đích cần đạt. Nhưng tiếc thay, trong cốt lõi, cái điều kiên mà ngã gốc thấy được đó không phải là một điều kiện thực tế. Điều mà con thực sự cần lấy lại là sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, và cái này thì không nằm trên trái đất và do đó không thể được sản xuất bởi bất cứ điều kiện nào trên trái đất.

Con có thể nhìn thấy rất, rất nhiều người đã đi theo một phong trào tâm linh nào đó rồi rút lui khỏi xã hội, ẩn cư nơi vùng hẻo lánh xa xôi nơi họ được che chắn khỏi sự nhộn nhịp hối hả của cuộc sống hàng ngày, và con có thể thấy nhiều người trong số họ tu tập những pháp môn thật khắc khổ suốt hàng chục năm trời trong khung cảnh đó. Nhưng rất, rất ít người đạt được sự tinh tấn mà họ mơ ước. Tại sao vậy? Bởi vì đa số giáo lý và phương pháp tâm linh trên địa cầu thường hứa hẹn những kết quả tự động, hứa rằng nếu con theo học giáo lý, thực hành những tu tập vỏ ngoài, thì con sẽ đạt được mục tiêu mà không cần xem xét tâm lý của mình.

Con hãy để ý câu vừa rồi. Đa số giáo lý tâm linh hứa hẹn con sẽ đạt được bất kỳ mục đích nào con mong muốn mà không cần xem xét đến tâm lý của mình. Các chân sư đã đưa ra những lời dạy vô cùng thâm sâu và chi tiết về ngã gốc cũng như về những cái ngã tách biệt khác tuôn ra từ đó, và lời dạy này trong tinh túy thật đơn giản. Ngã tách biệt, ngã gốc và mọi cái ngã riêng biệt khác luôn luôn phóng chiếu ra ý tưởng là con có một số vấn đề mà con phải giải quyết, một số điều kiện mà con phải đạt được. Nhưng kỳ thực, đây là một ảo tưởng. Khi nào con còn tin rằng có những điều mà con phải làm, những điều mà con phải đạt, hay những điều mà con phải giải quyết, thì con sẽ vẫn còn kẹt trong ngã đó. Và đây, cái chìa khoá để đi xa hơn một mức nào đó của tâm Ki-tô thực sự là phải giải hóa ngã gốc. Nhưng con không thể làm điều này chừng nào con còn cố giải quyết những vấn đề do ngã gốc định ra, hay có thể nói, giải quyết cái vấn đề đã định ra ngã gốc. Con cần bước tới điểm khi con có thể, trong tư cách cái Ta Biết, bước ra khỏi ngã gốc, nhìn thẳng vào nó và hỏi: “Đây có thực sự là một vấn đề không? Vấn đề này có bao giờ giải quyết được không? Và ngay cả khi giải quyết được thì tôi sẽ đạt được gì?”

Và con ngộ ra, con chiêm nghiệm ra sự thật rằng đó không phải là một vấn đề có thật, và con không hề được gì khi giải quyết nó. Ở điểm này, con sẽ tách ra khỏi ngã đó. Như các chân sư đã chỉ cho con cách thực hành và tu tập, con có thể để cho nó chết đi. Thay vì cố giải quyết vấn đề, con chỉ đơn giản để cho nó chết đi. Nói cách khác, điều mà ngã cũng như sa nhân phóng chiếu vào con chỉ là ý tưởng rằng con có thể đạt được trạng thái nội tâm mà con mong mỏi bằng cách giải quyết vấn đề vỏ ngoài. Nhưng các chân sư nói với con, con sẽ không bao giờ đạt được trạng thái nội tâm mà con mong mỏi cho tới khi nào con buông bỏ sự tìm cầu cách giải quyết vấn đề, tìm cầu cách sản xuất điều kiện vỏ ngoài. Con buông nó ra. Con để cho ngã chết. Con không tìm cách giải quyết bất cứ gì, bù đắp cho bất cứ gì hay đạt được bất cứ trạng thái nào. Con chỉ đơn giản để cho ngã chết.

Con hãy đọc lại câu ta nói trước kia: “Can hệ gì tới ngươi? Còn con, hãy theo ta”. Ý nghĩa thật của câu này là sẽ có rất, rất nhiều điểm trên đường tâm linh khi con phải đối mặt với một ảo tưởng, một khai ngộ nào đó. Ảo tưởng là khi có những điều mình phải làm, những chuyện mình phải giải quyết. Nhưng thực sự điều con cần làm là nhận ra cái đó xuất phát từ một ngã tách biệt, và thay vì cố giải quyết, con từ bỏ mọi nỗ lực giải quyết. Con để yên cho ngã chết vì con đã ngộ được rằng việc bước theo chân Ki-tô quan trọng hơn gấp bội chuyện sản xuất một thành quả vỏ ngoài trên địa cầu.

Bây giờ, ta trở lại những gì ta đã nói về cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ. Nếu con quan sát một cách vô tư những người tuyên bố theo Trump, con sẽ thấy họ bị xúc động mạnh mẽ. Họ dính mắc với Trump và hình ảnh mà ông phóng ra. Cái mà họ thật sự dính mắc là cái cảm giác mà ông đã cho họ, và họ tin rằng cách duy nhất để có được cảm giác này là qua Trump, qua việc ông là tổng thống, ông là người lãnh đạo. Những người này đang cố làm gì? Họ đang cố sản xuất ra một cảm giác, nhưng họ làm vậy qua trung gian một điều kiện trên địa cầu, và bây giờ họ phải đối diện với sự kiện điều kiện này có thể sẽ thay đổi và Trump sẽ không còn là tổng thống nữa. Làm sao thoát khỏi sự thể này? Chỉ bằng một cách là nhận ra có một cái gì hơn thế nữa, quan trọng hơn điều kiện vỏ ngoài đó đối với con. Nếu con là học trò của chân sư và con tin vào Trump, làm thế nào con sống tiếp được khi ông rời Nhà Trắng? Phải, chỉ bằng một cách là sẵn sàng tự nhủ: “Chuyện đó can hệ gì tới tôi? Vì tôi đi theo Ki-tô”.

Con nhận ra việc nâng cao khả năng phân biện Ki-tô của mình quan trọng hơn bất kỳ điều kiện nào bên ngoài, cho dù tổng thống có là ai. Quả vị Ki-tô của con không tùy thuộc ai làm Tổng thống Hoa Kỳ. Nếu con nghĩ là nó tùy thuộc thì con chưa thực sự hiểu tâm Ki-tô là gì, và con cần học hỏi rất nhiều lời dạy của ta về tâm Ki-tô. Vậy làm thế nào con sống tiếp được từ điểm này trở đi? Chỉ bằng một cách là buông bỏ một cái gì đó, chỉ bằng cách nhận ra rằng cảm giác mà con mong muốn không thể phát xuất từ điều kiện bên ngoài mà từ sự kiện con làm việc trực tiếp với tâm lý của con. Đây là cốt lõi của giáo lý các chân sư trong đợt truyền pháp này. Nếu con đã đến mức không thể áp dụng những giáo lý này, đó là chọn lựa của con, và con hãy ra đi bình an, hoặc con cũng có thể ra đi không bình an nếu con muốn như vậy. Nhưng các chân sư không thể giúp những ai không sẵn lòng buông bỏ một cái gì.

Ta chỉ dùng sự kiện trên như một ví dụ, bởi vì dĩ nhiên có rất nhiều ví dụ khác. Con nhìn vào những người tâm linh nói chung, con nhìn học trò của chân sư trong các đợt truyền pháp trước hay ngay cả trong đợt này, con sẽ thấy rất nhiều người tới một điểm sẽ đụng phải một điều gì đó mà họ không sẵn lòng buông bỏ. Rồi hoặc là họ ngừng tiến bước trên đường tâm linh, hoặc họ bước vào con đường tay trái, con đường công truyền, nơi họ từ chối thay đổi một điểm gì đó trong tâm lý họ, họ từ chối từ bỏ một cái gì đó để theo Ki-tô. Họ đã không nói được: “Chuyện này can hệ gì tới tôi? Tôi đi theo Ki-tô, tôi sẽ đi theo Ki-tô,” mà ngược lại họ đã như người thanh niên kia nói với ta rằng: “Con muốn theo Giê-su lắm chứ, nhưng trước tiên con có thể đi chôn cha con được không?” Nói cách khác, họ có một việc gì đó trong thế gian mà họ phải làm trước khi đi theo Ki-tô, và như thế họ không thể nào theo Ki-tô vì lúc nào cũng sẽ có những công việc trong đời phải làm trước. Ta đã nói gì với thanh niên đó? “Hãy để cho kẻ chết đi chôn người chết”. Hãy để cho những ai bị kẹt trong tâm thức chết đối phó với mọi vấn đề mà họ tưởng họ phải cần đối phó. Con có thể từ chối đối tác với tất cả những vấn đề này, buông chúng đi, rồi cất bước cùng Ki-tô đi tới những tầng cao hơn của đường tu. Nhưng tất nhiên, tại sao họ không làm được? Bởi vì họ chưa chịu nhìn vào cái ngã gốc luôn nghĩ rằng nó phải sản xuất ra một cảm giác nào đó bằng cách sản xuất những điều kiện cụ thể ở đây trên địa cầu.

Có thể nói, đây là ảo tưởng ngàn đời. Đây chính là bí mật của con đường tâm linh nếu chẳng qua có một bí mật. Đây là bí mật vì có rất ít giáo lý nào thật sự tiết lộ với những lời thẳng thắn, rõ ràng như thế. Lý do một phần là vì, thực tế mà nói, việc nâng cao tâm thức tập thể trên địa cầu là một tiến trình chậm chạp, lần hồi. Không có ích gì đưa ra một giáo lý khi chưa có một số người sẵn sàng nắm lấy và đem ra thực hành. Nhưng dù sao đi nữa, cốt lõi của vấn đề là như sau: “Khi bảo rằng con người chưa sẵn sàng áp dụng giáo lý thì điều này có nghĩa gì?” Có nghĩa là con người chưa sẵn sàng nhìn vào bản thân mình, nhìn vào cái xà trong mắt mình. Bao nhiêu tín đồ đạo Cơ đốc tự nhận là họ sùng tín ta, nhưng liệu họ có sẵn lòng đoái nhìn đến những lời ta đã dạy, chẳng hạn như phải nhìn vào cái xà trong mắt mình thay vì phán xét người khác theo cái giằm trong mắt người? Đây thực sự là một điều mà con phải buông bỏ, một trong những điều khó bỏ nhất khi con lên cao hơn tầng thứ 96. Con thấy không, các sa nhân là một ví dụ rõ ràng nhất của tình trạng tư duy này. Chúng từ chối nhìn vào bản thân, vào cái xà nơi mắt chúng, để chỉ tập trung vào cái giằm trong mắt người khác, luôn luôn vạch ra cái giằm đó, luôn luôn hướng ra bên ngoài và nghĩ rằng vấn đề nằm ở bên ngoài, rằng người khác có lỗi và cần phải thay đổi.

Các sa nhân bị mắc bẫy trong tâm thức này và không thể vượt ra ngoài cho đến khi chúng quyết định quay đầu lại. Nhưng dù quay đầu thì chúng cũng sẽ mất rất nhiều thời gian để vượt qua được. Chúng đã tạo ra trên hành tinh này một con quái vật tập thể vô cùng hùng mạnh luôn cuốn hút mọi người vào tâm thức đó. Vì thế mà con luôn phán xét người khác. Có bao nhiêu trường hợp như thế, như khi con dựng lên ai đó thành con dê tế thần, đổ tội cho họ là nguyên nhân những vấn đề của con, và con tin rằng nếu con có thể loại trừ hay thay đổi con dê thì vấn đề của con sẽ giải tỏa. Vấn đề sẽ tự nhiên biến mất như trong phép lạ. Đây là một con quái vật tập thể vô cùng kiên cố, và một lần nữa, khi con lần đầu tiên gặp giáo lý của chân sư, con vẫn bị nó ảnh hưởng vì con đã lớn lên trong một môi trường lấy chuyện phê phán người khác làm chuẩn. Nó hoàn toàn tự nhiên và ta hoàn toàn thông cảm. Ta nói như vậy bất kể con đã lớn lên ở đâu với rất, rất ít ngoại lệ.

Trong xã hội có một chuẩn mực, một cách cư xử gọi là bình thường. Đó là cách cư xử tại Đan Mạch, người Đan Mạch là như thế, người Mỹ là như thế, người Pháp, người Đức, người Anh cũng là như thế, vân vân. Mọi quốc gia đều có chuẩn mực này, chuẩn mực mà một người tiếng là tốt lành trong xã hội phải tuân thủ, và con được nuôi nấng lớn lên để phê phán chính mình lẫn người khác dựa theo chuẩn này. Con có tuân thủ hay không tuân thủ? Có những áp lực và biện pháp được áp đặt lên những ai không tuân thủ. Cho nên thật là không thể tránh được khi con tìm thấy giáo lý các chân sư, con đã mang sẵn nguyên cái tâm thức này trong bốn thể phàm của con. Con mang những cái ngã đã được tạo ra để đáp ứng tình trạng đó, và có lẽ suốt nhiều kiếp đầu thai, rất có thể con đã củng cố cho nó lớn mạnh hơn. Những cái ngã này không ngừng lượng giá chính con, lượng giá người khác và mọi sự xảy ra chung quanh, nó phán xét tất cả. Cho nên chuyện gì xảy ra khi lần đầu con gặp giáo lý chân sư dạy về quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô? Đúng vậy, những cái ngã này đồng loạt kêu lên: “Hoan hô! Đây hẳn là miền đất hứa, vì nếu chúng ta có thể đạt được quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô, chúng ta sẽ có một chuẩn mực tuyệt đối để phán xét mọi người”.

Trong hầu hết người tâm linh, có một cơ chế tâm lý vận hành. Con đã lớn lên trong một xã hội chắc là bị chi phối bởi một tôn giáo nào đó, hoặc cũng có thể bởi tôn giáo của chủ nghĩa duy vật khoa học. Con đã luôn cảm thấy con không thực sự muốn là một người duy vật, nhưng con cũng không làm sao theo được tôn giáo đang chiếm ưu thế. Cho nên con có cảm tưởng mình là một người đứng bên lề, bị ruồng bỏ. Con đã luôn cảm thấy mình bị phán xét bởi người ngoan đạo lẫn người duy vật, thậm chí cả người cộng sản tùy theo con lớn lên ở đâu. Con cảm thấy mình là người ngoài cuộc. Con bị người ta đánh giá vì con không theo một chuẩn mực nào. Cho nên để đối phó với sự thể, rất có thể vào thời thơ ấu hay trong những kiếp trước, con đã tạo ra những cái ngã, và những cái ngã này mong muốn bù đắp cho sự kiện con bị đánh giá.

Ngã thực hiện sự bù đắp bằng cách cố đạt một ấn tượng, một tin tưởng rằng cho dù con bị người ta đánh giá thì chính họ mới sai lầm vì chỉ có con là đúng vì con là một người tâm linh. Con hoàn toàn có lý khi là người tâm linh, và đây, có cả giáo lý của chân sư thăng thiên xác minh con có lý khi con là người tâm linh. Thật không tránh nổi những cái ngã này sẽ bắt đầu sử dụng giáo lý chân sư để phán xét người khác. Nếu họ không tin ý kiến này thì họ sai rồi. Họ không tin vào luân hồi thì họ phải sai thôi. Họ không tin điều này, không tin điều kia mà các chân sư giảng dạy, do đó họ ở một mức tâm thức thấp hơn mình. Một lần nữa, ta không trách móc ai cả. Chính ta cũng như vậy khi ta còn ở những mức thấp kém của đường tu, không phải trong kiếp đầu thai chót mà những kiếp trước đó. Tất cả chúng ta đều đã trải qua vấn đề này, đó là một phần không thể thiếu của đường tu tâm linh. Nhưng vấn đề là khi một số người tâm linh, thậm chí một số học trò của chân sư, không thể đứng riêng ra khỏi vấn đề. Họ không thể nhận diện cái ngã tách biệt này trong họ, những ngã tách biệt muốn phê phán mọi thứ, lại dùng cả giáo lý của chân sư để thiết lập, dưới mắt họ, một cái chuẩn tối hậu để phán xét mọi người.

Đây là một sự thể con thấy khắp mọi nơi, một phần của cái mà chúng ta có thể gọi là thân phận làm người. Con phớt lờ cái xà trong mắt mình và tim giằm trong mắt người, và con phê phán người khác một cách vô cùng khắc nghiệt dựa trên một chuẩn mực mà con coi là tuyệt đối. Có điều, hầu hết người tâm linh và nhiều học trò của chân sư chắc chắn mang kỳ vọng có thể tạo dựng một cộng đồng tâm linh dựa trên tình thương và tốt thiện. Cho nên con có trực giác là có thể có một cộng đồng tâm linh nơi sự phê phán sẽ vắng bóng. Bao nhiêu người kỳ vọng là khi họ tìm thấy giáo lý của chân sư, những ai theo giáo lý này sẽ không hề xoi mói mà sẽ hiền hòa, tương thân tương ái. Ta hiểu được con có kỳ vọng như thế, nhưng điều này không thực tế.

Vị sứ giả này, nhiều năm trước đây, có nghe tin về tổ chức Summit Lighthouse khi ông sống ở Đan Mạch. Dĩ nhiên ông đã dựng lên một kỳ vọng về cuộc sống tại Summit Lighthouse cũng như về những thành viên ở đó, dựa trên một cái nhìn từ xa, thấy được lý tưởng của giáo lý và nghĩ rằng mọi người theo giáo lý chắc hẳn là yêu thương và hiền hòa. Khi ông đến trụ sở của Summit Lighthouse tại Montana năm 1987, ông bàng hoàng. Chỉ sau ba ngày, giống như ba ngày mà – theo kinh sách – ta đã từng trải nơi địa ngục, ông ngồi xuống và phải lấy một quyết định. Hoặc ông phải ra đi, hoặc ông sẽ ở lại và tìm một giải pháp ổn thỏa. Một ý nghĩ đến với ông, mà ông nhận được trong ngoại tâm, là “Nhưng khoan đã, khi tôi bước qua cánh cổng này, làm gì có tấm bảng nào nói là phải bỏ tự ngã trước khi vào? Cho nên tôi đã không bỏ tự ngã của tôi ngoài cửa, và rất có thể mọi người khác cũng không ai bỏ tự ngã của họ ngoài cửa. Có nghĩa là mọi người trong đây vẫn đều mang tự ngã, tôi cũng vẫn mang tự ngã, vậy thì có lẽ kỳ vọng của tôi hơi thiếu thực tế đó. Có lẽ tôi thiếu thực tế khi tôi chờ đợi mọi người bước qua cánh cửa này bỗng nhiên trở thành toàn hảo, và chính tôi cũng trở thành toàn hảo khi tôi bước vào.” Đây chính là ý tưởng đã cho phép ông ở lại với cộng đồng và tinh tấn vượt bực trong thời gian 10 năm ông sống ở đó.

Một số ý tưởng tương tự cũng đã hữu ích cho nhiều người khác, nhưng cũng có những người không nhận ra được điều này, họ phản ứng một cách khác và bắt đầu phán đoán, hay họ tiếp tục phán đoán người khác và ngay cả chính họ mà không hề hay biết. Vì vậy con có thể thấy tại Summit Lighthouse, hồi đó cũng như bây giờ, có một không khí phán xét mà qua đó họ sử dụng các giáo lý của chân sư để tạo ra hình ảnh về một đệ tử lý tưởng của chân sư. Họ phán xét lẫn nhau dựa trên tiêu chuẩn đệ tử có tuân thủ các đòi hỏi vỏ ngoài này hay không: bạn là nhân viên à? Bạn là nhân viên của bộ phận nào? Bạn có đọc đủ số bài chú hay không? Có là người giao tiếp? Có đóng góp tài chánh cho nhà thờ? Có cư ngụ ở Glastonbury? Lái xe hiệu gì? Màu gì? Mặc áo màu gì? Ăn thức gì? Có kiêng ăn gì không, và vô số những chuyện khác. Cái gì đứng đằng sau khuynh hướng phán xét đó? Chính là ý tưởng cho rằng việc tuân thủ các nghi lễ và luật lệ vỏ ngoài sẽ tự động đưa con tới trạng thái tâm Ki-tô.  

Cho tới giờ, các chân sư đã ban cho con nhiều lời dạy để chất vấn ảo tưởng đó cho nên con phải đủ khả năng thấy được rằng sẽ tới lúc con sẽ không thể tiến bước cao hơn trong quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô cho tới khi con nhìn nhận một cách toàn diện và ý thức rằng quả vị Ki-tô không phải là sản phẩm của các điều kiện ngoại cảnh trên địa cầu. Quả vị Ki-tô không phải là chuyện đã đạt được gì, đã làm được gì, sở hữu cái gì, tu tập pháp môn nào, đọc được bao nhiêu bài chú. Những thứ đó không sản xuất ra quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô chỉ là một điều duy nhất mà thôi – nó không phải là những gì con đã thu được mà là những gì con đã bỏ lại. Con đã bỏ lại bao nhiêu cái ngã tách biệt? Bao nhiêu ảo tưởng con đã bỏ lại? Bao nhiêu kỳ vọng con đã bỏ lại? Bao nhiêu lần con đã đương đầu với một kỳ vọng, một vướng mắc, và đã tự nhủ một cách hoàn toàn chân thành: “Cái này can hệ gì đến tôi? Tôi sẽ đi theo thày!” Đó là chìa khóa duy nhất cho quả vị Ki-tô.

Con có thể là thành viên của một tổ chức tâm linh. Con có thể nhiệt thành tuân thủ một pháp môn tu tập suốt nhiều năm hay nhiều thập niên. Các chân sư đã thấy điều này rất nhiều lần rồi, nhưng con vẫn không tiến một bước nào về phía tâm Ki-tô chính vì con không chuyển dời tâm thức để nhận ra tâm Ki-tô là gì. Đây không phải là chuyện bám giữ vào cái này hay cái kia trên địa cầu, không là chuyện hoàn thiện cái này hay cái nọ, mà là chuyện buông bỏ. Rất, rất nhiều hành giả khi họ tìm thấy một con đường tâm linh, tập trung rất nhiều vào ý niệm chứng đạt tâm linh cũng như một số khả năng. Nhiều người mơ ước có được quyền năng thần thông, và thật tiếc thay, cuộc đời của ta đã phần nào kích động mơ ước này bởi vì ta đã thực hiện một số phép siêu phàm. Cho nên một số người cũng muốn làm giống thế, hoặc họ muốn chứng đạt được gì đó tùy theo định nghĩa của tổ chức hay giáo lý của họ, và tất cả là để biến cái mà họ đang có thành một cái gì hoàn hảo và tốt đẹp đến nỗi các chân sư phải trầm trồ: “Ồ, có đệ tử kia đã thật sự chứng đạt được cả bảy tia sáng, người ấy đã sẵn sàng thăng thiên rồi đấy.”

Con có thấy không, đường tu thật sự không phải là đạt được một khả năng nào đó, hay ngay cả kiến thức và sự hiểu biết, bởi vì con đường giả trá do các sa nhân phóng chiếu ra – và được nhiều hành giả ở một cấp bậc nào đó chấp nhận vì họ không biết làm gì khác hơn – chính là con đường nâng cao một khía cạnh nào đó của tự ngã, nâng cao một ngã tách biệt nào đó. Vì chúng ta đang bàn về phân biên Ki-tô, con có biết con có một cái ngã tách biệt rất mạnh mẽ khi con tìm thấy một con đường đã được thiết lập suốt nhiều kiếp sống do văn hóa phán xét gây ra? Như vậy, con có một cái ngã tách biệt với khả năng phán xét người khác, và bây giờ ngã này cảm thấy nó có thể áp dụng lời khuyên răn của ta là phải “phán xét theo lẽ công bình” bởi vì nó đinh ninh là nó không phán xét theo chuẩn mực của con người mà theo một chuẩn mực cao hơn. Thế là khi con tìm được giáo lý của chân sư, ngã này liền nói: “À, đây là cơ hội quá tốt cho tôi, tôi sẽ lấy lời dạy này, học tập thật kỹ, đem ra áp dụng, tôi sẽ hoàn thiện khả năng phán xét của tôi. Tôi sẽ chứng đạt chuẩn mực cao nhất của phán xét là phân biện Ki-tô, và tôi sẽ có khả năng phán xét như một chân sư phán xét.”

Nhiều học trò của chân sư tin rằng chỉ có chuyện hoản chỉnh cái ngã này, và khi họ có được sự phán xét tối thượng đó thì họ sẽ chứng đạt quả vị Ki-tô. Đây là quả vị Ki-tô, họ nghĩ như thế. Nhưng con yêu dấu, đây chỉ là một cái ngã. Nó sẽ không bao giờ lên được Thiên đàng. Dù cho khả năng phán xét của con có cao siêu biết mấy, nó sẽ không bao giờ vào được Thiên đàng. Con sẽ không bao giờ vào được Thiên dàng khi nào con còn lôi cái ngã này theo con. Nó không thể chui qua cánh cửa. Làm thế nào con vào được Thiên đàng? Chỉ bằng cách bỏ cái ngã này lại. Có nghĩa là gì? Nhiều học trò tâm linh mà chân sư đã thấy, trong đợt truyền pháp này cũng như những đợt trước, vẫn còn rơi vào cạm bẫy mà nghĩ rằng tâm Ki-tô là chuyện nhìn thế giới, nhìn hành động, nhìn ý nghĩ, nhìn mọi thứ hiện ra và xét đoán chúng dựa trên tiêu chuẩn là chúng đúng hay sai.

Các chân sư đã từng nói gì? Các sa nhân đã phải làm gì để phá nát cuộc sống trên hành tinh này? Chúng phải phóng chiếu ra một chuẩn mực về những gì phải xảy ra hoặc không được xảy ra, khiến loài người phải lượng định mọi thứ dựa trên giá trị đúng hay sai, thật hay giả. Những người này nghĩ rằng bằng cách lấy một lời dạy của chân sư rồi áp dụng và học tập, họ sẽ có thể hoàn thiện cái ngã phán xét ấy để nó nhìn vào mọi chuyện xảy ra trên địa cầu mà xét đoán. Cái này đúng hay sai? Là Ki-tô hay phản-Ki-tô? Nhưng đây là một ảo tưởng và ở tầng tâm thức thứ 96, con sẽ cần phải đương đầu với nó nếu con muốn bước lên những tầng cao hơn. Nếu không, con sẽ rơi vào vòng xoáy đi xuống của sự xét đoán và sẽ ngày càng xét đoán nhiều hơn, trong khi cứ đinh ninh mình là đấng Ki-tô Hằng sống đang xét đoán.  

Ta sẽ minh họa cho con thấy. Giả sử con đang ở một phi trường sầm uất. Đó là trước nạn dịch corona và phi trường đầy nghẹt người. Ai ai cũng nói năng, có loa phóng thanh, có nhạc, có đủ mọi loại tiếng động. Con bước vào đó và nghĩ: “Công việc của tôi là xét đoán xem những tiếng động này là của Ki-tô hay phản-Ki-tô”. Con sẽ làm gì? Con sẽ chú tâm lắng nghe từng tiếng động và con nghĩ rằng bằng cách phát triển khả năng phán xét tiếng động, con sẽ biểu hiện tâm Ki-tô. Nhưng tâm Ki-tô thực sự là gì? Tâm Ki-tô không phải là nghe và phán xét tiếng động đâu. Người có tâm Ki-tô là người nghe được sự im lặng vượt ngoài mọi tiếng động. Con có thể đứng giữa nơi ồn ào nhất cả hành tinh nhưng đằng sau tiếng động vẫn có im lặng. Tiếng động cần có không gian để hiện hữu, là không gian mà đức Phật cầm giữ cho địa cầu. Không gian này – tánh nhận biết im lặng đằng sau tiếng động – đó chính là tâm Ki-tô là phân biện Ki-tô tối hậu.

Đã có một thời, như ta có giải thích, khi con nhìn vào các tầng vật lý, cảm xúc, lý trí và bản sắc, con sử dụng khả năng của mình để phân biện giữa những gì là ảo tưởng, là sự thao túng, là cơn lốc xoáy và tất cả những thứ đó. Ở cấp độ đó, có thể nói là con vẫn còn phán xét. Ít ra là còn lượng giá và phân tích. Đấy là một phần của tâm Ki-tô ở những bước đầu. Nhưng ta nói với con, sẽ tới một lúc khi con có thể bước lên những tầng cao hơn của tâm Ki-tô, hay con có thể đi xuống những tầng thấp hơn vì con tưởng rằng tâm Ki-tô chỉ là chuyện phán xét. Hãy trở lại ví dụ con đang đứng ở phi trường, với tiếng động khắp nơi và người ta qua lại thật náo nhiệt. Con sực nhớ ra là con đang đeo một cặp tai nghe chống ồn, úp chặt vào hai tai. Trên tai nghe có cái nút bật nhỏ xíu, và nếu con vặn nút đó lên, tai nghe sẽ khiến cho mọi tiếng ồn biến mất và con sẽ chỉ nghe thấy im lặng. Đấy, đó là những tầng cao của tâm Ki-tô và phân biện Ki-tô. Đó là con đang đặt tâm con trong sự im lặng đằng sau tiếng động.

Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là con nhận ra điều quan trọng nhất cho con là lắng nghe im lặng. Làm sao con nghe được im lặng? Bằng cách lấy chú tâm ra khỏi tiếng động. Khi nào con còn tập trung vào tiếng động thì con không thể nghe thấy im lặng. Đâu là yếu tố hàng đầu lôi kéo con tập trung vào tiếng động? Đó là sự tin tưởng rằng con cần phải xét đoán xem tiếng động nào là tốt hay xấu, tiếng động nào là phải hay trái. Nhưng đến mức này, con sẽ nhận ra là sự phán xét một ý tưởng nào, một hiện tượng nào là đúng hay sai, không còn quan trọng nữa. Quan trọng hơn là chiêm nghiệm được sự im lặng, tâm Ki-tô. Một khi con bắt đầu chiêm nghiệm im lặng đó – mà đối với hầu hết mọi người sẽ không xảy ra thường xuyên trước khi con hóa giải được ngã gốc, và tuy nhiều người thoáng nghe được im lặng trước khi họ hóa giải ngã gốc, họ không có khả năng giữ vững được lâu – và sau khi con hóa giải ngã gốc, con sẽ chứng nghiệm im lặng đó, và bỗng nhiên nó trở thành điều quan trọng nhất, quan trọng hơn mọi sự xét đoán là ai sẽ là tổng thống hay đủ mọi chuyện khác mà người đời thường đem ra xét đoán.   

Và đây là lúc con sẽ bắt đầu nhìn xa hơn tất cả những loại quan điểm vỏ ngoài. Như ta đã trình bày, có thể có hai học trò của chân sư đều tin rằng mình có một khả năng phân biện Ki-tô nào đó, và một người thì muốn Trump làm tổng thống và người kia ủng hộ một người khác làm tổng thống. Nhưng nếu cả hai bước lên một tầng cao hơn của tâm Ki-tô, họ sẽ bắt đầu thấy ai làm tổng thống không còn quan trọng gì nữa. Có nhiều thứ khác quan trọng hơn. Chẳng hạn, một điều quan trọng hơn là nếu họ đạt tới một sự hợp nhất nào đó nơi họ không còn bị ngăn cách bởi vấn đề ai sẽ làm tổng thống. Đây là một ví dụ hành giả có thể khắc phục cái ngã chỉ muốn phê phán tất cả. Đây là cách duy nhất cho con hay bất cứ ai kiến tạo được một cộng đồng mà nhiều người tâm linh vẫn mơ ước, một cộng đồng dựa trên tình thương, nhân ái và tương trợ.

Làm sao một cộng đồng có thể tương trợ nếu ai ai cũng luôn phê phán nhau? Làm thế nào có thể ngừng phê phán nhau nếu không ai chịu nhìn vào chính mình và nhìn vào cái ngã đang khiến mình phê phán mọi thứ, kể cả chính mình? Con phải đương đầu với ngã này, con phải nhận ra rằng không phải là chuyện đạt được khả năng phê phán tuyệt hảo, mà là chuyện để cho ngã chết đi hầu sánh bước với Ki-tô bước vào trong im lặng. Con muốn gì? Con muốn quả vị Ki-tô hay muốn sự phán xét của con người? Ta đã đặt trước mặt con sự sống và sự chết. Con hãy chọn sự sống nếu con muốn bước tiếp với ta. Còn không thì ta sẽ phải bỏ con lại đằng sau, và con có thể đi theo bất cứ đường nào mà con định ra dựa trên cái ngã phán xét đúng hay sai, Ki-tô hay phản-Ki-tô. Cái ngã này sẽ phê phán bất cứ gì đứng ra chất vấn thẩm quyền của ngã.

Con hãy chân thật với chính mình. Ta đã có nói, con tự nhận là học trò của chân sư, con đã bỏ thời gian học hỏi giáo lý của chân sư. Con thực sự muốn gì? Con muốn tinh tấn hay muốn bào chữa cho cái ngã không bao giờ vào được Nước Trời? Cái ngã xét đoán sẽ xét đoán bất kỳ giáo lý nào đứng ra tra vấn nó, kể cả giáo lý của chân sư, và nó sẽ xét định rằng giáo lý này không phải là của Ki-tô.

Các chân sư đã từng thấy những nhóm người đã tự thuyết phục mình và thuyết phục cả người khác rằng sứ giả này hay sứ giả kia không còn là sứ giả nữa bởi vì các chân sư sẽ không bao giờ nói ra điều đó. Họ đã rời bỏ tổ chức này hay tổ chức kia để đi theo đường riêng, tin chắc là họ biết rõ hơn cả vị sứ giả là sứ giả có nhận được thông điệp chính xác từ chân sư hay không. Nhưng đằng sau tất cả, họ nghĩ rằng – cái ngã xét đoán của họ nghĩ rằng – họ biết rõ hơn cả chân sư những gì chân sư muốn nói. Nhưng nếu lời ta nói phải phù hợp với sự xét đoán của ngã xét đoán, thì làm sao ta giúp được con thoát khỏi ngã tách biệt đây?    

Ngã nghĩ rằng nó có thể vào được Thiên đàng một khi nó biết phán xét tuyệt hảo, nhưng con yêu dấu, ta là một chân sư thăng thiên và ta biết ngã đó sẽ không bao giờ vào được Thiên đàng, và con cũng không vào được nếu con cứ bám víu vào nó. Cơ hội duy nhất cho ta giúp con thăng hoa là khiến con nhận ra ngã đó hầu con buông nó ra. Nhưng nếu con cho phép nó thuyết phục con rằng khi ta tra vấn nó thì không phải một chân sư đang nói chuyện với con, thì con tiêu rồi. Đối với ta, con đã tiêu mất. Ta không thể giúp con. Ta chỉ có thể tôn trọng quyền tự quyết của con và nói rằng, một lần nữa hành giả này đã chọn con đường tay trái tôn vinh ngã thay vì để cho ngã chết đi mà đi theo Ki-tô. Đối với những ai trong số các con làm điều này trong kiếp này, ta có thể cam đoan rằng con đã làm chuyện đó trong nhiều kiếp đã qua. Con sẽ tiếp tục chọn lựa làm như thế đến bao giờ nữa đây, cứ theo ngã tách biệt mà không theo Ki-tô? Con sẽ cần tới bao nhiêu lần nữa để chiêm nghiệm chuyện này không thể thành được? Vì thế mà cuối cùng con sẽ phải trở lại cuộc đời này trong một kiếp đầu thai nữa và một kiếp nữa và một kiếp nữa, trong khi những ai chịu buông bỏ ngã xét đoán sẽ thăng hoa. 

Ta phải làm gì thêm nữa đây để xuyên thủng những lớp phòng thủ kiên cố mà ngã tách biệt đã xây đắp chung quanh cái Ta Biết của con? Và con cần gì thêm nữa đây? Con hãy suy ngẫm câu hỏi này. Đâu là những rào cản mà ngã tách biệt đã dựng lên hầu cái Ta Biết không thể nghe thấy ta, hầu con không có tai để mà nghe, không có mắt để mà nhìn, khiến con không thể chiêm nghiệm được cái vượt khỏi tầm của ngã là sự im lặng vượt khỏi mọi tiếng động? Có sự sống vượt khỏi tầm của sự chết. Đó là tâm Ki-tô vượt khỏi cái mà con nghĩ là tâm Ki-tô, cái tâm thức phản-Ki-tô, tâm thức của cái chết, tâm thức của Sa-tăng.

Hôm nay con hãy chọn, chọn đi theo Ki-tô hay phản-Ki-tô. Ta cho con tự do hoàn toàn bởi vì nay ta đã làm tất cả những gì ta có thể nghĩ được để giúp con chọn sự sống, và vì vậy ta sẽ buông bỏ, bởi vì là một chân sư thăng thiên thì ta không vướng mắc liệu ta có cứu vớt được con hay không. Nhưng tất nhiên, ta sẽ cương nghị và tung ra ngọn lửa để giúp đâm thủng những phòng thủ bao trùm quanh cái Ta Biết của con.

Các chân sư có dạy rằng cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết. Thật vậy, nó đi song song với sự im lặng. Chứng nghiệm im lặng là chứng nghiệm tỉnh giác thuần khiết, là sự chứng nghiệm rằng con là cái gì nhiều hơn tất cả những cái ngã bên ngoài. Cho nên con có thể bỏ chúng lại mà sẽ không chết, con sẽ không biến mất bởi vì con là, cái Ta Biết là, sinh thể nguyên thủy đã giáng thế từ Thiên đàng – và ta nói gì nhỉ? – không một người nào có thể thăng lên trở lại Thiên đàng ngoại trừ đó là người đã giáng thế từ Thiên đàng.  

Cái Ta Biết đã đi xuống trong sự tỉnh giác thuần khiết mà không có bất kỳ ngã tách biệt nào, vậy thì chỉ có cái Ta Biết mới thăng lên trở lại, và làm thế nào nó thăng trở lại? Bằng cách để cho tất cả ngã tách biệt chết đi. Bằng cách buông bỏ chúng hết. Tất cả bọn chúng phải chết đi để con có được sự sống vĩnh hằng.   

TA LÀ con đường, sự thật và sự sống vì TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô.

11 | Lên tiếng từ một tâm thái an bình

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 1/12/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su, và ở đây thày muốn đưa ra một số nhận xét về một chủ đề có thể gây bối rối. Thày hiểu hoàn toàn là chủ đề này gây bối rối cho một số các con. Đó là chủ đề quả vị Ki-tô, làm thế nào con thực thi quả vị Ki-tô của con khi lên tiếng trên trái đất. Nếu con ở trong tư duy đường thẳng, con có thể nói là các lời dạy mới nhất mà các thày trao truyền – trong năm qua hay lâu hơn một chút – mâu thuẫn với giáo lý các thày đã trao truyền trước đây. Các thày đã nói là một phần của quả vị Ki-tô của con là lên tiếng, và bây giờ có vẻ như các thày lại bảo rằng con không nên lên tiếng và thay vào đó con nên làm việc trên các phàm linh nội tại, các ngã tách biệt của con và khắc phục chúng.

Con yêu dấu, chìa khóa để giải quyết điều có vẻ bí ẩn như vậy là nhận ra con đường tâm linh có một số giai đoạn. Có một số tầng khai ngộ mà con kinh qua trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Các thày đã trao con một khóa học về tự điều ngự, và khoá học này được thiết kế để đưa con người từ tầng tâm thức thứ 48 lên tầng 96. Tầng 96 là điểm con bắt đầu thực thi quả vị Ki-tô, nhưng hiển nhiên, có một khoảng cách giữa tầng 96 với tầng 144. Con có thể thấy là tất nhiên, những gì con đạt được hay có khả năng đạt được ở tầng 96 chưa phải là quả vị Ki-tô trọn vẹn. Khi con bước lên cao hơn và cao hơn nữa cho đến tầng 144, con có khả năng thể hiện và biểu lộ – nếu có thể gọi như vậy – những trình độ cao hơn của quả vị Ki-tô.

11.1. Khía cạnh trải nghiệm của quả vị Ki-tô

Điều này có nghĩa là khi các thày đưa ra một giáo lý áp dụng cho đệ tử ở tầng 96 hay khoảng đó, dĩ nhiên đây không phải là cùng giáo lý các thày sẽ đưa ra cho những ai ở các tầng cao hơn. Chẳng hạn như khi thày đưa ra khóa học về quả vị Ki-tô [Chìa khóa Chỉ đạo cho quả vị Ki-tô Cá nhân] cùng nhiều giáo lý lúc ban đầu trong đợt truyền pháp này, thì giáo lý đã được đưa ra cho tầng tâm thức khởi sự. Những gì các thày trao truyền bây giờ nhắm đến các tầng quả vị Ki-tô cao hơn, qua đó con cần nhìn nhận là trên đường tu tâm linh có những điều không thể được truyền dạy một cách lý thuyết. Con cần một sự tương tác giữa một đằng là việc tiếp nhận giáo lý cùng sự hiểu biết, và đằng khác là việc thực hành, biểu đạt các giáo lý này và thu hoạch trải nghiệm. Con không trở thành Ki-tô bằng cách ngồi trong lớp học và nhận lời dạy từ một vị thày cho dù vị này đã chứng quả vị Ki-tô. Phải có một yếu tố trải nghiệm nào đó qua sự kiện con bước ra ngoài và nếm mùi trải nghiệm.

Trong những giai đoạn sơ khởi của đợt truyền pháp này, điều mà thày cùng các chân sư khác đã bảo học trò làm là hãy đi ra ngoài và lên tiếng với tầm hiểu biết và nhận biết mà mình có lúc đó. Nhưng tất nhiên, các thày cũng dư biết là học trò sẽ bước ra với một khối lượng ngã tách biệt nào đó và sẽ cảm thấy một sự cưỡng bách phải lên tiếng. Các thày biết là một số đã rất bất đắc dĩ lên tiếng vì những ngã tách biệt mà họ đã vun trồng trong tiền kiếp bảo họ là chuyện lên tiếng thật nguy hiểm, thật không an toàn, và họ không nên lên tiếng gì hết.

Các thày biết là một số người khác lại có tham vọng lên tiếng, hoặc vì họ muốn làm việc gì quan trọng, hoặc họ muốn được các chân sư thăng thiên công nhận, được người khác hay thế giới công nhận, hay đủ loại động cơ khác mà con người có thể có. Các thày cũng biết mình cần phải trao giáo lý cho con người rồi để yên cho mọi người muốn dùng thế nào cũng được, vì cho dù họ có lên tiếng hay không, họ vẫn có được một số trải nghiệm sẽ giúp họ tiến bộ tới mức họ sẵn sàng nhận một giáo lý cao hơn.

Và đó là điều đã xảy ra. Đã có đủ số người vươn lên tới mức họ sẵn sàng nhận được giáo lý cao hơn mà các thày đang ban ra bây giờ. Chúng ta có thể nói là một khối tới hạn (critical mass) trong số các con đã vươn đến mức này, nhưng thày cũng ưa nói là một khối người không phán xét (uncritical mass) trong số các con đã vươn đến mức này vì các con đã vươn lên bằng cách khắc phục thái độ phán xét mà qua đó con cảm thấy phải chỉ trích, phải xét đoán, phải đánh giá mọi chuyện. Đây chính là điểm đặc trưng cho các tầng quả vị Ki-tô cao hơn.

11.2. Quả vị Ki-tô không là một tiến trình đường thẳng

Ở các tầng quả vị Ki-tô thấp hơn, con bắt đầu nhận biết là theo cách nhìn của con ở tầng này, có nhiều sự việc không phải lẽ trên trái đất. Chúng không phù hợp với tầm nhìn cao hơn, chúng không phù hợp với cách mọi chuyện nên diễn ra và chúng cần được thay đổi. Như các thày đã có nói về các avatar đến hành tinh này với cảm nhận mình phải thay đổi nhiều thứ trên trái đất, thì trong những giai đoạn sơ khởi của quả vị Ki-tô con thường bước ra với thái độ là con phải thay đổi một điều gì đó. Con phải khiến cho mọi người nhìn thấy những gì họ chưa thấy, con phải đem lại một sự khác biệt và tạo sự thay đổi.

Đây chính xác là thái độ nhiều avatar đã có khi đến trái đất. Kỳ thực con cần trải nghiệm này trong kiếp sống này để gắn kết lại với động lượng đó. Có những avatar khác đến trái đất mà không lên tiếng, họ không muốn lên tiếng và họ quyết định là họ không muốn lên tiếng trên hành tinh này. Một số những người này đã không bước ra lên tiếng, nhưng điều này vẫn cho họ trải nghiệm nhận được giáo lý và làm gì với giáo lý.

Tuyệt đối không có gì sai trái khi con làm vậy. Như các thày đã nói rất nhiều lần, con có quyền ở một tầng tâm thức nào đó và con có quyền tự biểu đạt dựa theo tầng tâm thức này – không có gì sai trái và các thày hoàn toàn không chê trách gì con. Như Nada đã giải thích cặn kẽ trong sách của thày, các thày chấp nhận con cho dù con có ở tầng tâm thức nào và các thày chỉ nhìn xem làm thế nào giúp được con thăng lên tầng kế tiếp.

Đương nhiên điều này không có nghĩa là các thày muốn con ở lại tầng thấp của quả vị Ki-tô cho đến mãn kiếp. Các thày muốn con có một trải nghiệm nào đó về các tầng thấp, thế rồi phối hợp với những lời dạy các thày đang cho con, các thày muốn giúp con vươn lên những tầng quả vị Ki-tô ngày càng cao hơn. Rồi sẽ tới điểm con đạt đến tầng quả vị Ki-tô nơi con phải chất vấn những gì mình đã làm trước đó. Thày biết là một số người sẽ rơi vào một tư duy đường thẳng vì họ muốn nghĩ là nếu họ đã nhận được một giáo lý chân truyền từ một chân sư thăng thiên về quả vị Ki-tô, thì giáo lý này là tuyệt đối, do đó tất cả những gì họ cần làm là cứ việc đi theo cho đến hết kiếp này.

Thày biết có những người muốn nghĩ như vậy, nhưng đơn giản là họ không nắm bắt được ý nghĩa của quả vị Ki-tô trong tiến trình tự thăng vượt không ngưng nghỉ, và do đó thày không thể cung ứng cho họ. Các thày là chân sư thăng thiên có thể ban một số lời dạy cho những người mang tư duy này, nhưng nếu họ không lưu ý đến lời dạy, nếu họ không xoay chuyển thái độ của họ, thì theo quy luật – thậm chí cả Luật Tự quyết – các thày phải để yên cho họ và không tìm cách bắt họ nhìn ra những gì họ không muốn nhìn thấy.

Vì vậy cho nên các thày sẽ tập trung nỗ lực vào những ai sẵn lòng nhìn ra là trên con đường quả vị Ki-tô sẽ đến lúc con cần chất vấn chính những điều đã đưa con đến mức này của quả vị Ki-tô. Đây không phải là một chuyện con làm chỉ một lần. Đây là một công việc con không ngừng làm, vì con càng lên cao hơn về hướng tầng 144 thì nhịp độ con cần tự chất vấn sẽ càng dồn dập hơn. Thật ra ở những tầng tâm thức cao hơn, con cần tra vấn tất cả mọi thứ ở tầng hiện tại của con hầu thăng lên tầng kế tiếp.

11.3. Đặc tính tuần tự của quả vị Ki-tô

Điều các thày nói với con bây giờ với các giáo lý về avatar, về việc khắc phục chấn thương nhập đời, khắc phục các ngã tách biệt, là ở các tầng thấp hơn của quả vị Ki-tô, điều chấp nhận được – điều cần thiết vì đây là một phần của đường tu – là con lên tiếng với mức nhận biết mà con có, với các ngã tách biệt mà con có lúc đó. Ngay cả nếu nó khiến con bước ra ngoài và cư xử một cách hơi mất cân bằng, có thể quá mạnh mẽ, có thể quá ngoan cố, có thể quá “lửa xanh” (như Chân sư MORE gọi như vậy), thì cách hành xử này của con vẫn chấp nhận được vì con không thể làm gì khác hơn. Chính nhờ con làm vậy mà con nhận được sự phản hồi, con nhận được một khung tham chiếu cho phép con nhìn ra là có lẽ mình phải điều chỉnh cách tiếp cận của mình.

Đó chính là điều sẽ mở tâm con ra để con nói: “Ừ nhỉ, có lẽ tôi đã đến một mức quả vị Ki-tô khi các giáo lý đã đưa tôi đến đây không thể đưa tôi xa hơn được nữa.” Trong bản chất, như các thày đã có giảng, điều này cũng giống như trường hợp một đứa trẻ mới học đi xe đạp phải cần đến hai bánh xe nhỏ ở hai bên (bánh xe tập) để giúp nó giữ thăng bằng. Phải tới một điểm đứa trẻ đã học được cách giữ thăng bằng trên xe đạp thì nó có thể vứt bỏ hai bánh xe tập đi. Nếu con thấy một người lớn đi xe đạp mà vẫn gắn bánh xe tập thì con sẽ nghĩ người này vẫn chưa nắm được một điều gì đó.

Đường tu tâm linh cũng tương tự như vậy. Đó là vì sao các thày đã nói là con cần xem xét phương thức vận hành của con [modus operandi, xem sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. Con cần xét xem con nhìn trái đất như thế nào: Đây có là một hành tinh thân thiện hay thù địch? Cơ thể này thân thiện hay thù địch? Thượng đế thân thiện hay thù địch? Các chân sư thăng thiên là những vị thày thân thiện hay thù địch? Con cần xem xét những điều đó. Con cần nhìn vào bản thân. Thậm chí con có thể nói: “Tôi có một cái nhìn thân thiện hay một cái nhìn thù địch về chính mình?” Sự thù địch đến từ đâu? Nó chỉ có thể đến từ một ngã tách biệt bị tâm thức sa nhân ảnh hưởng, và do đó tất nhiên nó cần được phép chết đi.

Điều thày muốn cho con ở đây về quả vị Ki-tô và việc lên tiếng là như sau: Việc khắc phục ngã gốc của con, khắc phục tất cả hay hầu hết các ngã tách biệt không có nghĩa là con không lên tiếng nữa. Đạt được sự an bình với việc mình ở trên trái đất – là mục đích của chúng ta trong hội nghị này – không có nghĩa là con sẽ không lên tiếng. Nhưng có nghĩa là con sẽ lên tiếng một cách khác, với một thái độ hoàn toàn khác. Con không bị một ngã tách biệt thúc đẩy con lên tiếng. Con không bị một động lực cưỡng bách con phải lên tiếng. Con không lên tiếng với thái độ là mình phải tạo được một kết quả nào đó. Con không lên tiếng vì con phải thuyết phục hay cải đổi người khác.

Con lên tiếng với thái độ là con ở đây để cho người khác một khung tham chiếu mà họ không đang có bây giờ, xong con để họ hoàn toàn tự do chọn xem họ muốn làm gì với khung tham chiếu này. Con cho họ những gì trước đó họ không có. Con cho họ một nền tảng để họ chọn lựa tốt hơn, chọn lựa cao hơn, chọn lựa nhận biết hơn, nhưng con để yên cho họ chọn như thế nào và chọn những gì. Đây không phải là nhiệm vụ của con trong khuôn khổ Luật Tự quyết. Nhiệm vụ của con là cho họ sự tùy chọn, sự chọn lựa để họ chọn tự do hơn, nhưng sau đó con vẫn cho phép họ chọn bất cứ gì họ muốn. Đó là tại sao điều cốt yếu là con buông bỏ toàn bộ thang điểm tương đối, so sánh của sa nhân về thế nào là toàn hảo và bất toàn, thế nào là đúng và sai cùng toàn bộ tư duy này. Con sẽ tốn một chút thời gian, các thày cũng biết vậy, nhưng điều quan trọng là con bắt tay vào việc để vươn lên tới mức con có thể phát biểu từ một trạng thái nội tâm an bình khi con lên tiếng.

11.4. Phát biểu từ sự an bình nội tâm

Khi con làm vậy, con sẽ hoàn thành hai chuyện: Con sẽ giải phóng người khác để họ tự do phản ứng theo cách họ muốn đối với những gì con nói. Và con sẽ giải phóng chính mình để con tự do phản ứng như con muốn cho dù người ta có chọn lựa thế nào. Con không phiền hà, con không nản lòng. Con không bực tức, con không cảm thấy mình bị chối bỏ khi người ta không tiếp nhận những gì con nói. Kỳ thực con cảm thấy an bình nội tại, niềm vui nội tại là con đã nói nó ra, con đã đem nó ra trước công chúng, con đã đưa nó ra để mọi người sử dụng, và đó chính là mục đích của con. Đó là phần thưởng của con: biết rằng nó đang có mặt trong cõi vật lý và để yên cho mọi người tự do chấp nhận hay bác bỏ.

Con yêu dấu, một số các con có thể cần phải kinh qua một giai đoạn ngừng lên tiếng nếu con đã lên tiếng, để con chỉ nói rất ít. Sứ giả này có mô tả ông cảm nhận như thế nào: ông không còn có quan điểm về bất cứ gì nữa. Dù vậy ông vẫn lên tiếng về đủ loại đề tài, nhưng ông không lên tiếng vì ông có một quan điểm mà ông muốn người ta chứng thực. Đây là điểm con cũng có thể đạt tới, và ở đây thày khuyên con nên xem xét hai điều khi con lên tiếng.    

Một là con có thể chia sẻ những gì con suy nghĩ, những gì con cảm nhận, cách con trải nghiệm vấn đề như thế nào. Con có thể chia sẻ những việc con làm, những việc con chọn làm hay chọn không làm và tại sao như vậy. Con không cố thuyết phục bất cứ ai. Con không bảo ai phải làm gì. Con chỉ đơn giản chia sẻ suy tư của riêng con, cái hiểu của riêng con, ngay cả quá trình đã dẫn con đến cái hiểu đó.

Điều này hoàn toàn khác với việc con đi ra bảo người khác là họ phải nghĩ gì hay tin gì và tìm cách thuyết phục hay cải đạo họ. Con chỉ đơn giản chia sẻ tiến trình của con, và như các thày có nói nhiều lần con yêu dấu, cho dù sa nhân có nghĩ gì, cho dù người khác có nghĩ gì và họ không muốn con làm phiền họ như thế nào, con vẫn có quyền sống trên hành tinh này, con vẫn có quyền biểu đạt bản thân con cùng những kết luận con đã đạt được, những sáng ngộ mà con đã có và quá trình mà con đã kinh qua. Con có quyền chia sẻ những thứ đó.

Nếu điều này làm cho người khác bực bội, con tuyệt đối không cần phải phản ứng lại. Con có thể cho họ tự do chọn cảm thấy như vậy nếu họ muốn, nhưng điều này không ngăn cản con, nó không làm con nản lòng. Đồng thời nó cũng không khiến con khăng khăng muốn thuyết phục họ nhiều hơn. Con không phát biểu với nhu cầu được người khác chứng thực hay đồng ý với con. Cách họ phản ứng lại những gì con nói thật không quan trọng gì với con. Đây là một khía cạnh của việc lên tiếng. Con hãy chia sẻ bản thân con, chia sẻ sáng ngộ của con, tiến trình của con. Hãy chia sẻ cái đó.

Còn cách kia để lên tiếng mà thày đề nghị với con là thay vì con trình bày điều gì là đúng hay sai, là cái này hay cái nọ, con nói về hậu quả của một hành động đặc thù, một quan điểm hay một ý thức hệ hay một hệ tư tưởng đặc thù. Con có thể làm vậy bằng nhiều cách. Chỉ lấy một ví dụ, hôm qua có một người hỏi sứ giả này về vấn đề người nhập cư vào châu Âu, và ông bày tỏ quan điểm đây là hậu quả của việc các nước giàu có ở Âu châu đã không làm đủ. Các nước này đã không sử dụng sự giàu có của mình để trợ giúp người dân châu Phi đạt được mức sống cao hơn ở ngay xứ họ. Cho nên thật sự các biến cố này đang ép buộc các nước giàu phải nhìn ra những gì họ không chịu nhìn thấy, để họ nhận lãnh trách nhiệm mà của cải của họ đã giao phó cho họ. Ông bày tỏ là thật ra tình thế đã bó buộc các nước giàu phải lấy một số chọn lựa. Hoặc họ có thể tiếp tục cho phép người di dân nhập cư với tất cả các hậu quả gây ra cho xã hội họ – họ sẽ làm gì đây với quá nhiều người như vậy? Liệu họ sẽ giam giữ hết trong “trại tập trung” hay họ sẽ tìm cách hội nhập, nhưng làm thế nào hội nhập quá nhiều người như vậy đến từ một nền văn hóa khác lạ? Rõ ràng là hầu hết các nước này sẽ hiểu ra là nếu họ cứ tiếp tục cho phép người di dân vào nước thì họ sẽ khiến cho các hệ thống hiện hữu của họ bị quá tải.

Hoặc vấn đề này sẽ đòi hỏi nhiều nguồn lực hơn hẳn, hoặc có một chọn lựa khác là họ phải tìm cách chặn đứng làn sóng di dân, và ở đây lại có hai chọn lựa. Họ có thể dùng lực lượng hải quân đem tàu vào Địa trung hải đánh chìm bất cứ thuyền bè nào chở người di dân từ Phi châu. Đây là một cách chặn đứng làn sóng, nhưng tất nhiên nó không phù hợp với cách nhìn của hầu hết các nước Âu châu về chính mình. Nếu đây không là một biện pháp khả thi thì đâu là chọn lựa duy nhất còn lại? Đó là xây dựng một cách giải quyết hoàn toàn mới mẻ, là đi đến các nước Phi châu và cải thiện mức sống ở ngay đó hầu người dân không còn muốn bỏ nước ra đi. Không phải là những ai sinh ra ở châu Phi đều có một mong muốn tối thượng và vô độ muốn di dân sang châu Âu. Hầu hết đều thích ở lại châu Phi hơn do họ đã quen với khí hậu nóng ấm, và họ thật không muốn đến sống ở những nước như Đan Mạch chẳng hạn nơi mùa đông thật ảm đạm lạnh lẽo. Họ thà ở lại xứ họ nếu họ có thể có được một mức sống tạm đủ. Đây chính là điều sẽ đòi hỏi các nước Âu châu, ngay cả Liên Âu, có một cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ và dành ra nguồn lực để thực hiện, thay vì như hiện nay chỉ có một chương trình viện trợ nước ngoài mang tính chất vá víu mà chẳng giải quyết được vấn đề.

Trên đây chỉ là một ví dụ về cách con có thể trình bày một vấn đề mà không bảo người khác đúng hay sai, không bảo người khác phải tin gì mà chỉ đơn giản nhìn vào các hậu quả. Đâu là hậu quả của sự việc đang xảy ra? Vì hẳn là ở đây có một tình trạng đang diễn ra. Chúng ta không thể búng ngón tay để làm cho nó biến mất, cho nên chúng ta sẽ đối phó như thế nào? Chúng ta tự nhìn mình như thế nào, và điều này có nghĩa thế nào đối với những chọn lựa mà chúng ta có thể chọn trong thực tế?

11.5. Ki-tô không có quan điểm cố định

Con có thể chuyển cách thức vừa rồi sang nhiều lãnh vực khác của xã hội bởi vì, con yêu dấu, con không nhất thiết – như một sinh thể Ki-tô – phải có một quan điểm cố định về những gì phải xảy ra trong tình thế này. Cái nhìn bao quát của con như một sinh thể Ki-tô ở các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô là con muốn mọi người – mọi người can hệ đến tình trạng này, ngay cả một xã hội hay một dân tộc hay Liên Âu hay Hoa Kỳ hay ai khác nữa – trở nên ý thức hơn để họ có thể có những chọn lựa nhận biết hơn. Và đó là mục đích của con: nâng cao sự nhận biết, chứ không cứ là chế tạo một kết quả vỏ ngoài đặc thù. Kết quả thực sự mà con muốn hòa nhập là việc nâng cao nhận biết. Ở các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con bắt đầu hòa điệu nhiều hơn với các chân sư thăng thiên. Cho nên con sẽ hòa nhập một cách tự nhiên vào mục đích chủ yếu là nâng cao tâm thức, chứ không phải tạo ra một kết quả đặc thù như Saint Germain đã nói mấy lần.

Đó là một số gợi ý rất sáng giá cho một số các con đang ở tầng mức này. Thày hoàn toàn nhận ra đây cũng là một thử thách cho con, vì để bước ra ngoài và lên tiếng mà vẫn an bình, để giải phóng người khác và giải phóng chính con, nó đòi hỏi con phải chữa lành chấn thương nhập đời của con. Nó đòi hỏi con phải khắc phục các ngã tách biệt đó đang cưỡng bách con phải ảnh hưởng người khác. Như các thày đã nói mấy lần, con cần khắc phục cơ chế muốn thay đổi người khác để cảm thấy dễ chịu hơn về bản thân, hay để tránh cảm giác tiêu cực khi, nói chung, con muốn thay đổi người khác để con không phải thay đổi chính con.

Một lần nữa con yêu dấu, tại sao các thày đã không cho con những lời dạy này mười năm về trước? Bởi vì vào lúc đó, các thày chưa cho con các dụng cụ để con có thể thực hành lời dạy. Giờ đây các thày đã cho con các dụng cụ và đó là tại sao các thày cũng cho con lời dạy. Một lần nữa, các thày đã phải làm việc một cách tuần tự. Các thày làm vậy vì nhiều lý do và như các thày có giảng, các thày rất vui mừng có được một số lượng không phán xét trong các con đã vươn lên đến mức sẵn lòng tiếp nhận lời dạy, suy ngẫm lời dạy, học sách, áp dụng các kỹ thuật và thực sự bỏ ra nỗ lực mà nhiều các con đã bỏ ra để chữa lành chấn thương nhập đời đó.

Hãy đừng nản lòng nếu con chưa hàn gắn được chấn thương nhập đời vũ trụ của con. Đừng bị nản lòng nếu con vẫn còn ngã tách biệt khởi lên trong con. Sứ giả này đã làm việc trên tâm lý mình nhiều hơn hầu hết mọi người suốt 40 năm trời và ông đã khắc phục được chấn thương nhập đời của ông, nhưng ông vẫn có ngã tách biệt khởi lên. Lẽ tự nhiên nếu con đã sống nhiều, rất nhiều kiếp trên trái đất này, đã có rất nhiều trải nghiệm khó khăn trong nhiều kiếp, thì con đã tạo ra nhiều ngã tách biệt và con sẽ cần thời gian để giải quyết lần lần cho hết. Vậy có sao đâu, con yêu dấu?

11.6. Con được phép không lên tiếng

Điều thày sẽ làm bây giờ với bài truyền đọc này là thày cho phép con bỏ qua một bên bất kỳ cảm giác cưỡng bách nào là con phải lên tiếng. Thày cho phép con, nếu con muốn, bước lui lại và nói: “Tôi sẽ ngừng lên tiếng một thời gian. Tôi sẽ ngậm miệng lại, vứt bàn phím máy tính đi và không lên tiếng. Tôi cho phép mình không phát biểu, mà thay vào đó tôi tập trung vào bên trong để giải quyết chấn thương nhập đời cùng các ngã tách biệt đã cưỡng bách tôi phải nói ra, đã cho tôi nhu cầu phải thuyết phục người khác, đã khiến tôi muốn được chứng thực, muốn được công nhận, muốn tạo ra một cảm giác bên trong hay muốn né tránh một cảm xúc tiêu cực.”

Thày làm điều này vì thày muốn con có một chút nghỉ ngơi để con có thể chữa lành và khắc phục khuôn nếp mà một số các con đã xây dựng, qua đó con đã phần nào xung đột hay ít ra có mối quan hệ đối nghịch với nhiều người khác. Con yêu dấu, thật không cần thiết con phải đi ra khích bác mọi người để bày tỏ quả vị Ki-tô của con. Nếu con nhìn quanh thế giới, con có thể thấy rất nhiều người ở ngoài kia đang lên tiếng một cách đối nghịch, khiêu khích, hung hãn – rất nhiều người như vậy.

Nếu con cứ tiếp tục làm cùng một chuyện và mong đợi là kết quả sẽ khác đi thì con điên rồi đó. Đã có rất nhiều người lên tiếng kiểu này từ rất lâu nay. Chúng ta cần khác hơn. Chúng ta cần một tiếng nói khác. Chúng ta cần những người có khả năng phát biểu một cách khác, như thày vừa vạch ra, bằng cách chia sẻ chính bản thân của mình và trình bày các hậu quả. Nhưng vượt khỏi cả những thứ đó, chúng ta cần những cách lên tiếng khác, chẳng hạn khi con trình bày về một tầm nhìn cao hơn. Thay vì tạo ra cảm tưởng: “Đây là sự thật duy nhất, đây là những gì bạn phải tin, nếu không thì bạn ngu lắm,” thì con có thể nói: “Nhưng giả sử có một cách khác để nhìn sự việc này thì sao? Nếu như có một góc cạnh khác về vấn đề này thì sao? Thế còn điều kia, và thêm điều kia, và điều kia nữa thì sao?”

Đây có thể là một điều quá mới mẻ, quá khác lạ, quá hiếm khi áp dụng, đến độ người ta sẽ ngạc nhiên và bất chợt người ta sẽ nói: “Ừ nhỉ, đây là một điểm chúng ta chưa bao giờ nghe nói tới. Chúng ta lắng nghe xem.” Kỳ thực nó có thể đem vào hiện thực điều mà các thày đã có đề cập về nước Mỹ là các thày mong muốn thay đổi toàn bộ diễn ngôn công cộng, không những ở Mỹ mà ở mọi quốc gia. Chúng ta vứt bỏ kiểu tranh luận công cộng do các nhà báo đề xướng, qua đó họ luôn luôn mang sẵn hậu ý muốn mô tả sự việc theo một cách mặc dù họ tuyên bố là họ khách quan. Hoặc theo kiểu các nhà chính trị bị kẹt trong trò chơi đảng phái muốn đảng mình là đảng vượt trội, đến độ họ không thể hợp tác trong bất cứ chuyện gì.

Toàn bộ lối suy nghĩ đen trắng nhị nguyên này từng chi phối diễn ngôn công cộng từ quá lâu nay, các thày mong muốn nhìn thấy nó được thay thế bởi một tiếng nói khác. Thẳng thắn mà nói, nếu chính các con không thể đưa ra tiếng nói khác biệt này thì ai đây sẽ có thể? Để lên tiếng với một tiếng nói khác, con phải khắc phục những ngã tách biệt kia, và các con đây là những người trên toàn hành tinh này đang đến gần nhất với mục tiêu đó. Thày không đang nói vậy để áp lực con mà để cho con một lượng định thực tế. Một số các con khi nghe hay đọc câu nói này của thày sẽ biết liền: “Phải, đây chính là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi. Thật ra đây là điều tôi mong muốn. Tôi không bao giờ muốn lên tiếng theo cách tôi đã từng làm, cách này luôn luôn cho tôi một phản ứng tiêu cực. Tôi đã muốn tìm một tiếng nói khác để lên tiếng và giờ đây tôi bắt đầu nhìn ra. Chắc chắn tôi sẽ làm việc trên bản thân mình cho đến khi tôi tìm được tiếng nói nội tâm của tôi, tiếng nói đích thực của tôi. Và khi tôi tìm thấy, tôi sẽ lên tiếng. Tôi nhất định sẽ lên tiếng.”   

Với lời này, con yêu dấu, thày cảm ơn con đã dành sự chú ý, đã hiện diện ở đây hay trên làn sóng trực tuyến. Thày cảm ơn tất cả những ai đã đón nhận các lời dạy mới từ quyển sách Các kiếp của tôi trở đi và đã sẵn lòng đem ra áp dụng. Thày biết là nhiều người trong các con đã nghiệm thấy những tiến bộ to lớn. Một số các con còn bày tỏ là ngày hôm nay con không thể nào tin được mình đã đổi khác đến chừng nào so với một năm trước. Đây là niềm vui lớn nhất của các thày: nhìn thấy học trò của mình đón nhận giáo lý và sử dụng để vươn lên cao hơn, qua đó con cảm thấy mình có tiến bộ, mình có an bình. Sự kiện một số người đã ngộ đạt như vậy trong vòng một năm có nghĩa là tất cả các con cũng đều có thể làm được trong một thời gian vừa phải. Không có một người nào ở đây, không có một người nào đã đón nhận các lời dạy này mà không mang tiềm năng đạt được trạng thái an bình đó trong một thời gian tương đối ngắn – ngắn hơn rất, rất nhiều so với thời gian con đã bước chân trên đường tu tâm linh, ít ra đối với những ai đã bước chân được vài năm.

Lẽ tự nhiên, nếu con chỉ mới nhập cuộc vào tuần rồi thì sẽ không hẳn là như vậy. Dẫu sao thì con yêu dấu, các thày vô cùng phấn khích – nếu chúng ta có thể dùng từ này cho một chân sư thăng thiên không thể nào nản chí. Các thày rất vui mừng nhìn thấy tiến bộ mà tất cả các con đã có. Mặc dù một số các con có thể cảm thấy mình tiến bộ chưa đủ, nhưng thày có thể cam đoan với con là con đã có tiến bộ, và bước đột phá mà con đang tiến đến, nó gần hơn là con tưởng. Với lời này, con hãy nhận sự biết ơn của thày. Con hãy nhận Ngọn lửa Vui mừng của thày, vì thật là một niềm vui cho thày được tương tác với các con theo cách này, được trải nghiệm các con, con yêu dấu. Trải nghiệm chính các con.

Đây là niềm vui lớn cho thày. Thày sẽ nói là tất nhiên con không nên nghĩ là khi thày phát biểu qua trung gian một người sứ giả, đây là thời điểm duy nhất thày có thể trải nghiệm con. Thày có thể trải nghiệm con bất cứ lúc nào nhưng thày luôn luôn tôn trọng quyền tự quyết. Nếu con lấy nội dung bài thỉnh này cùng với bài truyền đọc trước về cách vận hành của con – mong muốn trốn tránh các chân sư – thì tất nhiên là thày sẽ tôn trọng. Kỳ thực, một số các con có thể được trợ giúp bằng cách quyết định mời thày đến trải nghiệm con. Có thể con sẽ chỉ cần, một lúc nào đó khi con yên lặng, nhắm mắt lại, trụ vào tim và nói: “Giê-su, con mời thày đến trải nghiệm con.” Có lẽ khi làm vậy, con sẽ có thể trải nghiệm được thày và thày nghĩ việc này sẽ làm con vui.

9 | Đã đến lúc con biểu lộ quả vị Ki-tô

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 22 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su, và thày tới đây hôm nay để trao truyền một phần nữa của những bài giảng mà thày dự định trao truyền trong hội nghị này chung quanh đề tài làm sao là Ki-tô Hằng sống đang hành động. Giờ đây thì các con đã nhận được một bài giảng tuyệt vời và đa diện của Chân sư MORE sớm ngày hôm nay. Bài giảng đó quả thực có nhiều lớp, nhiều tầng cấp để các con suy ngẫm. Con thực sự có thể nói là bài giảng đó diễn tả đầy đủ con đường tâm linh. Nếu con thể nhập hoàn toàn mọi khía cạnh của bài giảng đó, thì câu hỏi là con có cần gì thêm nữa chăng.

9.1. Là Ki-tô mà không cuồng tín

Tất nhiên, vì Chân sư MORE là người trao truyền bài giảng, thì có thêm nữa có thể được trao truyền. Lẽ tự nhiên, giáo lý về ngã gốc cốt yếu cho việc là Ki-tô hành động. Con hãy hình dung một nhóm chiến sĩ Cơ đốc giáo tham dự Thập tự chinh đang ngồi trên yên ngựa bên ngoài một ngôi làng ở miền Trung đông. Họ đặt tâm vào trạng thái hỗn loạn và hầu như đồng thanh hét lên: “Đây là ý muốn Thượng đế!” Sau đó, họ rút kiếm, phi ngựa vào ngôi làng và giết đàn ông, phụ nữ và trẻ em, tin rằng họ làm việc này nhân danh Ki-tô và để phục vụ Ki-tô. Họ có phải là Ki-tô hành động không? À, lẽ dĩ nhiên các con biết là không. Tuy nhiên con cần tự hỏi: “Làm sao tôi có thể là Ki-tô hành động mà không đi vào trạng thái tâm bất quân bằng vì quá hăng hái, quá nhiệt thành, gần như là cuồng tín?”

Chân sư MORE có nói đến các đợt truyền giáo lý chân sư thăng thiên trước, và các đệ tử đã phản ứng như thế nào trong các tổ chức đó. Các thày đã thấy nhiều đệ tử trở nên quá nhiệt thành, quá bất quân bằng trong nhiệt tâm muốn làm một cái gì, khiến họ đã bước ra hành động một cách bất quân bằng, khác cách hành xử của Ki-tô hành động, tuy rằng một số các đệ tử này tin chắc là họ đang biểu lộ quả vị Ki-tô.

Lẽ tất nhiên các thày đã trao cho con chìa khóa cốt yếu để tránh phản ứng đó. Đó là con cần khắc phục ngã gốc và các ngã khác được tạo ra sau ngã gốc. Cái ngã nhất định cần an toàn, lẽ dĩ nhiên, có thể khiến con trở nên cuồng tín. Một khi con đã xây dựng ý niệm an toàn dựa trên một hệ thống hay niềm tin vỏ ngoài nào đó, thì con không muốn mất đi sự an toàn đó. Do đó, con trở nên cuồng tín chống trả tất cả những gì con nghĩ đang đe dọa ý niệm an toàn đó. 

Quả thật con cũng có thể có một ngã nữa, như các thày đã giảng, quan tâm không muốn bị sai, không muốn bị chứng tỏ là mình sai, muốn mình không bao giờ sai. Vì sa nhân cho con cảm tưởng là con sai trong kiếp đầu thai đầu, nên ngã đó lúc nào cũng muốn làm đúng. Một khi nó đã tự thuyết phục chính nó là nó đã làm đúng hay đang làm đúng, thì nó rất, rất ngần ngại xem xét mình có thể bị sai chăng.

9.2. Người tốt khó cứu rỗi nhất

Con yêu dấu, hai ngàn năm trước đây, thày có một lời tuyên bố khá bí hiểm là một tội đồ dễ được cứu rỗi hơn là một phú ông được vào thiên đàng. Lẽ tất nhiên, khi thày nói “phú ông” thì thày không nhất thiết chỉ một người có tiền của, nhưng là một người cảm thấy mình đã làm nhiều điều thiện. Điều nghịch lý mà ta có thể thấy nơi đạo Cơ đốc, các tôn giáo khác hay ngay cả giáo lý chân sư thăng thiên, là đôi khi những người rất, rất khó giúp nhất là những người hoàn toàn tin chắc họ là người tốt và đã làm nhiều điều tốt.

Con hãy nhớ lại lời Chân sư MORE nói về các đệ tử tin chắc là họ xứng đáng được một địa vị trong tổ chức tâm linh vì họ đã lâu năm tham gia tổ chức và chuyên cần theo đúng những thực tập vỏ ngoài và làm đúng mọi chỉ thị. Con có thể thấy một thí dụ, nhưng con cũng có thể vào các giáo đoàn Cơ đốc giáo và thấy những người suốt đời tin chắc là họ đang làm việc thiện theo đúng tinh thần Cơ đốc giáo, họ đang theo lời răn của Ki-tô hãy thương yêu người láng giềng, hãy cư xử tốt với mọi người, hãy tham gia vào công việc từ thiện. Có nhiều vị linh mục Cơ đốc giáo, và nhiều tín đồ không phải là linh mục nhưng đã tham gia vào việc từ thiện theo đúng tinh thần Cơ đốc giáo, cho rằng vì họ đã phụng sự, đã cư xử tốt và suốt đời làm nhiều điều tốt, nên họ bảo đảm sẽ được cứu rỗi trên căn bản những hành động vỏ ngoài đó.

Lẽ tất nhiên, thày có tuyên bố một số câu có thể được diễn giải để mở khóa hiểu biết là điều này không đúng. Vương quốc của Thượng đế ở bên trong ta. Cái gì ở bên trong ta? Đó là tâm hồn của con. Ấy, nếu con không giải quyết tâm lý, khắc phục tất cả các ngã, thì làm sao con vào được vương quốc? Con thấy chăng, điều này, một lần nữa, dính liền với bài giảng của Chân sư MORE về sự tha hóa của đạo Cơ đốc đã tạo ra con đường vỏ ngoài, giấc mơ được cứu rỗi một cách tự động và bảo đảm. Nhiều tín đồ Cơ đốc giáo theo con đường vỏ ngoài này vì họ không có gì khác và hoàn toàn tin tưởng rằng một khi họ làm tất cả những điều vỏ ngoài đó thì họ đương nhiên sẽ được vào vương quốc sau kiếp sống này.

Đây không phải là mối quan tâm chính của bài giảng này của thày, thày chỉ nêu ra như một ví dụ. Mối quan tâm chính của thày, lẽ tất nhiên, là các đệ tử chân sư thăng thiên. Con cần nhận ra ở đây là một số các con, khi con gánh chịu chấn thương nhập đời hay các biến cố tạo nên chấn thương đó, thì sa nhân đã khiến con cảm thấy là con đã làm điều gì sai, hay con đã sai lầm khi có mặt trên trái đất, con đã sai lầm khi tới đây.

9.3. Không muốn bị sai

Chuyện luôn luôn xảy ra là sa nhân đã khiến con cảm thấy là con đã làm một việc gì rất sai trên trái đất đến độ con không bao giờ có thể chuộc lại lỗi đó. Như các thày có giảng, một khía cạnh của ngã gốc là con quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm chuyện này nữa.” Con làm gì lúc đó? Con tạo ra một ngã tách biệt, được lập trình để con chắc chắn không bao giờ bị chứng minh là mình sai. 

Con yêu dấu, con đã làm gì sau đó? Qua nhiều kiếp sống, con đã xây dựng động lượng làm những chuyện mà con cho là đúng, bằng cách lúc nào cũng làm chuyện được quy định là đúng bởi nền văn hóa, bởi tôn giáo của con bằng cách làm việc từ thiện, giúp đỡ người khác, vân vân và vân vân. Lẽ tất nhiên, dựa trên con đường vỏ ngoài của đạo Cơ đốc, một số các con có động lượng từ các kiếp trước tin rằng nếu con làm các chuyện vỏ ngoài đó, nếu con phụng sự như vậy, thì con chắc chắn hội đủ điều kiện để thăng thiên.

Các thày đã nói đi nói lại điều gì? Khi con đứng trước cổng vào thiên đàng, nếu con muốn dùng hình ảnh đó (và các thày biết con cần một hình ảnh, nhưng đó chỉ là một hình ảnh) thì con đứng trước cổng vào cõi thăng thiên và con phải chọn lựa đi qua cổng đó. Con phải lấy một chọn lựa và đó phải là một chọn lựa tự do, con yêu dấu. Làm sao con, cái Ta Biết, lấy một chọn lựa tự do? Con chỉ làm được khi con không còn bất cứ ngã nào tô màu viễn quan của con. Cái ngã được lập trình để khiến con cảm thấy mình không bao giờ sai vì đã luôn luôn làm điều tốt, nó đang ngăn cản con thăng thiên – nếu con không buông bỏ được nó. Con không thể thăng thiên nếu con không buông bỏ nó, và con không thể buông bỏ nó nếu con chưa nhìn thấy nó. Lẽ tất nhiên, con không thể nhìn thấy nó nếu con quá sợ thấy điều gì sai trong con người mình. 

Con yêu dấu, con thấy chăng là các thày đã trao truyền giáo lý là các thày thương yêu con vô điều kiện. Các thày chấp nhận con vô điều kiện, nhưng nếu con còn cái ngã không bao giờ muốn bị chứng minh nó sai, thì con không thể thực sự chấp nhận tình thương và sự chấp nhận của các thày. Con sẽ luôn luôn sợ mình sai, cảm giác là có một số điều kiện sẽ khiến con bị sai, ngay cả ý niệm là con có thể sai. Con không thể thăng vượt ý niệm đó nếu con vẫn còn cái ngã đó, vì ngã đó không thể chất vấn lập trình cơ bản, ảo tưởng cơ bản đã tạo ra nó.

Cái ngã không thể chất vấn lập trình đó. Khi con còn nhìn mình xuyên qua phin lọc của ngã đó thì con cũng không thể chất vấn lập trình đó. Con, như cái Ta Biết, có thể bước ra ngoài ngã và thày trao truyền giáo lý đặc trưng này để giúp cái Ta Biết bước ra ngoài ngã đó và nhận ra có hai điều ngăn cản con thăng thiên. Một là con ở trong trạng thái tâm rất tiêu cực, vị kỷ, ích kỷ, lúc nào cũng đấu tranh với người khác, làm bất cứ điều gì con muốn mà không màng hậu quả. Nói cách khác con là một người mà một số các con gọi là người xấu. Có một điều khác ngăn cản con bước vào thiên đàng, đó là con là một người mà một số các con coi là người tốt, con muốn giữ hình ảnh đó đến độ con không chịu chất vấn là trong con có thể có cái gì không “đúng”, theo nghĩa nó không cho phép con bước vào trạng thái thăng thiên.

Khi con nhìn mình xuyên qua ngã đó thì con nghĩ là nếu trong con có cái gì không đúng, thì nó chắc hẳn phải sai. Tức là điều này phải có nghĩa là con sai, và do đó con không thể nhìn nó. Điều duy nhất có thể phá bế tắc là cái Ta Biết bằng cách nào đó được cảm hứng, được thúc đẩy để bước ra ngoài ngã đó và thấy nó chỉ là một cái ngã. Nó chỉ là một cái ngã, và chỉ có ngã đó tin rằng con sẽ tự động vào thiên đàng khi con làm các việc tốt. Nó chỉ là một cái ngã, và như tất cả các ngã, nó dựa trên một ảo tưởng. Khi con, cái Ta Biết, nhận ra điều này, thì con nhận ra là ngã đó không phải là con. Con nhận ra là con không thể mang ngã đó theo con vào cõi thăng thiên.

Vì sao con không thể mang nó theo con vào cõi thăng thiên? Vì con không mang nó theo con khi con xuống trần thế. Không ai có thể trở về thiên đàng trừ những ai đã xuống từ thiên đàng. Không có ngã nào – không có ai – có thể trở về thiên đàng trừ cái ta đã đi xuống từ Hiện diện TA LÀ. Chuyện thật giản dị như vậy đó. Đó chỉ là một cái ngã, nhưng thày cần con nhận ra là người tốt, nghĩ mình tốt và đã luôn luôn tốt, có thể là một trở ngại cho việc thăng thiên. Nó chỉ là một ngã khác mà con cần buông bỏ. Nếu con còn muốn làm điều tốt dựa trên ngã đó, thì con không thể là Ki-tô hành động. Vì con đang muốn làm điều tốt để tránh không bị chứng minh mình sai. Nói cách khác, hành động của con có tính chất vị kỷ. Hành động của con trụ chung quanh ngã thấp đó, không phải chung quanh cái ta thật của con. Nó là động cơ thúc đẩy con hành động, không phải là quả vị Ki-tô, không phải là tâm thức Ki-tô.

9.4. Con đã là Ki-tô hành động

Điều này đã được nói ra, và thày muốn đi sang phần khác. Thày nhận ra, như Chân sư MORE có nói, là mỗi khi các thày trao truyền một giáo lý, thì có nhiều người trong các con ngồi nghe, tìm hiểu giáo lý nhưng vẫn có cảm giác có một khoảng cách. Các thày đã trao truyền dụng cụ để con khắc phục ngã gốc và các ngã khác, và khi con làm xong thì khoảng cách sẽ biến mất. Nhưng thày vẫn muốn đưa thêm vài nhận xét ở đây, vì thày muốn con nhận ra là tất cả các con đã là Ki-tô hành động ở một mức nào đó, và đa số các con đã là Ki-tô hành động trong kiếp sống này. Chỉ là con không ý thức điều này, và con không phải lúc nào cũng là Ki-tô hành động. Con đã là Ki-tô hành động một số lần, có thể là với một số các con chỉ xảy ra một ít lần, nhưng tất cả các con đã từng là Ki-tô hành động. 

Điều này lại liên quan đến một khía cạnh khác của đạo Cơ đốc giả, đó là sự sùng bái vĩ đại được dựng lên chung quanh con người thày. Giê-su được đặt lên trên bệ cao như người Con của Thượng đế, một người sinh ra đã toàn hảo, vân vân và vân vân. Một con quái vật rất dũng mãnh đã được tạo ra trong tâm thức tập thể cho rằng muốn là Ki-tô thì con hầu như phải toàn hảo. 

Một số các con cũng đã tạo ra ngã đó, một ngã tương tự. Đúng thực là đa số các con phần nào có ý tưởng là con chỉ có thể được cứu rỗi, vào thiên đàng hay thăng thiên khi con đạt được tiêu chuẩn gần như siêu nhân đó. Do đó, con cảm thấy là khi con chưa hội đủ chuẩn mực đó, hay con không hội đủ tiêu chuẩn trong mọi lúc, thì con không thể là Ki-tô.

Ý niệm nguyên thủy về Ki-tô là gì? Ý nghĩa việc Ki-tô đầu thai, nhập vào xác thịt là gì? Nó có nghĩa là tâm thức Ki-tô có thể được biểu đạt xuyên qua một cỗ xe chưa hoàn toàn sạch những ngã tách biệt đó.

Như các thày đã giảng, cái Ta Biết có khả năng bước ra ngoài ý niệm bản ngã hiện tại của con. Khi điều đó xảy ra thì con là cánh cửa mở để tâm thức Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con, để tâm thức Ki-tô tự biểu lộ xuyên qua con. Như thày có nói: “Tự ta không làm được gì, đó là cha ta (Hiện diện TA LÀ, Thánh linh) làm việc.” Nó làm việc khi con có cửa mở trong tâm thức của mình.

Như các thày có giảng, con không thể ép việc này xảy ra. Con thực sự không thể làm gì. Con không thể tạo ra một con đường máy móc tự động dẫn con tới điểm con là cánh cửa mở. Con không cần ép nó xảy ra, con chỉ cần ngưng không ép nó không xảy ra. Sự thực là nó mưa xuống cả người công chính lẫn người bất chính. Tánh linh lúc nào cũng tuôn xuống từ Trên cao. Như thày có nói: “Ta sẽ xin Cha ta và ngài sẽ gửi các con một đấng an ủi khác.” Khi thày thăng thiên, một phần động lượng của thày, Tánh linh của thày, được rải truyền xuống trái đất và nó vẫn tuôn xuống trong suốt hai ngàn năm qua. Con không cần hội đủ điều kiện nào để nhận nó, con cũng không thể ép nó tuôn qua con.

Tánh linh lúc nào cũng rải xuống. Con chỉ cần có cửa mở trong bốn thể phàm để Tánh linh có thể tuôn vào. Tất cả các con đã có lúc thoáng nhận, vì lý do nào đó, ngã vỏ ngoài được gạt qua bên, cái Ta Biết bước ra ngoài trạng thái tâm bình thường của nó, trạng thái đồng hóa với một ngã vỏ ngoài bình thường của nó, và bỗng nhiên có một cái gì khác tuôn vào. Cái “gì khác” đó, lẽ tất nhiên, là ý nghĩa thế nào là Ki-tô hành động. Đó là lúc con là cánh cửa mở biểu hiện cái gì vượt quá trạng thái nhận biết bình thường của đa số con người. Đa số con người chưa bao giờ trải nghiệm cái gì khác, cái gì cao hơn trạng thái nhận biết bình thường. Thày nói các con trao tặng người khác món quà của sự chấp nhận, nhưng con cũng có thể trao tặng người khác bất cứ trải nghiệm nào vượt quá trạng thái tâm thức bình thường của họ. Đó là biểu đạt Ki-tô, đó là Ki-tô hành động.

9.5. Vượt lên trên hình ảnh cố định về Ki-tô

Việc đó có nhiều hình thức, con yêu dấu, và chìa khóa là mở tâm, là dụng cụ để tâm thức Ki-tô biểu hiện, đó cũng là không chờ mong và không có định kiến là Ki-tô phải biểu hiện hay không được biểu hiện như thế nào. Các thày đã trao cho các con khái niệm là thày đã làm việc đó bằng nhiều cách. Thày đã trao cho một người một ly nước lạnh vì đó là gì người đó cần lúc đó, nhưng thày cũng trao cho người đó cảm giác y được chấp nhận, và đó là điều mà người ấy trước đó chưa từng có, và đó là phần phụ trội vượt quá ly nước.

Có quá nhiều đệ tử tâm linh, và đặc biệt là đệ tử chân sư thăng thiên, đã dùng giáo lý các thày để củng cố một ngã vỏ ngoài là một hậu duệ của ngã gốc. Họ đã tạo ra một hình ảnh rất, rất, rất cố định về thế nào là Ki-tô hành động cho riêng họ cũng như là thày khi thày hiện thân trên thế gian. Nhiều người trong họ sẽ sững sờ nếu họ gặp thày khi thày hiện thân. Niềm tin của nhiều người sẽ bị lung lay, như niềm tin của nhiều Ki-tô-hữu bị lung lay nếu họ thấy thày như thày thực sự là lúc đó.

Điều con có thể làm được, là dùng cái Ta Biết để nhìn tâm mình và thấy các định kiến và chờ đợi Ki-tô phải như thế nào và không được như thế nào. Con thấy trong kinh điển là có những người đã bài bác thày vì thày uống rượu, vì thày sinh ra ở Nazareth, vì thày đã làm chuyện này chuyện kia. Có những người đã bài bác thày vì hình dạng của thày, cách thày phục sức, cách thày cư xử, cách thày phát biểu.

Con yêu dấu, lúc nào cũng sẽ có người tìm thấy lỗi nơi người sứ giả, người đại diện Ki-tô. Điều này tất nhiên bắt nguồn từ sa nhân luôn luôn phán xét Ki-tô Hằng sống. Chính sa nhân và thái độ của họ đã tạo ra thái độ rất phán xét mà con tìm thấy nơi nhiều tổ chức tâm linh, kể cả, lẽ tất nhiên, các tổ chức mà Chân sư MORE đã phơi bày trong bài giảng trước. Con cần trung thực nhìn xem con có một ngã có ý phán xét Ki-tô Hằng sống phải như thế nào, vì đó sẽ là một trong những lý do vi tế nhưng hữu hiệu nhất để đóng cửa không cho Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con. Nếu con cảm thấy là cách Thánh linh biểu hiện phải tuân theo chuẩn mực của con, chuẩn mực mà con có trong ngã đó, thì Thánh linh sẽ không thể tuôn chảy. Thánh linh thổi nơi muốn, không phải nơi con muốn, không phải nơi ngã vỏ ngoài muốn và chắc chắn là không phải nơi sa nhân muốn nó tuôn chảy – vì sa nhân không muốn Thánh linh tuôn chảy gì hết.

Điều bí ẩn đơn giản là con có thể nói là sa nhân không muốn Thánh linh tuôn chảy và phần lớn họ đã thành công trong việc này. Vì sao Thánh linh không làm gì để cải sửa việc này, như một câu hỏi đã nêu lên hôm nay? “Vì sao Thượng đế không thay đổi kế hoạch của ngài để thuận theo ý kiến của tôi về vũ trụ?” Đó là cốt yếu của tâm thức sa ngã: “Vì sao Thượng đế không thay đổi để tôi không phải thay đổi?” Con có thể nói là Thánh linh đáng lẽ phải làm điều gì để giải tỏa tình trạng bế tắc mà sa nhân đã đặt hành tinh này vào.

Thánh linh tôn trọng quyền tự quyết, và do đó con có thể nói là câu: “Thánh linh thổi nơi nó muốn” không nói lên một hiểu biết đầy đủ. Câu này được đưa ra để cho thấy là Thánh linh không tuôn chảy theo ý kiến, chờ mong và chuẩn mực của con người. Mặt khác, như thày vừa giảng, Thánh linh luôn luôn tuôn chảy, vấn đề chỉ là khi không có khe mở thì nó không thể biểu đạt trong bát cung vật lý, và đúng thực là ngay cả trong cả ba bát cung trên cũng vậy.

Đó là lý do vì sao Thánh linh chờ dịp một người mở cửa để nó tuôn chảy. Khi cửa được mở thì dòng chảy có mặt. Các thày đã trao cho các con nhiều ý tưởng, nhiều dụng cụ, và khi con phối hợp với các dụng cụ về chấn thương nhập đời và ngã gốc, thì con sẽ có thể tiến bộ rất, rất đáng kể. Con có thể tới điểm con bắt đầu là cánh cửa mở rộng hơn và con không cảm thấy bắt buộc phải biểu lộ quả vị Ki-tô. Con không cảm thấy bị bắt buộc làm điều này, con không sợ làm điều này, con không quan tâm về điều này. Con chỉ đơn giản để nó xảy ra và con nhận ra là khi con để nó xảy ra, khi con ở trong trạng thái tâm trung hòa, thì không những dòng chảy sẽ có mặt mà thêm nữa con không có các quan tâm là con có đang làm đúng hay không, làm như vậy có được không, hay có tốt đủ không.

9.6. Phân tích mình một cách quá đáng

Giờ đây, lúc khởi đầu con quả thực có thể thấy một số quan tâm khởi lên, và nhiều người trong các con đã có kinh nghiệm này. Con đứng trước một hoàn cảnh, và con cảm thấy có một dòng chảy khác thường xuyên qua con, khác với tâm thức bình thường của con. Sau đó, con phân tích và lượng định: “Tôi làm như vậy có được chăng? Đó có phải là biểu lộ cao nhất của Ki-tô chăng? Đó có thật là Ki-tô chăng? Tôi có nên không hành động như vậy chăng? Tôi có nên không nói điều đó chăng?”

Con cần phải sẵn sàng nhận ra là khi con bắt đầu dám biểu lộ mình nhiều hơn, thì con sẽ có những thách đố tương tự khởi lên sau đó. Lúc đó, con dùng điều đó như một cơ hội để nhận ra là có một ngã vỏ ngoài khác đang tạo phản ứng đó nơi con. Và con dùng công thức: nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó và để nó chết đi – con để nó chết đi, con yêu dấu.

Con thấy chăng, khi con tới điểm con bắt đầu mở tâm hơn để đón nhận dòng chảy của Ki-tô, thì tất cả các mối quan tâm con có đang làm đúng hay không sẽ tan biến đi. Con sẽ tới điểm con nhận ra rằng: “Chuyện đã xảy ra như nó đã xảy ra.”  

9.7. Không có biểu đạt Ki-tô tối hậu

Có một bước quan trọng trước khi con tới điểm đó, đó là con nhận ra là không thể có biểu hiện Ki-tô tối hậu và tuyệt đối, vì lý do giản dị là trái đất là một hành tinh phi tự nhiên. Một biểu hiện của Ki-tô lúc nào cũng xảy ra trong một tình huống cá biệt. Nó được biểu lộ cho con người ở một tầng tâm thức nào đó. Con yêu dấu, nó không có mục đích nâng con người lên tầng tâm thức cao nhất, nó chỉ có mục đích nâng con người lên tầng tâm thức kế tiếp. 

Vậy điều này nghĩa là gì? Điều này có nghĩa là khi con có bất cứ biểu lộ Ki-tô nào trên thế giới, thì tâm phản-Ki-tô có thể xem nó, phân tích nó và tìm thấy lỗi nơi nó. Đó là điều mà Chân sư MORE đã giảng sáng nay, là có một số đệ tử đã đi vào tâm thái phán xét, thực sự có nghĩa là họ đã dùng tâm phản-Ki-tô để tìm lỗi. Con có thể thấy là một số câu hỏi nêu lên chiều hôm nay được đặt với tầng tâm thức thực sự muốn tìm lỗi nơi giáo lý hay vị thày. Lẽ tất nhiên, đây là điều tâm phản-Ki-tô lúc nào cũng làm.

Con cần nhận ra ở đây là ngoài các ngã của con, mà con mang trong bốn thể phàm, còn có động lượng ở cấp hành tinh của phản-Ki-tô lúc nào cũng tìm cách xen vào và thách thức mọi biểu hiện của Ki-tô, tìm cách hạ thấp nó. Nó có hai mục đích. Con có một người đang là cánh cửa mở để Ki-tô biểu lộ và con có một hay nhiều người đang tiếp nhận sự biểu lộ đó. Các lực phản-Ki-tô, tâm phản-Ki-tô, muốn gieo nghi ngờ vào tâm những người đang nhận món quà để họ bắt đầu nghi ngờ và ngay cả bác bỏ nó. Nó muốn gieo nghi ngờ vào tâm người đang là cánh cửa mở và đang trao món quà để người đó nghi ngờ khả năng làm dụng cụ của Ki-tô trong tương lai, và do đó có thể dần dần quyết định khóa tâm lại hay áp đặt một chuẩn mực vỏ ngoài lên Ki-tô.

Con cần giản dị nhận ra là lực phản-Ki-tô này tất nhiên có khả năng phóng đại hay sử dụng bất cứ ngã nào mà con có. Con thực sự cần nhận ra là dù con đã khắc phục được các ngã trong bốn thể phàm của con, lực này vẫn có thể phóng chiếu tới con từ bên ngoài. Con chỉ cần nhận ra lực này, và biết nó có mặt. Nó sẽ luôn luôn phóng chiếu vào con.

Sau đó, con cần nhận ra là con không cần làm gì cả. Con không cần tự bảo vệ mình. Con không cần tìm cách phản bác nó. Con không cần tìm cách trả lời các câu hỏi được nêu lên từ trạng thái tâm này, vì, như thày có giảng, các câu hỏi này không bao giờ có giải đáp. Nếu con tìm cách trả lời một câu hỏi, thì bảy câu hỏi khác sẽ bật ra. Con chỉ cần nhận biết là lực đó có mặt, nhận ra nó như nó là và để nó đi xuyên qua con. Khi con chưa hóa giải các ngã thì nó sẽ không đi xuyên qua con mà sẽ chạm một trong các ngã đó và phóng đại nó lên. Khi con đã hóa giải các ngã thì con chỉ để nó đi xuyên qua con. Như thày có nói: “Chuyện ấy quan hệ gì tới con, con hãy theo thày.” Lúc ban đầu, con sẽ được trợ giúp nếu con quay về hướng thày và thực sự hình dung là con để cho nó đi xuyên qua con và chú tâm vào thày. Con còn không chú ý tới nó nữa.

Giờ đây, tất nhiên đây là một thăng bằng tế nhị vì tự ngã của con muốn nghĩ là nó không thể sai lầm và do đó con không bao giờ cần chú ý đến các lời chỉ trích. Đôi khi con cần chú ý đến phản hồi của người khác. Con có thể tập phân biện trường hợp một người giản dị phát biểu mối quan tâm của họ, và trường hợp lời chỉ trích đến từ tâm phản-Ki-tô. Con có thể tập nhận ra sự khác biệt. Một người có thể phản hồi để cho con thấy cách họ phản ứng ở tầng tâm thức của họ. Điều này có thể giúp con điều chỉnh cách con phát biểu khi con tiếp cận những người này, dựa trên hiểu biết về trình độ tâm thức của họ. Khi con cảm thấy là lời chỉ trích đơn giản phát xuất từ phản-Ki-tô đang tìm cách hạ bệ con, thì con chỉ để nó đi xuyên qua con.

Khi thày nói là con cần mở tâm đón nhận phản hồi của người khác, thì thày cũng nói điều này một cách thận trọng, vì con không nên phân tích mình quá đáng. Con cần là cánh cửa mở, cần giữ tâm trung hòa, cần ở trong trạng thái tâm trung hòa và để Tánh linh tự biểu lộ. Thành thực mà nói, đây chính là thách thức lớn nhất khi con bắt đầu có thêm quả vị Ki-tô. Con cần không đóng tâm mình nhưng cũng đừng phân tích quá đáng vì như vậy sẽ mất đi tính linh động tự phát. Đây là một thăng bằng tế nhị. Thày phải đối đầu khó khăn này khi thày hiện thân trên trái đất, tất cả các thày đều gặp khó khăn này trước khi thăng thiên. Con cần đối mặt khó khăn này và giải quyết theo cách của riêng con vì (một lần nữa) không có một biểu hiện tuyệt đối của quả vị Ki-tô. Do đó, con cần nhận ra rằng bất kể hình thức Ki-tô nào mà con có thể thể hiện đều không sai trái. Rất có thể là có một cách thể hiện Ki-tô cao hơn, nhưng điều này không có nghĩa cách con thể hiện là sai. Con không cần đi vào tư duy thắc mắc: “Làm vậy có sai chăng?”

Con cần buông bỏ tư duy này, con yêu dấu, và mặc dù con đã làm tan biến một ngã nào đó, con thực sự sẽ tới điểm con cần lấy quyết định một cách ý thức: “Tôi sẽ không tham dự vào chuyện này nữa, tôi sẽ còn không chú tâm tới nó nữa. Tôi chú tâm là cánh cửa mở và tôi cho phép người khác phản ứng bất cứ cách nào họ muốn.”

9.8. Muốn giúp người khác quá mức

Khi con đạt được một phần quả vị Ki-tô và rất muốn giúp đỡ người khác, thì việc này có thể là một trở ngại cho đường quả vị Ki-tô của con. Khi đó con có tâm thái: “Làm sao tôi có thể giúp người khác.” Vị sứ giả này đã có tâm thái này trong nhiều kiếp sống, kể cả kiếp này, ngay cả sau khi ông đã trở thành sứ giả. Làm sao ông có thể giúp người khác tốt nhất và làm sao ông không gây trở ngại cho Tánh linh thể hiện xuyên qua ông?

Suy ngẫm chuyện này tất nhiên là điều chính đáng, nhưng con phải tìm ra điểm cân bằng tế nhị. Con trước tiên cần làm việc để khắc phục các ngã vỏ ngoài của mình để con được giải thoát khỏi chúng và không cảm thấy bắt buộc phản ứng lại người khác. Con cần tới điểm con thực sự không phản ứng lại người khác và việc họ chấp nhận hay không chấp nhận những gì họ được cống hiến xuyên qua con. Con quan sát, con có thể học hỏi từ những gì con quan sát nhưng con không phản ứng. Con không cảm thấy phải thay đổi chính mình dựa trên phản ứng của họ vì con nhìn nhận là phản ứng của họ là sản phẩm của trình độ tâm thức của họ, kể cả những ngã mà họ chưa giải tỏa.

Nhiều người sẽ tới con khi con đạt được một phần quả vị Ki-tô và họ mang một ngã chưa được giải tỏa, và ngã này pha màu cách họ nhìn con đường tâm linh. Họ đã dùng giáo lý trên con đường tâm linh để củng cố và công nhận giá trị của ngã đó. Giờ đây, họ tới con và họ muốn con cũng công nhận giá trị của ngã đó. Có khi họ giận dữ, có khi họ thất vọng, có khi họ bắt đầu tố cáo con không là đại diện thật của Ki-tô khi con không công nhận cái ngã mà họ không chịu tách rời và buông bỏ. Con cần nhận ra điểm này. 

Con yêu dấu, thày nhận ra là một lần nữa các thày đã phóng tới con thật nhiều khái niệm. Con không cần chú tâm ngay lúc này đến tất cả những gì thày nói ở đây. Con cần tìm ra một điều trong bài truyền đọc mà con cảm thấy ứng dụng cho con ngay lúc này và con thể nhập điều đó. Con chấp nhận là các điều khác mà thày nói áp dụng cho người khác ở các tầng tâm thức khác. Có khi một số điều mà thày nói không còn áp dụng cho con vì con đã vươn lên trên tầng tâm thức đó. Có khi có những điều sẽ áp dụng cho con trong tương lai khi con đã vươn lên một tầng tâm thức nào đó.

9.9. Không có khoảng cách giữa con và Tánh linh

Như Chân sư MORE có nói, các thày bị giới hạn khi thuyết giảng bằng ngôn từ. Quả thực con cần tới điểm con không tìm cách là Ki-tô dựa trên một cảm nhận xa cách, dựa trên một khoảng cách. Khi con khắc phục ngã gốc và các ngã khác, khi con tới điểm mà Chân sư MORE mô tả là con không coi con đường tâm linh xoay quanh cá nhân mình, đó là lúc không còn cơ chế trong tâm con tìm cách lọc lựa những gì đến từ Tánh linh. Lúc đó ngay cả ý niệm là con “ở đây” và Tánh linh ở “trên kia” cũng không còn nữa. Tánh linh đang gửi đến con một cái gì tuôn chảy xuyên qua tâm con. Con có thể vượt qua cảm giác tách biệt. Nhiều người trong các con không thể nắm bắt điều thày đang giảng nhưng một số có thể. Tất cả các con rốt cuộc sẽ có thể nắm bắt điều đó.

Sẽ có một điểm không có cấu trúc nào trong tâm khiến con nghĩ là con phải hành xử như thế nào khi con là Ki-tô Hằng sống. Do đó, con không nhìn sự việc qua tâm trí, con chỉ giản dị trải nghiệm là có khe mở, có dòng chảy và sau đó con trải nghiệm dòng chảy đang xảy ra.

Vị sứ giả này đã nhiều lần được hỏi là ông trải nghiệm thế nào khi nhận một bài truyền đọc và ông đã tìm cách giải thích một cách tương tự. Không phải là ông thấy ông ở dưới đây, thày ở trên kia và thày đang rải truyền ngôn từ từ cõi thăng thiên, ông nghe được trong tâm và phát biểu ra. Không phải vậy, ông và thày đạt được trạng thái Hợp nhất, và ngôn từ tuôn chảy xuyên qua tâm vị sứ giả và ông nghe thấy chúng cùng lúc với khi chúng được nói ra, vì không có khoảng cách. Do đó, khi không có khoảng cách, thì không có chỗ để tâm thức của con, tâm thức của người khác và tâm thức sa ngã xen vào tiến trình. Trong tiến trình không có khoảng cách. Không có cấu trúc, không có cơ chế. Đó là một dòng chảy trực tiếp, một biểu đạt trực tiếp và con không phân tích nó trước khi nó xảy ra, vậy con cần gì phân tích khi nó đã xong? Con chỉ để nó tuôn chảy và sau đó để nó là như nó là, để con là như con là, để người khác là như họ là. Hãy để họ phản ứng theo cách họ phản ứng. Khi con trung hòa khi món quà được trao tặng, thì nó xứng đáng được trao tặng. 

Lẽ tất nhiên, người khác chỉ có thể nhận đầy đủ món quà khi họ trung hòa, nhưng trách nhiệm của con là giữ mình trung hòa. Giữ người khác trung hòa không phải là trách nhiệm của con. Trách nhiệm của con là trao món quà, là cánh cửa mở để trao tặng món quà. Con không có trách nhiệm cách người khác nhận nó. Đó là trách nhiệm của họ. Khi con đã thấy rõ điều này trong tâm mình, thì con có thể tránh các cám dỗ và phóng chiếu rất rất vi tế đến từ sa nhân muốn đem con tới điểm lần biểu đạt quả vị Ki-tô đó là lần cuối con cả gan để chuyện này xảy ra xuyên qua con.

9.10. Biểu lộ Ki-tô trên mạng

Thày thực sự có một điều nữa mà thày muốn trao truyền, đó là chúng ta đã tới điểm các thày đã trao truyền đủ giáo lý xuyên qua vị sứ giả này. Trong những người đang theo học giáo lý này, có một số mới gia nhập, một số khác đã học giáo lý này được một thời gian, nhưng các con đã sẵn sàng bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô một cách trực tiếp hơn. Lẽ tất nhiên, có rất, rất nhiều cách để làm việc này nhưng chắc chắn một trong những cách đó là qua mạng Internet.

Trong khóa học về quả vị Ki-tô của thày (sách Chìa khóa chính yếu để đạt quả vị Ki-tô cá nhân) thày đã đề ra cho những ai hoàn tất khóa học công việc viết lại câu chuyện cuộc đời mình. Với hiện tượng viết blog trong thời hiện đại, tại sao không viết câu chuyện này như một blog?

Tại sao không tạo ra một trang mạng hay một blog lấy giáo lý chân sư thăng thiên và áp dụng vào một lãnh vực cá biệt? Con cũng có thể lấy một lãnh vực cá biệt, tìm kiếm tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền liên quan đến lãnh vực đó, lấy ra tất cả những điều mà các thày đã nói và để các ý đó vào một trang mạng. Con có thể viết lại một cách trung hòa với ngôn từ của chính con để người đọc không cần phải tin các chân sư thăng thiên hiện hữu, hay con cũng có thể trích dẫn lời các thày nếu con ghi rõ xuất xứ. Có rất nhiều cách con có thể dùng mạng Internet để biểu lộ quả vị Ki-tô, và qua đó tiếp xúc được nhiều người hơn là con có thể tiếp xúc tận mặt. Đây cũng có thể là một cách để con luyện tập cách con biểu lộ quả vị Ki-tô và quan sát những phản ứng khởi lên trong con. Con cũng có thể thành lập, nếu con muốn, một nhóm người để hỗ trợ lẫn nhau. Một số các con có kinh nghiệm dùng máy điện toán và có thể giúp những ai ít có kinh nghiệm, và do đó các con bắt đầu hỗ trợ lẫn nhau. Các con cũng có thể giúp lượng định lẫn nhau, phản hồi tới các người trong nhóm, và qua đó chia xẻ nhiều, nhiều điều. Con có thể tạo ra một hiện diện trên mạng Internet hiện chưa có, chưa bao giờ có mặt trên mạng vì các con tới từ những quá trình khác nhau nhưng cũng có những điểm tương đồng, một sự hợp nhất thâm sâu với những điều các con phát biểu, vì các con đã đạt được một trình độ sáng suốt và nguyên vẹn, đã chữa lành tâm lý và buông bỏ các ngã vỏ ngoài.

Đã đến lúc các thày khuyến khích các con làm công việc này. Lẽ tất nhiên các con có quyền tự quyết. Thượng đế không muốn con người bị ép buộc. Các thày không muốn các con tự ép buộc mình làm việc này nhưng quả thật là một số các con đã sẵn sàng làm việc này dưới hình thức nào đó. Đã đến lúc các con đứng lên và ngưng ý nghĩ là vị sứ giả là người duy nhất phải dựng lên các trang mạng. Con hãy nhận ra là con cũng có tiềm năng, kinh nghiệm và chứng đạt để làm một cái gì đó. Một lần nữa, con nên hiểu rõ. Điều con có thể biểu đạt lúc này không phải là biểu đạt tối hậu của Ki-tô, nhưng khi con biểu đạt nó bây giờ thì con có thể hoàn chỉnh nó. Nếu con không biểu đạt nó lúc này thì con sẽ không có cơ hội hoàn chỉnh và con sẽ không tiến triển.

Con hãy xem xét trở lại tình huống bữa tiệc cưới ở Cana. Lúc đó thày đứng trước một ngã rẽ trong cuộc đời. Thày sẽ bắt đầu sứ vụ công chúng của thày hay thày đình chỉ nó? Ấy, nếu lúc ấy Mẹ Mary không thúc bách thày, thì thày đã không làm được việc đó. Thày đang thúc bách con. Nếu thày không chấp nhận sự thúc bách của Mẹ Mary và cả gan tiến hành sứ vụ của thày, thì có chăng một tấm gương ở đầu thời Song Ngư để con người noi theo? Ấy, có thể là thày sẽ làm sau đó – có thể.

Con không thể biết ngày mai sẽ ra sao. Con chỉ có thể biết hiện tại, con chỉ có thể hành động trong hiện tại. Có thể bây giờ là “hiện tại”, là lúc con đứng lên và biến nước lã của tâm thức thế gian trong một lãnh vực nào đó của cuộc sống thành rượu của tâm thức Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con!

Con yêu dấu, tới đây thì thày cảm ơn con đã chú tâm nghe bài giảng này, thày cảm ơn con đã sẵn sàng làm chiếc loa lan tỏa bài giảng này tới tâm thức tập thể của hành tinh, sẽ đem lại kết quả sâu rộng, vượt quá những gì con có thể biết với tâm vỏ ngoài. Quả thực, con có thể nói là sứ vụ công chúng của thày hai ngàn năm trước đây đã là cực alpha, và những gì các thày đang trao truyền qua tiến trình tiết lộ tuần tự này, không chỉ qua vị sứ giả này và còn xuyên qua nhiều vị sứ giả khác, là cực omega. Khởi đầu của thời đại Song ngư – kết cuộc của thời đại Song ngư, nhưng thực sự, thời Song ngư không thể tới kết cuộc trọn vẹn khi chưa có một biểu đạt công chúng của giáo lý thực của Ki-tô.

Con có thể là một thành phần của biểu đạt đó, một phần của làn sóng công chúng khi bỗng nhiên mọi người có cơ hội giáp mặt giáo lý thực của Ki-tô, một cơ hội mà họ không có được trong suốt thời Song ngư. Khi con người được nhận cơ hội đó, thì lúc ấy chung cuộc sẽ tới, không phải là chung cuộc của thế giới, mà là chung cuộc của thời Song ngư. Lúc ấy, hành tinh có thể hoàn toàn bước vào thời Bảo bình. Chúng ta có thể bắt đầu chú tâm xây dựng thời Hoàng kim của Saint Germain thay vì tìm cách đuổi kịp, cứ tìm cách hoàn tất tất cả những điều chưa được hoàn thành trong thời Song ngư.

Con có thể quan tâm là con đã sẵn sàng làm chuyện này chưa, con có xứng đáng làm việc này chưa. Những quan tâm này bắt nguồn từ ngã gốc và các ngã khác. Do đó, thày chỉ có thể nói: “Hãy buông lưới đánh cá và theo ta, và ta sẽ biến con thành người chài lưới đàn ông, đàn bà và trẻ em.”

5 | Chấp nhận là Ki-tô chấp nhận con

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 21 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày tới đây để trao cho các con một bài nữa trong số các giáo lý mà thày có ý định trao truyền trong hội nghị này dưới chủ đề làm sao là Ki-tô Hằng sống hành động. Giờ đây các con yêu dấu, khi thày trao truyền quyển Chìa khóa cơ yếu đưa tới quả vị Ki-tô cá nhân, thì thày ở trước tình trạng mà thày có đề cập tới sáng nay, đó là các thày cần nhận ra con người đang ở tầng tâm thức nào – tâm thức tập thể ở tầng nào, các người tâm linh ở tầng nào, các giáo lý nào đã được trao truyền trước đây, giáo lý nào có thể trao truyền bây giờ. Thày đã trao truyền một khóa học với mục đích đi tới con người (ngay cả một số người có quá trình Cơ đốc giáo và do đó đã lớn lên với một cái nhìn truyền thống về Ki-tô và đạo Cơ đốc) và cho họ một giáo lý có thể giúp họ tiến gần hơn quả vị Ki-tô.

Khóa học đã giúp một số người đã sẵn sàng, nhưng lẽ dĩ nhiên vào lúc đó, không có khóa học nào có thể đưa những người chưa sẵn sàng vượt trở ngại và bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô. Lý do là vì, như thày có giảng sáng nay, nếu con chưa chạm trán, thấy rõ ngã gốc và để cho nó chết đi, thì con không thể bắt đầu dám biểu lộ quả vị Ki-tô, vì con không có tự do biểu lộ nó.

5.1. Là Ki-tô nghĩa là gì

Bây giờ thì các thày đã trao truyền giáo lý về ngã gốc, nên lẽ dĩ nhiên các thày có thể giảng cho các con nhiều hơn về thế nào là Ki-tô Hằng sống. Trên căn bản, Ki-tô Hằng sống là một sinh thể không phản ứng lại điều kiện trên trái đất, không bị lôi cuốn vào vòng xoáy phản ứng lại những gì người ấy trải nghiệm trên trái đất. Có nghĩa là con không phản ứng lại trái đất xuyên qua phin lọc của ngã gốc mà con tạo ra khi bị chấn thương nhập đời. Đúng thực là khi con còn ngã gốc, thì như thày có giảng năm ngoái, nó sẽ pha màu cách con tiếp cận cuộc sống trên trái đất. Ta có thể nói là khi con còn ngã gốc, thì con không thực sự có tự do là Ki-tô vì ngã gốc được tạo ra như một phản ứng lại những gì con trải nghiệm trên trái đất.

Khi con còn tìm cầu an toàn, an ninh, muốn bù đắp lại điều con đã làm trong quá khứ, thì mọi việc con làm đều bắt nguồn từ nhu cầu đó: nhu cầu muốn hiểu và đặt sự việc vào bối cảnh, nhu cầu làm chủ tình hình, nhu cầu cảm thấy an toàn, nhu cầu được bù đắp. Thậm chí con sẽ dùng giáo lý tâm linh để tìm cách thỏa mãn nhu cầu đó. Do đó, con không thể thực sự là Ki-tô vì Ki-tô là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất. Con không thể là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất khi con chưa tạo được đường dây chắc chắn nối kết con với cõi tâm linh và con dám tự do biểu lộ trong cõi vật chất những điều được truyền qua đường dây nối kết đó.

Nếu con không nối kết với cõi tâm linh thì con không thể là người trung gian. Mặt khác, nếu con không có tự do để biểu lộ bất cứ xung lực nào chảy qua đường dây nối kết đó, thì con cũng không thể là người trung gian, ít ra là con không thể là người trung gian hoàn toàn. Con có thể nói: “Vậy thì làm sao con người có thể đạt được phần nào quả vị Ki-tô khi chưa có giáo lý về ngã gốc?”

Ấy, lý do là, lẽ dĩ nhiên, không tuyệt đối cần thiết có giáo lý về ngã gốc để khắc phục được ngã gốc. Các thày đã trao cho các con dụng cụ gì để khắc phục ngã gốc? Nó dựa trên nguyên liệu chính trên con đường tâm linh: sự quán sát chính mình.

Qua các thời đại, đã có một số người, một số ít người, đã có thể sử dụng khả năng của cái Ta Biết bước ra ngoài ý niệm bản ngã hiện tại và quán sát chính nó, quán sát cái ngã vỏ ngoài, từ bên ngoài. Do đó, con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó, và do đó, con có thể, lẽ dĩ nhiên, biểu lộ một phần quả vị Ki-tô. Một số các con đã làm điều này trước khi con nhận được giáo lý này. Tuy nhiên, các thày trao truyền giáo lý này vì đã đủ túc số những người sẵn sàng nhận giáo lý và có thể sử dụng nó để gia tốc sự tăng triển của họ, và tới điểm, thay vì chỉ chợt thoáng có quả vị Ki-tô, thì họ có thể biểu lộ nó một cách liên tục hơn. Nhiều người trong các con đã đạt được một thành quả tâm linh nào đó trong những kiếp trước và đã thiết lập được đôi chút nối kết nội tâm. Do đó, con đã có thể đôi khi biểu lộ quả vị Ki-tô. Trong nhiều trường hợp, con đã không làm được đến mức tối đa, là điều con mong muốn trong Sứ vụ Thiêng liêng của kiếp sống này.

5.2. Món quà tiềm ẩn của Ki-tô

Bây giờ thì thày trao cho con một giáo lý giúp con tiến xa hơn trong việc biểu lộ quả vị Ki-tô. Tất nhiên, thày giả sử một lần nữa là con học một cách nghiêm túc, và con đã dùng những giáo lý mà các thày đã trao truyền trong quyển Các kiếp sống của tôi và quyển Chữa lành chấn thương tâm linh để bắt đầu khắc phục ngã gốc. Một khi con đã bắt đầu khắc phục ngã gốc thì con sẽ dễ hiểu những gì thày giảng ở đây.

Giờ đây con yêu dấu, thày muốn con bước lui khỏi toàn bộ tấm màn bao phủ do đạo Công giáo chính thức tạo ra, đặc biệt là trong 17 thế kỷ vừa qua từ ngày Giáo hội Công giáo La Mã được thành lập. Thày muốn con cố gắng bước lui khỏi tất cả những thứ đó – tất cả những diễn giải tân thời về Giê-su và ý nghĩa của Ki-tô. Con hãy bước lui lại và nhìn vào những điều mà con biết về cuộc đời của thày, chuyện gì đã thực sự xảy ra. Thày đã muốn hoàn thành chuyện gì? Thày thực sự muốn cho con người cái gì? Tuy những điều này không được mô tả rõ ràng trong Thánh kinh, nhưng ít ra cũng đã có một số gợi ý trong đó. Thày lúc nào cũng tìm cách cho con người trải nghiệm là có cái gì cao hơn tâm thức hiện tại của họ, có một tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức hiện tại của họ. Đó là một công việc rất khó khăn, ít ra thì đó là một công việc không thể hoàn thành một cách tuyệt đối, vì, như các thày đã giảng cho các con, trên trái đất có 144 tầng tâm thức.

Trong kiếp sống đó của thày, trong khoảng 3 năm thày truyền giáo, thày đã gặp những người thuộc đủ 144 tầng tâm thức, hay đúng hơn thì thày ít nhất đã gặp những người ở các tầng tâm thức thấp trong khi thày gặp vài người ở tầng 144. Thày có gặp một số vị đó trước khi thày bắt đầu 3 năm truyền giáo, nhưng trong thời gian thày truyền giáo ở Palestine, thì thày thực sự không gặp ai ở các tầng tâm thức cao. Tuy nhiên, khi con gặp một người ở tầng tâm thức thấp thì con không thể trao cho họ cùng giáo lý mà con trao cho người ở tầng tâm thức cao. Con không đạt được lợi ích gì khi con tìm cách trao cho những người ở dưới tầng 48 giáo lý mà con trao cho người ở trên tầng 48, vì họ sẽ không thể nào hiểu được. Con có nghe câu chuyện thày gặp một người đang khát nước và thày đã không tìm cách trao cho y một giáo lý tâm linh mà thày nhân danh Ki-tô trao một ly nước. Con thấy là thày thay đổi món quà để thích nghi với tầng tâm thức của con người. Tuy nhiên điều thày muốn nói và dạy cho con là có một điều Thánh kinh không nói tới và đa số người tâm linh thần bí thuộc nhóm Thời đại Mới cũng thực sự không hiểu. Đó là khi thày trao cho con người điều gì phù hợp với tầng tâm thức của họ, thày cũng trao cho họ một cái gì khác. Ngay cả khi thày cho một người ly nước lạnh, thày cũng trao cho họ từ thày điều gì đó nhiều hơn là nước. Cái nhiều hơn đó là gì vậy? Ấy thày sẽ trình bày điều này theo hai cách.

5.3. Con không thể hiểu Ki-tô

Nhiều người trong các con, là những người tâm linh, quen học một giáo lý và tìm cách hiểu giáo lý đó. Nếu con nhìn thành phần những người tâm linh và tín đồ các tôn giáo, thì con thấy là có nhiều người nghĩ rằng (đặc biệt là trong thời đại hiện đại này là thời có nhiều người bị ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ lý luận, duy lý, đường thẳng) vấn đề là hiểu giáo lý. Thày đồng ý là có câu ngạn ngữ: “Chân lý sẽ giải thoát con người”, và con người ngày nay lý giải là chân lý nghĩa là một hiểu biết. Con bị vướng kẹt trong một ảo tưởng, và một khi con có được hiểu biết xóa tan ảo tưởng, thì con được giải thoát khỏi ảo tưởng. Tất nhiên điều này đa phần đúng. Con có thể vượt qua ảo tưởng bằng cách thấy chúng là ảo tưởng và do đó được giải thoát khỏi chúng.

Có một truyện ngụ ngôn cổ của Ấn Độ nói rằng nếu con cầm trong tay một cái gì con nghĩ là con rắn thì con sợ, nhưng khi con thấy đó là một sợi dây thừng, thì cơn sợ tan biến đi. Câu truyện này có giá trị, nhưng tuy thày cũng muốn trao truyền hiểu biết qua các giáo lý, nhưng đây không phải là điều chính yếu mà thày muốn trao truyền. Thực ra, khi thày trao truyền một giáo lý, thì nó chỉ như một cỗ xe, giống như ly nước lạnh là một cỗ xe. Ly nước lạnh là cỗ xe đem lại món quà mà thày muốn trao cho một người ở một tầng tâm thức nào đó. Khi thày trao truyền bất cứ gì, thì đó là một cỗ xe cho món quà lớn hơn mà thày muốn trao. Món quà lớn hơn đó là gì? Ấy, đây là một câu hỏi mà con có thể đặt ra cho chính mình: “Tôi có thể hiểu Ki-tô bằng tâm đường thẳng, phân tích của tôi chăng? Tôi có thể hoàn toàn hiểu Ki-tô chăng?” Câu trả lời rất rất rõ và dứt khoát: “KHÔNG!” Con không thể hoàn toàn hiểu Ki-tô. Con có thể hiểu một số khía cạnh và đặc tính của Ki-tô. Con có thể hiểu sự tương phản giữa điều rõ ràng là phản Ki-tô và sự hiểu biết cao hơn về Ki-tô. Có một số chuyện con có thể hiểu, nhưng con không thể nào nắm bắt toàn bộ Ki-tô bằng cách hiểu. “Minh triết là điều chính yếu, và con hãy tìm cầu minh triết với tất cả sức hiểu biết của con.” Câu này có giá trị tới một tầng nào đó, nhưng nó không thể đưa con đi quá tầng đó.

5.4. So sánh hiểu và nắm bắt

Vì chúng ta đang sống trong thời đại trí năng, nên thày muốn trình bày là có sự khác biệt giữa hiểunắm bắt. Con có thể hiểu một điều gì đó một cách đường thẳng, phân tích mà không nắm bắt điều đó. Con có câu ngạn ngữ cổ nói rằng: “Ta không thể nhìn ra khu rừng nếu ta nhìn vào các cây.” Con quá chú tâm vào chi tiết và mất đi khả năng bước lui lại và thấy toàn bộ viễn cảnh. Tâm đường thẳng, phân tích hay có tác dụng đó trên con người.

Họ quá chú tâm vào các chi tiết được diễn tả bằng lời mà tâm đường thẳng có thể xử lý, phân tích, xếp loại, dán nhãn và xếp gọn ghẽ vào danh mục hay hộp trong kho tài liệu. Vì họ quá chú tâm vào các chi tiết, nên họ không thể bước lui lại và thấy toàn bộ viễn cảnh. Con không thể nắm bắt Ki-tô bằng cách xem xét các chi tiết, các khía cạnh. Con chỉ có thể thực sự nắm bắt Ki-tô khi con bước lui lại và trải nghiệm Ki-tô. Nói cách khác, nắm bắt Ki-tô không phải chuyện hiểu, mà là chuyện trải nghiệm, con có thể nói đó là một tiến trình kinh nghiệm. Những điều thày trao truyền cho con người trong kiếp hiện thân, thày luôn luôn tìm cách trao cho họ món quà lớn hơn để họ có thể trải nghiệm là có cái gì vượt xa hơn tâm thức hiện tại của họ.

Ít ra là họ có thể trải nghiệm là thày ở trên tầng tâm thức hiện tại của họ. Thày ở tầng tâm thức cao hơn, do đó việc ở tầng tâm thức cao hơn là điều khả thi. Lẽ dĩ nhiên, sự trải nghiệm của họ tùy thuộc tầng tâm thức của họ. Một người ở tầng tâm thức thứ 3 không thể nào thấu suốt và trải nghiệm Ki-tô ở mức độ hoàn toàn như một người ở tầng tâm thức 96. Bất kể con đang ở tầng tâm thức nào, con có thể trải nghiệm là có một bước ở trên tầng của mình, vì con lúc nào cũng có khả năng thấu suốt và trải nghiệm bước ở ngay trên tầng tâm thức của con. Thày tìm cách trao gì cho con người?

5.5. Ki-tô và quyền tự quyết

Đây là nơi con cần sử dụng tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền vì thày không thể giảng hết trong một bài truyền đọc. Thày chỉ có thể nói những điểm nổi bật nhất, và con cần tìm những giáo lý giảng tường tận hơn, nếu có một vài khía cạnh mà con không hiểu thấu. Điều mà các thày đã giảng là quyền tự quyết có tính cách tuyệt đối, con người có hoàn toàn tự do sử dụng nó.

Khi Thượng đế ban cho những phần nối dài của ngài quyền tự quyết, thì ngài không chế ra một tiêu chuẩn quy định thế nào là chọn lựa đúng và chọn lựa sai. Đấng Sáng tạo không có trong tâm ngài sự phán xét là con người phải sử dụng quyền tự quyết như thế nào. Do đó, đấng Sáng tạo ban con người quyền tự quyết, và con người có hoàn toàn tự do sử dụng nó. Mục đích của đấng Sáng tạo khi làm vậy, lẽ dĩ nhiên, là để tạo ra những phần nối dài của ngài lúc đầu có, điều mà các thày đã gọi một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm, và dần dần nới rộng nó ra cho tới khi nó trở thành sự trọn vẹn của tâm thức của đấng Sáng tạo. Mục đích tối hậu của đấng Sáng tạo là tạo ra các đấng Sáng tạo khác. Để có thể tăng triển tới tầng tâm thức của đấng Sáng tạo, thì con bắt đầu như một người đồng-sáng tạo với một ý niệm bản ngã hạn hẹp và dần dần tăng trưởng nó lên.

Cách duy nhất để tăng trưởng ý niệm bản ngã là con có quyền tự quyết, con chọn lựa. Con tạo ra một cái gì, con trải nghiệm tạo vật đó và sau đó con lượng định dựa trên kinh nghiệm của mình: “Tôi muốn thêm trải nghiệm này hay tôi muốn một trải nghiệm cao hơn. Tôi muốn có thêm kinh nghiệm tương tự, hay tôi muốn cái gì hơn nữa?”

Để tiến trình này được trải bày, các người đồng-sáng tạo phải hoàn toàn có quyền tự quyết vì con phải được làm bất cứ chuyện gì con muốn làm, bất cứ chuyện gì con có thể tưởng tượng, bất cứ chuyện gì con hình dung. Con cần được cho phép sáng tạo ra nó, trải nghiệm hậu quả và sau đó dần dần quyết định là con muốn một trải nghiệm càng ngày càng cao hơn. Đó là cách tiến trình này vận hành, đây là cách tiến trình tăng trưởng tâm thức vận hành. Con hiểu là các thày đã trao truyền những giáo lý rất thâm sâu, rất tinh vi về sự thành hình của các bầu cõi. Khi một bầu cõi được tạo ra, thì nó không thường hằng, các sinh thể trong đó không thường hằng, và đó là để họ được cơ hội làm bất cứ gì họ muốn với quyền tự quyết.

Giờ đây, lẽ tất nhiên làm sao con có quyền tự quyết? Đây là một điểm mà con người thường ngộ nhận vì họ bị sa nhân đánh lừa, vì sa nhân lúc nào cũng tìm cách gây nghi ngờ. Sa nhân muốn con tin rằng có quyền tự quyết có nghĩa là con làm bất cứ điều gì con muốn. Điều này đúng theo một cách nhìn nào đó. Khi con có quyền tự quyết, thì con có thể làm bất cứ điều gì con muốn, nhưng con sẽ làm chuyện này như thế nào? Ấy, con làm một chuyện bằng cách tạo ra một khuôn đúc trong tâm, phóng chiếu nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và sau đó Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lấy hình tướng theo khuôn đúc. Lúc đó con trải nghiệm điều con sáng tạo, hay đúng hơn con đồng-sáng tạo.

Nếu con không trải nghiệm hậu quả của những chọn lựa của mình, thì coi như con đã không lấy chọn lựa nào, con đã không thật sự thực thi quyền tự quyết. Nếu một chọn lựa không có hậu quả, thì đó không là một chọn lựa và con không thể học hỏi gì từ chọn lựa đó. Con chỉ có thể học hỏi bằng cách tạo ra một hậu quả và trải nghiệm hậu quả đó. Điều mà sa nhân muốn con nghĩ là nếu con lấy một chọn lựa giới hạn con và khiến con khó chịu, thì đáng lẽ con không phải trải nghiệm hậu quả đó. Nếu con thực sự có quyền tự quyết, thì đáng lẽ con phải có khả năng tránh những hậu quả.

Con yêu dấu, đây là một điều mà sa nhân không hiểu thấu, và đa số con người, thành thực mà nói, cũng không hiểu thấu vì hành tinh này đã quá bị ảnh hưởng bởi sa nhân. Con lúc nào cũng có thể thoát khỏi hậu quả của những chọn lựa trước của con. Các thày đã từng nói: Bất cứ điều gì con tạo ra, con đều có thể sáng tạo lại cái mới. Con yêu dấu, mánh lới là: “Làm sao con phóng chiếu một khuôn đúc lên Ánh sánh Mẫu-Vật?”

Con tạo ra một cái ngã trong bốn thể phàm của mình, và con phóng chiếu qua ngã đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con ở trong một ý niệm bản ngã nào đó và phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, thì con tạo ra một hậu quả đặc thù là một sự phóng chiếu ra ngoài của ngã đó. Điều mà sa nhân muốn con tin là con có thể tránh thoát hậu quả mà không cần tiêu hủy cái ngã. Sự thực là con có thể tránh thoát hậu quả của các chọn lựa trước của con, nhưng cách duy nhất là con thăng vượt cái ngã mà con đã tạo hậu quả xuyên qua nó . Nếu con tiếp tục phóng chiếu qua ngã đó, thì con sẽ tạo lại và tạo lại cùng những hậu quả. Chuyện giản dị như vậy đó, con yêu dấu. Chuyện giản dị như vậy đó.

5.6. Tăng trưởng xuyên qua hậu quả

Làm sao con học hỏi? Làm sao con tăng trưởng? Con tăng trưởng bằng cách phác họa một cái ngã dựa trên ý niệm bản ngã hiện tại của con, có thể là một ý niệm bản ngã rất thu hẹp, như cái chấm, và vị kỷ. Con phóng chiếu xuyên qua ngã đó và con trải nghiệm hậu quả. Nếu con muốn có thêm các hậu quả đó thì con tiếp tục phóng chiếu xuyên qua cái ngã đó cho tới khi con chán ngán kinh nghiệm đó. Khi con chán ngán kinh nghiệm đó thì con có thể bước ra ngoài cái ngã, hay ít ra con có thể mở rộng và tinh luyện ngã đó và tạo ra một kinh nghiệm cao hơn qua ngã mới. Đó là cách vận hành của đồng-sáng tạo. Sa nhân, lẽ dĩ nhiên, đã khiến con người quên đi cơ chế đó. Tuy nhiên, sự kiện đơn giản là: bất cứ gì con đồng-sáng tạo xuyên qua một ngã, thì con có thể thăng vượt bằng cách tạo ra một ngã mới và đồng-sáng tạo qua ngã đó. Sau đó, do những chu kỳ của thế giới vật chất, con sẽ trải nghiệm một hậu quả mới.

Thày cũng đã nói điều gì khác? Thượng đế không phán xét cách con thực thi quyền tự quyết trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Nói cách khác, Thượng đế cho phép con đầu thai với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm qua đó con đương nhiên rất chú tâm vào chính mình. Lúc đó, con không có khả năng xem xét là các chọn lựa của mình ảnh hưởng đến người khác như thế nào, ảnh hưởng toàn thể hành tinh hay toàn thể vũ trụ như thế nào. Con không có sự nhận biết đó. Con chỉ chú tâm đến “tôi, đối với tôi, cho tôi.” Những gì tôi làm ảnh hưởng đến tôi như thế nào? Khi con dần dần mở rộng ý niệm bản ngã của con, thì con càng ngày càng nhận biết các chọn lựa của con ảnh hưởng tổng thể như thế nào. Con càng ngày càng nhận biết là con đích thực là một phần của tổng thể. Do đó, con ảnh hưởng tổng thể, và tổng thể ảnh hưởng con.

Cách con tăng trưởng tâm thức, khi con tới tầng đó, là con tinh luyện ý niệm bản ngã của con để nó càng ngày càng trở nên một với tổng thể, càng ngày càng là Một. Con đi vào cái Một, thay vì chú tâm vào ngã tách biệt. Sau đó, con có thể tới điểm con ở trong cái Một nhiều đến độ con có thể buông bỏ ngã tách biệt. Sau đó, con có thể tới điểm con ở trong cái Một nhiều đến độ con có thể buông bỏ ngã tách biệt và thăng thiên. Lúc đó, con trở nên một sinh thể thường tồn, và một khi bầu cõi có đủ túc số các dòng sống, các người đồng-sáng tạo đã tới được điểm đó, thì toàn thể bầu cõi sẽ trở nên thường tồn.

5.7. Xây dựng tâm thức Ki-tô

Con cần gì để tới điểm không còn ý muốn thực thi quyền tự quyết một cách ích kỷ? Ấy, trên cơ bản con cần trải nghiệm là con đã làm đủ, không nhất thiết là tất cả những gì con có thể làm một cách ích kỷ nhưng ít ra là số lượng tới hạn của những gì con có thể làm một cách ích kỷ, nên chính con đã chán ngán việc đó. Thượng đế không phán xét cách con tiến hành tiến trình này. Con đã được ban quyền tự quyết, con đã được ban một khoảng thời gian rất, rất dài để khám phá tất cả các ngõ ngách của sự ích kỷ, của lòng vị kỷ. Khi con đã chán ngán không muốn khám phá các ngõ ngách đó, thì con bắt đầu thăng vượt chúng. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền khái niệm con đi xuống, và khi con đi xuống thì con đi vào giai đoạn trầm mình. Con trầm mình vào trong môi trường, con xây dựng một cái ngã dựa trên môi trường đó. Sau đó, khi con bắt đầu thức tỉnh thì con bắt đầu mở rộng ý niệm bản ngã để nhận biết tổng thể thay vì chỉ nhận biết một phần rất nhỏ của tổng thể. Con làm việc này bằng cách trải qua giai đoạn trầm mình, tự đồng hóa mình với ngã tách biệt, phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và trải nghiệm hậu quả. Sau đó, khi con đã chán ngán việc này thì con bắt đầu thức tỉnh. Con bắt đầu nhận biết các hậu quả của mình ảnh hưởng ra sao, đầu tiên là các người khác, sau đó là môi trường lớn hơn nơi con sống, và sau đó toàn bộ bầu cõi. Có thể nói đây là tâm thức Ki-tô.

Tâm thức Ki-tô là trung gian giữa đấng Sáng tạo và tạo vật của ngài, giữa Tánh linh và vật chất, giữa cõi tâm linh và bầu cõi chưa thăng thiên. Tâm thức Ki-tô nhận biết là có một cõi tâm linh bên trên bầu cõi này. Nó cũng nhận biết bầu cõi là một tổng thể, mọi chuyện đều nối kết với nhau, mọi chuyện là Một. Ngay cả khoa học ngày nay đã nhận ra và chứng minh qua vô vàn thử nghiệm là toàn thể vũ trụ là một tổng thể tương liên. Chưa ai rút tỉa hệ luận triết lý của các khám phá khoa học này, nhưng khoa học đã chứng minh những điều đó. 

Đây là gì con thấy xuyên qua tâm thức Ki-tô – con nhận biết tổng thể. Giờ đây, khi con bắt đầu vươn lên trong tâm thức Ki-tô, thì tất nhiên con cũng bắt đầu có hiểu biết vỏ ngoài giúp con thấy sự tương phản giữa các ảo tưởng nhị nguyên, sự dối trá của sa nhân và nhận biết cao hơn của Ki-tô dựa trên nhận biết tổng thể, tức là tất cả đều nối kết với nhau.

5.8. Làm hòa với quyền tự quyết

Khi con bắt đầu nhận biết điều trên, thì con bắt đầu nhìn thấy rõ các ảo tưởng mà sa nhân đã tạo ra liên quan đến quyền tự quyết. Trong tiến trình này (và các thày đã trao truyền các dụng cụ tâm linh để đối phó với ngã gốc) con sẽ tới điểm làm hòa với quyền tự quyết. Con có thể chấp nhận quyền tự quyết, con cũng có thể làm hòa với việc con sống trên trái đất, con có thể chấp nhận trái đất như nó đang là ngay lúc này.

Làm sao con có thể chấp nhận trái đất trong trạng thái rất bất toàn hiện tại của nó? À, con chỉ có thể làm vậy khi con chấp nhận quyền tự quyết, và chấp nhận là những gì con thấy trên trái đất là sự trải bày trong vật chất của những gì có trong bốn thể phàm của đa số nhân loại đang đầu thai trên trái đất. Chúng là sự trải bày của tâm thức tập thể. Chúng cần thiết, vì con người cần trải nghiệm. Như thày có giảng, con cần trải nghiệm một số chuyện để có thể tăng triển. Khi con bước vào nhị nguyên, là chuyện phải xảy ra trên một hành tinh không tự nhiên, thì con cần phải thấy nó trải bày trong vật chất vì con không có khả năng học bằng tâm. 

Các thày có giảng là tất cả các con là sinh thể trải nghiệm. Đó là lý do các thày đã cho con tầm nhìn trong quyển Các kiếp sống của tôi là một số các con đã đầu thai trên trái đất trong một thời gian rất dài. Con có thể suy ngẫm, như thày có nói vào đầu năm, là tại sao cần nhiều thời gian như vậy? Đó là vì con cần có một số kinh nghiệm. Khi con bắt đầu hiểu luật tự quyết, con nhận ra là có một số người trên trái đất vẫn chưa trải nghiệm đủ loại kinh nghiệm mà con thấy họ đang kinh qua. Con có thể tới điểm chấp nhận sự việc đó, làm hòa với sự việc đó. Do đó, con tự giải thoát mình khỏi sự phán xét, khỏi tâm thức tập thể, khỏi con quỷ dữ phán xét mà sa nhân đã tạo ra cho rằng có những chuyện sai trái, có những chuyện đáng lẽ không được xảy ra.

Con có thể tới điểm nhận ra, như chính vị sứ giả này đã nhận ra, là ngay cả khi con người bị đau khổ thì các đau khổ này là kết quả của những chọn lựa của họ. Họ không biết một cách có ý thức là họ đã lấy những chọn lựa đó, tuy thế họ vẫn có thể chọn nâng tâm thức mình lên và bắt đầu nhìn vào chính mình thay vì nhìn vào các điều kiện bên ngoài.

Con yêu dấu, chắc con cũng nhận ra là khi một người còn phóng chiếu rằng: “Tôi đau khổ vì những điều kiện bên ngoài”, thì các vị thày tâm linh không thể dạy người đó. Họ chỉ học được khi họ bắt đầu chịu xem xét là có thể có điều gì trong tâm họ đã ít nhất là một phần của sự đau khổ của họ. Con yêu dấu, những người không thể học từ một vị thày tâm linh cần thấy các điều kiện trải bày trong vật chất – dù họ không nhận ra và nhìn nhận là chính tâm thức của họ đã tạo ra các điều kiện đó. Đó là cách duy nhất khiến họ rốt cuộc chán ngán kinh nghiệm này và kêu lên cầu cứu.

Con yêu dấu, con có thể tới điểm nhìn phương trình trên trái đất và làm hòa với các việc đang xảy ra trên trái đất. Con làm hòa với việc con hiện diện trên trái đất. Tuy nhiên, con chỉ có thể tới điểm này khi con đã bắt đầu khắc phục được ngã gốc vì trước đó, ngã gốc sẽ níu kéo con vào việc phản ứng lại các điều kiện trên trái đất. Do đó, con sẽ phán xét các điều kiện này xuyên qua ngã gốc. Lẽ tất nhiên, vì chính ngã gốc đã tạo ra chấn thương và khiến con đau khổ, nên nó chỉ thấy được là các điều kiện đó sai trái và không được xảy ra. Con thấy chăng, con không thể an bình với quyền tự quyết và các điều kiện trên trái đất nếu con nhìn xuyên qua ngã gốc, con chỉ làm được chuyện này khi con bắt đầu tách mình ra khỏi nó.

5.9. Sự chấp nhận của Ki-tô

Con yêu dấu, khi con tới điểm làm hòa với luật tự quyết, thì con cũng tới điểm khác là món quà mà thày thực sự muốn đem lại cho mọi người. Đó là, con có thể hiểu được là Ki-tô chấp nhận con như con là, bất kể trình độ tâm thức của con ra sao. Các con cần chiêm nghiệm để có thể hoàn toàn thấu hiểu điều này vì con đã bị lập trình trong suốt 17 thế kỷ của đạo Công giáo chính thức muốn con tin rằng Ki-tô chỉ chấp nhận con khi con hội đủ một số điều kiện.

Thày nhắc lại một lần nữa. Con đã bị sa nhân lập trình trong 17 thế kỷ để tin rằng Ki-tô chỉ chấp nhận con khi con hội đủ một số điều kiện và các điều kiện này được quy định ở đây trên trái đất – có nghĩa đó là những điều kiện có thể hiểu được bằng tâm nhị nguyên, tâm đường thẳng, thậm chí là tâm sa ngã. Lẽ tất nhiên, Ki-tô vượt lên trên tâm đó và do đó các điều kiện đó không thể nào là điều kiện của tâm Ki-tô. Sa nhân không nắm được là tâm Ki-tô không có điều kiện vì đấng Sáng tạo không có điều kiện và tâm Ki-tô biết là luật tự quyết cần tự trải bày và biết việc này sẽ được hoàn thành như thế nào trên một hành tinh phi tự nhiên.

Tâm Ki-tô biết đây không phải là loại hành tinh duy nhất, và có hàng tỷ hành tinh khác. Nó có tầm nhìn rộng lớn hơn và biết rằng những gì xảy ra trên hành tinh nhỏ bé tên là trái đất này không phải là một thảm họa cho toàn thể vũ trụ. Khi con ở trên trái đất, con muốn nghĩ rằng (vì sa nhân muốn con nghĩ là trái đất rất quan trọng) trái đất có lẽ là hành tinh duy nhất có sự sống trong toàn thể vũ trụ và Thượng đế rất quan tâm theo dõi những gì đang xảy ra trên trái đất.

Trên thực tế, khi con có tâm Ki-tô thì con có tầm nhìn rộng lớn hơn và thấy rằng những chuyện đang xảy ra trên trái đất không ảnh hưởng toàn thể vũ trụ vì hành tinh này quá bé nhỏ và không thể kéo toàn thể vũ trụ xuống theo với nó, vì có hàng tỷ hành tinh khác đang theo một vòng xoáy đi lên. Chuyện đang xảy ra trên trái đất được phép xảy ra vì các dòng sống đang đầu thai trên trái đất chưa chán ngán kinh nghiệm họ đang có trên trái đất.

Giờ đây, khi con có tầm nhìn đó, khi chính con bắt đầu trải nghiệm chuyện đó, thì con có thể tới điểm tự đặt câu hỏi: “Ki-tô hay Giê-su (nếu con muốn mật thiết hơn) có chấp nhận tôi như tôi đang là ngay bay giờ chăng?” Khi con tự hỏi mình như vậy, và khi con đã bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, thì con có thể trải nghiệm là, đúng vậy, thày, Giê-su Ki-tô, chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ.

Con không cần hội đủ điều kiện nào để xứng đáng được thày chấp nhận. Thày lúc nào cũng đã chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Thậm chí có một số trong các con đã gặp thày 2000 năm trước, khi các con có tâm thức thấp hơn ngày nay rất nhiều, nhưng thày lúc đó đã chấp nhận con. Trong 2000 năm qua, một số các con đã mang trong mình cái ngã vỏ ngoài được tạo dựng theo tâm thức phán xét của sa nhân, cho rằng thày không chấp nhận con ngay bây giờ vì con vẫn chưa sống theo đúng chuẩn mực toàn hảo. Khi con còn nhìn cuộc đời xuyên qua phin lọc của ngã gốc, thì con sẽ không thể khắc phục được ảo tưởng đó. Con sẽ nghĩ (vì ngã gốc chỉ có thể nghĩ như vậy), là chắc hẳn phải có một số điều kiện mà con phải hội đủ để Ki-tô có thể chấp nhận con – nhưng đây là một lời gian dối của sa nhân.

Khi con bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc thì con có thể tới điểm tự đặt câu hỏi một cách có ý thức. Lúc đó, nếu con mở tim đón nhận thày thì thày sẽ cho con (tùy khả năng tiếp nhận của con) trải nghiệm trực tiếp là thày chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Đây chính là trải nghiệm mà thày muốn trao cho tất cả mọi người 2000 năm trước đây, và thày muốn trao cho mọi người ngày hôm nay.

5.10. Trao cho người khác sự chấp nhận của Giê-su

Thày đang không đầu thai trong cõi vật chất, vậy làm sao thày trao cho mọi người trải nghiệm này? Thày chỉ có thể vì co. trao cho họ xuyên qua con, nhưng con không thể là dụng cụ giúp thày trao trải nghiệm đó cho người khác khi con chưa tự mình trải nghiệm và chấp nhận là thày chấp nhận con.

Thế nào là Ki-tô đang hành động? Ấy, điều này có nhiều nghĩa, lẽ tất nhiên, nhưng điều thày muốn trình bày trong bài giảng này, là điều đó có nghĩa con trở thành một dụng cụ để trao cho tất cả mọi người mà con gặp (bất kể họ đang ở tầng tâm thức nào) trải nghiệm là con chấp nhận họ như họ đang là và con không phán xét họ.

Giờ đây, thày biết là dù con đã bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, con vẫn còn những cái ngã khác, như các thày đã giảng, mà con đã tạo ra trong những kiếp sống tiếp theo sau kiếp sống đầu. Điều này có nghĩa là nhiều người trong các con cần làm công việc quét dọn và nhìn vào các ngã này và thấy khi con đã tạo ra một cái ngã có một tiêu chuẩn nói rằng: “Mọi chuyện phải được phán xử tùy theo chúng đúng hay sai, vì có những chuyện chắc chắn đúng và những chuyện chắc chắn sai, phải có chân lý và phải có dối trá, phải có sự sai trái.” Phải có chuyện này và phải có chuyện kia. Con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi những ngã đó vì con cần ghi chặt trong tâm ý niệm duy nhất sau đây: phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô. Phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô.

Sa nhân không thể có phân biện Ki-tô. Họ muốn con nghĩ rằng con có thể mài dũa phán xét nhị nguyên tới điểm nó cho con vào nước Trời. Chính một số sa nhân đã tin như vậy. Chuyện này không thể xảy ra! Con có thể dùng tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền về sa nhân và sự sa ngã và thấy là chuyện này không thể xảy ra.

Phân biện Ki-tô – đúng vậy, có một chân lý tuyệt đối mà phân biện Ki-tô biết. Do đó, phân biện Ki-tô có thể thấy các sai lầm và dối trá. Khi con gặp một người và con có phân biện Ki-tô, thì con có thể thấy là người đó đang ở một tầng tâm thức rất ích kỷ. Người đó có thể tin nhiều ảo tưởng, người đó có thể đang làm một số hành động rõ ràng xâm phạm quyền tự quyết của người khác. Con yêu dấu, sau đây là sự nhận biết cốt yếu: dù con thấy trình độ tâm thức của một người, dù con thấy hành động của họ, nhưng con vẫn có thể (khi con ở trong tâm Ki-tô) tỏa ra sự chấp nhận người đó. Không phải là chấp nhận những chuyện họ đang làm, không phải là chấp nhận những điều họ tin, nhưng chấp nhận là đằng sau tất cả các ngã vỏ ngoài đó, có một cái Ta Biết là một phần nối dài của Bản thể của đấng Sáng tạo.

5.11. Thượng đế chỉ muốn giải thoát con người

Trong một số trường hợp, khi cái Ta Biết của người đó trải nghiệm sự chấp nhận vô điều kiện của con, thì cái Ta Biết có thể thoát ra khỏi các ngã thấp kém và ít ra là trong một khoảnh khắc, kết nối trở lại và trải nghiệm nó là một sinh thể vô điều kiện, nó là một sinh thể không hình tướng không bị lệ thuộc vào bất cứ điều kiện nào có hình tướng. Con yêu dấu, bất kể con nghĩ gì, hậu quả của việc thực sự làm hòa với luật tự quyết là con nhận ra là Thượng đế không muốn trừng phạt bất cứ ai, bất kể họ đã làm gì. Thượng đế chỉ có một mong muốn: đó là giải thoát con người.

Điều này có nghĩa là con có thể gặp một người đang ở trong trạng thái tâm thức thấp nhưng người đó vẫn xứng đáng được cơ hội giải thoát. Do đó, người đó vẫn xứng đáng được nhận xuyên qua con sự chấp nhận vô điều kiện của Ki-tô Hằng sống, của Ki-tô Hoàn vũ, của Ki-tô thăng thiên mà thày là. Thày còn không muốn con chấp nhận người khác với tâm vỏ ngoài. Thày muốn con bỏ tâm vỏ ngoài sang một bên để có thể là cánh cửa mở giúp họ nhận được một xung lực chấp nhận từ thày. Con có chịu để thày phán xét ai xứng đáng được nhận sự chấp nhận, thay vì để tâm vỏ ngoài của con phán xét điều đó? Lúc đó con sẽ có thể bước một bước vĩ đại, một bước quyết định, trên con đường dẫn tới quả vị Ki-tô, một bước quyết định dẫn tới biểu lộ quả vị Ki-tô với tiềm năng cao nhất mà con đã quy định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Một lần nữa, điều này không có nghĩa con chấp nhận tất cả mọi chuyện mà người khác đang làm. Không có nghĩa là con không thách đố người khác. Không có nghĩa là con không phơi bày, một cách bình tĩnh và thẳng thắn, cho họ thấy những gì họ đang làm. Vượt lên trên tất cả các hành động này là sự chấp nhận.

Giờ đây, nếu con xem quyển sách Những kiếp sống của tôi, thì con thấy nhân vật trong quyển sách gặp Lucifer khi y trải qua sự phán xử cuối cùng, và nhân vật đã rốt cuộc có thể biểu lộ tình thương vô điều kiện tới Lucifer. Đây là điều duy nhất đã thực sự khiến tâm của Lucifer xoay chuyển. Giờ đây, lẽ tất nhiên, con nhận ra – thày tin như vậy – là các thày đã dùng tên Lucifer trong quyển sách vì đây là tên mà đa số con người đã gán ghép cho các thiên thần sa ngã và các sinh thể tăm tối. Điều này không có nghĩa là, trong suốt chiều dài lịch sử của hành tinh này, không có nhiều sinh thể đã dùng tên Lucifer và đã bị đem ra phán xử ở những thời điểm khác với những gì được mô tả trong quyển sách. Một lần nữa, con đừng quá chú tâm vào những điểm vỏ ngoài đó. Con hãy nhìn quá những điểm vỏ ngoài và nhận ra là điểm quan trọng trong quyển Những kiếp sống của tôi là câu chuyện được kể và biểu tượng của nó. Con yêu dấu, nếu Lucifer xứng đáng được chấp nhận vô điều kiện, thì chắc hẳn tất cả các sinh thể mà con có thể gặp trong phần còn lại của kiếp sống này cũng xứng đáng như vậy.

5.12. Đình chỉ phán xét

Một lần nữa, con có chịu đình chỉ phán xét với ngã vỏ ngoài của con và để cho thày phán xử ai xứng đáng được nhận một xung lực chấp nhận từ thày? Lẽ tất nhiên, muốn làm vậy thì con cần trước tiên trải nghiệm là thày chấp nhận con như con đang là, ngay cả các ngã vỏ ngoài mà con đang có, ngay cả với khuynh hướng phán xét mà con có thể đang có. Thày chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Thày chấp nhận là Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, và điều này đã cho phép con tạo ra ý niệm bản sắc mà con đang có ngay lúc này. Thày không hề muốn trách mắng con, trừng phạt con, khiến con cảm thấy khổ tâm. Thày chỉ mong muốn cho con sự chấp nhận vô điều kiện rằng bất kể điều gì con đã làm trên trái đất, bất kể những gì con đã trải nghiệm trong các kiếp trước, thày chỉ có một mong muốn: giúp con được tự do khi con muốn được tự do. Đây là mong muốn duy nhất của Ki-tô. 

Sẽ có nhiều người không thể chấp nhận những gì thày vừa nói vì họ vẫn còn bị giam hãm trong tâm phán xét và ý nghĩ cho rằng khi con đã làm một chuyện gì rất xấu, tỷ dụ như giết hàng triệu người, thì con xứng đáng bị trừng phạt. Con yêu dấu, con không cần bị Thượng đế trừng phạt vì con đã tự trừng phạt chính mình. Để có thể giết hàng triệu người, con đã phải đặt mình vào trạng thái tâm thức tạo nơi con đau khổ cùng cực. Do đó, khi con còn ở trong trạng thái tâm thức đó, như sa nhân đã ở trong một thời gian rất, rất dài, thì con đã tự trừng phạt chính mình. Thượng đế có lý do gì trừng phạt thêm khi Thượng đế thấy là hành động đó được tạo ra bởi một cái ngã không thật?

Con lại nhận ra là: quyền tự quyết là quyền tự do lựa chọn vì con lúc nào cũng có thể vươn lên trên những gì con tạo ra trước đó. Con không bao giờ có thể lấy một chọn lựa ngăn cản con lấy những chọn lựa mới. Điều này sẽ đi ngược lại những gì nhiều người trong các con đã trải nghiệm. Con đã trải nghiệm lấy một chọn lựa ở khoảng đầu cuộc đời, và việc đó đã tạo ra hậu quả vẫn còn ảnh hưởng con mấy chục năm sau đó. Tuy nhiên, con yêu dấu, con vẫn có chọn lựa tách mình ra khỏi cái ngã xuyên qua đó con đã lấy những chọn lựa đầu.

Con yêu dấu, sau đây là một sự thực tuyệt đối: nếu con có thể hoàn toàn tách mình ra khỏi tâm thức đó, thì con thực sự có thể tháo gỡ các hậu quả vật lý. Nhiều người trong các con sẽ không có khả năng hoàn toàn khắc phục cái ngã trước, nhưng con sẽ có thể vươn mình lên cao hơn rất nhiều nên con sẽ nhìn hậu quả một cách khác. Do đó, con không bị chúng làm con đau khổ như lúc trước.

Con yêu dấu, như thày có nói, con có thấy chăng là sa nhân muốn con nghĩ là nếu con lấy một quyết định mà con không thích, thì nếu con thực sự có quyền tự quyết, và nếu quyền tự quyết đó cho con quyền hoàn toàn tự do hành động, thì con đáng lẽ không phải gánh chịu những hậu quả. Như thày có nói, con vẫn có quyền tự quyết dù con đã lấy rất, rất nhiều chọn lựa trong những kiếp trước và con đã tạo ra ý niệm bản ngã mà con hiện có. Con có thể nói: “Nhưng ý niệm bản ngã này có rất ít chọn lựa, bị giới hạn rất nhiều trong việc chọn lựa.” Và điều này đúng. Con đã tạo ra một cái ngã giới hạn, và nó có ít chọn lựa, vì con yêu dấu, cứ mỗi lần con tạo ra một cái ngã trong bốn thể phàm thì con giới hạn những chọn lựa mà con có thể thấy. Con nhìn xuyên qua phin lọc của cái ngã đó và nó loại bỏ đi những chọn lựa khác.

Nhưng bất kể cái ngã mà con tạo ra có phức tạp đến đâu, thì con vẫn có thể khởi sự tiến trình thức tỉnh, bắt đầu thức tỉnh khỏi sự đồng hóa với các ngã đó, và do đó, để cho chúng chết đi từng ngã một – loại bỏ các phàm linh nội tại đó.  Chọn lựa đó con lúc nào cũng có và khổng thể nào đánh mất. Những người trong các con đã chấp nhận trải qua tiến trình đó, như một số các con đã làm, thì biết là tự do của con đã tăng trưởng và con hiện nay nhìn đời một cách khác hơn cách con nhìn đời vài năm trước đây.

Thày khuyến khích con xem xét mình phản ứng ra sao với bài giảng này. Nếu con vẫn nghĩ là con vẫn chưa hoàn toàn nắm được nó, con chưa thể hoàn toàn chấp nhận nó, nếu con vẫn cảm thấy nỗi đau bị giới hạn và con không chắc điều thày nói chính thực là sự thực, thì con nên tìm hỏi những người đã đi xa hơn con trên tiến trình này. Con hãy nói chuyện với các vị đó, lắng nghe họ, xin họ giải thích những thấu hiểu nào đã giúp họ. Lúc đó, có thể con sẽ thấy là họ đã cho con cảm hứng để tiến bước kế tiếp trên con đường tu, giúp con tới điểm con được tự do. Con đã làm hòa với việc mình ở trên trái đất, nhưng đầu tiên hết, hơn tất cả mọi thứ, con có thể tới điểm chấp nhận mình như con là ngay lúc này. Con sẽ không cảm thấy mình toàn hảo hay mình không cần tăng trưởng nữa, nhưng con có thể chấp nhận mình vì con đã trải nghiệm là thày chấp nhận con.

Một lần nữa, con yêu dấu, thày xin con đình chỉ sự phán xét chính mình, và ngưng phóng chiếu lên thày là thày đang phán xét con như con phán xét chính con – và vì con phán xét mình bất toàn, nên thày không thể nào chấp nhận con. Xin con để cho thày là quan tòa xét xử xem thày có chấp nhận con hay không? Do đó, con đặt mình trong trạng thái tâm nói rằng: “Ồ, tôi không phải là người phán xét xem Giê-su có sẽ chấp nhận tôi hay không. Giê-su sẽ là người phán xét, và do đó tôi phải hoàn toàn cởi mở đón nhận bất cứ điều gì Giê-su muốn cho tôi. Tôi không thể phán xét là Giê-su không thể nào chấp nhận tôi, vì như vậy tôi không cởi mở với thày, tôi không để thày là người xét xử.”

Con có thể làm việc trên vấn đề này, và tới điểm con đặt mình vào trạng thái tâm trung hòa. Nếu con có thể trung hòa thì con sẽ trải nghiệm là thày chấp nhận con. Tại sao vậy? Vì ngay lúc này thày đang đứng cạnh mỗi người chúng con, và thày đang đưa bàn tay ra và nói: “Con có vui lòng chấp nhận chăng là thày chấp nhận con hoàn toàn và vô điều kiện?” Thày cống hiến sự chấp nhận của thày, con yêu dấu. Nếu con không trải nghiệm được sự cống hiến của thày, thì lý do chỉ có thể là con bác bỏ nó, hoặc có ý thức hoặc vô thức. Món quà của thày đã được trao ra. Con có chấp nhận nó chăng? Vậy bây giờ, thày cảm ơn con đã chấp nhận, thày cảm ơn con đã lắng nghe bài giảng này và là dụng cụ để lan tỏa nó vào tâm thức tập thể.

3 | Khắc phục khía cạnh kiểm soát của ngã gốc

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 21 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su, hay như đôi khi ta nói, TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Tại sao đôi khi thày nói Giê-su và đôi khi thày nói Giê-su Ki-tô? Không có lý do nào cả, các con yêu dấu, ngoài chuyện thày cảm thấy muốn biểu lộ mình ra sao vào lúc đó.

Vì sao một số các con lại đặt chú tâm và tìm hiểu tại sao đôi khi thày làm điều này và đôi khi thày nói điều kia? Đó là, vì con đã bị cú sốc khi gặp gỡ sa nhân, con đã tạo ra một cái ngã trong thể bản sắc muốn cảm thấy nó có sự hiểu biết nào đó về thế giới và thế giới vận hành ra sao để nó có thể cảm thấy an toàn.

3.1. Bao nhiêu người đã biểu lộ quả vị Ki-tô?

Các con yêu dấu, câu hỏi mà thày muốn nêu ra với các con trong bài giảng này là như sau. Đã từ nhiều thập niên nay, các thày là chân sư thăng thiên đã trao truyền giáo lý qua trung gian một số vị sứ giả được bảo trợ và có khả năng nhận truyền đọc trực tiếp từ các thày. Ngay từ lúc khởi đầu của đợt truyền giáo của Lời Hằng sống này, các thày đã trao truyền giáo lý là thày không phải là một thần tượng và là một ngoại lệ như đạo Cơ đốc chính mạch đã mô tả thày. Trái lại, thày đáng lẽ phải là tấm gương cho thấy tiềm năng mà tất cả mọi người đều có. Giờ đây, nếu con nhìn trở lại suốt mấy chục năm trao truyền giáo lý, thì con thấy là các thày đã thu hút trong khoảng thời gian đó nhiều triệu người đã (ít nhất ở một trình độ nào đó) học hỏi giáo lý của các thày. Khi con nhìn trở lại sự kiện này, thì câu hỏi đặt ra là: “Có bao nhiêu người đã có thể dùng giáo lý mà các thày trao truyền để thể hiện và biểu lộ một phần quả vị Ki-tô? Bao nhiêu người đã có thể khắc phục lập trình chối bỏ mình có tiềm năng trở thành Ki-tô và thực sự bắt đầu thực hiện tiềm năng là Ki-tô?” Đây là câu hỏi mà thày muốn các con suy ngẫm, thậm chí thảo luận trong hội nghị này, và dĩ nhiên, sau đó nữa.

Đây không phải là một câu hỏi chung chung vì sao đã không có nhiều người hơn làm việc này. Lẽ dĩ nhiên, như các con ở đây cũng biết, mục đích là xem xét chính mình. Câu hỏi cũng là: “Vì sao tôi chưa thể hiện một trình độ quả vị Ki-tô cao hơn?” Giờ đây, con yêu dấu, thày muốn các con biết, vì một số các con chưa hoàn toàn chú ý việc này, là các thày đã (quả thực là ngay từ lúc khởi đầu nhưng đặc biệt là trong những năm gần đây) tìm cách giúp các con xoay chuyển tâm thức của mình.

3.2. Tự do khỏi tâm phán xét

Con thấy chăng, con yêu dấu, là sa nhân đã từ muôn thuở, nhưng đặc biệt là qua các giáo hội Cơ đốc chính mạch, tạo ra quan niệm tội lỗi. Con không toàn hảo vì lý do mơ hồ nào đó, và Thượng đế là một đấng giận dữ trên trời sẽ phán xử con và hoặc sẽ đày con xuống đia ngục hoặc đưa con lên thiên đàng. Họ còn tìm cách phóng chiếu là thày, trong tư cách Ki-tô Hằng sống hay Ki-tô Hành tinh, đang phán xét các con và sẽ hoặc giơ ngón cái lên để cho con vào thiên đàng hay hạ ngón cái xuống để đày con xuống đia ngục. Các thày đã tìm cách giúp con thấy là đây không phải là sự thật.

Trong hai năm vừa qua, đặc biệt là các vị Chân sư Nữ và chính yếu là Mẹ Mary, đã tìm cách giúp con thấy là các thày hoàn toàn không phán xét con, và điều chắc chắn là các thày không phán xét con như sa nhân phán xét con và như sa nhân đã khiến con phán xét chính mình. Thày muốn con rất rất rất rõ trong tâm là thày không muốn trao truyền giáo lý này và nêu câu hỏi kia ra vì thày muốn con phán xét chính mình và cảm thấy hổ thẹn vì con đã không biểu hiện một trạng thái cao hơn của quả vị Ki-tô. Mục đích của Ki-tô Hằng sống là gì? Mục đích của thày, như Ki-tô Thăng thiên, là gì? Mục đích của tất cả các chân sư thăng thiên là gì? Con yêu dấu, các thày chỉ có một mục đích duy nhất. Thày xin các con hãy ghi chặt trong tâm là các chân sư thăng thiên chỉ có một mục đích duy nhất. Đó là giải thoát con. Tâm con sẽ nói ngay tức khắc: “Giải thoát khỏi cái gì? Các chân sư thăng thiên muốn giải thoát con khỏi cái gì?” Các thày muốn giải thoát con khỏi cái tâm đang đặt ra câu hỏi đó vì chính cái tâm đó đang khiến con bị mắc kẹt.

3.3. Làm cách nào truyền ra giáo lý

Con yêu dấu, con hiểu chăng là các thày trên cõi thăng thiên luôn luôn giám sát hiện trạng hành tinh? Các thày có tầm nhìn rất dài hạn, và trong một thời gian rất dài, các thày bị giới hạn trong những gì các thày có thể làm, giáo lý nào có thể truyền ra. Con có hiểu chăng là nếu con nhìn lại giáo lý mà các thày đã trao truyền từ gần một thế kỷ vừa qua, thì con có thể tự hỏi: “Tại sao các giáo lý này không được trao truyền sớm hơn?” Ấy, chính thực là các giáo lý đó đã được trao truyền sớm hơn, nhưng trong một khung cảnh riêng tư, thường là bí mật.

Lúc trước không có cách nào trao truyền các giáo lý đó một cách công cộng. Nguyên do một phần là vì sa nhân đã thành công trong việc hủ hóa Cơ đốc giáo và biến Cơ đốc giáo thành dụng cụ chính yếu để thực sự che giấu giáo lý chân thực của Ki-tô, và giáo lý đó có mục đích giải thoát con người. Suốt nhiều thế kỷ, ở Châu Âu và các nơi khác, không thể nào giảng công cộng các giáo lý mà các thày đang trao truyền. Lẽ dĩ nhiên, cũng có thêm khía cạnh hoàn toàn thực tiễn, thực dụng là làm sao phân phối giáo lý.

Các con có lẽ cũng biết là trong thập niên 1930 các thày có bảo trợ một tổ chức tên là Phong trào TA LÀ (I AM Movement). Khi con nhớ lại thời đại đó, là một điều mà những người trong các con đã lớn lên trong thời đại mạng Internet khó lòng mường tượng, thì con thấy là phương tiện truyền thông chính yếu của thời đó là hệ thống bưu điện. Sa nhân đã làm được chuyện gì? Họ đã khiến chính phủ liên bang Hoa Kỳ ngăn chặn không cho Phong trào TA LÀ, ít nhất là trong một thời gian, sử dụng hệ thống bưu điện. Con thấy là chỉ sau khi mạng Internet ra đời thì các thày mới có cơ hội tốt hơn để trao truyền giáo lý và đem giáo lý tới một cử tọa rộng lớn hơn.

3.4. Điều gì ngăn chặn quả vị Ki-tô

Lẽ dĩ nhiên, các thày cũng luôn luôn giám sát tâm thức tập thể và sự tăng triển của tâm thức tập thể. Trong hầu hết mọi thời đại đều có một số người, một số ít cá nhân, đã mở tâm đón nhận giáo lý dạy cách giải thoát chính mình. Nhưng chỉ trong một hoặc hai thập niên cuối tâm thức tập thể mới lên tới mức để các thày có thể trao truyền các giáo lý thật sự rất tiên tiến và tinh vi mà các thày đã trao truyền qua vị sứ giả này, khởi đầu bằng chủ đề tâm thức nhị nguyên, tư duy cuồng đại cho đến các giáo lý cuối liên quan đến chấn thương nhập đời.

Giờ đây con yêu dấu, thày Quân Âm đã cho các con nhiều chìa khóa quan trọng trong bài truyền đọc, mà thày khuyên các con nên nghiên cứu nhiều lần, nhưng thày sẽ xây dựng thêm trên nền móng mà Quan Âm đã thiết lập. Một lần nữa, câu hỏi: Có nhiều người đã được nhận giáo lý vỏ ngoài là Giê-su Ki-tô không phải là một ngoại lệ mà là một tấm gương mà mọi người có thể noi theo nếu họ chịu chuyên cần áp dụng giáo lý. Nhiều người trong số các người đó cũng đã được trao truyền một số dụng cụ tâm linh thực tiễn như: cầu thỉnh ánh sáng tím, các bài chú và các dụng cụ khác mà họ có thể sử dụng. Vì sao rất nhiều người đã không thể nhập và áp dụng giáo lý và dụng cụ tới điểm họ thể hiện được quả vị Ki-tô? Một lần nữa, thày không trách cứ ai, con yêu dấu. Thày không trách cứ, thầy cũng không nói là con đáng lẽ phải thể hiện một trình độ cao hơn của quả vị Ki-tô. Các thày chỉ muốn có một cuộc nói chuyện để xem xét một cách bình tĩnh và vô tư cơ cấu đang ngăn chặn con người thể hiện quả vị Ki-tô.

Lẽ dĩ nhiên, lý do vì sao các thày đã rất thận trọng và tuần tự trao truyền các giáo lý vì chúng đều liên quan tới điều mà các thày nay gọi là chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu. Nói cách khác, dù con là một cư dân nguyên thủy của trái đất hay con đã tới đây từ một thế giới khác, một hành tinh khác, có thể là một hành tinh tự nhiên, thì đề tài này cũng áp dụng cho con. Sự kiện đơn giản là (và các thày đã nói điều này nhiều lần nhưng thày lặp lại ở đây): khi con đầu thai lần đầu trên một hành tinh như trái đất (kể cả các con đã đầu thai ở đây nhiều lần rồi) và giáp mặt sa nhân lần đầu và trải nghiệm ý chí vô giới hạn sẵn sàng làm ác của họ, muốn hành hạ con và người khác, thì con bị một cú sốc, một chấn thương. Chuyện này đã xảy ra cho tất cả chúng ta đã từng đầu thai trên trái đất.

3.5. Chê trách mình vì đã phản ứng

Một lần nữa, không ai chê trách ai, không có lý do gì để cảm thấy tiếc nuối, nhưng một số các con, nhiều người trong các con, vẫn tự chê trách mình. Con yêu dấu, con vẫn nghĩ, như vị sứ giả này vẫn nghĩ cho tới khi ông nhận được giáo lý về ngã gốc vào tháng 12 vừa qua, là con đáng lẽ phải tìm ra được một cách nào đó để tới đây như một avatar mà không bị suy suyển bởi những gì xảy ra trên trái đất, con đáng lẽ phải tránh để tay mình lấm bùn.

Con yêu dấu, đây chỉ là một cái ngã cảm thấy như vậy, và thày cần con tới điểm thấy một cách có ý thức cái ngã đó, thấy nó là một cái ngã, thấy nó hiện diện trong thể bản sắc của con và lan cả xuống thể lý trí và thể tình cảm. Thày cần con bước lui lại và tách mình ra khỏi ngã đó, là cái ngã nghĩ con đáng lẽ phải hành xử khác hơn. Ngã đó cũng là cái ngã sẽ lấy giáo lý mà thày đang trao truyền và nói: “Tôi đáng lẽ phải thể hiện quả vị Ki-tô sớm hơn, và tại sao tôi đã không làm vậy?”

Ấy, con yêu dấu, vì sao con đã không thể hiện quả vị Ki-tô sớm hơn? Con đã không làm được vì con trước đây không có hiểu biết và các giáo lý để đối phó với ngã gốc. Điều duy nhất nào, điều tuyệt đối duy nhất nào, đã ngăn chặn người tầm đạo chân thành biểu lộ quả vị Ki-tô? Con hãy ghi nhận! Thày không nói tất cả mọi người vì khi con nhìn vào tập thể con người trên trái đất, thì họ có nhiều cái ngã khác nhau ở nhiều trình độ khác nhau. Thày muốn nói tới những người tầm đạo chân thành đã nghiên cứu giáo lý của các thày, đã áp dụng giáo lý, có khi suốt nhiều năm. Điều duy nhất nào đã ngăn cản con là Ki-tô Hằng sống đang hành động? Ấy, điều duy nhất đó là ngã gốc.

Quân Âm đã thuyết giảng đề tài này, và thày sẽ tiến thêm bước nữa. Khi con giáp mặt sa nhân lần đầu (hay ít nhất là khi con lần đầu nhận ra là họ có khả năng làm ác vô giới hạn, họ không có giới hạn hay lằn ranh nào ngăn cản họ làm hại người khác hay giới hạn hình thức tàn phá và đau khổ mà họ tạo ra) thì con bị một cú sốc. Cú sốc đó lớn đến độ con thực sự không thể sống với nó, con không thể xử lý nó.

3.6. Con đã tạo ngã gốc như thế nào

Tình trạng của con như sau: lúc đó con đang ở trong một thân thể vật lý, con không thể rút mình ra khỏi thân thể vật lý, con không thể giản dị bước lui lại và nói: “Ồ, tôi không muốn ở trên hành tinh này nữa, tôi cởi bỏ thân thể vật lý này và tôi trở về hành tinh nơi tôi ở trước kia.” Con không thể làm việc này được! Con ở đây, con ở trong thân thể vật lý, con nhận ra là có những sinh thể (các thày đã gọi họ là sa nhân, con có thể đã thấy họ như cái gì khác) sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để hại con và tiêu diệt con hay các người khác. Con không tránh xa họ được nhưng con không thể sống với ý nghĩ họ đang có mặt ở đây, với nỗi sợ họ sắp làm thêm điều gì đây.

Khi con quan sát tất cả các khổ đau mà sa nhân tạo ra, thì con bỗng nhiên giáp mặt một tình trạng khó xử. Con đang ở trên trái đất, con không thể rời trái đất và do đó con phải tìm ra một cách để sống ở đây trong khi vẫn biết rằng sa nhân cũng có mặt ở đây. Con làm sao giải quyết vấn đề này? Ấy, con giải quyết vấn đề bằng cách tạo ra ngã gốc. Như thày Quan Âm có giảng, ngã gốc có nhu cầu tạo ra một quan niệm tổng quát về trái đất, về cách trái đất vận hành, vì sao Thượng đế lại để cho cái ác có mặt, tại sao cái ác lại có mặt trên trái đất. Con cũng nhận ra một khía cạnh của ngã gốc có mục đích chính yếu khiến con cảm thấy an toàn, giúp con cảm thấy thăng bằng khi sống trên trái đất này.

Điều thày muốn nói là: trước khi con gặp gỡ sa nhân, con cảm thấy tương đối an toàn. Con có một cảm nhận thăng bằng, một cảm nhận liên tục, một cảm giác tin tưởng nơi cuộc sống, tin tưởng vào tương lai. Khi con gặp gỡ sa nhân và thấy họ không có giới hạn nào cho ý muốn làm điều ác, thì con bỗng nhiên đánh mất đi điều mà ta có thể gọi là sự ngây thơ của tuổi thơ. Con mất đi cảm giác an toàn, an ninh, thăng bằng nội tại. Mục đích chính yếu của ngã gốc là tái lập nơi con một cảm giác an toàn, một cảm giác thăng bằng nào đó, và nó làm công việc này thế nào? Nó làm công việc này bằng nhiều cách. Nó tạo ra nhiều cái ngã, tùy theo nội dung tâm lý của riêng cá nhân con, tùy theo những gì con trải nghiệm, không những trong kiếp đầu thai đầu khi con gặp gỡ sa nhân và còn trong những kiếp sau đó. Nó là một cơ chế khá phức tạp, tuy nhiên điều thày muốn trao truyền là có một khía cạnh của ngã gốc muốn tạo cảm giác an toàn, thăng bằng, phần nào làm chủ cuộc sống và cuộc sống của con trên trái đất.

Con yêu dấu, một lần nữa các thày không chê trách con. Các thày không nói các điều này sai trái. Các thày không nói là đáng lẽ con không nên làm như vậy – tất cả chúng ta đều đã làm như vậy.  Con có thể làm gì khi bị cú sốc khi gặp gỡ nhũng sinh thể sẵn sàng làm bất cứ gì để tiêu diệt mình? Điều con nay có thể làm, và con đã có giáo lý để làm việc này, là con bắt đầu nhìn vào ngã gốc, khía cạnh của ngã gốc muốn an toàn, muốn kiểm soát.

3.7. Kiểm soát thế giới để cảm thấy an toàn

Ta có thể nói một cách thật thẳng thắn là khía cạnh này của ngã gốc muốn kiểm soát thế giới để nó cảm thấy được an toàn. Cơ cấu rất giản dị: nếu con cảm thấy mình làm chủ tình hình, thì con cảm thấy an toàn. Nếu con nhìn một cách thành thực, thì con thấy đây là động lực thúc đẩy rất nhiều sa nhân. Họ cảm thấy không an toàn một cách cơ bản, và vì họ không bao giờ trở về được với cái một (trừ phi họ quay đầu đi ngược lại, là điều mà họ không chịu làm) nên họ không thể khắc phục cảm giác không an toàn, và đó là lý do họ phải có kiểm soát tối hậu.

Vì sao Stalin lại sẵn sàng giết hại hàng triệu người? Vì y có nhu cầu kiểm soát đó. Điều này chỉ cho con thấy là y có một nỗi sợ hãi rất lớn, và do đó y có một trình độ tâm linh rất thấp. Nếu con cần giết người khác để cảm thấy được an toàn, thì dĩ nhiên con có một nỗi sợ khủng khiếp, và nỗi sợ này làm chủ đời con. Do đó, bất kể thế giới thấy con như thế nào, con là một sinh thể bất lực. Con bên ngoài có thể có nhiều quyền lực, nhưng trong nội tâm thì con bất lực. Stalin là một trong những sinh thể bất lực nhất mà con thấy trong lịch sử cận đại. Lẽ dĩ nhiên, Hitler cũng bất lực như vậy, và Mao Trạch Đông còn bất lực hơn cả hai người kia nữa.

Con thấy những điều này và do đó con cần nhận ra là con có khuynh hướng đó, và khuynh hướng đó dễ hiểu và không thể tránh, nhưng điều con có thể tránh là vác cái ngã đó theo mình cho đến hết kiếp sống này. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền giáo lý này, để giúp con vứt bỏ gông cùm nặng chĩu của sự ghiền nghiện an toàn, của cái ngã muốn kiểm soát một cách bệnh hoạn mà con có trong thể bản sắc của con. Con có thể tới điểm nhìn vào nó, thấy nó, thấy nó như nó là, bước lui lại và nhận ra: “Đây không phải là tôi. Đây không phải là tôi”.

Giờ đây con yêu dấu, các thày là chân sư thăng thiên biết rất rõ là các thày phải giữ một cân bằng tế nhị khi hành xử. Để giải thoát các con, các thày cần làm hai chuyện. Thứ nhất, các thày cần giúp con thấy là con không tự do. Điều này có thể khiến con rất rất bức xúc. Con có biết vì sao con lại bức xúc? Ấy, con cảm thấy bức xúc vì cái ngã kiểm soát mà con đã tạo ra để có được cảm giác an toàn và thăng bằng, cần cảm thấy nó có một hiểu biết cơ bản về cách hành tinh này vận hành.

Lẽ dĩ nhiên, con bị mắc kẹt vì cái ngã đó. Chính cái ngã đó đã giam hãm con hơn bất cứ gì khác. Khi các thày bắt đầu phơi bày sự hiện diện của cái ngã đó, thì nó sẽ phản ứng ra sao? Nó sẽ coi việc phản bác lời giảng của các thày là chuyện sống còn của nó, để con không chấp nhận điều các thày nói, không coi điều các thày nói là quan trọng, không đem ra áp dụng điều các thày nói. Con có thể nhìn vào chính mình, và một thử nghiệm rất tốt là con lấy quyển Các cuộc đời của tôi và xem xét con phản ứng ra sao với quyển sách đó. Quyển sách càng khiến con bức xúc bao nhiêu, thì càng chứng tỏ là con có cái ngã đã quen cảm thấy, có thể qua nhiều kiếp sống, là nó phần nào nắm được cách thế giới vận hành. Nó làm chủ được tình hình, nó đã tìm ra một hệ thống ấn định rằng nếu con làm một số việc và không làm một số việc khác, thì con sẽ được an toàn.  

3.8. Khắc phục cái ngã muốn kiểm soát một cách bệnh hoạn

Giờ đây con yêu dấu, ta có thể coi là cái ngã đó có phần đúng. Điều kiện chính yếu nào khiến con không được an toàn trên trái đất? Đó là sa nhân. Vì sao họ lại tấn công con? Vì sao họ tìm cách tiêu diệt con? Đó là vì nỗi sợ cơ yếu nhất, lớn nhất của họ là có ai trở thành Ki-tô Hằng sống, có ai dám biểu hiện quả vị Ki-tô. Đó là nỗi sợ cơ yếu nhất của họ. Do đó, khi có ai tới hành tinh này hay đã nâng mình lên một trình độ nào đó của quả vị Ki-tô, thì họ sẽ tìm đủ mọi cách để tiêu diệt người đó và ngăn chặn không để người đó biểu hiện quả vị Ki-tô.

Chuyện gì xảy ra khi con giáp mặt sa nhân và trải nghiệm là họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì trong khả năng họ để tiêu diệt cá nhân con? Con bị một cú sốc, một chấn thương, và kết quả là con tạo ra một khía cạnh của ngã gốc muốn kiểm soát. Một lần nữa, điều này dễ hiểu. Con ở trong cõi vật lý, con trải nghiệm là có người muốn giết con, muốn tra tấn, chê bai, hạ nhục con, làm tất cả gì họ có thể làm để hủy hoại con. Con không thể ra khỏi thân xác này. Con có thể không có khả năng rời xa họ. Con có thể làm gì để có thể sống sót trong tư tưởng và cảm xúc không những trong kiếp sống này mà còn trong các kiếp sống tới? Ấy, cái ngã kiểm soát nhận ra rất nhanh là theo nhận thức của nó, cách duy nhất để cảm thấy an toàn trên trái đất là không là Ki-tô trên trái đất, không thách thức sa nhân. Nếu con không thách thức sa nhân bằng cách là Ki-tô, thì họ sẽ không đụng đến con, và nhận định này đúng. Nếu con không thách thức sa nhân, họ sẽ để con yên. Con nhận ra ở đây là cái ngã kiểm soát đã tạo được cảm nhận là nó sẽ được an toàn, an ninh nếu nó ở trong một số giới hạn và không làm gì để thách thức sa nhân.

Một số các con đã sống với cảm giác an ninh này trong nhiều, nhiều nhiều kiếp. Đúng thực là tất cả các con đều có ít nhiều cảm giác an ninh. Không phải tất cả các con đều có cảm giác này suốt nhiều kiếp vì một số các con đã phải chịu cảnh chiến tranh hay biến cố chấn thương khác trong một kiếp gần đây. Do đó con không có được cảm giác an ninh trong suốt một khoảng thời gian dài, nhưng một số khác đã có được cảm giác an ninh trong một thời gian rất dài. Chuyện gì xảy ra khi các thày trao truyền giáo lý về ngã gốc và quả vị Ki-tô? Điều xảy ra, như Quan Âm đã giảng, là con trải qua một giai đoạn sử dụng giáo lý của các chân sư thăng thiên để củng cố cảm tưởng của ngã kiểm soát là nó làm chủ tình hình trên trái đất.

Con cũng có thể lấy giáo lý mà các thày đã trao truyền và sử dụng nó để củng cố một thế giới quan nào đó. Một lần nữa, ta trở lại câu hỏi ở trên: vì sao các thày đã trao truyền các giáo lý này đã mấy thập niên mà có quá ít người đã có thể biểu lộ quả vị Ki-tô? Đó là vì đa số những người theo giáo lý chân sư thăng thiên đã không thách thức khía cạnh kiểm soát của ngã gốc, cái ngã kiểm soát. Họ không bao giờ thách thức nó. Một phần là vì họ không có giáo lý vì các thày đã phải tiến hành một cách tuần tự và dần dần xây dựng cơ sở giáo lý. Một lần nữa, thày không chê trách ai cả. Thày không có cảm nghĩ: “Ồ, họ đáng lẽ phải có khả năng làm chuyện này.” Thày chỉ đơn giản mô tả chuyện đã xảy ra để các con nào mở tâm đón nhận có thể hiểu và vươn lên cao hơn.

3.9. Trì hoãn biểu hiện quả vị Ki-tô

Con yêu dấu, con người đã làm gì với giáo lý chân sư thăng thiên? Họ đã tạo ý niệm là: “Đúng rồi, tôi thấy là Giê-su đã đầu thai để là một tấm gương và tôi thấy là tôi có tiềm năng biểu hiện quả vị Ki-tô.” Trong những đợt truyền giáo trước, các đệ tử chú tâm nhiều hơn đến việc hội đủ điều kiện để thăng thiên, giống như con thấy nhiều người trong các phòng trào Cơ đốc giáo chú tâm vào việc được cứu rỗi. Nói cách khác, các thày có giảng trước đây là giáo hội Công giáo đã từ khởi thủy quy định mục đích cuộc sống trên trái đất là chịu đau khổ, rằng con chỉ là một tội đồ, con không có tiềm năng là Ki-tô trên trái đất, điều con cần quan tâm là chuyện gì xảy sau kiếp sống trên trái đất để con có thể được cứu rỗi và lên thiên đàng. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã giản dị lấy giáo lý của các thày và xây dựng ý niệm là mục đích chính yếu của đệ tử chân sư thăng thiên là hội đủ điều kiện thăng thiên. Lẽ dĩ nhiên, chuyện này xảy ra ở cuối hay sau kiếp sống này.

Quan niệm này, một lần nữa, lại dùng giáo lý để trì hoãn việc là Ki-tô, trì hoãn việc trải qua một thay đổi quyết định. Con như nói rằng: “Ồ, tôi chỉ cần kêu gọi đủ ánh sáng tím trong phần còn lại của cuộc đời để quân bằng ít nhất 51 phần trăm nghiệp, và sau đó tôi sẽ thăng thiên sau kiếp sống này và tôi sẽ không phải là Ki-tô, tôi không phải thách thức sa nhân.” Một lần nữa, thày không chê trách ai mà chỉ muốn có một cuộc thảo luận thẳng thắn, trực tiếp, giản dị về chuyện gì xảy ra.

Lẽ dĩ nhiên, các thày đã bắt đầu trao truyền một số giáo lý xuyên qua vị sứ giả này, thực sự là ngay từ đầu, đã rất thách thức và đi xa hơn những gì được truyền giảng trong các đợt truyền giáo trước, như: tâm thức nhị nguyên, tư duy cuồng đại. Nếu con nhìn tiến trình trao truyền giáo lý qua vị sứ giả này, thì con thấy đã có một số giai đoạn trong đó các thày đã nâng giáo lý lên một tầng cao hơn. Một số các đệ tử đã từng tham gia các đợt truyền giáo trước đã không chịu được các giáo lý mới này. Họ đã làm gì? Ấy, họ đã phải dựng lên một loại kịch bản cho họ một cớ để rút lui, thậm chí nói vị sứ giả đã trở thành một sứ giả giả, đã không còn được các thày ủy quyền, hay một số điều khác.

Tất cả các chuyện này đều bắt nguồn từ sự kiện các giáo lý đó thách thức ý niệm an ninh của ngã kiểm soát của các người đó. Họ đã dùng các giáo lý trước để củng cố ý niệm họ làm chủ tình hình. Giờ đây thì các thày trao truyền giáo lý mới làm xáo trộn ý niệm làm chủ tình hình nơi một số người. Họ đã tới điểm, ít ra là trong tiềm thức, nhận ra là họ thực sự không thể chấp nhận giáo lý này và đồng thời bảo tồn ý niệm làm chủ tình hình của họ. Giáo lý đã thách thức một trong những ảo tưởng mà họ đã sử dụng để xây dựng ý niệm họ làm chủ tình hình.

Họ tới điểm bắt buộc phải chọn lựa: Con nóng hay lạnh? Con có sẽ theo Ki-tô Hằng sống hay không? Họ đã chọn không theo và họ cần tìm ra một bào chữa, và bào chữa tiện lợi là (giống như trong các đợt truyền giáo trước): “Ồ, vị sứ giả đã không còn được các thày ủy quyền, ông ấy hay bà ấy đang trao truyền giáo lý giả, các chân sư không còn bảo trợ tổ chức này nữa, các chân sư không bao giờ có thể nói những chuyện như vậy, các chân sư không bao giờ nói thẳng là không nên ăn đường.” Vân vân và vân vân. Các thày đã thấy những lời bào chữa này từ đệ tử chân sư thăng thiên trong nhiều thập niên nay. Một lần nữa, thày không chê trách ai, thày không có ý niệm chuyện gì đáng lẽ phải làm và đáng lẽ không được làm, nhưng các thày phải nói là với tầm nhìn từ cõi thăng thiên, các thày đã tới điểm thấy cái ngã nhân gian, cái ngã kiểm soát này, hành xử quá nhiều lần nên đã đến lúc các thày đơn giản nêu vấn đề một cách thẳng thắn và công khai để không ai có thể giải thích bẻ quẹo đi.

3.10. Mục đích kiếp sống này của con là gì?

Sự kiện đơn giản là: khi thày hiện thân trên trái đất trong một thân thể vật lý, thì thày đã nhiều lần thách thức con người. Một lần nữa, con nhận ra là thày chỉ có ba năm và thày phải thách thức con người: họ muốn theo thày và vươn lên cao hơn, hay họ ở lại nơi họ cảm thấy an ninh, an toàn. Một lần nữa, thày phải làm công việc này ở đây. Một lần nữa, thày sẽ không chê trách ai, thày sẽ không nói con phải làm gì và không được làm gì. Ở đây, con cần nhận ra, con cần quyết định là mục đích của con trong kiếp sống này là gì. Con có thể quyết định là con thoải mái ở trình độ làm đệ tử chân sư thăng thiên và hiểu biết giáo lý. Con có thể tiếp tục thực hành giáo lý ở tầng đó, nhưng con cần tự hỏi phải chăng mục đích mà con muốn hoàn thành, điều mà các thày đã gọi vào đầu mùa hạ, là tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con? “Mục đích của tôi có phải chăng là biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng cao hơn những gì tôi đã làm được cho tới nay?” Nếu đây là mục đích của con, và một lần nữa thày không chê trách con, thày còn không nói là nếu đây không phải là mục đích của con, thì con nên rút lui khỏi giáo lý. Con vẫn có thể tiếp tục nghiên cứu giáo lý bằng bất cứ cách nào con muốn. 

Điều mà thày cần trải bày trước mắt con là: con không thể là Ki-tô Hằng sống đồng thời duy trì cảm giác được an ninh và làm chủ tình hình. Chuyện này không thể làm được, con không thể thờ hai chúa, con không thể thờ Thượng đế và thế gian. Thế gian ở đây là biểu tượng của khía cạnh của ngã gốc luôn luôn muốn làm chủ tình hình để cảm thấy an toàn.

Con có câu ngạn ngữ trong ngôn ngữ Hoa Kỳ: “An toàn hơn ân hận,” nhưng câu này do sa nhân đề ra vì Ki-tô vừa không an toàn vừa không ân hận. Đó là một trạng thái tâm thức mà con chỉ đạt được khi con nhìn vào khía cạnh kiểm soát của ngã gốc, sẵn sàng nhìn nó, tách mình ra khỏi nó và để cho nó chết đi, như các thày đã giảng và cho con dụng cụ để làm. Một lần nữa, các thày không định ra một mục đích mà các con không thể đạt được vì các thày đã rất thận trọng, đã đi từng bước trong việc trao truyền giáo lý và dụng cụ, để con có thể thành công.  

3.11. Con người đã làm gì để được cảm thấy an toàn

Con yêu dấu, nếu con nhìn ngược dòng lịch sử, thì con thấy có một số người đã rất thiện xảo trong việc kiểm soát ngoại cảnh của họ để được cảm thấy an toàn, đến độ họ đã tạo ra động lượng tự cô lập và cách ly khỏi thế giới. Tỷ dụ, con có thể thấy là thời Trung cổ, có nhiều vị vua, hoàng hậu và giới quý tộc đã thành công trong việc đạt được địa vị cao và sống một cuộc đời thoải mái, đặc quyền. Họ đã xây các bức tường dày và có đạo quân bao bọc chung quanh họ và họ đã sống trong tháp ngà và cảm thấy an toàn vì họ đã tự cô lập và cách ly khỏi những gì xảy ra trên thế giới. Họ không thực sự thấy sự thống khổ của thần dân họ, những người đang gìn giữ nếp sống của họ, giúp họ được cảm thấy an toàn.

Con thấy có những người đã dùng giáo lý tâm linh để xây dựng một tu viện hay một loại tịnh thất tâm linh nơi họ sống, một lần nữa, cô lập và cách ly khỏi thế gian. Một số các con đã làm điều này trong các kiếp trước. Đây có thể là một hành động xây dựng trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng nếu đó là cái ngã kiểm soát của con mong muốn được cảm thấy an toàn, thì nó không còn giúp con tăng triển nữa.

Thày muốn con ngẫm nghĩ chuyện sau đây. Nếu con đọc Phúc âm Tô-ma (Gospel of Thomas) thì con thấy trong đó có nói là con sẽ tới điểm con có được một số hiểu biết và sau đó con sẽ bị xáo trộn, nhưng khi con vượt qua sự xáo trộn thì con sẽ cai quản tất cả, nghĩa là chính tâm mình. Con sẽ là một vị điều ngự, con sẽ có tự điều ngự.

Điều thày đang cho con là hiểu biết con có một khía cạnh của ngã gốc muốn làm chủ tình hình. Khi thày trao cho con hiểu biết này, thì con sẽ bị xáo trộn, vì ngã đó sẽ phản ứng như là mạng sống của nó bị đe dọa – và mạng sống của nó quả thực bị đe dọa. Khi con thấy là con không cần ngã đó nữa, thì con có thể để nó chết đi, và nó sẽ chết đi. Nó không muốn chết, do đó nó sẵn sàng giữ con bị mắc kẹt trong cảm nhận bất an toàn để duy trì sự hiện hữu của nó. Con sẽ bị xáo trộn, nhưng khi con dùng các giáo lý và dụng cụ tâm linh để giải thoát mình khỏi khía cạnh đó của ngã gốc và để nó chết đi, thì con sẽ được bình an. Lúc đó, con sẽ cảm thấy tự do, và con sẽ có một cảm giác tự do mới mà hiện nay con không thể tượng tượng nổi.

3.12. Con an toàn như một sinh thể vô hình tướng

Làm sao con tới được điểm đó? Ấy, các thày đã trao cho các con biết bao nhiêu giáo lý về cái Ta Biết. Tầm quan trọng của giáo lý đó là: con thực sự đầu thai ở đây như một sinh thể vô hình tướng đã đi xuống thế giới hình tướng. Các thày có nói là để phát biểu trong thế giới hình tướng, con cần tạo ra một số cấu trúc trong bốn thể phàm nhưng con không là các tạo vật này. Điều đã xảy ra khi con bị chấn thương nhập đời là con đã tạo ra ngã gốc và con bắt đầu nghĩ con là ngã gốc, hay ít ra là con phải là nó để được an toàn trên trái đất. Nếu con thực sự dùng các giáo lý về cái Ta Biết, thì con có thể nhận ra con vẫn là một sinh thể vô hình tướng, và với tư cách một sinh thể vô hình tướng, con không thể bị tổn thương bởi bất cứ điều gì xảy ra trên trái đất. Con có thấy chăng điều thày đang cống hiến con? Thày đang bày ra trước mặt con sự sống và cái chết. Thày đang bày ra trước mặt con hai chọn lựa. Một bên là tâm thức chết, do cái ngã kiểm soát đại diện, nó nghĩ con chỉ có thể an toàn khi con làm chủ thế gian. Nó thực sự nghĩ là cách duy nhất để được an toàn (tối hậu) trong thế giới này là kiểm soát toàn bộ thế giới. Đó là cái chết, vì lẽ dĩ nhiên, con sẽ không bao giờ kiểm soát được thế giới hoàn toàn. Không một cá nhân nào sẽ có thể làm được điều này.

Chọn lựa kia là sự sống. Đó là con nhận ra là con không cần kiểm soát thế giới để được an toàn. Con cần nối kết trở lại. Con cần thức tỉnh trở lại. Con cần biết một cách ý thức con là một sinh thể vô hình tướng. Lúc đó, con nhận ra là con được an toàn trong thế giới này ngay khi thế giới ở trong trạng thái hiện nay. Con có thể an toàn mà không cần kiểm soát thế giới, và con yêu dấu, chỉ khi nào con cảm thấy an toàn mà không cần kiểm soát thế giới thì con mới có thể bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô. Chỉ lúc đó thì con mới dám thách thức sa nhân. 

Con yếu dấu, thày không muốn chỉ trích bất cứ cá nhân nào, nhưng con thấy là trong quá khứ có những người đã quá quan tâm bị sa nhân tấn công hay tiêu diệt, nên họ lúc nào cũng muốn tự bảo vệ họ khỏi nguy cơ đó. Làm sao con có thể sống như vậy lâu dài? Lúc nào cũng lo bảo vệ mình là một căng thẳng quá lớn, và trong thời đại này, hy vọng là con sẽ không bị sa nhân giết hay tra tấn, vì con người đã vượt qua giai đoạn này. Ta có thể nói là ngày nay, con có thể biểu lộ quả vị Ki-tô an toàn hơn trong quá khứ. Tuy nhiên, con vẫn cần tới được điểm khắc phục nỗi sợ sa nhân. Họ không điều khiển cuộc đời con, họ không là khung tham chiếu của con. Các chân sư thăng thiên, Hiện diện TA LÀ của con, thế giới vô hình tướng là khung tham chiếu của con. Đó là lúc con cảm thấy an toàn khi biểu hiện quả vị Ki-tô.

Làm sao con có thể thở thành Ki-tô hành động? Ấy, con không thể là Ki-tô hành động khi con còn cái ngã kiểm soát trong thể bản sắc, nó cảm thấy biểu lộ quả vị Ki-tô sẽ khiến con mất an toàn và nó sợ chuyện gì có thể xảy ra nếu con biểu hiện quả vị Ki-tô.

3.13. Khắc phục nhu cầu an toàn

Con yêu dấu, con cần tìm ra cách khắc phục ý muốn kiểm soát thế giới để thỏa mãn nhu cầu an toàn. Đây là điều mà thày đã giúp con nhận thức. Như thày đã nói, các thày đã trao truyền cho các con giáo lý về ngã gốc, và cách khắc phục nó. Nếu con sử dụng giáo lý đó, nếu con sẵn sàng buông bỏ ngã gốc, nếu con sẵn sàng bị xáo trộn tạm thời cho tới khi con áp dụng giáo lý, thì con sẽ tới điểm con được giải thoát.

Như các thày có nói trước đây, một cái ngã nội tại lúc nào cũng được tạo ra để giải quyết một vấn đề nào đó trên trái đất. Nó được thiết kế với một lập trình và một cấu trúc để giải quyết vấn đề đó. Ngã đó sẽ tiếp tục phóng chiếu tới con là vấn đề có thật, vấn đề đó hiện hữu, vấn đề đang ảnh hưởng con và con phải làm điều gì đó để giải quyết vấn đề. Cái ngã kiểm soát đó sẽ phóng chiếu tới con là: “Cái ác có thật, có một nguy cơ thật, con có thể bị hành hạ, con cần cảm thấy an toàn, con cần phải làm điều gì đó để cảm thấy an toàn.” Con yêu dấu, có điểm (mà ngay Thánh kinh cũng đã đề cập) mà thày nói với người muốn chôn cất thân sinh: “Điều đó đâu có ý nghĩa gì với con, con hãy theo ta, và để người chết chôn cất người chết.” 

Con có sẵn sàng cùng thày đi lên một tầng tâm thức cao hơn chăng? Nếu có, thì con hãy nắm lấy bàn tay mà thày chìa ra và để thày dẫn con đi cho tới lúc con đã neo mình thật chặt vào Ki-tô nên có thể nhìn ngã kiểm soát và nói: “Tôi không còn cần bạn nữa vì nay tôi đã nắm tay Giê-su Ki-tô thăng thiên, và đó là sự an toàn của tôi. Trong Ki-tô tôi được an toàn, tôi được cứu rỗi, tôi được nối kết với cái Một, tôi biết tôi là một sinh thể vô hình tướng và do đó không thể bị tiêu hủy hay đe dọa bởi bất cứ điều gì trong thế gian này. Tôi về nương tựa nơi Ki-tô, không nơi cái ngã vỏ ngoài muốn kiểm soát thế giới.”

Con yêu dấu, con muốn gì, cái chết hay sự sống? Đây không phải là một chọn lựa được-hết-hay-mất-hết, như thày đã nói. Thày nhận ra là một số người chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý này. Con có thể cần thời gian trước khi cảm thấy sẵn sàng. Nếu như vậy thì con hãy tiếp tục học hỏi giáo lý và áp dụng giáo lý trong phạm vi khả thi. Nhưng một số các con đã sẵn sàng để bước lên một tầng cao hơn.

Con không thể, con không thể biểu lộ quả vị Ki-tô, con không thể sánh vai đi cùng thày, con không thể nắm tay thày khi con chưa bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, cái ngã kiểm soát nhất định cần cảm thấy nó làm chủ thế gian. Do đó, nó không thể bỏ lại lưới đánh cá để cùng đi với Ki-tô Hằng sống, bỏ lại tất cả đằng sau. Con không cần bỏ lại tất cả đằng sau theo nghĩa vỏ ngoài, nhưng con cần bỏ ngã đó lại đằng sau. Đó là điều duy nhất ngăn trở con biểu lộ quả vị Ki-tô.

3.14. Các chân sư phải giữ cân bằng tế nhị

Con yêu dấu, các thày luôn luôn phải giữ một cân bằng tế nhị. Con có thể tiếp nhận được tới đâu? Điều gì con không thể chấp nhận? Con sẵn sàng nhận điều gì? Con không sẵn sàng nhận điều gì? Khi thày hiện thân trên trái đất, có nhiều lần thày đã thách thức con người một cách rất trực tiếp. Các thày đã kể câu chuyện là thày đi tới trước mặt một số đệ tử và nói: “Hãy buông lưới đánh cá và theo ta.” Sau đó, thày quay lưng lại và bước đi, và nếu họ không đi theo thày thì họ đã lỡ cơ hội. Đây không phải là cách các thày ứng xử bây giờ với các giáo lý này. Các thày nhận ra là các con có thể cần thì giờ để thể nhập giáo lý, để hoàn toàn đón nhận một số giáo lý. Các thày không muốn tạo ra hình ảnh là tất cả các con đều phải sẵn sàng biểu lộ quả vị Ki-tô ngay hôm nay. Các thày nhận ra là một số các con cần phải qua một số bước.

Thày hy vọng là các con cũng nhận ra là các con cũng cần giữ một cân bằng tế nhị. Con phải nhận ra là con theo các giáo lý này vì con muốn tăng triển trên con đường tâm linh, nhưng có một khía cạnh của ngã vỏ ngoài, là ngã gốc, không muốn con tăng triển. Đúng, có những lúc con có thể nói: “Con chưa sẵn sàng nhận giáo lý này, con cần thêm thì giờ, con cần qua một số bước trước khi con hoàn toàn đón nhận nó.” Con cũng sẽ tới điểm con cần nói: “Có phải chăng là cái ngã kiểm soát của tôi muốn tôi nghĩ là tôi chưa sẵn sàng? Thực sự thì tôi đã sẵn sàng, vậy câu hỏi là: ‘Tôi có chịu làm hay không?’” Có lúc con cần đốc thúc mình, có lúc con cần bước lui lại, nhìn vào gương và nói: “Tôi đang ở đâu trên con đường tâm linh? Phải chăng là tôi đã để cái ngã kiểm soát cho tôi cảm giác là tôi sẽ thoải mái nếu tôi ở lại tầng này và không đi xa hơn nữa? Phải chăng tôi đã sẵn sàng tiến một bước quyết định, bỏ lại đằng sau một cái gì đó, và hoàn toàn đón nhận một ngày mới? Phải chăng tôi đã sẵn sàng trực tiếp giáp mặt các chân sư thăng thiên?” Một số các con vẫn có thể cần theo một giáo lý vỏ ngoài, nhưng cũng có một số đã sẵn sàng để nói: “Tôi có nên mãi mãi thụ động ngồi đây và lắng nghe một vị sứ giả có khả năng nối kết với các chân sư thăng thiên, hay tôi đã sẵn sàng có một nối kết trực tiếp hơn với các chân sư thăng thiên?”

Một giáo lý lúc nào cũng được trao truyền ở nhiều tầng khác nhau. Ta có thể nói là lúc nào cái ngã kiểm soát của con cũng có một cớ để không áp dụng giáo lý. Con là người quyết định, con có trách nhiệm lượng định: “Lúc nào thì tôi chưa sẵn sàng và lúc nào thì đây chỉ là một cái cớ mà ngã kiểm soát dùng để nói tôi chưa sẵn sàng.”

Đến đây thì thày đã trao truyền những gì thày muốn trao truyền lúc này. Thày cảm ơn các con đã chú ý nghe, đã sẵn sàng chịu đựng một bài giảng, lẽ dĩ nhiên, sẽ gây xáo trộn. Con yêu dấu, con có thật sự chờ đợi là con tới một hội nghị với chủ đề “Là Ki-tô Hằng sống” mà không bị xáo trộn chăng? Bởi vì nếu con chờ đợi như vậy, thì con nên nhìn vào cái ngã đó và nói: “Ồ, bây giờ thì tôi thấy bạn rồi. Tôi không phải là bạn.”

Đây có thể là bước khởi đầu để con tách mình ra khỏi cái ngã đó, và nhận ra là cái ngã đó, lẽ dĩ nhiên, có một chờ đợi không thực tế về ý nghĩa của quả vị Ki-tô. Nó nghĩ con có thể là Ki-tô mà không cần thách thức sa nhân, hay đúng hơn là không cần thách thức ý niệm làm chủ tình hình của ngã kiểm soát. Con yêu dấu, chuyện này không thể xảy ra. Thày đã nói như vậy trước đây. Thày sẽ nói lại một lần nữa, vì thày cần nói cho tới khi con chợt hiểu ra: “Con không thể thờ hai chủ.” “Từ nay về sau, con muốn thờ chủ nào?”

15 | Phán xử của Ki-tô và Sứ vụ Thiêng liêng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 21/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su.  Ý định của thày trong bài giảng này là trao cho con một số lời dạy sẽ không áp dụng cho mọi người, chắc chắn không cho tất cả mọi người có thể tìm thấy lời dạy này hiểu theo nghĩa rộng. Nó sẽ áp dụng cho nhiều người trong số các con, và thày khuyên con không nên ngồi đây và dùng tâm vỏ ngoài để xét đoán xem nó có áp dụng cho con hay không. Con không thể biết được điều này với tâm vỏ ngoài và con không nhất thiết có thể biết được ở mức nhận biết hiện thời của con. Con sẽ biết được khi con vươn lên những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của mình và có được một tầm nhìn rõ ràng hơn về các tầng cao hơn này.

15.1. Những người làm ngơ hay phủ nhận các thế lực bóng tối

Con yêu dấu, nếu con nhìn hành tinh địa cầu hôm nay, con có thể thấy như các thày vừa đề cập, là có rất nhiều nhóm người khác nhau ở nhiều tầng tâm thức khác nhau, với nhiều hệ thống tín ngưỡng cùng nhiều thế giới quan khác nhau. Tuy nhiên, điều thày muốn con lưu ý ở đây là có một thành phần trong lãnh vực tâm linh – những người trong phong trào Thời Mới, thần bí, huyền bí, với tâm cởi mở – tin rằng hoặc không có bóng tối, không có thế lực bóng tối, hoặc trong cương vị là người tâm linh họ không nên chú ý tới các thế lực đó, vì làm như vậy sẽ trao cho chúng quyền năng.

Lẽ tự nhiên, các thày đã ban cho con qua đợt truyền pháp này nhiều lời giảng về các sinh thể sa ngã. Các thày đã cho con những lời dạy về khái niệm avatar, về sự kiện con đã đến địa cầu và đã phải hứng chịu chấn thương từ sa nhân như thế nào. Vậy thì liệu điều người ta bảo có đúng hoặc có thật hay chăng, rằng tà lực không hiện hữu hay con không nên chú ý đến chúng? Đây là một vấn đề tế nhị, theo nghĩa là trên địa cầu chỉ có một ít người không cần chú ý đến tà lực.

Trên thực tế, bất cứ ai là avatar đều phải lưu ý đến việc tìm hiểu sa nhân và những điều chúng làm, vì chúng chính là những kẻ đã tấn công con khi con đến với sứ mạng này, chúng là kẻ đã khiến con tạo ra ngã gốc của con. Chừng nào con còn không sẵn lòng nhìn vào sự hiện hữu của tà lực và cách chúng đã chi phối con như thế nào trong quá khứ, thì con không thể thoát ra khỏi ngã gốc. Và nếu con không thoát ra khỏi ngã gốc thì con không thể hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.  

Thực tế đáng buồn là có đến hàng chục ngàn, ngay cả hàng trăm ngàn người trong lãnh vực Thời Mới có một tiềm năng cao trong Sứ vụ của mình, nhưng chừng nào họ còn duy trì thái độ là họ phài làm ngơ trước tà lực và không để ý đến chúng, thì họ vẫn tự cắt đứt khỏi việc hoàn thành tiềm năng cao hơn trong Sứ vụ của họ. Họ đã đạt đến một trình độ nào đó và có thể họ cảm thấy rất thoải mái ở mức đó, phần nào vì họ có cảm giác: “Làm gì có tà lực nào đang tấn công tôi.” Tất nhiên, tà lực không đang tấn công họ vì họ không là mối đe dọa cho tà lực.

15.2. Điều tà lực sợ nhất

Vậy cái gì là mối đe dọa cho tà lực? Đâu là điều chúng cực kỳ muốn tránh? À, điều chúng muốn tránh là có người đang đầu thai vật lý vươn lên tới mức có thể nhìn nhận một cách ý thức là mình có một mức độ quả vị Ki-tô, và vì vậy mình có cơ hội và thẩm quyền để thách thức sa nhân và sự hiện diện của chúng trên trái đất. Đây là điều chúng sợ hãi tột độ, vì chúng thừa biết là một khi con lên tới mức đó thì chúng sẽ không thể nào cản bước con. Chúng biết là nếu chúng cố ngăn chặn con thì sẽ dẫn đến việc chúng bị phán xử.

Điểm thày muốn dẫn con tới là con nhận ra đối với nhiều người trong các con, cũng như đối với một số những ai tìm được lời dạy này trong phạm vi rộng lớn hơn, khía cạnh cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là đem lại sự phán xử của Ki-tô trên sa nhân cùng tâm thức của sa nhân. Khi con nhìn vào cuộc đời của thày, con sẽ thấy thày đối đầu với sa nhân như thế nào, và con có thể nhìn vào chính con ngày nay và suy ngẫm xem điều này có nghĩa gì đối với con hôm nay.

Không nhất thiết phải giống như những gì con thấy trong đời thày, mà có nghĩa là con cần đạt tới điểm con nhìn nhận đó là một phần của Sứ vụ của con. Con nhận xét điều đó bên trong con – chứ không phải vì thày đang nói với con hay vì con đang đọc bài truyền đọc này. Thày không muốn con đọc bài này rồi quyết định bằng tâm vỏ ngoài: “Tôi sẽ lên đường tham gia cuộc thánh chiến, vạch mặt sa nhân, thách thức sa nhân.” Nó phải đến từ bên trong, và con yêu dấu, nó sẽ chỉ đến khi nào con giải quyết được chấn thương nhập đời mà sa nhân đã sử dụng để làm con tê liệt, để ngăn cản con là người mà con là trên hành tinh này.

15.3. Con bị chấn thương nhập đời quy định

Con hiểu chứ, con yêu dấu, có một cơ chế có thể khởi động ngay cả khi con đã có các lời dạy mà con đã nhận được cho tới giáo lý về chấn thương nhập đời. Gần như thể trong cương vị một đệ tử tâm linh, con bước vào một tâm thái cho rằng chỉ cần đạt được ngày càng nhiều hiểu biết hơn về đường tu tâm linh, ngày càng nhiều hiểu biết hơn về tự ngã, về tâm lý, về cách chữa lành tâm lý của mình. Gần như thể con đã tạo ra một cái ngã nghĩ rằng con đang tiến bộ, nhưng nếu con nhìn kỹ ngã này, nó cũng nghĩ rằng sự đột phá tối hậu vẫn nằm đâu đó trong tương lai. Một ngày nào đó, đột phá sẽ xảy đến nếu con cứ tiếp tục làm những gì con đang làm bây giờ. Như bào huynh yêu dấu của thày, Saint Germain, có nói: Có một thời con đã tiến bộ một cách tiệm tiến, và cũng có những thời khi con cần thực hiện một xoay chuyển cách mạng trong tâm thức.

Xoay chuyển cách mạng mà con cần thực hiện nếu con muốn bước lên một tầng cao hơn, là nhìn nhận rằng điều quy định con như một sinh thể hiện thân trên địa cầu chính là chấn thương nhập đời của con. Nó đã quy định con từ kiếp đầu thai đầu tiên. Tất cả những thứ khác mà con có thể đã làm – các loại liệu pháp khác nhau, tu học những giáo lý khác nhau, thực hành các dụng cụ tâm linh – đều đã giúp đem lại cho con một sự thay đổi tiệm tiến, và con đã có tinh tấn khi làm vậy. Nhưng chúng sẽ không thực sự xoay chuyển tâm thức của con vì chúng không động đến chấn thương nhập đời – như thể chúng chỉ chạy vòng quanh chứ không đâm thẳng vào vấn đề. Đó là tại sao con cần làm cuộc xoay chuyển và nhận ra là đã đến lúc con biết rõ từ bên trong (vì con nhận diện được sự thật trong lời dạy các thày) rằng bước kế tiếp của con là nhìn trực diện vào chấn thương nhập đời này. Con không thể cứ đi vòng quanh, con không thể cứ tránh né vấn đề. Con không thể đặt trọng tâm vào điều gì khác, con không thể nghĩ rằng nếu con cứ tiếp tục đọc thỉnh và học hỏi giáo lý thì một ngày kia, đùng một cái, chuyện đó sẽ xảy ra. Nó sẽ không xảy ra. Có thể con cần phải lấy một quyết định ý thức là con sẽ đối đầu với nó, đâm thẳng vào nó và phát hiện ra làm thế nào sa nhân khiến con tê liệt.

Quyển sách Các kiếp của tôi có mô tả một cách như vậy, và lẽ tự nhiên, sa nhân có nhiều cách khác nhau để làm chuyện đó. Một số các con đã hứng chịu chấn thương nhập đời khi thiện ý của con bị sa nhân gạt gẫm, con bị chúng lừa dối xong bị chúng phản bội. Nhiều loại cảnh huống khác cũng có tác động. Cho tới khi con phát hiện chấn thương nhập đời đó, con sẽ không thể thực sự hiển thị và chấp nhận quả vị Ki-tô của mình, con không thể chấp nhận mình là Ki-tô trên địa cầu. Tại sao vậy? Con yêu dấu, bởi vì trong cốt lõi, sa nhân đã làm gì khi chúng gây chấn thương nhập đời cho con? Phải, chúng đã tạo ra một sự phân rẽ trong bản thể con, trong bốn thể phàm của con. Cốt lõi của sự phân rẽ này không hẳn là lòng sợ hãi cho dù con có thể nghĩ vậy. Cốt lõi của sự phân rẽ này là lòng ngờ vực. Kẻ thù quỷ quyệt nhất trên đường tu tâm linh kỳ thực là lòng ngờ vực.

15.4. Khắc phục nỗi ngờ vực cốt lõi

Con đã đến đây như một avatar với ý định tốt đẹp nhất, thế rồi sa nhân giáng chấn thương đó lên con, và bỗng nhiên con bắt đầu nghi ngờ: “Tôi có nên đến đây chăng? Liệu tôi có quyền đến đây chăng? Ở đây người ta có đón nhận tôi chăng? Liệu tôi có thể là chính mình và biểu đạt chính mình trên hành tinh này chăng? Liệu tôi có cần biến thành một người khác để người ta chấp nhận tôi chăng?” Tất cả những nghi vấn như vậy, gần như vô số những nỗi ngờ vực đủ loại.

Trong nhiều trường hợp, con thấy điều đó bên trong con, rằng con có thể tự nghi ngờ rất nhanh chóng. Điều này cũng có mặt tốt của nó, theo nghĩa là con có tâm cởi mở, con cởi mở để nhìn vào bản thân và tự thay đổi. Đây là một điểm tích cực đã giúp con tăng triển trên đường tu. Nhưng con cũng phải nhìn nhận một mối nguy tiềm tàng vì con thấy có những người trên địa cầu với tâm hoàn toàn khép kín. Họ tin tuyệt đối là họ đúng, và ít ra trên bề nổi, họ có vẻ không có chút nghi ngờ gì là họ đúng. Tất nhiên ở mức thật sâu thẳm, ai ai cũng đều mang những nỗi nghi ngờ khác nhau, nhưng nhiều người vẫn đưa ra được một bộ mặt, một nhân cách, qua đó họ phóng chiếu ra bên ngoài rằng họ đúng và họ biết là họ đúng, và hình như họ không có nghi vấn nào hết.

Một số các con quen biết những người như vậy, và một số các con đã ngồi đó tự hỏi: “Làm thế nào họ có thể tự tin đến thế? Tại sao tôi lại nghi ngờ chính mình đến như vậy?” Nhiều các con sẽ nhận ra là mình mang khuynh hướng tự ngờ vực đó – đặc biệt khi con phải chạm trán với những người có tính tình gọi là vô cùng quyết đoán, áp đảo. “Ồ, hay là có lẽ họ đúng chăng?” Thế là bỗng nhiên con rơi vào một vòng luẩn quẩn trong tâm, và vòng luẩn quẩn này được tạo ra bởi tâm đường thẳng, tâm phân tích.

Tâm phân tích có khả năng làm gì chứ? Nó luôn luôn có thể nghĩ ra đủ loại luận cứ chống lại hay thuận theo bất kỳ quan điểm nào, bất kỳ đề tài nào. Nó có thể tranh luận từ cả hai phe về một vấn đề. Khi con mang khuynh hướng nghi ngờ đó, tâm phân tích của con luôn luôn có thể đưa ra luận cứ tại sao con có thể sai lầm, hay có lẽ con không nên lên tiếng. Có lẽ con không nên thách thức người đó? Lỡ rốt cuộc họ đúng thì sao? Hay có lẽ họ được quyền xử sự như vậy, và có lẽ con nên bỏ qua và tuân phục họ, hay con nên rút lui và để yên cho họ mà không thách thức họ?

Con hiểu điều thày vừa nói ở trên: Mối lo sợ lớn nhất của sa nhân là có Ki-tô Hằng sống trong hiện thân sẽ thách thức chúng. Chúng đã làm gì chứ? Với mỗi avatar đến địa cầu này, chúng đã mưu toan cài đặt một yếu tố ngờ vực hầu con không dám thách thức chúng. Điều chúng tuyệt đối không muốn là con đạt tới một mức quả vị Ki-tô rồi thách thức chúng. Chúng đã làm hết sức để ngăn cản chuyện này, và công cụ chủ yếu của chúng là yếu tố ngờ vực chúng đã cài đặt trong con.

Chỉ khi nào con nhìn một cách ý thức vào chấn thương nhập đời thì con mới phát hiện những gì con nghi ngờ về quyền con được ở đây, quyền con là Ki-tô Hằng sống trong hiện thân, quyền thách thức sa nhân, quyền biểu đạt con người mà con là, quyền biểu đạt bản sắc tâm linh cao hơn của con. Chỉ khi nào con xem xét nỗi nghi ngờ thì con mới thấy là sa nhân đã dùng một quan điểm nhất định, một tin tưởng nhất định, để cài đặt nghi ngờ đó trong con. Tin tưởng đó là một ảo tưởng. Tại sao đó là một ảo tưởng? Vì nó nhị nguyên, có nghĩa là khi con xem xét niềm tin đó riêng rẽ thì nó có vẻ chính đáng. Khi con bước lui lại và nhận ra là trong nhị nguyên bất kỳ quan điểm nào cũng có đối cực, thì con thấy được đối cực của quan điểm đã khiến con ngờ vực. Khi đó con thấy là con cũng có thể nghĩ ra những quan điểm chính đáng để hỗ trợ cho đối cực này, và đó là lúc con thấy không một quan điểm nào trong số đó là thực tại tối hậu.

15.5. Lựa bỏ nỗi nghi ngờ hiện sinh

Con có hiểu chăng, con yêu dấu? Sa nhân chỉ có thể hoạt động trong nhị nguyên. Nhị nguyên luôn luôn là một đối cực. Làm sao sa nhân có thể khoác vào bất kỳ dáng vẻ thẩm quyền nào? Làm sao chúng khiến người ta tin rằng đây có một quan điểm, một quan điểm nhị nguyên, và đó là chân lý tuyệt đối? À, chúng chỉ làm được vậy bằng cách phớt lờ đối cực nhị nguyên ngược lại, bằng cách giảm giá trị của nó, che giấu nó và khiến cho mọi người làm ngơ hay nghi ngờ nó. Và như vậy, chúng tâng một đối cực lên thành chân lý tuyệt đối. Đôi khi chúng cũng gán cho đối cực ngược lại là xấu ác, và tất nhiên, con có thể thấy sự thể này khắp thế giới khi người ta khêu lên: đúng và sai, sự thật và dối trá, tư bản và cộng sản, Cơ đốc giáo và mọi tôn giáo khác, vân vân và vân vân. Quá nhiều đối cực nhị nguyên với một bên hoàn toàn tốt và bên kia hoàn toàn xấu.

Khi con nhìn thấy điều này ở mức cá nhân trong chính chấn thương nhập đời của mình, nhìn thấy làm thế nào con đã khoác vào một tin tưởng nhất định đã khiến con ngờ vực là con có quyền ở đây – và sau đó con thấy là nó có một đối cực ngược lại và con có thể tranh luận thuận hay chống hoài hoài – thì con có thể lui lại và nói: “Tôi chán ngán chuyện tranh luận quá rồi. Tôi để cho ngã gốc này chết đi. Đơn giản tôi sẽ lựa bỏ sự ngờ vực ra khỏi bản thể của tôi.” Điều quan trọng nhất con có thể lựa bỏ ở những tầng cao của Sứ vụ Thiêng liêng là cái chúng ta có thể gọi là sự ngờ vực hiện sinh (existential) về quyền con có mặt nơi đây.

Con yêu dấu, một trong những mô thức thông thường do sa nhân tạo ra (là một mô thức mà sứ giả này chưa nhận ra một cách ý thức cho đến khi thày ban lời dạy này) là khiến con nghĩ rằng, vì con đã làm hay đã nói một điều gì bất toàn trên địa cầu (trong cảnh huống đã gây ra chấn thương nhập đời), cho nên con không có quyền thách thức sa nhân. Nói cách khác, con nghĩ là mình phải toàn hảo, và nếu con không toàn hảo thì con không được thách thức chúng. Nhiều người trong các con có thể nhận diện ra nét này.

Sứ giả này đã có một trải nghiệm lý thú khi lái xe đến hội nghị này. Trong cuộc trò chuyện và không suy nghĩ gì trước, ông nói: “Bạn biết đấy, thật ra tôi chưa bao giờ phát hiện ra điều gì xấu ác trong con người tôi.” Xong ông ngừng lại, giật mình bởi câu nói của mình, vì ông chưa từng nghĩ đến chuyện đó trước đây. Sự thật là tuy ông đã sẵn lòng quan sát bản thân, đã nhìn sâu vào tâm lý mình, ông chưa bao giờ khám phá một yếu tố xấu ác nào trong bản thể của ông. Điều này cũng đúng cho hầu hết các con và hầu hết những ai sẽ đọc bài giảng này. Con yêu dấu, điều này cũng đúng cho mỗi avatar. Trong bản thể của con không có xấu ác – chưa bao giờ có. Ngay cả với tất cả những chấn thương mà con đã kinh qua trên hành tinh này, con đã không cho phép một yếu tố xấu ác nào xâm nhập vào bản thể con.

Vì vậy, con yêu dấu, điều này có nghĩa gì? À, có nghĩa con không phải là một sinh thể sa ngã. Con không giống như các sinh thể sa ngã. Cho nên mặc dù con có thể không toàn hảo theo một chuẩn mực nhân thế nào đó, con có quyền thách thức sa nhân.

15.6. Làm thế nào thách thức sa nhân

Con có quyền, không nhất thiết là đứng lên buộc tội chúng sai trái, vì sa nhân rất thích tạo ra một trận chiến nhị nguyên khi có một người bảo: “Bạn sai rồi!” và một người khác lập tức có phản ứng bênh vực, cãi lại: “Không, chính bạn mới sai chứ!” Thế là nổ ra một tranh chấp dai dẳng sẽ không bao giờ ngừng lại.

Thật ra đây không phải là chuyện thách thức sa nhân bằng cách bảo chúng sai. Cách thực sự để thách sa nhân là nói: “Có một cách nhìn khác hơn là cách mà bạn đang nhìn cuộc sống. Có một cách nhìn khác hơn là cách mà bạn đang nhìn mọi chuyện! Có một giải pháp thay thế. Có một mức tâm thức khác hơn là tâm thức mà bạn đang có.” Vậy đâu là giải pháp thay thế? Nói cho cùng và theo nghĩa phổ quát nhất, đó chính là Ki-tô, tâm thức Ki-tô là giải pháp thay thế cho tâm thức sa ngã.

Đương nhiên, điều này có thể được diễn đạt nhiều cách khác nhau. Con có thể bước vào bất kỳ lãnh vực nào của cuộc sống, và một khi con lên những tầng cao hơn đó của Sứ vụ Thiêng liêng, con sẽ phát triển được sự phân biện Ki-tô giúp con bước vào – và nhiều người trong các con sẽ thấy là kỳ thực mình có khả năng làm vậy. Nó khởi sự với một khả năng đọc được rung động. Trong các cuộc bàn luận tại đây, nhiều người đã bày tỏ là ở một thời điểm nào đó, con đã tìm được một giáo lý tâm linh hay một đạo sư hay một ý tưởng nào đó, và con chỉ cảm nhận: “Ồ, tôi không mặn mà cái này. Tôi sẽ không bước vào cái này.” Đây là khởi đầu của phân biện khi con có khả năng đọc được độ rung.

Tâm vỏ ngoài của con không thể nói ra bằng lời tại sao con cảm thấy như vậy hay cảm giác đó là gì, nhưng khi con bước lên cao hơn trong quả vị Ki-tô, con sẽ bắt đầu có khả năng diễn tả điều đó qua lời nói. Con bắt đầu có thể bước vào gần như mọi khía cạnh cuộc sống, hay ít ra những lãnh vực mà con hiểu biết thành thạo, và con có thể nhận diện: “Đây là một ý tưởng nhị nguyên. Đây là một quan điểm thiếu quân bình.” Con không cần phải công khai lên án cái đó là xấu ác hay sa ngã hay bất cứ gì khác. Con tìm được cách dùng ngôn từ mà mọi người có thể liên hệ và chấp nhận. Con có thể bày tỏ đó không phải là quan điểm cao nhất mà có một giải pháp thay thế. Đây là một cách thách thức tâm thức sa ngã.

15.7. Ứng phó với những tấn công cá nhân

Đối với một số các con, điều cũng có thể xảy ra ở một mức cá nhân hơn là con gặp những người hoặc là sa nhân, hoặc có tâm thức sa ngã, và con thách thức họ trực tiếp. Một số các con đã chọn có sa nhân trong gia đình hay quan hệ của mình. Con yêu dấu, không cần phải thách thức sa nhân bằng cách nhảy vào xung đột nhị nguyên với họ. Kỳ thực, cách xây dựng hơn, ít ra trong một thời gian, có thể là khoác vào tư duy là con không thách thức các sinh thể sa ngã, mà con thách thức tâm thức sa ngã, vì sẽ dễ dàng hơn nếu con giữ chuyện này ở một mức phi cá nhân (impersonal). Con thấy đó, con yêu dấu, khi sa nhân cảm thấy họ bị thách thức, họ sẽ làm gì chứ? Luôn luôn họ sẽ buộc tội ngược lại. Con có thể nói với họ: “Tôi không đồng ý với những ý tưởng bạn đưa ra,” nhưng bản năng của sa nhân sẽ khiến họ tấn công con một cách cá nhân.

Làm thế nào ứng phó với một cuộc tấn công cá nhân mà con có thể gặp, như chẳng hạn sứ giả này chắc chắn đã từng gặp rất nhiều lần? À, chừng nào con còn mang ngờ vực đó trong bản thể của con thì việc ứng phó sẽ rất khó khăn. Là người với tâm cởi mở, tự nhận biết và tự xem xét, khi có ai nói gì đó về con thì con luôn luôn cân nhắc: “Có thể nào họ đúng chăng? Tôi có cần thay đổi hay không? Tôi có quá hung hãn hay không? Tôi có như thế này, tôi có như thế kia?” Một lần nữa, làm thế nào con loại bỏ được ngờ vực chứ? À, chỉ bằng mỗi một cách là nhìn vào chấn thương nhập đời của con.

Khi con đạt tới điểm nhận ra là mình có quyền được ở đây và trong bản thể con không có gì xấu ác, thì con không thách thức người khác để hạ thấp hay chỉ trích họ, mà con có quyền biểu lộ con người mà con là. Thật ra con có thể đạt tới điểm con không thách thức tâm thức sa ngã với ý định vỏ ngoài sẽ thách thức tâm thức sa ngã. Con không cố tình đứng lên bới móc: “Đâu là những điều sai trái, những điều xấu xa, những ý tưởng sai lầm, đâu là những chuyện tôi có thể thách thức?” Con chỉ đơn giản là chính con. Con bắt đầu biểu đạt chính con, những gì con biết, những sáng ngộ mà con có, những kinh nghiệm mà con đã nhận được. Khi làm vậy tất nhiên, con sẽ thách thức tâm thức sa ngã, và đôi khi con sẽ gặp chính các sa nhân cảm thấy con đã tấn công cá nhân họ vì họ luôn luôn xem mọi chuyện là cá nhân. Cách duy nhất để thực sự ứng phó là con không xem cách phản ứng của họ nhắm vào cá nhân con, bởi vì một lần nữa, con không làm chuyện này do một thâm ý cá nhân – có đúng không con? Con có thể nhìn nhận khi con nhìn lại đời mình, là khi con nói ra điều gì hay bày tỏ một quan điểm, con muốn người khác đồng ý với con vì như vậy con sẽ cảm thấy mình được xác chứng. Nếu họ bất đồng với con thì vết thương mà con mang bên trong được khơi dậy, nỗi bất an, nỗi ngờ vực, rồi con sẽ đau lòng. Con mang thâm ý cá nhân mong muốn người khác đồng ý với con hầu con không phải cảm thấy đau lòng. Đó là ý thày muốn nói qua từ “thâm ý cá nhân” đối với một avatar.

Con yêu dấu, một avatar không có thâm ý cá nhân giống như sa nhân là hà hiếp người khác để được lợi lộc. Đây có thể gọi là thâm ý cá nhân tổn thương của một avatar, là khi con tìm cách thay đổi người khác để bù đắp cho vết thương của con. Tất nhiên, một khi con loại bỏ được vết thương này thì con không cần làm vậy nữa. Thậm chí con không làm vậy nữa với thái độ là mình phải thay đổi một điều gì đó trên trái đất. Như các thày đã nói, con đạt tới điểm con chỉ đơn giản là chính mình, con tỏa rạng những gì đến với con từ bản thể cao hơn của con, con đồng sáng tạo, và chính điều này sẽ thách thức sa nhân.

15.8. Thực hiện cuộc xoay chuyển Ki-tô

Tuy nhiên như các thày cũng đã nói, có thể sẽ tới những điểm một khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời, con đã tiêu hủy năng lượng, con đã buông bỏ ngã tách biệt đó, có lẽ cả ngã gốc, nhưng vẫn có một cái ngã tách biệt khác cứ suy nghĩ rằng con không được thách thức, hay không được trực diện, hay không được nhẫn tâm, hay bất kỳ ý tưởng nào đại loại như vậy. Nói cách khác, con đã thật sự sẵn sàng để bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô của mình và thách thức các ý tưởng sa ngã, nhưng lại có cái ngã tách biệt kia ở bên trong đang chặn con lại vì con nghĩ mình không được làm vậy bởi một lý do nào đó.    

Có lẽ con nghĩ: “Tôi là một người tâm linh, tôi phải hiền từ hòa nhã với mọi người,” như nhiều người thiện tâm trong lãnh vực Thời Mới thường nghĩ vậy. Con cần sẵn lòng nhìn vào ngã tách biệt đó và nói: “Đâu là cách biểu đạt quả vị Ki-tô mà tôi đã thấy được khi tôi ở mức nhận biết cao nhất của mình? Đâu là điều tôi đã quyết định muốn biểu hiện?” Xong con nhìn ngã đó và bảo: “Tôi sẽ không cho phép ngã này đứng chắn đường tôi đi. Tôi sẽ để cho nó chết, và tôi sẽ làm một cuộc xoay chuyển cách mạng ý thức trong tâm rằng tôi sẵn lòng là Ki-tô Hằng sống trong hành động. Tôi sẵn sàng biểu đạt bất cứ gì đến từ Hiện diện TA LÀ của tôi, ngay cả khi nó thách thức hay làm phật lòng hay xúc phạm người khác.”

Con yêu dấu, các thày đã có nói, quả vị Ki-tô không phải là chuyện thi đua để được lòng mọi người, hay để khiến cho ai nấy ưa mình hoặc mình cảm thấy thoải mái. Con sẽ thấy là khi thày bước chân trên địa cầu khắp các lối đường bụi bặm của đất Palestine, thỉnh thoảng thày có gặp những người cảm thấy vô cùng khó chịu chỉ do Hiện diện của thày, vì ánh sáng mà thày tỏa rạng đã khuấy động những con quỷ bên trong họ – nếu có thể nói như vậy – và bỗng nhiên những con quỷ này la lớn, hét vào mặt thày. Thày không bảo là điều này sẽ nhất thiết xảy ra cho con, nhưng con cần nhìn nhận là khi con có càng nhiều ánh sáng thì một số người sẽ càng cảm thấy xốn xang khi họ gặp ánh sáng. Con cần đạt tới điểm con không dùng phản ứng của người khác để mà nói: “Ồ, tôi đã làm gì sai trái? Có điều gì không ổn với tôi? Tôi đã không nên làm chuyện này hay chăng?”

Một lần nữa, con đạt tới điểm là con chấp nhận quyền tự quyết. Con xoay chuyển một cách ý thức là con chấp nhận quyền tự quyết. Con chấp nhận con có quyền là con người mà con là. Con chấp nhận người khác có quyền phản ứng lại theo mức tâm thức của họ. Rồi một lần nữa, con có quyền tiếp tục là con người mà con là, bất kể phản ứng của họ là gì. Phản ứng của họ là gì chứ? Nói cho cùng, đó là kết quả những chọn lựa của chính họ.

Có thể họ mang một khuôn nếp tâm lý, có thể họ mang một số phàm linh nội tại, có thể họ mang những con quỷ đang kiểm soát họ và khiến họ phản ứng như vậy cho nên họ không đang chọn lựa một cách ý thức. Nói cho cùng, khi con nhìn ngược trở lại quá trình của dòng sống đó, dòng sống của họ đã làm một số chọn lựa dẫn họ đến mức nhận biết hiện tại. Cách họ phản ứng với con là kết quả những chọn lựa đó. Con yêu dấu, đó là quyền tự quyết của họ, không phải quyền tự quyết của con. Con không có thẩm quyền gì trên quyền tự quyết của họ. Khi con hoàn toàn công nhận là con không có thẩm quyền trên quyền tự quyết của một người khác thì con cũng công nhận là con không trách nhiệm về chọn lựa của họ hay hậu quả của chọn lựa đó.

15.9. Lý tưởng Bồ tát

Và đây là điểm con cần nhận ra là với tư cách một avatar, nhiều người trong các con đã đến đây vì con đã nhìn vào địa cầu, nhìn vào đau khổ trên trái đất và có lòng trắc ẩn đối với những ai đang bị khổ đau. Đây là một lý tưởng được diễn tả tại phương Đông, đặc biệt liên quan đến thày Quan Âm, qua lý tưởng Bồ tát. Truyện được kể ở phương Đông là Quan Âm đã đạt tới điểm thày hội đủ tư cách thăng thiên – hay Niết bàn theo cách gọi như vậy – và thày đã có thể rời khỏi địa cầu. Nhưng khi thày sẵn sàng bỏ lại địa cầu, thày đã ngoái nhìn lại một lần chót và nghe thấy tiếng than khóc của thế gian, của những người đang đau khổ, và thày quyết định ở lại với trái đất để cứu giúp loài người vượt qua khổ đau. Đó chính là lý tưởng Bồ tát của một người đã đủ tư cách thăng thiên nhưng vẫn chọn ở lại với địa cầu. Nhưng câu chuyện trên có thể dễ dàng được chuyển sang trường hợp của nhiều avatar cũng đã quyết định đến địa cầu vì đã nghe thấy tiếng than khóc và nhìn thấy đau khổ của thế gian.

Các thày đã trao cho con những gì? Sứ giả này đã ngộ ra điều gì khi suy nghiệm các giáo lý về chấn thương nhập đời? Đó là con, như một avatar, chưa ở trong trạng thái tâm thức thăng thiên khi con quyết định đến địa cầu. Con có một mức tâm thức cao hơn ở đây, con đến từ một hành tinh tự nhiên. Một lần nữa, trong bản thể con không có xấu ác, nhưng con vẫn mang một điều gì đó chưa giải quyết, một điều gì đó mà con chưa học xong. Đâu là điều mà con chưa học? À, đó là bản chất tuyệt đối của quyền tự quyết. Đây là một trong những thử thách lớn nhất mà con có thể gặp.

Con yêu dấu, con có thể lập luận rằng vấn đề duy nhất của sa nhân là chúng đã không hoàn toàn trải nghiệm và chấp nhận sự tuyệt đối của quyền tự quyết. Chúng vẫn cố tìm những cách thức để khuynh đảo quyền tự quyết, quyền tự quyết của người khác, hay tìm cách căng rộng quyền tự quyết của chúng ra – sa nhân tưởng như vậy – để nó cho chúng nhiều tự do hơn, vì chúng không hiểu là chúng đã có tự do tuyệt đối rồi.

Con hiểu chứ con? Một số sa nhân sẽ không nhìn nhận là chúng đang có quyền tự quyết tuyệt đối. Chúng đã tạo ra trong tâm tấn tuồng cuồng đại cho rằng Thượng đế đang hạn chế quyền tự quyết của chúng, cho nên cách duy nhất để biểu lộ quyền tự quyết là nổi loạn chống lại ngài, bằng cách làm ngược lại những gì ngài muốn chúng làm. Chúng chỉ không chịu nhìn nhận là thượng đế đó – thượng đế muốn chúng làm cái gì đó – chính là sự tạo dựng của chúng chỉ hiện hữu cho tâm chúng. Trong khi đó thì Đấng Sáng tạo đích thực đã nói rằng: “Con có quyền tự quyết hoàn toàn.” Một trong những thử thách lớn nhất cho một sinh thể tự nhận biết, cho dù sa ngã hay không sa ngã, là nhìn nhận bản chất tuyệt đối của quyền tự quyết.

Là một avatar, con đã chưa nắm bắt được toàn bộ bản chất tuyệt đối của tự quyết. Khi con nhìn xuống trái đất và thấy người ta đau khổ, con chỉ có thể lý luận là có gì đó đã bị lệch lạc, hư hỏng, do họ đã chọn lựa sai lầm. Và nhiệm vụ của con, nhiệm vụ mà chính con đã tự giao phó, là con sẽ đi xuống giúp họ có những chọn lựa đúng hơn – không phải bằng cách thao túng họ mà qua nhiều cách khác. Nhiệm vụ của con như một avatar có phải là đến đây và làm gì đó để sửa đổi chọn lựa của người khác hay không?

15.10. Sự khác biệt cơ bản của quyền tự quyết

Tuyệt đối là không! Theo Định luật Tự quyết, đó không phải là nhiệm vụ của con. Điều này có nghĩa chăng là con không thể giúp được ai? Không, không có nghĩa như vậy. Có một sự khác biệt cơ bản giữa tư duy là con cần làm gì đó để thay đổi người khác, và tư duy là con ở đây để trưng ra cho họ thấy một giải pháp thay thế cho trạng thái tâm thức hiện tại của họ. Đây là một khác biệt cơ yếu.   

Nó không có vẻ gì là một khác biệt lớn lắm, nhưng một khi con suy nghiệm ý tưởng này trong tâm và thỉnh cầu sự hướng dẫn nội tâm, con có thể đạt tới điểm thực hiện một trong những cuộc xoay chuyển cách mạng mà Saint Germain nói đến. Bỗng nhiên con ngộ ra khác biệt đó cơ yếu đến chừng nào. Điều đó, con yêu dấu, sẽ là thử thách lớn nhất của con như một avatar trên địa cầu. Con sẽ phải sẵn lòng làm những gì Saint Germain đã nói đến: Nhìn nhận là mình đã sai lầm. Không cứ là con đã sai trái – sai trái trong nghĩa xấu xa, tà ác – khi con đến địa cầu. Nhưng con phải nhìn nhận là thái độ mà con đã có, đã đưa con tới trái đất, cần phải ra đi. Thái độ đó không quân bình. Nó bất toàn. Nó không là tối hậu. Nó không là tâm thức Ki-tô. Con phải sẵn lòng nhìn nhận điều này vì cho tới khi con nhìn nhận điều đó trong tư cách một avatar thì con sẽ không thể rời nơi đây.

Chừng nào con còn nghĩ lý do mình đến địa cầu, hay sự thành công của mình trên địa cầu, là để thay đổi một ai khác, thay đổi các chọn lựa tự quyết của họ, thì con không thể buông hành tinh này ra. Sẽ có thêm nhiệm vụ nào khác mà con phải làm, một vấn đề nào khác mà con phải giải quyết, một cuộc tranh đấu cuồng đại nào khác mà con phải hoàn tất. Nó có thể cứ tiếp diễn mãi mãi, con yêu dấu. Đó là một trong những điều các thày muốn chỉ ra cho con thấy trong quyển sách Các kiếp của tôi, khi thày đã bỏ ra hai triệu năm trời để vượt qua cái ảo tưởng đã đưa thày tới đây. Nó có thể kéo dài lâu hơn thế nữa.

15.11. Trong Sứ vụ của con có việc thăng thiên hay không?

Con cần nhận diện là nếu trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình có khả năng con sẽ thăng thiên sau kiếp này, thì việc thăng thiên sẽ đòi hỏi ở con những gì? Đôi khi, và đặc biệt trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước đây, các đệ tử có một cái nhìn gần như máy móc về thăng thiên. Con nghĩ là nếu con làm việc này và làm việc kia, và nếu con hiểu điều này và hiểu điều kia thì đùng một cái, con sẽ thăng thiên! Một lần nữa, sẽ không bao giờ có chuyện “đùng một cái”. Thăng thiên sẽ cần gì? Sẽ cần (như sứ giả này đã nhìn thấy trong một ánh chớp trực giác cách đây nhiều năm) là con đạt tới điểm con đứng trước cánh cổng đó. Trước khi con có thể bước qua cổng, con phải ngoái nhìn lại trái đất. Thày cũng biết có những truyện kể rằng những ai ngoái nhìn lại sẽ biến thành cột muối, nhưng điều này sẽ không xảy ra khi con ở mức thăng thiên. Con phải nhìn lại. Con phải nghe thấy tiếng than khóc của thế gian. Xong con phải duyệt lại bản thể của mình và nói: “Có còn gì trên trái đất mà tôi không thể bỏ lại?”

Chỉ khi nào con nhận ra là không còn gì trong bản thể mình đang níu kéo mình ở lại trái đất, chỉ khi đó con mới có thể quay gót và chọn lựa: “Tôi rời bỏ hành tinh này vĩnh viễn. Tôi buông bỏ khả năng ảnh hường hành tinh này, một khả năng mà tôi chỉ có được khi tôi hiện thân trong vật lý. Tôi buông bỏ nó! Tôi lựa bỏ nó ra!” Sau đó con có thể thăng thiên, nhưng đây là một chọn lựa và đó phải là một chọn lựa hoàn toàn có ý thức. Không thể có bất cứ gì trong bản thể con mà con chưa nhìn vào, bởi vì khi đó, ông hoàng của thế gian này sẽ nắm được cái đó nơi con và y sẽ lôi con trở lại.

Bây giờ có một điểm nữa. Các thày công nhận là mỗi khi các thày ban ra một lời dạy, nó có thể khiến cho một số người diễn giải theo một cách hơi thiếu quân bình. Các thày đã ban ra rất nhiều lời dạy về thăng thiên, và suốt nhiều thập niên nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã mang ý tưởng là điều duy nhất thực sự quan trọng, điều duy nhất mà con thực sự phải làm như một đệ tử của chân sư, là nỗ lực đạt đến thăng thiên. Con cần thăng thiên càng nhanh càng tốt, chắc chắn sau kiếp này nếu có thể hay trong kiếp tới. Đây là trường hợp cho một số các con nhưng không phải cho tất cả các con.

Chúng ta đang sắp sửa đem lại được gì cho hành tinh này? Thời đại Hoàng kim của Saint Germain! Có những sinh thể đang đầu thai, kể cả các avatar, muốn góp phần trong công cuộc thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain. Tất nhiên, điều này sẽ không xảy ra toàn bộ trước khi con mãn kiếp sống hiện thời, ngay cả nếu con vẫn còn trẻ tuổi vào lúc này. Có thể một số các con đã không thảo vào Sứ vụ của mình việc thăng thiên sau kiếp này vì con muốn đầu thai liên tục hầu giúp thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain, hay thậm chí còn được trải nghiệm Thời Hoàng kim. Điều này, con chỉ có thể thấy được một khi con lên đến các tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, và một lần nữa, con chỉ thấy được nó rõ ràng một khi con giải quyết chấn thương nhập đời.

Con hãy công nhận điều này, con yêu dấu: Nhiều avatar, do cường độ và nỗi đau của chấn thương nhập đời, có mong muốn thoát khỏi nơi đây vì họ nghĩ họ sẽ tránh xa khỏi chấn thương nhập đời của họ. Tất nhiên là khi con thăng thiên, con sẽ rời xa khỏi chấn thương nhập đời, nhưng con sẽ không thăng thiên cho tới khi con đã nhìn sâu vào nó và trực diện với nó. Có một cơ chế trốn chạy là khi người ta cảm thấy: “Ồ, đương đầu với chấn thương nhập đời thật quá sức của tôi, cho nên tôi sẽ chỉ tập trung vào chuyện thăng thiên, và tôi chắc chắn tôi có thể làm được mà không phải giáp mặt với chấn thương nhập đời.” Chuyện này không thể làm được, con ạ!

Một lần nữa, điều gì sẽ giúp con góp phần vào việc thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain? Điều gì sẽ cho phép con trải nghiệm và thực sự vui hường nó được? Đó là con giải quyết chấn thương nhập đời của con. Không có nghĩa là khi con giải quyết chấn thương nhập đời thì con sẽ tự động thăng thiên hay con sẽ phải thăng thiên. Con ạ, con có thể chọn ở lại trái đất và nói: “Thày biết đó, con đã phải vật lộn với chấn thương nhập đời này suốt hai triệu năm qua, chắc chắn con sẽ muốn được kinh nghiệm hành tinh này mà không có nó.” Thật không có gì sai trái nếu con chọn như vậy, con yêu dấu – ngay cả nếu con có thể tùy chọn thăng thiên hay không.

Tất nhiên như các thày đã nói trong các đợt truyền pháp trước, cũng đúng là khi có ai thăng thiên thì điều này sẽ tác động tích cực đến địa cầu. Sự thăng thiên sẽ kéo tâm thức tập thể đi lên. Chắc chắn khi có ai giải quyết được chấn thương nhập đời và bắt đầu biểu đạt quả vị Ki-tô của mình thì điều này cũng tác động tích cực nếu con ở lại trong hiện thân. Một lần nữa, đây không phải là một điều ép buộc cho con. Đã có những đệ tử của chân sư gần như cảm thấy mình bị buộc phải thăng thiên, hay phải nỗ lực thăng thiên vì họ phải làm vậy để giúp địa cầu. Nhưng con có quyền định đoạt tuyệt đối: “Tôi muốn ở lại trong hiện thân và giúp đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain.” Con yêu dấu, nếu ngày mai tất cả các con đều thăng thiên hết thì sẽ còn ai nữa để đem lại Thời Hoàng kim đây? [Có người trong cử tọa trả lời “Chúng con!”] Không, vì con sẽ thăng thiên, và một khi con thăng thiên, con sẽ không thể đem nó vào thị hiện vật lý.

15.12. Thăng thiên hay không thăng thiên

Con yêu dấu, đã từng có những thời đại trước trên trái đất (các thày đã có giảng về các giống dân gốc và những điều tương tự), đã từng có những chu kỳ khi một nền văn minh dần dần vươn lên một trình độ rất cao và có một nhóm dòng sống đã đóng góp đắc lực để đưa nền văn minh lên mức đó. Lý do họ đã góp phần nâng cao nền văn minh là vì họ cũng đã nâng cao tâm thức của họ và bắt đầu thể hiện quả vị Ki-tô. Tất nhiên khi làm vậy, họ đã hội đủ tư cách thăng thiên. Họ có sự chọn lựa tự quyết: thăng thiên hay không thăng thiên. Đã xảy ra những trường hợp khi quá nhiều dòng sống già dặn đó chọn thăng thiên cùng một lúc, đến độ sau khi họ bước ra khỏi hiện thân thì nền văn minh đã rất nhanh chóng rơi vào một vòng xoáy hướng hạ và sụp đổ. Có thể nói là đã không có đủ số người đầu thai để cầm giữ sự cân bằng tâm linh và duy trì nền văn minh trong vòng xoáy hướng thượng. Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là sa nhân đã có thể dọn tới, nắm giữ quyền bính và kéo nền văn minh đi xuống.    

Con phải thận trọng và nhìn nhận là luôn luôn có một thế quân bình cần tìm ra. Một lần nữa, các thày không đang nhìn trở ngược lại và trách cứ những người kia đã chọn thăng thiên. Họ có quyền chọn như vậy, và đó chính là sự thử thách cho những ai nhìn vào những ví dụ đó mà vẫn còn ở tầng thấp hơn. Liệu họ sẽ bước lên và lấp đầy khoảng trống, hay là họ sẽ cho phép sa nhân đi vào chiếm lấy khoảng trống? Đó đã là chọn lựa và thử thách cho những người đó. Sự việc đã trải bày ra thế nào thì cũng hoàn toàn tốt thôi.

Thày chỉ giản dị nói với con là trong tư cách một đệ tử chân sư thăng thiên, con không cần phải dồn hết tâm trí vào ý nghĩ: “Tôi phải thăng thiên sau kiếp này.” Không có gì mà con phải làm cả. Chắc chắn con có thể phụng sự đời sống, phụng sự địa cầu, phụng sự Saint Germain bằng cách ở lại trong hiện thân sau khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời và nhờ vậy cũng có nhiều khả năng hơn để là một cánh cửa mở.

15.13. Sứ vụ Thiêng liêng đã không bị ép buộc lên con

Quyền tự quyết là tuyệt đối, cho nên trong cõi tự quyết không thể có bất cứ gì tuyệt đối mà con phải làm hay không được làm. Con thấy đó, thật quan trọng khi con đến được điểm này vì, con yêu dấu, để hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình, con phải khắc phục ý niệm là có gì đó ép buộc lên con. Thậm chí con có thể có một cái ngã tách biệt đã nghe nói về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, đã học giáo lý của các thày, nhưng vẫn cảm thấy Sứ vụ đã bị ép buộc lên con. Có thể chính con đã tự ép buộc Sứ vụ lên bản thân mình! Đó là điều mà ngã này cảm nhận.

Con cần nhận diện liệu con có mang khuynh hướng này hay không, xong con cần xem xét nó và nói: “Tôi không cần ngã này nữa. Tôi để cho nó chết đi.” Con không thể hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình cho tới khi con chấp nhận nó một cách trọn vẹn và tuyệt đối. Nói cách khác, con không thể cảm thấy là mình đã có những chọn lựa trước khi đầu thai, nhưng bây giờ con ở đây và thấy rõ kiếp hiện thân vật lý và mọi chuyện trên địa cầu khó khăn đến chừng nào, thì con đâm ra nghi ngờ là con có thể làm tròn hay đương nổi các chọn lựa đó. Thậm chí, con còn không chắc chắn là mình sẵn lòng thực hiện các chọn lựa này, cho nên bên trong con cảm thấy một xung đột nào đó, gần như thể con là – như thày từng nói cách đây 2000 năm – “một ngôi nhà bị phân rẽ chống lại chính nó” liên quan đến Sứ vụ của con.

Nếu bên trong con có phân rẽ, một đằng là nội dung của Sứ vụ Thiêng liêng mà chính con đã chọn đặt vào đó, và đằng khác một ngã tách biệt với ý chí khác hơn, thì con cần xem xét nó. Con không thể làm tròn tiềm năng cao nhất của Sứ vụ chừng nào con còn kéo lê cái ngã này theo con.

Một lần nữa, con cần làm cuộc xoay chuyển cách mạng là nhìn vào nó và nói: “Được rồi, tôi sẵn sàng xem xét nó, tôi sẵn sàng bước sâu vào trong đó, tôi sẵn lòng trải nghiệm niềm tin đứng đằng sau nó.” Rồi con nhìn ra tính không thực của lý do và con nói: “Không, đây không thực là chọn lựa của tôi. Đây có thể là chọn lựa của ngã tách biệt. Tôi nhìn thấy đây là chọn lựa của ngã tách biệt, vì bất kể những gì đã tạo ra ngã tách biệt – một chấn thương, một tin tưởng sai lầm, bất kể – thì bây giờ tôi đã thấy nó rồi và tôi chọn để cho nó chết. Xong tôi chọn ôm lấy những gì tôi đã thực sự đặt vào Sứ vụ, vì tôi sẵn sàng vươn lên mức tâm thức mà tôi đã có khi tôi đặt những điều đó vào Sứ vụ.” Chỉ khi nào con buông ngã tách biệt này thì con mới có thể thực sự vươn đến đó. Và chỉ khi đó con mới có thể ôm lấy Sứ vụ của mình – ôm một cách trọn vẹn.

Con yêu dấu, khi con nhìn lại cuộc đời của thày cách đây 2000 năm, nếu con thực sự thành thật, con sẽ có thể thấy thày là Ki-tô Hằng sống, nhưng theo một cách nào đó, thày là Ki-tô Hằng sống bất đắc dĩ. Chẳng hạn con thấy trong tình thế trước các biến cố dẫn đến việc thày bị bắt và đóng đinh, thày ngồi trong Vườn Gethsemane. Có người bảo rằng những giọt mồ hôi thày đổ ra là máu và có người thì bảo là không, nhưng chuyện này không phải là vấn đề. Vấn đề là thày đã thốt lên: “Cha ơi, nếu đây là ý muốn của Cha, hãy cho chén này lìa khỏi con.” Tuy vậy, sau đó thày lại nói: “Song không theo ý muốn của con mà theo ý muốn của Cha.”

Điều này cho con thấy gì? Rằng ngay cả thày đây, ở mức quả vị Ki-tô mà thày đã chứng được, vẫn còn phân rẽ trong bản thể mình khi thày cảm thấy có một ý muốn của thày và có một ý muốn cao hơn. Phải chăng Thượng đế đang ép buộc lên thày? Không, chính thày đã chọn lựa như vậy khi thày lập ra Sứ vụ của mình. Thày đã chọn lựa, nhưng vẫn có một thành phần trong cái ta vỏ ngoài của thày, trong nhân cách vỏ ngoài của thày, một cái ngã tách biệt vẫn chưa hoàn toàn ôm lấy và chấp nhận chọn lựa đó. Ý thày muốn nói là thế này: Điều đó, tất nhiên, cũng hoàn toàn tốt thôi. Nó xảy ra 2000 năm về trước vào một thời tâm thức dày đặc hơn rất nhiều. Khi đó thày là một trong những người đi tiên phong chứng tỏ tâm thức Ki-tô. Điều đó tốt hoàn toàn vào thời buổi đó, nhưng trong thời đại hôm nay, các con có tiềm năng bước lên cao hơn nữa, tiềm năng khắc phục sự phân rẽ đó trong bản thân mình và ôm lấy trọn vẹn Sứ vụ của con.

Hiển nhiên đây là điều thày mong muốn nhìn thấy nơi con, con yêu dấu. Liệu điều này có nghĩa là con sẽ hiển thị một mức quả vị Ki-tô cao hơn thày cách đây 2000 năm hay chăng? “Đúng vậy! Có thể nghĩa là vậy cho con đó!” Con không nghĩ đó là điều thày mong muốn cho con sao? Con yêu dấu, con có nghĩ là thày – chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô – lại mang chút tham vọng của tự ngã bảo rằng: “Ta đã từng là người chứng tỏ quả vị Ki-tô trên trái đất và ta không muốn bao giờ có người qua mặt được ta” hay sao?

Thày muốn con hoàn thành những công việc lớn lao hơn thày thuở trước – thày đã nói vậy cách đây 2000 năm. Thật không phải là vấn đề của thày nếu con đã không tin thày! Thày an bình với chuyện đó, thày phó mặc cho quyền tự quyết của con, và thày chỉ muốn chỉ ra cho con thấy đây là cách nhìn của thày. Thật sẽ là niềm vui tột cùng cho thày được chứng kiến nhiều người – một vạn người – hiển thị một tầng của quả vị Ki-tô cao hơn những gì thày đã có thể hiển thị cách đây 2000 năm, cho dù như thày vừa nói, họ có biểu lộ quả vị Ki-tô đó qua một lối sống phần nào “bình thường”.

Con yêu dấu, thật là niềm vui tột cùng cho thày được trao con bài giảng này và thật sự được thấy những xoay chuyển tâm thức nơi những ai đã hấp thụ được. Thày sẽ vui mừng biết mấy được thấy nó lan tỏa ra như những vòng tròn trên mặt nước, giúp cho ngày càng nhiều người hơn đạt tới mức chấp nhận hoàn toàn tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình – chấp nhận trọn vẹn các chọn lựa của chính mình.

7 | Quả vị Ki-tô và Sứ vụ Thiêng liêng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 20/5/2018 nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày mong muốn nói chuyện với con về đề tài quả vị Ki-tô và mối liên hệ với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Các thày đã giảng dạy cho con về điều mà chúng ta có thể gọi là “giai đoạn công phu” (work phase) trong Sứ vụ của con. Khi con bước vào kiếp đầu thai – nếu con là một học trò tâm linh già dặn – con biết là con có một số công việc cần làm liên quan đến việc cân bằng nghiệp quả, thu nhận sáng ngộ và kinh qua những trải nghiệm sẽ xoay chuyển tâm thức của con. Là một học trò tâm linh chín chắn hơn, thường khi con sẽ dự định hoàn tất sớm sủa giai đoạn công phu này trong đời mình hầu con có thể tiến bước tương đối nhanh chóng và chuyển sang các giai đọan khác của Sứ vụ Thiêng liêng.

7.1. Làm cho xong giai đoạn công phu

Điều xảy ra khá thường là trong những thập niên đầu trong đời, các con thường rất bận rộn, miệt mài trong các mối quan hệ, trong việc nuôi con, kiến tạo sự nghiệp, bỏ sức ra làm việc… tất cả những thứ đó. Như thể đó là một chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive) mà qua đó con cảm thấy mình phải làm tất cả những thứ đó và phải làm ngay lập tức. Thật ra đó cũng không đến nỗi là ám ảnh vì đơn giản con chỉ mong muốn làm cho xong hầu con có được tâm trí minh mẫn, có lẽ một cơ hội trong hoàn cảnh vỏ ngoài của mình, để con tập trung nhiều hơn vào các giai đoạn sau.

Đối với đa số các con, một cách để cân bằng nghiệp quả là qua các mối quan hệ. Đó là tại sao con thường thấy người ta lập gia đình khá sớm và cũng có con khá sớm. Có thể con sẽ có nhiều hơn một mối quan hệ. Đó có thể là những quan hệ rất nồng nàn mãnh liệt. Đây là một trải nghiệm con muốn kinh qua nhanh chóng. Con rất muốn bước qua nhanh chóng mặc dù con không hiểu điều này một cách ý thức.

Đối với nhiều người, một giai đoạn khác sẽ đến, thường là khi con tìm ra một giáo lý tâm linh. Con nhận ra là có một con đường tâm linh và con cất bước trên con đường đó. Rất nhiều người cũng trở nên vô cùng nhiệt tình và chuyên tâm khi bước đi trên con đường này. Cho dù giáo lý tâm linh là gì, họ cũng học tập một cách háo hức, thực hành bất kỳ dụng cụ hay kỹ thuật nào được ban truyền. Gần như có thể nói là họ làm vậy một cách ám ảnh cưỡng chế, bởi vì đây là điều họ cần làm để vươn lên một mức tâm thức cao hơn, một tầng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

7.2. Không cần tiếc nuối

Một kết luận con có thể rút tỉa từ hiểu biết trên là tất cả các con tuyệt đối không có lý do gì để cảm thấy bất kỳ loại tiếc nuối hay cảm giác tiêu cực nào về những điều mình đã kinh qua trong đời mình. Con có thể nhìn lại đời con và con có thể xét đoán với tâm vỏ ngoài là rất nhiều chuyện con đã kinh qua không hẳn là tâm linh. Những chuyện đó không mấy hài hòa mà lại quá sôi nổi, nồng nhiệt. Con có thể nhìn lại rồi tiếc nuối: “Ước gì tôi đã không làm điều đó.”

Con yêu dấu, tại sao con làm những việc con đã làm? Con đã kinh qua trải nghiệm đó vì đó là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cho dù nó mang ý nghĩa gì đối với cá nhân con, con đã cần đến trải nghiệm đó để hoàn tất cái mà các thày gọi là giai đoạn công phu trong Sứ vụ Thiêng liêng. Các thày cũng có thể gọi đó là giai đoạn chuẩn bị, vì con đang chuẩn bị bản thân cho giai đoạn sáng tạo hơn trong Sứ vụ của con. Như các thày đã nói, con đơn giản nhận ra là con có tiềm năng đạt đến một mức tâm thức nào đó trong kiếp này nhưng con đã bước vào kiếp này ở một mức tâm thức thấp hơn. Cho nên con muốn xoay chuyển tâm thức càng nhanh càng tốt để có thể vươn lên những tầng cao hơn. Chỉ khi nào con đến được những tầng cao hơn đó thì con mới bắt đầu nhìn thấy những khía cạnh sáng tạo hơn của Sứ vụ của con.

Điều các thày đã nói là con không thể thực sự dời chuyển tâm thức của mình một cách lý thuyết và trí thức. Con cần có một số trải nghiệm để dời chuyển tâm thức. Tại sao con làm những việc con đã làm? Vì trong tiềm thức, con biết là con cần đến những trải nghiệm đó. Con muốn có trải nghiệm đó càng mau sớm càng tốt để con có thể dời chuyển tâm thức của con.

Con yêu dấu, cho dù các trải nghiệm đó là gì thì một cách nào đó, chúng cũng đã chuyển dời tâm thức của con. Thày biết là hầu hết các con sẽ nhìn lại đời mình và nói: “Nhưng cũng đã có một số trải nghiệm khó khăn đến độ tôi bị rơi vào một vòng xoáy tiêu cực, và trong nhiều năm trời, nó đã khiến tôi bị trầm cảm hay bị xáo trộn hay bị khổ tâm.”

7.3. Dời chuyển ra khỏi tiếc nuối

Vâng, con yêu dấu, nhưng khi con sẵn lòng nhìn ngược lại và sử dụng các dụng cụ thày đã ban cho con, thì con sẽ có thể khắc phục nó và thực hiện cuộc xoay chuyển mà con đã trù liệu cần xảy ra qua trải nghiệm đó. Và một khi con xoay chuyển, con yêu dấu, trải nghiệm sẽ không quan trọng nữa. Thày cũng biết là một trải nghiệm đau thương có thể tích tụ năng lượng trong bốn thể phàm của con. Tuy nhiên, con đã có các dụng cụ để chuyển hóa nó và nhờ vậy để cho nó ra đi. Nhiều lần, con yêu dấu, con không nhận ra là khi con có trải nghiệm như vậy, con đã phản ứng ở mức tâm thức của con vào lúc đó. Giờ đây khi con đã nâng cao tâm thức thì con nhìn lại quá khứ với đôi chút hối tiếc. Có thể là từ cảm nhận của người học trò tâm linh mà con muốn trở thành, con đã không nên làm điều đó. Con yêu dấu, cảm giác nuối tiếc đó – khi con tự trách móc hay xấu hổ – xuất phát từ một cái ngã nội tại thường là một thành phần của tập hợp ngã gốc.

Nếu con có thể nhận diện là con đang nhìn lại quá khứ với lòng nuối tiếc hay cảm giác tiêu cực, thì con cần biết đó là một cái ngã nội tại. Đó là một ngã tách biệt và thật ra nó có thể phần nào được tạo ra bởi một giáo lý tâm linh mà con đã tiếp nhận. Vì một lý do nào đó, con đã diễn giải giáo lý đó và con đã tạo ra cái ngã đang trách móc ngã, đang cảm thấy xấu hổ như thể mình không đủ tốt, và cảm thấy (như nhiều các con có thể cảm thấy) rằng một người tâm linh đích thực đã không thể nào làm chuyện đó – nhưng chính con lại làm chuyện đó. Con cho rằng sự kiện con hành xử như vậy có nghĩa là bây giờ con đã vĩnh viễn đánh mất cơ hội, con sẽ không bao giờ chuộc lỗi được trong kiếp này và do đó kiếp này bị lãng phí. Con không thể làm gì khác hơn là ngồi đó trong buồng tối mà khóc cho đến mãn kiếp.

Con yêu dấu, thày có vẻ đang nói đùa, nhưng những ai cảm thấy mình đã làm chuyện gì tồi tệ đến độ mình không thể là người tâm linh chân chính, thường nghĩ là mình không thể nào đến gần các chân sư thăng thiên, bởi vì chắc chắn các thày sẽ lên án con y như con đang lên án chính mình. Biết bao nhiêu lần các thày đã nói với con là các thày không nhìn con như con nhìn chính con? Các thày không trách móc con như con đang tự trách mình.

Điều thày muốn nói với con ở đây là như sau: “Con yêu dấu, đừng bao giờ cho rằng một chân sư thăng thiên sẽ lên án con về bất cứ điều gì con đã làm.” Các thày chỉ có một mong muốn duy nhất – là giải thoát con. Các thày sẵn sàng giúp con giải thoát khỏi bất cứ gì từ quá khứ của con.

7.4. Quả vị Ki-tô và tha thứ

Đây là một trong những khía cạnh của quả vị Ki-tô. Khi con bắt đầu có khả năng mà các thày gọi là phân biện Ki-tô, con sẽ đạt tới điểm trải nghiệm là mình có thể được tha thứ, được cứu chuộc. Con có khả năng khắc phục, vươn lên cao hơn bất cứ gì đã xảy ra trên trái đất này. Thật ra thày có thể nói với con là có nhiều tín hữu Cơ đốc giáo, thậm chí cả những người đạo Cơ đốc cực chính thống (fundamentalist), đã hiểu rõ điều này hơn cả nhiều người trong phong trào Thời Mới hay học trò của chân sư thăng thiên. Phần nào, đó là vì những người Cơ đốc đó không mang khái niệm là do họ bước trên đường tu cho nên họ cần nắm trách nhiệm xem xét tâm lý của mình và buông bỏ những gì cần buông. Dù vậy, họ vẫn trải nghiệm được thực tại là Ki-tô có khả năng cứu chuộc họ khỏi mọi tội lỗi, và họ chấp nhận như thế.

Nhưng các con thì khác, các con có một mức độ trách nhiệm cao hơn về bản thân. Điều này rất tốt, nhưng con cần nhận ra là trong con có một cái ngã tách biệt đã chụp lấy tinh thần trách nhiệm này và biến nó thành tiêu cực bằng cách khiến con nghĩ mình luôn luôn phải toàn hảo. Con nghĩ có một số chuyện đáng lẽ con đã không được làm và con sẽ không thể được tha thứ hay cứu chuộc. Nói cách khác, con sẽ không bao giờ vượt lên cao hơn cái đó.

Tất nhiên, ngã đó dựa trên sự kiện là ngay từ khi sa nhân bắt đầu hiện thân trên hành tinh này, chúng đã phóng chiếu vào tâm thức tập thể ý tưởng là có một số chọn lựa tự quyết của con sẽ không thể được khắc phục qua những chọn lựa khác hơn. Một lần nữa như các thày đã giảng nhiều lần, quyền tự quyết cho phép con chọn lựa bất cứ gì con muốn bất cứ lúc nào – có nghĩa là bất cứ lúc nào, con cũng có thể lấy một chọn lựa sẽ hoàn toàn thay thế chọn lựa cũ. Không bao giờ con lấy một chọn lựa mà không có khả năng tránh khỏi hậu quả của nó qua một chọn lựa mới. Đấy, thày biết rất rõ là ngay lập tức sẽ có một phần trong bản thể con phản bác lại là trong bát cung vật lý, có thể vào thời trẻ con đã có những chọn lựa mang lại hậu quả mà con không thể thay đổi chỉ qua một chọn lựa mới.

7.5. Điều kiện vật chất không thể ngăn cản tâm thức xoay chuyển

Phải, con yêu dấu, điều đó đúng. Tuy nhiên, bao nhiêu lần các thày đã nói với con là không có một điều kiện vật chất nào mà con có thể đem theo con lên cõi thăng thiên? Do đó, không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con thăng thiên. Cũng vậy, không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con cứ tiến lên tới tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng, vì thật sự không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con xoay chuyển tâm thức của con. Chính sự chuyển đổi tâm thức sẽ đưa con tới mức có thể thăng thiên.

Điều này dẫn con tới điểm con có thể bước vào các giai đoạn cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng. Tất cả chỉ là vấn đề dời chuyển tâm thức. Con nhìn nhận là một mặt, do độ dày đặc của cõi vật chất, một số nguyên tắc cơ học sẽ vận hành ở đây. Có một số việc con làm mang hậu quả có thể sẽ tồn tại trong suốt phần đời còn lại của con – điều này hoàn toàn đúng. Nhưng nó không thể giới hạn con tăng triển tâm thức. Đây là điều mà con khởi sự trải nghiệm khi con bắt đầu có phân biện Ki-tô, và con mở tâm ra để thực sự nắm bắt, trải nghiệm, khía cạnh này của Ki-tô – là Ki-tô đấng Cứu chuộc theo cách gọi của người Cơ đốc giáo. Con có thể gọi một tên khác. Con có thể gọi đó là Ki-tô với khả năng nâng con lên cao hơn bất cứ gì của quá khứ, hay Ki-tô với khả năng biến con thành mới, như ngay cả Paul cũng bảo: con trở thành một sinh thể mới trong Ki-tô.

Đây là một sự xoay chuyển quan trọng mà con có thể thực hiện khi con nhận ra có sa nhân hiện diện trên hành tinh. Chúng ngăn chặn con một cách rất hung hãn để con không đạt tới các giai đoạn cao trong Sứ vụ Thiêng liêng, đặc biệt là việc biểu hiện quả vị Ki-tô của con. Công cụ chính của chúng là phong chiếu ý tưởng là con có thể có một số chọn lựa mà con sẽ không bao giờ vượt qua nổi. Đây là một lời gian dối tuyệt đối, hoàn toàn đi ngược lại khái niệm tự quyết. Vì thế con cần có phân biện này. Và đến đây, con yêu dấu, chúng ta chuyển sang một khía cạnh khác của quả vị Ki-tô, hay phân biện Ki-tô, mà nhiều người trên thế giới vẫn chưa thực sự nhìn thấy.

7.6. Con không cần một vị cứu tinh từ ngoài

Một lần nữa, đây là vì các sa nhân đã làm đủ mọi cách để phá hỏng sứ mạng mà thày đã khởi xướng cách đây 2000 năm. Chúng đã làm mọi cách để khiến mọi người hiểu lầm khái niệm Ki-tô. Với việc thành lập Giáo hội Công giáo và kể từ đó, chúng đã phóng chiếu hình ảnh Ki-tô là một đấng cứu tinh sẽ đến cứu con trong tư cách một lực bên ngoài. Và do đó con không có uy lực bên trong, hay khả năng ở bên trong, để nâng cao tâm thức mình cho tới mức có thể thăng thiên.

Đây là một sự lật ngược toàn diện thông điệp mà thày đã ban truyền. Một lời xuyên tạc hoàn toàn. Cho nên như thày có nói, hầu hết các giáo hội Cơ đốc ngày nay rõ ràng đều dựa trên những lời gian dối của phản Ki-tô – ngay từ thời thành lập, nhưng đây là một vấn đề bên lề.

Điều thày muốn đưa ra là như sau: Không có điều gì từ quá khứ mà con không thể khắc phục khi con nhận ra rằng Ki-tô không phải là một cứu tinh bên ngoài. Ki-tô không ở ngoài con; Ki-tô chỉ có thể đến bên trong con. Nếu con muốn thấy Ki-tô như một cứu tinh thì Ki-tô là vị cứu tinh nội tại. Do đó, con yêu dấu, con cần nhìn nhận là con có khả năng thực sự vượt qua tất cả mọi sự việc của quá khứ, nếu con sẵn lòng nhìn vào bản thân và phát hiện trong con cái ngã tách biệt bị dính mắc với quá khứ.

Chẳng hạn, nhiều người trong các con đang bước trên đường tâm linh và đã nhận trách nhiệm về bản thân mình, các con có một cái ngã nội tại bảo rằng con phải cư xử thế nào như một học trò tâm linh. Con yêu dấu, có một tâm thức rất, rất hung hãn trên thế giới – một lần nữa, do sa nhân tạo ra cách đây hàng ngàn năm và trước đó nữa – muốn quy định những lằn ranh, những cách xét đoán, những chuẩn mực về cách hành xử của con người. Một phần của quả vị Ki-tô là đạt đến nhận thức là con không thể chứng được các giai đoạn cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng bằng cách tuân thủ những tiêu chuẩn nội tại đó mà con đã tạo ra cho bản thân mình.

Các thày đã nói đến những tiêu chuẩn vỏ ngoài mà xã hội áp đặt lên con, nhưng bây giờ thày đang nói về những tiêu chuẩn nội tại mà chính con đã tạo ra, rất có thể suốt nhiều kiếp sống như một người tâm linh. Con cần xem xét điều này và con cần nhìn xem nó ăn khớp thế nào với những lời dạy mà các thày đã ban ra về chấn thương nhập đời và ngã gốc, cũng như cách con đã phản ứng khi con hứng chịu chấn thương nhập đời. Có một điều gì khiến con quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm lại điều này nữa.” Do đó, con đã tạo ra cái ngã lý luận rằng có một điều gì đó con làm đã khiến cho sa nhân hành hạ mình, và nếu con không bao giờ tái phạm thì có thể con sẽ không bao giờ bị hành hạ như vậy nữa.

7.7. Các chuẩn mực nội tại của con

Và điều này dẫn đến việc con tạo ra một chuẩn mực rằng con phải là người như thế nào. Kể từ đó, con yêu dấu, ở trong con đã có một cái ngã – trong bất kỳ hoàn cảnh nào khi con đầu thai trên địa cầu, trong tuổi thơ ấu lẫn tuổi thanh niên – cứ năng động rà xét xã hội nơi con sống, đánh giá xã hội để tìm xem những điều cấm kỵ, những tiêu chuẩn, những phép tắc. Xong nó định ra một khuôn khổ, một mô thức, một chuẩn mực quy định những gì con phải làm và những gì con không được làm. Rồi nó phóng chiếu ra là nếu con tuân thủ cái đó thì con sẽ an toàn, con sẽ yên ổn, con sẽ được chấp thuận.

Đây là điều mà hầu hết các con – thật ra thày phải nói tất cả các con – đã làm ở một điểm nào đó. Mặc dù một số các con đã bắt đầu khắc phục được, tất cả các con đã chụp lấy nó và chuyển nó vào đường tu tâm linh khi con tìm ra đường tu. Nhìn lại các đợt truyền pháp trước, các thày có thể thấy nhiều học trò đã lấy một giáo lý của chân sư thăng thiên rồi sử dụng để lập ra một chuẩn mực khác cho những gì họ phải làm hay không được làm.

Con yêu dấu, con sẽ nhìn nhận ở đây, đó là một chuẩn mực phản ứng – con đang phản ứng lại các điều kiện trong thế giới vật chất. Điều này có thể hiểu được, nhưng đâu là mục đích của việc Giê-su hiện thân chứ? Có phải là để phục tùng các điều kiện của thế gian như sa nhân muốn Ki-tô làm? Hay là để trao cho mọi người một khung tham chiếu mà họ có thể nhìn thấy và không thể phủ nhận, rằng có một cái gì vượt khỏi các điều kiện của thế giới vật chất? Đương nhiên là câu trả lời thứ hai. Tuy vậy, đây là một sự cân nhắc và phân biện con phải tinh tế lắm mới nhìn ra được, vì như Kinh thánh cũng nói, khi Ki-tô bước vào hiện thân thì Ki-tô cũng bước vào thế giới vật chất.

7.8. Sự hiện thân của Ki-tô

Bây giờ thày muốn đưa ra một vài nhận xét về khái niệm Ki-tô hiện thân. Hiển nhiên, các tín đồ Cơ đốc giáo đã một lần nữa làm cho chuyện này rối beng khi bảo rằng cách đây 2000 năm, thày đã là hiện thân duy nhất của Ki-tô – trên thiên đàng có một đấng Ki-tô tuyệt đối, hoàn vũ nào đó đã chọn hiện thân trong hình dạng nhân thế của thày. Sự thật mà các thày đã trao cho con, cả trong cuốn sách chót về Những kiếp của tôi lẫn các giáo lý khác, là quả thật có một tâm thức Ki-tô hoàn vũ nhưng không phải vì vậy mà tâm thức Ki-tô hoàn vũ có thể hiện thân bất cứ lúc nào cũng được. Nó đòi hỏi phải có một con người trong hiện thân đã nâng cao tâm thức của mình lên tới mức bỗng nhiên tâm Ki-tô hoàn vũ có thể khởi sự tỏa rạng qua người đó.

Con cũng có tiềm năng cho Ki-tô hiện thân trong con khi con đạt đến mức tâm thức đó. Điều này quan trọng vì mấy lý do. Quan trọng hơn cả là vì nó chứng tỏ rằng khi Ki-tô hiện thân – nếu có thể nói như vậy – hay bắt đầu tự biểu hiện trong thế gian này, thì Ki-tô không làm vậy một cách hoàn toàn độc lập với các điều kiện trong thế gian. Khi thày xuất hiện cách đây 2000 năm tại Israel, thày đã hóa thân là một đứa trẻ trong kiếp hiện thân đó. Thày đã lớn lên trong môi trường đó, đã hấp thụ phần lớn môi trường đó, và tất nhiên rất nhiều điều thày nói ra được thích ứng với tín ngưỡng và thế giới quan của con người thời đó. Một thế cân bằng cần được tìm thấy, qua đó Ki-tô không đi vào thế gian để cho mọi người một giáo lý tuyệt đối vì họ sẽ không thể liên hệ với nó. Ki-tô phải thích nghi, như con thấy trong câu chuyện người đàn ông khát nước, khi thay vì cho ông ta một bài thuyết giảng tâm linh thì thày đã cho ông một ly nước lạnh.

Như các thày đã giảng, đây là nguyên tắc Ki-tô đến gặp gỡ con người ở ngay điểm tâm thức của họ và trao cho họ một cái gì có khả năng nâng họ lên bước kế tiếp, và – mong thay – cái đó sẽ dẫn họ vào con đường sẽ tiếp nối mãi cho tới điểm thăng thiên. Một mặt con có thể thấy là Ki-tô tự biểu hiện (tức hiện thân) trong thế gian, và ở một mức nào đó, Ki-tô cũng thích nghi với các điều kiện trong thế gian.

Câu hỏi mà tất cả các con cần giải quyết về mặt cá nhân là: “Tôi sẽ thích nghi tới đâu và tôi sẽ vượt xa hơn bao nhiêu?” Khi con bắt đầu đạt đến những tầng của Sứ vụ Thiêng liêng nơi con sẵn sàng (con bắt đầu) thể hiện quả vị Ki-tô của mình, thì việc thể hiện quả vị Ki-tô không phải là chuyện thích nghi với các điều kiện của thế gian. Đó là chứng tỏ rằng sự thăng vượt các điều kiện đó là điều khả dĩ.

Con hiểu điều thày đang nói chứ? Làm thế nào con có thể chứng tỏ cho người khác rằng việc thăng vượt một mức tâm thức nào đó là khả dĩ? À, trước tiên con phải khoác vào mức tâm thức đó. Đó là tại sao con đã đầu thai trong một gia đình, một quốc gia, một nền văn hóa nào đó. Con trầm mình vào đó một thời gian. Xong khi con sẵn sàng khởi sự biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, con vượt khỏi mức đó. Không phải việc biểu hiện quả vị Ki-tô là sự trầm mình vào nền văn hóa đó đâu, mà là vượt ra khỏi nó. Một lần nữa tất nhiên, con không ở đây để vượt quá cao đến độ người ta không thể kết nối với con, mà con ở đây để chứng tỏ rằng việc vượt ra khỏi là điều khả dĩ, rằng có một cái gì đó vượt ra khỏi.

7.9. Quả vị Ki-tô là một cái gì cá nhân

Quả vị Ki-tô là gì? Nó rất cá nhân. Đó là tại sao một trong những điều tệ nhất mà con có thể làm cho bản thân mình là nhìn vào cuộc đời của thày rồi sử dụng để tạo ra một chuẩn mực cho cách hành xử của một sinh thể Ki-tô. Nhiều người đã làm điều này. Các tín đồ Cơ đốc hiển nhiên đã làm điều này, nhưng nhiều học trò của chân sư thăng thiên cũng đã làm một chuyện tương tự. Con thấy đã có những tổ chức của chân sư thăng thiên mà trong đó mọi người đều chú tâm vào việc tự phán xét lẫn phán xét người khác để xem ai nấy có tuân thủ chuẩn mực đó hay không – một chuẩn mực mà họ nghĩ các chân sư đã quy định.

Trong quả vị Ki-tô không hề có chuẩn mực. Đây là điều con cần nắm bắt trước khi con có thể thực sự bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô của mình. Tất cả tùy vào mỗi cá nhân. Con đã đầu thai trong một hoản cảnh đặc thù, đã khoác vào một số điều kiện, một tâm thức tập thể nào đó từ gia đình, quốc gia, vân vân. Biểu hiện quả vị Ki-tô có nghĩa là chứng tỏ có một cái gì cao hơn chuẩn mực đó. Lúc đầu, nó sẽ không cao hơn nhiều lắm, mà nó sẽ cao hơn một chút để ai nấy vẫn có thể liên hệ với con.

Khi con tiến hơn, có thể con sẽ lên cao hơn và cao hơn nữa. Có thể con sẽ tới một điểm khi những ai đã từng lớn lên cùng với con không còn liên hệ được với những gì con biết và hiểu về cuộc sống, và đây là một chuyện khác. Điều thày đang cố chỉ cho con thấy ở đây là nhiều người trong các con có một cái nhìn lý tưởng, lãng mạn, xa vời về thế nào là biểu hiện quả vị Ki-tô. Kỳ thực ở những giai đoạn sơ khởi, quả vị Ki-tô là một cái gì rất thực tiễn liên quan đến những điều kiện trong môi trường hàng ngày. Có thể đó chỉ là một cách làm tốt hơn, một cách nhìn khác hơn về một số chuyện, là không quá coi trọng một số sự việc, không tự xem mình hay xem cuộc sống là quá hệ trọng. Chẳng hạn con có thể vui sống hơn người khác, hay con không đến nỗi bị ám ảnh cưỡng chế về một số khía cạnh trong văn hóa của mình, như con không ghét bỏ những ai sống bên kia biên giới, hay bên kia đường, hay bên kia bất cứ gì khác.

Con có thể chứng tỏ một phương cách khác, một cách nhìn khác, và đó là một khía cạnh trong quả vị Ki-tô của con ở khởi đầu. Nhiều người trong các con có thể nhìn lại đời mình và nhận thấy: “Nhưng trong phần lớn đời tôi, tôi đã chẳng làm vậy hay sao?” Và con nói đúng – con đã làm vậy. Nhiều người trong các con đã làm vậy. Thày chỉ mong giúp con nhận biết về điều đó và nhìn nhận rằng đó là một biểu hiện của quả vị Ki-tô của con. Khi con công nhận là con đã có biểu hiện quả vị Ki-tô thì con sẽ dễ dàng hơn chấp nhận là mình thực sự có thể là Ki-tô trong hành động. Con thực sự có khả năng biểu hiện quả vị Ki-tô trên địa cầu và đó không nhất thiết là một điều gì xa vời, như cách nhìn lý tưởng mà người đạo Cơ đốc đã dựng lên về cuộc đời của thày.

Bây giờ nếu con lấy cuốn sách Những kiếp của tôi cùng với những gì thày đã giảng trong các bài truyền đọc và vấn đáp khác, con sẽ thấy cuộc đời của thày không có gì giống như cái lý tưởng mà người đạo Cơ đốc đã tạo ra. Thày có nói trước đây là con đã rất có thể suy luận rằng điểm kết liễu đời thày đã là một thất bại toàn diện. Thật sự thày đã hoàn thành được việc gì trong đời sống vỏ ngoài chứ? Thậm chí thày đã không thu hút được cả những môn đệ có khả năng nắm bắt thông điệp mà thày đã đến để ban truyền.

Thày không đang cố hạ thấp những gì đã xảy ra, mà thày đang cố khép lại khoảng cách mà nhiều người trong các con đang có trong tâm mình. Con có cái ngã nội tại đó mang nỗi ám ảnh cưỡng chế phải chỉ ra những thiếu sót và lầm lỗi của mình, đến độ con sẵn sàng tin vào sự phóng chiếu rằng bởi vì con đã phạm tất cả những lầm lỗi đó, cho nên con không thể nào là Ki-tô trong kiếp đầu thai này được. Thày đang cố chỉ cho con thấy rằng làm Ki-tô là một tiến trình. Nó bắt đầu thật nhỏ xong nó có thể ngày càng lớn hơn. Con cần công nhận là nó không thể xảy ra đùng một cái. Nó chỉ có thể xảy ra bằng cách con bước đi từng bước một, dần dần nhận ra là con có khả năng làm cánh cửa mở cho Ki-tô.

7.10. Sứ vụ Thiêng liêng và tự quyết

Con yêu dấu, vậy thì làm Ki-tô có nghĩa là gì? Hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình có nghĩa là gì? Một lần nữa, trên thế giới có một tâm thức do sa nhân tạo ra muốn chụp lấy mỗi ý tưởng, mỗi khái niệm, và thu hẹp nó xuống một chuẩn mực đường thẳng hầu tâm phân tích có thể phân loại và dán nhãn.

Có một vị trong số các con vừa chia sẻ là khi anh ấy đến dự hội nghị này thì có người đã hỏi anh: “Giáo lý mà bạn đang tu tập là gì chứ?” Anh đã không thể tìm ra một cái tên vì các thày đã cố tình không đặt tên. Đó là một ví dụ người ta bị tâm thức của sa nhân ảnh hưởng mà không hay biết, và tâm thức này khiến họ luôn luôn muốn gắn nhãn cho mọi sự. Họ luôn luôn muốn gọi tên để họ có thể phân loại, và thế là cái đó giờ đây phải đi vào khuôn mẫu. Tất nhiên, đây chính là điều mà sa nhân đã toan tính làm với Ki-tô, nhưng thực tế của Ki-tô là Ki-tô không bao giờ tuân theo một mẫu mực nào.

Vậy có tiêu chuẩn nào quy định cách con phải biểu hiện quả vị Ki-tô của con như thế nào trong hoàn cảnh đặc thù của con hay không? Không, không có. Tuy nhiên, điều này dẫn đến câu hỏi tiếp theo. Trong Sứ vụ Thiêng liêng của con có điều gì được quy định về quả vị Ki-tô không? Liệu Sứ vụ Thiêng liêng giống như một chuẩn mực về cách con phải cư xử trong kiếp này và do đó cũng về cách con phải biểu hiện quả vị Ki-tô của mình?

Quyền tự quyết có vai trò gì trong Sứ vụ Thiêng liêng? Liệu Sứ vụ của con có giống như một chiếc áo tù bó tay bó chân hay không? Trong những năm đầu của đời con, con không nhận thức về Sứ vụ của mình cho nên con khá rộng tay làm bất cứ gì con muốn. Rồi tới một điểm có sự chờ đợi là con sẽ bước vào nhận thức về Sứ vụ của mình, và khi đó có vẻ chọn lựa duy nhất còn lại cho con là: “Liệu tôi sẽ mặc vào chiếc áo tù này hay tôi không mặc vào?” Nếu con quyết định mặc vào chiếc áo bó tay của Sứ vụ Thiêng liêng thì phần đời còn lại của con sẽ đi theo một đường rày máy móc vì giờ đây con sẽ chỉ biết tuân theo Sứ vụ đã được vạch ra cho con. Chuyện đó, tất nhiên, không phải là ý nghĩa của Sứ vụ Thiêng liêng.

Đầu tiên các thày đã nói rằng chính con là người chọn lựa Sứ vụ Thiêng liêng của con. Rồi sau mấy thập niên giảng dạy về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, các thày đã thấy nhiều học trò diễn giải theo nghĩa Sứ vụ là do một đấng thần thánh nào đó thảo ra, và bây giờ đấng này đang cố áp đặt nó lên con để biến con thành một con múa rối. Đây chính là tại sao một số sa nhân đã tạo ra ý tưởng là con chỉ có thể giành được quyền tự quyết bằng cách nổi loạn chống lại Thượng đế. Có những sa nhân cả quyết rằng chỉ khi chúng nổi loạn và từ chối thăng thiên thì chúng mới thực sự có được quyền tự quyết. Hiển nhiên đây là một ảo tưởng, vì thử hỏi ý chí tự do của con sẽ tự do tới đâu nếu con đang phản ứng lại một cái gì khác? Ý chí đó sẽ tự do y hệt như khi con tìm cách tuân theo cái khác đó. Ý chí của con sẽ chỉ tự do một khi con chọn lựa từ bên trong.

Không cần đi sâu hơn vào một cuộc thảo luận triết lý, thực tế ở đây là Sứ vụ Thiêng liêng của con không hề vạch ra cách con phải sống cả đời mình như thế nào trong từng chi tiết nhỏ nhặt. Các thày đã nói là kỳ thực, con sẽ không bao giờ có được một tầm nhìn rõ ràng về toàn bộ Sứ vụ của mình, mà con sẽ chỉ nhìn thấy từng giai đoạn một – tại sao như vậy? À, bởi vì nếu có một Sứ vụ thật chi tiết và nếu con thấy được nó toàn bộ, thì nó sẽ giống như một con đường máy móc. Con sẽ chỉ giản dị bước hết bước này tới bước khác và đi theo đúng như vậy. Sự thật là Sứ vụ của con được lập ra, như các thày đã giảng, để trên hết nâng cao tâm thức của con, và làm thế nào con nâng cao tâm thức chứ? Bằng cách tiếp cận mỗi hoàn cảnh ở mức tâm thức hiện thời của mình, rồi con chọn lấy một chọn lựa để vươn lên khỏi tâm thức đó hầu đối phó với một vấn đề nhất định. Khi con vươn lên và trải nghiệm một cách nhìn cao hơn về vấn đề, đó là khi con đã nâng cao tâm thức lên nấc kế tiếp. Sứ vụ của con xác định hoàn cảnh mà con cần bước vào để trải nghiệm một điều kiện nhất định, nhưng nó không xác định con phải phản ứng lại điều kiện đó như thế nào. Cái đó là chọn lựa của con.

7.11. Thăng vượt nhận thức của con

Con yêu dấu, con cần thận trọng ở đây. Nhiều người trong các con đã tưởng tượng là Sứ vụ Thiêng liêng định rõ một số điều kiện vỏ ngoài. Ví dụ, con sẽ phải gặp gỡ và kết hôn một người nào đó và có X đứa con. Dựa theo đó thì nhiều người trong các con nghĩ rằng nếu con không gặp người đó – hay nếu con gặp nhưng lại quyết định không kết hôn – thì con không làm tròn Sứ vụ của mình. Sứ vụ Thiêng liêng không như vậy, nó không rõ ràng, đặc thù như vậy. Sứ vụ Thiêng liêng là để con xoay chuyển tâm thức của con.

Đối với mọi điều kiện vỏ ngoài, con có rất nhiều chọn lựa. Phải, ở những giai đoạn đầu, trong giai đoạn công phu của Sứ vụ Thiêng liêng, nhiều khi con mang nghiệp với một người nào đó và cách nhanh nhất để giải quyết nghiệp quả là có mối quan hệ với người đó. Cho nên con có thể nói: “Được, thật ra tôi đã quyết định là tôi muốn ở trong quan hệ này, cho nên khi tôi xuống đây đầu thai, đó chính là điều tôi phải làm.” Tuy vậy, con có một phạm vi chọn lựa rộng lớn trong cách đáp ứng với tình huống đó: Con sẽ ở lại bao lâu trong quan hệ, con sẽ phản ứng thế nào với mối quan hệ, vân vân. Một khi con tiến xa hơn giai đoạn công phu này và không còn phải đương đầu quá nhiều với các điều kiện nghiệp quả nữa, thì con bắt đầu bước vào giai đoạn sáng tạo của Sứ vụ của con.

Đột nhiên, con có rất nhiều chọn lựa khác hơn. Có nghĩa là, ví dụ, không chỉ có một nghề nghiệp, một loại việc làm hay sự nghiệp mà con có thể có. Ngay cả khi con chọn một nghề nghiệp nhất định thì con cũng không chỉ có một cách đeo đuổi duy nhất. Đời con không giống như một đường rày. Sứ vụ của con không đặt cuộc đời con trên một con đường rày sẽ hạn chế các chọn lựa của con. Con luôn luôn có nhiều chọn lựa, nhiều phương thức trong những gì con làm cũng như trong cách con làm.

Con yêu dấu, điều thày nói ở đây áp dụng cho các học trò tâm linh ở những tầng cao hơn. Lẽ tự nhiên, rất nhiều người ở những mức tâm thức thấp hơn bị chi phối nhiều hơn bởi các tình huống nghiệp tạo, cho nên những chọn lựa trong tiền kiếp đã tạo ra các hậu quả đang giới hạn chọn lựa của họ trong kiếp này. Con có thể đi xuống một tầng tâm thức nơi con gặp những người có rất ít chọn lựa ý thức mở ra cho họ. Phải chăng đó là điều kiện vỏ ngoài đang giới hạn họ, hay là tâm thức của họ bị giới hạn đến độ họ không sẵn lòng vượt ra khỏi cách nhận thức cố hữu của họ về thế giới?

Điều thày nói với con ở đây là con cũng có một nhận thức nào đó về thế giới, và con sẽ cần thăng vượt nó để có được nhiều tự do hơn, nhiều chọn lựa hơn. Đâu là cái đang giữ con lại? Cái gì khiến con đôi khi có cảm tưởng Sứ vụ Thiêng liêng là một chiếc áo tù bó tay, hay đời con hoàn toàn bị ngoại cảnh định đoạt? Đó là vì con mang một cái ngã nhất định đang có một nhận thức nhất định, và nhận thức này xoay quanh việc con nhìn và phản ứng lại tình huống vỏ ngoài như thế nào.

Đâu là một khía cạnh khác của quả vị Ki-tô? Là khi con nhận ra là con không ở đây để làm nô lệ cho những tình huống vỏ ngoài. Con ở đây để thăng vượt chúng, và điều này không có nghĩa là, chẳng hạn, nếu con có con cái, con sẽ bỏ rơi chúng, đào tẩu lên núi Himalaya và ngồi trong hang đá. Không, nó có nghĩa là con vượt thăng cách nhìn, cách tiếp cận, cách phản ứng của mình đối với việc có con, hầu con tìm ra một cách nhìn cao hơn không bị quá mắc kẹt trong khuôn nếp hiện thời.

7.12. Làm thế nào thực sự thay đổi đời mình

Điểm này khơi lên một đề tài khác mà nhiều người trong các con thắc mắc: “Làm thế nào con có thể thực sự thay đổi đời mình? Làm thế nào con có thể có được những điều kiện tốt đẹp hơn? Con muốn làm chuyện này, con muốn làm chuyện kia. Con muốn nhiều tiền hơn hay việc làm tốt hơn vì con rất muốn được tự do đi du lịch đây đó, gặp gỡ người ta, thăm nhiều nền văn hoá khác nhau, cái này cái nọ” (đây thật sự là ước muốn của nhiều người).

Thế là bây giờ chúng ta đến với chủ đề là làm thế nào thay đổi tình huống vỏ ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho viễn quan hay mong muốn của mình. Đây là một chủ đề rất phức tạp mà thày sẽ không đưa ra một lời giảng chung cuộc, vì thày Saint Germain cũng có một vài điều muốn nói, và cả các chân sư khác nữa. Điều thày muốn cho con là phân biện Ki-tô đi theo hai đường.

Trước hết, phân biện Ki-tô có thể cho con một viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng là con có khả năng thị hiện một hoàn cảnh vật lý cao hơn hiện tại, một hoàn cảnh nơi con có nhiều tự do hơn. Đây là một viễn quan về những gì có thể xảy ra, nhưng mặt khác cũng có khía cạnh omega về điểm này: Phân biện Ki-tô cũng có thể cho con viễn quan là đôi khi kỳ thực, mong muốn hay viễn quan của con dựa trên ngã gốc. Như chân sư MORE đã nói, ngã gốc của con mang một cơ chế đền bù, và cơ chế này đôi khi đem lại cho người tâm linh một ước muốn trốn thoát khỏi một số điều kiện nào đó.

Thật ra phản ứng này đến từ ngã gốc. Một khía cạnh của điều này là khi con đến hành tinh này như một avatar, con đến với một thái độ tích cực mong muốn đem lại một thay đổi tích cực. Rồi con cảm thấy mình bị sa nhân bác bỏ, trấn áp. Thế rồi con tạo ra ngã gốc và kể từ đó con đã cảm thấy: “Tôi không thể là chính tôi trên hành tinh này, tôi không thể là con người mà tôi là, tôi không thể biểu hiện bất cứ gì tôi muốn, tôi không thể sáng tạo vì tôi luôn luôn phải nhìn xem người ta sẽ phản ứng ra sao. Liệu người ta sẽ làm gì, sẽ nói gì, sẽ nghĩ gì? Họ sẽ chối bỏ tôi như thế nào? Họ sẽ làm gì với tôi đây?”

Con vẫn có mong muốn tự biểu đạt nhưng con lại có một cơ chế ngăn cản con tự biểu đạt. Điều mà phân biện Ki-tô có thể giúp con là khiến con nhìn ra cảm nhận đó đến từ ngã gốc – cảm nhận rằng mình không thể là chính mình trên địa cầu. Lý do là vì ngã gốc giống như một chiếc máy tính. Nó không có khả năng tự nhận biết. Nó không thể nghĩ cái gì là đúng hay sai. Ngã gốc dựa trên nhận thức rằng chính các điều kiện vỏ ngoài trên địa cầu mới ngăn cản con là người mà con là, ngăn cản con biểu đạt chính con. Kỳ thực, một khi con có phân biện Ki-tô, con sẽ thấy rõ không phải các điều kiện vỏ ngoài đang ngăn cản mình là chính mình, mà ngã gốc.

Khi con đến trái đất lần đầu tiên, có lẽ cách đây rất lâu, con đã có sẵn một mức nhận biết nào đó. Mặc dù mức đó có thể cao hơn đa số cư dân trên địa cầu vào thời ấy, đó vẫn chưa phải là mức tối hậu. Ngay cả nếu con đến từ một hành tinh tự nhiên, đó cũng chưa phải là mức tối hậu. Kể từ đó, con đã tăng triển về mặt tâm thức cho dù con có thể không hay biết một cách ý thức. Nhưng con đã có tăng triển, và đó là tại sao các thày đã nói là con có khả năng đi ngược dòng thời gian và tái trải nghiệm chấn thương nhập đời của mình với một phản ứng khác hơn trước. Đó là cách con có thể gạt bỏ ngã gốc, và các thày đã cho con dụng cụ để làm việc này.

Khi con làm vậy, điều thật sự bắt đầu xảy ra là giờ đây con lần lần khởi sự chất vấn tất cả những rào cản đó (mà con mang trong bốn thể phàm) đang bảo con là con không thể là chính mình, rằng con không thể tự biểu đạt. Sau đó con có thể bắt đầu xem xét và hòa điệu với: “Tôi thực sự là ai? Đâu là cá thể tâm linh của tôi trong Hiện diện TA LÀ? Đâu là ý nghĩa của việc biểu đạt cá thể tâm linh đó ở đây trên trái đất?” Bỗng nhiên, con yêu dấu, một khi con bắt đầu chấp nhận và trải nghiệm rằng con có khả năng là chính mình trên địa cầu, con sẽ khắc phục được mong muốn trốn chạy nói trên, luôn luôn muốn làm một người khác hay sống ở một nơi khác. Đó là cái mong muốn cứ nghĩ rằng: “Nếu như điều kiện vỏ ngoài thay đổi và xảy ra như tôi nghĩ nó phải xảy ra, thì khi đó tôi mới có thể là chính tôi.”

7.13. Không có điều kiện lý tưởng cho quả vị Ki-tô

Con yêu dấu, các thày đã có nói là có một tâm thức khiến con nghĩ là khi nào con hội được điều kiện vỏ ngoài lý tưởng thì khi đó con mới có thể là Ki-tô. Nhưng Ki-tô không cần điều kiện vỏ ngoài lý tưởng, vì chức năng của Ki-tô chính là để chứng tỏ có một cái gì cao hơn bất kỳ điều kiện nào mà Ki-tô trải nghiệm. Không hề có điều kiện lý tưởng để biểu hiện quả vị Ki-tô. Nếu con cứ ngồi đó chờ đợi một số điều kiện vỏ ngoài trước khi con có thể biểu hiện quả vị Ki-tô hay là chính mình, thì con sẽ phải chờ đến mãn kiếp – và nhiều kiếp kế tiếp nữa – trước khi con chợt hiểu ra: “Ồ, đáng lý ra tôi đã phải bắt đầu ngay ở nơi tôi đang đứng và biểu hiện quả vị Ki-tô ở ngay tầng này, và đó là cách tôi bước lên một tầng cao hơn.”

Và đó cũng chính là cách mà các điều kiện vỏ ngoài của con sẽ thay đổi. Điều kiện vỏ ngoài của con sẽ bắt đầu thay đổi khi con quyết định là con sẽ khởi sự ngay nơi con đang đứng và cả gan biểu hiện một sắc thái đó của cái ta cao hơn ngay ở đây, ngay lúc này. Đó là điều mà vị sứ giả này đã quyết định năm 2002. Đó là tại sao, một cách lần hồi, các điều kiện vỏ ngoài của ông đã thay đổi đến mức ông đã có thời gian lẫn sự tự do để tập trung vào công việc ông đang làm, thay vì phải đi làm kiếm sống, vân vân.

Những điều tương tự có thể xảy ra cho nhiều người trong số các con. Không nhất thiết theo cùng một cách nhưng chắc chắn theo cách là các điều kiện vỏ ngoài sẽ lần hồi thay đổi để con có thể cảm thấy chúng không đang hạn chế con là chính con, hạn chế con biểu đạt những gì con ở đây để biểu đạt. Nó có thể xảy ra như vậy khi con đạt tới những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, nhưng để đạt đến mức đó sẽ đòi hỏi những gì?  

Nó đòi hỏi con xoay chuyển tâm thức, con yêu dấu. Như lời thày đã dạy cách đây 2000 năm, con nhìn nhận: “Con không thể làm gì được một mình, nhưng với Thượng đế thì mọi việc đều khả dĩ.” Đó là cách thày đã diễn tả vào thời đó, nên con hãy để thày diễn đạt lại dựa theo giáo lý các thày đã cho con: “Với ngã vỏ ngoài và quyền năng của ngã vỏ ngoài, con không thể thay đổi điều kiện vỏ ngoài của con. Nhưng bằng cách nối kết lại với Ki-tô trong con, bằng cách nhận diện Ki-tô trong con, khi đó con sẽ có khả năng thay đổi điều kiện vỏ ngoài của con.”

Để nối kết lại với Ki-tô trong con và bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, điều này sẽ đòi hỏi những gì? Con yêu dấu, nó đòi hỏi nơi con một quyết định có ý thức: “Tôi sẽ không làm nô lệ cho các điều kiện vỏ ngoài của tôi. Tôi sẽ là cánh cửa mở, tôi sẽ biểu đạt chính mình cho dù điều kiện vỏ ngoài có là gì. Tôi sẽ làm điều gì đó ngay lập tức, tôi sẽ nhân lên các ta-lăng mà tôi được ban cho, tôi sẽ nhân lên hoàn cảnh mà tôi đang gặp ngay lúc này.” Sau đó, một khi con đã đi bước nhỏ đầu tiên đó, định luật sẽ trải bày ra không sai sót: Sẽ có một sự nhân lên từ cõi tâm linh. Và khi con tiếp tục làm vậy, lần hồi điều kiện vỏ ngoài của con sẽ bắt đầu xoay chuyển.

Có thể một số các con cũng sẽ nhận thấy là thật ra, có một số điều kiện vỏ ngoài mà con không trù liệu thay đổi vì công dụng của chúng là để con bày tỏ một cách ứng phó cao hơn đối với chúng. Đây không chỉ là chuyện thoát ra khỏi một số điều kiện mà con không ưa, vì chúng có thể là một phần của quả vị Ki-tô của con. Thật ra, có thể một phần của Sứ vụ Thiêng liêng là con biểu hiện quả vị Ki-tô trong những điều kiện đó hầu người khác thấy được là chúng có thể được thăng vượt.

Một lần nữa, đây là một điểm phân biện tinh tế. Con yêu dấu, đây cũng là sự kiện khi con vươn lên cao hơn và khắc phục cơ chế đền bù – các dính mắc, như các thày cũng gọi như vậy – thì con có nhiều chọn lựa hơn. Chẳng hạn, ở một điểm nào đó con có thể chọn: “Không, tôi không muốn gặp điều kiện này nữa, tôi đã trải nghiệm nó đủ rồi,” hoặc “Tôi không muốn ứng phó với loại người này nữa. Tôi đã chứng tỏ có một tâm thức khác hơn trạng thái tâm thức của họ và tôi không muốn cứ làm mãi chuyện này cho đến hết kiếp này. Tôi muốn bước sang một cái gì khác.”

Con yêu dấu, con có rất, rất nhiều chọn lựa khác nhau. Không chỉ có một cách duy nhất để hoàn thành Sứ vụ của con và cũng không phải là nếu con không làm theo cách đó thì con sẽ không làm tròn Sứ vụ của mình. Đây không phải là chuyện “tất cả hay không có gì”. Nó không đen trắng.

7.14. Con không thể thất bại trong Sứ vụ

Miễn là con sẵn sàng xoay chuyển tâm thức, con yêu dấu, con không thể không làm tròn Sứ vụ Thiêng liêng của con, vì cốt lõi của Sứ vụ chính là sự dời chuyển tâm thức lên mức cao nhất có thể. Không có gì bất di bất dịch. Trước khi con đầu thai và lập ra Sứ vụ Thiêng liêng, con đã lượng định – dựa trên tâm thức con mang trong kiếp trước – những gì con có thể vươn tới trong kiếp này một cách thực tế nhất. Nhưng nếu con sẵn lòng, nếu con thật sự chuyên tâm và áp dụng giáo lý mà các thày đã ban truyền, thì con còn có thể vươn lên cao hơn nữa. Nhiều các con có khả năng vươn lên cao hơn mức được định ra trong Sứ vụ của mình.

Một số các con đã không định ra trong Sứ vụ là mình sẽ có thể vươn tới tầng 144 trong kiếp này, nhưng một số các con có khả năng làm được điều này nếu con thực sự chuyên tâm và bước xa hơn, bởi vì việc xoay chuyển tâm thức đòi hỏi gì chứ? Nó chỉ đòi hỏi con sẵn lòng nhìn ra một điều gì đó mà con chưa nhìn thấy trước đây, sẵn lòng quyết định là con sẽ không bị giam hãm trong mức tâm thức này, sẵn lòng bước ra ngoài. Con sử dụng khả năng của cái Ta Biết để bước ra ngoài bốn thể phàm của nó và nhìn ra: “Tôi không là cái này, tôi là hơn cái này.” Không có gì được quy định từ cõi thăng thiên hay từ Sứ vụ Thiêng liêng để giới hạn con chỉ tiến được bao xa trong tiến trình này, nếu con sẵn lòng xoay chuyển.

Tuy nhiên sẽ có một giới hạn, là con cần một cảm giác liên tục, cho nên con không thể tự dưng chuyển vọt lên một mức quá cao so với mức hiện tại của con. Con không thể nhảy bước. Một số học trò tâm linh trở nên rất nóng lòng và muốn giác ngộ ngay bây giờ, trong vòng năm phút, nhưng điều này không thể làm được ngay lập tức. Con phải đi qua tất cả 144 tầng tâm thức. Con không thể nhảy từ tầng 120 lên tầng 133. Không thể được. Con sẽ đánh mất ý niệm bản sắc, ý niệm liên tục của con, và thật ra nó có thể dẫn đến bệnh tâm thần và chứng tâm thần phân liệt (schizophrenia). Điều con cần nhìn nhận ở đây là con cần đi qua tất cả mọi bước, vì thật sự nếu con sẵn lòng thì không có gì sẽ giới hạn tốc độ tiến bước của con.

Con yêu dấu, lẽ tự nhiên thày có thể tiếp tục nói mãi và giảng thêm nữa về đề tài này. Các thày đã cho con nhiều giáo lý mà con có thể tu học và áp dụng trong nhãn quan mà thày vừa trao cho con về Sứ vụ Thiêng liêng và quả vị Ki-tô. Bí quyết thực sự ở đây là con đạt tới điểm nhận ra: “Tôi không được quy định bởi bất cứ điều gì trên địa cầu. Tôi là một sinh thể tâm linh.” Cái Ta Biết là tên gọi mà các thày đã dùng cho sự nhận biết thuần khiết để chỉ rõ là con không bị quy định bởi bất cứ gì có hình tướng. Đó là lý do tại sao con có khả năng thăng vượt bất kỳ hình tướng nào, kể cả những hình tướng trong ngã gốc và các ngã tách biệt của con. Đây là cốt lõi của quả vị Ki-tô, mà con hoàn toàn tự quyết trong việc thực hiện và áp dụng trong kiếp này.

23 | Thoát khỏi ngã gốc của con

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 3 tháng 12 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày muốn con nghĩ tới nhiều tín đồ Cơ đốc đang ngồi thờ phượng trong giáo đường của họ vào một buổi sáng Chủ nhật khắp nơi trên thế giới. Nhiều người trong họ thuộc về một giáo hội đặc thù và họ tin rằng giáo hội của họ có sự diễn giải chân chính về cuộc đời của thày và có khi còn là diễn giải chân chính duy nhất.

Nhiều người trong những tín đồ Cơ đốc này cho rằng họ diễn giải Kinh thánh theo nghĩa đen. Họ tuyên bố là họ diễn giải Thánh kinh theo nghĩa đen. Giờ đây, con yêu dấu, thày có thể chứng minh họ sai chỉ qua vài câu. Tất cả các con đều biết câu trích dẫn lời thày nói trong Thánh kinh: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nhưng ai vì ta mà mất mạng sống mình thì sẽ được sự sống thật, sự sống trường cửu.” Con yêu dấu, nếu con tuyên bố diễn giải thánh kinh theo nghĩa đen, thì câu hỏi là: “Vậy thì tại sao con chưa kết liễu mạng sống mình?”

Nếu con vẫn còn sống thì sự thật giản dị là con đã không hiểu theo nghĩa đen tất cả mọi câu trong Thánh kinh. Nếu con không hiểu theo nghĩa đen một câu nói (vì con đã không bỏ mạng sống mình để đi tìm đời sống vĩnh cửu), vậy thì tại sao con không hiểu câu nói đó theo nghĩa đen? Lẽ dĩ nhiên đó là vì con nhận ra ý của câu này không thể hiểu theo nghĩa đen được. Nếu có một câu không nên hiểu theo nghĩa đen, thì phải chăng nhiều câu khác cũng thế? Còn hơn thế nữa, phải chăng là tất cả những câu nói của thày không nên hiểu theo nghĩa đen?

Ngay cả Thánh kinh cũng chứng minh là thày giảng giáo lý thấp hơn cho đại chúng và giáo lý cao hơn cho các tông đồ của thày. Có khó lắm không để thấy là thày đã dạy một giáo lý có thể hiểu ở nhiều trình độ khác nhau vì thày chờ đợi là các con dùng giáo lý để gia tăng sự hiểu biết, để nâng cao sự nhận biết của các con? Khi làm như thế, con sẽ hiểu được ý nghĩa sâu sắc hơn đằng sau những lời thày nói. Cho nên, những ai hiểu Thánh kinh theo nghĩa đen đang không đi trên con đường tu, con Đường Đạo mà thày đã phác họa. Có khó lắm chăng để thấy điều này, con yêu dấu?

23.1. Những cái ngã của con bị kẹt trong một nhận thức đặc thù

Lẽ dĩ nhiên thày biết là tất cả các con có thể thấy được điều này vì nếu không thì các con đã không theo học giáo lý của các chân sư thăng thiên. Thày nêu lên điều này bởi vì ngay cả những người trong các con đã mở tâm đón nhận giáo lý của các thày, các con quả thực cũng nhận ra có những phần trong tâm thức mình đã hiểu một số điều theo nghĩa đen. Thày đã nói tới những cái ngã mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại những kinh nghiệm con trải qua trong thế gian này. Con yêu dấu, có thể nói một cái ngã như thế bị kẹt trong một trạng thái tâm thức mà con thấy nơi nhiều tín đồ Cơ đốc giáo cực chính thống.

Cái ngã được tạo ra cho một mục đích đặc thù và nó chỉ có thể nhìn cuộc đời (hay nhìn một khía cạnh đặc thù của cuộc đời) theo cách nhìn được quy định khi nó được tạo ra. Nó giống như cái máy cứ giản dị lặp đi lặp lại cùng một khuôn nếp. Giáo lý mà các thày trao truyền ở đây lẽ dĩ nhiên không dành cho người mới bắt đầu tu, ngay cả những người mới bắt đầu tu theo giáo lý của các chân sư thăng thiên. Nó được trao truyền đặc biệt cho những người đã tiến lên những tầng cao hơn. Giáo lý thày trao truyền trong lần truyền giảng này đặc biệt dành cho những người đã đọc quyển sách mà các thày đã trao truyền (Các Kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su) và do đó họ đã sẵn sàng đối phó với các khai ngộ này vì họ nhận ra họ là một avatar đã đầu thai trên trái đất. Thày yêu cầu con, nếu con cảm thấy mình chưa tới tầng mức này, thì con để qua bên giáo lý này và tìm hiểu một số giáo lý khác cho tới khi con cảm thấy mình sẵn sàng học nó. Nhiều người trong các con đã sẵn sàng và đó là lý do tại sao các thày không giữ lại giáo lý này.

Các thày đã trao truyền cho các con một số giáo lý về những cái ngã mà con đã tạo ra, những khía cạnh của tự ngã, những phàm linh nội tại. Đầu năm nay, thày có nói tới cách hành xử của con, cách con nhìn các chân sư thăng thiên. Thày đã nói con nhìn thế giới vật chất như thế nào và tất cả những giáo lý này là dụng cụ để giúp con khám phá ra con đã tạo ra những cái ngã nào bên trong con và chúng vẫn còn ở đó và con vẫn còn mang chúng bên trong con. Chúng là gánh nặng đè lên con, kiềm giữ con lại trên nhiều khía cạnh. Ví dụ như chúng có thể khiến cho tư tưởng của con đi vào những khuôn nếp lặp đi lặp lại. Chúng có thể khởi động một phản ứng xúc cảm khi con ở trong một số tình huống nào đó. Xúc cảm này có thể là sợ hãi, có thể là mắc cở hay hổ thẹn. Nó có thể là giận dữ; nó có thể là nhiều xúc cảm khác. Mỗi người mỗi khác, nhưng điểm chính là con nhận ra có một khuôn nếp được lặp đi lặp lại. Con yêu dấu, con lưu ý điều sau: Cái Ta Biết của con, cốt lõi của bản thể con là một sinh thể sáng tạo.

Nó muốn luôn luôn tiến lên và trải nghiệm cái mới. Đó là lý do tại sao con tới đây ngay từ đầu. Sau khi đã sống trên các hành tinh tự nhiên một thời gian dài, con muốn trải nghiệm cái gì mới, cái gì khác. Một lần nữa, điều này không có gì sai trái. Hiếu kỳ có thể giết con mèo nhưng các con không phải là mèo. Hiếu kỳ là điều hoàn toàn tự nhiên đối với một sinh thể đang mở rộng tự nhận biết của nó. Làm sao con có thể mở rộng tự nhận biết nếu con không hiếu kỳ về những gì ở bên ngoài ý niệm bản ngã hiện hành của con?

Con nhận ra ở đây là cốt lõi của bản thể con là hiếu kỳ, thích tiến sang chuyện khác, thích trải nghiệm những cái mới. Điều này có nghĩa là bất cứ khi nào con thấy có một khuôn nếp lặp đi lặp lại trong bốn thể phàm của mình, thì con biết đây không phải là cái ta thật của con. Con cũng biết là nó kiềm giữ con lại và có thể là nó khiến cho cái ta thật của con cảm thấy bực bội, bất toại nguyện, không vui khi phải ở đây.

23.2. Sự tạo thành của cái ngã tách biệt đầu tiên của con

Giờ đây, khi thày nói điều này, lẽ dĩ nhiên chúng ta cần phân biệt. Chúng ta cần tự hỏi: “Nếu cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, thì có thể nào cái Ta Biết thực sự cảm thấy không vui, nóng giận, bực bội chăng?” Câu hỏi này không có câu trải lời giản dị, đường thẳng. Lý do là vì con đã đầu thai trong một thời gian rất dài và do đó con đã tạo ra những cái ngã vi tế đến độ con bây giờ không thể thấy được sự khác biệt giữa cái Ta Biết và những cái ngã này.

Đó là lý do tại sao các thày đã bắt đầu nói với các con về một số ngã có tính cách phiến diện hơn và con có thể thấy rất dễ dàng là những ngã này liên quan tới những tình huống đặc thù hay khía cạnh đặc thù của cuộc sống. Con nhìn ra những ngã phiến diện này dễ hơn, con nhận diện chúng là ngã tách biệt và chúng không phải là cái ta thật của con. Trước đây các thày có trao truyền giáo lý về chấn thương nhập đời mà con gánh chịu khi con xuống đầu thai lần đầu trên trái đất, thì bây giờ các thày đã sẵn sàng trao cho các con sự hiểu biết là khi các con trải qua chấn thương nhập đời này, thì con tạo ra một cái ngã. Nó không phải là cách cơ bản con liên hệ với trái đất nhưng là cách cơ bản con liên hệ với trái đất sau khi bị chấn thương. Nói cách khác, để có thể đối phó với chấn thương, con tạo ra cái ngã tách biệt đầu tiên này. Chúng ta có thể nói ý niệm bản ngã mà con có trước khi bị chấn thương, ý niệm bản ngã mà con tạo ra khi con tạo ra bốn thể phàm của con, nó đã chết đi vì con bị chấn thương nhập đời.  

Con lưu ý là các thày đã giảng điều này trước đây nhưng thày sẽ tóm tắt ở đây. Để có thể đầu thai lần đầu trên một hành tinh dày đặc như trái đất, con tạo ra (với sự nhận biết mà con có trước khi con tới đây) thể bản sắc, thể lý trí, thể tình cảm và cuối cùng là thể vật lý (nghĩa là cái tâm liên quan tới thể vật lý). Ba thể cao được tạo ra dựa trên viễn quan về trái đất mà con có trước khi con thật sự kinh nghiệm cuộc sống trên trái đất. Nó là một cái ngã phần nào có tính cách lý thuyết. Sau đó, con đi xuống với ý định tốt nhất, với cái ngã con đã tạo ra với những mong chờ về những gì con muốn làm, về những gì con có thể gặp, về hậu quả của sự hiện diện của con ở đây. Sau đó, con trải nghiệm chấn thương nhập đời khi con gặp các sa nhân, và cái ngã nguyên thủy chết đi. Một cái ngã mới được tạo ra khi con phản ứng lại sa nhân và các điều kiện trên trái đất. Ta có thể nói là quả thực cái Ta Biết không thể cảm thấy buồn phiền, bực dọc hay bất toại nguyện khi nó nhận ra nó là nhận biết thuần khiết. Trong nhận biết thuần khiết không có cảm xúc tiêu cực, cũng không có bất cứ cảm xúc nào được gọi là cảm xúc tích cực trên trái đất. Trong nhận biết thuần khiết con chỉ giản dị quan sát. Nếu con có thể trụ mình vào nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết, con có thể chỉ quan sát trái đất. Con không lượng định, phê phán. Không có phán xét giá trị, không có cái phải là hay cái không được là: Con chỉ quan sát.

Đây là trạng thái tâm thức mà Phật đã chứng minh khi thày đạt sáng ngộ cuối cùng khi thày ngồi thiền định dưới cội cây Bồ đề, và quỷ sứ của Ma vương lại gần và tìm cách khích động thày phản ứng lại chúng một cách nào đó. Thày trụ trong tâm không dính mắc, thày đứng ra ngoài các khuôn nếp phản ứng bằng cách ở trong nhận biết thuần khiết trong đó thày thấy chuyện gì đang xảy ra trên trái đất nhưng chỉ quan sát mà không phản ứng.

Giờ đây lẽ dĩ nhiên, con yêu dấu, con không ở đây để ngồi dưới một gốc cây và chỉ quan sát. Con ở đây để tham gia vào cuộc sống trên trái đất. Con cần gì để có thể tham gia vào cuộc sống? Con cần một thể bản sắc, một thể lý trí, một thể tình cảm và một thể vật lý. Hệ quả là con có một cái ngã và điều này nghĩa là con có thể bước lui ra khỏi cái ngã đó, đi vào nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết và chỉ quan sát. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là điều con làm trong đời sống thường nhật thực tiễn. Ngay lúc con chú ý bên ngoài để thực sự tham gia vào cuộc sống trên trái đất này, thì con (như là cái Ta Biết) đang trải nghiệm cuộc sống qua cái ngã mà con tạo ra. Đó là lý do tại sao cái Ta Biết có thể kinh nghiệm sự bực bội, thất vọng, cảm giác bị ruồng bỏ.

Trên mặt lý thuyết đây không phải là cái Ta Biết. Những cảm xúc này không ở trong cái Ta Biết nhưng cái Ta Biết đang kinh nghiệm cuộc sống qua cái ngã đó. Đó là lý do tại sao đây là một ý niệm sâu thẳm về bản ngã mà hầu hết không ai thấy được. Ngay cả những người đã đi trên con đường tu một thời gian khá dài cũng không thấy được điều này vì đây quả thực là cái ngã cơ bản mà họ đã tạo ra sau khi tới đây. Nó là cái ngã sinh ra sau khi cái ngã đầu tiên chết đi. Nó bám chặt, nó ăn sâu, nó vi tế đến độ con xem nó là đương nhiên. Con nghĩ đây là cách duy nhất để kinh nghiệm cuộc sống trên trái đất.

23.3. Con đã buông bỏ những cái ngã khác

Các thày đã trao truyền cho con khái niệm về những cái ngã phiến diện hơn liên quan tới một điều kiện đặc thù. Mục đích là giúp con nhận ra con đã thấy một số các ngã này. Con đã đi trên con đường tâm linh, ngay cả nếu con chỉ mới đi trong một thời gian ngắn (và ở đây thày không nói tới chuyện con tìm thấy những giáo lý đặc thù này vì nhiều người trong các con đã đi trên con đường tu nhiều năm trước khi con tìm thấy các giáo lý này). Nếu con đã đi trên con đường tu một thời gian, thì con đã thấy một số các ngã vỏ ngoài này, con đã tách mình ra khỏi chúng và con đã buông bỏ chúng.

Con đã quen thuộc với tiến trình buông bỏ đó. Một khi con nghĩ về nó và xem xét đường tu của mình, con nhận ra là con đã buông bỏ một số ngã này (có thể là con buông bỏ một cách không có ý thức). Ngày hôm nay con không phản ứng giống như trước khi con tìm thấy con đường tâm linh. Con đã thăng vượt một số khuôn nếp phản ứng, con đã bỏ chúng lại đằng sau, và đó là vì con đã vượt lên trên những cái ngã vỏ ngoài này. Điều thày muốn nói ở đây là một cái ngã vỏ ngoài là một cái ngã vỏ ngoài. Con có thể có một cái ngã vỏ ngoài liên quan tới cách con hành xử với những người nổi giận với con. Lẽ dĩ nhiên nó là một cái ngã vỏ ngoài đặc thù hơn cái ngã con đã tạo ra khi con phản ứng lại chấn thương nhập đời, nhưng trên căn bản cả hai đều được tạo ra theo cùng một cách.

Cả hai đều dựa trên một ảo tưởng cho nên cách khắc phục chúng quả thực là một. Con nhận ra nó là một cái ngã vỏ ngoài và con quyết định con không muốn mang nó trong mình nữa. Sau đó con có thể buông bỏ nó. Tuy nhiên với cái ngã mà con tạo ra trong chấn thương nhập đời vũ trụ, mà chúng ta có thể gọi là ngã gốc, thì lẽ dĩ nhiên buông bỏ nó khó hơn vì nó vi tế hơn.

23.4. Cái ngã mà con có trong kiếp đầu thai đầu tiên

Khi thày nói con xuống đầu thai với một cái ngã mà con đã tạo ra trước khi con kinh nghiệm cuộc sống trên trái đất và cái ngã này chết đi và con tạo ra một cái ngã khác, thì điều này thực sự có nghĩa gì? Ấy, điều này có nghĩa, con yêu dấu, là khi cái ngã trước của con chết đi, con mất đi khung tham chiếu mà cái ngã này có thể cho con. Nói cách khác, cái ngã mà con có khi con xuống đây được tạo ra với tầm nhìn của con từ một cõi cao hơn, dựa trên cuộc sống của con trên một hành tinh tự nhiên. Lẽ dĩ nhiên cái ngã này không đầy đủ vì nó không biết cuộc sống ở đây ra sao. Điều nó biết là có một lối sống khác với lối sống trên trái đất, có một dạng sống tốt hơn; có một cái gì khác. Khi con trải qua chấn thương và cái ngã đó chết đi, con mất đi khung tham chiếu này, ít nhất là trong tâm ý thức của con.

Điều này có nghĩa là từ lúc đó con bắt đầu nghĩ và kinh nghiệm là cách duy nhất để nhìn cuộc sống là cách con đang nhìn cuộc sống qua cái ngã mới, cái ngã gốc mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại chấn thương nhập đời và các điều kiện trên trái đất. Do đó nhận diện cái ngã này khó hơn nhận diện những cái ngã phiến diện hơn. Con phải làm việc nhiều hơn nhưng các thày đã trao truyền giáo lý và dụng cụ cho các con. Dụng cụ của Mẹ Mary để giúp con tiếp cận chấn thương nhập đời là một dụng cụ tuyệt diệu giúp con có một nhận biết, một nhận biết rộng hơn về cái ngã mà con đã tạo ra để con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó. Có thể nói là con có thể bắt đầu thấy ngã này từ bên ngoài thay vì con nhìn cuộc sống xuyên qua cái ngã, từ bên trong cái ngã.

23.5. Buông bỏ cái ngã thâm sâu

Thày tin là con cũng thấy sự thật hiển nhiên là ngày nào con còn ở trong một cái ngã, thì con không thể thấy cái ngã đó. Nếu con mang cặp mắt kính màu vàng và con không biết mình đang mang kính thì con không thể thấy cặp kính này. Để có thể thấy được cái ngã, thì con phải bước ra bên ngoài nó. Lẽ dĩ nhiên, mục đích của các thày là dẫn con theo một tiến trình trong đó con dần dần buông bỏ tất cả những phàm linh và ngã phiến diện cho tới khi con tới điểm cái ngã duy nhất còn lại là ngã gốc. Khi con đã đi qua tiến trình này, thì con có thể chuyển đổi nhận thức và nhận ra con có một ngã gốc. Nó vi tế hơn các ngã khác nhưng nó vẫn chỉ là một cái ngã được tạo ra theo cùng một cách. Sau đó con có thể bắt đầu nhận ra nó không phải là con người thật của con. Nó là một cái ngã được tạo ra để đáp ứng lại một tình huống rất khó khăn, làm con bị chấn thương mạnh, xảy ra cho con trên trái đất.

Một lần nữa các thày hoàn toàn không trách cứ con. Các thày đã từng đầu thai; các thày đã tạo ra một ngã gốc khi phản ứng lại chấn thương nhập đời trên hành tinh này. Các thày chỉ có mặt ở đây để chứng minh cho các con thấy là các thày đã khắc phục cái ngã gốc đó và do đó các con cũng làm được. Điều mà một người đã làm được thì tất cả đều có thể làm được.

Vậy thì làm sao con khắc phục cái ngã gốc được? Ấy, như các thày đã nói trước đây, chìa khóa là con nhận ra là bất cứ mọi cái ngã đều được tạo ra với một mục đích đặc trưng, với một tầm nhìn đặc trưng. Do đó, chúng ta có thể nói là trong cốt lõi, cái ngã có một vấn đề nào đó. Nó có một vấn đề cố hữu và khi con nhìn từ bên trong cái ngã, vấn đề này phải được giải quyết một cách nào đó. Các thày đã nói là các con có thể đã tới đây với ý định tạo ra một sự thay đổi bên ngoài nào đó trên trái đất. Sau đó khi con tạo ra một cái ngã dựa trên những gì xảy ra cho con trên trái đất, cái ngã này có thể phóng chiếu ra hay nó có thể thấy một vấn đề đặc trưng nào đó ở đây trên trái đất nhất định phải được giải quyết. Như thày có nói, nếu vấn đề là chiến tranh, thì phải loại trừ chiến tranh ra khỏi trái đất trước khi con có thể giải quyết vấn đề.

Lẽ dĩ nhiên đây không phải là cách giúp con khắc phục một cái ngã như thế. Ngay cả nếu con giải quyết được vấn đề mà cái ngã phóng chiếu ra, như loại trừ tất cả chiến tranh, thì con vẫn không tự động khắc phục được cái ngã vỏ ngoài này. Bí quyết ở đây là con bắt đầu nhận ra là con sẽ không vượt lên trên ngã gốc bằng cách giải quyết vấn đề hay thay đổi điều kiện đã khiến con phản ứng lại và tạo ra ngã gốc.

Con sẽ chỉ khắc phục nó khi con nhận ra nó là một ngã tách biệt, nó dựa trên một ảo tưởng và không có vấn đề nào cần giải quyết. Điều này lẽ dĩ nhiên không đơn giản. Đúng là có chiến tranh trên trái đất. Đúng là các chân sư thăng thiên muốn loại trừ chiến tranh khỏi trái đất, và tất cả các con cũng vậy. Nó là một vấn đề thật, nhưng con không thể giải thoát khỏi ngã gốc bằng cách giải quyết vấn đề ở bên ngoài. Nó chỉ làm được bằng cách giải quyết cơ cấu bên trong con khiến con nghĩ rằng cuộc sống của con trên hành tinh này, ý niệm bản ngã của con và việc con rời khỏi hành tinh này, tùy thuộc vào bất kỳ điều kiện nào ở đây.

Một lần nữa chúng ta có thể xem xét những gì thày nói, trích dẫn từ thánh kinh: “Ông Hoàng Thế gian tới và không nắm được gì nơi ta.” Câu này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là không có lực nào trên trái đất có sức thu hút trên con khiến con phải làm điều gì đó, phải thay đổi điều gì đó, phải giải quyết điều gì đó ở đây. Không có lực nào có thể ra lệnh cho con là con phải phản ứng theo kiểu nào đó, con phải có cảm xúc như thế nào đó.

23.6. Cảm nhận của ngã gốc

Giờ đây, lẽ dĩ nhiên là không phải tất cả các con đều đã tạo ra một ngã gốc có mục đích giải quyết một vấn đề nào đó. Một số các con đã tạo ra một ngã gốc cảm thấy mình bị sa nhân hoàn toàn bác bỏ. Một số các con đã tạo ra những cái ngã cảm thấy một nỗi buồn chung về cuộc sống, cảm thấy rất thất vọng và rất bị chấn động vì những điều kiện ở đây, cảm thấy mình quá bất lực không thay đổi được chúng, cho nên việc mình tới đây không có ý nghĩa gì và không đạt được mục đích gì. Việc mình tới đây đã là một sai lầm.

Mỗi người trong các con phải dùng các dụng cụ của các thày, dùng bài tập của Mẹ Mary, để chiêm nghiệm xem ngã gốc của mình là gì. Cốt lõi của nó là gì? Phản ứng là gì? Niềm tin là gì? Sau đó, con cần nhận ra là ngã gốc đã cho con một cảm nhận gốc, một ý niệm gốc về trái đất và đời sống trên trái đất. Lẽ dĩ nhiên ý niệm này không đẹp đẽ cho nên con biết đáng lẽ nó phải khác. Như thày đã nói, dù là cái ngã nguyên thủy của con đã chết, một số các con vẫn có thể còn cảm nhận là có một lối sống khác với lối sống trên trái đất, có một cõi khác nơi, ví dụ, chiến tranh không có mặt.

Con cảm thấy một sự bất an nào đó, một sự căng thẳng nào đó. Có điều gì đó sai, có điều gì đó làm con bất an. Con cần tới được điểm con nhận diện chính xác cảm giác đó, niềm tin đó vì, như các thày đã nói với con, khi con gặp chấn thương nhập đời thì con lấy một quyết định. Đây có thể là một quyết định khó có thể diễn tả chính xác bằng lời. Như được nói trong quyển sách, con đã lấy quyết định: “Tôi không bao giờ muốn kinh nghiệm điều này nữa.” Điều chính xác nào con không muốn kinh nghiệm nữa? Con cũng đã lấy quyết định điều gì con có thể làm và điều gì con muốn làm trên trái đất kể từ lúc đó – nghĩa là con sẽ tiếp cận cuộc sống như thế nào. Ở đây con cần nhận ra một sự vận hành cơ bản.

23.7. Sa nhân phá hoại sứ vụ của con

Có nhiều sa nhân đang đầu thai mà có thể con đã gặp họ nhưng họ không ý thức điều này. Các sa nhân ở cõi bản sắc chắc chắn ý thức điều này. Họ biết về các avatar, họ biết đã có nhiều sinh thể tới trái đất để nâng hành tinh này lên. Họ biết rằng sự thống trị trái đất của họ tùy thuộc họ có phá hoại được sứ vụ của các avatar này không hay ít nhất trì hoãn được sứ vụ đó. Điều họ thực sự muốn làm là cho con một cú sốc lớn đến độ con cảm thấy sứ vụ nguyên thủy của con khi xuống đây không thể hoàn thành được. Do đó con cảm thấy con đã sai lầm khi tới đây vì con không thể đem lại thay đổi. Con không thể thay đổi bất cứ điều gì trên trái đất.

Nhiều người trong các con khi trải qua chấn thương nhập đời vũ trụ đã bị cú sốc vì các con tới đây với ý định trong sáng nhất. Điều này có nghĩa là các con thấy mọi người trên trái đất đang đau khổ, tỷ dụ vì có chiến tranh trên trái đất. Con giả định là nếu con người đang đau khổ, thì họ muốn thoát khỏi đau khổ và do đó họ muốn khắc phục chiến tranh. Con xuống đây và con nghĩ lẽ hiển nhiên con người muốn khắc phục chiến tranh. Khi con đề nghị cách thực hiện điều này, thì con chờ đợi là mọi người sẽ tiếp nhận một cách tích cực.

Khi con ở trên hành tinh tự nhiên, con quen thấy mọi người đều muốn cải thiện cuộc sống của họ. Sau đó, con xuống trái đất và con nhận ra hai điều. Trước tiên, có những người trên trái đất không muốn thay đổi, họ không muốn khắc phục đau khổ của họ; họ không muốn từ bỏ chiến tranh hay bất cứ điều gì khác. Họ không muốn thay đổi. Sau đó, khi con ở dưới này, con trải nghiệm trọn vẹn hiện thực tuyệt đối, không thay đổi được của quyền tự quyết. Trước đây, khi con nhìn xuống trái đất từ trên cao, con không thực sự hiểu thấu điều này. Tất cả chúng ta thật sự không hiểu thấu rằng nếu con người trên trái đất không muốn từ bỏ chiến tranh, thì con không ép họ được. Khi con ở dưới này, thì con nhận ra (và đây thường là cú sốc lớn nhất) là dù con biết cách khắc phục các vấn đề và giới hạn của nhân loại, nhưng con không làm gì được vì con người không hưởng ứng.

23.8. Cú sốc khi gặp sự chống đối thay đổi

Lẽ dĩ nhiên con không thể đi ngược lại quyền tự quyết của họ. Quả thực là con không muốn đi ngược lại quyền tự quyết của họ, nhưng trước khi con tới đây, con giản dị nghĩ nếu con chỉ cho họ con đường thoát khỏi lầm than, thì họ sẽ muốn theo con đường này. Con bị cú sốc khi nhận ra có một số sinh thể, các sa nhân, không những không muốn thay đổi mà còn tìm cách tiêu diệt con. Trong một số trường hợp con có thể đối phó với điều này, nhưng con cũng nhận ra là đại đa số người trên hành tinh này không muốn tiêu diệt con, họ chỉ không muốn dính dáng tới con. Họ không muốn lắng nghe con, họ không muốn thay đổi.

Khi con kinh nghiệm điều này, thì con rất dễ (và chúng ta đều đã làm như thế) lấy quyết định (quyết định này hơi khác tùy theo mỗi cá nhân) rằng: “Đáng lẽ tôi không nên tới đây, đó là một sai lầm, tôi chẳng làm được gì ở đây, tôi có mặt ở đây vô ích, tôi không thay đổi được sa nhân, tôi còn không thay đổi được con người vì họ không muốn thay đổi, họ không muốn vượt lên trên đau khổ của họ, họ còn không muốn lắng nghe tôi. Quả thực họ không muốn tôi ở đây.”

Trải nghiệm này khiến con có nỗi bất mãn sâu xa. Tại sao tôi ở đây? Tôi ở đây để làm gì? Ngay lúc sự bất mãn của con lên tới cùng cực, thì con lấy một quyết định là từ nay về sau con sẽ tiếp cận cuộc sống ra sao. Mỗi người sẽ biểu hiện quyết định đó thành lời khác nhau và đó là lý do tại sao con cần khám phá ra quyết định của riêng mình. Một ví dụ chung chung là con có thể quyết định rằng: “Tôi sẽ không can thiệp vào quyền tự quyết của con người.” Hoặc: “Tôi sẽ không bao giờ ép buộc ai. Tôi sẽ không bao giờ lấy quyết định ảnh hưởng tới người khác vì tôi không muốn ép buộc ai cả.” Hoặc: “Tôi sẽ không thách thức sa nhân.” Hoặc con có thể lấy quyết định, như quyển sách đã mô tả, là con sẽ chống lại sa nhân; hay quyết định là con muốn hiểu sa nhân và tại sao họ phản ứng như thế.

23.9. Tái sinh trong Ki-tô

Các quyết định đó đã tạo ra một cái ngã đã pha màu cách con nhìn mình như thế nào như một sinh thể trên trái đất. Đây là cái ngã cuối cùng, cái ngã gốc, mà con có thể buông bỏ, và con có thể buông bỏ nó. Con có thể buông bỏ nó từng phần một. Con có thể tới điểm con cho cái ngã đó chết đi và con tái sinh trong một ý niệm bản sắc mới dựa trên hiểu biết mà con có lúc này và dựa trên sự việc con đã phần nào tiếp xúc được với Hiện diện TA LÀ của con. Do đó con có thể được tái sinh trong Ki-tô vì đây không phải là một cái ngã vỏ ngoài dựa trên sợ hãi và phản ứng lại trái đất. Đây là cái ta hòa điệu với Hiện diện TA LÀ hay là nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, cá thể của Hiện diện TA LÀ của con, và thực tại Ki-tô là con là một sinh thể tâm linh, là nhận biết thuần khiết không thể bị ảnh hưởng hay thay đổi bởi bất cứ điều gì trên trái đất.

Lúc ấy, con có thể vượt lên trên ngã gốc và tái sinh trong ý niệm bản sắc mới qua đó con thấy cuộc sống trên trái đất là điều tích cực. Giờ đây con có cái nhìn tích cực, một mục tiêu tích cực, một cảm nhận tích cực. Điều này không có nghĩa là con có một vấn đề mà con nhất định phải giải quyết bằng được. Con nhận ra sự có mặt của con ở đây có ý nghĩa vì chỉ vỏn vẹn con có mặt ở đây là con đang tỏa chiếu ánh sáng vào tăm tối. Con đang cho mọi người một tấm gương là có một cách sống khác với tâm thức nhị nguyên, khác với đau khổ, khác trạng thái tâm loạn động như tâm của mọi người.

23.10. Khi cái bất thường trở thành bình thường

Mọi người trên trái đất đều không vui, bất toại nguyện và xáo trộn trong tâm: điều này hoàn toàn thật. Nhưng để có thể sống được thì mọi người tới điểm xem trạng thái mất quân bình là bình thường. Đó là lý do tại sao chế độ cộng sản sống còn lâu như vậy. Hầu hết mọi người chấp nhận đó là tình trạng bình thường để họ có thể sống được với nó và do đó họ có thể sống còn. Điều này không có nghĩa là họ bằng lòng với chế độ này. Điều này không có nghĩa là họ đang tăng triển nhưng họ có thể sống còn. Lẽ dĩ nhiên con cũng đã làm như thế: con đã tạo ra một chuẩn mực cho phép con sống còn. Con đã tìm ra một cách sống trên trái đất giúp con tránh được những cảnh huống khơi dậy cảm xúc mà con có khi trải qua chấn thương nhập đời của mình.

Gần giống như là con đã tìm ra một cách ru ngủ ngã gốc, cho nó bị hôn mê, vì con đã học cách tạo ra những hoàn cảnh bên ngoài không đánh thức nó dậy. Quả thực con có thể sống như vậy trong vài kiếp và con có thể tiến bộ trong việc vứt bỏ một số ngã vỏ ngoài nhưng con thật sự chưa bao giờ chạm vào ngã gốc. Có những trường hợp đệ tử chân sư thăng thiên đã theo học giáo lý của các chân sư thăng thiên vài thập kỷ và họ đã có tiến bộ nhưng họ còn chưa bắt đầu nhìn vào ngã gốc.

Một lần nữa không nhất thiết chuyện này là sai trái. Con không thể nhìn vào ngã gốc khi con chưa sẵn sàng. Nhưng con sẽ tới điểm quả thực dậm chân tại chỗ nếu con không bắt đầu nhìn vào ngã gốc. Con sẽ không tăng triển, có thể cho tới cuối kiếp sống này, bởi vì con có cảm nhận là có điều gì trong con mà con không muốn chạm tới, con không muốn đối phó – vì chuyện này khó quá.

23.11. Chuyển đổi đồng hóa mình với ai

Con có thể có cảm nhận là con biết mình đã buông bỏ nhiều cái ngã khác và làm điều này không có vấn đề. Cái ngã này, con cảm thấy không bỏ nó được vì con cảm thấy mình sẽ chết nếu bỏ nó. Con sẽ chết. Con yêu dấu, đúng thế. Con sẽ chết. Cái “ngã” qua đó con nhìn mình như một sinh thể trên trái đất, cái ngã đó sẽ chết. Điều này không có nghĩa là cái ta thật của con sẽ chết vì con sẽ tái sinh trong một cái ta mới mà con sẽ phải tuần tự tạo ra, lẽ dĩ nhiên. Con thấy là các thày hoàn toàn ý thức, con yêu dấu, là điều mà các thày yêu cầu con làm ở đây (trong các giáo lý gần đây về chấn thương nhập đời và hành trình của các con trên trái đất) là một việc làm rất, rất phức tạp. Con không thể phất tay một cái là làm xong. Con cần nhiều thời gian, một số năm, có khi vài thập kỷ vì con sẽ dần dần phá bỏ cái ngã cũ và đồng lúc con cũng tạo ra một cái ta mới.

Đây là một việc làm phức tạp, nhưng việc này có thể làm được và con đã trong tiến trình làm việc này. Những gì thày mô tả ở đây nghe rất lớn lao nhưng nó không lớn lao như thế. Khi con đi trên con đường tu, con buông bỏ một số ngã phiến diện, con cũng tạo ra một ý niệm bản ngã mới dựa trên một tầm nhìn tích cực, dựa trên sự hiểu biết của con về giáo lý. Không phải là con phải hoàn toàn phá vỡ ngã gốc và nó chết đi và con không còn gì cả – và sau đó con có thể bắt đầu xây dựng lại một cái ta mới. Mọi chuyện không xảy ra như thế. Con phá vỡ cái cũ và con tạo ra cái mới cùng một lúc.

Điều gì có thể mang lại sự chuyển đổi nơi con? Ấy nó giản dị như thế này. Thày không nói là tất cả các con đều làm được ngay bây giờ nhưng sẽ tới lúc con đã phá vỡ phần lớn ngã gốc của mình. Con đã tạo ra một cái ngã mới, nhưng trong bản thể của con vẫn còn một điểm nơi con đồng hóa mình với ngã gốc. Con vẫn nhìn cuộc sống trên trái đất qua ngã gốc này. Khi thày nói cho ngã gốc chết đi, thì đó là điểm con nhìn thấy nó, con thấy cái ngã đó và con có thể buông bỏ nó. Con có thể cho ngã gốc chết đi. Đó là lúc thày nói con tái sinh.

Điều thật sự xảy ra là trọng tâm bản sắc của con, trung tâm bản sắc của con, dời chuyển từ ngã gốc sang cái ta mới mà con đã gày dựng bấy lâu nay. Bất thình lình, con thoát khỏi cái nhìn tiêu cực về trái đất và cuộc sống trên trái đất và bây giờ con nhìn cuộc sống qua cái nhìn tích cực. Con nhìn mình với cái nhìn tích cực. Con không còn cái nhìn tiêu cực về điều gì con làm được hay không làm được trên trái đất, tại sao con ở đây và con đã ngu xuẩn khi tới đây – điều này và điều kia. Nó không còn nữa. Nó đã chết.

23.12. Khi chết là đồng minh của con

Con yêu dấu, con hiểu là có một câu trích từ thánh kinh nói rằng kẻ thù cuối cùng mà chúng ta chinh phục là cái chết. Câu này không chỉ cái chết vật lý. Tất cả các con đều là người tâm linh, các con đều nhận ra là các con đã từng sống trước đây và các con đều đã kinh nghiệm nhiều lần là thân xác vật lý chết đi nhưng con thì vẫn tồn tại. Thân xác có thể tới, có thể đi nhưng ta tồn tại mãi mãi. Chuyện xảy ra ở đây không phải là con chết (cái ta thật của con không chết) nhưng có một cái “ta”, một cái ngã đúng thực chết. Lẽ dĩ nhiên cái ngã này sẽ chống trả không muốn chết. Nó không có tự nhận biết nhưng nó có đủ tâm thức để chống lại cái chết. Lẽ dĩ nhiên nó sẽ phóng chiếu lên con là con sẽ chết khi chết. Đó là lý do tại sao con cần tới điểm xét lại quan điểm của mình về cái chết. Cái chết có thực là kẻ thù không?

Khi con nhận ra là cốt lõi bản sắc của mình là Hiện diện TA LÀ, ở trên cõi tâm linh, một cõi vượt lên trên thời gian và không gian, thì con biết là Hiện diện TA LÀ của con không thể chết. Các thày đã nói nhiều lần với các con là cái Ta Biết là một nối dài của Hiện diện nên nó cũng không thể chết. Khi con bắt đầu kết nối với ý niệm nhận biết thuần khiết đó (ý niệm biết mình hơn cái ta vỏ ngoài, hơn bất cứ điều gì trên trái đất), con có thể chuyển đổi nhận thức và nhận ra rằng con không thể chết. Cái có thể chết chỉ là ý niệm cái “ta”, ý niệm cái ngã, ý niệm mình là ai. Bởi vì ý niệm bản ngã của con giới hạn, nên con có thật sự mất mát chăng khi cái ngã đó chết đi? Hay đó là một thắng lợi cho con vì cái nhìn tiêu cực về mình đã chết, và con tái sinh trong cái nhìn tích cực? Nói cách khác, con tự do hơn sau khi cái ngã chết đi.

Kẻ thù cuối cùng mà mình chinh phục là cái chết, câu này nghĩa là gì? Nó nghĩa là con nhận ra cái chết không phải là kẻ thù của mình. Cái chết là bạn của mình. Cái chết là một dụng cụ giúp cho cái ngã giới hạn chết đi và nhờ vậy mình được tự do. Lẽ tự nhiên hầu hết mọi người chống cự lại cái chết vì họ quá đồng hóa họ với thân xác của họ và ngay cả thân xác cũng có nhận biết của nó, được gọi là bản năng sinh tồn khiến nó chống cự lại cái chết. Con biết là con sẽ không chết khi cái ngã tách biệt chết. Chúng ta không nói chuyện ở đây về cái chết vật lý. Chắc chắn đây không phải là giáo phái tự vận cuồng tín. Các con yêu dấu, chúng ta nói là con sẽ tới điểm thay vì sợ chết, sợ và chống cự cái ngã tách biệt chết, thì con cho phép nó xảy ra. Con đón mừng nó vì con nhận ra con sẽ tự do hơn sau cái chết của ngã tách biệt này. Đây là ý nghĩa đích thực của phục sinh.

23.13. Phục sinh đích thực

Phục sinh không thực sự là phục sinh thân xác như một số tín đồ Cơ đốc mơ tưởng. Trên căn bản nó là một khai ngộ tâm linh. Nó là điều con thấy khi thày đang bị treo trên cây thập tự và lúc đầu thày kêu lên: “Ôi Thượng đế, ôi Thượng đế, sao ngài lại bỏ rơi con?” Tại sao thày đã hành động như thế? Bởi vì cho tới lúc đó, thày có một cái ngã nghĩ rằng một cách nào đó Thượng đế sẽ làm phép lạ, gửi các thiên thần xuống giải cứu thày để thày không phải chết trên cây thập tự. Sau đó thày vẫn bị treo ở đó và thày nhận ra đây là một ảo tưởng. Có một cái ngã tách biệt mang ảo tưởng này. Quả thực nó là cái ngã tách biệt mà thày đã tạo ra khi bị chấn thương nhập đời. Nó là cái ngã tách biệt gốc của thày.

Trước khi thày xuống đầu thai lần đầu tiên trên trái đất, thày biết rất rõ tự thân mình không làm được điều gì cả. Thày biết rất rõ là cần có người đầu thai trên trái đất để làm cánh cửa mở cho uy lực của Thượng đế làm việc trong cõi vật chất của hành tinh này. Thày tình nguyện làm chuyện này, nhưng thày cũng đã xây đắp kỳ vọng là khi thày làm việc phụng sự Thượng đế thì Thượng đế sẽ can thiệp không để điều gì quá tệ hại xảy ra cho thày. Do đó, khi chuyện quá sức tệ hại xảy ra, thì Thượng đế sẽ tới và giải cứu thày bằng một phép lạ nào đó.

Đó là cái ngã thày đã xây dựng, đó là cái ngã thày đã có khi đầu thai. Sau đó, khi thày bị chấn thương nhập đời, thì thày đích thực nhận ra chuyện này sẽ không xảy ra. Thượng đế sẽ không dùng phép lạ để giải cứu thày khỏi hoàn cảnh rất khó khăn khiến thày bị chấn thương nhập đời. Thày phản ứng lại bằng cách tạo ra một ngã gốc giải thích tại sao Thượng đế đã không cứu thày trong hoàn cảnh đó. Đồng thời, thày cũng không thật sự chấp nhận thực tế của quyền tự quyết và Thượng đế không thể nào can thiệp vào quyền tự quyết và do đó trong một số trường hợp Thượng đế sẽ không thể nào giải cứu thày. Thày không chấp nhận điều này cho nên thày vẫn kỳ vọng là nếu thày thật sự, thật sự cần được giải cứu thì Thượng đế sẽ cứu thày.  

Cái ngã gốc của thày phải chịu tin là, thôi thì trong hoàn cảnh đó, dù nó tạo chấn thương tâm lý mạnh cho thày, thày quả thực không cần được giải cứu vì thày có thể đối phó được với chuyện đó. Nhưng nếu có một hoàn cảnh mà thày thật sự cần thì Thượng đế sẽ giải cứu thày. Nhiều nhiều năm sau đó, trong kiếp đầu thai cuối cùng của thày, thân xác thày đang bị treo trên cây thập tự và bỗng nhiên thày đối mặt với ngã gốc và kỳ vọng đây là một trong những cảnh huống mà thày thật sự, thật sự cần được giúp và bây giờ Thượng đế sẽ giải cứu cho thày. 

Lần đầu tiên thày thấy thực tế, toàn bộ thực tế của quyền tự quyết. Thày thật sự thấy nó và thày nhận ra là Thượng đế sẽ không giải cứu thày. Sau đó, thay vì tạo ra một cái ngã khác để đối phó với chuyện này, thì thày bỗng nhiên nhận ra đó là một cái ngã không thật. Nó chỉ là một ảo tưởng và thày thấy nó từ bên ngoài, và đó là lúc, như trong thánh kinh nói, thày “buông bỏ hồn ma.” Thày buông bỏ cái ngã cho rằng nó đặc biệt và do đó nó được quyền nhận phép lạ từ Thượng đế vì nó đã phụng sự Thượng đế trên trái đất này. Thày buông bỏ nó. Thày buông bỏ nó và sau đó thân xác thày chết đi nhưng điều thật sự quan trọng trong cảnh huống này là thày tái sinh theo nghĩa tâm linh. Cái ngã tách biệt, ngã gốc chết đi và thày tái sinh. Sau đó, thày không cần phải đầu thai trở lại trên trái đất nữa. Thày có thể từ bỏ trái đất. Dù rằng sau đó, thày được phép thị hiện một thân vật lý, điều này chính là để khởi động phong trào Cơ đốc và để khắc phục một số mong muốn vỏ ngoài không liên quan tới ngã gốc của thày. Tiến trình thật sự là việc cho phép cái ngã chết đi và con yêu dấu, có thể nói là khi con cho ngã gốc chết đi, con phải trải qua kinh nghiệm cảm thấy mình sẽ chết. Con cảm thấy con đang chết.

23.14. Chấp nhận cái chết

Giờ đây, con sẽ thấy, nếu con đã đọc về các kinh nghiệm cận tử, là có nhiều người đã trải qua kinh nghiệm cận tử trong một hoàn cảnh rất nguy hiểm, tạo chấn thương tâm lý. Trong một khoảng thời gian, bản năng sinh tồn của họ khiến họ chống cự lại và không chịu rời bỏ thân xác. Sau đó, họ tới điểm bỗng nhiên cảm thấy một sự bình an nội tâm và lúc đó họ buông bỏ thân xác và nói: “Bất chấp chuyện gì xảy ra.” Trong sự phó thác này, họ rời bỏ thân xác. Sau đó, họ có kinh nghiệm cận tử và trở về và kể lại câu chuyện. Con có thể tới điểm nhận diện ra ngã gốc, con biết nó cần phải chết đi, con biết bây giờ là đúng lúc. Sau đó, thay vì chống lại cái chết của ngã gốc, thì con quy thuận. Con hàng phục. Con cảm thấy bình an trong lòng và con nói: “Hãy cho nó chết đi; bất chấp chuyện gì sẽ xảy ra” hay “Xin ý cha được hoàn thành, không phải ý con.”

Con chỉ cho phép nó xảy ra và con cho phép mình trải qua tiến trình, trong đó mình cảm thấy như mình đang chết, giống như mình đang buông bỏ cái gì đó. Đó là vì con đang buông bỏ thật sự. Lẽ dĩ nhiên con kinh nghiệm là sau khi con buông bỏ cái ngã tách biệt này, con không biến mất, con vẫn còn tự nhận biết. Đấy là lúc con có thể chuyển dời bản sắc của mình tới một cái ta mới, một cái ta được xây dựng trong Ki-tô và con trở thành, như Paul đã diễn tả, “một sinh thể mới trong Ki-tô.”

Không phải tất cả các con đều làm được điều này trong khoảnh khắc. Thày không yêu cầu con làm điều này sau khi nghe hay đọc bài truyền đọc này. Thày yêu cầu con chiêm nghiệm tiến trình này, nhận biết tiến trình này. Khi con tới điểm đã sẵn sàng vì con đã phá vỡ hầu hết ngã gốc của mình, con đã tạo dựng một cái ta mới và quả thực để ngã gốc chết đi không phải là một chuyện lớn lao nữa (nó chỉ là chuyện chuyển dời tâm thức khi con đưa trọng tâm bản sắc của con rời khỏi ngã gốc để chuyển sang cái ta mới), thì lúc đó con không chống cự lại tiến trình. Con cảm thấy: “Ồ, tôi sẵn sàng rồi” và con giản dị buông bỏ. Con đón mừng cái chết. Con đón mừng cái chết của ngã gốc. Con đón mừng cái chết như người bạn của mình. Con ngưng chống lại nó. Con ngưng hờn trách hay chống cự nó. Con đón mừng nó, không phải như sự chết mà là sự tái sinh, là một khởi đầu mới. 

23.15. Hoàn tất lý do con tới trái đất

Con yêu dấu, đấy là lúc con thật sự có thể bắt đầu hoàn tất lý do nguyên thủy tại sao con xuống trái đất. Con không hoàn tất nó bằng cách làm điều gì, bằng cách thay đổi điều gì, bằng cách thay đổi người khác. Con hoàn tất lý do đó chỉ bằng cách con là cái con là và tỏa chiếu ánh sáng, sinh thể, tâm thức và khuôn đúc của cá thể mình. Con không cần giải quyết vấn đề nào và không cần hoàn tất mục tiêu nào. Con nhận ra rằng con chỉ cần ở đây là đã làm điều con tới đây để làm. Con cảm thấy mãn nguyện khi làm vậy vì sự việc con là cái con là không lệ thuộc vào chọn lựa của người khác. Con không cần thay đổi chọn lựa của người khác để là cái con là.

Có thể là con nhận ra, cái ngã gốc đã làm gì? Niềm tin cốt lõi của ngã gốc là gì? Con yêu dấu, nó tin là sự việc con là chính mình, con là cái con là, không tốt đủ. Hoặc như thế là sai trên hành tinh này. Hành tinh này không muốn thấy điều đó.  Nói cách khác, trước khi con xuống đây, con chờ đợi là con chỉ cần tới đây và là cái con là thì mọi người sẽ đón mừng con. Sau đó, con nhận ra là sa nhân và luôn cả hầu hết con người không đón mừng con, chào đón con, chấp nhận con. Con quyết định là hình như con đáng lẽ không nên là cái con là, con không được phép là cái con là trên hành tinh này. Hoặc sự việc con là cái con là vẫn chưa đủ.

Có thể nói là tất cả những gì con đã làm, tất cả những gì đã xảy ra cho con sau chấn thương nhập đời, là con đã dồn nén không cho phép con là cái con là. Đây là điều con có thể giành lại, và khi con giành lại, con sẽ có ảnh hưởng trên trái đất. Con sẽ không dính mắc tới ảnh hưởng này vì con không là cái con là để thay đổi bất cứ điều gì trên trái đất. Con là cái con là vì nó đem lại cho con niềm hỷ lạc và mãn nguyện lớn lao nhất.

Con nhận ra niềm hỷ lạc lớn nhất mà con có thể có trên trái đất là con là cái con là trước mọi điều kiện trên hành tinh này. Con có thể đứng yên và không gì ảnh hưởng được con, giống như Phật ngồi dưới cội bồ đề đối mặt với quỷ dữ của Ma vương đang cám dỗ để thày phản ứng lại chúng. Con có thể nhìn màn xiếc trên trái đất, con có thể nhìn vào quỷ dữ của Ma vương mà không phản ứng. Con vẫn tỏa chiếu ánh sáng của mình, vẫn sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật của mình, tương tác với người khác, đi làm, nuôi dạy các con, hay bất cứ điều gì khác. Con cảm thấy dòng chảy, niềm hỷ lạc, khi con cảm thấy con đang biểu lộ cái con là trong mọi việc con làm. Bỗng nhiên rào cản giữa sinh hoạt tâm linh và không tâm linh trở nên hoàn toàn vô nghĩa vì tất cả trở thành sinh hoạt tâm linh. 

Mọi sự đều biểu hiện cái con là. Mọi sự đều mang lại cho con niềm hỷ lạc và mãn nguyện, không còn cái đúng cái sai, hay cái này cái kia. Đây là cách con có thể mang lại ảnh hưởng lớn nhất cho hành tinh này vì nó sẽ kéo tâm thức tập thể lên. Nó sẽ gây cú sốc cho người khác, những người mở tâm để thấy là có một cách sống khác với cách sống mà họ xem là bình thường của con người.

Một lần nữa con không dính mắc chuyện người khác có làm hay không làm. Con không dính mắc chuyện này. Con chỉ chú tâm là cái con là và con vui hưởng làm như thế. Sau đó, con có thái độ là bất cứ chuyện gì xảy ra, con chỉ nói “bất chấp chuyện gì xảy ra.” Con không có ý định gì, con không có ý muốn vỏ ngoài nào. Con chỉ cho phép cuộc sống trải bày ra. Đây là, như các thày đã nói trước đây, ở trong Dòng sông sự Sống. Đây là trôi theo Dòng sông sự Sống. Con yêu dấu, đây đích thực là chứng minh quả vị Ki-tô. Nó có vẻ không lớn lao như nhiều tín đồ Cơ đốc giáo hay ngay cả đệ tử chân sư thăng thiên mường tượng, chẳng hạn như con phải làm tất cả những phép lạ kia hay làm tất cả những biểu hiện thấy rõ kia.

Con yêu dấu, một khía cạnh rất quan trọng, rất cao của quả vị Ki-tô (và lẽ dĩ nhiên có nhiều khía cạnh khác) là con có thể tham gia đời sống thường nhật với một thái độ và cách nhìn đời hoàn toàn tích cực. Phải chăng đây là chứng minh quả vị Ki-tô, con yêu dấu? Đích thực, nó .

Đây là điều mà thày đã không làm trong kiếp đầu thai cuối cùng, thày đồng ý với con. Nhưng phải chăng thày có nói là các con sẽ hoàn thành những việc lớn lao hơn thày? Đây là một ví dụ của những việc lớn lao hơn mà thày chưa đủ khả năng điều ngự để hoàn thành 2,000 năm về trước – con có thấy vậy chăng.

22 | Giải thoát mình khỏi những ham muốn bất khả thi

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 2 tháng 12 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô và thày có mặt ở đây để trao cho các con bài giảng về lòng tự trọng đặc biệt dành cho những người trong các con mà các thày chọn gọi là avatar. Các thày đã chọn chữ này vì nhiều lý do, những lý do đã được các con biểu hiện khi phản ứng lại chữ này hay khái niệm này. Tất cả những điều các thày làm đều có mục đích nâng cao tâm thức con người, và đôi khi các thày phải làm chuyện này bằng cách khiêu khích, hay thách thức một số hình ảnh và niềm tin của con người. Thực vậy, con thấy thày đã làm điều này nhiều lần khi thày sống trên trái đất và gặp các thày thông giáo và Pha-ri-si và những cá nhân hay nhóm người khác có tâm khép kín.

Các con yêu dấu, quả thực các quốc gia trước kia nằm dưới gông cùm cộng sản cần làm điều gì đó để gia tăng lòng tự trọng của dân chúng, nhưng ở đây thày muốn đi xa hơn và nói với các con nào đã tới trái đất với một mục đích đặc trưng, không phải do nghiệp quả bắt con xuống đây hay vì hành tinh của con đã thăng thiên và con không thăng theo được. Con tới đây với một mục đích đặc trưng là con muốn là cánh cửa mở, là tấm gương chỉ cho mọi người thấy có một tâm thức khác, không phải là tâm thức đang ngự trị trên hành tinh này. Khi con tới đây, có thể là con có một ý định nào đó, một mục đích nào đó, một ý niệm nào đó về điều con muốn thay đổi trên trái đất.

22.1. Lòng tự trọng tương đối

Điều thày mong con nhận ra ở đây là khi các thày nói tới lòng tự trọng theo nghĩa vỏ ngoài, thì đối với người thế gian, lẽ dĩ nhiên, tất cả mọi người rất cần có lòng tự trọng vì họ thường hoạt động tốt hơn trong cuộc sống của họ so với khi họ không có lòng tự trọng hay có lòng tự trọng rất thấp. Bây giờ, ta có thể nói là mọi người đều có lòng tự trọng. Nó chỉ là chuyện họ thấy họ như thế nào, họ định nghĩa họ như thế nào. Họ định nghĩa họ một cách tích cực hay tiêu cực? Tuy nhiên, điều chúng ta có thể nói về hầu hết mọi người trên thế gian là họ có một lòng tự trọng tương đối vì nó liên quan tới một điều gì đó thuộc về thế gian. Nếu con là một lực sĩ nhảy xa, thì lòng tự trọng của con có thể liên quan tới chuyện con nhảy được bao xa. Nếu con là một thương gia, lòng tự trọng của con có thể liên quan tới số tiền con có hay số tiền con thu nhập.

Con thấy là nhiều người trên thế gian đã tạo ra lòng tự trọng tương đối dựa trên một thước đo liên quan tới thành quả nào đó của họ trong thế gian. Giờ đây, điều này không nhất thiết là sai trái hay dở. Đây là một giai đoạn cần thiết trong tiến trình phát triển của một sinh thể. Các thày có nói là một trong những mong muốn cơ bản của con người là họ nỗ lực làm điều gì đó và họ nhận lãnh kết quả tốt, hay một sự thưởng công cho cố gắng của họ. Con có thể nói là một biểu hiện của lòng mong muốn cơ bản này là con tạo ra lòng tự trọng dựa trên một thang điểm đo lường thành quả của con. Lẽ tự nhiên, thành quả của con càng cao trên thang điểm này, lòng tự trọng của con càng nhiều. Chúng ta có thể gọi nó là lòng tự trọng cao theo ý nghĩa thế gian.

Giờ đây, có những người khác có một dạng tự trọng thấp kém. Thay vì so sánh thành quả của họ với những mục đích mà họ đặt ra, họ luôn luôn so sánh mình với người khác. Họ thành công hơn hay kém hơn người khác? Họ có nhiều hơn hay ít hơn người khác? Ta có thể nhìn đây vẫn là sự biểu hiện của lòng mong muốn cơ bản nỗ lực làm việc và gặt hái sự thưởng công. Nhưng rõ ràng đây là lòng tự trọng thấp kém hơn so với trường hợp con làm việc và chỉ so sánh mình với mình, nhưng nó vẫn chưa phải là lòng tự trọng có tính cách phá hoại.

22.2. Lòng tự trọng và địa vị

Giờ đây con có một loại tự trọng khác không liên quan tới thành quả nhưng liên quan tới địa vị của con trong một thứ bậc giả tạo do con người dựng lên. Tỷ dụ, con có thể có ý niệm là vì con là hoàng đế hay vua, con cao hơn người khác vì con ở địa vị đó. Con có thể có ý niệm là vì con có chức vụ nào đó trong guồng máy nhà nước, con cao hơn người dân thường. Con thấy được là loại tự trọng này không gắn liền với thành quả mà gánh liền với địa vị.

Giờ đây, trong một số trường hợp, lẽ dĩ nhiên để đạt tới chức vụ đó con phải nỗ lực, nhưng tầng thấp nhất của dạng tự trọng này gắn liền với một chức vụ mà con ngẫu nhiên có được qua sự thừa hưởng, qua việc tự cho mình quyền lực, hay bằng cách dùng bạo lực, lừa dối hay cách nào khác. Một khi con đạt được địa vị đó, con nghĩ rằng không có điều gì có thể thách thức địa vị của con và những người ở dưới con không thể thách thức địa vị này. Con thấy là dạng tự trọng này là tự trọng của sa nhân. Lẽ tự nhiên, họ cũng có một ý niệm tự trọng vì họ có quyền lực lớn. Như vậy lòng tự trọng mà họ có liên quan tới thành tích của họ, nó vẫn rõ ràng là một nguồn tự trọng thấp kém khi thành tích của người đó được đo lường dựa theo khả năng dùng quyền lực áp chế người khác.

22.3. Mâu thuẫn trong chữ tự trọng

Nếu chúng ta vượt lên trên tầng mức này, chúng ta có thể thấy là khi chúng ta nói về các avatar, khi chúng ta nói về những người tâm linh đang đi một cách ý thức trên con đường tâm linh (con đường nội tâm chân chính dẫn tới thăng thiên), thì chúng ta cần chú ý tới ý nghĩa cao hơn của lòng tự trọng. Chúng ta cần tự hỏi phải chăng có sự mâu thuẫn trong chữ “tự trọng.” Giờ đây, như Chân sư MORE đã nói tối hôm qua: “Có thể nào con thực sự nóng giận một cách không đặc trưng, hay con cần một đối tượng?” Cũng vậy, con có thể nói: “Có thể nào con thực sự cảm thấy trọng điều gì đó nếu con không có đối tượng để trọng?”

Tự trọng là gì? Nhiều người chưa định nghĩa từ này. Họ nghĩ rằng họ hiểu nghĩa của nó. Con quý trọng mình. Con nghĩ con là người tốt hay người có khả năng. Con cảm thấy thoải mái về mình, bất kể cái mình đó là gì. Cái ta được coi trọng là ai? Là người tâm linh con có thể thấy rõ ràng là đối với hầu hết mọi người trên thế gian, cái ta đó không phải là bản thể nội tâm, cái Ta Biết, bản thể thật của họ đang được quý trọng vì lòng tự trọng liên quan tới điều gì đó trên thế gian, do đó cái ta được trọng không thể nào là cái ta thật của họ. Nó chỉ có thể là cái ngã vỏ ngoài, một phần của cái ngã vỏ ngoài.

Ví dụ, con có thể nói là người lực sĩ nhảy xa đã quy định và tạo ra một cái ngã và khi anh nhảy được xa, cái ngã đó cảm thấy thoải mái, cảm thấy nó có khả năng, cảm thấy nó cao hơn người, hoặc cảm thấy bất cứ điều gì – nhưng nó là cái ngã vỏ ngoài. Kỳ thực, chuyện con nhảy được bao xa ngoài sân vận động có tầm quan trọng tâm linh nào chăng? Con thấy rất đông người trong xã hội đã tạo ra những cái ngã vỏ ngoài, những cái ngã tương đối, những cái ngã liên quan tới một điều kiện đặc thù trên thế gian. Khi họ sống theo những điều kiện này tới một mức nào đó, họ có thể cảm thấy thoải mái về mình và họ có thể cảm thấy mình có một giá trị nào đó. Họ có lòng tự trọng nào đó trong tâm họ và có thể cũng được sự tôn trọng trong tâm người khác.

Lẽ tự nhiên, các thày không mong muốn các con là những đệ tử trực tiếp của các thày bị hạn chế bởi dạng tự trọng này. Các thày mong muốn các con đạt được một tầng cao hơn của lòng tự trọng thật sự đến từ nội tâm và không liên quan tới thành tích của con hay địa vị trên trái đất. Quả thật, khi con xem xét thông điệp trong cuốn sách mới nói về sự tương phản giữa một hành tinh tự nhiên và trái đất, thì con có thể thấy là nếu lòng tự trọng của mình liên quan tới bất cứ điều gì trên một hành tinh thấp như thế này thì quả thực đây không phải là một dạng tự trọng cao mà con có thể có được. 

22.4. Một dạng tự trọng tâm linh

Các thày mong các con vượt lên trên lòng tự trọng vỏ ngoài, tương đối, thế gian, và đạt một dạng tự trọng cao hơn. Bây giờ, lẽ tự nhiên là khi con bắt đầu tìm thấy con đường tâm linh, thì con không có viễn quan và hiểu biết hoàn toàn rõ ràng về mục đích của đường tu và nó dẫn con tới đâu. Trong nhiều trường hợp con chú tâm vào con đường vỏ ngoài nhiều hơn là con đường bên trong. Trong nhiều trường hợp, các đệ tử tâm linh tạo ra một dạng ngã vỏ ngoài khác. Thay vì liên quan tới điều gì đó trong thế gian vật chất, thì nó liên quan tới thành tích của họ trên con đường tâm linh theo cái hiểu của họ.

Bây giờ, một lần nữa, điều này không quá tiêu cực. Nó chỉ biểu hiện sự kiện là khi con bắt đầu tìm thấy con đường tâm linh, thì con dùng động lực này để nỗ lực và gặt hái thành quả để quy định thế nào là một đệ tử tốt, thế nào là tiến bộ trên đường tu, thế nào là nỗ lực để tinh tấn. Con dùng nó để quy định một cái ngã và một cách để lượng định con đang ở đâu trong thành quả của con, và sau đó con có thể cảm thấy thoải mái với mình hay không thoải mái lắm với mình dựa trên tiêu chuẩn này. Đây lẽ dĩ nhiên là một giai đoạn con cần đi qua và sau đó con vượt thăng lên một dạng tự trọng cao hơn.

22.5. Lòng tự trọng tiêu cực

Trước khi thày nói sang phần này, thày muốn nói tới sự kiện là cũng có những người đã quy định một cái ngã mà thày gọi là tiêu cực và điều này khiến họ có lòng tự trọng tiêu cực. Nói cách khác, con có thể có lòng tự trọng mà các thày gọi là tích cực trong đó thành quả của con có thể cao hay thấp, nhưng các con vẫn không phải là người hoàn toàn thất bại. Mặt khác, con thấy chăng, lẽ dĩ nhiên, trong thế gian có nhiều người đã quy định một ý niệm bản ngã tiêu cực trong đó họ thấy là có điều gì sai trái với họ. Đây không phải là chuyện cao hơn hay thấp hơn, đây là chuyện họ cảm thấy họ thấp hay thấp hơn nhiều.

Một trong những hệ quả của chế độ cộng sản là nhiều người có lòng tự trọng tiêu cực cho rằng họ chỉ có thể dở như vậy hay tệ hơn. Nhiều tín đồ Cơ đốc cũng như thế, họ cảm thấy họ là người tội lỗi và do đó họ quy định một ý niệm bản ngã tiêu cực. Một lần nữa, cảm nhận này cũng có thể có một thang điểm trong đó con có thể cảm thấy con là người tội lỗi, nhưng một số người tội lỗi tệ hơn người khác do đó có thể là con không tệ như những người kia đã làm chuyện này chuyện nọ. Điều này vẫn rất tương đối. Con thấy nhiều thí dụ như thế trên thế gian, nhưng điều thày muốn chỉ cho các con là một số trong các con là những avatar và người tâm linh cũng đã từng, thường khi là trong các kiếp trước, quy định một cái ta tiêu cực như thế trong đó các con cảm thấy mình có gì đó sai trái. Con cảm thấy là con đã phạm một lỗi lầm trong quá khứ hay có điều gì đó sai trái về mình, và do đó trên thang điểm này, con không thể thực sự cảm thấy mình ở quá điểm trung bình. Lúc nào con cũng ở trong phần tiêu cực và vấn đề chỉ là con thấp bao nhiêu, con cảm thấy mình sai trái bao nhiêu.

Nhiều người trong các con đã tạo ra những cái ngã này vì các con gặp những hoàn cảnh trong đó con cảm thấy mình đã thất bại không đạt được mục tiêu của mình. Nói cách khác, con có một mục tiêu nào đó nhưng con hoàn toàn thất bại không đạt được mục tiêu này và do đó con quyết định là tự thân con sai trái hay có khuyết điểm nào đó. Sau đó điều này tạo ra những ngã tiêu cực không thể cho con lòng tự trọng mà chỉ có thể cho con điều ngược lại. Lẽ dĩ nhiên con có thể tạo ra những ngã tiêu cực này qua nhiều cách, nhưng điều thày thực sự muốn nói tới là trong nhiều trường hợp, con đã tạo ra những ngã tiêu cực này vì con đã tương tác với các sa nhân. Đây là chỗ con cần hiểu mối tương tác giữa một avatar và một sa nhân như thế nào. Lẽ tự nhiên, cuốn sách mới mô tả đề tài rất, rất rõ và chi tiết, nhưng nó chưa đi sâu vào tâm lý, ít nhất là ở khía cạnh mà thày muốn nói tới ở đây.

22.6. Muốn được sa nhân chấp nhận

Giờ đây, ở một mức hời hợt hơn, chúng ta có thể nói là khi con ở trên một hành tinh tự nhiên, con chưa từng, chưa bao giờ gặp một ai chỉ trích con hay hạ thấp con. Con chỉ gặp những người khuyến khích con và cho con phản hồi tích cực. Điều này không có nghĩa là các vị thày hay ngay cả những người ngang hàng với con trên một hành tinh tự nhiên luôn luôn đồng ý với con về những gì con đang làm, hay nghĩ rằng điều đó là điều hay nhất có thể làm được. Họ luôn luôn cho con phản hồi là con có thể làm hay hơn như thế nào, họ không nói con hay điều con làm có gì sai trái. Con chưa bao giờ gặp chuyện như thế. Ở trên một hành tinh tự nhiên con đã xây dựng sự chờ đợi là khi con làm điều gì tích cực cho người khác, ít nhất là họ không tiêu cực về chuyện này, nhưng có nhiều xác suất là họ cảm kích về điều con làm cho họ. Nói cách khác, khi ý định của con tốt lành, họ không hạ thấp con vì họ nhận ra là con đã hành động với ý định tốt lành nhất.

Có thể nói là nó tạo ra cho con một chờ đợi và ngay cả một mong muốn là người khác sẽ tán thành con và chấp nhận con, và chấp nhận là con có ý định tốt. Có thể nói đây không thực sự là cái mà chúng ta gọi là “lòng mong muốn” trên trái đất. Đó chỉ là vì với những gì con trải nghiệm trên một hành tinh tự nhiên, con có một chờ đợi tự nhiên là khi con làm điều gì cho người khác với ý định tốt lành nhất (và lẽ dĩ nhiên là con chỉ có ý định tốt lành trên một hành tinh tự nhiên), thì họ sẽ chấp nhận con và chấp nhận nỗ lực của con một cách tích cực. Họ có thể đề nghị một cách làm hay hơn, nhưng họ sẽ không hạ thấp con hay chỉ trích con vì con đã có ý tốt lành.

Khi con tới một hành tinh như trái đất và con gặp các sa nhân, con cũng tới đây với ý định tốt lành nhất. Những gì con làm cũng được làm với ý định tốt lành nhất, nhưng khi đó con trải nghiệm là sa nhân không chấp nhận con, không chấp nhận ý định của con, không trân quý bất cứ điều gì con làm. Họ hạ thấp con khi con làm bất cứ điều gì, và ngay cả vì con là con. Dù con không bị hình thức tra tấn cùng cực đã được mô tả trong quyển sách, con vẫn trải nghiệm hiện tượng này. Con sẽ gặp sa nhân trên hành tinh và con sẽ trải nghiệm là họ không chấp nhận con, không tán thành con. Lúc đầu con sửng sốt. Con không thể hiểu được điều này, nhưng có một số avatar sau đó, có thể là trải qua một số kiếp sống, từ từ gày dựng ý muốn được sự tán thành của sa nhân. Con thấy chăng, con yêu dấu, Portia có nói là có một số ít nỗ lực trên trái đất này vô bổ hơn là đi tìm sự tán thành của cái ngã nam tính, nhưng có một nỗ lực vô bổ hơn, đó là nỗ lực tìm sự tán thành của sa nhân. Nhiều người trong các con có vết thương sâu thẳm khi đi tìm sự tán thành của sa nhân, không nhận được nó mà còn nhận được cái ngược lại. Trong nhiều trường hợp, nó càng khiến con hăng hái hơn muốn tìm sự tán thành của sa nhân, muốn hiểu họ. Làm sao con có thể thực sự làm cho họ hài lòng, làm sao con có thể làm điều gì mà họ tán thành, làm sao con có thể giúp họ?

22.7. Tìm cầu cái bất khả thi

Con có thể rơi vào vòng xoáy tìm cầu điều này và lúc đầu con không nhận ra sự tìm cầu này bất khả thi. Nó có thể mang lại cho con những vết thẹo và gánh nặng tâm lý sẽ từ lần phát triển thành những cái ngã tiêu cực. Cái ngã không đáp ứng một cách thuận lý nhưng nó phản ứng lại những cảm xúc bị hạ thấp lần nữa và lần nữa và lần nữa. Đây là một cái ngã đầy cảm xúc chỉ có thể có lòng tự trọng tiêu cực và vấn đề chỉ là nó tiêu cực đến chừng nào. Nói cách khác, có thể có những lúc sa nhân chỉ phớt lờ con và điều đó dẫn tới một mức tự trọng tiêu cực nào đó. Có những lúc khác sa nhân trực tiếp chỉ trích con, hạ thấp con hay giết con và điều này làm cho con bị một mức tự trọng sâu và thấp hơn trên thang điểm tiêu cực.

Nhiều người trong các con có những cái ngã này vẫn còn lởn vởn trong bốn thể phàm, thường là ở trong thể tình cảm. Đây có thể là những cái ngã rất thô, rất nhạy cảm. Con có thể thấy được trong kiếp này con đã rất nhạy cảm với chuyện người khác, cha mẹ, thày cô, anh chị em hay ai ai đó tán thành hay không tán thành con. Do đó, con đã bị tổn thương nhiều lần vì những gì người khác đã làm hay không làm đối với con. Có thể là con không gặp hay có gặp sa nhân trong kiếp này, nhưng họ không đối xử tàn ác khốc liệt đối với con như được mô tả trong quyển sách. Nhưng họ vẫn đã phớt lờ con hay hạ thấp con một cách nào đó. Những cái ngã này của con, lẽ dĩ nhiên, có thể bị tổn thương bởi những người khác không riêng gì sa nhân. Những cái ngã này rất nhạy cảm với sự tán thành của người khác cho nên bất cứ ai cũng có thể khuấy động chúng lên và khiến cho con có một niềm tự trọng tiêu cực.

Lẽ tự nhiên, mong muốn của các thày là giúp con khắc phục được điều này, buông bỏ các ngã này và nhận ra chúng chỉ là những ngã tách biệt. Chúng chỉ giản dị là những ngã vỏ ngoài đã được tạo ra và chúng không phải là con (như chân sư MORE đã nói). Khi con nhận ra chúng là những vật thể (con cũng có thể gọi chúng là những khía cạnh của tự ngã, con có thể gọi chúng là “phàm linh nội tại”, con có thể gọi chúng là những “cái ngã”, gọi tên gì không quan trọng), nhưng khi con thấy điều này và con có thể tách mình ra khỏi chúng, thì con có thể bắt đầu buông bỏ chúng.

Lẽ dĩ nhiên, có thể có năng lượng còn bị tồn đọng trong con và con có thể được lợi lạc khi đọc các bài thỉnh và bài chú để chuyển hóa năng lượng. Điểm mấu chốt là con cần tới điểm nhận ra các ngã này đã được tạo ra từ một ảo tưởng. Ảo tưởng nào của con đã dẫn con tới chuyện tạo ra những ngã này khi con phản ứng lại sa nhân? Ấy, ảo tưởng căn bản là chờ đợi mọi người chấp nhận con khi con làm điều gì cho người khác với ý định tốt lành nhất. Họ sẽ tán thành con, dù họ không tán thành tất cả mọi chuyện con làm.

22.8. Sa nhân sẽ không bao giờ tán thành các avatar

Con yêu dấu, con cần tới điểm nhìn nhận là trên cơ bản một sa nhân sẽ không thể nào tán thành một avatar. Điều này không thể nào làm được. Sa nhân sẽ không bao giờ chấp nhận hay tán thành một avatar ngày nào họ còn ở trong tâm thức sa ngã. Họ chỉ có thể thấy các avatar là mối đe dọa vì họ cảm thấy được trong tiềm thức là người avatar có nhiều ánh sáng hơn họ và vì thế họ cảm thấy bị đe dọa. Vì bản chất sa nhân là vậy nên họ phải cảm thấy bị đe dọa và do đó họ sẽ không bao giờ chấp nhận hay tán thành một avatar. Con cần tới điểm nhận ra là khuôn nếp con có ở các hành tinh tự nhiên và con mang theo tới trái đất giản dị là không thích hợp với một hành tinh như thế này. Do đó, con phải cố gắng một cách ý thức chấp nhận điều này và con sẽ giản dị buông bỏ mong muốn này, chờ đợi này khi con ở trên trái đất.

Sa nhân có tán thành con hay không thực sự không quan trọng ở tầm kích hoàn vũ (ở tầm kích sự tăng triển tâm linh và thăng thiên của con). Sa nhân tuyệt đối không có quyền năng gì trong sự thăng thiên của con. Việc họ không tán thành con không ngăn trở con thăng thiên. Việc họ tán thành con không giúp con thăng thiên. Việc họ không tán thành con có thể ngăn trở con thăng thiên nếu con chấp nhận nó, đem nó vào bên trong mình và nuôi cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra. Đây không phải là sa nhân quy định điều đó, đây chính là phản ứng của con đối với sa nhân. Không một sa nhân nào có thể ngăn trở sự thăng thiên của con một cách trực tiếp. Họ chỉ có thể làm được điều này nếu con cho họ quyền lực nào đó trên bản thể của con qua việc tạo ra những cái ngã phản ứng lại họ.

22.9. Những chờ đợi thiếu thực tế của con về trái đất

Khi con nhận ra điều này, con có thể thấy được là gần như con không thể tránh khỏi, như được mô tả trong quyển sách, là khi con ở trên một hành tinh tự nhiên và con nhìn trái đất và con quyết định tới trái đất, con sẽ có một số chờ đợi thiếu thực tế, không những về cuộc sống trên hành tinh này, mà cũng về phản ứng của con đối với trái đất. Con cần nhận ra đây là những chờ đợi thiếu thực tế và do đó con cần buông bỏ chúng. Chúng dựa trên cuộc sống trên một hành tinh tự nhiên. Trên một hành tinh tự nhiên chúng là những chờ đợi phải chăng nhưng con đâu sống trên một hành tinh tự nhiên, phải không con? Thày giả định là không một ai trong chúng con nghi ngờ chuyện này. Con có thể thấy là những mong chờ này không thực tế ở đây. Giản dị là con phải buông bỏ chúng, và con buông bỏ được khi con thấy một cách ý thức thực chất của chúng và con hiểu những giáo lý các thày đã trao cho các con, trong quyển sách cũng như trong các bài truyền đọc ở đây.

Đây là chuyện mong chờ thiếu thực tế là sa nhân sẽ phản ứng với con như thế nào. Bây giờ, có một tầng mong chờ khác vì lẽ dĩ nhiên con cũng có mong chờ là con sẽ phản ứng như thế nào với sa nhân và cuộc sống nói chung trên trái đất. Những mong chờ này vi tế hơn, và chúng liên quan tới điều mà thày nói trước đây là con có một mong muốn nào đó, một lý do nào đó để tới đây. Con muốn đem lại thay đổi tích cực trên hành tinh. Con thấy chăng, con yêu dấu, giống như những người đã tạo ra một thang điểm đo lường họ nhảy bao xa trên sân vận động và họ đã tạo ra một cái ngã để đo lường lòng tự trọng của họ dựa trên thành quả nhảy của họ, thì con như một avatar cũng có thể đã tạo ra một cái ngã đo lường thành quả của mình trong việc hoàn thành mục tiêu mà con có trong tâm trước khi con tới đây?

Ví dụ, nhiều người trong các con chờ đợi là dù con đã biết đây là một hành tinh thấp và ở đây có chiến tranh và tra tấn và đủ loại tàn sát và đảo điên, con vẫn có thể giữ tâm mình tích cực và con sẽ không rơi vào vòng xoáy phản ứng tiêu cực với sa nhân hay các điều kiện trên trái đất. Như Chân sư MORE đã nói, con nghĩ là con sẽ không nổi giận, sẽ không sợ, sẽ không phản ứng tiêu cực, sẽ không giao chiến với sa nhân, và vân vân. Vì, như Chân sư MORE đã nói, tất cả chúng ta khi tới trái đất đều đã rơi vào khuôn phản ứng lại sa nhận, đều bị sốc, thì có thể an toàn mà nói là tất cả chúng ta đều thất bại, dựa trên sự mong chờ đó. Chúng ta đều đã phản ứng khác với những gì chúng ta nghĩ chúng ta sẽ phản ứng trước khi tới đây – thày cũng vậy, hy vọng là cuốn sách đã chứng minh điều này.    

22.10. Các kỳ vọng của con khi tới trái đất 

Một lần nữa, con phải nhìn chuyện này và nói: “Đây rõ ràng là một chờ đợi thiếu thực tế và tôi cần buông bỏ nó.” Sau đó, còn sự chờ đợi vi tế hơn, liên quan tới điều con hy vọng sẽ hoàn thành, các kết quả con hy vọng thấy được trên trái đất, các thay đổi con hy vọng tạo ra được. Không thể tránh được chuyện con đã tạo ra một cái ngã cảm thấy nó đã thất bại vì không đạt được mục đích khi tới đây. Con không tạo được kết quả mà con hy vọng tạo được, con đã không thấy được một sự thay đổi tích cực.

Con có cái ngã một phần nào tương đương với cái ngã mà nhiều người trên thế gian có khi họ đo lường thành quả của họ dựa trên một tiêu chuẩn. Chỉ khác là tiêu chuẩn của con rất, rất khác. Con có thể nói là các chân sư thăng thiên muốn nâng cao trái đất và cách duy nhất để thực sự nâng cao trái đất là có một số avatar xuống đầu thai trên trái đất và giúp nâng cao tâm thức tập thể. “Vậy phải chăng chúng con có mặt ở đây để đem lại thay đổi tích cực? Phải chăng chờ đợi đem lại sự thay đổi tích cực là một chờ đợi thuận lý?”

Nhìn dưới một góc độ nào đó, các thày có thể nói: “Đúng, đúng, đúng, điều này thuận lý.” Vấn đề là nếu con đã tạo ra một cái ngã cảm thấy đã thất bại nếu chưa tạo ra sự thay đổi mà con mường tượng, thì lúc đó con có một cái ngã ngăn chận con đạt được lòng tự trọng thực mà các thày muốn con đạt được. Cái ngã này giản dị kéo con xuống một cái nhìn tiêu cực về mình, về trái đất, về lý do con tới đây, về thành quả của con ở đây và do đó con không thể đạt được lòng tự trọng thật sự. Thêm vào đó, ngày nào con còn có cái ngã này, con không thể rời hành tinh này vì con sẽ cảm thấy không thể rời nơi này với cái nhìn tiêu cực về lý do con tới đây. Cho tới khi con hoàn thành mục đích khi con tới đây, thì con không rời nơi này được.

22.11. Những chờ đợi ngăn chận con thăng thiên

Điều này co thể trở thành một vấn đề thật liên quan tới sự thăng thiên và tiến triển tâm linh của con vì sự thay đổi mà con hình dung trước khi tới đây nói chung là sự nâng cao tâm thức. Hầu hết các con cũng có một mục đích đặc thù là muốn trái đất thăng vượt một sự biểu hiện tiêu cực nào đó. Nhiều người trong các con muốn trái đất thăng vượt chiến tranh, nhiều người khác muốn trái đất thăng vượt tra tấn. Đối với mỗi biểu hiện tiêu cực, có một số avatar muốn tới đây và thấy trái đất vượt lên trên biểu hiện này.

Giờ đây con yêu dấu, con có thể nói: “Nhưng các chân sư thăng thiên muốn loại chiến tranh ra khỏi trái đất, đúng không?” Vâng, đúng – lẽ dĩ nhiên các thày muốn điều này. Nhưng các thày không nhìn tiến trình đó giống như các con có khuynh hướng nhìn khi các con đầu thai ở đây. Con thấy chăng, con yêu dấu, như các thày đã cố gắng giải thích, các thày tôn trọng quyền tự quyết. Các thày nhận ra rằng muốn loại chiến tranh khỏi trái đất thì phải bứng một số sa nhân ra khỏi trái đất. Các thày không thể bứng các sa nhân đi cho tới khi có đủ túc số cư dân nguyên thủy trên trái đất – những cư dân này khởi thủy đã mời sa nhân tới (một cách vô thức lẽ dĩ nhiên, nhưng họ đã mời sa nhân tới) – nâng cao tâm thức của họ và từ bỏ tâm thức đã khiến sa nhân tới đây vì lúc đó cửa được mở cho họ.

Các thày biết rất rõ là loại trừ chiến tranh khỏi trái đất cần tới chọn lựa tự do của nhiều người trong số các cư dân nguyên thủy trên trái đất. Các thày trao cho các con một giáo lý giúp các con nhận ra điều này và như vậy con thấy được một điều rất, rất giản dị. Thày đã nói là không thể nào làm cho sa nhân tán thành avatar, nhưng đồng thời cũng không thể nào làm cho sa nhân từ bỏ hành động hiếu chiến của họ. Con có thể thấy là nếu con muốn loại trừ chiến tranh trên trái đất, thật là vô bổ nếu con chờ đợi làm được điều này bằng cách thay đổi sa nhân.

Mặt khác, trước khi con tới đây con cũng đã thấy là hầu hết cư dân nguyên thủy trên trái đất có trình độ tâm thức thấp hơn con rất nhiều. Vậy con có thể thấy là khi con chờ đợi loại trừ chiến tranh khỏi trái đất, thì con để sự thành hay bại của sứ vụ của con lệ thuộc vào quyền tự quyết của những sinh thể ở tầng tâm thức thấp hơn con nhiều khi con tới đây. Con yêu dấu, làm như vậy có minh triết chăng? Có minh triết chăng khi con gắn liền thành quả của con, và do đó lòng tự trọng của con, với chọn lựa của ai khác không phải là con? Lẽ dĩ nhiên điều này thiếu minh triết.

Lòng tự trọng của con chỉ nên dựa trên những yếu tố bên trong con mà thôi. Những yếu tố này chính là cách con nhìn mình, cách con nhìn thành quả hay hành động của mình trên trái đất. Con thấy chăng, vì con tạo ra sự chờ đợi thiếu thực tế là con chỉ cần tới đây thì ngay lập tức con có thể nâng mọi người lên và đem lại thay đổi (hay đem lại bất cứ điều gì khác mà con mường tượng trong tâm mình), cho nên con không thể né tránh chuyện con thất vọng khi nhận ra rằng hành tinh này dày đặc hơn nhiều và không thể nào làm được chuyện con chỉ cần tới đây là có thể đem lại thay đổi, dù là con có ý định tốt lành nhất. 

Con thất vọng vì con đã gắn liền sự chờ đợi của con với quyền tự quyết của những người ở trong một trạng thái tâm thức rất thấp, rất nhị nguyên. Con không thể tránh được thất vọng và con cần thấy điều này để con có thể tách mình ra khỏi những cái ngã này và nói: “Tôi không thể cho phép lòng tự trọng của tôi tùy thuộc những cái ngã bị dính vào sự chọn lựa của những sinh thể ở một trạng thái tâm thức thấp. Tại sao tôi lại muốn lòng tự trọng của mình bị gắn liền với chọn lựa của những người trong tâm thức nhị nguyên?”

Lẽ dĩ nhiên, thày không chê trách con khi nói rằng con tạo ra những cái ngã đó bởi vì, như các thày đã nói nhiều lần, trong sứ vụ của các con, các con cần trải qua giai đoạn trầm mình và xác định mình là một con người. Trong tiến trình này, con không tránh được chuyện tạo ra những cái ngã đó. Điều con cần nhận ra là bây giờ con ở một tầng tâm thức cao hơn và con đang nghĩ tới chuyện có thể thăng thiên trong kiếp này, thì con cần xem xét những cái ngã này. Con cần nhìn thấy tại sao chúng được tạo ra, con cần nhìn thấy chúng dựa trên một ảo tưởng và một chờ đợi thiếu thực tế để con thấy được con không cần mang những loại ngã này theo con nữa. Con có thể dùng những dụng cụ để buông bỏ chúng, nhưng trước tiên hết, con cần nhận ra là chúng cần phải ra đi.

22.12. Lòng tự trọng đến từ con là ai

Con yêu dấu, lòng tự trọng thật sự là gì? Nó phải là lòng tự trọng không dựa vào bất cứ điều gì bên ngoài con. Như các thày đã nói nhiều lần, cái ta vỏ ngoài của con, bốn thể phàm của con không phải là cái ta thật của con. Dù rằng con có một số tình trạng, một số ngã trong bốn thể phàm của con, lòng tự trọng thật không thể dựa trên chúng. Lòng tự trọng đến từ đâu? Con cần thấy rằng thế gian có một cái nhìn về lòng tự trọng, một khái niệm về lòng tự trọng không phải là lòng tự trọng cao vì, như thày đã nói, nó liên quan tới điều gì đó trên thế gian. Ngay cả những cái ngã con đã tạo ra dựa trên những chờ đợi của con khi tới đây cũng liên quan tới thế gian này và liên quan tới những gì con đạt được hay không đạt được. Con cần nhận ra ở đây là một avatar như con, một đệ tử tâm linh đã đạt tới những giai đoạn đầu của quả vị Ki-tô, không thể cố gắng đạt được (con không thể chờ đợi là con phải có) loại tự trọng mà con người có trên thế gian.

Vậy thì con làm được gì? Ấy, con có thể tự hỏi: “Cái ta, cái ta thật, cốt lõi của bản thể của tôi là gì?” Các thày đã trao cho các con nhiều giáo lý về đề tài này. Các thày đã trao cho các con giáo lý thật hay trong sách của Guru Ma về tin tưởng những điều nguy hiểm (sách tên là Đừng Mù Quáng Tin Những Giáo Điều Nguy Hiểm, Don’t Drink Your Own Kool-Aid). Con có thể nghiền ngẫm và dùng những giáo lý này để từ từ nhìn lên trên ý niệm bản sắc, ý niệm bản ngã mà con đã tạo dựng trong thế gian này.

Con có thể tới điểm mà con đi vào thể bản sắc của mình và con bắt đầu tra vấn và thách thức ý niệm bản ngã mà con đã tạo dựng trong cuộc hành trình của con trên hành tinh này và con càng ngày càng nhận ra: “Đây không phải là cái ta thật của tôi, nó không phải là cái tôi thật sự là.” Rồi con tới điểm nhận ra con kết nối với cái gì khác, khi cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, như các thày đã nói nhiều lần. Con có thể bắt đầu nghiền ngẫm ý nghĩa của điều này và trong cuốn sách mới (Các Kiếp của Tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su) có nhiều chìa khóa quan trọng và như người sứ giả đã mô tả, những chìa khóa này đã giúp ông hiểu rõ hơn. Dù ông đã nhận được những giáo lý được trao truyền trước đó về đề tài này, trong sách vẫn còn những điều giúp ông nắm vững hơn.

Đích thực là cái ta thật không thể được quy định bằng bất cứ thứ gì trên thế gian này. Đó là lý do tại sao con có thể nhận ra là cái ta thật không cần bất cứ điều gì từ thế gian này – bất cứ sự tán thành nào, bất cứ thành quả nào, bất cứ kết quả nào – để cảm thấy thoải mái về mình. Cái ta thật, cái Ta Biết, có khả năng cảm thấy thoải mái về mình khi nó nhận ra nó là ai và nó là gì. Con là một nối dài của Hiện Diện TA LÀ, một sinh thể tâm linh, bất kể con có thể thấy được nó là gì ngay lúc này, bất kể con có thể mường tượng nó là gì. Thày biết điều này khó hiểu. Điều này khó hiểu bằng khái niệm, vì khi các thày cho các con khái niệm về cái Ta Biết, thì các thày muốn khiến tâm đường thẳng và phân tích của con bị bối rối vì nó không thể nghĩ ra được Cái Ta Biết là gì. Tâm đường thẳng không thể liên hệ cái Ta Biết với bất cứ điều gì nó quen thuộc trên trái đất này. Khi con nhận ra con không phải là bất cứ điều gì được quy định trên trái đất, con có thể thấy lòng tự trọng của mình không gắn liền với bất cứ điều gì trên trái đất, nó đến từ sự kiện con hiện hữu. Vì sự kiện con hiện hữu, con có giá trị. Con được quý trọng. Con xứng đáng được quý trọng. Con thấy chăng, con yêu dấu, lòng tự trọng thật không thể có mặt ngày nào con còn có một vật thể đối tượng, một cái ngã và con đang quý trọng vật thể đó.

22.13. Làm sao thỏa mãn một ước muốn

Do đó, chúng ta có thể nói rằng khi con tới được điểm nhận biết này, khái niệm lòng tự trọng phai mờ đi. Khi con thấy không còn cái ngã thì đâu cần lòng tự trọng nữa. Con chỉ trải nghiệm con như con là. Con còn không quan tâm tới bất cứ dạng tự trọng nào, bất cứ thang điểm cao và thấp nào, bất cứ so sánh nhị nguyên nào. Nó chỉ phai mờ đi.

Thày biết thày đang đặt cho các con một mục đích mà một số trong các con cần thời gian để nhận ra. Thày muốn con biết là không chỉ riêng lòng tự trọng mà nhiều khái niệm khác mà con có trên đường tâm linh, sẽ phai mờ đi khi con tới những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô. Chúng mất đi ý nghĩa vì con nhận ra chúng chỉ có ý nghĩa ở tầng tâm thức thấp hơn. Ở tầng tâm thức cao hơn, chúng không còn ý nghĩa đặc biệt nào, chúng không quan trọng gì cả, chúng không kéo hút con. Con có thể nói, một lần nữa để tâm đường thẳng bị bối rối, là cách duy nhất để đạt được lòng tự trọng thật là tới được điểm là con không cần lòng tự trọng nữa. Con không có nhu cầu được quý trọng.

Có thể nói là cách duy nhất để thỏa mãn những mong muốn của con là tới được điểm con vượt thăng những mong muốn đó và con không còn mong muốn nữa. Đây không phải là vấn đề thỏa mãn nó – đây là vấn đề vượt thăng nó. Điều mà sa nhân muốn con nghĩ – và đây là một trong những cách chính họ giam con trong một khuôn nếp phản ứng – là con mong muốn một điều gì và con cần đạt được điều con mong muốn. Nếu con mong có lòng tự trọng, con cần đạt được lòng tự trọng. Làm sao con đạt được lòng tự trọng? Bằng cách con nhảy xa hơn bất cứ ai khác. Khi tiêu chuẩn này đạt được, thì con sẽ có lòng tự trọng.

Đây không phải là sự thật. Con sẽ không bao giờ, không bao giờ cảm thấy lòng tự trọng thật bằng cách thỏa mãn bất cứ mong muốn nào – đích thực là con không bao giờ có thể thỏa mãn bất cứ mong muốn nào. Con chỉ thực sự trọn vẹn, cảm thấy thật sự thoải mái về chính mình, khi con thăng vượt mong muốn và con không còn cảm thấy mình thiếu thốn nữa. Con sẽ có lòng tự trọng khi con không còn kinh nghiệm mình thiếu lòng tự trọng nữa, nhưng điều này chỉ thành tựu được khi con thăng vượt lòng mong muốn, ngay cả mong muốn có một cái ta có thể được quý trọng.

Cái Ta Biết, khi nó nhận ra nó là nhận biết thuần khiết, không có nhu cầu được quý trọng nữa. Kỳ thực là nó không còn thấy nó là một cái ta nữa. Đúng đấy, thày đang cho con những khái niệm khó hiểu, tinh tế. Cách duy nhất để khắc phục điều này là làm cho tâm đường thẳng và phân tích bối rối để con thoát ra khỏi nó và con trải nghiệm được điều gì cao hơn. Đây là trải nghiệm thày muốn con có. Là một chân sư thăng thiên, lẽ dĩ nhiên thày muốn hướng dẫn con đi từng bước cho tới khi con sẵn sàng có trải nghiệm này vì các ảo tưởng đã từ từ phai mờ đi cho tới khi không còn ảo tưởng nữa và con vụt thoát ra khỏi ý niệm bản ngã giới hạn đó và nó chỉ không còn nữa.

Con yêu dấu, thày đã trao truyền cho con điều thày muốn trao truyền trong kỳ này nhưng thày muốn nói thêm nữa về một số chủ đề đã được nêu lên trong hội nghị này. Thày sẽ làm tròn lời hứa của Chân sư MORE là thày sẽ cho con một số ý tưởng về cách cho cái ngã chết đi. Chủ đề này thày sẽ dành cho ngày mai để con có thể xin, nếu con muốn, tới trung tâm nhập thất của vị chân sư nào con muốn, nhưng thày đề nghị con tới trung tâm ở trên Arabia. Thày sẽ hướng dẫn các đệ tử nào muốn tới đó kết hợp những khái niệm mà thày đã trao cho các con để con được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận những gì thày sẽ trao truyền ngày mai.

Thày chúc các con một buổi tối an lành và thày cám ơn các con đã luôn luôn chú tâm vui vẻ. Thày luôn luôn cảm thấy một niềm vui lớn lao khi tương tác với những đệ tử đầy lòng hăng hái học hỏi như các con.

15 | Phân biện vi tế giữa Ki-tô và phản-Ki-tô

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 11 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày tới đây để trao truyền một giáo lý ít khi được trao truyền trên hành tinh này, ít khi được đệ tử các phong trào tâm linh hay tôn giáo hiểu thấu. Thày trao truyền bài giảng này vì các con là đệ tử khắp nơi trên thế giới đã đạt được một trình độ tâm thức giúp các con bắt đầu nghiền ngẫm chủ đề này trong tâm, và có thể thảo luận với nhau dựa trên kinh nghiệm của mình khi học một số giáo lý và tham gia một số phong trào tâm linh.

15.1. Biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô

Các con yêu dấu, thày bây giờ bắt đầu bằng cách hỏi các con nghĩ tới hình thức dày đặc nhất, khắc nghiệt nhất, cực đoan nhất của phản-Ki-tô mà con có thể tưởng tượng. Lẽ đương nhiên, nhiều người trong các con sẽ nêu lên những thể hiện của tà ác, như giết chóc quy mô hay một số hành động tàn bạo, mà con người đã kết đọng xuống trái đất. Lẽ dĩ nhiên, đây là một sự trải bày, một biểu hiện của tâm phản-Ki-tô, nhưng thực ra thì chúng không phải là biểu hiện khắc nghiệt nhất của tâm phản-Ki-tô.

Con yêu dấu, con thấy là khi nhiều người nghe nói về các khái niệm Ki-tô, quả vị Ki-tô hay tâm thức Ki-tô, thì họ làm một điều mà các thày đã nói tới nhiều lần: họ phóng chiếu hiểu biết hiện tại, tâm thức hiện tại của họ lên các khái niệm đó. Họ nhìn quả vị Ki-tô qua phin lọc của hiểu biết hiện tại của họ. Lẽ dĩ nhiên, đây là điều tự nhiên; con không thể làm gì khác. Những người trong các con đã sẵn sàng thì có thể bắt đầu nhận ra là Ki-tô là một nguyên lý chỉ có một mục đích duy nhất, đó là bảo đảm con không thể nào tách biệt khỏi cội nguồn của mình, khỏi đấng Sáng tạo, một cách thường trực hay tuyệt đối.

Ki-tô cần thiết vì con được ban quyền tự quyết. Như thày Lanello đã nói quá hay: “Quả là một sáng kiến thần tình của đấng Sáng tạo!” Bởi vì con được ban quyền tự quyết, nên con được cho cơ hội bước ra khỏi cái Một. Do đó, thực sự không có gì giới hạn con rời cái Một xa chừng nào. Một khi con đi vào tách biệt và tạo ra thế giới quan của mình (mà con tin là tuyệt đối) thì con sẽ cứ tiếp tục trôi theo vòng xoáy đi xuống, càng ngày càng ăn sâu vào thế giới quan của mình. Ki-tô là nguyên lý bảo đảm là khi con đã chán ngán kinh nghiệm đó, khi con mong muốn và sẵn sàng đi ngược trở lại (bắt đầu đi trở lại về hướng cái Một) thì Ki-tô sẽ có mặt dưới bất cứ hình thức nào mà con có thể thấu hiểu ở trình độ tâm thức mà con có khi con quay đầu và muốn trở về cái Một.

Điều này có nghĩa là Ki-tô là nguyên lý tăng triển, tăng triển liên tục. Như các thày đã nói nhiều lần, không có gì tối hậu trên trái đất, không có trạng thái tâm thức tối hậu trên trái đất. Ki-tô và tâm thức Ki-tô là một tiến trình liên tục mà chung cuộc là dẫn con tới thăng thiên, nhưng lẽ dĩ nhiên, con có thể tiếp tục tăng triển khi con ở trên cõi thăng thiên. Đây là điểm quan trọng nhất mà con nên hiểu về tâm thức Ki-tô: đó là sự liên tục của nó. Nó luôn luôn, đều đặn và dần dần kéo con thăng vượt tầng tâm thức hiện tại của mình cho tới khi con tới tầng tâm thức mà bước thăng vượt kế tiếp là thăng thiên.

Đây là một nguyên lý mà rất ít người đã hiểu. Đại đa số đệ tử tâm linh, kể cả đệ tử chân sư thăng thiên, chưa sẵn sàng hiểu thấu nguyên lý này. Nhiều người trong các con đã sẵn sàng, và đó là lý do vì sao thày trao truyền bài giảng này. Lý do khác là vì các con có khả năng giữ quân bình, có thể nói là các con có thể là điện cực giúp gửi nguyên lý này tới tâm thức tập thể. Có lẽ con nhớ câu chuyện đám đông đầy giận dữ sắp sửa ném đá chết một phụ nữ, và lúc đó thày lấy một cây gậy và vạch một đường trên cát. Ấy, có thể nói là qua bài giảng này thày cũng vạch một đường trên cát và nói: “Bây giờ là lúc bước qua đường này và tiến tới một hiểu biết cao hơn về quả vị Ki-tô.”

Để minh họa diều thày muốn nói, thì chúng ta hãy trở về ý niệm đâu là biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô trên trái đất. Khi thày nói “biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô” thì nay con có thể hiểu câu này thực sự nghĩa là: “Điều gì ngăn cản con người tăng triển, tiếp tục tăng triển?”

Con hẳn nhớ là trong Thánh kinh, có một câu nói được gán cho thày, như sau: “Ta mong con hoặc nóng hoặc lạnh, nhưng vì con âm ấm nên ta sẽ nhổ con ra khỏi miệng ta.” Có một số người đang đi về một hướng và họ đang tách rời khỏi cái Một. Có một số người khác đi ngược lại và họ đang đi về hướng cái Một, nhưng đa số con người trên trái đất không đi về hai hướng đó. Họ giản dị không di động và đây là biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô trên trái đất, khi con xem xét điều gì ngăn chặn sự tăng triển của con người.

15.2. Những người không di động

Bây giờ, thày Gura Ma có nói là con có thể có một số điểm cố định trong tâm khiến tâm con có thể chuyển động và con đang thu thập dữ kiện mới, nhưng con không chuyển đổi lên một tầng cao hơn, vì tâm con giống như một cỗ máy chạy bộ đang chuyển động (có lẽ rất nhanh) nhưng không đưa về đâu cả. Nó không di động khỏi chỗ nó đang đứng và đây là cách rất nhiều người trên trái đất bị mắc kẹt ở một điểm và không thực sự di chuyển. Bây giờ thì ta có thể nhìn sự kiện trên bình diện thế giới. Lẽ dĩ nhiên, ở nhiều khu vực trên thế giới, đa số dân chúng đang di động một cách nào đó. Không có nghĩa là họ đang đi trên đường quả vị Ki-tô một cách có ý thức, nhưng họ đang di động.

Lý do vì sao thày nói là việc con đang tách rời khỏi cái Một vẫn tốt hơn là nếu con đứng yên, là vì khi con di động thì lúc nào con cũng có thể đổi hướng. Nếu con đang tách rời khỏi cái Một nhưng đổi hướng đủ thì con sẽ bắt đầu đi ngược trở lại. Nếu con đứng yên thì con không thể đổi hướng vì con không đang đi về hướng nào cả – không có hướng đi nào cả.

Con yêu dấu, khi con nhìn vào hiện trạng trái đất thì con thấy là ở nhiều quốc gia trên thế giới có nhiều nhóm đông người đang ở trong trạng thái tâm thức không di động. Một cách để nhận ra điều này là nhìn vào những người sinh ra và lớn lên trong một nếp sống nào đó, một nền văn hóa nào đó, một quốc gia nào đó, sau đó họ tìm một việc làm (thường là một việc làm khá máy móc) và giản dị muốn tiếp tục làm việc đó cho đến hết đời. Họ thường sống trong cùng căn nhà, cùng chung cư, và họ làm rất ít để cải thiện môi trường bên ngoài của họ. Cuộc đời của họ giản dị ở thế bế tắc. Họ muốn một sự ổn định nào đó, họ muốn ở nơi họ cảm thấy thoải mái, và tiếp tục làm cùng một việc năm này qua tháng nọ.

Bây giờ, con yêu dấu, cuộc đời là một cơ hội quý báu. Nó là một cơ hội để con bảo đảm con rời bát cung vật lý với một tầng tâm thức cao hơn khi con đi vào. Có câu nói bình dân là con không thể đem gì theo mình, ý nói là con vào đời trần trụi và con lìa đời cũng trần trụi, và con không thể đem theo bất kỳ sở hữu vật chất nào. Điều này không đúng, con yêu dấu, vì con có thể mang theo sự tăng triển tâm thức. Con mang nó theo con khi đầu thai lần tới. Do đó, con có thể sinh ra trong hoàn cảnh tốt hơn, và có cơ hội tăng triển tốt hơn. Nếu con lại tận dụng cơ hội thì con sẽ tiếp tục đi theo vòng xoáy hướng thượng.

Bài giảng này không đặc biệt chú tâm vào nước Nga, nhưng vì chúng ta đang ở trên nước Nga nên thày sẽ lấy nó làm thí dụ. Nếu con đi ngược trở về thời kỳ trước cuộc cách mạng cộng sản, cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc, thì con thấy, như các thày có nêu lên, là vua Peter Đại Đế đã cố gắng nâng nước Nga lên một tầng cao hơn. Thời đó, có nhiều người trong giới quyền quý chống đối, nhưng cũng có nhiều người dân không tích cực chống đối – họ chỉ không động đậy. Họ không muốn động đậy. Con sẽ thấy đây là một trở ngại lớn cho sự tăng triển. Thày Lanello có bài giảng hùng hồn về vị Nga hoàng cuối và ông đã bỏ lỡ cơ hội ra sao, nhưng ta cũng phải nói là ông phải đương đầu với một tình hình rất khó khăn vì nhiều người trong dân chúng không chịu động đậy. Giống như là họ lớn lên để ở một đia vị nào đó trong xã hội, họ nghĩ họ phải giống cha mẹ họ, phải cố gắng làm một loại công việc nào đó và sống trong một căn nhà thuộc loại nào đó. Một khi họ đạt được điều này, thì họ sẽ tiếp tục ở đó cho đến cuối đời.

15.3. Ngay cả phản-Ki-tô cũng có thể đưa tới tăng triển

Con thấy là trên khắp thế giới có những thành phần đông đúc dân chúng không di động và không muốn di động. Bây giờ thì các con phải cẩn thận tìm một hiểu biết cao về điều thày đang giảng. Khi con có một dân tộc bị đóng băng (đóng băng vào một thời điểm), thì điều gì có thể kéo họ ra khỏi trạng thái cô-ma, trạng thái ngủ sâu mùa đông đó? Con yêu dấu, điều gì có thể kéo họ ra? Ấy, các chân sư thăng thiên và những người đại diện của các thày không thể làm chuyện này vì chúng tôi tôn trọng quyền tự quyết. Các thày sẽ không áp đặt người khác, các thày sẽ không xâm phạm họ. Lẽ tự nhiên, các thày có cho con hiểu là các thày không coi cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc là một phát triển tích cực, và chắc chắn là những gì xảy ra sau đó lại càng không tích cực. Nhưng con hãy lắng nghe kỹ. Khi con có một dân tộc đã bị đóng băng vào một thời điểm, thì ngay cả một thay đổi tàn bạo do sa nhân đề xướng cũng có thể trong một thời gian ngắn đem dân tộc đó tới gần quả vị Ki-tô hơn, hay ít ra là cho họ một cơ hội.

Con hiểu là khi một nhóm dân không di động, thì không ai có thể làm gì được. Họ không tiến tới gần cái gì cả. Bất cứ thay đổi nào bắt buộc họ phải đối diện một tình hình mới, lay động họ ra khỏi lối suy nghĩ cũ, và ngay cả bắt buộc họ thay đổi lối sống, thì quả thực là một cơ hội cho những người đó.

Bây giờ, thày không nói là Lê-nin và nhóm Bôn-sê-víc đại diện Ki-tô. Thày chỉ đang nói là họ đóng vai trò lay động người dân Nga nhiều hơn là Nga hoàng đã làm được, vì Nga hoàng không sẵn sàng giết nhiều đồng bào của mình bằng nhóm Bôn-sê-víc. Thày không thừa nhận sự giết chóc, thày không bào chữa cho nó. Thày chỉ muốn nói là trong một hệ thống khép kín, con người sẽ thu hút điều gì làm xập hệ thống – và điều này cho họ cơ hội để chuyển bước đi tiếp vì họ đã không sẵn sàng tự họ làm điều này.

Con cần nhận ra ở đây một nguyên lý rất quan trọng: đứng yên là kẻ địch tệ hại nhất của Ki-tô vì nó trái ngược với tăng triển. Điều này có nghĩa là có một số người đã phần nào hòa điệu được với nhu cầu thay đổi, và họ làm việc để đem lại thay đổi dựa trên tâm thức của họ và tâm thức tập thể của quốc gia đó. Trong sự hòa điệu dó – con hãy cẩn thận nghe kỹ – họ không đại diện Ki-tô, nhưng họ quả thực cùng hướng với tâm Ki-tô vì tâm Ki-tô cũng muốn mang lại thay đổi. Tâm Ki-tô dĩ nhiên không muốn đem lại thay đổi bằng vũ lực và bạo hành, nhưng khi con người không chịu đáp ứng, thì tâm Ki-tô sẽ đứng lui lại và để cho những người bị kẹt trong tâm phản-Ki-tô làm những chuyện mà họ lúc nào cũng muốn làm: đó là kiểm soát, gây xáo trộn hay tàn phá.

Đó không phải là vì tâm Ki-tô muốn thấy chuyện này xảy ra, nhưng là vì tâm Ki-tô luôn luôn tôn trọng quyền tự quyết của con người. Khi con người không chịu tự mình chuyển động bằng cách lấy chọn lựa của mình, thì tâm Ki-tô phải bước lui lại và để cho Quy luật thứ Nhì của Nhiệt động học hay Quy luật Nhân quả trải bày. Lúc đó, những người đó phải đối mặt một hoàn cảnh ép buộc họ ra khỏi hộp tư tưởng, ra khỏi sự ù lì, không muốn thay đổi của họ.

15.4. Cách mạng Bôn-sê-víc và Stalin

Có một khoảng thời gian trong đó những người đem lại cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc đã phần nào đứng cùng hướng với tâm Ki-tô. Thày biết điều này sẽ khiến nhiều người, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên, ngạc nhiên. Một lần nữa, con hãy cẩn thận: thày không nói là họ đại diện Ki-tô, nhưng họ cùng hướng với mục tiêu của Ki-tô, là đặt con người vào một hoàn cảnh khiến họ bị ép buộc phải tăng triển vì họ không chịu tự mình tăng triển. Điều con cần nhận ra là giai đoạn đó (khi họ cùng hướng với tâm Ki-tô) không kéo dài. Nếu con nghiên cứu lịch sử cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc thì con thấy là họ rất mau chóng tha hóa và càng ngày càng sẵn sàng dùng bạo lực, càng ngày càng sẵn sàng đàn áp con người, đàn áp chống đối, đàn áp mọi hình thức tự do ngôn luận. Họ đã làm những gì sa nhân luôn luôn làm: họ trở nên vô cảm với con người. Lẽ dĩ nhiên, điều này đưa tới tình trạng Lê-nin rơi vào một vòng xoáy hướng hạ khiến ông đau ốm và chết, và Stalin lên thay thế.

Đây là chỗ con cần phân biện: Stalin không bao giờ thẳng hàng với tâm Ki-tô. Stalin không bao giờ ép buộc dân chúng phải đối mặt một hoàn cảnh khiến họ phải suy nghĩ lại cách họ sống và nhìn cuộc đời. Stalin chỉ giản dị củng cố vòng xoáy hướng hạ mà người khác đã kéo dân tộc Nga vào, và ông đã thiết lập mình thành nhà độc tài tối hậu, và từ điểm đó thì không còn tăng triển nữa. Tiềm năng tăng triển không còn nữa vì ông tạo ra một triều đại khủng bố đã bóp nghẹt mọi ý muốn của người dân muốn xem xét lại, mọi óc phê bình chỉ trích, mọi ý muốn cải thiện nơi người dân. Đó là lý do vì sao con thấy là rất rất nhanh sau khi Stalin lên nắm quyền thì người dân lại rơi vào trạng thái ù lì. Ta có thể nói là trạng thái ù lì này sâu đậm hơn trước vì mọi người đều nghĩ rằng phản đối chế độ hoàn toàn không lợi ích gì vì mình sẽ chỉ bị giết. Sau đó, họ cũng lấy quyết định (dĩ nhiên là trong tiềm thức): cố gắng cải thiện bất cứ gì đều vô ích, vì cuộc sống sẽ giản dị không thay đổi. Họ nay sống trong Liên bang Sô viết và người dân bình thường không thể làm gì khác ngoài việc tìm cách để cuộc sống tạm chịu được.

Con thấy là Stalin đã ép người dân Nga vào một tình trạng cô-ma, ù lì sâu đậm hơn, khiến họ không muốn thay đổi, không muốn cải thiện bất cứ gì. Con thấy là hiện nay vẫn còn nhiều người Nga có thái độ đó. Con chỉ cần bước ra và nhìn các khu vực ở Nga có những chung cư hay nhà cửa không được bảo trì, là chỉ dấu rõ rệt là những cư dân ở đó đã bỏ cuộc. Họ còn không màng giữ sạch môi trường, họ không muốn làm đẹp hay cải thiện bất cứ gì. Họ đã chấp nhận là họ sống một cuộc đời bất di dịch, họ có một lợi tức bất di dịch và họ không thể làm gì để thay đổi sự kiện này – đó là điều họ nghĩ. Đây là một thí dụ của sự ù lì rất rất dày đặc, rất rất nặng nề đã khiến mọi nỗ lực thay đổi nước Nga bị kéo lại, bị kéo xuống.

15.5. Sự giải thể của Liên bang Sô viết

Bây giờ thì thày muốn tới giai đoạn Liên bang Sô viết giải thể. Đây lại là một diễn biến chấn động khác. May thay, lần này không có bạo động và đổ máu quy mô. Đối với nhiều người, đây là một diễn biến khiến họ bị sốc hơn là cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc vì quả thật có người nghĩ rằng Liên bang Sô viết sẽ tồn tại mãi mãi, ít ra là trong suốt cuộc đời họ. Do đó, họ nghĩ không có gì có thể giúp họ cải thiện điều kiện sống của họ và tìm cách cải thiện là chuyện vô ích – nên họ chỉ muốn sống một cuộc đời thoải mái trong khuôn khổ chế độ.

Bây giờ, lẽ dĩ nhiên là một số đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước đã nói Gorbachev là một sa nhân. Tuy nhiên, có một khoảng thời gian trong đó ông cùng hướng với tâm Ki-tô vì ông nhận ra nhu cầu thay đổi và tìm cách đem lại thay đổi. Thày không nói là ông đại diện Ki-tô, nhưng ông cùng hướng với tâm Ki-tô. Boris Yeltsin cũng cùng hướng với tâm Ki-tô khi ông giải thể Liên bang Sô viết. Một lần nữa, thày không nói là ông đạt được một tầng tâm thức Ki-tô nào đó hay đại diện Ki-tô. Thày chỉ nói là ông cùng hướng với tâm Ki-tô khi ông thấy nhu cầu thay đổi sẽ ép dân Nga ra khỏi trạng thái cô-ma.

Đúng thực là Yeltsin nhận ra một điều mà Gorbachev không bao giờ nhận ra, đó là dân Nga đang ở trong trạng thái cô-ma và chủ thuyết cộng sản đã quả thực có tác dụng đưa con người vào trạng thái cô-ma, khi ông nhận ra rằng người dân Nga không đang làm những điều mà người dân trung bình ở đa số các nước Tây phương đang làm. Họ đang tìm cách cải thiện đời sống vật chất của họ bằng cách làm việc nhiều hơn, cải thiện điều kiện sinh sống, nhà cửa, nhà chung cư, mua xe lớn hơn và điều này điều nọ. Ý tưởng này chắc chắn cùng hướng với tâm Ki-tô vì những người đó thấy nhu cầu thay đổi.

15.6. Nhóm tài phiệt

Bây giờ thì con hãy xem xét tình hình trong những năm ngay sau Liên bang Sô viết giải thể. Lúc đó một phần lớn dân chúng, đại đa số dân chúng, vẫn còn trong trạng thái cô-ma, và đã ở trong trạng thái cô-ma trong suốt thời kỳ Sô viết. Họ đã ở trong trạng thái này suốt đời họ. Lúc đó họ ở trong trạng thái bị sốc mạnh. Họ bị ép buộc phải suy nghĩ lại một số chuyện, nhưng họ ở trong trạng thái bị sốc mạnh đến độ họ vẫn chưa chuyển động và không biết phải hành xử ra sao trước tình thế mới. Con thấy gì lúc đó? Con thấy là có một số người nhận ra cơ hội tốt và họ bước ra thành lập một số thương vụ. Họ bắt đầu tiếp thu kỹ nghệ dầu khí, tạo ra những cơ sở thương mại càng ngày càng lớn, và trở nên nhóm được gọi là “nhóm tài phiệt”.

Con có thể xem xét tình hình và thấy là những người đó đã thu thập được tài sản đồ sộ, họ đã không đếm xỉa đến tình trạng khó khăn của người dân, họ tránh đóng thuế, họ dùng hối lộ khi họ muốn, và đặt mình vào thế thượng tôn như tiểu Nga hoàng không bao giờ bị trừng phạt. Nếu con trở lại những năm ban đầu đó, thì con thấy đa số người Nga không sẵn sàng có tinh thần sáng kiến chủ động có thể giúp nền kinh tế tiến lên. Những người trong guồng máy chính quyền cũng không làm được chuyện này vì (như sự việc nền kinh tế Liên bang Sô viết bị suy thoái đã chứng minh) nhà nước và những người trong guồng máy nhà nước không có khả năng cải tổ nền kinh tế và đẩy nó đi lên. Họ có đầy đủ quyền lực để làm chuyện này nhưng họ đã không làm được. Gorbachev nhận ra điều này, tìm cách thay đổi, mong có thể tạo nền móng ổn định cho nền kinh tế Liên bang Sô viết và tránh giải thể Liên bang Sô viết, nhưng điều này không thể làm được. Tuy nhiên, đây là một sự di động về một hướng nào đó, đó là một cố gắng khiến bánh xe chuyển động, nhưng ông không thành công, không khắc phục được sự chống đối trong guồng máy nhà nước, và không làm cho họ có sáng kiến chủ động được.

Tình hình lúc đó như thế nào? Người dân không có tinh thần sáng kiến chủ động. Nhà nước không có tinh thần sáng kiến chủ động. Cần có ai đó có tinh thần sáng kiến chủ động để làm nền kinh tế chuyển động, và một số người đã có khả năng làm việc này. Ngay cả nhóm tài phiệt cũng đã, trong một khoảng thời gian, cùng hướng với tâm Ki-tô vì họ đã mang lại thay đổi. Khi một dân tộc ở trong trạng thái cô-ma như vậy thì gần như bất cứ thay đổi nào cũng hơn là không thay đổi. Con lúc nào cũng có thể trở ngược lại và phân tích tình hình và nói: “Cách mạng Bôn-sê-víc có phải là một thay đổi tốt hay chăng?” Ấy, nó đúng là một thay đổi tốt trong một khoảng thời gian ngắn vì nó đem lại một sự hồi phục và ép mọi người phải suy nghĩ trở lại. Lẽ dĩ nhiên, sau đó nó đi vào vòng xoáy đi xuống và không còn là một thay đổi tốt nữa. Đây cũng là chuyện đã xảy ra với nhóm tài phiệt.

Có một khoảng thời gian trong đó họ đã giúp nền kinh tế tiến tới. Sau đó, họ sang giai đoạn cảm thấy họ kiểm soát được nền kinh tế. Đây là điều luôn luôn xảy ra với sa nhân hay những người bị mắc bẫy sa nhân: họ tìm cách củng cố tầm kiểm soát của họ. Thay vì chia sẻ tài sản với dân chúng, thì họ tìm cách củng cố sự kiềm tỏa nền kinh tế của họ. Lúc đó thì họ không còn cùng hướng với tâm Ki-tô nữa, và họ không còn phụng sự sự tăng trưởng của đất nước.

Điều may mắn là trong khoảng thời gian đó, có nhiều người trong dân chúng đã tiến lên tới điểm họ sẵn sàng và có khả năng lấy sáng kiến chủ động. Con thấy được sự chuyển động trong nền kinh tế nước Nga với một số thương vụ mới mọc lên, một số thương vụ tầm cỡ nhỏ mọc lên, vân vân. Nhưng sự chuyển động này vẫn chậm hơn tiềm năng, vì hai yếu tố. Một là sự ù lì của nhiều thành phần dân chúng, và hai là ảnh hưởng của nhóm tài phiệt. Nhóm này, sau thời gian đầu tạo tăng trưởng, đã quay về khuynh hướng muốn kiểm soát nền kinh tế và lúc đó đã thực sự ngăn trở sự tăng trưởng kinh tế.

15.7. Nhóm tư bản sơ khai

Con yêu dấu, con thấy là cùng chuyện đã xảy ra tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 19 khi cuộc cách mạng kỹ nghệ, những cải thiện kỹ thuật và phát minh mới, đã đem lại cơ hội mới để nâng nền kinh tế lên một mức cao hơn. Đa số những người lớn lên trong nông trại không có khả năng có sáng kiến chủ động. Nhà nước cũng không làm được vì trong thể chế chính trị Hoa Kỳ nhà nước không có quyền hạn đó. Một nhóm nào đó cần có sáng kiến chủ động, và nhóm này về sau được gọi là nhóm tư bản sơ khai.

Các con đều biết tên họ. Có lẽ các con cũng đều biết họ là sa nhân. Trong một khoảng thời gian, họ cùng hướng với tâm Ki-tô nhưng không đại diện tâm Ki-tô. Họ đem lại thay đổi bằng cách duy nhất có thể xảy ra lúc đó. Lẽ dĩ nhiên, sau đó tới giai đoạn nhóm tư bản này (giống y như nhóm tài phiệt ở Nga) muốn kiểm soát nền kinh tế. Họ muốn tạo ra thế độc quyền, mà từ lúc đó cho đến ngày nay, họ đã là một lực ngăn trở và kiềm giữ sự tăng triển kinh tế. Nhưng Hoa Kỳ cũng mau chóng tới điểm có nhiều người dân sẵn sàng có sáng kiến chủ động và đứng ra thành lập thương vụ của họ, và đây chính là yếu tố duy nhất giúp nền kinh tế không sụp đổ. Đây là điều đã duy trì sự tăng trưởng kinh tế mà các con đã thấy.

15.8. Nguyên lý Ki-tô là thay đổi

Điều thày muốn chỉ cho các con thấy ở đây là nguyên lý tâm thức Ki-tô không phải như đa số thường nghĩ, kể cả các đệ tử chân sư thăng thiên. Tâm thức Ki-tô là cái đem lại thay đổi ở một tầng nào đó. Đó là tâm thức Ki-tô. Nó đem lại thay đổi vì thay đổi cho con người cơ hội chọn lựa: họ muốn đi theo vòng xoáy đi lên, hay họ muốn lui về trạng thái cô-ma, và do đó phải củng cố nó và đi vào vòng xoáy đi xuống? Tâm thức Ki-tô phơi bày chọn lựa đó. Khi một nhóm người ở trong tình trạng bế tắc, thì tâm thức Ki-tô không thể làm điều này với những người đại diện tâm Ki-tô vì những người này không thể vi phạm quyền tự quyết. Do đó tâm thức Ki-tô chỉ có thể làm xuyên qua những người trong tâm phản-Ki-tô vì họ sẵn sàng vi phạm quyền tự quyết.

Con có thể nói: “Ấy, sao có thể nói là tâm Ki-tô đem lại thay đổi đó?” Như thày có nói, thực sự không phải là tâm Ki-tô làm điều này, nhưng tâm Ki-tô đứng lui ra và cho phép cơ chế mà các thày gọi là Quy luật Nhân quả hay Quy luật thứ Nhì của Nhiệt động học làm công việc của nó. Đây là cơ chế an toàn được thiết kế trong vũ trụ vật chất, chính là để con người không thể rơi vào tình trạng thoải mái và ở đó mãi mãi và không tăng triển. 

15.9. Đệ tử chân sư thăng thiên và quả vị Ki-tô

Bây giờ các con cần nhận ra một cơ chế áp dụng vào trường hợp các đệ tử chân sư thăng thiên. Từ lúc các thày bắt đầu giảng về chân sư thăng thiên, và đặc biệt về con đường quả vị Ki-tô, thì các thày đã giảng bài cho các đệ tử có một trình độ tâm thức cao hơn con người trung bình. Đệ tử của các thày không ở trong tình trạng cô-ma, họ không ở trong tình trạng ù lì khiến họ không muốn tăng trưởng. Nhưng điều này không có nghĩa, con yêu dấu, là con cần có một tâm thức cao để có thể nhận ra một giáo lý chân sư thăng thiên vỏ ngoài. Con cần có một trình độ tâm thức cao hơn trung bình, nhưng điều này không có nghĩa là con đã tới gần quả vị Ki-tô toàn vẹn. Các đệ tử sẽ nhìn khái niệm quả vị Ki-tô qua phin lọc của tầng tâm thức hiện tại của họ, và họ sẽ hiểu những gì họ có thể hiểu. Sau đó, họ sẽ tạo ra hình ảnh và phóng chiếu hình ảnh này lên nó.

Một trong những hình ảnh mà rất rất nhiều đệ tử đã tạo ra trong nhiều thập niên là quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo. Lẽ dĩ nhiên, điều này xảy ra một phần vì giáo hội Công giáo đã, như thày đã giảng nhiều lần, nâng thày lên địa vị người con duy nhất của Thượng đế, đã toàn hảo ngay từ lúc ban đầu, và do đó được đặt trên bệ cao ngoài tầm với của con người. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã tiếp thu khái niệm này, rõ ràng do sa nhân tạo ra, và phóng chiếu nó lên quả vị Ki-tô. Họ nghĩ rằng quả vị Ki-tô có tính chất có-không. Hoặc con không có quả vị Ki-tô, hoặc con có nó – và nếu con có nó thì con là người toàn hảo.

Ý kiến này thực sự không xây dựng vì hình ảnh của sự toàn hảo thông thường nhất trên trái đất là một cái gì không cần thay đổi. Tại sao một cái gì đã toàn hảo lại cần thay đổi? Điều này có nghĩa sự toàn hảo là một trạng thái bất động, và đó là lý do thày nói với các con: quan niệm toàn hảo này hoàn toàn không dính dáng gì đến quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô là sự tự thăng vượt liên tục, sự tự thăng vượt luôn luôn di động. Nó không bao giờ đứng yên. Tâm Ki-tô không bao giờ đứng yên và đó là lý do vì sao nó không tương hợp với khái niệm toàn hảo hiện tại. Bây giờ thì con có thể có một khái niệm khác của sự toàn hảo là khái niệm toàn hảo năng động, nghĩa là con luôn luôn sẵn sàng xem xét chính mình và thăng vượt trạng thái tâm thức của mình. Đó là cách con có thể, như tông đồ Paul có nói, “trở nên toàn hảo trong Ki-tô.” Điều quan trọng ở đây là quả vị Ki-tô không bao giờ, và sẽ không bao giờ đứng yên. Không có trạng thái quả vị Ki-tô tối hậu.

15.10. Đệ tử tâm linh không cùng hướng với Ki-tô

Tại sao hiểu chuyện này lại rất quan trọng? Ấy, đó là vì thày vừa khiến con nhận ra một sự kiện chấn động – ít ra là cho một số các con – là những người mà con cho là sa nhân có thể trong một số trường hợp cùng hướng với tâm Ki-tô. Bây giờ thì chúng ta cần đi sang đầu kia của quang phổ và xem xét sự kiện nhiều người đã đạt được một trình độ nhận biết tâm linh, và ngay cả đạt được một tầng nào đó của quả vị Ki-tô, nhưng trong một số trường hợp, lại có thể hoàn toàn không cùng hướng với tâm Ki-tô.

Nếu con sẵn sàng nhìn một cách trung thực thì con thấy là nhiều tổ chức tâm linh đã kết đọng (precipitated) nhiều sự tàn bạo đáng kể. Một lần nữa, chúng ta có thể trở lại trường hợp giáo hội Công giáo vì nó là một thí dụ hàng đầu. Sự việc quá hiển nhiên nên ta khó không đề cập tới nó. Phong trào Cơ đốc giáo đã có thời nào cùng hướng với tâm Ki-tô chăng? Có. Giáo hội Công giáo có thời nào đã cùng hướng với tâm Ki-tô chăng? Ấy, đây là một câu hỏi vi tế hơn. Điều ta có thể nói là giáo hội Công giáo đã từng kết đọng sự tàn sát người Cathars, tòa án dị giáo (inquisition), các cuộc thánh chiến, vân vân. Rõ ràng là những hành động này không cùng hướng với tâm Ki-tô. Vì sao một phòng trào do chính thày khởi xướng và lúc ban đầu cùng hướng với tâm Ki-tô, lại có thể tha hóa đến độ kết đọng những sự tàn bạo đó, hiển nhiên là biểu hiện của tâm phản-Ki-tô? 

Lấy thí dụ khác, làm sao có thể xảy ra chuyện có những đạo sư bỗng nhiên trở nên nổi tiếng, thu hút nhiều người theo, rồi bỗng nhiên phong trào của họ bắt đầu suy thoái, và nhiều hình thức bạo hành bị phơi bày? Nguyên một phong trào, chỉ vài năm trước đang lành mạnh và cường thịnh, có thể suy thoái và ngay cả hoàn toàn tan biến. Tại sao một tổ chức chân sư thăng thiên (sau khi đã được các chân sư thăng thiên bảo trợ, đã có đệ tử hăng say đi trên con đường quả vị Ki-tô) lại có thể tới điểm mà các chân sư thăng thiên phải ngưng bảo trợ, đứng lui ra và nhìn nó đi vào suy thoái? Nó trở nên càng ngày càng bảo thủ, càng ngày càng cứng ngắc, càng ngày càng chú trọng con đường vỏ ngoài, càng ngày càng chú trọng nghi lễ, quy tắc, luật lệ. Tình trạng tới chỗ đa số thành viên của tổ chức không còn tăng trưởng tánh Ki-tô của họ. Họ thoải mái, nhưng không tăng trưởng. Họ có thể tự coi mình thánh thiện hơn người khác và cảm thấy hơn những người không phải là đệ tử chân sư thăng thiên, nhưng họ không còn tăng trưởng tánh Ki-tô. Họ đã đình trệ, họ đã đứng yên.

Làm sao một người đã phần nào cùng hướng với tâm Ki-tô và, tỷ dụ, nhận ra nhu cầu thay đổi, lại một thời gian sau đó sẵn sàng dùng bạo lực để đem lại sự thay đổi đó? Con đã thấy trong lịch sử có nhiều nhà lãnh đạo đã thấy nhu cầu thay đổi, đã làm việc để đem lại thay đổi, nhưng sau đó lại xoay chuyển. Như thể là lúc đó họ sẵn sàng dùng vũ lực và uy quyền để củng cố địa vị khiến mọi chuyện bị hư hỏng và rơi vào một chu kỳ bạo lực ngày càng đi xuống.

Câu hỏi thực sự ở đây là: “Có thể nào một người đã đạt được một phần quả vị Ki-tô nhưng vẫn chọn lựa đi ngược lại, bắt đầu rơi vào vòng xoáy hướng hạ dẫn họ xuống thấp hơn rất nhiều tầng tâm thức mà họ đã đạt được? Câu trả lời là: “Có.” Cho tới lúc con thăng thiên, con vẫn có thể bắt đầu đi ngược lại.

15.11. Sinh thể Ki-tô bị phản-Ki-tô lừa

Thày có đề cập tới giai đoạn con tới tầng 96 và phải đối mặt một quyết định rất quan trọng, đó là con có thực sự tới điểm nhận ra: “Tôi không phải là trụ điểm.” Hoặc con bắt đầu phụng sự tổng thể với tinh thần vị tha; hoặc con chú tâm hơn vào chính mình, cố gắng tăng trưởng thêm bất cứ ước muốn nào mà con có, có thể là muốn cảm thấy mình đang làm việc gì quan trọng, hay cảm thấy mình lịch duyệt hơn người khác, hay bất cứ ước muốn gì khác. Chắc chắn là khi con đã lấy quyết định và hiểu rằng quả vị Ki-tô là khắc phục cái ngã vỏ ngoài, thì con khó đi giật lùi. Như thày có nói trong nhiều bài giảng (ở cả Hàn Quốc lẫn Hòa Lan), là từ tầng 48 đến tầng 96, con có thể đã đạt được một phần quả vị Ki-tô nhưng bỗng nhiên, vì một lý do cá nhân nào đó, con không muốn tăng triển nữa, con không muốn đi xa hơn nữa. Có một điểm cố định trong tâm thức mà con không chịu nhìn vào và tra vấn, và do đó con đình trệ. Con cũng có thể đi giật lùi.

Điều này cũng giải thích hiện tượng các lãnh tụ được xem là có sức lôi cuốn mà con thấy trong lịch sử. Nhiều người nhìn vào các nhà lãnh tụ đó và nghĩ: “Người này có cái gì đó. Người này có đôi chút Ánh sáng! Tôi nghĩ hào quang người này có cái gì chân chính.” Họ bị thu hút vì họ nhận ra người đó có cái gì chân chính. Sau đó, ta có thể thấy rõ là có một điểm người lãnh tụ đó bắt đầu đi xuống và dẫn thần dân xuống vực thẳm. Một số người đã hỏi, và nhiều người hơn phải hỏi: “Làm sao chuyện này có thể xảy ra?”

Ấy, con yêu dấu, chuyện này có thể xảy ra vì quả vị Ki-tô là sự liên tục, nhưng con có thể tới một tầng nào đó của quả vị Ki-tô và dùng những gì con đạt được để đem lại một hoàn cảnh bên ngoài dựa trên một viễn quan mà con có, tỷ dụ là nâng mình lên thành lãnh tụ một quốc gia hay một phong trào tâm linh. Lúc đó, vì con đã thiết lập mình vào địa vị đó nên con không còn sẵn sàng tăng triển nữa, con không sẵn sàng tiến bước. Có một điểm cố định trong tâm thức mà con không chịu nhìn vào. Lúc đó, điều đương nhiên xảy ra là trái đất được liên tục kéo lên bởi sự gia tốc của toàn thể vũ trụ và tâm thức tập thể được nâng lên.

Khi con đứng yên thì con phải đối mặt lực đang kéo con phải thay đổi đó, và nếu con không chịu thay đổi thì con phải chống kháng lực thay đổi đó. Điều này có nghĩa là thay vì đạt và biểu lộ một tầng quả vị Ki-tô, thì con lúc đó trở nên một hệ thống khép kín.

Lúc đó, con mất quả vị Ki-tô vì quả vị Ki-tô là sự kết nối với tổng thể, và tổng thể luôn luôn gia tốc. Khi con từ chối gia tốc, thì con phải bắt buộc mất sự kết nối với tâm Ki-tô. Con lúc đó đi vào vòng xoáy muốn bảo tồn quyền lực, bằng cách càng ngày càng cực đoan và cuồng loạn. Tình trạng này nhất thiết dẫn tới suy thoái. Sẽ có người cảm thấy được điều này và họ sẽ ra đi. Sẽ có người khác chống đối và một số chuyện có thể xảy ra. Con thấy hiện tượng này xảy ra nhiều lần nơi các phong trào tâm linh. Con cũng thấy hiện tượng này trong thế kỷ vừa qua nơi một số phong trào, kể cả một số phong trào chân sư thăng thiên. Con thấy một giai đoạn tăng triển ban đầu, sau đó mức độ tăng triển chậm lại một cách vi tế, và không lâu sau đó thì sự ù lì xảy ra. Ấy, ù lì là một từ khác để chỉ cái chết.

15.12. Xem xét các tổ chức chân sư thăng thiên

Đây là một bài giảng quan trọng cho những ai đang đi trên con đường tâm linh. Bài này đặc biệt quan trọng cho những ai đã và đang tham gia một tổ chức chân sư thăng thiên. Con có thể dùng bài giảng này để nhìn vào các tổ chức đó và suy ngẫm chuyện gì đã xảy ra, suy ngẫm kinh nghiệm riêng của mình và đạt được một tầm nhìn cao hơn. Con có thể dùng bài giảng này để giúp con tăng triển bằng cách quay lại, nhìn vào chính mình và nói: “Tôi có điểm cố định nào trong tâm thức của mình? Tôi đã có dùng giáo lý chân sư thăng thiên để củng cố các điểm cố định đó chăng?”

Như thày có giảng tại Hòa Lan, con tự hỏi: “Tôi có đang dùng giáo lý chân sư thăng thiên để củng cố quan niệm của tôi về các chân sư thăng thiên, lối hành xử tâm linh của tôi, và tôi đã bị mắc kẹt trong đó?” Sau đó, con có thể nhìn gương các tổ chức đó, các nhà lãnh đạo đó, và con nói: “Tôi bây giờ đã thấy chuyện gì xảy ra, và tôi không muốn rơi vào cạm bẫy đó. Tôi muốn tiếp tục tăng triển, và điều này đòi hỏi gì? Ấy, nó đòi hỏi tôi phải luôn luôn sẵn sàng  nhìn vào chính mình, nhìn vào các điểm cố định đó, nhìn vào những nơi tôi bị mắc kẹt, và tôi phải ngưng phóng chiếu là lỗi tại người khác. Tôi nhận lãnh trách nhiệm, và tôi nhận ra là tăng triển tâm linh của tôi, quả vị Ki-tô của tôi, là trách nhiệm của riêng tôi.”

“Tôi có thể có một vị đạo sư, tôi có thể có một vị thày nhưng vị thày không thể thay tôi chuyển đổi tâm thức của tôi – chỉ có tôi mới làm được chuyện này, do đó tôi không bị giới hạn bởi bất cứ vị đạo sư nào, bất cứ vị thày nào, bất cứ giáo lý nào, bất cứ tổ chức vỏ ngoài nào. Nếu tôi cảm thấy tôi đang không tăng triển, thì thay vì phóng chiếu là người khác chịu trách nhiệm về sự không tăng triển này, thì tôi có thể xoay chuyển, nhận trách nhiệm và nói: “Nhưng tôi không bị giới hạn bởi bất cứ ai hay bất cứ điều gì trên trái đất cả! Không có điều gì bên ngoài tôi có thể ngăn tôi xoay chuyển tâm thức của mình, chỉ cần tôi sẵn sàng nhìn vào chính mình.”

15.13. Quả vị Ki-tô và ảo tưởng toàn hảo

Điều này có nghĩa là con có thể bắt đầu chuyển đổi quan niệm về quả vị Ki-tô và không cố gắng đạt được trạng thái toàn hảo nào đó. Con yêu dấu, con hãy nghe thày tuyên bố một cách rất rất rõ ràng. Có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã trở nên rất chân thành, rất nghiêm túc trong việc tu tập, đọc bài chú, đọc bài thỉnh, đi những bước khác, rất chú tâm, rất nghiêm túc. Có một giai đoạn làm như vậy hoàn toàn cùng hướng với tâm Ki-tô vì con cần giải thoát mình khỏi tâm thức tập thể và sức hút của nó. Nhưng sẽ có lúc con tới giai đoạn khác khi sự chú tâm vào những công việc vỏ ngoài đó có thể ngăn trở con đi vào nội tâm, nhìn vào tâm lý của mình và nói: “Điều gì trong tôi cần thay đổi?”

Con có thể, tỷ dụ, quá chú tâm vào việc thay đổi thế giới, đến độ con không nhìn vào chính mình. Con hãy cẩn trọng và nhận ra là có nhiều đệ tử có viễn quan là có một trạng thái tâm thức cao hơn và họ chân thành cố gắng đạt được trạng thái đó, nhưng họ vẫn chưa buông bỏ ý niệm quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo.

15.14. Tinh thần sùng bái và cấp bậc trong các tổ chức tâm linh

Nhiều người trong số các người đó – như đã xảy ra trong nhiều tổ chức chân sư thăng thiên – đã tôn sùng người sứ giả, vì họ nghĩ là để trở thành sứ giả thì người đó phải đạt được một phần quả vị Ki-tô và do đó đã “hầu như toàn hảo trên mọi phương diện”. Ấy, con yêu dấu, chỉ có Mary Poppins mới hầu như toàn hảo trên mọi phương diện. Không có một người nào đã từng như vậy và sẽ không có ai như vậy. Con cần nhận ra vấn đề thực khi con tôn sùng vị sứ giả hay vị đạo sư, và ngay cả tôn sùng Giê-su, thì sự sùng bái đó duy trì hình ảnh quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo.

Các thày đã thấy rất rất nhiều đệ tử thành tâm cố gắng đạt quả vị Ki-tô, nhưng tự ngã của họ đã đánh lừa họ và khiến họ nghĩ là một khi họ đã đạt được một tầng nào đó của quả vị Ki-tô thì họ không còn cần nhìn vào chính họ và tâm lý của họ. Họ không cần thay đổi nữa, họ không cần nghe bất cứ ai thấp hơn họ. Họ nghĩ rằng khi họ đạt được một phần nào đó của quả vị Ki-tô thì họ được một cấp bậc, họ nghĩ rằng những ai đạt được một phần của quả vị Ki-tô bỗng nhiên hơn những người dưới họ và do đó không cần nghe những người này. Họ không cần chú ý tới những người này khi những người này cho họ biết những điều họ cần nhìn nơi chính họ.

Đây là lý do vì sao sự tăng triển của con ngưng lại, và bỗng nhiên sự ù lì đóng rễ vì lúc đó con đã tới một địa vị nào đó trong tổ chức tâm linh, hay ngay cả trạng thái trong tâm mình, khi con cảm thấy thoải mái và không nghĩ mình cần tăng triển nữa. Nhiều người đệ tử đó nhận ra là họ chưa đạt được trạng thái tối hậu của quả vị Ki-tô vì chỉ có vị sứ giả là đã đạt được trạng thái này. Họ đã tạo ra một niềm tin vi tế cho rằng: “Ồ, người sứ giả thuộc vào một thành phần khác, giống như Giê-su vậy.” Họ nghĩ họ sẽ không bao giờ đạt được mức đó, nhưng họ cũng đã đạt được một tầng nào đó và do đó họ chắc chắn cao hơn những đệ tử khác trong tổ chức.

Khi con có một cấp bậc nhân gian như vậy, thì một tổ chức có thể bị đứng dừng lại. Chỉ yếu tố này thôi cũng có thể khiến một tổ chức tâm linh đứng dừng lại, nếu nó không được nhận ra và giải quyết. Nó có thể khiến những người bên dưới cảm thấy không có chỗ để họ biểu lộ quả vị Ki-tô của họ. Họ có hai chọn lựa: hoặc họ ngưng tăng triển về hướng quả vị Ki-tô để không quấy rầy những người ở trên và gây khó khăn cho họ, hoặc họ rời tổ chức và biểu lộ quả vị Ki-tô của họ nơi khác. Nếu những người sẵn sàng biểu lộ quả vị Ki-tô rời tổ chức, thì tổ chức không thể tiếp tục tăng trưởng. Điều này rất đơn giản, và đã xảy ra với nhiều tổ chức được chân sư thăng thiên bảo trợ. Thày không cần nêu danh những tổ chức này vì những người trong các con đã từng tham gia một tổ chức chân sư thăng thiên có thể rõ ràng nhận ra mô thức nếu con muốn.

15.15. Định nghĩa quả vị Ki-tô bằng phản-Ki-tô

Vấn đề thực ở đây là ý niệm quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo đã đến từ tâm phản-Ki-tô. Ở mức độ cá nhân thì nó tới từ tự ngã của con, và lý do là vì các lực phản-Ki-tô luôn luôn tìm cách ngăn cản không cho con thăng thiên. Họ biết là họ có tiềm năng ngưng con lại mỗi tầng trước tầng 144. Họ luôn luôn tìm cách dẫn con tới điểm con nghĩ con không cần tăng triển nữa, con không cần thăng vượt nữa, con không cần tiến lên tiếp. Do đó, có điểm cố định đó trong tâm thức con, ảo tưởng cuối cùng, như Hilarion có nói, mà con không chịu nhìn vào. Nếu con không chịu nhìn vào nó, thì con không thể buông bỏ nó, và do đó con vĩnh viễn bị mắc kẹt trong ảo tưởng đó.

Con yếu dấu, con không được danh dự gì khi con đạt tầng tâm thức 143 và ngừng ở đó. Tình trạng này rất rất bi thương. Các thày chưa bao giờ thấy chuyện này, nhưng nếu nó xảy ra, thì tình trạng này rất bi thương. Thật ra nó cũng gần bi thương như tới tầng tâm thức 77 và ngừng ở đó. Điều các thày luôn luôn muốn là các con thăng thiên, mà con không thể thăng thiên từ tầng 77 hay tầng 143! Con chỉ có thể thăng thiên từ tầng 144, và ngay lúc đó con vẫn cần thăng vượt ảo tưởng cuối cùng đó.

Con yêu dấu, bài giảng này đã dài. Bài giảng này có thể đã khiến con bị sốc. Thày đã nói điều thày cần nói, và thày cảm ơn các con đã sẵn sàng là cánh cửa mở để tỏa sáng bài giảng này tới tâm thức tập thể. Con có thể nghĩ là thày đã không nói nhiều đến nước Nga, nhưng thày bảo đảm là thày đã tỏa sáng năng lượng và xung lực vào tâm thức tập thể của nước Nga, đủ để xoay chuyển nước Nga vào một vòng xoáy hướng thượng – nếu có đủ người sẵn sàng đứng cùng hướng với những xung lực đến từ tâm Ki-tô. Do đó, thày đã đóng góp vào vòng xoáy hướng thượng và việc thể hiện thời đại hoàng kim trong đất nước tươi đẹp và yêu dấu này.

Lối hành xử tâm linh của con

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 4 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiêng Giê-su Ki-tô, và thày muốn bắt đầu bằng một lời thú nhận. Các thày, những chân sư thăng thiên có phần nào giống như những người bán xe cũ dùng một kỹ thuật bán hàng gọi là “dụ và chuyển”. Cách họ làm là trưng một tấm bảng lớn trong bãi đậu xe quảng cáo một kiểu xe đang bán rất rẻ, và sau đó, khi khách hàng tới hỏi thì họ nói: “Thật không may là chúng tôi đã bán chiếc xe cuối rồi, nhưng chúng tôi có một xe kiểu khác mà chúng tôi có thể bán cho quý vị với giá tốt.” Các thày có đôi phần phải làm như vậy, và thày muốn giải thích vì sao lại như vậy.

11.1. Vì sao ngày nay quá ít tín đồ Ki-tô giáo nghe lời Giê-su giảng

Bây giờ thì con có thể đặt một câu hỏi giản dị. Ở đây có một nhóm người không những tin thày là Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô đang nói qua trung gian một người sứ giả, nhưng các con còn trải nghiệm trong tim mình bằng chứng sống của sự việc đó. Vì sao lại không có hàng ngàn hay hàng triệu người tự coi là tín đồ Cơ đốc giáo chịu nghe Giáo lý Hằng sống của thày? Lý do là vì họ đã tạo nên nhiều hình ảnh, chờ đợi, điều kiện trong tâm khiến họ phải vượt lên trên các điều này để có thể chấp nhận là: 1) thày vẫn đang hiện hữu trên một cõi cao; 2) thày sẵn sàng nói chuyện với nhân loại; và 3) thày đang nói chuyện với nhân loại. Tuy nhiên, họ không chịu buông bỏ các điều kiện đó, và điều này có nghĩa là chúng tạo nên một phin lọc. Nếu thày muốn nói chuyện với họ, thì thày phải tuân theo các điều kiện này thì họ mới chấp nhận điều thày nói, và ngay cả là thày đang nói điều gì đó.

Lẽ tự nhiên, thày hoàn toàn không thể tuân theo các điều kiện của người Công giáo, Cơ đốc giáo cực truyền thống hay Lutheran mà vẫn nói được điều gì mới. Họ quá chú tâm vào quá khứ, vào điều mà họ tin là đã được nói trong quá khứ, vào những gì giáo hội của họ đã diễn giải suốt nhiều thế kỷ. Có quá nhiều lớp vỏ diễn giải, hay phải nói là bóp méo, những lời giảng và giáo lý nguyên thủy của thày nên đa số tín đồ Cơ đốc giáo đã bị mắc kẹt trong đó, và họ cho rằng nếu thày không làm theo những điều kiện mà giáo hội của họ đã quy định, thì thày không thể là Giê-su thật. Nếu thày phải tuân theo tất cả các điều kiện này, thì thày sẽ nói gì? Không một lời nào cả, con yêu dấu, vì họ không muốn và không cần thày nói bất cứ điều gì. Họ thỏa mãn với những diễn giải mà họ có. Con thấy chăng, đây là tình trạng khó xử căn bản mà các thày đối mặt trên trái đất.

Làm sao các thày, là chân sư thăng thiên, có thể giúp những người chưa thăng thiên? Nếu trình độ tâm thức hiện nay của con đủ để con vào thiên đàng, vào cõi tâm linh, thì các thày không cần làm gì cả. Nếu trình độ tâm thức hiện nay của con đã đủ để con vào thiêng đàng, thì tại sao con lại chưa ở trong thiêng đàng?

Sự kiện đơn giản là trình độ tâm thức hiện nay của con chưa đủ. Nếu các thày có thể giúp con thì các thày phải cho con một điều gì vượt quá hộp tư duy hiện tại của con, phin lọc hiện tại của con. Nếu con dùng phin lọc hiện tại của mình để bác bỏ bất cứ điều gì vượt quá phin lọc, thì các thày bị kẹt cứng. Các thày phải tuân thủ Luật Tự quyết. Các thày không thể ép buộc con.

Điều này thật sự có nghĩa là khi các thày tìm cách giúp nhân loại – và lẽ dĩ nhiên các thày tìm cách giúp tất cả mọi người bằng cách này hay cách khác – thì các thày cần nhìn vào một nhóm người và xem xét trình độ tâm thức của họ. Các thày cần xem xét hình ảnh mà họ có về thế gian, quan điểm của họ về thế gian. Các thày cần xem xét những chờ mong của họ và các thày không tìm cách trao cho họ chân lý cao nhất hay tối hậu. Các thày chỉ giản dị xem bước kế tiếp của họ là gì. Bước kế tiếp trong tiến trình tiến hóa của họ là gì, và các thày có thể làm gì để giúp họ nhảy vọt lên tầng kế tiếp?

Rất có thể là có 143 tầng tâm thức trên tầng tâm thức hiện tại của họ. Điều này không giúp ích gì cho họ vì họ không thể nhảy vọt từ tầng thứ nhất lên tầng thứ 144 – họ phải nhảy từ tầng thứ nhất lên tầng thứ hai, hay là từ tầng 48 lên tầng 49. Các thày phải để ý chuyện này, và đây là lý do vì sao thày so sánh với chiến thuật dụ và chuyển.

Các con hiểu rằng để bất cứ ai có thể làm điều gì mới, điều gì khác, để bất cứ ai có thể chấp nhận một giáo lý nào đó – về phương diện tâm linh, thần bí hay bất cứ gì khác – thì họ cần một động lực thúc đẩy. Động lực đó tùy thuộc trình độ tâm thức hiên tại của họ, cách họ nhìn thế giới, những gì họ chờ mong lúc đó. Điều gì thúc đẩy con người? Họ muốn được điều gì mà họ đang không hiện có? Các thày có thể dùng điều này để cho họ một ý tưởng, một giáo lý, có thể giúp họ đi bước kế tiếp chăng? Đây là điều mà các thày phải làm với tất cả mọi người, con yêu dấu.

Như Đức Khrisna có nói hôm qua, có những người chỉ sẵn sàng sùng kính, đi theo con đường sùng kính, do đó thày Krishna không tìm cách dạy họ một giáo lý mà họ không thể hiểu. Thày chỉ giản dị phản ánh lại sự sùng kính mà họ hướng tới thày, và trên đường dài điều này sẽ giúp họ tiến lên tầng kế tiếp. Sau đó, trong một kiếp tương lai nào đó, họ sẽ có thể hiểu một giáo lý cao hơn, nhưng các thày không tìm cách cho mỗi người hơn những gì mà các thày lượng định họ có thể tiếp nhận.

11.2. Đối phó với nghi ngờ trên con đường quả vị Ki-tô

Lý do vì sao thày nói với các con những chuyện này là vì con là đệ tử chân sư thăng thiên, và chúng sẽ giúp con đi trên con đường của quả vị Ki-tô. Khi con đã đi trên con đường tu một thời gian, thì con đã tiến triển, con đã nâng tâm thức mình lên trên trình độ mà con có khi con tìm ra giáo lý và bắt dầu áp dụng nó. Con sẽ tới điểm con sẽ được lợi lạc nếu con bước lùi lại, nhìn vào chính mình, nhìn vào con đường tu của mình, và nói: “Điều gì đã thật sự thúc đẩy tôi đi vào và áp dụng giáo lý của các chân sư thăng thiên? Tôi đã mong muốn điều gì, tôi đã mong chờ điều gì, tôi chờ đợi điều gì khi tôi bắt đầu đi vào con đường tu?”

Nếu con làm chuyện này, thì tất cả các con sẽ khám phá là mình có một thúc đẩy nào đó, có một điều nào đó mà mình muốn đạt được khi đi vào con đường tâm linh. Khi con tìm ra giáo lý lần đầu, thì có lẽ động lực thúc đẩy con không phải là thăng thiên hay biểu hiện quả vị Ki-tô. Con có lẽ có một động lực nào khác – có thể là tìm hiểu biết, có thể là tìm chữa lành, có thể là tìm quyền năng đặc biệt, có thể là tìm sự sung túc, hay điều nào khác. Con người có đủ loại động lực khác nhau, và thày chắc chắn không chỉ trích, hạ thấp hay ngay cả lượng giá những động lực đó. Con phải bắt đầu ở điểm con ở lúc đó, và dùng động lực mà con có lúc đó để học và áp dụng giáo lý. Sau khi con đã làm như vậy một thời gian, thì con có thể bước lui lại, nhìn vào chính mình và nói: “Động lực nguyên thủy của tôi là gì, tôi chờ đợi chuyện gì sẽ xảy ra?” Sau đó, con có thể nói: “Dựa trên hiểu biết cao hơn mà tôi có ngày nay, hiểu biết cao hơn về con đường tâm linh, dựa trên sự kiện là tôi ngày nay đã lên một tầng tâm thức cao hơn (và lẽ dĩ nhiên con cần nhìn nhận là con đã lên một tầng tâm thức cao hơn), thì bây giờ tôi nghĩ gì về động lực đã thúc đẩy tôi? Nó có phải là động lực mà tôi có bây giờ, hay là tôi nay đã phát triển một động lực cao hơn vì bây giờ tôi thấy là con đường tu có nhiều sắc thái hơn những gì tôi có thể thấy khi tôi bắt đầu? Có một mục đích khác, một mục đích cao hơn mà tôi bây giờ có thể thấy, mà lúc đó tôi không thể thấy.”

Lý do vì sao chuyện này trở nên quan trọng là vì nếu con không xem xét động lực của mình thì đâu đó trong bốn thể phàm của con vẫn còn một phàm linh nội tại, một khuôn đúc, một động lượng mang động lực nguyên thủy, chờ mong nguyên thủy của con. Sau một thời gian, điều có thể xảy ra cho một số đệ tử là họ bắt đầu nhận ra là động lực nguyên thủy của họ không phải là động lực cao nhất. Chính thực là động lực đó không thực tiễn vì nó không dựa trên tính chất thực của con đường tâm linh. Trong một phần nào đó của bản thể người đệ tử, họ nhận ra là động lực và chờ mong nguyên thủy là một giấc mơ không thể nào thành tựu được. Vì họ chưa xem xét phàm linh đó (phàm linh đang giữ chặt sự chờ mong đó, chờ để nó được thực hiện) nên họ chưa giải quyết được nó và buông bỏ nó.

Sẽ có một phàm linh bắt đầu cảm thấy chán nản, thất vọng và bất toại nguyện vì nó bắt đầu nghi ngờ là chờ mong nguyên thủy có thể sẽ không bao giờ thành tựu. Nó có thể khởi lên đủ loại suy nghĩ và ngờ vực, và lẽ dĩ nhiên các tà lực có thể nhân đó phóng chiếu nghi ngờ vào tâm con: “Con đường tâm linh có dẫn tới thành công chăng? Điều này có thực sự đúng không? Con có thể thành công trên con đường tâm linh không, hay chỉ có người khác thành công thôi? Hay chỉ có một số rất nhỏ thành công thôi? Phải chăng là những người tu thành công rất đặc biệt và điều này không áp dụng cho tôi?” Tất cả những ý tưởng đó có thể khởi lên.

Tất cả các con có lẽ đều đã có một hình thức nào đó của những nghi ngờ này phóng chiếu vào tâm mình. Điều con có thể làm là xem xét động lực nguyên thủy, chờ mong nguyên thủy của mình. Sau đó, con có thể thấy: “Động lực đó, chờ mong đó có thiết thực hay chăng, dựa trên những điều mà bây giờ tôi thấy, bây giờ tôi hiểu, dựa trên những gì tôi đã trải nghiệm, dựa trên sự kiện tôi bây giờ đã thấy một mục đích mới, và do đó tôi thực sự đã có một chờ mong mới cao hơn?” Sau đó, con có thể nhìn vào phàm linh nguyên thủy và nhận ra là nó vẫn còn đó. Khi con xem xét động lực của riêng con, thì con có thể thấy là nó hoặc không thiết thực hoặc có lẽ ấu trĩ hay thiếu sót. Con có thể tới điểm giải quyết vấn đề khi con nhận ra: “Nhưng tôi không còn nhìn con đường tâm linh như vậy nữa. Tại sao tôi lại chờ đợi kết quả đó trên con đường tu khi tôi bây giờ biết rất nhiều hơn về con đường tu?” Sau đó, con có thể cho phép mình đi vào phàm linh và xua đuổi nó một cách có ý thức. Con có thể nói: “Bớ Satan, hãy đứng ra đằng sau ta.” hay giản dị hơn: “Tôi không còn cần bạn trong cuộc đời tôi nữa.” Lẽ dĩ nhiên con có thể đọc chú đọc thỉnh tới bất cứ vị chân sư nào để xin việc này, khi con nhận ra nó: Astrea, Đại thiên thần Michael, hay chính thày, hay bất cứ vị chân sư nào khác để tiêu trừ thực thể đằng sau nó. Con có thể kêu gọi các thày giúp con thấy phàm linh, thấy chờ mong mà con có lúc trước, và thấy các điều đó cho biết gì về cách con nhìn con đường tâm linh lúc đó.

11.3. Giảng dạy cho nhiều trình độ tâm thức khác nhau

Tại sao việc này lại quan trọng? Nó quan trọng cho chính con, vì lẽ đương nhiên, khi con có một phàm linh nội tại đang giữ chặt một động lực không còn ứng dụng cho con nữa, thì tâm con có sự chia rẽ và nó sẽ kéo con lại. Điều quan trọng khác là đa số các con, trước khi con đầu thai ở kiếp này, đã đạt tới một tầng của con đường tu nơi con không còn hoàn toàn lo giải quyết các vấn đề cá nhân của mình nữa, mà có khả năng và ý muốn đảm đương một số vấn đề của tập thể.

Nhiều người trong các con đã chọn đầu thai vào một môi trường để mang vào một chờ đợi về Thượng đế, tôn giáo, và tâm linh là một khuôn nếp trong tâm thức tập thể. Lẽ dĩ nhiên, có một phàm linh hay quái vật đằng sau khuôn nếp đó, nhưng con đã chọn mang nó vào để, khi con nâng mình lên khỏi nó và giải quyết tâm thức, niềm tin, chờ đợi, thì con sẽ giúp nâng tâm thức tập thể lên. Lẽ đương nhiên, chỉ khi nào con nâng được tâm thức của mình lên khỏi khuôn nếp, thì con mới nâng được tâm thức tập thể lên.

Con có thể tiến thêm một bước nữa và nhận ra vì sao thày đã ví các chân sư thăng thiên với những người bán xe cũ. Khi các thày trao truyền một giáo lý, thì các thày nhắm vào một nhóm người nào đó. Các thày xem xét tâm thức của họ đang ở tầng nào: “Họ sẵn sàng nhận giáo lý nào, họ chờ đợi những gì, động lực nào thúc đẩy họ?” Các thày biết là muốn thu hút những người đó vào giáo lý, thì các thày phải cho họ cái gì khế hợp với động lực mà họ có ngay lúc này ở tầng tâm thức hiện tại của họ. Các thày cũng biết đây không phải là hiểu biết tối hậu về con đường tâm linh và con đường dẫn tới thăng thiên.

Đó là lý do vì sao các thày biết là các thày cần dẫn đệ tử vào và dần dần trao cho họ giáo lý cao hơn để họ có thể thích nghi và gia tốc, xoay chuyển tâm thức và dần dần nâng động lực lên. Lúc đó, họ nhận ra rằng điều đã dẫn họ vào giáo lý là điều họ có thể tiếp nhận lúc đó, nhưng bây giờ thì họ đã sẵn sàng nhận một cái gì cao hơn nhiều nữa, vì bây giờ họ hiểu biết nhiều hơn nhiều về con đường tâm linh. Khi con giải tỏa chờ mong ban đầu, con không cảm thấy thất vọng, con không cảm thấy bị lừa gạt. Con thực sự nhận ra nhu cầu dùng một phương pháp như vậy trên một hành tinh như trái đất, và do đó con chỉ giản dị nói: “Các chân sư đang muốn trao truyền điều gì cho tôi lúc này? Tôi sẵn sàng đón nhận điều gì lúc này?”

11.4. Lối hành xử tâm lý của con

Con có thể tiến thêm bước nữa và nhận ra một điều khác. Trong hệ thống đối phó nạn phạm pháp tại nhiều quốc gia, tỷ dụ như tại Hoa Kỳ, cảnh sát tìm cách phân loại những kẻ phạm pháp dựa trên điều mà họ gọi là “lối hành xử” (modus operandi) của họ. Lý do là họ đã khám phá là phạm nhân là những con người hành xử theo thói quen, và khi họ đã phạm một tội ác, thì họ có khuynh hướng gây tội theo cùng một kiểu. Khi cảnh sát nghe tới một tội ác đã diễn ra theo một lối hành xử nào đó, thì họ thường biết phạm nhân nào có xác suất phạm tội đó. Họ có thể tìm xem người đó ở đâu vào lúc đó, và họ có thể bắt được can phạm dựa trên điều tra đó. Bây giờ, lẽ dĩ nhiên các con không là phạm nhân, con yêu dấu, nhưng tất cả mọi người đều có một cái mà ta có thể gọi là lối hành xử tâm lý.

Lẽ đương nhiên, các thày đã đề cập đến chuyện này khi các thày giảng về tự ngã, về các phàm linh nội tại, nhưng thày sẽ chỉ giản dị giảng dưới một góc độ khác. Điều mà thày muốn con làm là (không nhất thiết là làm ngay bây giờ và ở đây, nhưng một khi con về nhà và thấm nhập những điều con học được từ hội nghị này) là bước lui lại và xem xét: “Tôi liên hệ như thế nào với vũ trụ vật chất, với cõi vật chất? Lối hành xử của tôi ra sao khi tôi liên hệ với cõi vật chất? Tôi chờ đợi những gì? Tôi nghĩ chuyện gì có thể xảy ra và không thể xảy ra? Tôi nghĩ chuyện gì phải xảy ra và không được xảy ra?” Nếu con sẵn sàng làm bài tập này, và nếu con muốn thì cũng thỉnh thoảng xin các thày giúp, thì con có thể thấy là con có một lối hành xử nào đó khi con liên hệ với thế giới vật lý. Khi con gặp một số hoàn cảnh trong thế giới vật lý, thì dường như con bị kích hoạt để đi vào lối hành xử đó, khuôn nếp phản ứng đó.

Vị sứ giả này có cho biết là ông ít khi nổi cáu, nhưng ông lại nổi cáu mỗi khi ông làm chiếu khán vào nước Nga hay khi ông bị phạt vì đậu xe trái phép. Điều này cho thấy ông có một số chờ đợi chuyện gì phải xảy ra cho ông trong vũ trụ vật lý. Khi một chuyện tương tự xảy ra, thì thay vì nhìn vào hoàn cảnh giống như ông bình thường nhìn vào đa số các hoàn cảnh, thay vì giữ tâm không dính mắc, thì ông mặc nhiên đi vào một phản ứng xúc cảm đặc trưng cho rằng chuyện này không được xảy ra, chuyện này quả thật không đúng, và ông đáng lý phải được quyền đậu xe ngoài một cửa tiệm trong vòng 10 phút mà không bị phạt. Con yêu dấu, sự chờ đợi này có thể rất phải chăng nhưng thực tế là nó thật sự giới hạn mối liên hệ của con với cõi mẹ.

Con lấy một số điều kiện trong xã hội, các điều kiện này có thể do con người tạo ra hay do sa nhân gây nên, và con phóng chiếu (tạo ra) một chờ đợi dựa trên những điều kiện đó. Con phóng chiếu lên cõi mẹ là cõi mẹ là như vậy, và kết quả này lúc nào cũng xảy ra. Phóng chiếu này có hậu quả gì? Nó ngăn trở con làm theo lời dạy của Saint Germain vì con không chấp nhận là một cái gì cao hơn có thể xảy ra. Con thực sự trở nên cái mà các thày đã nói tới: một tiên đoán tự trở thành hiện thực. Điều con chờ đợi nơi cõi mẹ là điều con gửi tới tấm gương hoàn vũ, và như các thày đã nói nhiều lần, tấm gương làm được gì khác ngoài việc phản ánh lại con điều con gửi tới nó? Con thấy là nếu con muốn tránh những hoàn cảnh như vậy, thì con phải xem xét lối hành xử của mình. Con liên hệ với cõi vật chất như thế nào? Sau đó, con cần khám phá con chờ đợi chuyện gì phải xảy ra và chuyện gì không được xảy ra. Sau đó, con cần tự hỏi con có muốn mang theo những chờ mong này với con hay không, khi con biết rằng chúng sẽ trở nên những tiên đoán tự trở thành hiện thực.

Điểm cốt yếu là: Con đang sống trong một vũ trụ thân thiện hay một vũ trụ thù địch? Con đang sống trong một vũ trụ đang tìm cách hại con hay con đang sống trong một vũ trụ trong đó ít nhất có một số lực đang hết lòng hỗ trợ con, hỗ trợ sự tăng trưởng của con, hỗ trợ hạnh phúc của con, và giúp con cảm thấy thoải mái với chính mình? Nếu con nghe bài vị sứ giả này phát biểu rằng ông cảm thấy cuộc sống tuyệt vời và có một chờ đợi tích cực về tương lai, thì con thấy là ông thường tin rằng ông sống trong một vũ trụ thân thiện. Nhưng khi ông xin chiếu khán vào nước Nga, thì ông không nghĩ nhân viên lo chiếu khán của nước Nga thân thiện với ông hay hỗ trợ ông, và đó là lý do vì sao ông thể hiện sự trục trặc mà ông gặp phải. Thày không nói là nước Nga có thủ tục cấp chiếu khán hợp lý. Nó thật sự quá phức tạp và chỉ có tác dụng gây tổn thương cho chính nước Nga, nhưng đây không phải là vấn đề. Vấn đề là vị sứ giả này đã có phản ứng như vậy vì ông, ở một tầng nào đó của bản thể của ông, tin rằng nước Nga không phải là một nước thân thiện. Điều này phần nào liên hệ đến một biến cố bi thảm mà ông gặp trong một kiếp trước, nhưng tuy vậy nó cho thấy là con có những lối hành xử về những gì mình chờ đợi. Bây giờ, liên quan đến chuyện bị phạt vì đậu xe trái phép, thì ông không chờ đợi là cơ quan công quyền hay thư lại thân thiện với ông hay có mặt để hỗ trợ ông. Ông chờ đợi là liên hệ với cơ quan thư lại không thoải mái và các cơ quan này hay gây khó dễ cho người dân một cách không cần thiết. Con yêu dấu, con có thể nói điều này đúng. Nhưng câu hỏi mà ta phải đặt cho vị sứ gỉả này là: “Ông có muốn mang theo chờ đợi này suốt đời hay không, hay ông muốn bỏ chúng lại đằng sau?” Câu hỏi mà con nên đặt ra cho mình là: “Tôi có lối hành xử nào? Tôi chờ đợi gì nơi vũ trụ vật lý? Nó có thân thiện chăng? Nó có đang hỗ trợ tôi chăng, hay có gì đang tìm cách hại tôi?”

11.5. Ảnh hưởng của tà lực

Lẽ đương nhiên thày hiểu là khi thày nói như vậy thì có thể gây hoang mang cho các con, vì các thày đã giảng về tà lực, và chúng đang tìm cách hại con, con yêu dấu. Nhưng đây không phải là điều thày muốn nói; thày muốn nói là con phải biết phân biệt. Con nhận ra là có tà lực, con nhận ra là có những người không có thiện ý, nhưng điều thày muốn nói là cách con nhìn cõi mẹ, vũ trụ vật lý nói chung. Điều thày muốn nói là: con đừng lấy sự kiện có sa nhân trên hành tinh này, con đừng lấy tất cả những khuấy động mà họ đã tạo ra, con đừng phóng chiếu những việc này lên cõi mẹ và nói: “Cõi mẹ là như vậy đó.” Con đừng nói là cõi mẹ đối xử với con như sa nhân đối xử với con. Các thày đã nói trước đây: Các con đừng nhìn các thày như các con nhìn sa nhân. Các con đừng nghĩ các thày nhìn các con như sa nhân nhìn các con. Các con đừng nghĩ các thày suy nghĩ giống như sa nhân. Con hãy làm giống như vậy với cõi mẹ. Con đừng đặt lên cõi mẹ những chờ đợi mà con có dựa trên những gì sa nhân đã làm.

Lẽ dĩ nhiên sa nhân vẫn còn ở đây, lẽ dĩ nhiên có nhiều chuyện không phải đang xảy ra trên trái đất, và các thày muốn các con đọc chú đọc thỉnh về các vấn đề này. Thày ở đây chỉ nói đến liên hệ cá nhân của con với cõi mẹ, với vũ trụ vật lý. Con đang sống trong một vũ trụ thân thiện hay con nghĩ trái đất tăm tối quá và vũ trụ, cõi vật lý, là kẻ thù địch của con? Thày có thể bảo đảm với con là dù hành tinh này có tăm tối đến đâu thì cõi mẹ vẫn sẵn sàng hỗ trợ con và hỗ trợ sự tăng triển của con. Cõi mẹ chỉ có thể phản ánh lại con những gì con phóng chiếu ra ngoài. Nếu con muốn nhận được phản hồi khác, thì con phải thay đổi điều con phóng chiếu ra. Không có cách nào khác.

11.6. Cách con liên hệ với các chân sư

Bây giờ thì con có thể tiến thêm bước nữa và xem xét lối hành xử của con khi con liên hệ với các chân sư thăng thiên. Con có thể trở về lần đầu tiên khi con nghe đến giáo lý chân sư thăng thiên, và xem điều gì đã thúc đẩy con tìm hiểu giáo lý đó. Động lực này nói gì về cách con nhìn các thày, cách con thấy tiềm năng của việc liên hệ với các thày hay không liên hệ với các thày? Sau đó, con có thể khám phá là con có một số chờ đợi, một số quan niệm về các thày. Nhiều người trong các con sẽ khám phá là quan niệm của con về các thày dựa trên cách một số tôn giáo mô tả Thượng đế. Nhiều người trong các con có quan niệm về các chân sư thăng thiên dựa trên cách tín đồ Cơ đốc đã thần tượng hóa thày và đặt thày lên một bệ cao, quá tầm với của con, như là người con duy nhất của Thượng đế. Lẽ dĩ nhiên, với đa số các con đây không phải là sự chờ đợi của riêng con. Đây là một điều mà con đã tình nguyện mang vào để giúp nâng tâm thức tập thể lên, nhưng để có thể nâng tâm thức tập thể lên, thì con phải giải thoát tâm mình khỏi quan niệm đó. Con có thể vẫn còn một số chờ đợi, một số phàm linh nội tại, mà con chưa nhận ra và loại bỏ.

Điều này lại liên quan đến chiến thuật dụ và chuyển. Các thày biết con người chờ đợi những gì; các thày biết họ có thể nhìn các thày như thế nào. Khi các thày trao truyền một giáo lý chân sư thăng thiên, thì các thày phải thích nghi nó với những động lực và chờ đợi của con người, và do đó các thày tự bày tỏ mình một cách nào đó. Một số trong các con biết là trong thế kỷ vừa qua các thày đã bảo trợ một số tổ chức và trao truyền một số giáo lý, vậy nếu các con trở về tìm hiểu các giáo lý đó, thì các con sẽ thấy là lúc ban đầu các thày đã bày tỏ mình một cách nào đó. Cách các thày bày tỏ mình đã theo một tiến trình qua các phong trào và giáo lý. Điều mà các thày trao truyền ngày nay là một trình độ hiểu biết cao hơn, vì các thày muốn cho các con thấy là khoảng cách giữa các con và các thày nhỏ hơn điều mọi người thường nghĩ.

Trong một số tổ chức trong quá khứ, các đệ tử đã đặt các chân sư thăng thiên lên một bệ cao hơn họ rất nhiều. Lẽ đương nhiên, các thày hiểu nhu cầu của con người, các thày hiểu những chờ đợi của họ. Các thày hiểu là nhiều người muốn tiến tới gần cõi tâm linh nhưng không gần quá. Vì lẽ gì mà 1.3 tỷ tín đồ Cơ đốc không muốn nghe Giáo lý Hằng sống của thày mà chỉ muốn nghe đức Giáo hoàng? Ấy, đó là vì họ không thực sự muốn lại gần sinh thể tâm linh hằng sống mà thày là. Họ không muốn giáp mặt Bản thể của thày vì như vậy họ sẽ phải thay đổi. Các thày cũng biết là nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã tới một tầng tâm thức khiến họ sẵn sàng đón nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên. Họ muốn học giáo lý của các thày, họ muốn trải nghiệm các bài truyền đọc, nhưng họ không muốn các thày tới gần họ quá.

Dường như là các đệ tử đó muốn giữ một khoảng cách và họ nói: “Con muốn ngồi ở cuối lớp và học các thày từ xa xa.” Điều họ thực sự nói là: “Con muốn giữ một khoảng cách vì con không muốn thày tới và nhìn vào con. Con không muốn thày thấy con như con đang là ngay bây giờ. Thày hãy để con ngồi trong bóng tối để con có thể giả vờ là thày không thấy được con.” Đây là tất cả những gì họ sẵn sàng làm, và thày đang khôi hài, nhưng thày thật sự không hề muốn chê bai họ. Thày hiểu nhu cầu của họ; thày tôn trọng nhu cầu của họ. Thày cũng đang trao truyền một giáo lý cho những đệ tử đã sẵn sàng tiến lên cao hơn, đây là những người sẵn sàng nhìn vào lối hành xử của mình đối với các chân sư thăng thiên, cách họ liên hệ với các thày, điều họ chờ đợi và không chờ đợi, điều họ chờ đợi sẽ xảy ra và không xảy ra.

Nếu con xem xét chuyện này, thì con sẽ nhận ra là con thực sự đã có một hiểu biết cao hơn về con đường của quả vị Ki-tô. Do đó, động lực nguyên thủy của con, cách con nhìn các chân sư thăng thiên lúc ban đầu, nay là một gánh nặng mà con đang kéo lê theo mình. Nó không còn thích ứng với trình độ hiểu biết hiện tại của con. Nếu con thấy nó thì con có thể loại bỏ nó, và con không còn sự chia rẽ trong bản thể mình khi có điều gì kéo con về phía các thày và điều gì khác kéo con ra khỏi các thày. Sau đó, con tiến lên một bước nữa và liên hệ với các thày một cách mật thiết hơn.

Vị sứ giả này mô tả là ông đã theo học giáo lý chân sư thăng thiên và thực hành miên mật trong hơn 15 năm, và một ngày kia ông bỗng nhiên tới điểm nhìn hình ảnh các thày và nói: “Con muốn nhiều hơn nữa. Con muốn liên hệ mật thiết hơn với các thày. Con muốn tương tác trực tiếp với các thày.” Các con đều có tiềm năng lấy một quyết định tương tự. Thày không muốn con lấy quyết định đó với tâm vỏ ngoài, nhưng thày muốn con, với tâm vỏ ngoài, xem xét mình đang ở đâu trên con đường tu. Con sẵn sàng làm điều gì? Con có sẵn sàng tiến lên một tầng cao hơn chăng? Con có sẵng sàng tới gần hơn một chút và nói: “Giê-su, thày có thể thỉnh thoảng nhìn con. Thày có thể tới nói con một số điều, nhưng thày đừng nói nhiều quá, quá mức mà con có thể chịu đựng.” Thày bảo đảm với con là các thày sẽ đáp ứng nguyện vọng này, vì thật ra các thày làm gì khi các thày có đệ tử, có một liên hệ thày-trò với một đệ tử? Con đường tâm linh, con đường của quả vị Ki-tô là gì? Nó hoàn toàn là tiến trình đi vào hợp nhất.

11.7. Con Đường Hợp nhất

Rốt cuộc thì con đường tu là cái Ta Biết đi vào hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Như một bước chuyển tiếp, các thày cống hiến một con đường trên đó khi con có một giáo lý vỏ ngoài con có thể hiểu các thày dễ dàng hơn là con hiểu Hiện diện TA LÀ. Con đường thực sự của các chân sư thăng thiên là con nhập một với các thày, hay ít ra là với vị thày gần tim con nhất. Con thấy là khi con lần đầu tìm ra giáo lý, thì con có thể vẫn còn mang theo khuynh hướng thờ kính của Cơ đốc giáo muốn đặt vị thày lên một bệ cao. Do đó, con có thể đã nghĩ là để liên hệ được với một vị thày cao xa đó thì con phải tới được một trình độ toàn hảo nào đó. Con cảm thấy là con chưa đạt tới trình độ đó, và đó là lý do vì sao con chỉ muốn ngồi ở cuối lớp để vị thày không thể nhìn thấy con và con có thể lẩn trốn vì con sẽ cảm thấy điều gì đó – nhục nhã, tội lỗi, hổ thẹn, hay bất cứ cảm giác nào khác – khi vị thày thấy các bất toàn của mình. Lẽ đương nhiên các thày cho phép con làm như vậy, nhưng nhiều người trong các con đã tới điểm có thể xoay chuyển tâm thức. Con nhận ra là con không bị đau đớn khi các thày nhìn vào con và chỉ cho con thấy vài điều. Các thày luôn luôn chỉ làm vậy với mục đích giúp con tăng triển và được tự do hơn. Nếu con tự do hơn thì chuyện gì xảy ta? Con cảm thấy thoải mái hơn với chính mình.

Khi con còn ngồi ngoài xa xa và muốn giấu giếm điều gì với các thày, thì con cũng giấu giếm cái đó với chính con.Nếu con giấu giếm điều gì đó với chính mình thì con không thể khắc phục nó. Điều mà con giấu giếm sẽ khiến con cảm thấy không vui với chính mình một cách nào đó. Chỉ khi nào con nhìn vào nó và khắc phục nó thì con mới sẽ thoải mái với chính mình. Đây là điều giản dị, là lô-gíc giản dị.Thày biết rằng 99.999999 phần trăm con người trên trái đất không nghĩ điều này giản dị, nhưng nó thực sự giản dị, ít ra là khi con đã tới tầng tâm thức hiện tại của con. Con có thể tới điểm con nhìn lối hành xử của mình và con thấy là con vẫn còn mong muốn giữ khoảng cách với các chân sư. Con có thể nói với nó: “Tôi không cần bạn nữa. Tại sao bạn vẫn còn lẩn quẩn ở đây. Tránh xa ra!”

Sau đó, con có thể xoay chuyển và bắt đầu hỏi mình một câu đơn giản: “Tôi muốn theo loại chân sư nào? Một chân sự thân thiện hay một chân sư thù địch?” Lúc đó, con nhận ra là hình ảnh mà sa nhân đã phóng chiếu lên tâm thức tập thể từ mấy ngàn năm nay là Thượng đế là một Thượng đế thù địch. Do đó, bất cứ ai trên cõi tâm linh và là đại diện Thượng đế chắc chắn phải là một sinh thể thù địch. Ngay cả trong một số tổ chức chân sư thăng thiên quá khứ, con có quan niệm là, tỷ dụ, thày El Morya hay Serapis Bey là người trọng kỷ luật nghiêm khắc. Họ giống như các thày giáo cổ lỗ chỉ tìm cớ để phát mông học trò. Thày El Morya không cầm trong tay một cây gậy để đánh đệ tử. Thày chưa bao giờ làm vậy, và sẽ không bao giờ làm vậy.

Con thấy chăng, hình ảnh trong tâm thức tập thể của một người thày giáo thù địch chỉ chực kỷ luật con (hay phơi bày những tật xấu của con hay khiến con cảm thấy tội lỗi vì có điều gì bất toàn) không phải là điều các thày thực sự là. Nó hoàn toàn xa vời sự thực các thày là. Khi con nhận ra hình ảnh này trong chính mình, thì con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó. Con có thể đứng lui lại và thấy nó, và sau đó con thực sự buông bỏ nó.

Con sẽ tới điểm – con có thể cần đọc một số bài thỉnh và cầu thỉnh sự chuyển hóa năng lượng, con có thể cần xin các thày trợ giúp để thấy nó – con chỉ giản dị buông bỏ nó. Con cảm thấy tức khắc nhẹ nhàng hơn và bỗng nhiên nhận ra là các thày không phải là thù địch. Các thày không chực bắt lỗi con. Các thày không chực phơi bày con. Các thày không chực hạ nhục con.

11.8. Vì sao con sợ các chân sư

Thày biết là một số người sẽ lấy bài giảng này và cảm thấy là thày đang phơi bày điều gì không phải trong tâm lý của họ. Một lần nữa, họ sẽ phóng chiếu hình ảnh là thày đang chực phơi bày điều gì đó trong con. Lẽ đương nhiên, có thể nói là thày đang làm chuyện đó, nhưng thày đang không phơi bày một chuyện để khiến con cảm thấy nhục nhã hay hổ thẹn. Thày chỉ muốn giải thoát con. Đây là lúc con có thể tiến lên một bước nữa, và khi con nhìn vào hình ảnh mà con có về các vị thày tâm linh và con chờ đợi họ sẽ làm gì và không làm gì, thì con có lẽ sẽ nhận ra khía cạnh tiêu cực của cái nhìn đó. Tỷ dụ, con có thể nghĩ là các thày sẽ phơi bày điều gì đó trong con, và con có thể xem xét con có nỗi sợ nào liên quan đến việc đó.

Nếu thày lôi một trong các con lên đây và nói là con có khuynh hướng nào đó trong tâm lý của con, thì con sẽ cảm thấy thế nào? Bây giờ, tất cả các con hãy lấy vài phút để thử làm bài tập này. Con hãy tưởng tượng mỗi người trong các con bị lôi lên đây đứng trước một nhóm người, và thày nói rất thẳng là con có khuynh hướng nào đó trong tâm lý của con. Con sợ điều gì? Con cảm thấy thế nào? Con có cảm thấy nhục nhã không? Con có cảm thấy hổ thẹn không? Cảm giác của con là gì? Ấy, con yếu dấu, cảm giác đó chính là điều đang kềm giữ con trên con đường tu. Đó chính là một phần của cái đang ngăn cản con tương tác với các thày. Điều thày muốn nói ở đây là: Con có thể bước lui lại và nói: “Tôi đang cảm thấy như vậy, hay đây là một phàm linh nội tại quy định lối hành xử của tôi, cách tôi liên hệ với các chân sư thăng thiên, cách tôi nhìn các chân sư, cách tôi nghĩ tôi có thể liên hệ với họ như thế nào? Đây là phàm linh cảm thấy như vậy, hay đây là tôi cảm thấy như vậy?” Con có thể nhận ra: “Nhưng đây không phải là tôi, đây là phàm linh!” Sau đó, khi con đuổi phàm linh đi và đọc bài thỉnh về việc này, thì con có thể chuyển đổi tâm mình.

Thí dụ, nếu con cảm thấy hổ thẹn nếu một chân sư thăng thiên phơi bày một bất toàn trong tâm lý của con, thì con có thể nói: “Tại sao tôi lại phải cảm thấy hổ thẹn? Tại sao tôi lại phải làm vậy? Đây là phàm linh cảm thấy như vậy, vậy tại sao tôi lại tiếp tục nhìn vị chân sư và hy vọng là vị ấy sẽ không tới và khiến tôi hổ thẹn? Tôi không cần cảm thấy hổ thẹn về việc này, hay nhục nhã, hay sợ hãi, hay bất cứ gì khác. Tại sao tôi lại cần cảm thấy như vậy?” Sau đó, con có thể dần dần chuyển đổi tâm thức tới điểm con nhận ra là các thày không chực làm con hổ thẹn. Các thày chỉ chực giải thoát con để con cảm thấy thoải mái với chính mình. Lẽ dĩ nhiên, con không cảm thấy thoải mái với chính mình khi con lúc nào cũng sợ bị hổ thẹn.

11.9. Con chờ đợi dược điều gì

Sau đó, con có thể tiến thêm bước nữa và xem xét là con có lẽ cũngchờ đợi được một số điều khi con trở thành một đệ tử của chân sư thăng thiên. Rất, rất nhiều đệ tử chờ đợi là sẽ được các chân sư thăng thiên bằng một cách nào đó vinh danh, công nhận hay tuyên dương. Trớ trêu thay, có trường hợp đệ tử của một tổ chức chân sư thăng thiên về trước đặt các chân sư lên trên một bệ rất cao và lại có một mối liên hệ với các thày dựa trên sợ hãi. Cùng lúc, rất rất nhiều đệ tử có mong muốn không cưỡng được muốn đựơc các thày vinh danh và công nhận trước công chúng.

Đây là một trạng thái tâm lý rất phức tạp trong đó con vừa sợ hãi vừa hy vọng được vinh danh. Có hợp lý chăng khi con vừa sợ một người vừa muốn được người đó vinh danh? Xác suất người đó vinh danh con so với xác suất người đó làm chuyện con sợ nhất và chê bai con như thế nào? Mối liên hệ giữa người đệ tử đó và các thày trở nên rất, rất giả tạo và các thày hầu như không thể tới được họ vì các thày không thể lại gần họ một cách trực tiếp. Các thày không thể cho họ một trải nghiệm, các thày không thể cho họ hướng dẫn nội tâm vì họ bị mắc kẹt trong thế kéo-đẩy đó. Lẽ dĩ nhiên, nếu con vào nhiều giáo đoàn Cơ đốc hấy đó là cách họ nhìn Thượng đế, đó là cách họ nhìn thày. Đó là lý do có nhiều tín đồ Công giáo nghĩ rằng họ liên hệ với Mẹ Mary thoải mái hơn là với thày vì Mẹ Mary không có vẻ đe dọa như thày. Con cũng thấy điều này nơi nhiều tôn giáo khác.

Một lần nữa, nếu con là đệ tử chân sư thăng thiên và con nhận ra khuôn nếp này nơi con, thì tại sao con lại có nó? Nó có phải của con chăng? Rất có thể là con đã tiếp nhận nó từ tâm thức tập thể. Con hãy xem xét nó, làm việc trên nó, tiến tới điểm con vừa không sợ giáp mặt trực tiếp một chân sư thăng thiên, vừa không hy vọng được giáp mặt trực tiếp để được thêm hãnh diện và để tự ngã cảm thấy đặc biệt. Khi con tới điểm có thể liên hệ với các thày mà không chờ đợi phía này hay phía kia, không chờ đợi dựa trên sợ hãi hay dựa trên hãnh diện, thì con có thể trung hòa. Con có thể mở lòng ra. Không có chờ đợi nào ngăn trở con. Khi con chỉ mở lòng ra, thì con sẽ trải nghiệm Hiện diện của các thày trực tiếp hơn rất nhiều bất cứ gì con trải nghiệm trước đó, và lẽ dĩ nhiên, đây là điều các thày mong muốn nơi con.

11.10. Làm sao Thánh linh có thể tuôn chảy xuyên qua con

Bây giờ là dịp lễ Hạ trần (Pentecost) và các con đều biết câu chuyện là, sau khi thày rời bỏ cõi vật lý, các tông đồ của thày đều rất hoang mang, không biết phải làm gì, không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đó. Lúc đó, họ hội họp và bỗng nhiên có sự chuyển đổi trong tâm thức họ, và họ tới tình trạng được mô tả là “hiệp ý ở cùng một nơi”. Họ thực sự tới điểm mà thày vửa mô tả, tức là thay vì có những chờ đợi dựa trên sợ hãi (là mọi chuyện kết thúc ở đây và không có gì sẽ xảy ra sau đó) và những chờ đợi dựa trên kiêu mạn (là họ sẽ được nâng lên và sẽ là những người lãnh đạo phong trào), thì đa số (không phải tất cả, nhưng đa số) tới điểm chỉ trung hòa, chỉ mở lòng ra. Chính điểm trung hòa đó, điểm không chờ đợi đó, đã là cửa mở cho cái được mô tả là Thánh linh tuôn xuống.

Bây giờ, một lần nữa con có thể hỏi: “Các thày đã làm gì với giáo lý mà các thày đã trao truyền qua vị sứ giả này?” Các thày đã tháo gỡ những hình ảnh mà con người có về các chân sư thăng thiên dựa trên các đợt truyền giáo trước. Các thày đã thực sự lấy mình xuống khỏi bệ cao. Các thày đã tìm cách giảm thiểu khoảng cách giữa các con và các thày. Lẽ dĩ nhiên, các thày đã không tìm cách làm điều này một cách vật lý. Các thày đã tìm cách giảm thiểu khoảng cách trong tâm các con, khoảng cách mà con nghĩ có đó, mà con phóng chiếu là có giữa các con và các thày. Lẽ dĩ nhiên các thày vượt quá không gian và thời gian, do đó thày lúc nào cũng ở bên con nếu con muốn thày, nếu con đặt chú tâm của con vào thày. Vấn đề không phải là con cần vượt qua một khoảng cách vật lý. Vấn đề cũng không phải là vì thày ở quá cao trên con trên phương diện khoảng cách hay ngay cả rung động, lẽ dĩ nhiên là thày cao hơn con, nhưng thày vẫn ở bên con. Vấn đề không phải là con cần vượt qua vực thẳm đó. Con chỉ cần giản dị loại bỏ tất cả những hình ảnh và chờ đợi trong tâm con.

Các thày có đệ tử chân sư thăng thiên đang đứng, nói một cách biểu tượng, với đôi mắt dán vào ống viễn kính khổng lồ vì họ nghĩ các thày ở rất, rất xa đâu đó trong không gian. Họ cần chiếc ống viễn kính khổng lồ để thấy được các thày, và chiếc ống viễn kính khổng lồ đó là sự hiểu biết cầu kỳ bằng trí năng mà họ có về giáo lý. Điều các thày đang làm là các thày đợi họ rời mắt khỏi ống viễn kính rồi nói: “Ồ, các thày đang ở đây!”. Thày đã ở đây suốt 2000 năm qua bên cạnh họ mà họ không thèm để ý tới vì họ đã tìm thày ở ngoài xa, xa kia. Lẽ dĩ nhiên, đây là điều các thày mong muốn nơi tất cả các con, là những người đã đi theo con đường của các thày từ rất lâu, là những người đã dấn thân đi vào con đường của quả vị Ki-tô.

11.11. Quả vị Ki-tô và phép lạ

Một lần nữa, chúng ta hãy hạ những chờ đợi xuống. Các con có nghe các câu chuyện là khi thày hiện thân thì thày đã làm nhiều phép lạ. Con có nhân loại trong 2000 năm đã tạo ra những phàm linh tập thể rất rất dũng mãnh và rất rất cầu kỳ là được sống vào thời Giê-su quả là một sự kỳ diệu đặc biệt. Nếu con trở ngược về thời đó và xem xét thực tại lúc đó, thì con sẽ thấy là đa số các tông đồ của thày lúc đó giống như những người đang dán mắt vào ống viễn kính. Tuy họ theo thày và tương tác với thày mỗi ngày, họ ít khi trực tiếp để ý tới thày vì họ nhìn thày với quá nhiều chờ đợi. Con thấy một thí dụ nơi câu chuyện liên quan đến Peter khi thày nói: “Bớ Satan, hãy đứng sau lưng ta.” Thày lúc đó muốn tạo một cú sốc để Peter ra khỏi các chờ đợi của ông và thực sự liên hệ với thày một cách trung hòa. Đa số những người mà thày gặp gỡ hồi đó còn không để ý sinh thể nào đang đứng bên cạnh họ. Họ không nhận ra là thày có một trạng thái tâm thức cao hơn.

Điều thày muốn nói là hình ảnh hoang tưởng mà tín đồ Cơ đốc giáo đã tạo ra là thời đó đặc biệt tuyệt vời như thế nào, ấy, chuyện ấy không bao giờ có thực. Có rất nhiều người không để ý, thí dụ là có cả những người đã thấy thày đi trên nước nhưng sau đó họ không tin điều họ đã chứng kiến. Như các thày đã nói, tâm thức tập thể thời đó dày đặc đến nỗi cần một diễn biến kỳ diệu để họ chú ý.

Một lần nữa, nếu con xem lại tình hình vào dịp lễ Hạ thân, thì nhiều tín đồ Ki-tô giáo đã tạo nên hình ảnh cầu kỳ là nhiều tông đồ đã nói với những ngôn ngữ lạ. Họ bỗng nhiên dùng những ngôn ngữ khác để người khác có thể hiểu họ. Ngay cả các đệ tử chân sư thăng thiên cũng nhìn biến cố này như một diễn biến kỳ diệu. Họ nghĩ, giống như những người theo phái Hạ thân (Pentecostal), là các tông đồ lúc đó dùng ngôn ngữ của thiên thần. Hay họ nghĩ, như một số tín đồ Cơ đốc khác, là có người bị Thánh linh làm té ngã và người họ bị lay động mạnh và họ phải được khiêng ra ngoài, hay những chuyện tương tự. Các đệ tử chân sư thăng thiên vẫn còn lối hành xử đó, phàm linh tập thể đó, khiến họ mơ ước thấy một diễn biến kỳ diệu.

Có người mơ ước thấy một diễn biến kỳ diệu xảy ra trong cuộc đời họ, họ mơ ước có một cuộc gặp gỡ kỳ diệu với các thày sẽ thay đổi mọi chuyện. Một số mơ ước có một diễn biến kỳ diệu sẽ khiến người khác nhìn họ là người đặc biệt. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên trong các thập niên qua đã mơ ước có một diễn biến kỳ diệu qua đó các thày xuất hiện trên trời hay chính các đệ tử nhận được Thánh linh và họ có thể khiến người khác té ngã hay họ có thể chữa lành người khác. Họ có thể làm tất cả những chuyện này để có bằng chứng vật lý là các chân sư thăng thiên có thật, và qua đó hàng triệu người sẽ cải đạo và tin vào chân sư thăng thiên. Lẽ dĩ nhiên, các đệ tử đó là những người đã đem lại việc đó và do đó họ sẽ được nâng lên và tuyên dương. Các đệ tử chân sư thăng thiên cũng mang theo tư duy đã được tín đồ Ki-tô giáo tạo ra suốt 2,000 năm qua khi họ mơ ước là họ đặc biệt và sẽ được nâng lên. Các con đã lấy tư duy này, chuyển nó sang các chân sư thăng thiên và phóng chiếu lên các thày. Các con nghĩ là nếu các con nhận được Thánh linh thì một diễn biến kỳ diệu sẽ xảy ra. Có thể là sẽ có một diễn biến trong đó mọi người bỗng nhiên nói ngôn ngữ lạ, và tất cả bỗng nhiên có khả năng nhận bài truyền đọc, hay bất cứ điều gì khác mà họ tưởng tượng. Một đàng thì thày không muốn đặt giới hạn vào chuyện có thể xảy ra. Thánh linh có thể biểu hiện nhiều cách, nhưng thày muốn các con có một nhận định thiết thực. Trong thời đại tân thời này, các thày không làm phép lạ vì nhân loại đã tiến lên một tầng tâm thức khiến các thày có thể khiến họ chú ý bằng cách khác. Các thày không muốn cải đạo tất cả mọi người và khiến họ công nhận các chân sư thăng thiên. Các thày sẽ không tạo ra một biểu hiện không thể chối cãi được vì Luật Tự quyết đã rõ ràng: con người phải có quyền chối bỏ với lý do khả tín. Con người phải có thể dễ dàng chối bỏ sự hiện hữu của các thày, do đó các thày sẽ không thể hiện một bằng chứng không thể chối cãi được.

11.12. Con có Thánh linh chăng?

Ngay cả chuyện Thánh linh sa xuống, các thày sẽ không tạo ra một diễn biến ngoạn mục, con yêu dấu. Các thày mong muốn là mỗi người trong các con đều trải nghiệm là mình có Thánh linh. Con có nhiều xác suất trải nghiệm điều này khi con nói chuyện với người khác về một đề tài mà con thật sự coi là quan trọng, một đề tài gần kề với tim mình. Con có thể nhận thấy là có lúc giọng nói của con thay đổi đôi chút, rung động của con thay đổi, và con nói với rất, rất nhiều chân thành. Con yêu dấu, con lúc đó cũng trong trạng thái tâm trung hòa. Con không đang tìm cách cải đạo người khác một cách hung hãn, con không mong muốn được công nhận để con không phải cảm thấy bị ruồng bỏ. Con chỉ giản dị nói từ một tầng cao của bản thể của mình, và đó là một biểu hiện của Thánh linh.

Bây giờ thì câu chuyện các tông đồ nói bằng ngôn ngữ lạ mà trước đó họ không biết, chính thực không có thật. Đây là điều mà con người chỉ có thể phóng chiếu lên diễn biến đó với tâm đường thẳng của họ. Sự thực sâu thẳm hơn là một số tông đồ được thấm đẫm bởi Thánh linh và do đó họ có thể diễn đạt ý tưởng Cơ đốc giáo là gì qua một cách khiến người có quá trình khác nhau có thể hiểu các khái niệm và ý tưởng. Đây là một trong những biểu hiện chính của Thánh linh mà thày muốn các con cố đạt được. Con có thể đi vào trạng thái tâm trung hòa và có khả năng nói chuyện với nhiều người có quá trình khác nhau. Thay vì cho họ một chân lý tuyệt đối, mà với tâm vỏ ngoài con nghĩ là họ cần biết, thì con cho họ đúng những gì họ cần để tiến bước kế tiếp trên con đường tu của họ. Con có thể không biết điều này với tâm vỏ ngoài của mình, con có thể không biết vì sao con lại nói điều đó với họ, con chỉ cảm thấy dòng chảy và con tuôn theo dòng chảy.

Đây là một biểu hiện Thánh linh lợi ích hơn một trình diễn ngoạn mục rất nhiều. Bây giờ thì con có thể nói: “Vậy thày đang không làm một trình diễn ngoạn mục hay sao?” Ấy, điều này cũng có phần đúng. Nhưng điều thày đang làm có ngọan mục như nhiều đệ tử chân sư thăng thiên chờ đợi, hay nhiều tín đồ Cơ đốc giáo chờ đợi chăng? Không, không đâu. Các thày đang cố cho các con một cái gì vượt quá trình độ tâm thức bình thường, nhưng không vượt quá xa đến độ nó củng cố nơi con ý niệm xa cách. Các thày biết là bất cứ điều gì các thày làm cũng sẽ củng cố ý niệm xa cách nơi một số người, nhưng con hãy để ý xem có bao nhiêu giáo lý mà các thày bao năm qua đã trao truyền qua vị sứ giả này đã được thiết kế đặc biệt để giảm thiểu sự xa cách mà các con phóng chiếu là có giữa các thày và các con.

11.13. Vị chân sư nào gần với con nhất?

Thày sẽ luôn luôn ở bên conconconconcon, mỗi người và tất cả các con. Thày luôn luôn ở bên con, và vị chân sư thăng thiên nào gần tim con nhất cũng vậy. Vị chân sư nào gần tim con nhất? Con yêu dấu, thày không có ganh tỵ, thày không mong muốn độc quyền. Sự việc có một vị chân sư khác gần tim con hơn không khiến thày cảm thấy bị tổn thương. Tại sao vậy? Vì thày và vị chân sư đó là một.

Con hãy tìm ra vị chân sư gần tim mình nhất. Con hãy bước lui khỏi cuộc sống bận rộn thường nhật của con. Con hãy bước lui khỏi những bận rộn của con trong việc tu tập, với việc học giáo lý, đọc cầu thỉnh. Con hãy dành thì giờ để ngồi xuống và xem xét: “Tôi đang liên hệ với các chân sư thăng thiên như thế nào? Đây là vị thày mà tôi cảm thấy gần nhất. Làm sao tôi có thể tìm ra một cách mới để liên hệ với vị chân sư đó để tôi có thể giảm thiểu khoảng cách, lại gần hơn, có một trải nghiệm trực tiếp hơn?” Con cũng có thể tự hỏi: “Tôi có sẵn sàng để có một trải nghiệm trực tiếp hơn với một chân sư thăng thiên chăng?” Nếu con chưa sẵn sàng, thì một lần nữa thày không chỉ trích, thày không phán xét, thày không lên án. Thày hoàn toàn hiểu là ai nấy đều cần có thời gian trước khi sẵn sàng. Con thấy chăng, con yêu dấu, con đang ở đây vì khi con trải nghiệm một bài truyền đọc, thì con có một ý niệm hiện thực là các chân sư thăng thiên có thật. Các thày có thể nói chuyện với con. Thày chỉ muốn con xoay chuyển tâm mình để nhận ra rằng vì các thày có thật và có thể nói chuyện xuyên qua một sứ giả, nên các thày cũng có thể tương tác trực tiếp với con, với riêng con, trong tâm và trái tim của con.

Nếu con đã sẵn sàng làm chuyện này, thì có lẽ đã đến lúc con mạnh dạn bước ra, thẳng thắn hơn và tìm một cách khác để liên hệ với các thày. Có lẽ con xem xét lối hành xử của mình, như thày đã nói ở đầu bài, khi con liện hệ với các thày. Con có thể tự hỏi: “Dựa trên những chờ đợi hiện tại của tôi, thì tôi nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra khi một chân sư thăng thiên tới gần tôi hơn?” Con sẽ thấy là nhiều khi có một phần tâm con, một phần tự ngã của con, thực sự sợ những thay đổi mà con sẽ phải đối mặt khi chuyện đó xảy ra, và đây có thể là một lãnh vực mà con có thể cần thì giờ để giải quyết vấn đề.

11.14. Con cần phải từ bỏ cái gì?

Đối với đa số các con, đây không phải là một điều mà con có thể giải quyết trong năm phút. Khi con tới một mức nào đó, thì điều lợi ích là con suy nghĩ và chiêm nghiệm về điều này: “Tôi nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra trong cuộc đời của tôi?” Sẽ có một phần bản thể của con sợ một số thay đổi vỏ ngoài sẽ phải xảy ra, một số chuyện mà con phải từ bỏ, và những điều tương tự. Nếu con nhìn những việc này một cách trung thực thì con dần dần sẽ bắt đầu thấy các nguyên nhân đằng sau, thấy những chờ đợi tiềm ẩn của con. Con có thể bắt đầu xem xét chúng. Con có thể bắt đầu bằng cách so sánh chúng với giáo lý của các thày. Con có thể bắt đầu suy ngẫm xem là con có mang chờ đợi đó từ tâm thức tập thể, hay đó là một phần của tự ngã của con. Con có thể dần dần tới điểm con thấy rõ con đang đứng ở đâu vào lúc này. Con có thể nhận ra rằng: Đúng là có một phần tự ngã đang sợ hãi và không muốn thay đổi vì có một phần nào đó trong cuộc đời của con mà con không muốn từ bỏ.

Bây giờ thày muốn cho con một thí dụ đơn giản. Có một vị đệ tử ở Hàn Quốc hỏi là vị ấy có thể là một đệ tử chân sư thăng thiên mà vẫn tham dự họp mặt ăn uống và uống rượu khi tụ họp chăng. Vị đó không chịu từ bỏ những chuyện này vì uống ượu khi hội họp là một phần quan trọng của gia đình và nền văn hóa của vị ấy. Đây chỉ là một thí dụ của một chờ đợi mà con có thể có. Nếu con muốn, thì con có thể xem xét nó. Con có thể nhìn vấn đề từ nhiều phía. Con cũng có thể tới điểm con nhận ra con không mất mát gì khi từ bỏ chuyện đó vì con thực sự đã sẵn sàng tiến lên một tầng khác.

Một số người trong các con đã tới điểm có quyết định tự phát từ bỏ uống rượu, nhưng đây chỉ là một thí dụ. Con đừng đặt hết tâm trí vào việc này vì có nhiều chuyện khác mà con có thể nghĩ con cần từ bỏ. Con yêu dấu, con lúc nào cũng có thể tìm ra một cách khác để nhìn vấn đề mà không bị bắt buộc phải từ bỏ một sinh hoạt vỏ ngoài.

Thày muốn cho con một thí dụ khác là trong các đợt truyền giáo trước, có nhiều đệ tử cảm thấy là sau khi họ đã theo học giáo lý chân sư thăng thiên, thì họ không thể liên hệ với những người không theo giáo lý. Nhiều người gặp khó khăn liên hệ với người phối ngẫu của họ, và rất nhiều vụ ly dị đã xảy ra vì lý do này. Các thày không bao giờ muốn thấy chuyện này xảy ra, nhưng đó là nền văn hóa của tổ chức đó. Lý do là vì họ có một cái nhìn trắng-đen hơn về con đường tu: con hoặc ở trong hoặc ở ngoài. Hoặc con hoàn toàn ở trong, và con phải theo tất cả các luật lệ của tổ chức, hoặc con ở ngoài. Nếu con có một người phối ngẫu không chịu ở trong, thì con không thể liên hệ với vị đó, và từ đó xung đột nảy sinh. Thực tế là nếu con xoay chuyển tâm thức, nếu con thay đổi cách nhìn trắng-đen về con đường tu và về các chân sư đầy lòng phán xét, thì con có thể dễ dàng, hoặc ít ra là với thời gian con có thể tìm một cách để liên hệ với người phối ngẫu đang không đi trên con đường tâm linh hay đang không theo học giáo lý chân sư thăng thiên.

11.15. Lối hành xử của con liên quan đến tình dục

Con có thấy chăng, vấn đề không chỉ giản dị là nghĩ hay nhận ra là có một phần tự ngã của mình đang nghĩ: Nếu tôi lại gần các chân sư hơn, thì liệu tôi có sẽ phải từ bỏ điều này hay điều nọ. Nhiều người trong các con có thể sợ phải từ bỏ tình dục, chẳng hạn. Thành thật mà nói thì đây có lẽ là nỗi sợ lớn nhất của các đệ tử trên con đường tâm linh.

Một cách nhìn khác là luôn luôn xem xét chính mình, xem xét lối hành xử của mình liên quan đến tình dục. Con hãy xem xét lối hành xử của con liên quan đến tình dục, và xem nó tương tác ra sao với lối hành xử của con liên quan đến con đường tâm linh. Con có thể thấy là con có hai phàm linh đang chống đối nhau. Sau đó, con hãy nhận ra là có một phàm linh đang phóng chiếu là khi con tiến cao hơn trên con đường tâm linh, thì con phải từ bỏ tình dục. Và có phàm linh kia thét lên rằng: “Không, bạn không thể làm vậy!” Sau đó, con có thể tới điểm nhận ra là chúng chỉ là phàm linh, chúng không phải là con – và con có thể thăng vượt chúng, con yêu dấu. Con có thể thăng vượt cả hai phàm linh đó, và nhận ra rằng khi con xoay chuyển tâm, thái độ của con về tâm linh và thái độ của con về tình dục và sự tương tác giữa hai thái độ đó, thì con có thể vẫn vui hưởng tình dục vừa theo đuổi con đường tâm linh.

11.16. Hãy chấp nhận ở đây trước khi con rời nơi này

Con có thể tới điểm con gần hội đủ điều kiện để thăng thiên nhưng con đã đi theo con đường tu khổ hạnh và rút lui khỏi sinh hoạt trần thế. Nếu con không hoàn toàn chấp nhận con đang ở trong thân thể vật lý, nếu con không vui hưởng những sinh hoạt mà con có thể có với thân thể vật lý, thì con không thể bỏ trái đất lại đàng sau, con thực sự không thể thăng thiên. Con có thể nói là thực sự có nhiều tà lực, tà thể hay ác quỷ đang tìm cách dùng động lực tình dục để dụ dỗ con người vào nhiều vòng xoáy hướng hạ để hút năng lượng của họ. Chắc hẳn là có một lúc ta phải áp dụng kỷ luật để không bị lôi kéo vào những vòng xoáy tiêu cực đó. Đó là lý do vì sao các phong trào tâm linh truyền thống đã nói rằng người tâm linh phải từ bỏ tình dục. Một số trong các con đã làm điều này trong các kiếp trước và đã có nhu cầu tuân theo kỷ luật này. Lúc nào con cũng có thể tiến lên một tầm nhìn khác và nói: “Tôi đang sống trong loại thân thể nào? Một thân thể thân thiện hay thù nghịch?”

Con sẽ thấy là rất rất nhiều người tâm linh thực sự nghĩ rằng thân thể vật lý là thù nghịch của sự tăng triển tâm linh của họ. Sau đó, con có thể làm việc trên đề tài này, xem xét nó, và con có thể tới điểm chấp nhận là con đang sống trong một vũ trụ thân thiện, con đang sống trong một thân thể thân thiện. Khi con đang ở trong thân thể này, thì có một số sinh hoạt con có thể làm với thân thể đó, và thực sự không tội lỗi hay phản-tâm linh khi con vui hưởng các sinh hoạt đó. Sinh hoạt này có thể là có tình dục, hay ăn một bữa cơm ngon, hay tương tác với người không theo một giáo lý tâm linh nhưng vẫn là người tốt. Họ thuộc vào gia đình của con và con vui hưởng ở gần họ. Đâu có lý nào chuyện này là phản-tâm linh khi con nhìn nó từ một góc độ trung hòa và không bị mắc kẹt trong lối suy nghĩ trắng-đen?

Con cũng có thể tiến thêm bước nữa và xem xét sức khỏe vật lý của mình, và có thể bắt đầu tự hỏi: “Tôi đang sống trong một thân thể thù nghịch hay thân thiện?” Nếu con đang bị một căn bệnh dằn vặt thì con vẫn có thể (nếu con muốn) làm việc trên thái độ mà con có đối với thân thể vật lý. Lối hành xử của con là gì? Con chờ đợi chuyện gì có thể xảy ra và không thể xảy ra? Con thực sự nghĩ gì về thân thể vật lý này, đặc biệt là liên quan đến sự tăng triển tâm linh của mình? Con có thể tới điểm chấp nhận là con đang sống trong một thân thể thân thiện có khả năng và mong muốn hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con. Một số trong các con sẽ thấy là điều này có thể đem lại sự chữa lành của một số căn bệnh mà trước đó con không thể khỏi được. Một số khác có thể không được chữa lành trên mặt vật lý nhưng có thể tìm ra cách để làm hòa với căn bệnh để nó không cản trở sự tăng triển tâm linh của mình.

11.17. Cách dùng bài truyền đọc này

Một lần nữa, đây lại là một trong những bài truyền đọc trong đó các thày đưa ra rất nhiều ý để các con suy ngẫm. Lẽ đương nhiên, các thày làm như vậy vì các con không hay tụ tập như một đám đông. Các thày cũng làm vậy vì nhiều người trong nhóm này đã tới một trình độ trên con đường của quả vị Ki-tô khiến con sẵn sàng đón nhận giáo lý này hay ít ra là một phần trong đó. Một lần nữa, con không cần về nhà và đọc lại bài truyền đọc và xem xét từng điểm mà thày trao truyền, và nghĩ rằng con phải học tập và áp dụng tất cả mọi điểm cùng một lúc. Con cần tìm ra một điều gì, một điều trong bài giảng hấp dẫn con ở tầng hiện tại của con. Sau đó, con dùng nó, con thể nhập với nó và con dùng nó để tiến lên một tầng cao hơn. Sau đó, con có thể đọc lại bài giảng và tìm xem có điều gì khác cho con chăng.

Bây giờ, thày khuyến khích học tập bài truyền đọc mà thày trao truyền ở Hàn Quốc về quả vị Ki-tô và bài truyền đọc của Phật Gautama ở Hàn Quốc (hai chương trước chương này) và thấy là hai bài đó tạo nên phần alpha trong khi bài này là phần omega, một cái nhìn thực tiễn và thiết thực hơn.

11.18. Giữ trung hòa để Tánh linh tuôn chảy

Điều thày muốn nói trước khi chấm dứt bài này là: Thánh linh thổi nơi nó muốn, như có nói trong Thánh kinh. Câu này thực ra không thể hiện cái nhìn cao nhất về đề tài này. Thánh linh không thổi nơi nó muốn; nó chỉ thổi, nó thổi không ngừng và nó tuôn chảy không ngừng. Lý do vì sao câu nói đó được trao truyền lúc đó là vì nhiều người thời đó không hiểu được tại sao có lúc một người nhận được dòng chảy của Thánh linh, có lúc là một người khác, và có lúc không ai nhận được. Họ không hiểu tại sao vì họ nhìn vấn đề với tâm vỏ ngoài.

Ngay cả các tông đồ của thày có khuynh hướng dùng tâm vỏ ngoài và tạo ra một cấp bậc trong nhóm tông đồ, một loại xếp hạng ai cao nhất, ai là người tinh tiến nhất. Điều không may là Peter thường nghĩ ông là người cao nhất, trong khi sự thực ông là người có tâm thức thấp nhất trong các tông đồ. Những lượng giá vỏ ngoài này quả thực đã ngăn chận dòng chảy của Thánh linh vì chìa khóa để nhận dòng chảy của Thánh linh là giữ tâm trung hòa, mà các con đều có thể trau dồi và đều đã có trải nghiệm trong một thoáng. Nó gần giống như khi con đứng yên và không có gì kéo con về bất cứ hướng nào. Con có thể gọi đây là trạng thái nhận biết thuần khiết, nhưng con trung hòa. Con đang tương tác với người khác, nhưng con không phán xét là người đó phải được nghe gì và phải chấp nhận cái gì. Con không mong muốn cải đạo người đó. Con còn không có cả mong muốn giúp người đó. Con không có chờ đợi cá biệt nào về điều gì phải được nói ra, chuyện gì phải xảy ra, và người kia phải phản ứng ra sao. Con chỉ trung hòa và đó là lúc con là cánh cửa mở. Đó là lúc Thánh linh có thể tuôn chảy xuyên qua con, con yêu dấu.

Khi con xem xét hiện tượng truyền đọc và số đông những người tiếp xúc với cõi trên (channeller), thì con thấy là những người không giữ tâm trung hòa chỉ hòa điệu được với các cõi thấp – cõi cảm xúc, cõi lý trí, phần thấp của cõi bản sắc. Những điều được trao truyền qua họ có thể có vài ý niệm chân chính, nhưng cũng có những ý niệm méo mó và không có rung động giải thoát con người. Một người sứ giả hay một người tiếp xúc với cõi trên càng trung hòa thì thông điệp có thể truyền qua họ càng thuần khiết. Khi con nghe hay đọc một bài truyền đọc, tâm con càng trung hòa thì các lóe sáng hiểu biết mà con nhận được càng sâu sắc.

Một sắc thái khác của Thánh linh là con không nhất thiết nói nhưng con cũng nhận một số lóe sáng hiểu biết rõ ràng bắt nguồn từ phần cao của tâm con hay từ các thày. Đây là một hình thức dòng chảy bên trong của Thánh linh và khi con nói ra thì đó là phần chảy bên ngoài của Thánh linh, nhưng cả hai khía cạnh đều thuộc vào con đường tu của con.

Như các thày đã nói, sẽ có một điểm khi quả vị Ki-tô mà không được thể hiện thì không phải là quả vị Ki-tô. Con phải tiến lên cao hơn và thay vì chỉ học hỏi và hội nhập giáo lý, thì con bắt đầu ban phát nó ra. Đó là lúc con trải nghiệm dòng chảy alpha và omega của Thánh linh, là khi con nhận được lóe sáng hiểu biết và con dùng chúng để giúp người khác. Con sẽ nhiều lần thấy rằng khi con nói chuyện với người khác, con bỗng nhiên có một số ý tưởng mà trước đó con không có. Con bỗng nhiên có một lóe sáng hiểu biết mà trước đó con không có. Đó là dòng chảy của Thánh linh. Nó không phải là một biểu diễn ngoạn mục. Nó không phải là một biến cố kỳ diệu. Nó chính thực là điều gì mà tất cả các con đều đã trải nghiệm. Thày chỉ giản dị nói rằng khi con nhận ra chúng một cách có ý thức, khi con theo những gợi ý mà thày giảng trong bài này, thì con có thể gia tăng những lúc con có trạng thái tâm trung hòa.

11.19. Con có cần phải có ý kiến không?

Một số các con có thể phải làm việc để đạt tâm trung hòa vì nó đòi hỏi con giải thoát mình khỏi một số chuyện bên ngoài đang tìm cách lối kéo con vào một khuôn nếp phản ứng. Có thể là một số các con cần đi qua một tiến trình trong đó con xem xét một điều rất đơn giản: “Trên cương vị một con người, tôi có cần có ý kiến không?” Đa số các con được dạy dỗ là con phải có ý kiến. Con phải có ý kiến về đảng phái chính trị này hay đảng phái kia, về vấn đề này hay vấn đề kia. Con có thể tới điểm con nhận ra là đại đa số ý kiến con người đến từ các phàm linh nội tại của họ, và các phàm linh này chịu ảnh hưởng của các phàm linh tập thể.

Con thấy có rất nhiều trường hợp hai người có ý kiến đối ngược về một vấn đề, nhưng đây chỉ giản dị là có hai phàm linh đang tranh luận qua hai người đó. Con có thể tới điểm con tự hỏi: “Đây có phải là cách tôi muốn tương tác với người khác chăng, bằng cách luôn luôn bày tỏ ý kiến của mình và tìm cách thay đổi ý kiến người kia? Có thể nào tôi tới điểm tương tác với người khác nhưng tâm tôi trung hòa và do đó tôi mở lòng ra để nói một điều không phải là ý định đã định trước, nhưng là một điều tới từ một nguồn cao hơn, có thể sẽ khai ngộ tôi và có thể khai ngộ người kia, nhưng không đến từ một ý định từ tâm có ý thức của tôi. Tôi chỉ để cho chuyện đó xảy ra?”

Đã có nhiều người qua các thời đại đã dùng nhiều nỗ lực, nhiều nghi thức để nhận được Thánh linh. Có những phù thủy đen đã tìm cách tạo ra một phương pháp, hoặc một dụng cụ có thể giúp họ nhận được một cách máy móc dòng chảy của Thánh linh. Họ chưa bao giờ nhận được dòng chảy của Thánh linh. Họ có thể nhận được dòng chảy của một số phàm linh tập thể có vẻ rất dũng mãnh, nhưng đó không phải là Thánh linh. Con không thể ép Thánh linh. Đó cũng là lý do vì sao có câu nói là Thánh linh tuôn chảy nơi nó muốn. Con yêu dấu, con không thể ép nó, nhưng con có thể nhận nó.

Mấu chốt là muốn nhận nó thì phải có khoảng trống. Nếu tâm con chứa đầy ý kiến thì có thể không còn chỗ để Thánh linh biểu hiện. Thày muốn giải thoát các con. Thày muốn cho phép con được tự do khỏi mọi ý kiến nhân gian. Con thực sự có thể cảm thấy là khi con buông bỏ những ý kiến đó, thì giống như con được giải thoát khỏi một máy chạy bộ cứ lôi cuốn con đi. Bỗng nhiên tâm con không cần phải cảm thấy là ý kiến này luôn luôn bị đe dọa và con cần phải đề phòng các mối đe dọa. Khi con đọc điều gì trên mạng Internet có thể đe dọa ý kiến đó thì con cảm thấy bất an. Hay khi con gặp người nào có ý kiến khác thì con phải đi vào một cuộc tranh luận và tìm cách khiến họ đổi ý. Bất thình lình con không cảm thấy bị mất năng lượng nữa và con cảm thấy thoải mái hơn với chính mình là đã buông bỏ ý kiến nhân gian đó.

Thày có thể bảo đảm là con có lẽ sẽ gặp một người quen con từ lâu nhìn con và nói: “Bạn sao kỳ vậy, tại sao không còn ý kiến gì nữa?” Con hãy xem họ cảm thấy thế nào về chính họ và con cảm thấy thế nào về chính mình, và nói: “Tôi muốn mình ở đâu, trong tâm người đó hay trong tâm mình?” Sau đó, con sẽ dễ dàng buông bỏ tất cả các ý kiến đang không khiến con thoải mái với chính mình, không khiến con thoải mái với thế gian. Chúng không giúp con cảm thấy con đang sống trong một vũ trụ thân thiện, chúng không giúp con cảm thấy con đang tương tác với các chân sư thân thiện, chúng không giúp con cảm thấy con đang sống trong một thân thể thân thiện.

Con hãy nghĩ xem: nếu mục đích của con là cảm thấy thoải mái hơn với chính mình, với các chân sư thăng thiên, với thế giới vật chất và với thân thể vật lý của mình, thì con hãy xem xét những gì đang lôi kéo sự chú ý của con và tự hỏi chúng có đang giúp con cảm thấy thoải mái hơn hay không. Nếu nó không khiến con cảm thấy thoải mái hơn, thì thày cho phép con buông bỏ nó. Thày bảo đảm là nếu một điều gì không giúp con cảm thấy thoải mái hơn với chính con, với thế giới nơi con sống và với các chân sư, thì điều đó không giúp con tăng triển tâm linh. Nó không giúp con tiến về hướng quả vị Ki-tô.

Con yêu dấu, nếu con nhận thấy là con đang nhấp nhỏm một chút trên ghế và cảm thấy khó ngồi yên, thì đó giản dị là vì chúng ta đã tới điểm thày đã trao truyền cho con tối đa mà con có thể nhận. Mặc dù thày mong thày có thể tiếp tục nói thêm một hay hai tiếng nữa, thày nhận ra sự kiện đơn giản là vũ trụ vật lý đặt ra một số giới hạn cho sự tương tác kiểu này giữa chúng ta. Vũ trụ vật lý không đặt giới hạn lên cách con và thày, hay một vị chân sư khác, có thể tương tác trực tiếp trong tâm của con. Các thày không muốn các đệ tử chân sư thăng thiên mãi mãi nghĩ rằng cách duy nhất mà họ tương tác với các chân sư thăng thiên là xuyên qua một vị sứ giả hay một giáo lý vỏ ngoài. Các thày muốn tất cả các con tới được điểm có tương tác trực tiếp với các thày trong trái tim mình và trong tâm mình,

Tới đây thì thày cảm ơn các con, thày cảm ơn các con từ đáy lòng đã hội họp nơi đây nhân ngày lễ Hạ thiên này. Thày bảo đảm với các con là những lời kêu gọi của Mẹ Mary là các hội nghị này quan trọng không vô ích, là điều Mẹ Mary có thể sẽ nói với các con sau khi các con đã giải quyết nhu cầu của thân thể vật lý.

Do đó, con yêu dấu, thày cảm ơn các con một lần nữa. Thày bảo đảm với con là thày tri ân và rất vui mừng có một nhóm đệ tử sẵn sàng để cho thày nói một cách tự do và cởi mở như thế này. Nếu thày đã làm được chuyện này trong 2000 năm vừa qua thì thế giới thật sự đã khác ngày nay.

Hiểu tại sao con không thể hiểu quả vị Ki-tô

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 5 tháng 5 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày đã không có ý định nói trong hội nghị này vì lần trước thày đã có dịp nói ý mình. Nhưng vì các con đã hỏi vị sứ giả nhiều câu hỏi về quả vị Ki-tô, nên thày quyết định là các con sẽ được lợi lạc nếu thày thuyết giảng về đề tài này.

9.1. Mối đe đọa lớn nhất cho tà lực

Các con yêu dấu, điều đầu tiên hết mà chúng ta cần nhìn nhận là quả vị Ki-tô cá nhân, tức là khi con mang vào mình tâm thức Ki-tô, là mối đe dọa lớn nhất cho tà lực và các thày giả trên hành tinh này. Do đó, họ đã làm tất cả mọi điều mà họ có thể nghĩ được để ngăn chặn con người biết về quả vị Ki-tô, thấy là đạt quả vị Ki-tô là một điều thiết thực mà họ có thể làm được, và hiểu tiến trình thành tựu quả vị Ki-tô và nó nghĩa là gì.

Tà lực đã làm mọi điều mà họ có thể nghĩ ra để tạo ra đủ loại mưu mô làm lạc hướng, dựng lên những mục đích tâm linh khác có thể dẫn tới một trạng thái nhận biết cao hơn nhưng không đe dọa họ nhiều bằng quả vị Ki-tô. Họ cũng đã làm mọi điều mà họ có thể nghĩ ra để định nghĩa quả vị Ki-tô theo cách khiến người hành giả muốn đạt được hay cố gắng đi tới một mục đích tối hậu và rồi bỗng nhiên nghĩ rằng họ đã đạt được mục đích và không cần tiến xa hơn nữa.

9.2. Không có trạng thái tối hậu

Con yêu dấu, điều quan trọng nhất mà con có thể nhận ra về quả vị Ki-tô là nó là một tiến trình liên tục. Con có thể đạt quả vị Ki-tô khi còn đang hiện thân, nhưng không có một trạng thái quả vị Ki-tô tối hậu mà con có thể đạt khi đang hiện thân. Chúng ta có thể nói không có một trạng thái quả vị Ki-tô tối hậu theo nghĩa là không có trạng thái tâm thức nào tối hậu, có thể ngoại trừ tâm thức của đấng Sáng tạo, nhưng ngay cả nó cũng thăng vượt chính nó khi nó sáng tạo. Con cần nhận ra ở đây là không có một trạng thái tối hậu.

Cuộc sống, sự nhận biết, sự tự nhận biết là một tiến trình liên tục. Khả năng tự thăng vượt lúc nào cũng có. Chưa từng có – chưa từng có – một trạng thái bất động trong thế gian. Chưa từng có một trạng thái bất động trong thế gian và sẽ không bao giờ có. Chưa bao giờ có cái khởi đầu và sẽ không bao giờ có cái chấm dứt. Có thể có một khởi đầu và chấm dứt của một chu kỳ, nhưng không có cái khởi đầu tối hậu mà trước đó không có gì cả. Có cái khởi đầu của thế giới hình tướng của chúng ta khi đấng Sáng tạo hiện hữu trong chính ngài nhưng đấy không phải là cái khởi đầu tối hậu, bởi vì chưa bao giờ đã có cái khởi đầu tối hậu. Sẽ không bao giờ có cái chấm dứt tối hậu.

9.3. Con không thể hiểu quả vị Ki-tô

Đây là điều mà tâm đường thẳng thấy rất khó lãnh hội và đó là lý do vì sao con cần hiểu là con không thể hiểu quả vị Ki-tô. Tuy nhiên, con có thể tới chỗ hiểu được là con không thể hiểu quả vị Ki-tô. Khi con hiểu là con không thể hiểu quả vị Ki-tô và tại sao con không thể hiểu quả vị Ki-tô, thì lúc ấy con có thể bắt đầu nắm được đôi chút thoáng biết quả vị Ki-tô là gì.

Con cần nhận ra ở đây là đa số con người trên trái đất đã bị lập trình để suy nghĩ qua tâm đường thẳng, tâm phân tích và duy lý. Tâm này không thể hiểu, nắm bắt và xử lý quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô vượt lên trên những gì tâm đường thẳng có thể xử lý. Đó là lý do vì sao con cũng cần hiểu là cách con nhìn quả vị Ki-tô ngay bây giờ không phải là cách tối hậu nhìn quả vị Ki-tô. Dù thày là một chân sư thăng thiên, thày vẫn không thể cho con một bài thuyết trình tối hậu về quả vị Ki-tô vì quả vị Ki-tô là một tiến trình nâng cao tâm thức dần dần.

Các thày đã cho các con kiến thức về 144 tầng tâm thức có thể có được trên trái đất. Như vậy chúng ta có thể nói quả vị Ki-tô là tiến trình qua đó con bắt đầu từ tầng 48 và dần dần nâng tâm thức lên tầng 144. Khi tới tầng 144 thì con đạt được mức cao nhất của quả vị Ki-tô mà có thể đạt được trên trái đất trong tình trạng hiện nay.

Điều này có nghĩa là, con yêu dấu, khi con bắt đầu ở tầng 48 thì con có thể có một hiểu biết nào đó về quả vị Ki-tô, nhưng đó không phải là hiểu biết trọn vẹn. Khi con tăng triển tới các tầng tâm thức cao hơn thì sự hiểu biết và trải nghiệm của con về quả vị Ki-tô sẽ thay đổi. Con sẽ không nắm biết được trọn vẹn quả vị Ki-tô cho tới khi con đạt tầng 144. Do đó, con thấy được là không thể đưa ra một định nghĩa về quả vị Ki-tô mà những người ở nhiều tầng tâm thức khác nhau từ 48 tới tầng 144 có thể hiểu được.

Tại sao thày nói là bắt đầu từ tầng 48? Bởi vì những người ở dưới tầng 48 không thể hiểu được quả vị Ki-tô. Lẽ dĩ nhiên họ có thể nghe tới khái niệm quả vị Ki-tô. Họ cũng có thể quyết định là họ muốn đạt quả vị Ki-tô, nhưng họ không thể hiểu quả vị Ki-tô thực sự nghĩa là gì. Do đó, họ có thể tạo một nhận thức lý trí, duy lý, đường thẳng về quả vị Ki-tô là gì. Họ còn có thể nghĩ rằng họ đang tiến triển trên đường tới mục đích đó nhưng không phải vậy đâu, con yêu dấu. Con có thể nâng cao tâm thức từ tầng thấp nhất lên tới tầng 48, và như vậy con đang tiến bộ theo nghĩa tâm linh nhưng con còn chưa bắt đầu tiến trình mang vào quả vị Ki-tô.

Lý do là vì con còn quá dính chặt vào tâm vỏ ngoài. Tâm này nghĩ rằng nó có thể hiểu mọi chuyện bằng cách tạo nên những nhãn hiệu, và sau đó thêm phán xét giá trị vào nhãn hiệu mà họ đã tạo ra dựa trên tư duy nhị nguyên. Rồi sau đó họ nghĩ họ có thể định nghĩa quả vị Ki-tô dựa trên một số tiêu chuẩn vỏ ngoài. Họ nghĩ họ có thể lập ra một danh sách và nói rằng: “Khi tôi hội đủ một tiêu chuẩn thì tôi sẽ đánh dấu là đã làm xong. Sau đó tôi sang tiêu chuẩn tới, và đánh dấu đã làm xong. Khi tôi đến cuối danh sách và đã đánh dấu hết mọi tiêu chuẩn, thì tôi đạt được quả vị Ki-tô.” Đó là lý do duy nhất những người ở dưới tầng tâm thức 48 có thể nhận định về quả vị Ki-tô.

Có nhiều thày giả trên thế giới chỉ cho con một con đường tu dẫn tới một mục đích nào đó. Họ có thể không gọi đó là quả vị Ki-tô, họ có thể gọi đó là nhận biết cao, tâm thức toàn vũ, giác ngộ hay bất cứ gì khác. Nhưng đấy là một con đường tu máy móc, con đường tu vỏ ngoài. Qua việc thực hành một số bài tập hay nghi lễ, hay học giáo lý, nhớ thuộc lòng, họ nghĩ rằng họ có thể hội đủ điều kiện để lên thiên đàng khi họ làm tròn một số tiêu chuẩn được quy định trên trái đất.

9.4. Bắt đầu quả vị Ki-tô

Giờ đây, con yêu dấu, khi con đi cao hơn tầng tâm thức 48, con có thể bắt đầu tiến trình quả vị Ki-tô. Có thể lúc đó con vẫn còn nhiều hiểu lầm về quả vị Ki-tô nhưng để có thể đi quá tầng 48, con đã có đức tính cốt yếu để bắt đầu tiến trình quả vị Ki-tô, đó là sự sẵn sàng lắng nghe trực giác của mình, ngay cả khi tâm duy lý, đường thẳng nói với con điều gì khác. Nói cách khác, chuyện xảy ra ở tầng 48 là con bắt đầu nghe theo trực giác của mình trong một số tình huống và do đó, con phớt lờ, bỏ qua một bên hay vô hiệu hóa tâm duy lý, đường thẳng, suy luận, lý trí và phân tích của mình.

Tất cả các con đang ở đây sẽ thấy – và tất cả các con đều ở trên tầng tâm thức 48 vì nếu không thì các con không ở đây – là con đã lấy quyết định đi vào con đường tâm linh. Bạn bè và gia đình con khó thông cảm con vì họ suy luận một cách duy lý, đường thẳng là con không nên làm điều con đang làm, con không nên tin hay chấp nhận những điều con đang chấp nhận. Có thể là con không thể cho họ một hiểu biết duy lý và đường thẳng mà họ có thể chấp nhận, vì sao con đang làm những chuyện con đang làm. Con giản dị biết đây là chuyện đúng cho con.

Như thế, đây là cốt yếu của quả vị Ki-tô giữa tầng 48 và 96. Con nâng tâm thức bằng cách dùng Bảy Tia Sáng như các thày đã mô tả trong khóa học tự điều ngự, là một con đường tuần tự do các Thượng sư hướng dẫn. Khi con tu như vậy thì con gia tăng trực giác, thực sự là sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con và với các chân sư thăng thiên. Điều này có nghĩa là con càng ngày càng muốn lờ đi tâm duy lý của mình, cũng như những thúc đẩy, phóng chiếu đến từ bên ngoài, như từ người khác (như gia đình hay bạn bè), xã hội, tâm thức đại chúng, tà lực hay bất cứ gì khác.

Khi con lên cao hơn, sẽ có nhiều phóng chiếu hơn nhưng con càng ngày càng giỏi hơn trong việc không để chúng ảnh hưởng mình. Khi con tiến về hướng tầng 96, con gia tăng khả năng đọc sự rung động, đọc mức độ năng lượng của một người đang nói chuyện với con, của một ý tưởng đến với con hay ngay cả những phóng chiếu mà các lực thấp đang phóng tới con. Con tiến bộ hơn trong việc đọc mức độ rung động, và con giỏi hơn trong việc cảm nhận nó ở dưới một mức nào đó hay ở trên mức đó.

9.5. Học cách đọc rung động

Bây giờ, con yêu dấu, điều thày đang nói với con ở đây là khi con đi lên trên tầng tâm thức 48, thì con đã thiết lập được trong chính bản thể của mình, trong tim mình, một sự rung động nào đó mà con biết là cao hơn sự rung động dựa trên sợ hãi của thế gian. Đây là sự rung động cao nhất mà con có thể nhận ra với tầng mức tâm thức của con. Tỷ dụ như ở tầng 48, con có một mức rung động nền nào đó mà con có thể nhận ra. Do đó, con nhận ra được là có một số thứ rung động rõ ràng ở dưới mức này và một số thứ khác rung động trên mức này. Cũng có thể con thấy khó nhận ra các rung động quá cao trên mức này. Cũng có thể, con gặp khó khăn phân biệt giữa rung động nền của con và các rung động thấp hơn nó một chút, nhưng con có thể cảm nhận rõ ràng sự khác biệt giữa rung động nền của con và rung động rất thấp dưới nó.

Bây giờ khi con lên các tầng cao hơn hướng tới tầng 96, con có thể nhận ra những rung động cao hơn. Điều này có nghĩa là giờ đây con có thể nhận ra những rung động càng ngày càng cao hơn. Lẽ dĩ nhiên, con không quên rung động nền mà con có ở tầng 48 và do đó bây giờ con có thể nhận ra một dải rung động cao ngày một rộng hơn. Điều này cũng có nghĩa là con giỏi hơn trong việc phân biệt những rung động thấp hơn tầng 48 một chút, và do đó tà lực càng lúc càng khó lừa được con.

Con sẽ tới một điểm đạt tới tầng 96, khi ấy con đạt được khả năng đọc bất kỳ rung động nào mà sa nhân phóng tới con từ dưới tầng 48. Nói cách khác, con không thể bị lừa bởi một rung động ở dưới tầng 48, dù nó được ngụy trang tài tình đến đâu chăng nữa. Con có thể tự mình nhận ra rung động đó. Điều này không có nghĩa là con đã đạt được trọn vẹn quả vị Ki-tô. Thực sự thì đây là giai đoạn sơ bộ của quả vị Ki-tô, và tiến trình thực sự đạt quả vị Ki-tô cá nhân – trở thành Ki-tô Hằng sống (Living Christ) – bắt đầu trên tầng 96.

9.6. Khai ngộ tại tầng 96

Tuy nhiên ở tầng 96, con đối mặt với một khai ngộ quyết định, và con thấy thày trải qua khai ngộ này khi thày bắt đầu sứ mệnh của thày. Thánh kinh không mô tả rành rọt sự việc này nhưng con thấy hoàn cảnh bữa tiệc cưới ở Cana, khi mẹ của thày phải thúc đẩy thày biến nước thành rượu và như thế ra mặt khởi sự sứ mệnh công chúng của thày. Trong Thánh kinh cũng có một số ám chỉ khác, như lễ rửa tội do Giăng Báp-tít (John the Baptist), và một số ám chỉ vi tế khác.

Điều thày muốn nói ở đây là khi con tới tầng 96, con đối mặt với một quyết định hệ trọng. Con có thể tiếp tục theo đuổi sự tăng triển tâm linh để nâng mình và trạng thái tâm thức của mình lên cao hơn, hay con có thể chọn lựa là kể từ điểm này trở đi, con theo đuổi sự tăng triển tâm linh không phải để tự nâng mình lên mà để phụng sự và nâng toàn thể lên.

Sự khác biệt trông có vẻ vi tế. Nó có vẻ vi tế vì nó thực sự vi tế. Trên thực tế, hầu hết mọi người ở dưới tầng 96 sẽ không hiểu được sự vi tế này và những người dưới tầng 48 thì sẽ không hiểu được gì cả. Họ còn không thể thấy được tại sao phải có chọn lựa đó. Con yêu dấu, quả vị Ki-tô ở các tầng cao của tâm thức không chú trọng vào việc nâng cao tâm thức của mình, nâng cao cái ta của mình. Con hiểu chăng, con yêu dấu, là giữa tầng tâm thức 48 và 96, con nâng cao cá thể của mình, như con thấy nó lúc đó, vượt lên trên sức hút của tâm thức đại chúng?

Như tình trạng tâm thức đại chúng hiện nay trên trái đất, không cách chi con có thể biểu hiện một trạng thái tâm thức cao nếu con bị ảnh hưởng bởi tâm thức tập thể. Do đó ở tầng 48, con nhận ra là con có tiềm năng, với tư cách một cá nhân, nâng mình lên cao hơn tâm thức đại chúng. Ở tầng 48, con có một ý niệm bản ngã nào đó, một ý niệm bản sắc nào đó, một hiểu biết trí năng mình là ai, một hiểu biết tình cảm mình là ai và một hiểu biết vật lý có ý thức mình là ai. Như con thấy mình là ai ở tầng 48, đó là cái ta mà con bắt đầu nâng lên.

Giờ đây, lẽ dĩ nhiên, cái ta này thay đổi khi con tiến về hướng tầng 96, nhưng trên căn bản con vẫn còn xem mình là một cá thể đang đi trên con đường tâm linh và đang nâng cao tâm thức của mình. Đây là điều không tránh được, đây là điều cần thiết – và điều này không có gì sai trái – là con có một động cơ thúc đẩy con muốn nâng mình lên cao hơn, muốn con đạt được một tầng tâm thức cao hơn.

Tuy nhiên, điều này cũng tạo cơ hội để các thày giả ảnh hưởng con một cách vi tế. Họ đã làm điều này, ví dụ bằng cách mô tả quả vị Ki-tô, giác ngộ hay tâm thức toàn vũ như một trạng thái siêu nhiên giúp con đạt được quyền năng siêu nhiên, như biến nước thành rượu, đi trên nước hay làm người chết sống lại – hoặc bất kỳ điều gì khác. Họ khiến con nghĩ con sẽ trở thành một siêu nhân với quyền năng siêu nhiên. Có nhiều người mong muốn có quyền năng như thế và mong muốn bước ra ngoài chứng minh những quyền năng này với người khác. Họ có thể có thiện ý muốn thu hút người khác vào con đường tâm linh, nhưng đằng sau đó luôn luôn có thúc đẩy vị kỷ muốn nâng mình lên cao hơn người khác. Nói cách khác, khi con đi trên con đường tu từ tầng 48 lên 96, thì lúc nào con cũng còn một yếu tố vị kỷ.

Khai ngộ mà con đối mặt ở tầng 96 là: Con có sẵn sàng buông bỏ ham muốn tăng trưởng đến từ cái ta không? Con có sẵn sàng bước lên một động lực cao hơn và nhận ra rằng mục đích thật sự của sự thăng thiên là bây giờ con sẽ bắt đầu tháo dỡ cái ta mà con đã sử dụng như cỗ xe để tiến lên từ tầng 48 tới tầng 96?

Bây giờ con có thể so sánh điều này với hỏa tiễn không gian có hai tầng, con yêu dấu. Tầng đầu có động cơ với một bình nhiên liệu vĩ đại cần thiết để đưa hỏa tiễn vượt khỏi hấp lực của trái đất. Con cần có cái ta đó giữa tầng 48 và tầng 96. Thày không khiển trách ai hết. Việc này không có gì sai trái cả. Việc này cần thiết, nhưng như con thấy với trường hợp hỏa tiễn, một khi đã đi vào không gian, thì nó không cần động cơ khổng lồ và bình nhiên liệu đó nữa bởi vì chúng chỉ cần thiết để đưa tới giai đoạn thứ nhì. Do đó, hỏa tiễn phải tách ra và để chúng rơi xuống.

Sự khác biệt cốt yếu ở tầng 96 là sự khác biệt giữa những người hiểu được điều này và những người không hiểu. Có những người ở tầng 96 tiếp tục tìm cách nâng mình lên. Và có những người thấy được nhu cầu buông bỏ cái ta mà họ có ở tầng 96. Điều này không có nghĩa là họ có thể buông bỏ nó ngay tức khắc bởi vì con luôn luôn cần một sự liên tục nào đó để sinh hoạt trong cõi vật chất. Do đó, điều mà thày muốn nói là một khi con tới tầng 96 và hiểu được giai đoạn cao của quả vị Ki-tô là gì, thì con đi vào một tiến trình dẫn con từng bước một từ tầng 96 lên tầng 144. Tiến trình này không có mục đích nâng cao chính mình, cho mình một số khả năng đặc biệt nào đó, nâng mình lên cao hơn người khác. Nó thực sự là tiến trình tháo dỡ cái ta chia cách con khỏi người khác.

9.7. Cái nhìn cấp tiến về quả vị Ki-tô

Con thấy chăng, con yêu dấu, việc con cần một cái ta để kéo mình lên trên tâm thức đại chúng có vẻ là một sự mâu thuẫn. Vì sau đó, một khi đã làm xong điều này, thì con lại cần tháo dỡ cái ta đó và cố gắng hợp nhất với tất cả mọi người. Sự thực là khi con còn bị ảnh hưởng bởi tâm thức đại chúng, thì con không hợp nhất với người khác, con không hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con, con không hợp nhất với các chân sư thăng thiên. Con chỉ giản dị ở trong trạng thái máy móc trong đó các sa nhân tìm cách khiến cho mọi người đều giống nhau. Trạng thái đó, con yêu dấu, không phải là hợp nhất.

Trạng thái đó có thể gọi là giống nhau, nhưng nó không là hợp nhất. Con thấy chăng, hợp nhất theo nghĩa tâm linh là khi con nhận ra cá thể tâm linh thiêng liêng của con nhưng cá thể tâm linh này không kéo con tách biệt khỏi người khác. Các thày là chân sư thăng thiên nhìn nhận cá thể của mình. Thày nhìn nhận cá thể của mình khác với cá thể của thày MORE hay cá thể của thày Saint Germain, nhưng các thày không xung đột hay ganh đua với nhau. Các thày đạt được một mức hợp nhất mà con không thể nào hiểu được trong trạng thái chưa thăng thiên. Nhưng con có thể bắt đầu hiểu được khi con tiến gần tầng 144.

Có hai giai đoạn chính của quả vị Ki-tô và đó là lý do vì sao khi con ở dưới tầng 96, con có một cái nhìn nào đó về quả vị Ki-tô, một hiểu biết nào đó về quả vị Ki-tô. Một khi con lên trên tầng 96, con bắt đầu nhận là nó nhiều hơn thế nhiều. Nó thực sự là cái gì đó hoàn toàn khác với cái con nghĩ ở tầng tâm thức trước đó của con. Điểm cực kỳ – cực kỳ – quan trọng là khi con đang ở bất cứ tầng nào, thì con, một cách có ý thức, lấy thái độ là ở tầng hiện tại của con, con không thể hiểu trọn vẹn quả vị Ki-tô là gì. Do đó, con không nhìn một định nghĩa hay quan niệm đặc thù nào về quả vị Ki-tô và nói: “Đây là quả vị Ki-tô” và do đó con đóng tâm lại với cái nhìn cao hơn, hiểu biết cao hơn, trải nghiệm cao hơn.

Trong khi con ở dưới tầng 96, con sẽ vẫn còn nghĩ quả vị Ki-tô là cái gì con có thể hiểu được. Thày yêu cầu con ý thức là dù con có thể có một hiểu biết nào đó về quả vị Ki-tô, con sẽ tới một điểm mà hiểu biết này cần phải đào thải. Bây giờ, thay vì hiểu quả vị Ki-tô, con chú tâm vào việc trải nghiệm nó. Có sự khác biệt giữa hiểu và trải nghiệm theo nghĩa là khi con hiểu một điều gì, con nhìn nó từ bên ngoài. Con nói: “Quả vị Ki-tô ở trên kia và tôi hiểu nó là cái gì, và tôi đang hiểu làm sao tôi có thể lại gần nó.” Điều này ngụ ý là con chưa tới chỗ đó.

9.8. Trải nghiệm quả vị Ki-tô

Khi con đi tới tầng 96 và con lấy quyết định một cách ý thức là con xoay chuyển khỏi sự chú tâm vào chính mình, để chú tâm vào cái gì vượt quá cái ta, thì lúc ấy con bắt đầu trải nghiệm quả vị Ki-tô. Một lần nữa điều này không có nghĩa là con trải nghiệm trọn vẹn quả vị này, nhưng con trải nghiệm quả vị Ki-tô ở một giai đoạn nào đó. Đây là lúc, như sứ giả này đã mô tả, con cần tới điểm sẵn sàng chấp nhận một cách ý thức là con đã đạt được một mức nào đó của quả vị Ki-tô. Nếu con không chấp nhận điều này thì con thực sự không thể nào bắt đầu tiến trình trải nghiệm những biểu hiện ngày càng cao hơn của quả vị Ki-tô.

Con có thể nghĩ con là Ki-tô ở dưới tầng 96, và các thày luôn luôn thấy một số đệ tử nghĩ rằng họ có thể tuyên bố là họ đã đạt được quả vị Ki-tô trong khi họ vẫn còn dưới tầng 96 hay ở tầng 96. Con yêu dấu, họ tuyên bố như thế với tâm vỏ ngoài và đây không phải là điều thày đang nói ở đây. Thày nói tới một sự chuyển hóa vi tế không dựa trên tâm vỏ ngoài. Đây không phải là việc quyết định với tâm vỏ ngoài nhưng là nhận ra rằng con cũng không thể chối bỏ quả vị Ki-tô.

Con nhận ra rằng lúc nào trong tự ngã con người cũng có sự tương tác giữa cảm nhận tự ti và tự tôn. Con nhận ra rằng có một khuynh hướng, có một yếu tố trong tự ngã muốn thổi phồng tầm quan trọng của nó. Do đó, con nhận ra là những người bị ảnh hưởng bởi khía cạnh này của tự ngã sẽ tuyên bố họ là Ki-tô trước khi họ thực sự sẵn sàng cho quả vị đó, trước khi họ quyết định ngừng tập trung vào cái ta. Họ tìm cách dùng quả vị Ki-tô như một cách để nâng cái ta tách biệt lên một vị thế tối hậu nào đó.

Mặt khác con cũng thấy có những người bị kẹt trong khía cạnh tự ti của tự ngã và nghĩ rằng họ không được công nhận là họ đã đạt được một giai đoạn nào đó của đường tu. Họ phải khiêm cung, họ không được gây chú ý tới họ. Họ quá quan tâm cần tránh kiêu mạn đến độ rơi vào đối cực là rất khiêm cung và không tuyên bố mình đã đạt được bất cứ giai đoạn nào. Con thấy chăng, kiêu mạn có thể biểu hiện dưới cả hai dạng tự ti tự tôn.

9.9. Công nhận quả vị Ki-tô

Khi con nhận ra điều này, con nhận ra rằng con cần xem xét mình, xem xét tâm lý mình, xem xét cả hai khía cạnh của tự ngã, khía cạnh tự ti, khía cạnh tự tôn, để nhận thấy chúng đã ảnh hưởng cái ta của con ra sao. Và khi con đi qua tiến trình phơi bày động lực này của tự ngã, thì con sẽ tới một điểm con nhìn thấu suốt và con nhận ra con hơn nó. Đây không phải cái con là, nó không quy định con. Rồi con nhận ra là con thực sự muốn hoàn toàn vượt lên trên động lực của tự ngã vì con muốn là một với Hiện diện TA LÀ của con, con muốn là một với vị chân sư thăng thiên thân thiết nhất trong tim con. Con muốn điều này hơn bất kỳ vị thế nào con có thể có được trên trái đất.

Đó là lúc con tới được sự nhận biết nội tâm tự phát là con không thể nào tuyên bố mình có quả vị Ki-tô quá sớm, nhưng con cũng không thể chối bỏ nó, phớt lờ nó, quá tầng tâm thức thực sự của con. Lúc đó, con nhận ra rằng con cần công nhận là con đã tiến bộ trên con đường tâm linh, con đã đạt được một tầng tâm thức nào đó. Con đã đạt một tầng của quả vị Ki-tô ở trên tầng 96 bởi vì con nhận ra rằng con không còn chú tâm tới cái ta tách biệt. Con còn một số khía cạnh của cái ta này nhưng con không chú tâm tới chúng. Nó không quy định con, nó không quy định con đường tu của con.

Đó là lúc con công nhận con đã đạt được một tầng nào đó của quả vị Ki-tô, nhưng con cũng công nhận đó không phải là mức cao nhất của quả vị Ki-tô. Con nhận ra rằng giữa tầng 96 và 144, có một tiến trình không giống điều nhiều người nghĩ. Đây không phải là giai đoạn con đạt được khả năng siêu nhiên nào đó. Khả năng siêu nhiên không phải là một phần cốt yếu của quả vị Ki-tô. Có những người đã đạt quả vị Ki-tô, đã hội đủ tư cách để thăng thiên nhưng chưa bao giờ biểu lộ bất kỳ khả năng siêu nhiên nào, chưa bao giờ có ai nhận ra họ. Những người dưới tầng 48 còn không thể nào nhận ra người ở các tầng cao hơn, và hầu hết những người dưới tầng 96 cũng không thể nhận ra họ một cách dễ dàng.

Ở giai đoạn này, con không chú tâm vào thế gian theo nghĩa là con không chú tâm vào việc sống theo hình ảnh hay chờ đợi nào đó của thế gian. Con không tìm cách khiến thế gian nể phục. Con không đi tìm sự công nhận của thế gian. Con đã đạt được cái mà con có thể gọi là một ý niệm cao về sự tự túc tâm linh khi con không cần sự công nhận hay chứng thực của người khác hay của thế gian. Con không cần người khác chứng thực vì con có sự chứng thực từ bên trong qua trải nghiệm hợp nhất cao hơn so với trước kia. Con vẫn còn nhớ cảm nhận khi con chưa trải nghiệm mình là một với Hiện diện TA LÀ của con, hay với các chân sư thăng thiên, và cảm nhận hiện tại khi con có sự hợp nhất này. Do đó con không nhìn mức độ hợp nhất như một mục tiêu lý thuyết mà con nhìn từ phía xa. Con đang trải nghiệm sự hợp nhất này và con trải nghiệm rằng khi con tiếp tục xem xét mình và thấy thêm những hạn chế, thêm những tin tưởng hạn chế và con buông bỏ chúng, thì khi đó con đạt được một mức độ hợp nhất cao hơn.

9.10. Liên tục quan sát mình

Con nhận ra rằng con đường từ tầng 96 lên tới tầng 144 thực sự là con đường liên tục quan sát mình. Trong mọi hoàn cảnh, con quan sát phản ứng của mình. Mỗi khi con nhận thấy một phản ứng mà con biết rung động thấp hơn tầng rung động nền mà bây giờ con đã nhận ra, thì con xem xét nó với tâm cởi mở và chân thật. Con không tìm cách che giấu nó với chính mình, con không tìm cách biện minh cho nó. Con cũng chẳng lên án mình vì con đã vượt quá nhu cầu lên án mình theo bất cứ kiểu nào. Con không tìm lỗi của người khác, con không tìm lỗi của chính mình, con không phán xét với sự phán xét giá trị nhị nguyên. Con chỉ giản dị quan sát. Con quan sát là ở đây đang có cái gì hạn chế con và con nhìn xem nó là gì cho tới khi con khám phá ra cách nó vận hành. Sau đó con nhận ra con đã cho cái ta đó chết đi như thế nào và con vươn lên một tầng cao hơn.

Con thấy chăng, con yêu dấu, ở dưới tầng 96, con cố gắng đạt quả vị Ki-tô dựa trên một cái nhìn của cái ta vỏ ngoài. Nó dựa trên việc nâng mình lên khỏi sức hút của tâm thức đại chúng. Giờ đây khi con đi quá tầng 96 và trên thực tế, để có thể đi quá tầng 96, con cần đạt được khai ngộ mà thày đã mô tả khi thày nói là nếu con muốn cứu mạng sống của mình thì con sẽ mất nó, nhưng những ai sẵn lòng chịu mất mạng sống của mình để phụng sự thày thì họ sẽ tìm được nó. Câu này có nghĩa là giờ đây con bắt đầu buông bỏ một số khía cạnh của đời sống của mình, nghĩa là cái ta vỏ ngoài, cái ta đã đưa con tới tầng 96. Con cần để cho một số yếu tố của cái ta này chết đi vì con trải nghiệm (con cảm nhận, con thấy) là chuyện quan trọng hơn là con tiến một bước cao hơn trong tiến trình hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con, hay hợp nhất với vị chân sư thăng thiên nào thân thiết nhất trong tim con. Vị này có thể là thày; vị này có thể là một chân sư nào khác mà con muốn. Đây là một tiến trình hợp nhất và con chỉ đạt được hợp nhất với cái ta cao của con, với Hiện diện TA LÀ của con, bằng cách cho cái ta vỏ ngoài chết đi từng bước một, từng yếu tố một, từng phần nhỏ một.

9.11. Chết liên tục

Ta có thể nói đây là một tiến trình chết liên tục vì con đang chết đi khỏi thế gian. Con đang cho phép cái ta thế gian chết đi để khi ông hoàng của thế gian tìm đến, thì y sẽ thấy trong con càng ngày càng ít chuyện để nắm, cho tới khi cuối cùng thì y không tìm thấy bất cứ gì nữa. Con đã cho phép cái ta thế gian này chết đi, và nó không còn gì nữa hết. Ở điểm đó, chẳng còn gì giữ con hiện thân và đó là lý do vì sao con đi vào tiến trình thăng thiên. Điều quan trọng mà con cần ghi nhớ là vấn đề là cho cái ta vỏ ngoài chết đi.

Bây giờ con yêu dấu, thày gọi nó là một hình thức chết vì hầu hết mọi người xem cái chết như một giai đoạn cuối cùng khi cái gì đó biến mất, cái gì đó chết đi, cái gì đó không còn nữa. Đây đúng là điều xảy ra cho cái ta vỏ ngoài của con: nó chết đi. Có một cái ta nào đó, một yếu tố nào đó của nó, và như thày Hilarion đã giải thích trong sách của thày (Khai ngộ Thần bí về Viễn quan) có một ảo tưởng nào đó ở mỗi tầng tâm thức. Chúng ta cũng có thể nói là có một cái ta mà con cần cho chết đi tại tầng 96 để con có thể lên tầng 97. Sau đó có một cái ta ở tầng 97 mà con cho phép chết đi để có thể lên tầng 98 và tiếp tục như vậy. Điều này có tính chất chung cuộc.

Bây giờ, lẽ dĩ nhiên con cũng làm điều này giữa tầng 48 và tầng 96, nhưng con không ý thức về nó trong hầu hết trường hợp. Khi con đi quá tầng 96 và lấy quyết định đầu tiên cho cái ta chết đi, thì con càng ngày càng ý thức tiến trình đó. Con thấy là có cái gì đó thật sự chết đi. Nó không còn nữa, con buông bỏ nó hoàn toàn. Ở điểm này, con bắt đầu nhận ra là cái chết không phải là điều gì xảy ra tới con mà con không kiểm soát được. Cái chết thực sự là do con ý thức buông bỏ cái ta không còn giúp ích con nữa. Nó là một tiến trình mà con kiểm soát được, con yêu dấu. Con để cái ta đó chết đi một cách có ý thức và con thấy đây là hành động chung cuộc vì cái ta không còn nữa sau khi con buông bỏ nó.

9.12. Hình ảnh mỹ lệ về quả vị Ki-tô

Con thấy chăng con yêu dấu, có nhiều người nghe hay đọc bài giảng này và cảm thấy thất vọng vì bỗng nhiên những điều thày mô tả về quả vị Ki-tô nghe không mỹ lệ như họ đang mường tượng. Điều này chứng minh là con đã phần nào chấp nhận một trong những hình ảnh giả mà các thày giả đưa ra về ý nghĩa của các trạng thái tâm thức cao.  

Có một khía cạnh mà thày đặc biệt muốn con lưu ý. Một điều điển hình của các phong trào tâm linh (hoặc là các tôn giáo lớn hay các phong trào tâm linh nhỏ hơn xoay chung quanh một vị đạo sư) là họ thường tôn vinh người lãnh đạo phong trào như một người cao hơn những người khác. Ví dụ con có thể thấy một số tổ chức tâm linh hiện đại do một người nào đó khởi xướng và những người trong phong trào nghĩ rằng người này đã giác ngộ. Họ thường có một cái nhìn không được rõ ràng về thế nào là giác ngộ, nhưng họ nghĩ rõ ràng là người giác ngộ cao hơn những người khác.

Nếu giác ngộ có một ý nghĩa nào đó như một khái niệm, thì nó đồng nghĩa với quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô là gì? Nó là, khi con càng ngày càng tới gần tầng 144 hơn, con bắt đầu nhận ra là bên dưới mọi hiện tượng thế gian là cái một. Điều này có nghĩa là trước tiên con thấy con là một với Hiện diện TA LÀ của mình, và một với các chân sư thăng thiên ở trên con. Con thấy con là một phần của dòng năng lượng tuôn chảy không ngừng từ Tánh linh – phần trên của hình số tám. Sau đó, khi con càng tới gần điểm nối ở giữa hình số tám, thì con bắt đầu thấy con là một với tất cả những gì ở dưới, không phải là với sa nhân, với tâm thức nhị nguyên, nhưng là một với những nối dài có tự nhận biết của Thượng đế, những đứa con trai con gái của Thượng đế. Con thấy con là một với tất cả mọi người. Khi con tiến gần hơn tới trạng thái là một, thì mọi phê phán giá trị, mọi so sánh hoàn toàn phai mờ đi, con yêu dấu.

Nghĩa là, chúng ta cần nói là khi con tiến gần tầng tâm thức 144, thì lẽ dĩ nhiên con ở một tầng tâm thức cao hơn những người đang ở tầng 48 chẳng hạn. Lẽ tự nhiên, nhờ quyết chí nỗ lực con đã nâng mình lên, cao hơn tầng 48 rất nhiều. Điều này không có nghĩa là giờ đây con xem mình hay hơn hay quan trọng hơn người khác. Ngược lại, những phán xét giá trị của con phai mờ đi và chuyện so sánh mình với người chẳng còn ý nghĩa gì. Trên thực tế, ngay cả việc so sánh mình theo bất cứ thang giá trị nào cũng trở nên vô nghĩa. Con càng lúc càng không chú ý tới chuyện mình đang ở đâu trên thang tâm thức. Con chỉ giản dị chú tâm mình là chính bản thể mình, biểu lộ Sứ vụ Thiêng liêng của mình vì con bắt đầu thấy nó rõ hơn và con phụng sự người khác, phụng sự đại nghĩa nâng cao mọi sự sống của các chân sư thăng thiên. Đây là chú tâm của con.

Con hiểu chăng, con yêu dấu, một người càng giác ngộ thì càng không muốn người khác xem mình đã giác ngộ vì người khác sẽ xem người đã giác ngộ cao hơn họ. Con nhận ra là nếu người khác xem con cao hơn họ, họ không thể xem con là một tấm gương mà họ theo được. Họ thấy có một khoảng cách giữa con và họ và vì thế con không thể cho họ cảm hứng trọn vẹn để họ đi theo con đường mà con đã đi. Con thấy chăng, con yêu dấu, khi một người đặt mình cao hơn người khác một cách cơ bản, thì người đó không thể nào đã giác ngộ. Nếu người đó đã giác ngộ, thì người đó sẽ không muốn người khác đặt họ lên trên bệ cao. Thay vào đó, người giác ngộ sẽ làm tất cả đủ mọi điều để tránh mọi người thấy có khoảng cách. Người giác ngộ muốn mọi người thấy rằng tất cả đều có tiềm năng đi theo cùng con đường tu và đạt được những tầng tâm thức cao. Ở đây, tất cả mọi so sánh, tất cả mọi phê phán giá trị, phai mờ đi và kết quả là con đạt được bình an nội tâm càng ngày càng lớn hơn. Con không phải đáp ứng chờ đợi nào của thế gian. Con không phải cố gắng đạt được điều gì. Con không phải lên án mình vì điều gì mình đã làm. Con không phải phê phán hay đánh giá người khác.

Con thấy chăng, con yêu dấu, khi thày nói: “Ta đến đây để phán xử,” thì thày không muốn nói là thày đến để phê phán và đánh giá và chỉ trích người khác. Câu đó có nghĩa là thày đến để cho phép người khác phán xử chính họ qua cách họ đối xử với thày. Phán xử tối hậu là họ đã giết xác thân vật lý của thày qua đó họ tìm cách giết Ki-tô Hằng sống.

Ngày nay may thay, chúng ta sống trong một thời đại mà sa nhân thấy giết Ki-tô Hằng sống càng ngày càng khó khăn hơn, và do đó lẽ dĩ nhiên con không phải trải qua kinh nghiệm này – thày thành thật hy vọng điều đó cho con. Con hiểu ý ở đây là thày không đến để phê phán và chỉ trích và đánh giá bất cứ ai, như nhiều người nghĩ. Như các thày có nói trước đây, các thày là chân sư thăng thiên không ngồi ở trên này để theo dõi từng hành động, từng lời nói, từng ý nghĩ và cảm xúc của các con. Các thày không chỉ trích, lên án, đánh giá và phê phán con, con yêu dấu. Các thày chỉ tìm cách nâng con lên.

9.13. Nâng người khác thay vì chính mình

Đây là điều con làm khi con tiến càng ngày càng gần tầng 144. Con càng ngày càng bớt quan tâm đến việc tạo cảm tưởng là con cao hơn người khác. Con thực sự càng ngày càng quan tâm đến việc giúp người khác nâng cao tâm thức của họ. Con quan tâm chuyện nâng người khác lên hơn là nâng cao chính mình, và do đó con làm những gì con làm được để tránh chuyện người khác đặt con lên bệ cao.

Con yêu dấu, đây là những ý nghĩ của thày cho lần này. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là giáo lý cuối cùng về quả vị Ki-tô, nhưng đây là những điều mà thày xét sẽ hữu ích cho các con, dựa trên những câu hỏi của các con và của nhiều người trên thế giới. Do đó, thày cảm ơn các con đã lắng nghe và đã là cánh cửa mở, vì một lần nữa, thày có thể dùng luân xa các con để lan tỏa một xung lực đi vào Hàn Quốc và thế giới – đi vào tâm thức đại chúng của thế giới – để tới những ai có tiềm năng đứng ra và nhìn nhận quả vị Ki-tô của mình và bắt đầu bước lên các giai đoạn cao hơn tầng 96.      

Các con yêu dấu, thày muốn nói lên lòng biết ơn sâu xa của thày đối với các con ở Hàn Quốc, đã học giáo lý của các thày, đã đọc các bài thỉnh và đã là công cụ hữu hiệu mang lại những thay đổi mà các con đã thấy trong mười tháng vừa qua kể từ lần hội nghị trước và lẽ dĩ nhiên ngay cả trước lần hội nghị đó. Các thày biết ơn các con và các con yêu dấu, các thày quả thực ghi nhận nỗ lực của các con. Lẽ dĩ nhiên, các thày không tìm cách khiến các con cảm thấy mình hơn người khác nhưng các con yêu dấu, các con hiểu là khi các con đã vượt qua động lực tự ti-tự tôn, thì chuyện nhìn nhận các con đã nỗ lực, và nỗ lực ấy tạo ra thành quả và các con đã đem lại sự thay đổi trong đất nước của các con qua những gì các con đang làm, là chuyện có giá trị. Do đó, lẽ dĩ nhiên, các con có thể tiếp tục đem lại thay đổi. Khi các con vươn lên các tầng tâm thức cao hơn, các con có thể đem lại nhiều thay đổi hơn nữa. Lẽ dĩ nhiên, khi các con đi lên về hướng tầng 96, thì các con càng ngày càng là cánh cửa mở cho xung lực và năng lượng của Hiện diện TA LÀ của các con và các chân sư thăng thiên. Chính dòng năng lượng tuôn chảy xuống này sẽ đem lại sự thay đổi tối hậu nâng trái đất vào thời đại hoàng kim.

Con có thể nói rằng khi con tiến càng ngày càng gần quả vị Ki-tô trọn vẹn ở tầng 144, thì con càng ngày càng là cánh cửa mở để lan tỏa tâm thức của thời đại hoàng kim vào thế giới. Trong nhiều trường hợp, điều này có nghĩa là có thể con càng ngày càng cần làm ít đi ở bên ngoài và đó là lý do vì sao con thấy một số người đã rút về hang động và ngồi đó để giữ quân bình tâm linh. Lẽ dĩ nhiên, trong thời đại này, điều rất quan trọng là hầu hết những người đang cố gắng đạt quả vị Ki-tô cần tích cực tham gia vào xã hội và như thế, các con trở thành những tấm gương. Như các thày đã nói nhiều lần, khuôn đúc có một người được xem là tấm gương là một hiện tượng của thời Song ngư và trong thời Bảo bình chúng ta cần nhiều người làm gương.

Đó là lý do vì sao một tổ chức của thời đại Bảo bình không tôn vinh một người lãnh đạo lên vị thế tối cao nhưng thấy rằng tất cả mọi người đều có tiềm năng làm gương và làm cánh cửa mở. Vì thế, con yêu dấu, thày biết ơn các con đã chịu làm cánh cửa mở để thày truyền xuống ánh sáng ngày hôm nay.

Biết là lời kêu gọi của các con SẼ có kết quả

Bài giảng của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 12/3/2012.

Ta là Ki-tô Hằng Sống.

Các con yêu dấu, tạo sao mình cứ nói về Ki-tô Hằng Sống? Đó là vì, khi họ sát hại xác thân ta 2,000 năm trước đây, họ tưởng là họ đã giết ta. Từ ngày đó, họ đã tìm cách giết giáo lý và gương sống của ta để không ai dám làm theo những lời ta dạy, tức là những ai tin ta thì hãy tiếp tục làm công việc mà ta đã làm và có thể làm những công việc quan trọng hơn nữa, vì ta đã về với cha ta. Và như vậy, ta đã dọn đường cho những người khác theo ta và thể hiện tâm Ki-tô trên trái đất, đứng lên triệt để chống lại các lực phản Ki-tô, phản ý chí, phản chiến thắng, phản tình thương, phản minh triết.

Các con yêu dấu, khi các con đọc một bài nguyện, bài thỉnh hay bài chú cho bất cứ nơi nào hay điều kiện nào trên thế giới, các con có thể tự hỏi: “Ta ngồi nơi đây một mình, đọc một bài nguyện, thì có kết quả gì? Ngay cả nếu ta gia nhập một nhóm và cùng đọc một bài nguyện, thì có kết quả gì?” Các con yêu dấu, kết quả tùy thuộc vào cách con kêu gọi – thái độ con ra sao, con quả quyết ra sao, con hiểu biết trong nội tâm vững chắc ra sao khi con kêu gọi.

Vì, các con yêu dấu, các thày đã nói nhiều lần là tất cả mọi chuyện trong cõi vật lý đều xoay quanh quyền tự quyết của con người. Các con yêu dấu, điểm cốt yếu của quyền tự quyết là gì? Phải chăng chính là việc con lấy quyết định? Do đó, các con yêu dấu, nếu các con chỉ ngồi xuống và đọc một bài nguyện mà không lấy quyết định tại sao mình làm như vậy và mình là ai, thì kết quả sẽ không khả quan lắm. Nhưng quyết định của con càng vững chắc bao nhiêu thì uy lực của bài nguyện sẽ càng lớn bấy nhiêu, và bài nguyện, viễn quan của con, tâm của con sẽ càng có ảnh hưởng lớn trên tâm thức đại chúng.

Khó khăn lớn nhất trên con đường tâm linh

Các con yêu dấu, khó khăn lớn nhất của người đang đi trên con đường tâm linh là gì? Các con yêu dấu, đó chính là các con phải khắc phục được sức kéo xuống của tâm thức đại chúng đang tìm cách khiến con làm những gì mọi người khác đều làm – tức là theo chuẩn mực, làm những gì người khác đang làm, làm những gì được coi là bình thường. Giống như những gì người ta đã làm với ta 2,000 năm trước đây, tức là ngăn chặn không cho ta đi quá xa sự bình thường, không cho ta nổi bật khỏi đám đông, không cho ta đứng lên tỏ thái độ triệt để rốt cuộc đã dẫn ta đến bị đóng đinh trên thập tự.

Do đó, các con yêu dấu, lúc nào cũng có một lực đang tìm cách kéo con xuống, kéo con vào tâm thức đại chúng, làm những gì mà mọi người khác đều làm. Nhưng, các con yêu dấu, nếu các con nhìn lịch sử thế giới thì sẽ thấy lúc nào cũng có hai lực đang vận hành. Một bên là lực kéo xuống của tâm thức đại chúng kéo mọi người làm theo những gì mọi người khác đều làm. Nhưng nếu mọi người tiếp tục làm như vậy, thì nền văn minh con người sẽ theo một vòng xoáy đi xuống dẫn đến sự hủy diệt của nó, theo quy luật thứ nhì của nhiệt động học.

Do đó, các con yêu dấu, cái gì đã khiến nhân loại tiến bộ? Các con yêu dấu, chỉ có một điều thôi, đó là đã có những cá nhân dám KHÔNG theo tâm thức đại chúng, dám chống lại sức hút kéo xuống, hấp lực của tâm thức đại chúng và qua đó nêu một gương sáng, đưa ra một ý mới, làm một hành động nào đó giúp nền văn minh con người tiến lên một bước, và rốt cuộc khiến tâm thức đại chúng chuyển vọt, khiến mọi người bắt đầu nhận ra họ có thể hơn những gì họ nghĩ họ có thể là vài năm hay vài chục năm trước đó.

Các con yêu dấu, khi mọi người ở Châu Âu tin rằng quả đất phẳng thì niềm tin này có nhiều hậu quả tinh vi và sâu đậm trên cách con người suy nghĩ, cách con người nghĩ họ có thể làm được gì trên trái đất này. Khi tâm thức đại chúng chuyển vọt và con người bắt đầu nhận ra rằng quả đất tròn và là một phần của một vũ trụ rộng lớn hơn rất nhiều, thì điều này đã khai mở giai đoạn tăng trưởng mà các con đã thấy trong thời Phục Hưng và sau đó trong thời Cách mạng Công nghiệp, và cuộc cách mạng về khoa học và hiểu biết đã mang xã hội loài người tới mức hiện nay.

Tuy nhiên, như các thày đã nói trước đây, tiến trình phát triển này chính nó cũng đã trở thành một vòng tròn khép kín, và hiện nay đang là nguy cơ kéo xã hội loài người vào một vòng xoáy đi xuống – nếu các người tâm linh đang đầu thai với chính mục đích này không chịu đứng lên nói lên khía cạnh tâm linh của sự sống. Hành động này sẽ khiến tâm thức đại chúng chuyển dời khỏi quan niệm duy vật để nhận ra rằng sự sống có một khía cạnh tâm linh, và nếu thiếu phần tâm linh này thì cuộc đời chúng ta sẽ không trọn vẹn, bất kể tài sản vật chất mà ta có được.

Như vậy, các con yêu dấu, như đã nói trước đây, khi con đọc một bài nguyện, con cần đọc với tâm thức chiến thắng, tức là con biết một người hay một nhóm nhỏ CÓ KHẢ NĂNG khiến tâm thức đại chúng chuyển vọt, và qua đó trị liệu được tâm thức đại chúng. Và con đọc bài nguyện với thái độ TA LÀM ĐƯỢC và TA SẼ LÀM vì TA LÀ! Đó là lúc con – như một người tâm linh – nhận ra mình đang tiến bước trên con đường giúp con dần dần nới rộng, nâng cao và hoàn chỉnh ý niệm TA LÀ ai.

Đọc bài nguyện với tâm an lạc

Các con yêu dấu, qua các bài giảng tuyệt vời trong các quyển sách của Mẹ Mary (Một Khóa học về Trù phú) các con biết về bốn thể phàm của con người. Con biết rằng khi con đọc một bài nguyện, con đọc qua thể vật lý trong cõi vật lý, và do đó nó có ảnh hưởng trong cõi vật lý vì nó đi vào cõi vật lý. Nhưng con không chỉ đọc bài nguyện với miệng con mà thôi. Con cần sự tham gia của ba thể cao – cảm thể, trí thể và bản sắc thể.

Do đó, nơi cảm thể, con cần có an lạc để không nghi ngờ là bài nguyện sẽ có kết quả hay không. Con hoàn toàn an lạc vì con biết con không phải là người đang hành động – chính là Thượng đế đang hành động xuyên qua con. Như ta đã nói, có chuyện đối với con người không thể làm được, nhưng với Thượng đế mọi chuyện đều làm được. Như vậy, khi con biết là con đang làm công việc của Thượng đế khi con đọc bài nguyện trong cõi vật lý, thì uy lực của Thượng đế sẽ vận hành qua bài nguyện, và do đó con không còn nghi ngờ gì nữa, tâm con an lạc và cảm thể của con an tịnh.

Làm sao con đạt được an lạc trong cảm thể của con? Con chỉ đạt được điều này khi con đạt được an lạc trong trí thể của con, vì trí thể cao hơn cảm thể. Do đó, các con yêu dấu, con cần hiểu bằng lý trí rằng có uy lực cao hơn những uy lực mà con thấy được trong thế giới vật lý. Vì con là người tâm linh, con biết rằng thế giới vật chất chỉ là một hình tướng – nó không phải là thực tại tối hậu vì nó chỉ là hậu quả của nguyên nhân sâu xa hơn trong các cõi cao là cõi cảm xúc, tư tưởng và bản sắc. Do đó, con có thể biết và hiểu bằng trí năng rằng uy lực của Thượng đế sẽ mạnh hơn khi nó chảy xuống cõi vật lý qua trung gian những người đang sống trong cõi vật lý. Đó là cách con làm được công việc mà ta đã làm – khi con biết con là một với ta và ta đang ngồi bên tay phải của Thượng đế – và qua đó con mở trói uy lực từ cõi cao để nó chảy xuyên qua con xuống cõi dưới để chúng ta làm một – trên sao dưới vậy.

Và khi con biết điều này bằng trí năng thì trí năng của con sẽ cai quản được cảm xúc. Vậy làm sao con biết được, bằng trí năng, là con có thể là một với ta? Con chỉ làm được điều này khi con đi vào thể bản sắc của con, và chuyển đổi ý niệm bản sắc mà con có từ khi lớn lên – rằng mình chỉ là một con người phải làm theo đám dông, và mình chỉ có khả năng và quyền năng hạn hẹp trong thế giới vật lý này. Các con yêu dấu, các con biết là mình hơn thế, và các con đã biết điều này suốt đời rồi, nhưng nhiều người trong chúng con chưa chuyển vọt sang cái biết nội tâm tuyệt đối và cả quyết là mình là một sinh thể tâm linh. Con là một đại diện của Ki-tô Hằng Sống. Con chính là Ki-tô Hằng Sống đang hiện thân. Con là Ki-tô Hằng Sống dưới trần như TA LÀ Ki-tô Hằng Sống ở trên.

Một khi con đã cả quyết như vậy, và nhiều người trong số các con đã gần tới điểm này, thì con sẽ biết trong bản sắc thể của mình là con không phải là một người thường đang ngồi đây đọc bài nguyện. Không phải vậy đâu, con đang ngồi đây như Ki-tô Hằng Sống đang hiện thân và đọc bài nguyện. Và do đó, uy lực tràn ra từ các lời sẽ lớn hơn những gì một người thường hay một nhóm người thường có thể đạt được.

Các con yêu dấu, con có thể qui tụ một triệu người đang ở mức tâm thức đại chúng và khiến họ đọc một bài nguyện. Điều này quả thật sẽ có kết quả, nhưng kết quả này không lớn bằng lời nguyện của một nhóm nhỏ biết và chấp nhận họ là Ki-tô Hằng Sống đang hiện thân. Các con yêu dấu, đây là điều mà các thày mong muốn các con đạt được – các con là một thiểu số nhỏ và chắc các con có lúc tự hỏi làm sao mình có được một ảnh hưởng tích cực trên đám đông.

Nhận ra cái duy nhất tiềm tàng trong mọi sự sống

Các con yêu dấu, các con chỉ có được ảnh hưởng tích cực trên đám đông khi nhận ra rằng bên dưới mọi hình tướng bề ngoài trong thế gian là cái duy nhất tiềm tàng trong mọi sự sống. Khi con biết con là Ki-tô Hằng Sống, con biết con là một với ta ở Trên. Nhưng khi con là một với ta, con cũng là một với cội nguồn của mình, là một với đấng Sáng tạo của mình. Mọi sự sống đều phát sinh từ tâm thức của đấng Sáng tạo, từ Ánh sáng Mẫu-Vật. Do đó, các con biết là tất cả sự sống là một, và khi con nhận ra cái duy nhất này thì con nhận ra rằng một người có thể ảnh hưởng đám đông vì đám đông chỉ là biểu hiện của cái duy nhất.

Và do đó, quả thực là một người có khả năng – qua việc đứng lên nói lên một sự thực nào đó – đóng một vai trò quyết định trong việc chuyển dời tâm thức của cả xã hội, cả một quốc gia, và ngay cả toàn hành tinh, sang một mức nhận biết mới. Bởi vì mọi người đã thấy nơi người đó một trạng thái nhận biết cao hơn, một dấn thân cao hơn cho sự thật, và đây là một thí dụ quá dũng mãnh khiến họ không thể bỏ qua được. Rồi nó sẽ đột phá và tâm thức đại chúng sẽ chuyển vọt lên một mức. 

Các con yêu dấu, đây chính là cách tiến bộ đã xảy ra ở cấp hành tinh – qua một người, hay một nhóm người, đứng lên nói lên một sự thật cao hơn, và khiến tâm thức đại chúng chuyển dời một chút. Và sau đó, một người khác hoặc một nhóm khác dựa trên kết quả này và đứng lên nói lên một hiểu biết cao hơn nữa, hay một hiểu biết tương tự áp dụng vào một lãnh vực khác của xã hội. Và một lần nữa, tâm thức đại chúng lại chuyển dời thêm chút nữa.

Các con yêu dấu, các con nhìn vào trái đất, xã hội, hay một lục địa và tự hỏi: “Khi ta nhìn vào thực trạng thế giới vật lý, làm sao ta có thể thay đổi các chuyện như nạn nghèo đói, xáo trộn chính trị, tham nhũng, và biết bao vấn đề hiện hành khác nữa?” Nhưng ta nói các con, giống như tất cả mọi thay đổi đã xảy ra trên hành tinh này, điểm khởi đầu bắt buộc là tâm thức, và điểm khởi đầu phải là tâm thức của những người có trình độ tâm linh trưởng thành nhất, có thể là những người giống như các con, nhưng cũng có thể là nhiều người khác tuy bề ngoài không có vẻ tâm linh nhưng lại đạt được một trình độ nội tâm cao khiến họ có thể là công cụ chuyển đổi xã hội.

Do dó, các con không nhất thiết phải nghĩ là mình phải đi ra ngoài và gia nhập một đảng phái chính trị, vì có thể đang có những người sẵn sàng làm chuyện này nhưng họ cần một sự thúc đẩy tâm linh giúp họ quyết định đứng lên nói lên sự thật. Nhưng mặt khác thì các con cũng không nên tự giới hạn mình, và nếu các con cảm thấy tiếng gọi từ nội tâm thúc đẩy mình tham gia vào bất cứ chuyện gì xảy ra trong xã hội, thì các con nên nghe theo. Nhưng điều ta muốn nói là: điều quan trọng là giữ niệm tinh khôi là những người thích hợp sẽ đứng lên đúng lúc để chuyển dời tâm thức đại chúng lên một mức độ cao hơn, và qua đó đem tiến bộ đến xã hội.

Giữ một viễn quan

Các con nên giữ một viễn quan trong đời sống thường nhật của mình và cố gắng – trong tâm mình – nâng ý niệm bản sắc của mình tới mức nhìn ra mình là đại diện của Ki-tô Hằng Sống trong quốc gia mình. Con giữ viễn quan là con đang nâng cao tâm thức đại chúng – là Thượng đế đang qua con nâng cao tâm thức đại chúng, là Giê-su đang qua con nâng cao tâm thức đại chúng. Vì, các con yêu dấu, có phải là ta đã nói: “Nếu ta được nâng lên, ta sẽ kéo mọi người theo ta”? Vì sao ta lại có thể nói vậy? Đó là vì ta biết sự sống là một, có nghĩa là mọi người dính liền với nhau trong tâm thức, là tâm thức đại chúng.

Và ta cũng biết là tâm thức đại chúng kéo mỗi cá nhân xuống, nhưng khi một người vượt qua được sức hút kéo xuống đó, thì người đó lại kéo cả tâm thức đại chúng lên. Và đây là một lực mà không có lực nào trong cõi vật lý có thể cưỡng lại, dù chúng trông rất dũng mãnh dựa trên uy quyền thế gian của chúng. Các con yêu dấu, một người có tâm Ki-tô có thể và sẽ chuyển đổi cả tâm thức đại chúng, nhưng 10 ngàn người có tâm Ki-tô đang đầu thai thì làm được nhiều hơn vô vàn – và đây là viễn quan mà các thày giữ trong tâm. Đây là viễn quan mà các thày yêu cầu con giữ trong tâm mình – viễn quan các người có tâm Ki-tô trong mọi lãnh vực xã hội, trong mọi quốc gia trên khắp các lục địa, thức tỉnh và đứng lên để nhận ra tại sao mình có mặt nơi đây và quyết định thể hiện định mệnh này.

Hoà điệu với Ki-tô bên trong, một kỹ thuật thực dụng

Chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng nguyên thủy bằng Anh ngữ ngày 22/1/2012.

Ta hiểu hoàn toàn là trang mạng này không thể trả lời các câu hỏi riêng tư của các con. Nhưng ta sẽ không để các con trong tình trạng khốn khó. Các con có khả năng hiệp thông trực tiếp với ta. Việc thiết lập sự hiệp thông này sẽ mất chút thời gian và nỗ lực. Tuy nhiên nếu con áp dụng bài tập sau đây, tiến trình này sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.

Bài tập sau đây là một kỹ thuật hình dung được thảo ra để giúp con nhận được câu trả lời cá nhân cho bất cứ thắc mắc nào của con. Trước khi con thực hành bài tập, ta khuyến cáo mạnh mẽ là con nên dùng một phương tiện thích hợp để tự niêm phong khỏi các năng lượng của tâm thức tập thể (một kỹ thuật như vậy được mô tả trên Trang chỉ dẫn Bảo vệ Tâm linh).

Con cần hiểu là trên thế gian có rất nhiều thế lực muốn ngăn cản con nhận được câu trả lời chân chính. Nếu các thế lực đó không thể cản con tìm cách hiệp thông với ta, thì chúng sẽ cố đưa ra cho con những giải đáp và tư tưởng giả trá. 

Con cũng cần nhận rõ là ngay trong tâm con (kẻ thù bên trong hay tâm xác thịt) cũng có những lực lượng sẽ cố cản trở sự hiệp thông này. Những thế lực này sẽ tìm cách cho con những trả lời mà chúng muốn con có. Khuynh hướng chung của con người là chỉ nghe thấy những gì mình muốn nghe. Con phải tỉnh giác về khuynh hướng này hầu con có thể từ từ xây dựng khả năng phân biện sẽ giúp con nhìn thấu những lời giải đáp bất toàn và nhận biết những câu trả lời đến thẳng từ ta.

Một kỹ thuật thực dụng

Bài tập này sẽ giúp con rất nhiều trong việc xây dựng khả năng phân biện và hiệp thông.

1. Vào trong một căn phòng yên tĩnh nơi con không bị quấy rầy một thời gian (ít nhất 10-15 phút). Ngồi trên một chiếc ghế thoải mái hầu con không cảm thấy phiền toái trong cơ thể.

2. Dành ra 5-10 phút để tự niêm phong khỏi các năng lượng bất toàn (sử dụng các kỹ thuật được mô tả trong trang Bảo vệ Tâm linh).

3. Hình dung ra các thiên thần của Đại thiên thần Michael đang bao quanh trường năng lượng cá nhân của con. Có 4 thiên thần, mỗi phía có một thiên thần. Các thiên thần này cao 3,6 mét, cầm thanh kiếm rực cháy với ngọn lửa màu xanh chói sáng. Các thiên thần đó dõng mãnh với khả năng bảo vệ con khỏi các thế lực thế gian.

4. Quay sự chú ý vào chân ngã nằm ngay trên đầu con. Âm thầm đọc lời xác định như sau:

“Nhân danh Giê-su Ki-tô, con cầu thỉnh một bức tường ánh sáng màu trắng rực rỡ chung quanh thân thể con, tâm con và trường năng lượng của con. Con chấp nhận cho năng lượng này niêm phong con khỏi những thứ của thế gian. Bây giờ con cầu thỉnh một ngọn lửa màu tím đốt cháy bên trong bức tường ánh sáng và tiêu hủy mọi năng lượng bất toàn trong chính con.”

Con hãy dành ra một chốc lát để cảm thấy con đã hoàn toàn niêm phong khỏi năng lượng của thế gian.

5. Khi con cảm thấy an bình, con hãy tập trung chú ý vào trung tâm lồng ngực ở độ cao của trái tim vật lý. Hình dung một ngọn lửa tâm linh bùng cháy trong lồng ngực. Ngọn lửa tâm linh này không cần nhiên liệu để cháy. Đó là ngọn lửa không mồi.

6. Chú tâm vào ngọn lửa này và cho phép sự chú ý đi vào bên trong ngọn lửa. Đằng sau ngọn lửa, con nhìn thấy một khung cửa. Đi vào khung cửa. Ngay sau khi đi qua khung cửa, con đi vào một đường hầm. Khi con tiến về phía trước, con nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.

7. Con hãy đi tiếp tới cho đến khi con ra khỏi đường hầm và con bước vào ánh sáng.

8. Bây giờ con thấy con đã bước vào một khu vườn tuyệt đẹp. Khu vườn được bao quanh bởi những rào cây cao. Trong vườn có những bồn hoa và lối đi tuyệt đẹp. Ở trung tâm khu vườn là một đài phun nước rì rào êm ái. Khắp vườn có chim chóc ca hót vui vẻ.

9. Khi con bước vào khu vườn này, con cảm thấy mọi quan tâm về thế gian tan biến hết. Càng đi vào sâu hơn thì con càng cảm thấy nhẹ nhàng và an bình hơn.

10. Con chỉ đơn giản bước tới và để cho cảm giác an bình thư thái của vườn thấm hết mọi ưu phiền lo lắng. Khi con cảm thấy hứng khởi và yên tịnh, con hãy dành một chút thời giờ để nhìn chung quanh.

11. Nhìn chung quanh, con thấy hai chiếc ghế được khắc trong đá. Con cho phép con ngồi xuống một chiếc ghế và cảm thấy thoải mái. Sau đó con hãy chú tâm vào tim con và nhắm mắt lại. Con thư giãn và cảm thấy hoàn toàn an bình trong khu vườn xinh đẹp này. Thật ra, con có cảm giác đây là nhà của con.

12. Bây giờ con hãy tưởng tượng con mở mắt ra và nhìn vào chiếc ghế trước mặt. Ngạc nhiên thay, con nhận thấy có ai đang ngồi trên ghế đó. Con nhìn kỹ hơn và con nhận ra đó chính là ta, thày Giê-su của con, đang ngồi trước mặt con.

13. Con hãy cho phép con thoải mái trong sự hiện diện của ta.

14. Bây giờ con hãy tập trung chú ý vào trái tim của ta và cảm thấy tim ta đang tỏa ra một tình thương vô điều kiện cho con. Dành một chút thời gian để chấp nhận là ta yêu thương con vô điều kiện.

15. Sau đó con hãy để cho tình thương vô điều kiện của ta thấm vào con, và con cảm thấy nó tiêu hủy mọi điều bất toàn, không thực, như thế nào. Đây quả là tình thương toàn hảo tống khứ mọi sợ hãi và mọi cảm xúc bất toàn khác.

16. Trong khi con đang ngồi trước mặt ta và hoàn toàn đắm chìm trong tình thương của ta, hãy cho phép con nghĩ lại hoàn cảnh của mình trên địa cầu. Đừng để mình bị xáo trộn bởi bất cứ khía cạnh nào của hoàn cảnh đó, mà chỉ đơn giản đưa hoàn cảnh đó vào tầm nhận biết ý thức của mình trong giây lát. Sau đó, hãy nhìn ta một lần nữa, và trong tâm, con hãy hình thành một câu hỏi thầm lặng. Đừng hỏi ta con phải làm gì trong trong hoàn cảnh của con, vì con phải dùng quyền tự quyết của con để chọn việc phải làm. Hãy yêu cầu ta mở ra cho con một cách hiểu sâu sắc hơn về tình huống hầu con có thể biết được việc đúng đắn cần làm.

17. Sau khi con hình thành câu hỏi, hãy gửi đến cho ta.

18. Sau đó nhắm mắt lại và chú tâm vào tình thương của ta. Hãy cho phép con chìm đắm trong tình thương đó đến độ con quên hết mọi quan tâm trên thế giới.

19. Sau một thời gian chìm đắm trong tình thương của ta, sự chú ý của con sẽ tự nhiên quay trở lại câu hỏi. Con chỉ đơn giản chú tâm vào trái tim của ta và lắng nghe câu trả lời. Nếu con không nhận được câu trả lời tức thì, hãy đừng bị bận tâm. Con chỉ chú tâm vào tình thương vô điều kiện của ta và cho phép mình chìm đắm trong tình thương đó bao lâu cũng được.

20. Khi con cảm thấy đã thẩm thấu tất cả những gì có thể, khi con cảm thấy tim con như cái chén đã ngập đầy tình thương của ta đến độ tràn cả ra ngoài, con hãy hình dung con lặng lẽ rời khỏi khu vườn đẹp đẽ và bước trở về qua đường hầm.

21. Bây giờ con đang ngồi trên ghế trong phòng con. Con hãy dành ra một vài giây lát để trở về trạng thái tâm thức bình thường của con.

Lúc đầu, con có thể sẽ không nhận được câu trả lời ngay lập tức qua bài tập này. Có thể sẽ cần thời gian để câu trả lời đến được tâm ý thức của con. Con hãy tỉnh thức và cố dành ra một chút thời gian mỗi ngày để lắng nghe từ bên trong. Sau một thời gian, có khi vài giờ, vài ngày hay thậm chí vài tuần, câu trả lời sẽ đến với con.

Con hãy lập lại bài tập này thường xuyên nếu con muốn. Nếu con thực sự muốn trả lời về một tình huống cụ thể, con hãy lập lại bài tập mỗi ngày một lần cho tới khi con nhận đủ sự hướng dẫn nội tâm.

Ta thực sự khuyên con luôn luôn có một cuốn sổ và bút ngay bên cạnh khi con làm bài thực tập này. Sau bài tập hình dung, con hãy dành chút thì giờ để ghi lại những ý nghĩ hay cảm nhận đến với con. Nếu con làm điều này trong mỗi thực tập, con sẽ ngạc nhiên trước những sự hướng dẫn mà con nhận được.   

Mục đích của bài tập là để giúp con hòa điệu tâm thức của con với ta. Sau khi làm điều này một thời gian, có thể con sẽ cảm thấy mình có khả năng đạt được mức hòa điệu đó ngay cả trong những sinh hoạt thường nhật của mình. Nếu vậy thì rất tốt. Ta mong muốn con có sự hiệp thông với ta một cách liên tục và tự động.

Bốn tầng của tâm

Một bài giảng của chân sư thăng thiên Giê-su

Ta muốn gửi các con một bài dạy căn bản về ý nghĩa thật của câu ta từng nói về “nhiều gian trong căn nhà Cha ta”. Câu này đã khiến nhiều người bối rối, và ta hoàn toàn thông cảm. Câu này là ví dụ điển hình về những giới hạn trong hiểu biết và từ vựng được sử dụng cách đây 2000 năm. Ta đã có ít cơ hội giảng giải cho người thời đó về một sự thật vô cùng thâm sâu mà mọi người tầm đạo tâm linh cần lãnh hội. Vậy bây giờ ta sẽ dùng hiểu bíết và từ vựng thời nay để làm điều đó.     

Trong thế giới ngày nay, hầu hết mọi người đều biết là có năng lượng. Hầu hết cũng biết năng lượng là một hình thức rung động. Hầu hết đã nghe nói tới thuyết tương đối của Albert Einstein, qua đó mọi thứ trong vũ trụ đều được tạo bằng năng lượng. Tiếc thay, hầu hết cũng chưa thật sự hấp thụ được những hệ quả to lớn của khám phá này. Và vì vậy, họ đã không có nỗ lực nào để thay đổi thế giới quan của mình hầu đáp ứng với thực tế nơi tất cả đều là năng lượng.  

Sự thật đơn giản là toàn bộ vũ trụ được tạo ra từ một chất căn bản duy nhất. Trong quá khứ, người ta gọi đó là ether. Ý niệm ether đã được đạo Phật cùng một số triết lý biết đến từ nhiều thế kỷ. Vào thời trung cổ tại Âu châu, các nhà giả kim (alchemist) cũng đã có biết đến – và có thể nói trong một số trường hợp, họ đã thực sự là những nhà khoa học thực nghiệm đầu tiên. Có cả những nhà vật lý chấp nhận khái niệm ether, cho tới khi một thí nghiệm đáng tiếc đã không tìm được tác động vật chất nào của ether – nhưng lý do họ không tìm được là vì ether không có đặc tính vật chất nào cả.

Từ đó, đa số nhà vật lý đã bỏ rơi khái niệm ether, một quyết định thật đáng tiếc cho khoa học. Vì quyết định này mà họ không thể hiểu được năng lượng một cách trọn vẹn, Họ thừa biết năng lượng là rung động, nhưng rung động chỉ hiện hữu nếu có một môi thể rung động. Như sóng biển không thể hiện hữu nếu không có biển. Cho nên sẽ không có sóng năng lượng, và cũng không có vũ trụ vật chất, trừ khi có một cái gì đó để rung động.      

Cái gì đó rung động chính là chất căn bản mà Thượng đế đã sử dụng để sinh tạo toàn thể thể giới hình tướng. Chất này được mô tả trong Thánh kinh qua câu “Và Đức Chúa Trời phán, hãy có ánh sáng.” Ánh sáng cũng có thể mô tả là diện nữ của Thượng đế Cha-Mẹ. Ánh sáng là Mẹ Thiêng liêng, thân thể của Mẹ Thiêng liêng, là Đấng sinh ra mọi hình tướng được chiếu hình lên Mẹ bởi ý muốn của Cha qua tâm của Con. Hình tướng được biểu hiện và nuôi dưỡng bởi quyền năng của Thánh linh, như Mẹ Mary yêu dấu có giảng dạy. Ánh sáng Mẹ còn có tên gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật.

Như con biết, ánh sáng mà con nhìn thấy là những sóng ánh sáng, rung động trong một dải tần số nhất định. Ánh sáng màu đỏ rung động ở tần số thấp hơn ánh sáng màu xanh hay màu tím. Và con cũng biết, có những tần số thấp hơn hay cao hơn ánh sáng nhìn thấy. Mắt con người không thấy được những tần số này cho dù chúng có thực không kém gì ánh sáng đỏ hay xanh.  

Đặc biệt cho bài này, chúng ta hãy dùng khái niệm căn bản: tất cả đều là rung động. Như vậy thì trong thế giới hình tướng, không hề có hàng rào bất khả xâm phạm nào. Mọi thứ đều là cùng một chất, chỉ khác chúng rung động ở những tần số, hay mức độ, khác nhau mà thôi. Tất cả đều được tạo bằng sóng năng lượng, và khác biệt duy nhất giữa Trời và Đất là độ rung của sóng năng lượng.

Câu “Nhà Cha ta có nhiều gian” thật sự có nghĩa như thế: nhà Cha ta là một tấm thảm năng lượng liên tục, một tấm thảm những rung động liên tục. Tấm thảm liên tục ấy có từng phân đoạn, và mỗi phân đoạn là một nhóm tần số. Mỗi phân đoạn là một gian trong căn Nhà của Thượng đế. Trong số đó, có một phân đoạn được con người gọi là vũ trụ vật chất. Ở ngoài cõi này là cái mà con người gọi là cõi tâm linh, hay Trời. Nhưng ngay trong cõi tâm linh cũng có nhiều phân đoạn nữa.

Bốn thể phàm của con

Qua bài này, ta muốn giúp các con hiểu rằng trong vũ trụ vật chất có mấy phân đoạn như thế. Nói chính xác, có cả thảy bốn phân đoạn, hay cõi, trong vũ trụ vật chất. Cõi mà mọi người đều quen thuộc là vũ trụ làm bằng vật chất. Đây là thế giới mà con có thể nhận biết qua giác quan vật lý của mình. Nó được tạo bằng những rung động trong một dải tần số mà giác quan vật lý có khả năng phát hiện. Lý do phát hiện được là vì cơ thể con được tạo bằng những năng lượng tương tự trong cùng dải tần số. Nói cách khác, cái gì làm bằng vật chất thì phát hiện được rung động của vật chất và chỉ những rung động đó thôi. Điều này giải thích tại sao các nhà vật lý kia đã không thể tìm thấy ether qua dụng cụ vật chất.

Bên trên cõi vật chất có ba phân đoạn nữa vẫn thuộc về cái gọi chung là vũ trụ vật chất. Khi từ cõi vật chất con đi lên phân đoạn trên, con bước vào một cõi có thể gọi là cõi cảm xúc. Ở trên nữa là cõi tư tưởng, và trên nữa là cõi bản sắc.  

Trong nhiều tôn giáo cùng triết lý lâu đời, như Phật giáo, Hy lạp cổ hay giáo lý huyền bí của các nhà giả kim, bốn cõi này được mô tả là bốn góc của Địa cầu, với tên gọi là đất, nước, không khí, lửa. Khái niệm này liên hệ với ý tưởng cổ xưa về hình vuông xuất phát từ hình tròn. Hình tròn biểu tượng cho Trời, vô tận và không có phân chia – nếu chúng ta dùng ý niệm không gian và thời gian. Nó tương ứng với ether.

Còn hình vuông biểu tượng cho Địa cầu, đúng hơn, cho vũ trụ vật chất. Vũ trụ vật chất là cõi của thời gian và không gian, được tạo ra bằng cách lấy cõi vô tận của hình tròn mà chia thành bốn hướng, bốn chiều kích, tức là bốn tọa độ của không gian và thời gian.  

Để con dễ hình dung, ta sẽ nói đến mối tương quan với tâm con người. Ta đã giảng trong trang mạng này là tất cả mọi thứ đều được nuôi giữ duy bằng một dòng năng lượng của Thượng đế tuôn chảy từ cõi tâm linh xuống vũ trụ vật chất. Trong mỗi con người, năng lượng tuôn xuống từ cái ta tâm linh xuyên qua những lớp tiềm thức cho tới khi nó chạm tâm ý thức. Năng lượng chảy xuống từ cõi tâm linh và đầu tiên nó vào cõi lửa. Một số giáo lý huyền bí gọi cõi này là bát cung ether, hay thể nhớ. Ta muốn gọi đó là cõi bản sắc. Đây là phần của tâm con cất giữ ký ức mọi trải nghiệm trong thế giới vật chất. Nó cũng cất giữ ý niệm bản sắc mà con đã xây dựng qua nhiều kiếp sống suốt hành trình của dòng sống con trong thế gian này. Khi năng lượng sự sống lần đầu tiên nhập vào tâm con, tức bản thân con, nó chảy qua bản sắc của con, và do đó nó bị bản sắc tô màu. Bản sắc con cũng bao gồm cách con nhìn thế giới, nhìn Thượng đế, quan hệ của con với thế giới và quan hệ của con với Thượng đế. Cho nên nó là cái nền tảng cho con phản ứng với cuộc đời trong cõi này.

Sau khi chảy qua bản sắc thể của con, nó nhập cõi không khí. Một số giáo lý gọi là cõi trí. Ta muốn gọi đó là cõi tư tưởng. Ở cõi này, năng lượng bị các tư tưởng của con về chính con và về thế giới tô màu. Tư tưởng con phần lớn được định đoạt bởi bản sắc con, nhưng vì chúng nằm ở một tầng thấp hơn trong tâm con, chúng mềm lỏng hơn, dễ thay đổi hơn những hình ảnh vùi sâu nơi bản sắc. Nói cách khác, tư tưởng có thể thích ứng hay bị ảnh hưởng bởi những tình huống cụ thể mà con gặp trong đời. Có thể nói, bản sắc định đoạt cách con nhìn đời rộng lớn, còn tư tưởng là cách con hiểu từng chi tiết trong tấm ảnh lớn đó. Bản sắc quyết định cách con nhìn thế giới, còn tư tưởng quyết định cách con nghĩ tưởng thế giới vận hành làm sao.

Sau khi năng lượng chảy qua thể tư tưởng, nó nhập vào cõi cảm xúc. Đây là cảm thể, chứa đựng cảm xúc của con về chính con và về thế giới. Cảm xúc chỉ đơn giản là năng lượng trong chuyển động, và chúng là tiền thân của hành động thể xác. Cho nên cảm xúc định đoạt cách con biến tư tưởng thành hành động. Có thể nói, một mình tư tưởng không có khả năng dẫn tới hành động. Tư tưởng chỉ đơn thuần là ý nghĩ, và để chuyển ý nghĩ thành hành động vật lý, tư tưởng cần đến hai đặc tính của cảm xúc, là phương hướng và cường độ. Cảm xúc con sẽ hướng tư tưởng con vào một hành động cụ thể, và cường độ cảm xúc sẽ định đoạt sức mạnh của hành động.  

Bước chót là khi năng lượng nhập vào bộ não cùng hệ thần kinh của cơ thể vật lý. Ở tầng này, cảm xúc của con được chuyển thành hành động, và hành động được định đoạt bởi phương hướng và cường độ của cảm xúc đứng đằng sau. Tất nhiên, phương hướng và cường độ của cảm xúc bị định đoạt bởi tư tưởng, và tư tưởng thì bị định đoạt bởi ý niệm bản sắc cùng thế giới quan của con.

Vậy con đã thấy, dòng chảy tự nhiên của năng lượng là tuôn xuống từ cái ta tâm linh qua thể bản sắc nơi nó bị thế giới quan của con tô màu. Năng lượng chảy tiếp vào thể tư tưởng nơi nó bị tư tưởng tô màu. Năng lượng lại chảy nữa vào thể cảm xúc nơi nó khoác lấy phương hướng cùng cường độ do cảm xúc định đoạt. Và cuối cùng, năng lượng chuyển thành hành động vật lý mà bộ não, hệ thần kinh cùng cơ thể đem ra thi hành.  

Người ta có thể ví nguyên tiến trình này như máy chiếu phim. Ánh sáng tuôn ra từ cái ta tâm linh giống như ánh sáng trắng tinh của bóng đèn trong máy chiếu. Các thể bản sắc, tư tưởng và cảm xúc giống như ba cuộn phim, và ánh sáng bị hình ảnh trên ba cuộn phim liên tiếp tô màu. Sau khi đi qua cả ba cuộn, ánh sáng được chiếu lên màn ảnh. Màn ảnh này chính là cái phần của tâm con ngụ trong vũ trụ vật chất. Đây là tâm ý thức của con và một số thành phần của tìềm thức con. Nó neo cứng vào trong não và hệ thần kinh của con.

Bốn tầng của vũ trụ vật chất

Hiểu được năng lượng vận chảy như thế qua tâm con, con cần đem hiểu biết này vào toàn thể vũ trụ vật chất. Vũ trụ vật chất cũng có bốn bát cung, hay tầng mức, khác nhau – bốn thể khác nhau.  Chúng tương đương với bốn tầng của tâm con, bởi vì thật sự vũ trụ chỉ đơn giản là một gian trong căn nhà, trong tâm của Thượng để. Như tâm con, vũ trụ vật chất được tạo bằng năng lượng cơ bản của Thượng đế tuôn chảy qua các cõi bản sắc, tư tưởng và cảm xúc trước khi nó thị hiện trong cõi vật chất.

Khi con hiểu rằng dòng năng lượng cơ bản này chảy xuyên qua bốn tầng của vũ trụ vật chất, thì con sẽ hiểu tầng thấp nhất, tầng của vật chất, là kết quả của những nguyên nhân tiềm ẩn hiện diện nơi ba tầng cao, là các thể cảm xúc, tư tưởng và bản sắc. Có thể nói vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là sự phóng chiếu của hình ảnh nằm sẵn nơi ba tầng cao. Thực sự, vũ trụ vật chất không là gì hơn những hình ảnh được chiếu lên màn ảnh của một rạp chiếu bóng.

Khi con suy ngẫm điều này, con sẽ hiểu ngay rằng con có thể – và con bắt buộc phải – thay đổi vũ trụ vật chất bằng cách thay đổi ba tầng cao của nó. Đối với cá nhân con, nếu con muốn thay đổi hoàn cảnh đời mình, con phải bắt đầu bằng cách thay đổi cảm xúc, tư tưởng và bản sắc của con. Chỉ khi nào con thay đổi những hình ảnh nằm trong ba thể cao thì con mới có thể thay đổi hình ảnh hiện ra trong thế giới vật chất. Cũng vậy, trên bình diện hành tinh, chìa khóa để loại bỏ khổ đau loài người là thanh lọc thể cảm xúc, tư tưởng cùng bản sắc của toàn thể hành tinh, bởi vì hành tinh vật chất chỉ là hình chiếu của những hình ảnh lưu trữ nơi những cõi cao.

Địa cầu đã được tạo ra bởi bảy đấng tâm linh gọi là Elohim. Các Elohim luôn duy trì hình ảnh một địa cầu toàn hảo, và hình ảnh này vẫn còn đó. Tuy nhiên, hình ảnh toàn hảo đó đã bị tạm thời che phủ bởi một hình ảnh bất toàn được phóng chiếu qua các thể bản sắc, tư tưởng lẫn cảm xúc của nhân loại. Đây là cái mà tâm lý học gọi là vô thức tập thể.

Nguyên nhân thực sự của khổ đau

Bây giờ ta muốn chỉ cho con thấy tại sao địa cầu có quá nhiều biểu hiện bất toàn và tại sao con người phải chịu quá nhiều đau khổ đến thế. Lý do là ba thể cao của loài người đã bị ô nhiễm bởi một bản sắc bất toàn, những tư tưởng bất toàn và những cảm xúc không trong sạch.   

Như mẹ yêu dấu của ta giải thích trong bài kế tiếp, mọi điều nơi cõi Trời đều được định ra theo quy luật Thượng đế. Cho nên nếu một sinh thể tâm linh đi ngược lại quy luật Thượng đế thì y sẽ không thể ở lại cõi Trời. Mẹ ta cũng giảng dạy rằng trong vũ trụ vật chất, người ta có khả năng đi ngược lại quy luật Thượng đế. Lý do là vì vũ trụ vật chất được thiết lập như một lớp học cho các dòng sống đang học tập để vươn lên trở thành giống như Thượng đế. Thượng đế đã phú cho các dòng sống này quyền tự quyết và cái khung sườn để họ thử nghiệm năng lượng của ngài.

Vì vậy, các định luật của vũ trụ vật chất cho phép con người đi ngược lại quy luật Thượng đế mà không phải rời cõi này. Nói cách khác, họ có thể dùng quyền tự quyết của họ để chú tâm vào những hình ảnh không phù hợp với các nguyên tắc mà Thượng đế đã sử dụng để thiết lập thế giới hình tướng. Con người có quyền tạo dựng bản sắc riêng, xem mình là một thể sống tách biệt với Thượng đế, là sinh thể vật chất thay vì tâm linh. Họ có quyền tạo ra những hình tư tưởng lệch lạc so với sự thật và thực tại Thượng đế. Họ có quyền nếm trải những cảm xúc là sự tha hóa của cảm thức chân thật của Thượng đế. Và khi họ lao vào những bất toàn như vậy, họ có khả năng biến đổi vũ trụ vật chất và tạo dựng một thế giới biểu hiện bất toàn.

Tuy nhiên khi Thượng đế ban cho con người quyền tự quyết, ngài cũng đặt ra một khuôn khổ có chức năng một chiếc van an toàn, hầu không một ai có thể phá hủy được vũ trụ vật chất. Nói cách khác, tuy con người có toàn quyền làm bất cứ gì mình muốn với năng lượng Thượng đế, họ sẽ bắt buộc phải trải nghiệm chính những hoàn cảnh sống mà họ đã tạo ra với năng lượng đó. Nếu họ tham gia vào tư tưởng hay cảm xúc bất toàn, họ sẽ sinh sản những điều kiện cũng bất toàn như thế trong thế giới vật chất, và khả năng sáng tạo của họ sẽ bị giới hạn bởi những gì họ tạo ra. Làm gì thì chịu nấy.  

Có thể nói, Thượng đế đã thiết kế vũ trụ vật chất như một tấm gương. Nó giống như một màn ảnh chiếu phim, phản ánh những gì được chiếu lên nó xuyên qua tâm con người. Cho nên bất cứ hình ảnh nào con giữ nơi những tầng cao của tâm con, nó sẽ định đoạt các điều kiện đời sống mà con trải nghiệm trong thế giới vật chất. Nếu con có một hình ảnh bất toàn, con sẽ tạo ra một biểu hiện bất toàn mà tự nó nhất định sẽ hủy hoại. Tựa như con xây cất một Tháp Babel vậy, nó nhất định phải sụp đổ do chính sức nặng của nó.

Ở khởi thủy của địa cầu, các sinh thể tự nhận biết mang tâm thức cao hơn con người bây giờ. Trong tâm thức đó, các dòng sống này tiếp xúc một cách ý thức với cái ta tâm linh cùng những vị thày tâm linh của mình. Con người sử dụng quyền tự quyết của mình để thử nghiệm với năng lượng của Thượng đế, và khi làm vậy, họ thường lầm lỗi, tạo ra những biểu hiện bất toàn. Tuy nhiên vì họ biết rõ quy luật sáng thế, họ có khả năng nhận ra bất toàn, thừa nhận sai lầm, và lập tức thay thế kết quả bất hảo bằng kết quả tốt đẹp hơn.  

Nhưng sau khi Con Người Sa ngã, loài người đánh mất liên lạc với cái ta tâm linh cùng các vị thày tâm linh của mình, và vì vậy họ cũng không còn biết gì về quy luật sáng thế nữa. Họ quên mất quy luật rằng bất cứ gì mình tạo ra trong cõi vật chất chỉ đơn giản là sự phóng chiếu những hình ảnh được cầm giữ nơi ba thể cao hơn. Và như thế, họ cũng mất luôn hiểu biết rằng họ có khả năng thay đổi điều kiện vũ trụ vật chất bằng cách thay đổi nội dung các thể cao.   

Thế là con người bắt đầu tin rằng các điều kiện trong thế giới vật chất là vĩnh viễn, vượt ngoài tầm kiểm soát ý thức của mình. Họ bắt đầu xem mình là nạn nhân của những tình huống mà họ không hề gây ra. Họ bắt đầu coi mình là nô lệ của những thế lực ngoài vòng kiểm soát. Nếu nhìn dưới một khía cạnh nào đó thì quả thật là họ không sai. Đúng vậy, vì khi không chịu thay đổi cảm xúc, tư tưởng cùng bản sắc của mình, thì tất nhiên họ không thể thay đổi thế giới vật chất, và họ trở thành nạn nhân của điều kiện đời sống. Kẹt một nỗi là một khi mình đã tạo ra các điều kiện đó thì bây giờ mình phải tháo gỡ nó đi.

Chính vì đã quên, đã từ chối trách nhiệm về hoàn cảnh của mình như vậy mà họ đã tạo cơ hội cho một số sinh thể từ các bầu cõi cao hơn – những sinh thể đã đối nghịch lại quy luật Thượng đế – đầu thai trên địa cầu. Trong bài giảng, đức Mẹ Mary cũng mô tả sự kiện này.  

Con thấy đó, có sự khác biệt căn bản giữa thử nghiệm quyền tự quyết của mình (và lầm lỗi khi mình làm vậy) với cố tình đối nghịch lại quy luật cùng ý chỉ sáng tạo của Thượng đế. Như Mẹ Mary có mô tả, một số sinh thể trong cõi tâm linh đã chủ tâm nghịch lại quy luật cùng ý chỉ sáng tạo của Thượng đế. Xong chúng bị sa xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, và cuối cùng một số đã đầu thai ở địa cầu.  

Những sinh thể đó đã khuynh loát nhiều người tin vào lời gian dối rằng tự do tối hậu chỉ có thể đạt được khi mình đi ngược lại quy luật Thượng đế. Chúng đã lừa dối tinh vi để gạt gẫm con người vi phạm quy luật Thượng đế, đồng thời tin rằng những hậu quả xấu mà mình gặt hái là không thể tránh được, thậm chí còn do Thượng đế làm ra.

Khi loài người rơi vào tâm thức thấp hơn, đó là khởi đầu cho một tiến trình ô nhiễm nơi bốn thể phàm của mọi người trên trái đất cũng như của tâm thức tập thể. Và điều này dẫn đến những điều kiện bất hảo dưới hình thức khổ đau, thiên tai cùng tai ương đủ loại.

Tất cả những gì con có thể thấy trong thế giới vật chất chỉ đơn giản là sự phản chiếu các thể cao hơn. Cả ba thể cao đó đã bị ô nhiễm và chứa đựng hình ảnh bất toàn. Nhưng có một thể đã hoàn toàn bị tà lực chiếm đoạt là cảm thể. Thể này là thể cốt yếu cho những ai muốn kiểm soát thế giới vật chất, bởi vì đó là cơ quan hoán chuyển tư tưởng thành hành động xác thân.

Bản chất của cảm xúc là lấy hình dạng của bất cứ hình ảnh nào được trí thể chiếu vào nó. Cảm xúc là năng lượng chuyển động, mà năng lượng thì không có ý niệm gì về đúng hay sai. Khi nó được hướng tới một hành động, nó sẽ tuôn vào đó mà không xét tới hậu quả. Cho nên nếu tà lực đã chiếm đoạt cảm thể một người, chúng có thể thao túng cho người đó làm bất cứ gì mà không xét đến hậu quả, không cân nhắc phải trái. Đây là nguồn gốc của hội chứng “Nếu thích thú thì cứ việc làm”, là hội chứng dựa trên lời dối gạt tinh vi rằng nếu mình cảm thấy ưa thích điều gì thì điều đó không thể sai trái.    

Vậy bây giờ con đã thấy, có những thế lực không ngừng ra sức thao túng con người qua cảm thể. Một cách để chúng thực hiện điều này là khiến cho cảm thể con người luôn luôn dao động, rồi dần dần chúng bồi thêm cường độ cho tới khi người đó không thể cưỡng lại năng lực cảm xúc được nữa. Cảm xúc trào ra thành hành động, và đây là hiện tượng khi những cá nhân, những nhóm người, thậm chí cả quốc gia, cảm thấy bó buộc phải làm những hành động mà họ bình thường không bao giờ làm. Đây là nguyên nhân chủ yếu của chiến tranh. Trong suốt thời gian dẫn đến chiến tranh, con sẽ thấy cảm thể của cả một nước bị kích động tới mức người ta cảm thấy phải làm một cái gì đó, và cái đó là phải chiến đấu chống lại kẻ thù được coi là đã gây ra kích động.

Các sinh thể trí năng trong cả bốn cõi

Có điều quan trọng nữa ta muốn giảng cho con trong bài này là nơi cả bốn cõi của vũ trụ vật chất, có những sinh thể trí năng tự nhận biết. Con người là những sinh thể trí năng sống trong cõi vật chất. Nơi ba cõi cao hơn cũng có những sinh thể trí năng. Một số những sinh thể đó chưa từng hiện thân trong một thể xác vật lý. Còn một số khác thì đã từng đầu thai nhưng hiện đang cư ngụ ở những cõi khác của vũ trụ vật chất.

Tiến trình tự nhiên của các dòng sống là đi xuống một xác thân vật lý để thử nghiệm cõi vật chất, và giúp Thượng đế đồng sáng tạo tầng cấp này của thế giới hình tướng. Một khi đã hoàn thành mục đích hiện thân trong vũ trụ vật chất, dòng sống sẽ thăng lên cõi tâm linh. Nói cách khác, nếu một dòng sống còn ngụ, hoặc bị kẹt lại, nơi bốn cõi vật chất, cảm xúc, tư tưởng hay bản sắc, thì đây không phải là chuyện tự nhiên. Như trường hợp một dòng sống bị mất quân bình khiến cho một hay nhiều thể của mình bị tha hóa, thì dòng sống đó có thể bị kẹt lại trong vũ trụ vật chất, không có khả năng thăng lên cõi tâm linh..   

Bốn thể phàm tương ứng với bốn nguồn lực của Cha, Con, Mẹ và Thánh linh. Cha tương ứng với bản sắc thể, Con với trí thể, Mẹ với cảm thể, và Thánh linh với xác thể. Nếu một dòng sống bị mất quân bình trong cả bốn thể phàm, nó sẽ bị kẹt lại trong cõi vật chất, và nó sẽ mãi tái đầu thai trong một loạt thân xác khác nhau. Nếu một dòng sống đạt được quân bình xác thể nhưng không trong ba thể kia, nó có thể bị kẹt lại nơi cảm thể. Nếu nó đạt được quân bình xác thể và cảm thể, nó có thể bị kẹt lại nơi trí thể, và nếu nó quân bình được cả ba thể thấp thì nó có thể bị ket lại nơi bản sắc thể.

Nếu con muốn thật sự hiểu tại sao ta giảng dạy bài này, con cần nhận rõ rằng cả bốn cõi của vũ trụ vật chất chỉ khác nhau về rung động. Cho nên khi học bài này, con đừng rơi vào cái bẫy của lối suy nghĩ đường thẳng. Chẳng hạn, vì cõi vật chất có độ rung thấp nhất và các cõi kia có độ rung cao hơn, con dễ nghĩ lầm rằng ba cõi kia nằm cao hơn, vượt ngoài cõi vật chất. Nhưng nghĩ vậy không chính xác đâu.      

Ngay trong căn phòng con đang ngồi, có rất nhiều làn sóng vô tuyến đang hiện hữu trong cùng một khoảng không gian. Các sóng vô tuyến này tồn tại trong cùng một không gian với cơ thể con, với tường, bàn ghế và không khí trong phòng. Cũng vậy, những tần số rung động khác nhau có thể tồn tại trong cùng một không gian. Điều ta muốn nói là cõi vật chất tồn tại ở ngay cùng một chỗ với các cõi khác – cảm xúc, tư tưởng và bản sắc.

Điều quan trọng cần nhận rõ ở đây là giữa bốn cõi không hề có hàng rào bất khả xâm nào. Nói cho đúng, các cõi đó còn có thể trùng lấp nhau nữa. Chẳng hạn, rất có thể ở một khu vực nào đó của cõi vật chất, các rung động được biến đổi để chúng cộng hưởng với rung động ở một cõi khác.

Tâm con người có khả năng hoạt động như chiếc máy radio. Như ta vừa nói, có rất nhiều làn sóng vô tuyến xâm nhập vào căn phòng mà con đang ngồi. Nếu con bật máy lên, con có thể bắt được từng làn sóng bằng cách quay cái nút. Máy radio biến sóng năng lượng thành âm thanh nghe thấy, mà con nhận biết là những đài phát thanh khác nhau. Tâm con có khả năng tựa như chiếc máy radio vậy, nó có thể bắt sóng của mọi tầng cấp vũ trụ vật chất. Nó cũng có thể bắt được các tầng cấp trong cõi tâm linh. Nói cách khác, tâm con người có khả năng vượt ra ngoài cõi vật chất để đồng điệu với những sinh thể trí năng ở các cõi cảm xúc, tư tưởng, bản sắc, hoặc cả cõi tâm linh nữa.

Một hệ quả của lời dạy này là nếu con cố bắt liên lạc với sinh thể trí năng ở những cõi khác, con cần biết rằng không phải ai ai ở đó cũng thiện lành. Rất có thể một số đã từng cố tình đối nghịch lại các quy luật của Thượng đế, và họ sẽ cố lôi kéo con làm điều tương tự. Những lý do khiến họ làm vậy được giải thích trong bài giảng của đức Mẹ Mary.

Đã từng có một thời cả bốn cõi đều có những sinh thể thiện lành trú ngụ ở đó. Thế nhưng cõi cảm xúc bây giờ bị ô nhiễm, tha hóa đến độ không còn ai tốt nữa. Tất cả mọi sinh thể nơi cõi cảm xúc đều đã mất quân bình, họ tin rằng mục tiêu có thể biện minh cho mọi phương tiện, và phương châm của họ là “nếu thích thú thì cứ việc làm tới”. Trên địa cầu có nhiều người hiện thân tâm thức này bởi vì cảm thể họ bị mất quân bình do đồng cảm với cõi cảm xúc. Và họ trở thành nô lệ cho bọn thao túng đang hoành hành ở đó.

Cõi tư tưởng cũng bị ô nhiễm nặng nề, nhưng vẫn còn một số sinh thể không ác ý. Tuy vậy, rất nhiều trong số đó còn bị kẹt trong cách suy nghĩ rằng họ có thể hiểu được mọi chuyện bằng lý trí. Thậm chí, một số còn đinh ninh họ thông hiểu thế gian hơn cả Thượng đế và do đó họ hiểu rõ hơn Thượng đế phải vận hành vũ trụ làm sao. Đây là sự kiêu căng của trí thức, và con sẽ thấy trên địa cầu cũng có nhiều người hiện thân lòng tự kiêu này. Lý do là vì trí thể của họ đã đồng tình với những sinh thể tự kiêu nơi cõi tư tưởng. 

Cõi bản sắc là cõi tương đối trong sạch nhất, cho dù cũng bị ô nhiễm bởi một ý niệm bản sắc sai lầm. Ở đây có những sinh thể tự xem mình tách biệt với Thượng đế, và họ phóng chiếu cái nhìn này vào tâm thức loài người. Nhưng song song cũng có những sinh thể trong cõi ether giữ vững được bản sắc đúng đắn rằng mình là sinh thể tâm linh.

Các thày trong Đại đoàn Thăng thiên giáo hóa để phục vụ loài người. Các thày sẵn sàng giao tiếp với bất cứ ai để giúp họ tiến bước trên đường tu tâm linh. Khi địa cầu còn trong sáng, các thày đã có thể hiện ra trước con người trong cõi vật chất, và ai nấy đều có thể gặp gỡ, đàm đạo với các thày. Điều này xảy ra không phải vì các thày đã hiện ra trong một thể xác vật lý, mà vì tâm thức con người thời đó còn trong trắng đến độ có thể nhận biết các thày trong “thân thể” tâm linh của các thày. Với giác quan vật lý, họ nhìn thấy được thân tâm linh của các thày.

Nhưng ngày nay, những sự mất quân bình mà loài người tạo ra đã kéo thấp độ rung của toàn cõi vật chất, và việc nhận biết các thày đã trở nên khó khăn hơn. Con người không thể nhận biết các thày qua giác quan của cơ thể, trừ những trường hợp hiếm hoi khi các thày mượn tạm một thân thể vật chất.

Cho nên muốn giao tiếp với Đại đoàn Thăng thiên trong thế giới hiện đại, con phải nâng cao tâm thức, và điều này có nghĩa con phải quân bình cả bốn thể phàm của mình. Con chỉ tạo được quân bình bằng cách đạt đến trung đạo của tâm thức Ki-tô. Nếu con không quân bình trong tâm Ki-tô thì con sẽ không liên lạc được với Đại đoàn Thăng thiên. Nhưng tiếc thay, con vẫn có khả năng liên hệ với các sinh thể trú ngụ nơi các cõi phàm. Con đừng quên rằng chúng bị kẹt lại ở đó chính vì chúng đã mất quân bình trong một hay nhiều thể. Cho nên nếu con muốn giao tiếp một cách an toàn với cõi trên, con cần phải vươn lên tâm thức Ki-tô, và điều này có nghĩa con phải quân bình cả bốn thể phàm của con.

Thiên đàng hay Địa ngục trên địa cầu

Qua bài giảng này ta còn có một mục đích nữa, là chỉ cho con thấy cả bốn tầng của vũ trụ vật chất đều tồn tại chung trong cùng không gian. Khác biệt duy nhất là độ rung. Vì tâm con người có khả năng điều khiển ánh sáng Thượng đế, nó có thể hạ thấp hoặc nâng cao độ rung của ánh sáng. Điều ta muốn nói là con người có khả năng thay đổi những rung động của thế giới vật chất để cộng hưởng với rung động của một trong mấy cõi kia.

Ví dụ, có nhiều khu vực trên hành tinh này, đặc biệt ở các thành phố lớn, nơi một số đông dân cư đã gia tăng sự mất quân bình nơi cảm thể mình đến nỗi toàn khu vực phải rung động ở tần số của cõi cảm xúc. Cõi cảm xúc hiện có những biểu hiện thấp kém nhất trong số các cõi. Một số khu vực của cõi cảm xúc đã thực sự trở thành cái mà người ta xem là Địa ngục. Cho nên trên địa cầu cũng có nhiều nơi với độ rung như cõi cảm xúc. Thực sự đó là những nơi Địa ngục Trần gian.  

Tương tự như vậy, có một số khu vực rung ở cùng tần số với cõi tư tưởng, chẳng hạn các học viện nơi người ta tôn vinh trí thức con người nhưng lại phủ nhận trí tuệ vượt trội của tâm Ki-tô. Và cuối cùng, có những khu vực được cống hiến cho sinh hoạt tâm linh, đồng điệu với cõi ether và cả với cõi tâm linh. Những nơi này chính là Thiên đàng Hạ thế.

Cho nên một lần nữa con thấy đó, con người có khả năng tạo dựng thực tại của mình. Con tạo ra thực tại qua quyền năng của tâm, nhưng để hiểu làm thế nào, con cần phải nhận ra rằng tâm con có đến mấy tầng. Tâm phàm của con rất giống một chiếc radio chỉ biết khuếch đại những tần số vô tuyến để giác quan có thể bắt được. Những gì con sáng tạo trong tâm phàm được định đoạt bởi những gì con tiếp nhận vào trong tâm từ các cõi cao hơn của tâm.   

Câu hỏi đặt ra bây giờ là liệu chiếc radio của tâm con sẽ bắt tần số của đài phát thanh nào? Nó sẽ đồng tần số với cái ta Ki-tô, hay nó đồng tần số với những sinh thể ở các cõi thấp? Ngay hôm nay con phải chọn con phục vụ cho ai. Con phải chọn gian phòng trong căn nhà của Cha ta nơi con muốn sống, và cách con chọn là đặt chú tâm vào một tầng cõi đặc thù nào đó. Nếu con còn mất quân bình nơi một thể thấp, con sẽ chú tâm vào cõi vật chất, cảm xúc hay tư tưởng. Nếu bản sắc thể của con còn mất quân bình, con sẽ chú tâm vào cõi bản sắc mà không lên được cao hơn. Nhưng nếu cả bốn thể phàm của con được quân bình thì con sẽ vươn lên cao hơn cõi bản sắc để hòa điệu với Đại đoàn Thượng thăng. Khi đó con sẽ trở thành cánh cửa mở cho rung động và chân lý nơi Thiên đàng xối xuống địa cầu. Con có khả năng trở thành cánh cửa mở đó để Lời Hằng sống chảy vào thế gian.   

Hãy chọn vũ trụ song song nơi con muốn sống

Bài giảng của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 2/11/2008.

[Trước bài truyền đọc, cử tọa đã lắng nghe bải Hợp xướng Hallelujah từ tác phẩm Messiah của G. F. Handel]

“Lạy đức Chúa Trời ở Trên Cao ngự trị toàn năng”. Đó là lời bài hát mà các con vừa nghe, trích từ Kinh thánh. Nhưng ta, Giê-su, đã không đến đây để đánh thức nhân loại về đức Chúa Trời ở Trên Cao là đấng toàn năng. Ta đã đến đây để đánh thức loài người về Thượng đế nội tâm – là đấng tôn trọng Định luật Tự quyết mà chính ngài đã ban ra, và vì vậy ngài không có ý kiểm soát con. Ngược lại, ngài tìm cách giúp con biểu lộ tất cả những gì con là, tất cả những gì con đã được tạo ra để là – thậm chí để con là nhiều hơn cả khi con được tạo ra. Bởi vì Thượng đế của con yêu thích được ngạc nhiên khi nhìn thấy khả năng sáng tạo của những phần nối dài của ngài, con yêu dấu.

Ngài không phải là một bạo chúa trên trời muốn con phải tuân theo một hệ thống tín ngưỡng nào, một nghi thức hay nghi lễ vỏ ngoài nào quy định  cách hành xử của con, để hai thứ đó gặp nhau khi con cầu nguyện hay thờ phượng. Đức Chúa Trời ở Trên Cao – có nghĩa là Thượng đế ở một tầng rung động cao hơn vũ trụ vật chất – vị Chúa Trời đó, vị Thượng đế đó, muốn được biểu lộ xuyên qua con trong một dòng chảy tự nhiên và sáng tạo, một dòng chảy biểu hiện sự sống dồi dào trên địa cầu theo những phương cách luôn luôn mới mẻ.

Ki-tô vượt khỏi mọi quyền uy trên địa cầu

Không phải Thượng đế muốn kiểm soát cách con suy nghĩ và hành xử, mà những kẻ đã mưu toan tự đặt mình làm thần thánh trên địa cầu – hay là vị đại diện duy nhất của Thượng đế trên địa cầu – mới muốn như vậy. Chúng đã len lỏi vào làm thượng tế ở đền thờ – trong sự tha hóa thái cực Alpha của lớp thượng lưu quyền lực. Và chúng đã trở thành kẻ đổi tiền ở đền thờ – trong sự tha hóa của tự ngã, sự tha hóa của khía cạnh nữ, của thái cực Omega.

Luôn luôn đã từng có hai nhóm chính trong lớp thượng lưu quyền lực và các thày giả: những kẻ làm tha hóa lực lan ra của Cha, và những kẻ làm tha hóa lực co lại của Mẹ. Và trong nhiều trường hợp, chúng hình thành một liên minh vô đạo, và con có thể thấy điều này trải bày ra nơi đây tại châu Âu suốt nhiều thế kỷ. Con hãy trở lại với bài hát con vừa nghe hồi nãy, “Vua của các vị vua, Chúa của các vị chúa.” Đấy, câu đó nguyên thủy có nghĩa là Ki-tô vượt khỏi mọi quan niệm và mọi hình chạm do tâm thức phản Ki-tô tạo ra, và do đó, Ki-tô vượt khỏi mọi quyền uy trên trái đất, cho dù đó là quyền uy của vua hay hoàng đế, của chúa hay giáo hoàng, của linh mục hay hồng y hay giám mục. Cho dù là ai cũng không quan trọng, vì Ki-tô vượt khỏi tất cả những người đó. Bởi vì Ki-tô không thể bị tha hóa bởi tâm thức nhị nguyên, Ki-tô không thể bị ép uổng vào một chiếc hộp tư duy do tâm thức phản Ki-tô tạo ra, mà như các chân sư đã dạy nhiều lần, là một tâm thức dựa trên ảo tưởng tách biệt, trong khi Ki-tô thì dựa trên thực tại của duy nhất, là sự duy nhất của mọi sự sống.

Trong duy nhất, không ai là chúa hay là vua trên đầu người khác

Cho nên con thấy đó, khi sự sống là Một thì không có ai nắm quyền kiểm soát. Không ai là chúa trên đầu người khác, không ai là vua trên đầu người khác. Khi người Israel thuở xưa đòi một vị vua, họ chỉ củng cố cho ảo tưởng tách biệt mà thôi – và kỳ thực, không phải người dân Israel đòi vua mà là lớp thượng lưu quyền lực rắp ranh thời đó đã đòi vua, là nhóm người thèm khát quyền lực của các thày thượng tế và muốn tranh giành quyền lực đó. Chúng làm vậy do sự tha hóa của khía cạnh Omega khiến chúng muốn kiểm soát đời sống hàng ngày của người dân, trong khi các thày thượng tế thì muốn kiểm soát tâm trí người dân. Ở đây tại châu Âu, quan niệm cho rằng Ki-tô là vị Vua của mọi vua đã bị tha hóa đến độ chính các nhà vua cũng bắt đầu tuyên bố mình là đại diện của Ki-tô, rằng họ làm trung gian giữa dân chúng và Ki-tô, và Ki-tô đã phong cho họ làm vua, phong cho đứa con trưởng của vua cũ được nối dõi làm vua mới.

Đấy, nếu con đi ngược về những thời cổ xưa thì thuở đó người ta cũng có vua, nhưng người ta không đơn giản phong con của vua lên làm vua. Vua thường được phong chức qua sự môi giới của cõi tâm linh, cho dù đó là một vị tiên tri hay một tiến trình mà qua đó Tánh linh có thể phong vua. Thường khi, tiến trình đó phong một người đã ra đời và lớn lên như một thường dân làm vị vua kế tiếp, hầu vị vua đó biết rõ cuộc sống dân gian là thế nào, thay vì được sinh ra trong lâu đài quyền quý và ngăn cách khỏi quần chúng bình thường, rồi lớn lên trong một môi trường khép kín để được dạy dỗ cho trở thành gần như điên cuồng – nếu có thể nói như vậy theo nghĩa là vô cảm trước sự khốn khổ của dân chúng. Đây chính là một trong những vấn nạn to lớn, có lẽ là vấn nạn lớn trên địa cầu, đặc biệt tại Âu châu.

Tìm Ki-tô Hằng sống trong vương quốc nội tâm

Theo nhiều cách, châu Âu đã được hoạch định để trở thành cái nôi cho những luồng tư tưởng mới, những phát minh mới, những triết lý và ý thức hệ mới, có khả năng đem lại tiến bộ và tự do cho người dân. Và chính vì đó là mục đích thiêng liêng cho vùng đất này mà các thành viên của lớp thượng lưu quyền lực – cả hai nhóm thượng lưu quyền lực, nhóm đang nắm quyền và nhóm rắp ranh muốn nắm quyền – đã tụ tập ở đây và âm mưu phân rẽ mọi người với nhau, và cũng phân rẽ mọi người với Thượng đế nội tâm của họ.

Đó là mô thức mà con thấy chúng sử dụng, lặp đi lặp lại trên lục địa này, và cũng là mô thức được Giáo hội Công giáo hoàn chỉnh một cách xuất sắc khi họ lạm dụng lời dạy của ta về vương quốc nội tâm để tự đặt mình làm kẻ đại diện tinh thần cho Ki-tô trên địa cầu. Họ bảo rằng con chỉ có thể được cứu rỗi và đến được với Ki-tô qua trung gian hệ thống quyền chức của Giáo hội.

Con yêu dấu, đúng thật là con chỉ đến được với Ki-tô qua một hệ thống thứ bậc – và con sẽ thấy là chúng tôi đã thường nói đến việc con xem mình là một thành phần của đoàn chưởng giáo của Ánh sáng – nhưng như ta đã đến để chứng tỏ cách đây 2000 năm, con không cần một hệ thống quyền chức nào trên trái đất để khẳng định sự hợp nhất của con với đoàn chưởng giáo Ánh sáng. Bởi vì Nước Trời ở trong chính con và con nắm chìa khóa của hiểu biết, con có khả năng biết được sự thật trong chính tim con. Và do đó, con không cần đến một thẩm quyền bên ngoài nào để quy định những tín điều và học thuyết mà con phải nghe theo, dựa trên cách diễn giải từng chữ của một bộ kinh đã trở thành lỗi thời trước khi nó được viết xuống.

Bất cứ kinh điển nào cũng lỗi thời trước khi có thể được viết xuống

Chân sư MORE có nói là nếu con vẽ bức chân dung của thày, thì trước khi sơn khô, thày đã tự thăng vượt rồi. Đúng vậy, ta có thể cam đoan với con là ta, Giê-su, đã tự thăng vượt rất nhiều lần trước khi những vị ghi chép Phúc âm ban đầu quyết định đặt bút lên giấy để kể lại cuộc đời của ta. Ngay từ buổi đầu, Giáo hội Công giáo đã đặt làm nền tảng quan niệm giả trá cho rằng người ta có thể bắt ép Ki-tô phải tuân theo những ý tưởng của thế gian, những tin tưởng, những hộp tư duy, những hình chạm của thế gian. Họ đã mưu toan biến Ki-tô Hằng sống thành một hình chạm, và họ đã thành công lôi kéo nhiều người thờ phượng hình tượng đó. Nhiều dòng sống đã không ngừng thờ cúng hình tượng đó suốt 2000 năm qua, hết kiếp này sang kiếp khác, khi họ lại đầu thai trong một nền văn hóa Cơ đốc giáo và cứ tiếp tục phải sống mãi với hình tượng cứng nhắc, quan điểm cứng nhắc đó về Ki-tô.

Thử hỏi một dòng sống sẽ phải bỏ ra bao nhiêu kiếp để ngồi trong một nhà thờ Cơ đốc – ngước nhìn lên tượng Ki-tô bị đóng đinh nơi chính điện – trước khi dòng sống đó bắt đầu cảm thấy là chắc hẳn thông điệp nội tâm của Ki-tô phải nhiều hơn như vậy? À con yêu dấu, đó là một câu hỏi mà ước chi ta có thể trả lời. Nhưng ta nhìn xuống nhân loại và ta phải gãi đầu mà nói: “Làm thế nào mà họ chưa chán ngấy? Làm thế nào mà họ vẫn còn ngồi đó mỗi ngày Chúa nhật, hát cùng những bài thánh ca đó, lắng nghe cùng những bài thuyết pháp đó từ miệng cùng vị linh mục đó – là vị đã nghe theo tiếng gọi đời mình để mỗi Chúa nhật lại đọc đi đọc lại cùng một bài thuyết giảng?” Vị linh mục đó có thể nghĩ mỗi bài giảng đều khác nhau, nhưng đó là cùng một bài giảng, vì nó chỉ làm đặc cứng hình chạm về một đấng Ki-tô bên ngoài, một đấng Ki-tô sẽ trở lại một ngày nào đó để cứu rỗi mình. Nhưng ta muốn con xem ta là Ki-tô nội tâm, là Ki-tô sẽ giúp con tự thăng vượt bản thân để con trải nghiệm được Nước Trời ngay nơi con đang đứng.

Vật lý lượng tử: sự tương tác giữa tâm thức và Tấm gương Vũ trụ

Vậy đâu là tinh túy của thông điệp mà ta giảng dạy 2000 năm về trước? À, con hãy cho ta nhảy vọt trong tâm thức vào thời đại hiện tại để ta giải thích cho con thông điệp của Ki-tô có thể được hiểu như thế nào qua các khám phá của cơ học và vật lý lượng tử.

Ngành vật lý lượng tử đã khám phá và chứng minh là khi con tương tác với vũ trụ vật chất, sự tương tác đó không là tương tác vật lý – nó không vật chất, vì vũ trụ được tạo bằng những hạt hạ nguyên tử nhỏ bé mà thực chất là sóng năng lượng – và tâm thức con có khả năng tương tác với chúng, nghĩa là tâm thức con có khả năng tương tác với tầng cấp cơ bản nhất của vật chất. Và đó, ngay đó, là bằng chứng về những gì ta đã cố giải thích cách đây 2000 năm qua câu: “Hãy làm cho người khác những gì con muốn người khác làm cho con.”

Vì con có thấy chăng, “những gì con làm cho người khác” là một cách biểu đạt của tâm thức con? Và tâm thức con tương tác với tầng cấp cơ bản nhất của vật chất, là cái mà các chân sư gọi là Tấm gương Vũ trụ. Điều mà vật lý lượng tử đã khám phá là trước khi một nhà khoa học thực hiện một quan sát, thì không có hạt vật chất nào đang thị hiện, không có hạt nguyên tử nào đang thị hiện. Con không thể xác định vị trí cùng động lượng chính xác của hạt nguyên tử, bởi vì trước khi quan sát được thực hiện, hạt đó không hề hiện hữu như một định lượng chính xác, mà nó chỉ hiện hữu như một xác suất, một tiềm năng – hơn thế nữa, có nhiều tiềm năng như vậy đang hiện hữu. Và các khoa học gia phát hiện ra một tính bất định cơ bản gắn chặt với bản chất của vũ trụ. Điều này trái ngược hẳn với thế giới quan được đề xướng bởi khoa học duy vật lẫn đạo Cơ đốc truyền thống, và thậm chí trước đó nữa, bởi các tôn giáo truyền thống như đạo Do thái mà ta đã đến để đổi mới.

Hoặc nữa, còn có quan điểm cho rằng con không có ảnh hưởng gì trên cõi vật chất, rằng Thượng đế đã tạo ra thế gian y như vậy, khiến cho biết bao người bị hút vào ảo tưởng coi các điều kiện của thế gian là không thể thay đổi. Vào thời Trung cổ, con người nhìn vào đau khổ của mình rồi kêu gào: “Tại sao Thượng đế lại tạo ra một thế giới khổ đau như thế này?” Nhưng Giáo hội chỉ đưa ra được một câu trả lời: “Đó là một bí ẩn, chúng ta không thể biết được. Chắc hẳn đó phải là ý muốn của Thượng đế muốn chúng ta đau khổ, cho nên chúng ta nên bằng lòng với đau khổ của mình và đừng bắt chước những gì Ki-tô đã nêu gương – biến nước thành rượu, vực cho người chết sống lại, chữa lành kẻ bệnh tật, đi bộ trên mặt nước của tâm thức con người và nâng tâm thức mình lên để trở thành chất rượu của Tâm thức Ki-tô.”

Con có thấy sự điên rồ ở đây chăng? Và con thấy là khoa học đã chứng minh đúng sự thật rằng Thượng đế đã ban cho con người quyền ngự trị trên trái đất, ngài đã ban cho họ quyền tự quyết, và ngài đã ban cho họ một cái tâm có khả năng tương tác với chính Tấm gương Vũ trụ – qua đó những gì họ phóng chiếu lên tầng cấp cơ bản nhất của vật chất sẽ chính là những gì được trình chiếu ra thành hoàn cảnh vật lý nơi họ sinh sống.

Tâm là một chiếc máy thu thanh

Điều mà các nhà vật lý phát hiện là trước khi họ quan sát một hạt nguyên tử, nguyên tử đó không hiện hữu như một hạt, nhưng nó có tiềm năng thị hiện ra ở một vị trí nào đó. Họ có thể tính toán xác suất hạt nguyên tử có thể thị hiện ở một vị trí, nhưng họ không thể biết chắc chắn cho tới khi họ thực hiện quan sát. Tại sao như vậy chứ, con yêu dấu? Là vì chỉ khi nào tâm thức của con tương tác với tầng cấp sâu thẳm của thực tại mà Thượng đế đã tạo ra, chỉ khi đó thì vật mới thị hiện ở mức rung động nơi tâm thức con đang tự đồng hóa.

Như chúng tôi đã có nói, tâm con giống như một máy thu thanh có khả năng bắt sóng nhiều đài phát thanh khác nhau. Nhưng hầu hết mọi người trên địa cầu đã bị điều kiện hóa để điều chỉnh tâm mình, khiến tâm chỉ bắt được quang phổ rung động của vũ trụ vật chất – nó chỉ bắt được đài phát thanh của vũ trụ vật chất mà thôi. Họ bị điều kiện hóa để nghĩ đó là tầng cấp thực tại duy nhất mà họ có thể trải nghiệm, và vượt khỏi cái đó thì không có gì hiện hữu. Hoặc họ nghĩ là có một cái gì vượt ra ngoài, nhưng họ không thể tự ý liên lạc với nó trong tim họ, bởi vì chỉ có linh mục hay giáo hoàng mới có chiếc radio to hơn có khả năng bắt sóng của thiên đàng. Con yêu dấu, ta nói với con là tại toà thánh Vatican hay bất kỳ nơi nào khác, không hề có một chiếc siêu radio nào cả. Bởi vì chỉ có một máy thu thanh duy nhất – một loại máy thu thanh duy nhất trên trái đất này – là cái nằm ngay trong con tim mỗi người, là cái mà mỗi con đều mang trong tim mình.

Con yêu dấu, đó là cách duy nhất con hòa điệu được với thiên đàng. Và những ai cả quyết điều ngược lại chỉ đơn giản là đại diện cho lớp thượng lưu quyền lực đang tìm cách kiểm soát nhân loại, với tâm trạng tách biệt khỏi Thượng đế của chúng. Và chúng biết là sau cùng hết, chúng chỉ có thể kiểm soát được con qua tâm trí bằng cách khiến con tin rằng không có gì hiện hữu bên ngoài nhà tù nơi con đang cư ngụ.

Hoàn cảnh cuộc sống được trải nghiệm theo trạng thái tâm thức của mình

Trở lại với vật lý lượng tử, có một thuyết trong vật lý lượng tử bảo rằng khi một quan sát được thực hiện, thì một sự kiện hay một hạt nào đó trở thành một biểu hiện vật lý trong vũ trụ này. Như vậy câu hỏi được đặt ra là: “Vậy thì các tiềm năng kia có xác suất thị hiện, chúng đã biến đi đâu? Liệu chúng chỉ đơn giản biến mất khi dạng sóng co sụp, hay có thể nào mỗi tiềm năng đó được thị hiện trong một vũ trụ song song?”

Thuyết này có tên là “cách diễn giải đa thế giới”, cho rằng có hằng hà sa số vũ trụ. Và mỗi lần con làm một chọn lựa thì cũng có một bản sao của chính con đang làm một chọn lựa khác trong số các chọn lựa tiềm năng mà con có. Nếu con chọn A, bản sao của con sẽ chọn B, và nó sẽ sống trong một vũ trụ song song để trải nghiệm hệ quả của chọn lựa đó. Con yêu dấu, chuyện này không thực đâu, bởi vì con là một Bản thể, một cái Là duy nhất. Và ta có thể cam đoan với con là ngay cả Thượng đế cũng đã thấy được là con khó lòng nào mang vô số phiên bản như vậy mà vẫn duy trì được một ý niệm toàn vẹn nào đó. Cho nên con chỉ là một cái Là duy nhất, nhưng tất nhiên cái Là đó, Bản thể đó, có nhiều tầng cấp.

Cho nên thực tế là nếu con chọn một chọn lựa nào đó ở đây trong cõi vật lý, thì con không chỉ trải nghiệm hệ quả của chọn lựa đó trong tâm ý thức của con – bởi vì cái tâm rộng lớn của con bao gồm cả các cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc của hành tinh địa cầu. Và con sẽ cũng trải nghiệm hệ quả các chọn lựa của con ở các tầng cấp đó, tùy theo trạng thái tâm thức và con tự đặt mình ở đâu. Bởi vì như thày Maitreya đã giải thích trong sách của thày, tuy chỉ có một tầng cấp trong vũ trụ vật lý, nhưng có nhiều tầng cấp trong các cõi cảm xúc và lý trí, và ngay cả cõi bản sắc – tức cõi êthe – cũng có một số phân chia.

Con là một Bản thể duy nhất hiện hữu trong nhiều chiều kích

Con rất có thể sống trên địa cầu trong một thân xác vật lý nhưng lại mang một trạng thái tâm thức thấp khiến con hòa điệu cảm thể với một tầng khá thấp của cõi cảm xúc. Cho nên hoàn toàn có khả năng là con trải nghiệm một sự cố vật lý nào đó, và trong tâm con, trải nghiệm đó trở thành rất tiêu cực và bị chi phối bởi lòng sợ hãi. Trong khi đó, một người khác có trạng thái tâm thức cao hơn hoà điệu với những tầng cao hơn của cõi cảm xúc, có thể kinh qua cùng hoàn cảnh vật lý của con nhưng trải nghiệm của họ thì khác hẳn – một trải nghiệm ít sợ hãi hơn hẳn.

Điều ta muốn trao cho con ở đây là khái niệm rằng con là một Bản thể duy nhất, một cái Ta duy nhất, nhưng con hiện hữu trong nhiều chiều kích. Và con có thể xem các tầng vật lý, cảm xúc, lý trí và bản sắc của vũ trụ vật chất là những vũ trụ song song, những thế giới song song. Nơi đây trong cõi vật lý, cơ thể của con có thể có một số hành động, nhưng điều sẽ định đoạt trải nghiệm sống của con không phải là hành động vỏ ngoài, mà thực sự là cách con cảm nhận hành động đó, hay hệ quả của hành động đó, cách con trải nghiệm hoàn cảnh của con như thế nào.

Điều ta đang cố giải thích cho con là có một thực tế ở đây, để khi con nhìn vào nhân loại, con thấy được là có nhiều nhóm người có thể được xếp trên một cái thang theo tầng tâm thức của họ. Và mỗi tầng như vậy – nếu có thể nói như thế – đang sống trong một vũ trụ song song. Bởi vì mặc dù tất cả mọi người đều có một cơ thể vật lý, nhưng trong tâm thức họ lại hòa điệu với những tầng khác nhau của cõi cảm xúc và lý trí. Và tầng cấp nơi họ đang bắt sóng sẽ định đoạt cách nhìn của họ về thế giới vật chất cũng như cách họ trải nghiệm cuộc sống – nó sẽ quyết định trải nghiệm sống của họ sẽ như thế nào.

Tâm thức trên thang tần số cao hay thấp

Điểm này liên quan rất nhiều đến lời dạy mà ta đã ban ra trong thời gian qua, tức là con có thể chia loài người thành ba lớp: lớp 10% trên cùng là những người có nhận thức tâm linh cao nhất, lớp 10% dưới cùng là những người vị kỷ nhất, chỉ chú trọng đến bản thân, và số 80% còn lại trong quần chúng nói chung nằm đâu đó ở giữa. Ta muốn con hiểu ở đây là điều định đoạt vị trí của một người trên cái thang nói trên không phải là quyền lực vỏ ngoài mà là trình độ tâm thức của người đó.

Hiển nhiên, những người nắm nhiều quyền lực nhất trên địa cầu không nhất thiết – và thực ra cũng rất hiếm hoi – nằm trong lớp 10% trên cùng. Nhưng lớp 10% trên cùng này không hề cao trội hơn mọi người khác, bởi vì muốn là thành phần của 10% trên cùng, con phải khắc phục được nhị nguyên cũng như nhu cầu xem mình tốt đẹp hơn người. Con cũng không được rơi vào đối nghịch của nó là sự khiêm tốn giả dối, mà con bước vào nhận thức thực tế mà chúng tôi đã nói đến trong các bài truyền đọc vừa qua trong hội nghị này, là con chỉ đơn giản nhận ra mình là ai, rằng mình là một người đồng sáng tạo cùng với Thượng đế. Đó là điều sẽ định đoạt con có nằm trong số 10% trên cùng hay không. Cho nên con không được cho phép tự ngã biến lời dạy này của chúng tôi thành một lời dạy về cao trội, rồi con cảm thấy tự hào, bởi vì nếu vậy thì con vẫn chưa hiểu được lời dạy này đâu.

Quả thực là có những người đã hoà điệu tâm thức mình với các tần số cao hơn, với những đài phát thanh truyền rải chân lý từ cõi các chân sư thăng thiên. Và như vậy, họ cũng nâng cao tâm thức của họ đến mức họ có thể bắt sóng một đài khác hơn là đài phát thanh mà đa số con người sử dụng, chắc chắn khác hơn lớp 10% dưới cùng thường chỉ bắt được đài phát thanh được gọi là địa ngục.   

Bởi vì con thấy đó, quả thực có địa ngục hiện hữu trong cõi cảm xúc. Đó là cõi của những người đã trở thành vị kỷ – đã bị nuốt sống bởi lòng oán giận của họ đối với Thượng đế cũng như đối với bản thân họ – đến độ họ đã tạo ra một cõi nơi oán hận trở nên mãnh liệt, sôi bỏng và được trải nghiệm như những ngọn lửa địa ngục thiêu đốt họ trong nỗi đau đớn triền miên. Đối với những con người bị mắc kẹt trong cõi đó, cho dù họ bị dằn vật triền miên như vậy, nhưng họ không luôn luôn nhận thức được điều đó, vì họ bị cuốn hút trong nỗi oán giận Thượng đế đã tiêu hủy khả năng nhận biết của họ đến độ họ không còn nhận ra là nó khó chịu đến chừng nào, và họ mong muốn thoát ra khỏi đó đến chừng nào.     

Tâm thức là một lực hút

Khi con nhìn vào cái thang của lớp 10% dưới cùng, 10% trên cùng và 80% ở giữa, con thấy trên thang đó có nhiều tầng cấp khác nhau. Và khi con nhìn những người hiện đang đầu thai trong số 10% dưới cùng, con sẽ thấy là những người ở các tầng cấp thấp nhất hiện thân cho một trạng thái tâm thức đặc thù. Những người này hình thành một lực hấp dẫn, một trọng lực, tìm cách lôi kéo tâm trí của mọi người khác xuống tầng tâm thức của họ.

Họ làm vậy không chỉ xuyên qua tâm họ, mà họ làm vậy xuyên qua hành động, bằng cách dính dấp, lôi kéo mọi người vào những cuộc chiến hầu mọi người bị mắc bẫy trong chiến tranh, mắc bẫy trong giao tranh. Và mặc dù có người đã vươn lên được trong danh dự, nhưng nhiều người khác bị rơi xuống những loại xu hướng tồi tệ như thú vật, chẳng hạn họ có thể giết bất cứ ai xem chừng đang cản đường họ, hay chiếm một ngôi làng rồi hãm hiếp tất cả phụ nữ trong làng, hay hoàn toàn coi thường mạng sống với nhiều cách khác nữa. Và như vậy, họ kéo con người xuống mức của thú vật, và họ kéo cả những ai nhìn vào hành vi tàn ác đó rồi nổi giận và tìm cách trả thù. Họ tạo ra một vòng xoáy ốc hướng hạ, và mọi người bị kéo xuống thấp hơn và thấp hơn nữa.     

Có những con người trong số 10% dưới cùng sống trong một vũ trụ đặc thù mà con là người tâm linh không thể nào tưởng tượng nổi. Thật ra ta không khuyến khích con cố tưởng tượng ra cách họ trải nghiệm cuộc sống như thế nào. Bởi vì chính ta đã bước xuống địa ngục – nghĩa là ta đã bước xuống mức tâm thức của họ để tìm cách đưa họ đi lên – nhưng ta chỉ làm công việc đó sau khi ta đã tái sinh, cho nên ta đã rũ bỏ xong thân xác cùng với tâm thức phàm phu. Và chắc chắn ta không khuyến khích con bước xuống tầng mức đó khi con còn đang hiện thân trong một cơ thể vật lý. Chuyện đó chỉ dành riêng cho một số rất ít người, và vì vậy con cần nỗ lực nâng cao tâm thức của mình thay vì đưa nó xuống thấp… trừ khi, tất nhiên, nếu con cần đi xuống để xem xét chính tâm lý của mình trong tiền kiếp và tháo gỡ một quyết định mà con đã lấy khi con còn ở một mức tâm thức thấp hơn. Nhưng con không hòa điệu với tâm thức của người khác, vì con không cần tháo gỡ quyết định của họ, bởi vì chỉ có họ mới làm được việc đó mà thôi.

Lớp 10% trên cùng phải đem lại thay đổi tích cực

Thông điệp mà ta muốn mọi người hiểu ở đây là Thượng đế đã giao cho con người quyền ngự trị trên trái đất. Những ai nằm trong số 10% dưới cùng là những kẻ đui mù, và họ là những kẻ mù đang cố dẫn đầu những kẻ mù khác là quần chúng nói chung. Họ hung hãn, họ hoàn toàn vị kỷ, và con không thể chờ đợi là họ sẽ bỗng dưng thức tỉnh rồi bắt đầu nâng cao tâm thức của họ hay nâng cao tâm thức lớp 80% quần chúng.

Ta không đang nói là đã không có ai trong số 10% dưới cùng từng thức tỉnh, vì chuyện đó đã từng xảy ra nhưng chỉ cho một số rất ít. Cho nên điều ta muốn nói là con không thể chờ đợi những thay đổi tích cực cho hành tinh này từ lớp 10% dưới cùng đó. Vậy thay đổi tích cực phải đến từ đâu? Nhìn vào lớp 80%, con sẽ thấy họ thường theo chân người khác, họ không có một ý thức về cái ta đủ mạnh để đi ngược lại số đông, để từ chối chui vào cái khuôn do xã hội quy định. Vậy thì thay đổi tích cực phải đến từ đâu? Chỉ có thể từ lớp 10% trên cùng, con yêu dấu, và đây là điều con cần nhận ra.

Con hãy nhìn vào ví dụ châu Âu thời Đệ nhị Thế chiến, một cuộc xung đột giết hại hàng triệu người trên lục địa này. Hàng triệu người bị mất người thân yêu, nhà cửa hàng triệu người bị phá hủy, và cả thành phố của họ cũng bị tàn phá, cả quốc gia của họ bị tàn phá. Thế nhưng khi con đi tới một số nơi khác trên cùng lục địa châu Âu, con sẽ tìm thấy nhiều người vẫn sống cuộc sống gần như bình thường trong suốt 5 năm của cuộc chiến. Tại sao vậy, con yêu dấu? Vì họ ở một tầng tâm thức khác so với những người bị liên lụy trực tiếp vào cuộc chiến.

Con không nên tin là mọi chuyện xảy ra chỉ xảy ra như vậy. Tất cả mọi sự xảy ra là sự thị hiện của tâm thức. Có lý do khiến cho một số người tụ hợp lại và đầu thai trong cùng một khu vực, trong cùng những khu vực địa lý, và nơi đó họ đã bị trực tiếp liên lụy vào cuộc chiến. Có lý do khiến cho một số người khác đầu thai ở những nơi khác tại Âu châu và không bị liên hệ trực tiếp đến như vậy. Có một lý do cho sự thể này, và đó là mức tâm thức của họ. Cho nên điều ta đang cố giải thích là ngay cả trong một cuộc xung đột khủng khiếp như Đệ nhị Thế chiến, con sẽ tìm thấy những con người ở những tầng tâm thức khác nhau và họ sẽ có những trải nghiệm rất khác nhau về các biến cố vật lý.   

Vũ trụ song song trong tâm thức

Ngày nay, các con là những người tâm linh – nếu có thể nói như thế này – đang sống trong một vũ trụ song song so với số đông của nhân loại, cũng như so với lớp 10% dưới cùng. Con hãy suy ngẫm sự kiện con đang ngồi trong căn phòng này đây, trong tu viện của một dòng Cơ đốc giáo rất lâu đời với truyền thống tổ chức rất chặt chẽ, cố định. Con hãy suy ngẫm sự kiện con đang ngồi đây lắng nghe một người tự nhận là mình đang nói giọng nói của Giê-su đích thực, và cùng lúc đó ở dưới kia có những vị tu sĩ của dòng tu này đang cử hành thánh lễ ngày Chúa nhật, và họ cũng tự nhận là họ đang thờ phượng Giê-su Ki-tô đích thực, và chắc hẳn họ sẽ vô cùng sửng sốt nếu họ thực sự hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Con có thấy chăng là ngay cả khi con gần gũi như vậy trên phương diện địa lý, con vẫn có thể đang sống trong những vũ trụ song song trong tâm con?    

Cho nên ý tưởng đến từ nền vật lý lượng tử về các vũ trụ song song không sai, duy chỉ có điều đó không phải là những vũ trụ vật lý song song – đó không phải là những vũ trụ song song trong quang phổ rung động vật chất – mà là những vũ trụ song song trong tâm thức. Và đây chính là điều kỳ diệu của hành tinh địa cầu trong cõi vật chất. Nó cho phép mọi người – như thày Maitreya giải thích tường tận hơn trong sách của thày – ở cùng một vị trí địa lý nhưng lại ở trong những vũ trụ song song trong tâm thức.   

Quả vị Ki-tô dời chuyển toàn bộ quang phổ tâm thức

Điều này có nghĩa là có một sự tương ứng giữa vũ trụ song song nơi con sống trong cương vị một người tâm linh, với vũ trụ song song mà lớp 10% dưới cùng trải nghiệm. Có một quy luật của Thượng đế định rằng trước khi một biểu hiện nhị nguyên – một biểu hiện của bóng tối, của xấu ác – có thể được loại bỏ khỏi địa cầu, thì trong số 10% trên cùng phải có một số người đã nâng cao tâm thức tới mức họ đã tự giải thoát khỏi các khía cạnh của tự ngã đang được trình chiếu ra bên ngoài thành các biểu hiện đó của bóng tối.

Họ phải giải thoát khỏi các khía cạnh đó, nhưng họ cũng phải đứng thẳng lưng và tuyên bố: “Biểu hiện này của xấu ác không thể nào chấp nhận được nữa trong thế giới của tôi!” Chỉ khi nào con đứng trên Tảng đá của Ki-tô – vì con đã sẵn lòng loại bỏ cái xà trong mắt con, cái khía cạnh đó của tự ngã đang được trình chiếu vào thị hiện – chỉ khi đó, chỉ khi con đứng trên Tảng đá của Ki-tô, thì con mới có thẩm quyền – hay có thể nói, con mới trao cho Thượng đế thẩm quyền – để loại trừ biểu hiện xấu ác đó khỏi hành tinh, và loại bỏ những kẻ không chịu tự nguyện nâng tâm thức mình lên cao hơn nó.

Con có thấy chăng đây chính là cách tiến bộ xảy ra trên hành tinh này? Phải có những người trong số 10% trên cùng đã đạt đến trình độ quả vị Ki-tô tương ứng với trình độ tha hóa của số 10% dưới cùng. Và chỉ khi nào nhân loại có đủ túc số những con người như vậy – một lượng “tới hạn” những người đã đạt đến mức đó của quả vị Ki-tô – thì hiện tượng tha hóa ở mức đó mới có thể được loại bỏ. Và như vậy, toàn bộ quang phổ tâm thức được dời chuyển lên cao hơn. Nếu con nhìn vào quang phổ của tâm thức con người trên địa cầu, con sẽ hiểu tiến bộ xảy ra như thế nào. Toàn bộ quang phổ được nâng lên cao hơn, và lúc bấy giờ, không những lớp 10% trên cùng có khả năng bước lên một bước cao hơn, mà số 10% dưới cùng cũng không thể bước xuống thấp hơn một mức nào đó vì khi đó họ sẽ bị loại khỏi địa cầu.

Đây là cách duy nhất mà tiến bộ có thể xảy ra. Tiến bộ không thể xảy ra một cách nào khác. Nó không thể xảy ra qua vũ lực. Nó không thể xảy ra do một quốc gia chuyên chế chinh phục cả thế giới rồi cố thiết lập vương quốc Thượng đế bằng vũ lực. Nó không thể xảy ra do một tôn giáo chế ngự cả địa cầu. Nó không thể xảy ra cách nào khác hơn là qua một sự chuyển đổi tâm thức, mà qua đó những ai mang tiềm năng phải đứng dậy, phải thỉnh lấy quả vị Ki-tô của mình, phải thanh tẩy tâm mình cho không còn một số biểu hiện của tâm thức nhị nguyên, rồi họ phải – đồng thanh, đồng tâm và đồng lòng – nói rằng chuyện đó phải chấm dứt, rằng như thế là quá đủ rồi!

Chiến thắng là sự hợp nhất của mọi con tim

Đây là những gì con đã và đang làm khi con bước theo lời dạy của chúng tôi, các chân sư thăng thiên, khi con đọc bài nguyện và bài thỉnh – con đã làm như vậy từng bước một. Nhưng lý do chúng ta đã giành được chiến thắng, như thày Saint Germain có giảng tối hôm qua, là các con đã đến với nhau trong sự hợp nhất. Có lẽ tất cả các con không nhận thức điều này, nhưng các con đã đến trong tâm hợp nhất và tim hợp nhất, trong cùng mong muốn nâng châu Âu vươn lên khỏi quá khứ, vươn lên khỏi bế tắc của quá khứ. Và các con đã sẵn lòng thăng vượt các mối chia rẽ vỏ ngoài mà người ta đã dùng để chia và trị người dân lục địa này từ quá lâu nay. Và quả thật đây là chìa khóa chủ yếu mà con cần nhận thức, mà con cần áp dụng trong đời sống và con cần tiếp tục áp dụng khi các con đến với nhau. Và chúng tôi vô cùng khích lệ khi thấy con sẵn lòng đến với nhau như một cộng đồng.

Con cần thấy là chúng tôi muốn thiết lập ở đây một dòng chảy hình số 8 giữa Âu châu và Hoa kỳ, hầu tạo thành hai thái cực là các đệ tử tại Hoa kỳ và các đệ tử tại Âu châu – và chắc chắn ta cũng kể cả Âu châu miền Đông cho tới nước Nga, và tất cả đều đến với nhau, hình thành sự hợp nhất và dòng chảy hình số 8 rồi gặp nhau. Giao điểm dòng chảy này nằm giữa Đại tây dương nơi thuở xưa đã từng hiện diện nguyên một lục địa nơi ta từng phụng sự và lãnh đạo một dòng tiến hóa tâm linh con người. Thế nhưng nền văn minh đó đã không thể duy trì được ở mức đó, để rồi cuối cùng bị chìm xuống một trình độ tâm thức thấp hơn.

Nhưng tâm thức có khả năng vươn lên trở lại, và động lượng cùng nền khoa học và các tư tưởng đã từng khởi lên trên lục địa đó có thể sẽ lại khởi lên một lần nữa – nhưng chỉ khi nào có những người giữ được sự quân bình tâm linh cho tâm thức đó bằng cách nâng cao tâm thức của chính mình. Cho nên chúng tôi đặc biệt khuyến khích các con hãy hình thành mối liên kết đó – hình thành dòng chảy hình số 8 – và nhìn xem các con có thể làm gì để tạo dựng tinh thần cộng đồng sẽ thực sự kết hợp các con.

Lắng nghe Giê-su ở bên trong

[Giê-su im lặng một lúc]. Ta im lặng vì ta muốn con trải nghiệm rằng thái cực Omega của phát biểu quả thực là im lặng. Con đừng rơi vào cái bẫy mà nghĩ rằng con luôn luôn cần lắng nghe một bài giảng vỏ ngoài, một giọng nói vỏ ngoài. Vì nếu con nghĩ rằng ta, Giê-su, chỉ có thể nói chuyện với con qua trung gian một sứ giả bên ngoài thì con đã hụt mất khía cạnh Omega trong pháp của ta. Bởi vì ta quả thật có thể nói chuyện với mỗi người trong các con ở ngay trong tim con. Nhưng để con nghe thấy ta, con phải tạo ra một khoảng trống im lặng trong tâm con – vì ta không nói to hay nói ầm ĩ, như con tưởng nếu con dựa trên bản nhạc con vừa nghe trước khi ta bắt đầu giảng.

Nhưng một lần nữa, bài hát đó là cách người ta muốn hình dung Ki-tô như một vị vua vẻ vang đến lật đổ tất cả mọi uy quyền trên trái đất. Nhưng con thấy không, ta không hề là một ông vua lớn tiếng đường đường tiến vào các thành phố Israel, mà ta là – có đúng vậy không? – một người hèn mọn cưỡi trên lưng con lừa. Và điều này biểu tượng cho sự kiện ta cũng không đến với con trong một giọng nói oai phong lẫm liệt để ra lệnh cho con. Ta đến như một giọng nói vô cùng nhỏ nhẹ để khích lệ con đạt được một hiểu biết cao hơn, hầu con có thể tự ý có những chọn lựa tốt hơn thay vì bị chỉ bảo phải làm gì.

Ta hoàn toàn không có mong muốn bảo mỗi người trên hành tinh này phải làm gì, vì ngay cả chính ta cũng mong muốn có những giây phút yên tĩnh. Tại sao ta lại chuốc lấy phận sự biết rõ mỗi người trên địa cầu phải cư xử ra sao, để rồi ta phải chịu trách nhiệm về những chọn lựa mà họ lấy, trong khi – theo luật tự quyết – chính ta không có khả năng ảnh hưởng đến trải nghiệm sống của họ? Đã biết bao lần một vị đạo sư tâm linh đã bảo mọi người phải làm gì, chẳng hạn bảo người ta phải lập gia đình với ai đó, rồi khi hôn nhân đổ vỡ – do người đó đã ngây thơ tưởng rằng một khi có đạo sư chỉ bảo thì mọi chuyện đương nhiên phải “hạnh phúc mãi mãi” – thì họ vẫn phải giải quyết vấn đề của họ, rồi họ bất mãn với đạo sư, cảm thấy lời khuyên kia là sai lầm, và họ rơi vào một trạng thái tâm thức tiêu cực.

Đây là một khuôn nếp mà con thấy lặp đi lặp lại nhiều lần với những ai đã đi theo một thẩm quyền bên ngoài, cho dù thẩm quyền đó là gì. Và thật vậy, con thấy là ở ngay nước Đức này đây khi dân Đức vào thập niên 1930 nhân mong muốn đi theo một uy quyền bên ngoài, thì đã có ngay một người xuất hiện để đảm nhiệm vai trò đó cho dân tộc Đức. Hiển nhiên là sau đó, người dân Đức hối hận mình đã đi theo lãnh tụ đó, nhưng bấy giờ họ lại đổ lỗi cho lãnh tụ thay vì nhìn nhận là lãnh tụ chỉ là một biểu hiện của chính tâm thức họ, biểu hiện chính sự từ chối nhận lãnh trách nhiệm của họ.

Cho nên con thấy đó, một lần nữa, nếu tâm thức con ở một mức nào đó thì con sẽ thu hút về phía con – hay đúng hơn, con thu hút bản thân con về phía một vũ trụ song song đặc thù nơi tất cả những gì con giữ trong tâm thức sẽ trải bày ra. Vì vậy đối với con là người tâm linh, điều ta muốn khuyến khích con xem xét là con có thể hòa điệu tâm thức mình vào sự rung động của bào huynh yêu dấu của ta, thày Saint Germain, cũng như viễn quan của thày cho một Thời Hoàng kim tại Âu châu. Xong con hãy chấp nhận Thời Hoàng kim đó chính là thực tại thị hiện trong thế giới của con.

Để việc làm này thành công, con cần, như ta đã nói, nâng cao tâm thức của mình để nó vượt khỏi các biểu hiện của tự ngã không còn chỗ đứng trong Thời Hoàng kim. Và đó là khi ta sẽ cống hiến sự trợ giúp của ta bằng cách làm giọng nói bé nhỏ bên trong – nếu quả thật con thỉnh thoảng dành cho ta một vài giây phút khi con làm cho tâm lắng đọng và con chỉ ngồi đó trong im lặng. Con hãy tắt cái máy iPod đó đi, con yêu dấu! Vì ta không mong muốn cạnh tranh với công nghệ tuyệt diệu đó. Hãy dành cho ta im lặng và ta sẽ cho con sự hướng dẫn. Mình đồng ý rồi chứ? Thế thì ta niêm con trong sự an bình của trái tim ta.

Đạo đức giả không cần ghi danh!

Bài giảng của chân sư thăng thiên Giê-su ngày 5/7/2005 qua trung gian Kim Michaels.

Tự ngã mất hết quyền lực khi con thấy nó thật là gì

Ta là Giê-su. Ta cũng xin bồi thêm thần lực của ta cho phong trào các vị Bảo hộ Ánh sáng Mẹ. Ta đến đây để ở lại với các con, và ta cam kết sẽ khai ngộ cho bất cứ ai sẵn lòng buông bỏ tự ngã của mình – bất cứ ai sẵn lòng vạch trần tự ngã để nhìn thấy nó thật là gì, và như thế tự tách mình và tách cái Ta Biết ra khỏi nhà tù của tự ngã. 

Quá nhiều tín hữu đạo Cơ đốc cho rằng ta là một vị thày dễ tính. Nhưng ta là một vị thày thẳng thắn. Ta không đùa, và ta sẽ không đùa với bất cứ ai đến với phong trào này. Bởi vì nếu con không sẵn lòng buông bỏ tự ngã, con có thể tự do đi nơi khác, nơi người ta sẽ o bế tự ngã của con thay vì giúp con tách rời khỏi tự ngã.

Nhưng khi ta nói ta là một vị thày thẳng thắn, ta không bảo ta là một vị thày không yêu thương. Và điều quan trọng là con nên suy ngẫm về sự khác biệt này, vì thực sự, tình thương của ta là tình thương toàn hảo đánh bật mọi nỗi sợ hãi ra ngoài. Và ta biết thừa là nhiều người rất sợ tự ngã của mình bị phơi bày ra, sợ điều gì đó sẽ xảy ra cho mình khi mình không thể còn ẩn náu đằng sau các lý lẽ khôn ngoan mà cái tâm nham hiểm của Rắn đã nặn ra để lừa gạt các dòng tiến hóa trên hành tinh này.  

Hãy ngừng nhón gót chung quanh tự ngã

Quá nhiều học trò tâm linh đã nhón gót đi vòng quanh, tránh né đề tài tự ngã mặc dù chúng tôi, các chân sư, đã giảng dạy trong mấy tổ chức tâm linh trước rồi. Họ đã sợ rằng nếu tự ngã của họ bị phơi bày, họ sẽ phải trải qua một cơn biến động nào đó, họ sẽ đánh mất giá trị về bản thân, hay bằng nhiều cách, họ sẽ chìm vào một cơn khủng hoảng bản sắc.  

Thật ra con chỉ cần chuyển đổi ý niệm bản sắc của con đi một chút mà thôi. Con cần bắt đầu tự hỏi: “Biết những gì tôi biết về con đường tâm linh – và mục đích đạt được tự do trong tâm thức Ki-tô, mục đích chứng nghiệm được tự do rộng lớn khi mình vượt khỏi và đứng trên tự ngã – biết được những gì tôi biết, thực sự có thành phần nào của tự ngã mà tôi không sẵn sàng từ bỏ hay không, nếu tôi có thể nhìn thấy?” Và ta nghĩ khi con trầm tư về điều này, con sẽ thấy được trong tim con là quả thực không có điều gì mà con không sẵn sàng buông bỏ để đến gần hơn với tình yêu Thượng đế, để là con người mà con là, và biểu hiện con người đó. Khi con nhận ra điều này, con không cần phải sợ tự ngã nữa, hay sợ phải phơi bày tự ngã nữa.

Con sẽ không cần sợ mình phạm lỗi, vì dù con có làm lỗi thì điều đó hoặc sẽ phơi bày một phần của tự ngã, hoặc sẽ giúp con vượt qua tự ngã. Tự ngã không còn bất kỳ quyền năng nào trên con. Nó chỉ có quyền năng nếu con chưa nhìn thấy nó, hay con chưa thấy nó thực sự là ảo tưởng và như vậy con mới chưa thể tách rời khỏi nó. Ngay khoảnh khắc con nhìn thấy nó, và ngay khoảnh khắc con quyết định tách rời khỏi nó, nó sẽ không có quyền năng gì trên con nữa, và con sẽ bước tới đâm xuyên qua nó. Và khi con bắt đầu nhận ra điều này, con sẽ thấy con đường vượt khỏi tự ngã không khó lắm đâu. Đó không phải là một con đường đầy sợ hãi, không là một con đường đáng xấu hổ, không là một con đường nơi mình cảm thấy bại trận hay thua kém do mình vẫn còn khía cạnh này hay khía cạnh nọ của tự ngã.   

Con là nhiều hơn tự ngã rất nhiều. Và ta sẽ nhắc đi nhắc lại cho con rằng con là nhiều hơn. Con là nhiều hơn rất nhiều và đó là điều mà chúng tôi yêu thích. Và khi con nhận ra con nhiều hơn tự ngã đến chừng nào thì việc buông bỏ tự ngã sẽ không là vấn đề nữa. 

Thế đấy, cốt lõi của tự ngã chỉ có vậy – hoặc con không nhìn thấy nó, hoặc con không sẵn sàng bỏ nó đi. Tự ngã luôn luôn cố gắng lẩn trốn. Nó luôn cố nói với con là con không thể đi bước kế tiếp trên đường tu, con không thể bước ra ngoài cửa nhà tù. Nhưng rồi khi con nhận thấy con có khả năng tiến bước trên đường tu, nó sẽ cố bảo con là con thực sự không muốn bước tới hay con không được phép bước tới.

Tự ngã ngăn cản con đi bước kế tiếp

Trong bản chất, tự ngã chính là yếu tố ngăn con đi bước kế tiếp để đến gần hơn với Thượng đế. Thật sự, tự ngã cũng có nhiều đặc tính khác nhưng tinh túy của nó là nó ngăn con đi bước kế tiếp trên đường đạo. Và khi con bắt đầu ngộ ra điều này – và ngộ ra rằng phần lớn cái ta của con hoàn toàn nhất quyết đi bước kế tiếp đó – thì tại sao con lại sợ tự ngã? Tại sao con lại sợ nó được phơi ra? Con phải chào mừng khi thấy nó được vạch trần, bởi vì bây giờ con có thể nói: “À, tôi đã thấy nó rồi. Bây giờ tôi có thể buông nó ra.”  

Như ta có trình bày vào dịp lễ Phục sinh, chìa khóa để vượt qua và bước đi trên đường tu tâm linh là con phải từ bỏ tất cả những thứ gì không thực. Con phải buông nó ra, con phải cho nó ra đi. Nhưng con sẽ không thể buông nó, con sẽ không thể cho nó ra đi cho đến khi con đã sở hữu nó, đã nắm lấy chủ quyền trên nó. Cho nên có thể nói, tự ngã trước tiên sẽ cố ngăn con nắm lấy chủ quyền cái thành phần đó của tự ngã, ngăn con nhìn thấy hoặc nhìn nhận nó. “Phải, cái phần này của tự ngã còn nằm trong bình chứa ngã của tôi.” Và sau đó nếu con thấy nó rồi, nó sẽ cố ngăn cản con buông cho nó ra đi bằng cách khiến con nghĩ rằng con cần đến nó.

Và đây là chìa khóa – nhận ra rằng con sẵn sàng buông cho nó ra đi vì con yêu thích một điều gì khác hơn là ở lại trong vùng an toàn của con. Và ta sẽ có mặt ở đây để giúp tất cả những ai sẵn sàng buông cho tự ngã ra đi. Khi nào thích hợp hơn và các chu kỳ lần lượt trải ra, ta sẽ ban thêm một số giáo lý và dụng cụ tâm linh mới về đề tài này. Nhưng ngay bây giờ ta sẽ nói: “Saint Germain đã tuyên bố rõ ràng là thày sẽ không mất thì giờ với tự ngã của bất kỳ ai nữa. Nếu con muốn là một học trò của Saint Germain và giúp thày thị hiện Thời đại Bảo bình, thì con hãy vứt bỏ tự ngã của con trước khi con tiếp cận với thày.” Đúng thế, ta là vị thày sẽ giúp con vứt bỏ tự ngã đó để con có thể hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con hầu đồng sáng tạo Thời Hoàng kim với Saint Germain.   

Con đường khiêm tốn toàn diện

Vì vậy ta sẽ treo lên một cái bảng, bởi vì ta đang tìm kiếm những ai sẵn sàng giúp một tay trong việc đồng sáng tạo Thời Hoàng kim. Có thể con đã thấy người ta dựng tấm bảng trước các cơ sở kinh doanh với dòng chữ: “Cần người giúp việc. Ghi danh bên trong.” Ta đang dựng tấm bảng này lên vì ta đang cần sự trợ giúp của con. Và con phải vào bên trong để ghi danh, có nghĩa là con vào trong nội tâm mình, bước vào bên trong, phát hiện tự ngã đó và buông cho nó ra đi.  

Tuy nhiên ta cũng có một số điều kiện. Hai ngàn năm trước đây, ta đã bỏ ra rất nhiều thì giờ và năng lực để ứng xử với những người không sẵn lòng xét xem là mình có cần thay đổi, là mình có một tự ngã hay không. Đây là những người tự coi mình là toàn hảo, là minh triết, là người được Thượng đế chọn lựa và không cần thay đổi. Chỉ có người khác là có vấn đề, cần thay đổi mà thôi. Bảng hiệu của ta sẽ có dòng chữ lớn: “Cần người giúp việc. Ghi danh bên trong.’ Nhưng bên dưới cũng có hàng chữ nhỏ viết rằng: “Kẻ đạo đức giả miễn đăng ký.”

Con đường mà ta trao cho con là cùng con đường ta đã đưa ra 2000 năm về trước. Đó là con đường khiêm tốn toàn diện. Và ngay cả các môn đệ của ta đã sống ba năm với ta cũng đã không hiểu được trọn vẹn con đường này. Và đó là tại sao họ đã bắt đầu tranh cãi nhau để xem người nào là người cao cả nhất trong bọn họ sau khi ta ra đi. Ngay lúc đó, ta như bị giáng một cú vào đầu khi ta chợt hiểu: “Có nghĩa chăng là sau ba năm trời, họ vẫn chưa hiểu được thông điệp của mình? Họ vẫn chưa thâm nhập và thấy được đường đạo là gì?”  

Ngày hôm nay, tình thế của ta sáng sủa hơn nhiều vì hiện có nhiều người thấy được đường đạo là gì. Đó không phải là con đường đúng đắn cho phàm phu, tức là sự tôn vinh tự ngã, mà là con đường khiêm tốn toàn diện, buông bỏ mọi niềm kiêu hãnh của tự ngã, hầu con có thể bước ra khỏi nó và tự giải thoát. Đây là con đường mà ta trao cho con. Ta trao cho con với tất cả tình yêu thương. Và ta sẽ dẫn dắt con trong tình yêu thương cho tới điểm tự do đó. Nhưng ta cũng phải nói, tình thương không luôn luôn mềm mại, vì có khi con cần một bàn tay cứng rắn để con tỉnh ngộ. Và cách cư xử này của ta đối với con cũng liên quan đến cách con nên tiếp cận với người khác về con đường tâm linh.

Làm thế nào giúp Giê-su đánh thức người đời

Khi con tiếp cận với người khác và còn mắc kẹt phần nào trong tự ngã, con sẽ không nói gì trừ khi người ta hỏi, và điều này cũng hữu lý thôi. Con để yên cho họ hỏi, xong con cho họ điều mà họ cần. Tuy nhiên sẽ tới một điểm khi con đạt được một mức độ kết hợp với cái ta Ki-tô của con, và con có đủ sự tự do để không còn cố áp đặt tin tưởng của tự ngã lên người khác nữa. Trái lại, con thực sự đang sống, đang thở, để giải phóng loài người. Và con không rời Thượng đế của con, con luôn đồng bộ với Tượng đế của con.      

Ở điểm đó, con không còn cần phải bận tâm đến chuyện để cho người ta hỏi rồi mới trả lời, vì bây giờ con nhận ra là trên địa cầu có quá nhiều người còn mê ngủ, còn vướng chặt trong vô minh đến độ họ không biết hỏi cái gì. Họ không biết hỏi như thế nào, thậm chí họ còn không dám hỏi. Vậy thì làm sao họ có thể giải thoát được đây? Họ sẽ không thể giải thoát nếu con cứ ngồi ì ở đó chờ cho họ đặt câu hỏi, và họ sẽ không biết hỏi chuyện gì.

Vì vậy con phải là người chủ động, như ta đã từng làm rất nhiều lần trong đời ta. Ta đã đến với mọi người. Ta sẵn sàng bước ra trước mặt họ, nói khích họ và bảo: “Anh chị đang ngủ say! Anh chị cần thức dậy!” Ta đã sẵn lòng lật bàn của bọn đổi tiền đã len lỏi vào nhà thờ – tức là nhà thờ nội tâm của con tim và tâm trí – để buôn bán những sản phẩm dối gạt của chúng trong ngôi đền Thượng đế.  

Và khi con đạt đến một mức độ nào đó của tâm Ki-tô, con sẵn sàng sử dụng cách tiếp cận này – không nhất thiết một cách thiếu tình thương, nhưng sẽ tới một điểm khi con biết rõ trong thâm sâu cách tiếp cận nào là thích hợp nhất cho mỗi người. Và cho tới khi con nhận được sự hướng dẫn rõ ràng đó, ta gợi ý con nên tiếp cận như thế này: “Anh chị biết là có một cách hay hơn phải không? Anh chị biết là mình không cần sống qua những chuyện này? Anh chị biết là mình không cần phải chịu đựng vấn đề này. Anh chị thật sự có khả năng giải quyết. Anh chị có khả năng buông bỏ nó. Anh chị có muốn biết làm thế nào không?”  

Hay con cũng có thể nói: “Anh chị có biết là tôi cũng từng trải qua cùng vấn đề đó, và đây là cách tôi đã làm để vượt qua. Anh chị có muốn tôi giúp không?” Và nếu họ từ chối, có thể con sẽ thử thêm một lần nữa, tối đa ba lần. Nhưng nếu họ từ chối con ba lần, con hãy rút về và tự nhủ: “Tôi đã làm xong bổn phận của mình đối với dòng sống này, bây giờ tùy dòng sống đó có muốn vươn lên và yêu cầu sự giúp đỡ hay không.”   

Hãy cầu thì sẽ nhận được. Cho nên yêu cầu là một việc làm chính đáng. Nhưng như ta đã nói, nếu dòng sống đó không biết phải hỏi gì, phải yêu cầu gì, thì làm sao họ có thể hỏi được câu hỏi hữu ích? Vậy thì con hãy giúp họ bằng cách đặt câu hỏi cho họ. Giúp họ nhận ra là họ có thể biết nhiều hơn, có thể hỏi nhiều hơn về sự sống. Và nếu con hỏi ta thì ta sẽ, qua cái ta Ki-tô của con, giúp con giúp được người khác. Cho nên, con hãy ghi danh với ta ở bên trong.