Vượt qua tấn tuồng cuộc đời bằng cách chuyển từ phản ứng sang hành động

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama ngày 31/12/2009 qua trung gian Kim Michaels.

Phật TA LÀ. Gautama TA LÀ và TA LÀ tỉnh thức. Ta đến để nói với con rằng, con cũng vậy, tốt hơn là con nên tỉnh thức nếu con muốn vượt qua những cuộc điểm đạo của năm 2010 này, mà như ta đã trình bày năm ngoái vào ngày đầu năm, sẽ là Năm của Ngôi Con. Là năm mà nhân loại phải đối mặt với điểm đạo của Ngôi Con – tức Tâm thức Ki-tô – và do đó phải đối mặt với điểm đạo về sự cần thiết đạt được Tâm thức Ki-tô hầu phân biện giữa chân và bất chân.

Con để ý ta không nói “thật và giả”, bởi vì thật và giả là từ ngữ mà loài người đã sử dụng từ bao lâu nay để chỉ những thứ trong cõi nhị nguyên. Và tất nhiên, trong năm tới, điều cần thiết là mỗi người cần bước lên khỏi nhị nguyên và, trên hết, học cách phân biện là có một cõi vượt khỏi nhị nguyên, có một mức tâm thức có thực – và nó không ở trong cái cõi luôn luôn có hai đối cực chống đối lẫn nhau.

Và như thế, tâm thức bất nhị này không có đối cực, bởi vì Thượng đế không có đối cực, Phật không có đối cực. Không có cái gì có thể gọi là phản Thượng đế tuy rằng dĩ nhiên con có thể nghĩ ra từ này. Cũng vậy, không hề có phản Phật cho dù con cũng có thể nghĩ ra từ đó. Vì con thấy không, cái gì không phải là Phật chỉ đơn giản không là Phật. Cái gì không phải là Thượng đế thì không là Thượng đế, có nghĩa cái đó bị chia cách khỏi Thượng đế, chia cách khỏi Phật. Thế nhưng khi Thượng đế ở mọi nơi và khi tất cả đều là Phật tánh, làm sao có gì thực sự chia cách khỏi Phật? Làm sao có gì thực sự chia cách khỏi Thượng đế?

Điều này tất nhiên không thể xảy ra trên thực tế, nó chỉ có thể xảy ra trong cõi nhị nguyên, nơi con có thể định nghĩa hai đối cực rồi bảo rằng Thượng đế là một đối cực, và ác quỷ – hay phản Thượng đế hay bất kỳ con muốn gọi tên là gì, thậm chí là vật chất – là đối cực kia, và do đó là chống đối, là chia cách khỏi Thượng đế. Nhưng ảo tưởng này tất nhiên không hiện hữu tự nó. Nó chỉ hiện hữu trong tâm của những ai đã quyết định bước vào cõi của nhị nguyên. Và tại sao lại có những dòng sống muốn bước vào cõi này?

Con luôn luôn có thể thay đổi phản ứng của mình

Như Giê-su, như Đại chỉ đạo Thiêng liêng, như Astrea và như Serapis Bey gần đây có giải thích thật cặn kẽ, họ làm vậy vì họ không sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm về bản thân họ. Thế nào là nhận lấy trách nhiệm về bản thân? Đơn giản có nghĩa là con sẵn sàng nhận diện và nhìn nhận một cách ý thức một sự thật duy nhất, là sự thật nền tảng cho sự tăng triển trên con đường tâm linh để bước vào vòng xoắn ốc thăng thiên. Đây là sự thật khiến cho các chân sư có thể làm việc với con trên một căn bản cá nhân thay vì con ở lại Trường đời Cay đắng, hay ở lại trường học của giáo lý công truyền, của những tổ chức và đạo sư công truyền nơi con có thể tìm thấy một đạo sư chân chính hay không chân chính, nhưng trong mọi trường hợp, nơi con sẽ bị hấp dẫn bởi loại đạo sư hay giáo lý vang dội trong tâm thức hiện thời của con.

Vì con thấy đó, khi con chưa nhận trách nhiệm về mình thì con chưa sẵn sàng tra vấn tâm thức hiện thời, nhận thức hiện thời của con. Và như vậy, làm sao con có thể thu hút một đạo sư vượt lên trên tầng tâm thức đó? Chuyện này không thể làm được. Đây là một trong những sự thật quá hiển nhiên, nó đáng lý phải hiển nhiên nhưng lại không hiển nhiên chút nào cho những ai chưa chịu nhận lãnh trách nhiệm và do đó còn nhìn tất cả mọi thứ với nhận thức ô nhiễm.

Vậy thì điều gì là điều con bắt buộc phải nhận ra trước khi con có thể là học trò cá nhân của các chân sư thâng thiên? Đó chính là: Mọi thứ trong thế giới hình tướng đều là sự biểu hiện của tâm thức, là một tạo vật của tâm thức. Không có gì – ta nhắc lại, không có gì – trong thế giới hình tướng, dù là trong cõi tâm linh hay vũ trụ vật chất, mà có sự hiện hữu độc lập hay khách quan. Không có gì đã đi vào hiện hữu mà không được sinh tạo bởi một vị đồng sáng tạo với khả năng tự nhận biết. Vị đó trước tiên hình dung ra một hình tư tưởng, rồi sử dụng khả năng đồng sáng tạo của mình để áp chồng hình tư tưởng này lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và ánh sáng này khoác lấy hình dạng của hình tư tưởng.

Không có cách nào khác để đồng sáng tạo. Ngay cả Đấng Sáng tạo cũng sáng tạo cách này, cũng như mọi vị đồng sáng tạo khác từ mọi thời – trong bầu cõi này hay trong những bầu cõi trước cho tới lần sáng tạo đầu tiên. Không có cách nào khác để sáng tạo. Và như vậy, con đường tâm linh khởi sự khi con đạt tới điểm sẵn sàng chất vấn nhận thức cho rằng những gì mình nhận biết trong vũ trụ vật chất là thực – là có sự hiện hữu độc lập, nghĩa là hiện hữu một cách độc lập khỏi tâm thức – và như vậy nó trường tồn hay bất biến, hay chỉ thay đổi rất chậm do một tiến trình vượt ngoài tầm kiểm soát của con, cho dù tiến trình này là Thượng đế hay thiên thần trên trời, hay định luật thiên nhiên, hay quy trình tiến hóa, hay bất kỳ huyền thoại nào khác mà con người đã nghĩ ra để giải thích mọi sự ở chung quanh mà qua đó con người thấy cả hình dáng của trường tồn lẫn hình dáng hiển nhiên của biến đổi.

Tuy nhiên, vì không chịu nhận trách nhiệm về bản thân, con người phải phóng chiếu ra là mọi thứ đều trường tồn và hiện hữu độc lập. Và cùng lúc, họ cũng phải phóng chiếu là những thay đổi mà họ không thể chối cãi phải đến từ một tiến trình nào đó ở bên ngoài họ mà họ không thể kiểm soát. Nhưng thực sự, liệu có cái gì trong thế giới của họ – trong thế giới cá nhân của họ – mà họ hoàn toàn không thể kiểm soát không? Có, có chứ – nhưng chỉ ở mức tâm thức hiện thời của họ mà thôi. Nhưng nếu con sẵn sàng thăng vượt mức tâm thức hiện thời của con, thăng vượt nhận thức hiện thời của con, thăng vượt cái hộp tư duy hiện thời của con, thì hoàn toàn sẽ không có gì trong thế giới của con mà con không thể gia tốc lên một tầng cao hơn bằng cách sẵn lòng gia tốc chính tâm thức của con.

Con có thể nhìn vào thế giới chung quanh, nhìn vào hoàn cảnh cá nhân, và con cỏ thể thấy nhiều điều trong đời mình mà dường như con không có quyền năng ảnh hưởng hay thay đổi, do chúng tùy thuộc vào định luật thiên nhiên mà hình như con không thể thay đổi, hoặc chúng tùy thuộc vào người khác và những chọn lựa tự quyết của họ. Nhưng con thấy đó, con vẫn có quyền năng thay đổi một thứ. Con có quyền năng thay đổi cách con phản ứng trước tình huống ngoại cảnh, trước cách cư xử của người khác.

Khởi đầu của con đường tâm linh

Và con khởi đầu khi con tự hỏi: “Làm thế nào tôi có thể gia tốc phản ứng của mình để tôi không bị những hoàn cảnh, hành động, lời nói của người khác buộc tôi phải phản ứng tiêu cực? Làm thế nào gia tốc ra khỏi khuôn nếp phản ứng cũ? Làm thế nào ra khỏi cách vận hành cố hữu của tâm thức phản ứng?” Khi con bắt đầu đặt ra những câu hỏi này, đó là lúc con có thể khởi sự con đường tâm linh.

Ban đầu, có vẻ như con chỉ thay đổi được cách phản ứng đối với hoàn cảnh hay người khác, nhưng ta cam đoan với con là các thày – là các chân sư thăng thiên đã từng trải qua cùng tiến trình như con, đã khởi đầu ở một tâm thức vô cùng nhị nguyên rồi đã tự gia tốc vào Xoáy ốc Thăng thiên – các thày đã chứng minh, chứng minh nhiều lần và thêm nhiều lần rằng khi con gia tốc các phản ứng của con, con sẽ đạt tới điểm không còn gặp phải một số tình huống hay một số loại người nữa. Và con yêu dấu, có thật là khó hiểu lắm không khi con đã nhận được rất nhiều lời dạy của các thày về sự kiện vũ trụ này là một tấm gương phản chiếu lại cho con những gì con gửi ra ngoài?

Nếu con gửi ra ngoài ý tưởng là con luôn bị người ta đổ tội oan ức, thì dựa trên hình tư tưởng mà con có trong tâm, vũ trụ sẽ suy ra điều gì? Đúng vậy, vũ trụ sẽ suy ra là con muốn kinh nghiệm một tình huống có ai đó buộc tội con. Và như thế, vũ trụ sẽ chiều theo và gửi đến con loại người buộc tội đó. Và con có thể rơi vào vòng xoáy ốc muôn thuở là tìm cách tự minh oan trước lời buộc tội của họ, hay tìm cách bác bỏ họ, hay tự bào chữa, hay thậm chí tìm cách thay đổi quan điểm của họ – nhưng con vẫn đang phản ứng đó con.

Con có thấy chăng là những gì khiến con phản ứng không phải là tình huống bên ngoài độc lập với tâm thức con? Con đang phản ứng lại sự phản ứng của tấm gương vũ trụ đối với những hình ảnh mà con đã gửi ra. Hẳn con có biết về luật nhân quả, còn gọi là luật của hành động và phản ứng. Vậy thì con biết phản ứng luôn luôn đi theo sau hành động. Thế nhưng khi con không nhận trách nhiệm về mình, con không thấy được là cái chuỗi sự kiện đó đã khởi sự với một hành động của con, tức là những hình tư tưởng mà con cho phép hiện hữu nơi thể bản sắc của con, rồi con phóng nó ra vào tấm gương vũ trụ, và những gì trở ngược lại con chính là sự phản ứng do hành động của con.

Khi con không nhìn nhận điều này, con sẽ chỉ nhìn vào những gì xảy ra bên ngoài con, rồi con cho rằng cách người khác đối xử với mình là hành động của họ. Rồi con cho rằng hành động của họ bắt buộc con phải phản ứng một cách nào đó, thường thường nó bắt con phản ứng một cách nhất định bất kể động lực cá nhân của con là gì, chẳng hạn con phải tự biện minh hay buộc ngược lại người ta. Và con cho rằng vì con không thể thay đổi hành động của họ, con sẽ không có cách nào thăng vượt hoàn cảnh của con. Nhưng con có thấy là lý do con cảm thấy mình bất lực là vì con đã lẫn lộn hành động với phản ứng? Con nghĩ con phản ứng lại hành động của họ, nhưng sự thật ở đây – sự thật nói lên khác biệt giữa những học trò chân chính của chân sư thăng thiên với những ai không phải là học trò chân chính, cho dù họ có thể tự nhận hoặc tin chắc thế nào đi nữa – là nhận ra một điều mà thôi, đó là khi con nhận trọn vẹn trách nhiệm về bản thân thì con sẽ KHÔNG BAO GIỜ phản ứng lại bất cứ gì!

Khi con hoàn toàn trách nhiệm về tình trạng tâm mình, con thấy rằng Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết. Và dù điều gì xảy ra cho con trên địa cầu, con có tự do chọn lựa những gì xảy ra trong tâm con – bất kể những gì xảy ra bên ngoài thân con và tâm con. Và như vậy khi con trách nhiệm bản thân con, con ngộ ra rằng con hoàn toàn không có nhu cầu phản ứng lại bất cứ gì. Không có một định luật tự nhiên nào bắt con phải phản ứng lại những tình huống mà con gặp trong vũ trụ vật chất, bởi vì con có tiềm năng gia tốc vào một tâm thức cao hơn, nơi con không phản ứng mà con hành động. Bởi vì dù chuyện gì xảy ra bên ngoài, con vẫn chọn lựa được tâm thức của mình. Và con chọn hành động dựa theo tâm thức mình, chứ KHÔNG dựa theo tâm thức người khác. Và đó là tại sao con sẽ không bao giờ bị giới hạn bởi tâm thức và quyền tự quyết của người khác, vì CHÍNH CON, trong mọi tình huống con phải đương đầu và bất kể chọn lựa của người khác, con tự do chọn lựa hành động của mình, tâm thức của mình.

Giành lại thế chủ động

Không ai cấm con nhìn vào chính con rồi tự hỏi: “Tại sao tôi cứ gặp hoài những loại người này? Có điều gì trong tôi mà tôi chưa nhìn thấy cứ khiến mình phải gặp lại họ hoài hoài? Có bài học nào mà mình chưa hấp thụ khiến mình cứ phải đi thi lại dài dài cho đến khi mình thuộc bài?” Lúc đó con có thể nhìn vào chính mình, làm sáng tỏ cái đó là gì – có thể là một vết thương từ quá khứ, một tin tưởng nào đó – và con có thể thăng vượt nó, con có thể tự gia tốc để vượt khỏi nó. Và khi con làm được vậy, con sẽ không còn nhu cầu phản ứng nữa, và con sẽ tự do chọn lựa hành động. Thậm chí khi con gặp lại người kia cư xử y hệt như trước, như họ buộc tội con hay làm bất cứ gì khác, con sẽ không phản ứng lại họ. Con chọn! Và vì vậy con HÀNH ĐỘNG. 

Và bây giờ họ không là người nắm chủ động nữa, vì con đã giành lại thế chủ động khỏi tay họ qua hành động của con – là những hành động không hề bị điều chỉnh cho phù hợp với tâm thức hay hành động của họ, mà là hành động xuất phát từ sự sáng tạo nội tại mà con vốn có, từ nguồn sáng tạo nằm trong Hiện diện TA LÀ của con – và bây giờ con có khả năng khởi lên những cách ứng đối sẽ khiến họ hoàn toàn bối rối, y như Giê-su đã khiến cho các thày thông giáo và người Pha-ri-si bị bối rối, hay nếu con có học đạo Phật kỹ lưỡng, tương tự như ta đã khiến người Bà-la-môn trong đạo Ấn bị bối rối vào thời của ta. Họ tưởng họ đã tìm ra tất cả, tưởng chỉ có họ mới hiểu đúng kinh cổ, mới tuân thủ nghi lễ và truyền thống, nhưng họ chỉ làm cho Lời Hằng Sống bị vô hiệu hóa, như Giê-su đã chỉ ra cho họ sau này.

Tâm thức cáo buộc người anh em đã có từ lâu trước khi bầu cõi này được tạo lập, trước cả khi vũ trụ vật chất được sáng tạo. Nó đã hiện diện trên địa cầu, không ngay từ đầu nhưng suốt một thời gian rất dài. Đó chỉ đơn giản là một sự khai ngộ thuộc về các bầu cõi tiếp theo sau bầu cõi có các sinh thể sa ngã đầu tiên quyết định dấn thân vào năng lượng cáo buộc hầu kéo mọi người rơi xuống với chúng. Có thể nói đó là phần nào những khai ngộ của trường đời cay đắng, và cũng vậy nhưng theo một cách khác, đó cũng là phần nào những khai ngộ của trường bí giáo của chân sư thăng thiên. Bởi vì tất nhiên các thày sẽ làm việc với con để giúp con nhìn thấu những điểm tinh tế của năng lượng cáo buộc, nhưng các thày chỉ có thể giúp con được nếu con đã tới mức sẵn sàng nhìn nhận tất cả đều là tạo vật của tâm thức.

Và khi đó, con sẽ nhìn ra một sự thật rất giản dị sẽ giúp con vươn lên trên năng lượng cáo buộc vì chính tâm con sẽ không bắt đầu suy nghĩ về chuyện cáo buộc. Con có thấy cách thức nó diễn ra thế nào không: có ai đó nóng giận tiến về phía con, họ buộc tội con đã làm điều gì đó. Con lập tức phản ứng lại năng lượng cáo buộc bằng cách đóng tâm con lại, đóng các luân xa lại và không muốn nhận vào năng lượng. Ngay sau đó, tâm con bắt đầu duyệt qua nội dung của lời buộc tội. “Có gì thực trong lời này? Có thật là tôi đã làm chuyện đó không? Hay tôi không làm? Không, tôi đã không làm, tôi sẽ bào chữa thế nào đây? Làm sao để người ta tin tôi? Chuyện này sẽ hại đến danh giá của tôi như thế nào?” Và tất cả những câu hỏi như thế mà con có thể nghĩ ra cứ lặp đi lặp lại trong tâm con.

Một khi tâm con vùi đầu vào chi tiết lời buộc tội, con đã dấn sâu vào vòng xoắn ốc hướng hạ – và kẻ buộc tội đã đặt con vào đúng cái thế mà họ muốn. Nhưng khi con ngộ ra rằng mọi sự đều do tâm thức tạo dựng – và do đó mọi sự có mặt trên địa cầu là sự biểu hiện thành hình tướng của một trạng thái tâm thức nào đó – thì con sẽ nhìn những lời đó từ một góc độ khác, có đúng thế không? Vì bây giờ con nhận ra là lời buộc tội của người kia rất có thể không liên quan gì tới con, tới hành vi của con hay tình trạng tâm thức của con. Nó có thể chỉ là sản phẩm của tâm thức người đó và vì vậy không có chút thực thể nào. Và tất nhiên ở đây, chúng ta cần xem đến một điều tinh tế đã cho phép kẻ cáo buộc cứ quay tiếp vòng xoáy cáo buộc rồi đánh bẫy mọi người kẹt vào đó hết lần này tới lần khác.

Vì con thấy không, một khi con đã rơi vào vòng nhị nguyên, con sẽ có một số tin tưởng, cảm xúc hay động lực, một số hành vi không mấy cao đẹp – và người kia sẽ dùng những điều này để buộc tội con. Và bây giờ con cảm thấy nếu những chuyện đó có thật – bởi vì con đã làm những chuyện đó, đã có những ý nghĩ, tình cảm hay động lực đó – thì con không thể đơn giản làm ngơ lời cáo buộc. Và tất nhiên là nó chính xác. Con không thể làm ngơ, nhưng có một điều con có thể làm được là tự nhủ: “Tôi sẽ không phản ứng lại lời buộc tội bằng sự biện minh. Tôi sẽ tự xét mình một cách trung thực. Nếu tôi thấy tôi đã có những hành vi, động lực, tình cảm, ý nghĩ hay quan điểm không trong sáng, không tối ưu, thì tôi sẽ tự tu sửa lấy mình. Nhưng tôi sẽ hoàn toàn làm ngơ người tố cáo. Tôi sẽ không bào chữa. Tôi sẽ không buộc ngược lại. Tôi sẽ nhìn vào chính mình, tôi sẽ tách ra khỏi người tố cáo vì lời buộc và năng lượng của họ sẽ không giúp tôi nhìn vào bên trong và tiếp xúc với các vị thày tâm linh của tôi hầu nhận được sự hướng dẫn nội tâm sẽ giúp tôi nhìn thấy cái xà trong mắt mình.”

“Như vậy tôi sẽ tách mình ra khỏi năng lượng và tâm thức của người buộc tội. Tôi sẽ làm việc với các thày tâm linh của tôi. Tôi sẽ tìm xem có điều gì trong tâm thức mình cần thay đổi. Và tôi sẽ thay đổi nó. Và tôi sẽ tự gia tốc để vượt lên trên nó. Và tôi sẽ nhìn lại người kia và xem họ còn buộc tôi nữa không, và nếu họ còn, tôi sẽ giải quyết chuyện này ở tầng tâm thức cao hơn mà tôi vừa vươn tới, là tầng tâm thức nơi người kia không còn lý do nào để buộc tôi nữa.”

Con yêu dấu, con có thấy cái cạm bẫy mà bao lần con đã rơi vào khi con bị buộc tội là con có một trạng thái tâm thức nào đó, con đã đáp lại ở cùng tầng tâm thức đó hay không? Và con bị vướng kẹt, con rơi vào cái bẫy của phản ứng nhị nguyên chỉ có thể tạo ra một vòng xoáy đi xuống. Điều ta muốn nói với con ở đây là con không chỉ làm ngơ trước những điều người ta nói, nhưng con phải trung thực và nhìn xem có điều gì đúng trong lời đó hay không. Và con đừng phản ứng ở tầng tâm thức đó, mà ngược lại hãy rút về, đứng sang một bên, làm việc trên chính mình, nhìn vào chính mình, làm việc với các thày tâm linh. Và khi con thấy lời buộc tội có điều gì đúng đắn thì con hãy bỏ công ra cho tới khi con tự gia tốc vượt lên trên. Và sau đó nếu cần thiết, con có thể trở lại giải quyết với người đã buộc con.

Nhưng cũng có thể con nhận ra là chuyện giải quyết với người kia sẽ chẳng đem lại được gì xây dựng bởi vì con đã thăng vượt tâm thức đó rồi. Có khi, vì con đã thăng vượt tâm thức, con có thể trở lại người cáo buộc để khiến họ nhận ra con đã vượt tâm thức cũ của con. Và có thể nó sẽ khiến người kia cũng muốn thăng vượt tâm thức của họ. Con và họ có thể bắt đầu một quan hệ mới ở một cấp độ mới. Nhưng nếu con tìm ra là họ vẫn không sẵn sàng thăng vượt tâm thức cáo buộc, thì trong rất nhiều trường hợp, chẳng có ích gì mà con cố bác bỏ lập luận của họ, hay tự biện bạch, hay cố thay đổi quan điểm của họ.

Quả vị Ki-tô và quả vị Phật

Bởi vì nếu người buộc tội không sẵn sàng làm điều con vừa làm, làm sao con sẽ đạt được điều gì xây dựng đây? Con thấy không, một người buộc tội con có thể đã chỉ ra điều gì đó không ổn trong con và như thế con có thể nắm lấy cơ hội mà học hỏi. Nhưng con cũng cần biết, dù người kia nhìn thấy điều dở trong con, có thể họ chưa có được tâm thức nhìn nhận mọi vật là biểu hiện của tâm thức. Và con thấy một sự thật giản dị ở đây. Người ta bảo rằng nếu con thấy thói xấu nơi người khác thì chính con cũng có thói xấu đó. Câu này không hoàn toàn đúng với mọi người, bởi vì một khi con có tâm thức Ki-tô, con có thể thấy thói xấu hay cái giằm trong mắt người anh em mà nhận xét của con vẫn đúng – nó sẽ đúng khi con có tâm Ki-tô.

Nhưng trong tâm thức Ki-tô, con không bao giờ cáo buộc một ai, bởi vì con đã thăng vượt năng lượng cáo buộc sinh ra từ nhị nguyên – và vì thế Ki-tô không cáo buộc. Có một sự khác biệt quan trọng nhưng vi tế giữa việc chỉ ra một điều cần chỉnh đốn và làm cùng như vậy với một năng lượng cáo buộc nhằm hạ thấp đối tượng. Ki-tô chỉ có một mục đích mà thôi là nâng người kia lên. Và như vậy khi con chỉ ra một điều gì cần sửa đổi, con hãy nói một cách xây dựng vì con muốn giúp người kia thăng vượt nó.

Kẻ buộc tội thì không muốn đối tượng của họ thăng vượt. Họ chỉ muốn kéo người kia xuống, và đó là động lực, là ý định của họ, đó là năng lượng mà họ phóng vào người khác. Cho nên con yêu dấu, khi con đã giải thoát khỏi những bợn nhơ trong tâm thức, con sẽ tới điểm nhìn thấy rõ hơn. Như Giê-su có nói, khi con đã gỡ được cái xà trong mắt mình thì con sẽ thấy rõ những gì diễn ra trong tâm thức người khác. Và nếu con thấy một người sẵn sàng để cho con làm việc với họ thì con hãy hết sức giúp họ. Nhưng nếu con thấy người đó chưa tới mức chấp nhận được tất cả đều là biểu hiện của tâm thức, thì có những trường hợp con có thể lấy biện pháp khác hơn – như khi Giê-su thách đố các thày thông giáo và người Pha-ri-si, hay lật đổ bàn ghế của bọn đổi tiền – hoặc con cũng có thể để mặc cho người ta yên thân. Không có cách đúng hay sai bởi vì trên đường tu có nhiều giai đoạn khác nhau.

Có giai đoạn gọi là giai đoạn của Ki-tô, con đường dẫn đến quả vị Ki-tô, khi bình thường con sẽ đi ra thế gian và hoặc con tìm cách giúp đỡ mọi người, hoặc con đặt vấn đề với những ai không chịu tiến tới cao hơn. Nhưng sau giai đoạn này là giai đoạn của quả vị Phật, như khi con thấy ta đã không tích cực đi ra ngoài, ta lánh xa xã hội và thiết lập một đạo tràng sống biệt lập. Khi ta để cho học trò tự nguyện đến với ta, ta được lợi điểm là có thể từ khước những ai chưa sẵn sàng, là những người chưa chứng ngộ một điều thiết yếu là cái chìa khóa để gia nhập đạo tràng của ta, đó là sẵn sàng nhận ra mọi thứ là sự biểu hiện của tâm thức. Và như vậy, con yêu dấu, con hãy lắng nghe – chìa khóa cho sự tiến bộ cá nhân của con có thể tìm thấy trong tâm thức con.

Con có thấy là ngày nay trên thế giới, ngay cả những người tâm linh cũng bị mắc kẹt trong cái tâm thức mà kẻ cáo buộc người anh em đã tạo ra, cái vòng xoắn ốc hướng hạ nơi họ chỉ chú tâm vào người khác, chú tâm vào việc cải sửa người khác? Họ tưởng là họ phải cải tổ thế giới và con người, thậm chí phải đưa ra lời phán xét hay lên án hay lật mặt người khác. Và như vậy, họ luôn luôn ở trong tâm trạng muốn thay đổi tâm thức người khác thay vì tâm thức của mình.

Điều này tất nhiên cũng tốt thôi. Con có quyền tự quyết, con có quyền ở trong tâm thức đó và nếm mùi những trải nghiệm mà con cần trong tâm thức đó. Nhưng ta với tư cách là Phật, có quyền định ra một tăng đoàn đứng biệt lập khỏi tâm thức cáo buộc, và do đó ta có quyền định ra một điều kiện gia nhập mà qua đó những ai không sẵn sàng thừa nhận họ cần thay đổi tâm thức của chính họ – thay vì cố thay đổi tâm thức người khác – sẽ không đủ tư cách, không đủ sẵn sàng để gia nhập tăng đoàn của Phật và nhận được giáo huấn trực tiếp của ta.

Như vậy họ có thể đứng ngoài và tiếp nhận những hình thức giáo huấn khác, chẳng hạn giáo huấn mà con có thể nhận được ngày nay từ tôn giáo công truyền đạo Phật hoặc các giáo lý tôn giáo hay tâm linh công truyền nào khác. Nhưng con sẽ thấy, ngay cả thời nay trong truyền thống đạo Phật cũng có những vị thày chân chính đã chứng đạt tâm thức cao hơn, và mỗi vị đó đều có những tiêu chuẩn cá nhân cho những ai được phép gia nhập vòng đệ tử riêng, vòng đệ tử điểm đạo.

Và tất nhiên giống như Phật, con không bắt buộc phải làm việc với bất cứ ai đến gõ cửa nhà con. Con yêu dấu, cái đó chính là sự điểm đạo của Ki-tô, khi với tư cách Ki-tô con làm giống như Giê-su đã làm, là tiếp nhận bất cứ ai bất kể tâm thức của họ. Con tiếp nhận người hủi lở, con tiếp nhận người có đủ loại tật nguyền, con tiếp nhận người bị quỷ ám – đủ mọi loại người bị kẹt trong đủ loại niềm tin. Ki-tô đi ra ngoài thế gian và bất cứ ai Ki-tô gặp, Ki-tô cũng sẽ ứng xử với người đó tùy theo khả năng sáng tạo bên trong, khả năng phân biện nội tâm và trình độ tâm Ki-tô của người đó. Điều này hoàn toàn chấp nhận được vì đó là lý do Ki-tô đi ra ngoài thế gian.

Nhưng ở mức của Phật thì Phật đã lập ra một tăng đoàn đứng biệt lập, và do đó học trò phải trải qua một số cuộc điểm đạo trước khi được phép gia nhập. Điều cốt yếu ở đây là để được cứu xét là học trò của Phật, người muốn đạt quả vị Phật phải trước tiên chấp nhận rằng mọi thứ trong thế giới hình tướng đều là biểu hiện của tâm thức. Và do đó mọi thứ mà CON gặp trong thế giới hình tướng là một biểu hiện của tâm thức con – nếu con phản ứng lại.

Hành động và phản ứng

Cho nên khi nào con thấy con còn phản ứng lại bất cứ điều gì trong thế gian này, con cần biết rằng trong tâm thức con vẫn còn một cái gì đó chưa được rũ bỏ, chưa chữa lành hay chưa thanh lọc – và đó là tại sao con mới phản ứng. Chỉ giản dị có vậy! Bởi vì nếu trong con không có gì tương ứng thì con sẽ không phản ứng. Con sẽ hành động, nhưng con sẽ không vướng mắc vào hành động. Và đây là sự khác biệt giữa hành động và phản ứng. Khi con phản ứng, con có sự vướng mắc vào một thành quả. Và nếu thành quả này không đạt được, con sẽ có một phản ứng vừa cảm xúc vừa lý trí, tiêu cực, bất an, không quân bình, không thương yêu.

Nhưng khi con hành động, con không vướng mắc vào thành quả. Và do đó hành động mang sẵn chiến thắng của nó, sự hoàn thành trọn vẹn của nó, thành công của nó, niềm vui của nó. Con thấy đó khi con phản ứng, con nghĩ sự thành công hay thất bại của phản ứng tùy thuộc vào những sự việc trong thế gian. Nhưng khi con thăng vượt tâm thức phản ứng và vươn lên tâm thức hành động từ bên trong, con ngộ ra là hành động để biểu thị những gì con biểu thị tự nó đã là chiến thắng. Không cần bất cứ gì khác, không cần thành quả nào trong tâm của người khác, trong hành động của người khác, trong hành động của xã hội hay trong thế giới rộng lớn, không gì là cần thiết nữa.

Con như là mặt trời cảm thấy vui mừng tỏa chiếu ánh sáng. Mặt trời không nhìn xuống trái đất để tìm xem có ai đang phải che chắn ánh nắng, ai đang trốn tránh tìm bóng rợp, ai đang đeo kính râm hay bôi kem chống nắng hay đang làm bất cứ gì. Mặt trời không quan tâm đến phản ứng, nó tiếp tục tỏa sáng vì niềm vui tỏa sáng. Và đó là tâm thức của hành động, ngược với tâm thức phản ứng là khi con không vui trong việc làm mà chỉ chờ thành quả, chờ phản ứng của người khác trước khi con định được là con nên vui hay buồn.

Cho nên đâu là chìa khóa để thăng vượt tâm thức phản ứng này? Đó là nhận ra rằng phản ứng của con phát xuất từ cách con nhận thức tình huống. Phản ứng là kết quả, là hậu quả, của nhận thức. Và như vậy khi con nhận diện tất cả là biểu hiện của tâm thức, con cũng nhận diện phản ứng của con đối với tình huống là sản phẩm của cách con nhận thức tình huống. Nhận thức ở đây, tất nhiên, đi xa hơn là nhận biết của giác quan, vì nó đi sâu vào phản ứng của cảm xúc, vào cách con suy nghĩ về tình huống, và vì thế nó đi xa hơn thế nữa, tuốt vào bên trong cách con nhìn cuộc đời rộng lớn, cái tư duy vi tế, cái thế giới quan được lưu trữ trong thể bản sắc của con.

Cho nên cách đây 2500 năm, ta đã nói thế này ngay đoạn mở đầu của Kinh Pháp cú: “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, đau khổ sẽ theo sau.”

Nhận biết ô nhiễm với nhận biết thuần khiết khác nhau thế nào? Phải, ta vừa gợi ý cho con đó. Bất cứ khi nào con phản ứng trước một tình huống, con biết là con đang nhận thức tình huống đó với nhận biết ô nhiễm. Nhưng làm thế nào vượt qua được nhận biết ô nhiễm để có nhận biết thuần khiết? Bằng cách con nhận ra bất kỳ nhận biết nào phát xuất từ nhị nguyên thì nó vốn đã ô nhiễm trong bản chất. Điều này tất nhiên thật là khó. Bởi vì hầu hết mọi dòng sống trên địa cầu đã ngụ trong tâm thức nhị nguyên từ quá lâu đến độ mất hết mọi ý thức về nhận biết thuần khiết. Nhưng như ta đã giải thích nhiều lần, trong cốt lõi, cái Là của con chính là trạng thái tâm thức thuần khiết đó. Suốt bao nhiêu thời đại, tâm thuần khiết này đã được mọi truyền thống thần bí và tâm linh giảng dạy, xưa hơn cả kinh Veda, trở ngược về thời Atlantis và Lemuria, thậm chí cả những nền văn hóa xưa cổ hơn nữa.

Các nhà thần bí mọi thời đều biết khi con vượt ngoài nhận biết giác quan – sự nhận biết đến từ tâm vỏ ngoài do cảm xúc chi phối, sự nhận biết ở mức ý tưởng, ngay cả sự nhận biết đến từ ý thức bản sắc là mình sống trong thế gian này – khi con vượt qua tất cả những thứ đó thì con chứng nghiệm nhận biết thuần khiết. Con có thể gọi đó là cái ta ý thức, cái Ta Biết, hay bất cứ tên gọi nào mà con muốn. Nhưng thực tế là khi con vượt khỏi mọi ý niệm bản ngã thì đó là sự nhận biết thuần khiết.

Nhận biết thuần khiết này không thể bị bất cứ gì trong cõi nhị nguyên, bất cứ gì trong thế giới hình tướng làm ô nhiễm. Và như vậy con có thể hòa điệu với cốt lõi của chính con. Và khi con chiêm nghiệm sự nhận biết thuần khiết và biết con là nhiều hơn cái ngã vỏ ngoài chỉ nhận thức thế gian theo cách của nó, thì con sẽ bắt đầu trụ neo trong nhận biết thuần khiết. Và lúc đó con cũng bắt đầu nhận thức thế gian mà không rời nhận biết thuần khiết của con.

Duy trì sự nhận biết thuần khiết

Con không thấy hay sao, nhiều người chỉ kinh nghiệm được nhận biết thuần khiết thoáng hiện ra thật ngắn ngủi, xong ngay sau đó, có khi chỉ ít hơn một giây, họ lại trở về nhận thức thế giới qua nhân cách vỏ ngoài? Trong nhiều trường hợp, họ lấy những niềm tin tôn giáo của họ rồi đặt chồng lên trên nhận thức thuần khiết, cứ đinh ninh rằng kinh nghiệm ngắn ngủi kia xác nhận điều này hay điều nọ trong giáo lý hay giáo điều của tôn giáo họ. Con thấy có những nhà thần bí đạo Cơ đốc sau khi trải nghiệm nhận biết thuần khiết, lại cắt nghĩa kinh nghiệm này trong cái nhìn cố hữu của tín điều đạo Cơ đốc mà chính họ chưa thăng vượt được. Con cũng thấy những sự kiện tương tự trong đạo Phật, đạo Ấn, đạo Hồi và tất cả mọi nơi khác. Thậm chí con còn thấy những người tự nhận là vô thần trải qua một kinh nghiệm nhận biết thuần khiết xong cố cắt nghĩa từ một quan điểm khoa học nào đó rằng đấy chỉ là trò ảo thuật của bộ não, hay là một phản ứng hoá học hay điện từ hên xui may rủi.

Nhưng khi con sẵn sàng tra vấn nhận thức hiện thời của mình, sẵn sàng nhận ra là có nhiều cách nhìn một tình huống hay nhìn thế giới, sẵn sàng nhận ra là các chân sư thăng thiên có nhận biết thuần khiết, sẵn sàng kêu gọi các thày giúp đỡ, thì các thày chắc chắn sẽ giúp con phơi bày các điều ô uế nơi nhận thức. Và khi con sẵn sàng nhìn thẳng vào những ô uế này và thăng vượt chúng, sẵn sàng đi mút tiến trình mà chân sư đã mô tả là con đường tâm linh chân chính, thì con sẽ lần hồi đến được một điểm nơi con sẽ duy trì được sự tỉnh giác thuần khiết mà không bị lập tức rơi trở lại nhận thức vỏ ngoài.

Và điều này có nghĩa là bây giờ con có thể bắt đầu nhìn vào chính mình, cơ thể mình, tình cảnh riêng của mình và thậm chí cả thế giới, qua sự tỉnh giác thuần khiết. Con bắt đầu thấy có một cách khác để nhìn cuộc sống, khác hẳn cái nhìn của ngã vỏ ngoài, của nhân cách vỏ ngoài, của phin lọc nhận thức vỏ ngoài, của nhận thức ô nhiễm. Lúc đầu, đó sẽ là một tiến trình dường như phân liệt (schizophrenic) vì có lúc con có cái nhìn thăng vượt rồi chỉ lúc sau con lại trở về cái nhìn vỏ ngoài, khiến con nghi ngờ những gì con thấy. Cái này có thật không? Liệu thực tại của chân sư thăng thiên có khác hẳn những gì mình đã lớn lên và tin tưởng, những gì mình đã nhìn thấy từ bao năm, thậm chí cả những gì mình tin tưởng là chân lý của một tôn giáo hay lời dạy công truyền?

Con thấy đó, con yêu dấu, có nhiều người tự xem mình là học trò của chân sư thăng thiên nhưng trong suốt bao nhiêu thập niên đã chỉ học hỏi những giáo lý công truyền vỏ ngoài, họ không có khả năng hay mong muốn đi xa hơn để chiêm nghiệm nhận biết thuần khiết. Họ đã dùng giáo lý công truyền đó để tạo ra một hộp tư duy mới, một thế quân bình mới như Giê-su đã giải thích tường tận. Và bây giờ khi họ chiêm nghiệm nhận biết thuần khiết, họ phải đối diện với thực tế là cái nhìn của các chân sư thăng thiên khác xa với cái nhìn cố hữu của họ dựa trên một giáo lý công truyền của chính các chân sư.

Tuy nhiên họ chưa hề đi xa hơn giáo lý! Họ đã không vươn lên cao hơn tâm thức của họ, đã không chất vấn nhận thức của họ. Cho nên họ đã hình thành một nhận thức dựa trên giáo lý công truyền thay vì Tánh linh vượt trên mọi chữ nghĩa vỏ ngoài. Và do đó, bây giờ họ mới nhận ra là các chân sư không nhìn như họ đã học nhìn. Và họ phải đối mặt với thử thách – liệu họ sẽ chất vấn, không cứ là giáo lý công truyền, nhưng chất vấn nhận thức của họ về giáo lý công truyền? Liệu họ sẽ sẵn sàng từng bước đạt tới nhận biết thuần khiết hầu vượt xa hơn cái nhận thức về giáo lý công truyền mà họ đã học và xem là chân lý tuyệt đối không thể sai sót?

Đó là cách mà ngay cả giáo lý của chân sư cũng có thể trở thành một cái bẫy cho những học trò nào không sẵn lòng liên tục chất vấn nhận thức của mình. Vì con thấy đó, con có thể là thành viên của một tổ chức hay giáo lý công truyền mà không cần chất vấn nhận thức của mình – như con bắt buộc phải làm trước khi được gia nhập tăng đoàn của Phật, hay trước khi con được bước vào lớp nhập thất của Đại đoàn Chưởng giáo như các thày đã mô tả nhiều lần.

Làm thế nào người ta bị kẹt trong nhận thức

Nếu con không muốn tra vấn nhận thức thì hiển nhiên con tin rằng nhận thức của con hoàn toàn chính xác, hoàn toàn thực. Con đâu làm gì khác hơn được? Ta tin cậy hầu hết các con đều thấy được điều này. Nếu con không chất vấn nhận thức, con sẽ tin là nhận thức hiện thời của con về cuộc sống – hay về một tình huống cụ thể nào đó – là thực, trọn vẹn, chính xác. Ta tin cậy con phải thấy được là nếu con không chất vấn nhận thức thì con không thể vượt lên trên nhận thức đó. Mà nếu con không vượt lên trên nhận thức thì làm sao con nhận ra sự thật mà ta đã bày tỏ trong Kinh Pháp cú cách đây 2500 năm – rằng nhận thức xuất phát từ một thể của tâm sâu xa hơn, thể bản sắc, là cái nhìn của con nơi tầng bản sắc về chính con và cuộc sống?

Chính sự nhận biết sâu xa này nơi bản sắc đã nhào nặn cách con tiếp cận cuộc sống theo lý trí và cảm xúc. Tiếp cận theo lý trí và cảm xúc khiến con nhìn các tình huống một cách nào đó, và điều này khiến con có tâm trạng nào đó, chẳng hạn con cảm thấy mình bị kết án bất công, cảm thấy mình cần phải phê phán người khác, cần phải phản ứng giận dữ khi tình thế không đúng ý hay bất cứ tâm thái nào khác. Và khi con ở trong một tâm thái thấp như vậy, nếu con không chịu chất vấn nhận thức của mình thì trong tâm thái đó, nhận thức của con là cao nhất.

Và nếu nhận thức của con là cao nhất, con sẽ không thể vượt lên trên nó, con không thể vượt lên trên tâm thái thấp đó. Con không thể phơi bày cái trạng thái cao hơn kia để nhận ra chính nó đã làm ô nhiễm nhận thức con từ trong sâu, và nó đã khiến con nhìn cuộc đời với nhận thức ô nhiễm. Và nhận thức ô nhiễm này thì lại sản xuất tâm thái thấp kém nơi con bị kẹt. Thế là tâm thái thấp trở thành một cơ chế khép kín, một vòng phản ứng luẩn quẩn đóng chặt nơi con không ngừng phản ứng lại với cuộc đời.

Như ta đã nói ở phần đầu, con phản ứng lại những gì con phóng ra tấm gương vũ trụ. Con phản ứng lại những phản ứng của chính con do cái nhìn của con về cuộc đời tạo ra. Cho nên con bị kẹt trong một vòng xoắn ốc bất tận, phản ứng lại phản ứng của con lẫn phản ứng của người khác. Tất cả đều là phản ứng của nhau. Làm sao con bao giờ thoát ra khỏi cảnh này? Làm sao CON bao giờ thoát khỏi vòng xoáy phản ứng của CON?

Con sẽ chỉ được tự do khi nào con ngừng nhìn vào người khác hầu tìm cách thay đổi tâm thức họ, và nhìn nhận rằng chìa khóa cho tự do của CON là thay đổi tâm thức của CON. Và chìa khóa để thay đổi tâm thức của con là chất vấn nhận thức của con – là đi sâu vào tầng mức của nguyên nhân và nhìn xa hơn tầng mức của kết quả, đi vào tầng mức của hành động và nhìn vượt khỏi tầng mức của phản ứng. Bởi vì con sẽ không thể thay đổi phản ứng cho đến khi con thay đổi hành động. Có thể nói phản ứng là nhận thức ô nhiễm. Cái tâm trạng do nhận thức tạo ra ở các tầng cảm xúc và lý trí, đó là phản ứng.

Còn tầng mức của hành động nằm bên trên, ở thể bản sắc, là cách con nhìn cuộc đời và chính con, là quan hệ của con với cuộc sống, quan hệ của con với mọi người, quan hệ của con với Ánh sáng Mẫu-Vật, quan hệ của con với Thượng đế. Đây là nhận thức sâu sắc của con, là cái khiến con hành động bằng cách phóng ra một hình ảnh vào tấm gương vũ trụ nằm ở ngoài tầng cảm xúc, ở ngoài tầng tư tưởng – tức là ở ngoài tầm mức mà hầu hết mọi người có thể nhận biết. Và làm sao con có thể nhận biết những gì nằm ngoài cảm xúc và tư tưởng nếu con không bắt đầu chất vấn nhận thức của mình? Chuyện này giản dị không thể làm được, và đó là tại sao cái bẫy thật là trọn vẹn.

Những kẻ cáo buộc người anh em biết rõ là một khi chúng có thể ép buộc mọi người, ép buộc các dòng sống bước vào chu kỳ phản ứng bất tận, thì con người sẽ không bao giờ thoát ra được – trừ khi mình chịu chất vấn nhận thức của mình. Và bằng cách khiến cho mọi người luôn luôn bận rộn lo phản ứng lại cuộc đời, chúng sẽ tạo ra một vòng ốc xoắn hướng hạ vũ bão đến độ hầu hết mọi người không bao giờ có khả năng chất vấn nhận thức của mình, vì mình quá chắc chắn nhận thức này đúng đắn và không cần chất vấn. Vả lại ai ai cũng đều có cùng cái nhìn như thế.

Cho nên một khi phần lớn dân cư trên một hành tinh xem cuộc đời là sự phấn đấu không ngừng thì làm sao có ai đây sẽ bước lui lại để chất vấn cách nhận thức đó? Có ai sẽ đứng ra đặt câu hỏi: “Có thật cuộc đời là phấn đấu? Cuộc đời có bắt buộc phải phấn đấu không? Hay chỉ nhận thức của mình về phấn đấu đã tạo ra phấn đấu, bằng cách phóng hình ảnh cuộc đời phấn đấu ra tấm gương vũ trụ?”

Nhận biết thuần khiết là gì?

Hẳn con đã nghe truyện kể rằng xưa kia ta là con vua, lớn lên trong một khung cảnh bảo bọc nơi ta không có dịp nhận thức về bệnh và chết. Cho nên ta lớn lên với một nhận thức hạn hẹp, một chiều, có thể gọi là trong lành hơn nhận thức của hầu hết mọi người trên địa cầu. Con đã nghe là nhận thức của ta về một cụ già đã khiến cho ta ngộ ra là nhận thức cố hữu của mình thật là giới hạn. Và tuy rằng nhận thức đó thuần khiết hơn một người trung bình, cuối cùng thi nó không thuần khiết lắm vì giản dị ta đã bỏ qua không biết đến một số thực tế tạm thời của hành tinh. Đó không thật sự là nhận thức thuần khiết.

Nhận thức thật sự thuần khiết không đạt được bằng cách gạt bỏ những bất toàn, mà nhìn xuyên qua bất toàn, nhìn xa hơn bất toàn, và nhìn xem có gì vượt cả sự nhận thức – ngay cả nhận thức rằng cuộc đời là phấn đấu. Con cũng biết, sau khi nhận ra điều này, ta đã rút vào rừng, sống một cuộc đời khổ hạnh, hành hạ thân tâm mình, tìm cách kiềm chế tâm trí. Cho tới khi ta ngộ ra rằng ngay cả những thứ đó cũng sẽ không dẫn ta đến nhận thức thuần khiết.

Cái gì đã khiến ta vượt lên trên mức đó và chứng đạt quả vị Phật? Đó là vì ta đã tới điểm sẵn sàng chất vấn TỪNG khía cạnh của nhận thức – nhận thức mà ta đã có khi lớn lên, nhận thức về lối sống và triết lý khổ hạnh. Ta sẵn sàng đặt lại vấn đề tất cả, và khi ta bắt đầu đặt lại vấn đề, ta cũng bắt đầu nhận ra những mô thức vận hành khiến cho sự nhận biết ô nhiễm trở thành một chu kỳ bất tận không dẫn tới đâu. Đó là lúc ta bắt đầu chiêm nghiệm sự nhận biết thuần khiết mà trong đạo Phật gọi là Samadhi, hay Nirvana. Rồi nhờ thế ta lần hồi duy trì được nhận biết thuần khiết cho dù mình vẫn làm lụng công việc hàng ngày, và khi đó ta nhận thức thế gian từ tầng mức của nhận biết thuần khiết.

Như vậy ta nhìn thấy, ta bắt đầu nhìn thấy sự nhận biết ô nhiễm chính là nhận biết nhị nguyên khi có hai đối cực phải hiện diện. Trông ra thì tưởng chừng chúng hoàn toàn có thực, cái đối cực này không thể hiện hữu mà không có cái kia. Và do đó theo một nghĩa nào đó, cái này cũng thực như cái kia, tạo ra cảm tưởng là cái ác cũng thực như Thượng đế, rằng ác quỷ có quyền năng – có thường hằng, có thực thể. Và như vậy, ta bắt đầu nhìn vượt lên trên nhận thức nhị nguyên. Ta bắt đầu thấy được là có một cách tham gia vào cuộc sống – ngay cả cuộc sống năng động trong một thế gian tràn đầy bất toàn – mà vẫn không bị cuốn hút vào nhận thức nhị nguyên nơi người ta phải gắn nhãn cho mọi thứ theo một thang điểm nhị nguyên tương đối với hai đối cực – một cái là thiện, cái kia là ác; cái này là đúng, cái kia là sai; cái là thật, cái là không thật hoặc giả; cái là đẹp, cái là xấu; cái này dễ chịu, cái kia khó chịu.

Ta bắt đầu thấy được có gì vượt ngoài nhận thức nhị nguyên. Ta thấy nhận thức nhị nguyên là nhận thức ô nhiễm khi người ta nhận biết một cái gì nhưng không thật nhận biết vì sự nhận biết đã bị ô nhiễm. Và do đó, người ta không thể tách rời hành động nhận thức với hành động gắn nhãn, lượng định, phê phán. “Hãy đừng xét đoán để mình khỏi bị xét đoán, vì con xét đoán người ta thế nào thì con cũng bị xét đoán như thế”. Con có thấy chăng là con sẽ bị chính con xét đoán qua tâm thức của con? Và như vậy, cách con xét đoán người khác khi con đang đầu thai trên địa cầu cũng là cách con sẽ xét đoán chính mình khi con bước ra khỏi kiếp đầu thai và duyệt lại đời mình – là khi con nhìn vào chính mình qua cái tâm thức mà con đã nhìn người khác. 

Ta bắt đầu nhìn ra là vượt lên trên cách nhận thức này – cái nhận thức khiến mình như phải phê phán, gắn nhãn và lượng định tất cả – có sự nhận biết thuần khiết, một cách nhận thức mà qua đó ta không gạt bỏ những bất toàn trên địa cầu. Ta không gạt bỏ tính không thực của thế gian, nhưng ta không phán xét nó, không dán nhãn nó. Và như vậy, ta không phản ứng lại nó trong sự cảm xúc, như cảm thấy bị đe dọa, cảm thấy khó chịu hay ghê tởm, hay cảm thấy nó không được có mặt ở đó. Thực sự, ta nhìn vượt khỏi nó. Và vượt khỏi hình tướng bên ngoài, ta nhìn thấy Phật tánh, Ánh sáng Mẫu-Vật, sự THANH TỊNH, thực tại rằng tất cả được sinh tạo từ ánh sáng của Thượng đế. Và vì vậy nó có tiềm năng rũ bỏ hình ảnh ô uế, hình tướng ô uế, để được gia tốc vào sự thuần khiết – là thuần khiết của tâm thức Ki-tô, thuần khiết của tâm thức Phật, thuần khiết của tâm thức Thượng đế.

Và như vậy, ta đến được một điểm của tâm thức Phật nơi ta có thể duy trì Nirvana, duy trì Samadhi, cho dù ta đang tham gia vào mọi sinh hoạt đời sống. Con không cần phải ngồi đó thiền quán với mắt nhắm để trụ trong Samadhi hay Nirvana. Con luôn mang nó theo con, và con luôn nhìn tất cả xuyên qua tâm thức thuần khiết. Con vẫn thấy mọi bất toàn của thế gian, nhưng con không dán nhãn chúng, con không phê phán chúng, con không phản ứng lai chúng. Con chỉ nhìn thấy chúng, nhưng con thấy chúng là vô thường, con thấy chúng là không thực. Và con không phản ứng lại cái không thực, cái bất toàn. Thay vào đó, con HÀNH ĐỘNG, dựa trên sự chứng ngộ là mỗi bất toàn có thể được gia tốc vào thuần khiết, vào một trạng thái cao hơn. Khi đó, con có thể vào đời và hành động để nâng cao mọi sự sống, thay vì tìm cách kết án một sắc thái nào đó của sự sống rồi tìm cách triệt tiêu nó đi.

Sự lừa dối đằng sau mọi tấn tuồng

Con có thấy đây là sự lừa dối của kẻ cáo buộc người anh em hay không? Đây là sự lừa dối nền tảng đằng sau tất cả những tấn tuồng cuồng đại mà các thày cho tới nay đã phơi bày một cách rất cẩn trọng. Tấn tuồng cuồng đại khiến con tin rằng có cái gì đó xấu xa hay ác hại, và cái đó cần bị triệt tiêu. Nhưng khi con muốn triệt tiêu xấu ác thì con đã khởi đầu một phản ứng chống lại xấu ác – điều này sẽ không thể xóa bỏ khổ đau trên địa cầu mà sẽ chỉ gia tăng khổ đau. Và vì vậy, cách duy nhất để “xoá bỏ” “xấu ác” là thăng vượt tâm thức nhị nguyên hầu con có thể hành động trong tâm thức bất nhị, và do đó con tìm cách gia tốc các điều kiện mà người ta gọi là xấu ác, gia tốc nó vào thanh tịnh bằng cách nâng cao mọi sự sống thay vì lên án, chê trách, miệt thị, triệt tiêu.

Đây là sự khác biệt giữa những ai đã thăng thiên và những ai chưa thăng thiên. Là sự khác biệt giữa những ai đi theo con đường của tình thương và những ai còn bị mắc kẹt trong cái nhìn sợ hãi khi họ cảm thấy nhu cầu phải phê phán, bài bác, tiêu diệt.

Làm thế nào con thăng thiên? Bằng cách tự gia tốc và bước đến một điểm nơi con có thể nói với Giê-su: “Còn ta, khi ta thăng lên khỏi địa cầu, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta.” Thế Giê-su có nói, ta sẽ chỉ kéo những người tốt lên với ta và đuổi người xấu xuống địa ngục? Không, Giê-su không nói thế, mà thày nói: “Ta sẵn sàng gia tốc để nâng cao mọi sự sống”, và đó là tại sao thày đã có thể thăng thiên. Đó là vì thày đã tự gia tốc khỏi cái tâm thức cáo buộc đã chia cắt sự duy nhất bất khả phân chia của Thượng đế thành hai đối cực, rồi dán nhãn cho một đối cực là tốt – được vào Nước Trời – và đối cực kia là xấu – không được vào Nước Trời – và do đó phải bị tiêu diệt bởi những ai muốn vào Nước Trời. Bởi vì khi tiêu diệt xấu ác, con tưởng là con sẽ đủ tư cách để vào Nước Trời. Đó chính là sự lừa dối của các tấn tuồng cuồng đại. Có quá nhiều người đã từng tin vào, và vẫn tin vào, sự dối gạt đó. Họ vẫn tin là họ có thể tìm đường để được chấp nhận vào Nước Trời bằng cách khăng khăng giữ lấy tâm thức nhị nguyên – nghĩa là họ từ chối khoác vào cái áo cưới nơi họ sẽ hoàn toàn không bạo động, không nhị nguyên, không phê phán, không lên án, không bài bác, mà chỉ cố gia tốc mọi sự sống vào thanh tịnh.

Con có thấy chăng là ta không yêu cầu con trở nên đui mù? Ta không yêu cầu con gạt bỏ những bất toàn đầy rẫy trong thế gian, nhưng ta yêu cầu con đừng khiến chúng trở thành trường tồn trong tâm con. Bởi vì khi con phản ứng lại chúng thì con làm gì? Phải, nếu con biết cái gì đó là không thực và con là thực, tại sao con lại có nhu cầu phản ứng hay chống đối lại? Tại sao con có nhu cầu phản ứng lại một cái gì không thực? Cho nên con không phản ứng vì thấy mình bị đe dọa, hay mình tức giận, sợ hãi hay bất cứ một cảm xúc tiêu cực nào khác. Con chỉ đơn giản nhìn nó, và con hành động – bằng hành động không dựa trên hình dạng hay hình tướng bề ngoài, mà dựa trên nguồn sáng tạo nội tâm tự phát từ cái ta cao hơn của con, từ Hiện diện TA LÀ của con, từ tất cả mọi tầng của các sinh thể tâm linh ở ngay trên con nối dài cho tới Đấng Sáng tạo.

Thay vì phản ứng, con hành động trong một hành động được tưới bởi nguồn suối sáng tạo đó. Và vì con không phản ứng lại hình tướng, con không ban cho nó sự trường tồn, con không ban cho nó thực chất. Và như vậy, hành động của con không nhắm tới triệt hạ và hủy diệt, mà chỉ nhắm tới gia tốc vào sự thuần khiết mà con thấy vượt khỏi hình tướng. Đây là nhận thức thuần khiết khi con nhìn cái gì đó và thấy đó là một biểu hiện không thực, và con không bị lôi cuốn vào phản ứng muốn gắn nhãn cho nó là xấu, dở hay ác – như người đời thường làm. 

Con yêu dấu, các thày đã cho con nhiều lời dạy để giúp con vươn lên khỏi tâm thức của kẻ cáo buộc, tâm thức của những tấn tuồng cuồng đại. Đúng một năm trước đây, các thày đưa ra khái niệm những tấn tuồng đời sống và chỉ ra cho con sự cần thiết phải thăng vượt chúng nếu con muốn bước lên cao hơn, tức là nếu con quả thật mong muốn trở thành một sức mạnh nhằm gia tốc địa cầu vào xoắn ốc thăng thiên vào năm 2012 và xa hơn nữa. Nếu con thực sự muốn hình thành tăng đoàn của Phật, con cần phải thăng vượt các tấn tuồng của con, như ta và các chân sư khác đã chỉ ra rõ ràng, và cả Saint Germain nữa trong bài giảng quan trọng của thày. Đối với các con tha thiết muốn vượt qua tấn tuồng của mình, rất có thể con sẽ có lý do để học tập lại bài đó một lần nữa.

Bởi vì các thày nhận thấy trong số các con có những người không sẵn sàng khắc phục tấn tuồng của mình và thậm chí đã bác bỏ toàn bộ khái niệm đó, bác bỏ nhu cầu phải vượt qua tấn tuồng, hay từ chối nhìn nhận là mình có những tấn tuồng cần vượt qua. Tất nhiên theo Luật Tự quyết, điều này các thày hoàn toàn chấp nhận được. Nhưng các thày chỉ muốn nói: Nếu thế thì các thày không thể nhận con vào tăng đoàn mà các thày đang thiết lập. Khi cách đây 2500 năm học trò xin gia nhập tăng đoàn của ta, họ phải khảo thí, tức là có một tiến trình lựa lọc, phân loại giữa những người sẵn sàng chất vấn nhận thức và tấn tuồng của mình, với những người không sẵn sàng. Những người không sẵn sàng phải đứng lại ở ngoài. Họ đã phản ứng bằng nhiều cách, một số cảm thấy mình bị hất hủi, một số khác thì công kích Phật cùng các đệ tử của Phật bằng đủ mọi cách mà kinh sách Phật giáo không ghi lại cho nên người đời sau không biết rõ.

Nhưng ta có thể cam đoan với con yêu dấu, tất cả mọi việc ta làm hay những lời ta nói vào thời đó đã không được các Bà la môn trong đạo Ấn chấp nhận hay chấp thuận. Họ cảm thấy bị đe dọa bởi ta, hay bởi những người trong số đệ tử của họ không chịu chất vấn nhận thức của mình. Đã có rất nhiều cãi vã, công kích, buộc tội đối với ta, đối với sinh mạng và đệ tử của ta. Có rất nhiều chuyện xảy ra, như con thấy với Giê-su cũng từng bị công kích, lên án. Bởi vì như ta đã nói, cái tâm thức này đã có từ ngàn xưa. Con đừng nghĩ là ta đã tránh được nó, bởi vì nó có đó. Nhưng tất nhiên ta không bận tâm vì nó, ta không dính mắc vào nó, cho nên ta không phản ứng lại nó. Ta chỉ giản dị đi giảng dạy để cố giúp những ai chịu thăng vượt tầng mức tâm thức đó, và ta đặt trọng tâm giúp đỡ những ai ta có thể giúp đỡ bởi vì họ sẵn sàng tự giúp họ. Họ sẵn sàng nhìn vào chính họ, đặt vấn đề nhận thức của họ thay vì coi đó là tối thượng, vượt ngoài mọi chất vấn.

Hình tư tưởng tia chớp từ Đông sang Tây

Và bây giờ, như thông lệ, ta sẽ kết thúc bài giảng hôm nay bằng một hình tư tưởng có thể giúp con có một vai trò đắc lực hầu đưa nhân loại qua cuộc điểm đạo của Ngôi Con, Tâm thức Ki-tô – là tâm thức phân biện giữa chân và bất chân, và tất nhiên điều này đòi hỏi con có sự nhận biết thuần khiết không dán nhãn và không phê phán mà ta vừa trình bày ban nãy.

Ta mong muốn con hình dung Ki-tô đang bước vào thế gian này như lời của Giê-su – tựa như tia chớp từ Đông sang Tây. Và tia chớp phóng ra thế giới như một thanh gươm hai lưỡi chém xuyên qua những tấm màn ảo ảnh, tấm màn của Maya. Những tấm màn này có thể xem là những tấm rèm mà các thày giả và sa nhân đã treo lên để chúng ẩn nấp đằng sau. Có những tấm rèm dày đặc đến độ không thể nhìn xuyên qua, và cũng có những tấm khác đã trở nên phần nào trong suốt khiến con có thể nhìn thấy những cái bóng đang di chuyển đằng sau.

Con hãy hình dung Thanh gươm của Ki-tô, Lời Hằng sống, sẽ phóng ra và chặt đứt những sợi dây dùng để treo rèm, và những tấm rèm rơi xuống, để lộ những gì đằng sau. Phơi bày tầng lớp thượng tôn quyền lực, phơi bày những kẻ đang thao túng bằng đủ mọi cách, vì chúng đã có thể giấu mặt khỏi loài người thì nay chúng sẽ bị phơi trần. Tấm rèm sẽ rơi xuống và mọi người sẽ thức tỉnh và nói, “Nhìn kìa, hoàng đế không mặc áo. Bây giờ chúng ta thấy rõ y rồi – y không còn trùm trong tấm màn ảo ảnh của y được nữa, cái hỏa mù của Maya, của gian trá và lừa gạt.”

Con hãy giữ hình tư tưởng này, con yêu dấu! Con hãy nhớ đến nó mỗi khi con gặp một tình huống mà con biết có sự lừa dối. Và con hãy gọi lên một lời gọi ngắn gọn do con nghĩ ra, gửi về Ki-tô và Phật. Con hãy cầu thỉnh Thanh gươm của Ki-tô tách chân ra khỏi bất chân, cắt những tấm màn để chúng rơi xuống, và mọi người thấy phơi bày ra sự thực và sự không thực – và như vậy, cái không thực sẽ đứng đó trần truồng cho cả thế giới được thấy. Ta khuyên con hãy hình dung như vậy.

Và với lòng biết ơn đối với các con đã kiên trì giữ vững sự quân bình cho lời giảng này, ta nói: “Tốt lắm, những con người phụng sự tốt lành và trung thực, các con đã trung thực trong một số công việc, thì ta sẽ nỗ lực cho con cai quản nhiều điều trong những năm sắp tới.” Và như vậy, hãy được niêm phong trong nhận thức thuần khiết vô biên bất nhị của Phật. Hãy gọi ta để ta ban cho con nhận thức thuần khiết của Tâm Phật, là tâm biết tất cả đều là Phật tánh và do đó thấy được sự khác biệt giữa sự thực thuần khiết của Phật tánh và sự không thực của các ảo tưởng Maya luôn đến cám dỗ con – cám dỗ con làm điều gì? Cám dỗ con phản ứng lại cái không thực bằng đủ cách! Bởi vì bất kỳ phản ứng nào cũng khiến con bị kẹt trong vòng xoắn ốc của không thực. Cho nên con hãy là Phật – nhất định không phản ứng, nhất định bước vào con đường tâm linh hầu ta có thể dạy con cách HÀNH ĐỘNG, HÀNH ĐỘNG, HÀNH ĐỘNG từ nhận thức thuần khiết.

Vậy hãy được niêm phong trong an bình của ta, trong sự an bình không hề thụ động, và không là cái an bình mà nhiều người cho là an bình, mà là an bình năng động, vô hạn, không để cho sự thể đứng yên một chỗ, không để cho con người bị kẹt cứng trong cái xoắn ốc nơi họ nghĩ cuộc đời là đau khổ. Và đó là lý do ta đã bước ra khỏi Nirvana – để giảng dạy cho loài người là có một chọn lựa khác hơn là sự khổ đau. Và ta khuyên CON hãy làm tương tự. Hãy dạy dỗ họ, hãy chứng tỏ cho họ là có một chọn lựa khác hơn là khổ đau. Các con đều có khả năng đạt được thanh thản trong tâm, khả năng nhìn cuộc sống với một niềm vui vô biên, bất tận! Hãy được niêm phong trong niềm vui của Phật. Vì khi con thấy được Phật tánh, làm sao con không vui được? Cho nên TA LÀ Niềm vui Bất tận.

Ghi chú: Các bài thỉnh sau đây đã được soạn thảo đặc biệt để được sử dụng cùng với bài truyền giảng trên:
Thỉnh cầu sự phân biện giữa phản ứng và hành động
Thỉnh cầu cách ứng xử đối với tâm thức cáo buộc
Thỉnh cầu bước theo chân Phật để nhận biết thuần khiết

Biết Sứ vụ Thiêng liêng qua cấu trúc kết tinh của sự chỉ đạo thiêng liêng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Đại chỉ đạo Thiêng liêng qua trung gian Kim Michaels ngày 14/12/2009.

Ê-U-TÂY (ngân đọc 14 lần). Nếu có thể làm được thì ta đã nâng con lên trong tâm thức để con thấy được vũ trụ từ tầm nhìn cao vượt của một sinh thể vũ trụ. Đại chỉ đạo Thiêng liêng TA LÀ, và ta là một sinh thể vũ trụ. Con có hiểu một sinh thể vũ trụ là gì chăng?

À, con hãy kiểm xem phản ứng của con trước câu hỏi đó. Con có chực trả lời là “Có” chăng? Bởi vì nếu con trả lời “Có”, ta phải nói với con là con không thể “hiểu” được một sinh thể vũ trụ. Tâm phân tích đường thẳng không thể thấu hết, không thể trải rộng khắp những vùng rộng lớn của một sinh thể vũ trụ. Cho nên đây không phải là vấn đề hiểu, mà là biết – là chiêm nghiệm, hòa nhập và đạt được cái mà người xưa gọi là ngộ (gnosis).

Cho nên nếu có thể, ta sẽ nâng con lên để con thấy được – dù chỉ là trong khoảnh khắc – cái nhìn của một sinh thể vũ trụ. Ta sẽ nâng con lên cùng với ta, lên cao mãi qua Bản thể của ta, xuyên qua cấu trúc kết tinh (crystalline) mà TA LÀ. Ta sẽ đưa con lên đến tận cùng cho tới chóp đỉnh của kim tự tháp kết tinh của Bản thể ta. Và đỉnh này là một điểm duy nhất, một điểm dị biệt (singularity), con yêu dấu, nằm cân xứng trên khối hình vuông màu trắng ở giữa Alpha và Omega trong Mặt trời Trung tâm Vĩ đại.

Một sinh vật vũ trụ là một sinh vật vũ trụ bởi vì đấng ấy – không phải là nam hay nữ như con có thể hình dung trên trái đất – đã nâng cao tâm thức, khả năng tự nhận biết cho tới mức biết được mình khởi nguồn từ điểm dị biệt, tức là điểm gặp gỡ nơi trung tâm dòng chảy hình số 8 giữa Alpha và Omega. Điểm gặp gỡ này, điểm dị biệt này là cánh cửa, là cổng vào, là cửa ngõ mở ra giữa thế gian hình tướng này với Đấng Sáng tạo đã tạo ra thế gian từ Bản thể của ngài.

Chắc chắn con có thể nói, “Không có ngài thì không có tạo vật nào được tạo ra”. Chắc chắn điều đó có nghĩa là Bản thể Đấng Sáng tạo ở khắp mọi nơi, ở ngay trong thế gian hình tướng, thế nhưng không nơi nào trong thế gian hình tướng, ngoại trừ trong mặt trời trung tâm đó, có một lối mở trực tiếp vào Bản thể Đấng Sáng tạo. Cho nên đây là nơi mà mệnh lệnh của Đấng Sáng tạo được ban phát ra cho thế giới hình tướng: “Hãy có ánh sáng! Hãy làm ra con người theo hình ta và giống ta, và hãy cho con người quyền cai trị trên địa cầu, trên thế giới hình tướng, trên vũ trụ vật chất.”

Một tầm nhìn vũ trụ

Nếu ta có thể đặt con, dù chỉ một giây, ngồi lên khối hình vuông màu trắng và nhìn ra vũ trụ rộng lớn trước mặt – với hàng tỷ dải ngân hà, hàng tỷ tầng lớp, bầu cõi và gian phòng – nếu con có thể thấy được trong một khoảnh khắc thì cuộc sống của con, cái nhìn của con về cuộc sống, sẽ tức khắc thay đổi. Con hãy lưu ý lời ta vừa nói. Cái nhìn của con về cuộc sống CHÍNH LÀ cuộc sống của con – cho đến khi con nhận ra là con nhiều hơn cái nhìn đó, con nhiều hơn bất cứ cái nhìn nào, nhiều hơn bất cứ ý niệm nào về bản ngã mà con đã tạo ra để có thể biểu đạt, chiêm nghiệm trong thế giới hình tướng.

Con không thể chiêm nghiệm được mặt trời trung tâm, khối vuông màu trắng, sự Hiện diện dỗ dành, hàn gắn và hoàn toàn viên mãn của Alpha và Omega, con không thể chiêm nghiệm điều đó với tư cách một con người tự xem mình là con người. Vậy thì làm thế nào con chiêm nghiệm được thực tại tối hậu, điểm khởi đầu của thế giới hình tướng? Con có thể chiêm nghiệm được bởi vì cốt lõi bản thân con là sự nối dài của chính Bản thể Đấng Sáng tạo.

Cốt lõi này của chính con đã được biết đến – đúng hơn, được chứng nghiệm – bởi những nhà thần bí đích thực của mọi thời đại. Con sẽ thấy nó được nói đến và mô tả bằng lời trong kinh Veda cổ, trong Lão giáo, trong Phật giáo, trong Cơ đốc giáo, đôi khi giấu mặt, đôi khi hiển hiện hơn. Nhưng trong mọi lời dạy tâm linh, thần bí của nhân loại – Kabala, Sufi… – đều có nó đến, đó là cái gì nằm ở ngay cốt lõi bản thể con, cái gì đó khiến con ý thức là con hiện hữu như một sinh thể cá biệt. Bởi vì đúng vậy, con là một cá thể, con là một nối dài của Đấng Sáng tạo đã khoác lấy sắc thái riêng.

Con hãy lưu ý sự khác biệt tinh tế đã phát sinh ra một sự lừa dối tinh vi. Cá thể (individuality) không nhất thiết có nghĩa là tách biệt (separation). Con không được sinh tạo như một sinh thể tách biệt, một cái ngã tách biệt. Con được sinh tạo như một cá thể với một cái nhìn đặc thù, nhìn thế giới hình tướng từ một điểm nhìn đặc thù. Nhưng điểm này không là một điểm tách biệt trong không gian hay thời gian. Đó là một điểm dị biệt bởi vì, thật sự, mọi điểm trong không gian đều là một điểm dị biệt nếu nó ý thức được chính nó là sự nối dài của Bản thể Đấng Sáng tạo.

Và đây là tiềm năng của con để nâng cao khả năng tự nhận biết của con, cho tới khi con đạt được sự nhận biết viên mãn của Đấng Sáng tạo. Trái với một vài giáo lý, điều này không có nghĩa là con sẽ mất đi cá thể. Bởi vì ngay cả Đấng Sáng tạo cũng có cá thể – tuy là một cá thể vượt xa mọi con người trên trái đất, vượt cả các chân sư thăng thiên đến độ con không thể mường tượng được.

Thế nhưng Đấng Sáng tại của con đã tạo ra Vũ trụ này là sự biểu hiện của khả năng sáng tạo và cá thể của ngài. Có những cách khác để xây dựng một vũ trụ, và các nhà khoa học của các con đã bắt đầu nhận ra rằng vũ trụ đặc thù của các con tùy thuộc vào một loạt những hằng số (constants) được cân xứng một cách tinh tế đến độ dạng sống cụ thể của con – đặc biệt là dạng sống dựa trên carbon cấu tạo cơ thể vật lý của con – không thể hiện hữu nếu bất kỳ một trong những hằng số cốt yếu đó thay đổi một chút xíu.

Điều này không có nghĩa là nếu các hằng số đó khác đi thì đã không có sự sống, mà có những dạng sống khác. Nhưng Đấng Sáng tạo của con đã chọn cách cân xứng hằng số như thế này để tạo ra dạng sống đặc thù mà con thấy trong vũ trụ của các con. Sự thật là con có thể đi đến các thiên hà và hệ thế giới khác, ngay cả trong thế giới hình tướng của con, nơi con sẽ tìm thấy những dạng sống khác bởi vì ở đó thế quân bình hơi khác đi. Dù sao thì điều ta muốn nói là như sau: Đấng Sáng tạo của con là một cá thể đi ra từ cái Tất Cả của Thượng đế, và con là một cá thể đí ra từ cái Tất Cả của Đấng Sáng tạo của con. Con có tiềm năng nâng cao khả năng tự nhận biết của mình cho tới khi con đạt cùng mức tâm thức như Đấng Sáng tạo, và khi đó con sẽ hội đủ tư cách để sinh tạo vũ trụ hình tướng riêng của con là sự biểu đạt của bản thân con, của cá thể con, khả năng sáng tạo của con. Đó là tại sao con là một vị đồng sáng tạo. Con học hỏi bằng cách đồng sáng tạo với Đấng Sáng tạo của con cho tới khi con trở thành một đấng sáng tạo có khả năng quy định tạo vật của con.

Cốt lõi con người của con

Vậy thì cái gì là cốt lõi trong con có khả năng tăng triển khả năng tự nhận biết? Phải, đó chính là điểm dị biệt, là sự nối dài chỉ to bằng cái chấm của Bản thể Đấng Sáng tạo. Chúng tôi, các chân sư, đã gọi đó là cái Ta Biết, hay cái ta ý thức. Nhưng những giáo lý tâm linh khác thì có thể gọi khác – là “atman” hay bất cứ cái tên nào khác.

Trừ khi con thích chẻ tóc làm đôi thì ngôn từ sử dụng không quan trọng lắm. Điều quan trọng là cho dù tên gọi có là gì, ở trong con có một cốt lõi khiến con ý thức – không phải ý thức về một dạng ngã nào đặc biệt – bởi vì cái Ta Biết này không phải là một cái ngã như loại ngã mà con đã tạo ra để biểu đạt trong thế gian hình tướng. Ngã loại đó có hình tướng vì nó được dùng để biểu đạt. Nhưng cái Ta Biết thì không có hình tướng: đây là sự nhận biết thuần khiết.

Con hãy lưu ý, tâm đường thẳng phân tích không thể nắm bắt được khái niệm cái Ta Biết. Con không thể nắm khái niệm của cái Ta Biết nếu con thấy đó là một khái niệm. Đó không phải là một khái niệm. Nhưng khi chúng tôi giảng dạy cho con thì phải diễn tả bằng lời nói và bị ràng buộc trong giới hạn cùa lời nói. Và khi diễn tả bằng lời nói thì lập tức tâm phân tích đường thẳng sẽ chụp lấy, biến nó thành khái niệm – thành một cái gì mà con có thể mô tả, gói ghém trong lời nói, tranh cãi thuận hay nghịch, hoặc gọi là thật hay giả.

Nhưng con thấy không, chúng tôi giảng dạy cho con về cái Ta Biết vì biết là một số trong các con sẽ hiểu. Các con hiểu vì các con đã chiêm nghiệm chính mình như cái Ta Biết, khác hẳn tất cả mọi cái ngã đặc thù mà các con đã tạo ra, bởi vì cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết. Và có những người trong số 10% tâm thức hàng đầu trong nhân loại cũng đã chiêm nghiệm được một cách tự nhiên – hoặc qua những cách tu tập như thiền quán, trầm mặc – sự nhận biết thuần khiết này, mà qua đó cái Ta Biết tự chiêm nghiệm mình là nhiều hơn bất cứ cái ngã nào mà nó đã tạo ra trong thế giới hình tướng, và do đó nó chiêm nghiệm là nó tự do. Nó không thể bao giờ bị ràng buộc bởi bất cứ gì trong thế giới hình tướng – trừ khi nó bước vào một cái ngã và tự đồng hoá hoàn toán với ngã riêng biệt đó, và khi làm vậy, nó nhìn thế giới từ bên trong ngã nhìn ra, nhìn thế giới qua phin lọc của ngã đó, và vì vậy nó có thể tạm thời quên đi nó là nhiều hơn, quên đi nó là nhận biết thuần khiết.

Quả là có nhiều người trên hành tinh này, đại đa số trong nhân loại, chưa bao giờ trải nghiệm được nhận biết thuần khiết. Chúng tôi thừa biết là nếu con chưa trải nghiệm nhận biết thuần khiết bao giờ thì những lời dạy về cái Ta Biết sẽ chỉ là thêm một khái niệm cho con, thêm một dịp cho tâm phân tích đường thẳng nhào nặn. Tùy trạng thái tâm thức của con, tùy những tấn tuồng của con, tùy những hiểu biết hay sự thiếu hiểu biết của con, con sẽ phóng chiếu đủ mọi hình ảnh lên trên các lời dạy về cái Ta Biết. Con có thể làm bất cứ gì con muốn với nó, con có thể đóng đinh nó lên cây thập tự, gọi nó bằng tên này hay tên nọ, biến nó thành thần tượng tạc trên đá – thay vì con làm điều lý tưởng mà con cần làm, là nhìn thấu vào chiều sâu của lời dạy tâm linh, tức là đi xa hơn ngôn từ, đi xa hơn lời nói cho tới khi con chứng ngộ Tánh linh ở đằng sau lời nói.

Thượng đế là một Tánh linh, và những ai thờ phượng ngài phải thờ phượng ngài trong tánh linh và sự thật. Muốn biết được Thượng đế thì phải biết ngài trong Tánh linh, bởi vì con không thể biết Thượng đế qua tâm hữu hạn. Thượng đế là vô hạn và không thể hiểu được qua tâm hữu hạn. Đây là một sự thực giản dị, nhưng vẫn còn nhiều người cứ đầu thai đi đầu thai lại trong các cộng đồng tôn giáo – thậm chí đã từng có chân trong các tổ chức tâm linh hay thần bí từ nhiều thập niên – mà vẫn chưa hiểu được ý niệm giản dị này là phải vượt qua giáo lý vỏ ngoài, phải đi thẳng tới Tánh linh và chứng ngộ bằng Táng linh. Và qua đó con biết được, chiêm nghiệm được sự duy nhất đó.

Không thể hiểu được nhận biết thuần khiết

Điều hay ho của cái ta ý thức là sự kiện nó là nhận biết thuần khiết. Đó là lý do nó có thể tự phóng chiếu vào một ý niệm bản ngã giới hạn và thực sự tin tưởng – và chiêm nghiệm như một cái gì hoàn toàn đáng tin cậy – rằng con là một con người giới hạn, một người phàm phu tội lỗi. Nếu con muốn có trải nghiệm này thì con hoàn toàn có khả năng có được, bởi vì cái ta ý thức có thể bước vào một cái ngã như thế và trải nghiệm thế giới từ bên trong ngã đó.

Nhưng sự tuyệt diệu của cái ta ý thức là sự kiện nó luôn luôn chỉ là nhận biết thuần khiết mà thôi, và vì vậy nó cũng có khả năng tự phóng chiếu về hướng kia. Thay vì phóng xuống các độ rung thấp kém, nó có thể tự phóng chiếu y như vậy lên những tầng rung động cao hơn, do đó nó tự phóng chiếu vào hợp nhất với một sinh thể tâm linh, thậm chí vào cả Mặt trời Trung tâm Vĩ đại – và xa hơn nữa để chứng nghiệm Đấng Sáng tạo, vì dù sao nó cũng chỉ như một giọt nước lấy ra từ đại dương tâm thức của Đấng Sáng tạo.

Cho tới khi con vượt ra khỏi tâm đường thẳng phân tích, cho tới khi con vượt ra khỏi ngã tách biệt, thì sự hiện hữu của con như một nối dài của bản thể Đấng Sáng tạo – tức như sự nhận biết thuần khiết – sẽ đơn giản chỉ là một khái niệm lý thuyết. Con có thể tranh cãi chống hay thuận. Có những người đã từng tranh cãi chống lại hay thuận theo đủ loại khái niệm tâm linh hết kiếp này tới kiếp khác. Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, kính trọng quyền tự quyết. Nếu người ta mong muốn có trải nghiệm đó mãi mãi thì họ có quyền làm như vậy trong khuôn khổ Định luật Tự quyết. Nhưng chúng tôi sẽ không dùng khả năng chú ý của mình để cố giúp họ, bởi vì họ đã tự đặt mình dưới sự chi phối của luật tác dụng và phản tác dụng – tức là Trường đời Cay đắng.

Họ có thể tự nhận mình là người theo đạo. Họ có thể đã phát triển một thái độ xem mình thánh thiện hơn người khi họ nghĩ mình hiểu biết mọi chuyện hơn mọi ai khác, do mình đã dựng lên một hệ thống tín ngưỡng toàn hảo đến độ mọi thứ và ngay cả Đấng Sáng tạo cũng có thể được nhét vào trong đó. Cho nên định luật đã được lập ra để đảm bảo bất cứ gì họ gửi ra tấm gương vũ trụ sẽ được gửi trả về cho họ y như vậy. Và họ sẽ tiếp tục gặt những gì họ đã gieo cho đến khi họ chán ngán và bảo: “Cuộc sống nhất định phải là gì nhiều hơn những thứ tôi đang trải nghiệm ngay bây giờ.” Và khi con đạt tới điểm đó, khi con muốn nhiều hơn những gì tấm gương vũ trụ gửi trả về, thì ở điểm đó con mới có thể khởi sự con đường tâm linh nơi các chân sư có thể giúp con.

Chúng tôi có thể cho con những lời dạy được thiết kế để nâng tâm thức, nâng hiểu biết của con lên. Chúng tôi có thể cho con những kỹ thuật và dụng cụ được thảo ra để giúp con thỉnh cầu năng lượng tâm linh. Và như vậy con có thể cất bước trên hành trình vén lên tấm màn, vén màn Maya, cho đến khi con bắt đầu nhìn xuyên thấu qua được. Nhưng khi nhìn xuyên thấu tấm màn Maya, con sẽ thấy gì đây? Không phải như một số người kỳ vọng, con sẽ không thấy vương quốc tuyệt diệu của thiên đàng trên đó với tất cả những nét đẹp đẽ mà con đã từng nghe hay từng đọc.

Con hãy để ý điều thày nói ở đây hầu con không lẫn lộn với một số hình ảnh trong tâm đường thẳng. Quả thật đã có những người trên địa cầu có được trải nghiệm đích thực về các cõi tâm linh, và họ đã bước trở xuống để mà kể lại. Nhưng điều ta muốn nói là khi con khởi sự đường tu tâm linh, khi con bắt đầu phá thủng tấm màn Maya đang che phủ tâm con, điều con nhìn thấy không phải là một quang cảnh huy hoàng nào đó của cõi tâm linh nơi tất cả mọi thứ đều đẹp, mặc dù vẻ đẹp là có thực. Không, điều con nhìn thấy trước tiên là những thoáng hiện của nhận biết thuần khiết, của tâm thức thuần khiết, nơi cái ta ý thức của con – mà cho tới giờ nó chỉ ý thức mình là một con người – giờ đây bắt đầu thấy mình là nhiều hơn một con người. Cái ta ý thức bắt đầu trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết khiến nó ý thức là nó sẽ không bao giờ có thể bị hạn chế trong thế giới hình tướng này, hay bất kỳ một ý niệm bản ngã nào được tạo ra trong đó.

Không có gì có thể cầm giữ cái ta ý thức của con, và đó là điều mà cái ta ý thức nhận ra khi nó trải nghiệm nó là nhận biết thuần khiết vượt khỏi mọi cái ngã trong thế gian – sự nhận biết trinh nguyên, không chút ô nhiễm. Đây là điều mà con bắt đầu nhìn thấy. Có những truyền thống tâm linh, chẳng hạn như đạo Phật ở phương Đông, với một số kỹ thuật cùng phương pháp đã được thời gian thử nghiệm để giúp hành giả làm cho tâm tĩnh lặng cho đến khi mình trải nghiệm nhận biết thuần khiết.

Sứ vụ Thiêng liêng của con

Mục đích của tất cả các vị thày chân chính ở phương Đông đã là đưa đệ tử tới mức họ trải nghiệm được nhận biết thuần khiết, tâm thức thuần khiết. Nhiều dụng cụ và kỹ thuật như vậy, nhiều hệ thống như vậy, đều chính đáng và giá trị, nhưng chúng chính đáng và giá trị chủ yếu cho những loại linh hồn, những loại dòng sống có xu hướng đầu thai ở phương Đông và nhắm nhiều hơn đến việc trải nghiệm cuộc sống – một hình thức sùng bái của Yoga.

Các dòng sống chủ yếu đầu thai tại phương Tây nhắm nhiều hơn đến cuộc sống năng hoạt. Họ muốn tìm hiểu, họ là những con người thực tế và thực dụng, họ không chỉ ở đây để trải nghiệm mà để đồng sáng tạo – không chỉ để nhận thức mà để phóng chiếu một viễn quan cao hơn lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Nếu con sinh trưởng ở phương Tây, rất có thể đó là vì – ít ra trong kiếp đầu thai này – con đã không chỉ mong muốn trải nghiệm thụ động mà còn đồng sáng tạo chủ động. Đây là một nhận thức quan trọng cho những ai muốn khám phá và hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình trong kiếp hiện thân này.

Sứ vụ Thiêng liêng chính xác là gì? Đó là một kế hoạch được lên khuôn trong một trạng thái tâm thức vượt ra khỏi tất cả mọi đặc điểm thường có nơi con người trên địa cầu. Khi con thiết lập Sứ vụ Thiêng liêng với sự hợp tác của các thày tâm linh của con, con không mang cái ngã mà con đã tạo dựng suốt trong nhiều kiếp sống, con không nhìn cuộc sống từ bên trong một loại ngã như thế. Cái Ta Biết của con đã bước ra ngoài cái ngã biểu cảm mà con đã tạo dựng suốt nhiều kiếp sống. Do đó, con nhìn thấy thật rõ những giới hạn của ngã đó. Con thấy rõ những điểm nó cần cải thiện, nhưng con cũng thấy các tin tưởng mà dần dà nó đã chấp nhận, cũng như cách thức mà các tin tưởng đó phải được thăng vượt trước khi con có thể bước lên một trải nghiệm cao hơn, đặc biệt trước khi con có thể trở thành một vị đồng sáng tạo đích thực sẽ giúp đồng sáng tạo vương quốc của Thượng đế trên địa cầu thay vì một loại biểu hiện nào khác.  

Con có thấy chúng tôi đã nói gì về cái Ta Biết? Cái Ta Biết không thể ngừng biết, và do đó cái Ta Biết không thể ngừng đồng sáng tạo. Cho dù cái Ta Biết tự đồng hóa là con người thấp kém nhất trên địa cầu, con người ích kỷ nhất, thô sơ nhất – một kẻ bệnh hoạn chuyên chú đi xâm hại người khác – thì ngay cả con người đó cũng đồng sáng tạo liên tục bằng cách sử dụng khả năng của tâm phóng chiếu hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Những hình ảnh này thấp kém, hoàn toàn không đồng thuận với viễn quan cao hơn về vương quốc Thượng đế trên địa cầu, nhưng chúng vẫn là một hình thức đồng sáng tạo. Bởi vì cách thức chúng được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật cũng giống y như một hình ảnh cao đẹp hơn.

Cái ta ý thức của con chính là con người mà nó nghĩ nó là. Nó là con người mà nó đã đồng hóa là như vậy, theo nghĩa là nó đồng sáng tạo xuyên qua ý niệm bản ngã mà nó đang có ngay lúc đó và nó tự đồng hóa với cái đó. Bất kỳ hình ảnh nào mà hiện hữu trong mô thức, trong cấu trúc của ngã, thì đó cũng là hình ảnh mà dòng ánh sáng của cái ta ý thức sẽ chiếu qua. Và những hình ảnh này hình thành cuộn phim của ngã tách biệt được trình chiếu trên màn ảnh của Ánh sáng Mẫu-Vật.

Con đừng bị bề ngoài lừa dối. Trong cách thức, người tâm linh nhất trên trái đất đồng sáng tạo cũng không khác gì người ở mức tâm thức thấp nhất. Cả hai đều có một cái ta ý thức làm cánh cửa mở cho ánh sáng của Hiện diện TA LÀ chảy xối xuống dải tần số của cõi vật chất. Cả hai đều đồng hóa mình với một cái ngã nào đó, một hộp tư duy nào đó, và họ đều phóng chiếu ánh sáng xuyên qua các hình ảnh trong hộp tư duy đó. Điểm khác biệt duy nhất là ý niệm bản ngã đó thanh khiết đến độ nào, đồng thuận đến độ nào với Hiện diện TA LÀ, hay là nó hoàn toàn sai trệch đối với Hiện diện TA LÀ.

Cho nên chắc chắn một người chứng đạt tâm linh cao sẽ có một ý niệm bản ngã đồng thuận hơn hẳn với Hiện diện TA LÀ của mình, và kết quả là khe hở sẽ lớn hơn để ánh sáng có thể chảy xối vào ý thức vỏ ngoài của người đó. Và như thế, người đó cũng sẽ có nhiều uy lực đồng sáng tạo hơn – như Giê-su đã chứng tò khi thày vực người chết sống lại, chữa lành chân tay kẻ tật nguyền, thanh tẩy thân thể người cùi hủi và thực hiện nhiều việc làm khác gọi là phép lạ – và đây là những việc làm mà kẻ ở mức tâm thức thấp nhất trên địa cầu không thể làm được. Nhưng con cần hiểu là tâm thức không khác biệt trong tính chất, mà chỉ khác cường độ, khác khối lượng.

Một bước cần thiết

Khi con đạt tới chỗ con muốn hơn nữa, khi con mong muốn một con đường cao hơn, khi con có được nhận thức là có lẽ đời mình có một chủ ý, có lẽ mình đã lên kế hoạch cho đời mình – và con mong muốn biết kế hoạch đó là gì, con muốn thấy rõ ràng là con có thể thực hiện kế hoạch đó một cách ý thức – thì ở điểm đó, con cần đi một bước tuyệt đối cần thiết. Con sẽ không bao giờ phát hiện được Sứ vụ Thiêng liêng của mình trong ý thức cho tới khi con ý thức được cơ chế của nhận thức.

Nhận thức là cạm bẫy vĩ đại cho cái ta ý thức. Một khi con đã tạo ra một ngã tách biệt, một khi cái ta ý thức của con đã bước vào tạo vật đó, hộp tư duy đó, và đã tự đồng hóa với cái đó, thì nó sẽ tin rằng những gì nó nhận thức xuyên qua hộp tư duy không phải là nhận thức mà là thực tại. Đó không phải là một tấm hình về cách vận hành của thực tại – không, đó chính là thực tại. Chính đó – ở ngay đó – là lằn ranh phân chia những người có thể được chân sư thăng thiên trợ giúp và những người không thể được chân sư thăng thiên giúp đỡ. Lằn ranh phân chia này là sự ngộ ra rằng nhận thức của mình – nhận thức ngay bây giờ của mình về cuộc sống – không phải là cao nhất. Đó không phải là cách nhìn duy nhất về cuộc sống.

Đâu là thực tế mà chúng tôi đã giải thích nhiều lần trong các bài truyền đọc, đâu là điểm chủ yếu mà chúng tôi đã diễn tả và giảng giải? Đó là sự kiện con hiện đang ở một trạng thái tâm thức thấp hơn các chân sư thăng thiên, và để vượt băng qua điểm mấu chốt sẽ dẫn con vào trạng thái thăng thiên, con cần nâng cao tâm thức của con. Con cần thanh tẩy khỏi tâm thức con mọi yếu tố phàm phu không thể đi lọt qua lỗ hổng.

Bao nhiêu lần chúng tôi đã nhắc nhở điều này bằng đủ mọi cách? Liệu có khó hiểu lắm không mối liên hệ giữa nhận thức của con và trạng thái tâm thức hiện thời của con? Liệu có khó nắm bắt lắm không sự kiện là con đang ở trong một trạng thái tâm thức thấp hơn – mà ta tin con nhận chân được – cho nên nhận thức của con mới không tinh khiết. Nó không thể tinh khiết. Nếu nó tinh khiết thì con đã không ở trong một trạng thái tâm thức thấp, vì trạng thái tâm thức thấp của con giống như một cặp mắt kính màu đang tô màu lên nhận thức và cái ta ý thức thì lại nhìn xuyên qua cặp kính màu đó. Và do đó, mọi thứ mà con nhìn thấy trong thế gian này được trang thái tâm thức đó, hộp tư duy đó, tô màu.

Đây là sự nhìn nhận then chốt sẽ đưa một người vào những cõi nơi chúng tôi, các chân sư thăng thiên, sẽ để ý và nói: “À, đây là một học trò mà chúng ta có thể làm việc được.” Con hãy lưu ý rằng việc tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên, gia nhập một tổ chức vỏ ngoài hay đọc bài chú bài nguyện nhiều giờ liền, tất cả những thứ đó tự thân nó sẽ không giúp con hội đủ tư cách để trở thành một đệ tử mà chúng tôi có thể làm việc trực tiếp ở mức nội tâm. Rất nhiều thành viên của các tổ chức tâm linh vẫn chưa sẵn sàng cho một mối quan hệ nội tâm, trực tiếp với chúng tôi – đó là vì sao họ vẫn tham gia tổ chức vỏ ngoài và gắn bó với các giáo lý vỏ ngoài. Đó cũng là vì sao họ không thể, hoặc không muốn, nhìn xa hơn giáo lý, để họ trực tiếp nghe được, trải nghiệm được Hiện diện của chúng tôi.

Trở thành một đệ tử chân chính bằng cách tra vấn nhận thức của mình

Vậy thì con cần những gì để trở thành một đệ tử chân chính – một đệ tử có thể nắm bắt Sứ vụ Thiêng liêng của mình một cách ý thức thay vì hoàn thành Sứ vụ đó một cách không ý thức, như nhiều người trong số các con đã làm? Nhiều người là thành viên của các tổ chức tâm linh đã làm vậy, vì họ đã đi theo Sứ vụ của họ ở những mốc quan trọng trong đời, rồi khi phải lấy những quyết định thật quan trọng, họ đã cảm được một sự hướng dẫn giúp họ chon lựa đúng đắn. Chỉ có điều là họ không nhìn thấy toàn cảnh rộng lớn, họ không thấy được hoạch định của họ, họ không hiểu tại sao họ đã chọn lựa như vậy và tại sao nó lại quan trọng đến vậy. Họ đã không hiểu những điều họ có ý định muốn học từ một hoàn cảnh cụ thể, măc dù trong nhiều trường hợp, họ cũng đã học được qua Trường đời Cay đắng.

Tuy nhiên, đối với con là người sẵn lòng tốt nghiệp Trường đời Cay đắng, con phải làm gì và phải nhìn thấy gì đây? Con phải đạt tới mức con sẵn lòng tra vấn nhận thức của con, tức là con sẵn sàng nói: “Giê-su yêu dấu, Mẹ Mary yêu dấu, Đại chỉ đạo Thiêng liêng yêu dấu, Saint Germain yêu dấu, Chân sư MORE yêu dấu” – bất kể vị chân sư nào mà con cảm thấy gần gũi nhất với tim con, con phải nói – “Thày hãy dạy con, thày hãy chỉ con những gì mà con chưa thấy với nhận thức hiện thời của con, với trạng thái tâm hiện thời của con. Xin thày hãy vén lên bức màn mà nhận thức hiện thời của con đã tạo ra để con nhìn thấy xa hơn, để con thấy con là hơn nữa, thấy sự thật là hơn nữa, thấy Tánh linh là hơn nữa, và thày trong cương vị chân sư thăng thiên cũng là hơn nữa, là nhiều hơn cái hình ảnh mà con đang có về thày ngay lúc này. Bởi vì con sẽ biết thày trong tánh linh và sự thật, chứ không qua một hình ảnh nào đó bị nhận thức hiện thời của con hạn chế.”

Con thử nghĩ xem tại sao bao nhiêu chân sư đã nói: “TA LÀ NHIỀU HƠN thế này”? Bởi vì cho những ai trong số các con đã sẵn sàng, đã đến lúc con bước lên cao hơn và nhận ra rằng con là hơn nữa y như các chăn sư là hơn nữa. Con là nhiều hơn nhận thức của mình. Nhưng con sẽ không thấy được con là nhiều hơn nhận thức cho đến khi con mở tâm ra và nhìn nhận: “Có một cái gì đó mà tôi không thấy. Nhận thức của tôi bị pha màu bởi trạng thái tâm thức hiện thời của tôi, thậm chí bởi giới phái, chủng tộc, tôn giáo, xuất xứ, quốc tịch của tôi.”

Ngay cả tâm phân tích đường thẳng của con cũng có thể giúp con thấy rằng nhận thức của con bị tô màu – nếu con xem xét con đã được dạy dỗ như thế nào để nhìn cuộc sống theo một cách nào đó tùy theo tôn giáo, hệ thống chính trị, chủng tộc, quốc gia hay bất kỳ yếu tố nào khác. Và khi con gặp người khác đã lớn lên trong một môi trường khác, con nhận ra là họ nhìn cuộc sống một cách khác – một chút xíu hay có thể rất nhiều – so với cách con đã được dạy dỗ. Và điều này sẽ giúp con nhận ra là cách con nhìn cuộc đời chỉ là một trong nhiều cách – không phải là cách duy nhất và cũng không nhất thiết là sự thật duy nhất.

Làm thế nào con sẽ bao giờ biết được sự thật, sự thật đích thực? Chỉ khi nào con nhìn nhận là những gì con xem là sự thật ngay lúc này không phải là sự thật tối hậu. Đó là một cái gì bị tô màu bởi nhận thức của con, một tâm ảnh, một hình ảnh trong tâm. Đó chính là khởi đầu của minh triết, khởi đầu của con đường tâm linh, là khi con có thể nhận được hướng dẫn của các chân sư thăng thiên. Đó là khi con có thể bắt đầu vén lên bức màn hầu thấy được Sứ vụ Thiêng liêng của con một cách ý thức, con bắt đầu xuôi chảy với Dòng sông sự Sống thay vì cứ mò đường trong đêm tối, đôi khi lạng quạng đụng trúng Sứ vụ của mình, nhưng thường khi thì bị hụt mất những cơ hội quan trọng mà con không nhìn thấy, vì con chỉ thấy được những gì con muốn thấy, những gì tự ngã con muốn con thấy, hoặc chính con trong cương vị cái ta ý thức muốn trải nghiệm.

Làm thế nào con thăng thiên?

Ta đã ban ra một bài chú sẽ mở khóa căn thể của ta cho những ai sẵn lòng muốn biết ta trong cương vị là Đại chỉ đạo Thiêng liêng, là một sinh thể vũ trụ, là cấu trúc kết tinh cứ trải mãi lên cho tới Thượng đế, cho tới Đấng Sáng tạo, cho tới Mặt trời Trung tâm, cho tới khối vuông ở giữa Alpha và Omega. Tuy nhiên, bài chú này không có gì bảo đảm là những ai đọc chú, ngay cả khi họ đọc nhiều lần, sẽ vén được bức màn. Con phải sẵn sàng đáp ứng đòi hỏi của Omega – là nhìn nhận những giới hạn của nhận thức. Con phải sẵn sàng nhìn xa hơn nhận thức để thấy một cái gì con chưa thấy bao giờ, thấy một cái gì tự ngã con không muốn con thấy, thấy một cái gì mà người thân của con có thể không muốn con thấy – vì họ không muốn mất con, họ không muốn con vươn lên cao hơn họ, họ không muốn con mạnh dạn bước đi về một nơi mà chưa một người nào đã chạm chân, như câu ngạn ngữ thường nói.

Con chẳng thấy hay sao, cách duy nhất mà chúng tôi, các chân sư thăng thiên, có thể giúp con là nếu con sẵn lòng nhìn thấy những gì con không thấy? Chỉ đạo thiêng liêng là gì? Đó có phải là một bộ áo tù trói tay trói chân con? Đó có phải là khi con quyết định con muốn sự chỉ đạo thiêng liêng, thì ta sẽ đòi hỏi con phải trao cho ta quyền tự quyết của con, hầu con trở thành như một người máy hay một con múa rối trên sợi dây mà ta điều khiển?

Con có nghĩ là ta ngồi trên đây giống như một nhà độc tài chỉ muốn chiếm đoạt quyền tự quyết của con và ra lệnh cho con phải làm gì mỗi bước trong đời sống hàng ngày? “Mua bộ quần áo này, làm việc này, ăn món này, không được ăn món kia, đi đây, đi đó.” Con có nghĩ là một sinh thể vũ trụ muốn quản lý từng chi tiết nhỏ nhặt trong đời con và chiếm đoạt quyền tự quyết của con? Con có nghĩ là việc chiếm đoạt quyền tự quyết sẽ giúp con tăng triển trên đường tâm linh? Làm thế nào việc chiếm đoạt quyền tự quyết của con có thể giúp con đi bước cốt yếu để thăng thiên, để con trở thành một bậc thày hay một chân sư – đó là con nắm lấy trách nhiệm toàn diện và cuối cùng về trạng thái tâm của mình và cách con sử dụng quyền tự quyết của mình?

Làm thế nào việc bắt ép con có thể giúp con nhận lấy trách nhiệm cho bản thân con? Con không thể bị ép buộc phải nhận lấy trách nhiệm cho chính mình – vì nếu đúng như vậy thì ác quỷ cũng đã ép buộc được mọi người thăng thiên từ lâu rồi. Bởi vì đó chính là muc đích của y – chứng minh rằng quả thực con có thể thăng thiên bằng vũ lực. Nhưng chuyện đó không thể làm được, vì nếu được thì chính ác quỷ cũng đã thăng thiên, nhưng hẳn là y chưa thăng thiên và sẽ không bao giờ thăng thiên, bởi vì không ai có thể thăng thiên bằng vũ lực, không ai có thể bị buộc phải thăng thiên.

Con chỉ có thể thăng thiên bằng cách sẵn lòng nhận trách nhiệm về bản thân mình, nhìn nhận rằng nhận thức của mình bị ô nhiễm bởi hộp tư duy, bởi tấn tuồng cá nhân, bởi những tấn tuồng cuồng đại mà dần dà con đã chấp nhận. Những tấn tuồng cuồng đại đó là do ác quỷ tạo ra để giữ chặt con trong cái bẫy của tâm thức thấp kém, hầu con không bao giờ có thể nắm bắt thực tại mình là nhiều hơn cái ngã tách biệt cứ đinh ninh là nó phải giao chiến trong vở tuồng cuồng đại.

Con là NHIỀU HƠN tất cả mọi ý niệm bản ngã được tạo ra trong thế gian này vì con là nhận biết thuần khiết. Nếu con là một bản ngã còn dính lại bất kỳ đặc tính thế gian nào, con sẽ không thể, CON sẽ không bao giờ có thể thăng vượt thế gian này. Nhưng con CÓ KHẢ NĂNG thăng vượt thế gian như tất cả những vị đã từng thăng thiên trước con đã chứng minh. Nhưng cái gì thăng thiên chứ? Không phải ngã phàm phu đâu. Không một người nào sẽ thăng trở về thiên đường trừ phi đó là người đã đi xuống từ thiên đường. Và “người” đã đi xuống từ thiên đường chính là cái ta ý thức, là nhận biết thuần khiết.

Thế nhưng khi con thăng trở về thiên đường bằng cách nhận biết cái ta của mình là sự nhận biết thuần khiết, thì con cũng nhận biết các trải nghiệm của mình trong thế giới hình tướng. Và như vậy, con là nhiều hơn khi con thăng lên so với khi con đi xuống, tuy con không khác cái đã đi xuống – con chỉ là nhiều hơn thế. Con mang nhiều hơn cái phẩm cách cơ bản mà con đã được phú cho, tức là cá thể được neo trụ nơi Hiên diện TA LÀ của con.

Thế nào là chỉ đạo thiêng liêng?

Cho nên ta là một sinh thể vũ trụ, TA LÀ một với ngọn lửa chỉ đạo thiêng liêng, nhưng chỉ đạo thiêng liêng là gì chứ? Đó không phải là một lời chỉ dẫn cụ thể phải làm thế này hay làm thế kia, phải tin thế này hay tin thế kia. Chỉ đạo Thiêng liêng là một dòng tâm thức hằng sống. Con đã nghe nói ta từng là đạo sư riêng của Saint Germain nhưng ta không là đạo sư đầu tiên của Saint Germain. Thày từng có nhiều đạo sư khác trước khi thày vươn lên một mức tâm thức sẵn lòng nhận ra những hạn chế nhận thức của thày. Và đó là lúc thày đã có thể tận dụng sự chỉ đạo thiêng liêng mà ta ban cho thày. Hẳn con đã nghe nói là Saint Germain đã thăng thiên bằng cách lấy một triệu quyết định đúng đắn. Ấy nhưng đó không phải là những quyết định kiểu như khi ta bảo thày “Làm việc này đi” và thày cứ nhắm mắt tuân theo. Đó là những quyết định nơi thày phải trực diện với một chọn lựa khi tâm vỏ ngoài không làm sao biết được cái gì đúng, cái gì sai.

Và như vậy, Saint Germain đã hòa điệu vào bên trong – bên trong cái ta là của thày – hòa điệu với Hiện diện mà ta là, với dòng tâm thức mà ta là. Và như vậy, thày đã đọc được rung động mà ta là, và qua việc đọc rung động đó, thày đã có thể nhận ra cái có vẻ là hai chọn lựa khác nhau đối với tâm vỏ ngoài, thực ra chẳng cái nào là chọn lựa đúng đắn. Cả hai chỉ biểu trưng cho đối cực này hay đối cực kia trên nấc thang nhị nguyên của tâm thức. Và như vậy, bằng cách trụ vững trong chỉ đạo thiêng liêng, thày đã có thể nhìn thấy một chọn lựa thứ ba mà trước đó thày không thể. Và thày biết đó là chọn lựa đúng đắn trong hoàn cảnh đặc thù đó.

Con có thấy chăng chìa khóa cốt yếu ở đây? Khi con đối mặt với một tình huống trong thế giới này nơi con nghĩ: “Tôi phải chọn giữa hai đối cực, hai cực đoan, hai hướng hành động”, thì nếu nhận thức của con ô nhiễm, con sẽ nhìn tình huống đó qua nhận thức của con. Nhận thức đó sẽ tối thượng đối với trạng thái tâm của con, con sẽ nghĩ nhận thức của mình là chính xác, cho nên con sẽ chọn lựa dựa trên nhận thức đó, và con sẽ chọn một trong hai cực đoan nhị nguyên. Vì nhận thức của con ô nhiễm, con sẽ không thể thấy bất cứ gì vượt khỏi hai đối cực nhị nguyên đó. Vì vậy mà bất kỳ chọn lựa nào con lấy cũng sẽ không là chọn lựa cao nhất có thể có.

Con vẫn có thể học hỏi từ đó, nhưng con hoc hỏi qua Trường đời Cay đắng chứ không qua Trường Chỉ đạo Thiêng liêng. Bởi vì con đã không bước vào, không đặt chân vào Trường Chỉ đạo Thiêng liêng khi con không sẵn lòng nhìn xa hơn nhận thức của mình và hòa điệu với Hiện diện của ta. Con không hòa điệu với Hiện diện của ta khi con nói: “Thưa Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, con phải làm thế này hay thế khác?” bởi vì ta là một sinh thể vũ trụ không ở trong trạng thái nhị nguyên.

Cho nên con không đến với ta và xin ta chỉ dẫn con chọn lựa cụ thể như thế nào. Thay vào đó, con hãy đến với ta và hỏi ta: “Đại Chỉ đạo Thiêng liêng yêu dấu, hãy cho con thấy Hiện diện chân thực của thày. Con sẽ nhận ra dòng chảy tâm thức của thày, con sẽ nhập một với dòng chỉ đạo thiêng liêng đó, con sẽ đi theo dòng chỉ đạo thiêng liêng đó lên tới cấu trúc kết tinh hình tháp mà thày là, cho đến khi con ngồi trên khối vuông màu trắng ở giữa Alpha và Omega, và như vậy con sẽ có được một tầm nhìn vũ trụ về hoàn cảnh của con trên địa cầu – hầu sau đó con thấy được những gì con hiện không thấy, hầu con nắm bắt được chọn lựa đích thực, chọn lựa Ki-tô trong hoàn cảnh đó. Chọn lựa Ki-tô vượt khỏi các đối cực nhị nguyên – mà con nhận chân là do nhận thức của con tạo ra, cái nhận thức khởi lên từ các tấn tuồng của con, thậm chí còn bị tô màu bởi các tấn tuồng của tâm thức sa ngã, là tâm thức phản Ki-tô khiến con cho rằng con chỉ có hai chọn lựa do nhị nguyên quy định. Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, hãy vén bức màn lên để con nhìn xa hơn nhị nguyên và thực sự thấy được sự minh bạch của chỉ đạo thiêng liêng.”

Thày giả và đệ tử giả

Con yêu dấu, đó là lúc ta có thể giúp con. Đó là lúc ta có thể là đạo sư của con – khi con sẵn lòng nhìn thấy sự lừa dối, thiên vị, nhị nguyên của chính nhận thức của mình, cái mà con đã từng tin chắc là nó chính xác. Con sẵn lòng đón nhận cơn sốc sững sờ khi con chợt nhìn ra nhận thức của mình hạn chế như thế nào, thiên vị như thế nào, sai lạc như thế nào, và xa rời như thế nào so với nhãn quan của chân sư thăng thiên cùng thực tại của Ki-tô. Đây có thể là một cú sốc dữ dội. Và khi con khởi sự tiến trình vén màn, con sẽ kinh qua nhiều cú sốc như vậy.

Khi con sẵn lòng chịu đựng cú sốc nhìn thấy nhận thức của mình bị chất vấn, bị phơi bày là sai lạc, thì đấy chính là dấu ấn của một đệ tử đích thực của chân sư thăng thiên. Ngược lại, những ai chỉ tìm kiếm sự xác nhận rằng nhận thức của mình là xác đáng – những ai chỉ muốn nghe lời xác nhận cái mình muốn thấy, và cái mình muốn thấy là chân lý tuyệt đối, thậm chí còn là chỉ đạo thiêng liêng – thì những người đó không phải là đệ tử, đệ tử của chân sư thăng thiên. Họ là đệ tử của hàng ngũ thày giả, những kẻ phô trương mình là chân sư thăng thiên và hứa hẹn với con là họ sẽ đưa con lên thiên đàng mà con không cần phải lấy cái xà ra khỏi mắt con, cái xà của nhận thức ô nhiễm khiến con nhìn thực tại theo một kiểu nào đó, rồi nghĩ rằng đó chính là thực tại chứ không phải là cái tâm ảnh mà con đã đặt trước Thượng đế chân thực.

Có hằng hà vô số những kẻ mạo danh trong hàng ngũ giả trá đó. Thậm chí còn có những kẻ, một vài người trong số họ, tự nhận mình là Đại Chỉ đạo Thiêng liêng. Nhưng nếu con nhìn họ với cái nhìn nội tâm, nếu con đọc lời họ nói, nếu con chịu đọc rung động của họ, thì con sẽ thấy là họ không rõ ràng. Họ mơ hồ, tối tăm, có cái gì đó che giấu, cái gì đó mà con không thể nhìn ra. Và họ sẽ phóng chiếu lên con rằng con không thể thấy cái đó là vì tâm thức con không tinh khiết, và đó là tại sao con phải nhắm mắt tuân theo sự chỉ dẫn của họ. Nhưng ta nói với con: đó là một lời dối trá!

Cái ta ý thức của con có khả năng – ngay tức thì bây giờ – hòa điệu với Hiện diện của các chân sư thăng thiên chân chính, nếu con sẵn lòng nhìn nhận là nhận thức của mình, nhận thức của tâm vỏ ngoài, chỉ là đúng vậy mà thôi: nhận thức! Và nếu con chịu với xa hơn, cái ta ý thức của con có khả năng trải nghiệm được nhận biết thuần khiết, trải nghiệm nhận biết thuần khiết của chân sư thăng thiên.

Ta không là một sinh thể mờ ám. Không có che đậy. Ta không hề có mong muốn che giấu bất cứ gì khỏi con. Khi con hòa điệu với Hiện diện của ta, con có thể thấy trọn vẹn sinh thể mà ta là, con có thể thấy từng khía cạnh của cấu trúc kết tinh của ta. Không có gì che khuất khỏi con. Và nếu con sẵn lòng xuôi theo dòng chảy tâm thức của ta, con có thể đi tận tới Mặt trời Trung tâm – và xa hơn nữa, tới chính Đấng Sáng tạo. Không có gì ẩn giấu khỏi con trong chỉ đạo thiêng liêng, và nếu con nghĩ là có thì con không đang giáp mặt với chỉ đạo thiêng liêng.

Nếu có điều gì mờ ám, che đậy, một điều gì giận dữ hay sợ hãi, thì đó không phải là chỉ đạo thiêng liêng. Làm sao mà có được giận dữ trong chỉ đạo thiêng liêng? Liệu con nghĩ rung động của ta ngay bây giờ có là rung động giận dữ, hay con nghĩ đó là rung động của thực tế, và đơn giản ta chỉ đang chém xuyên qua sự dày đặc của tâm thức con, và như vậy ta cho con cơ hội hòa điệu với Hiện diện của ta nếu con chịu?

Hiển nhiên, con có thể ngồi đó với nhận thức ô nhiễm của mình, và con có thể phóng chiếu một hình ảnh lên ta, lên lời ta nói, lên rung động của ta. Con có thể thấy đó là giận dữ, con có thể thấy đó là một mưu toan khơi lòng sợ hãi trong con, nhưng đây chỉ là thực tại. Thực tại cho con một sự đồng cảm, để con đồng lượng định cái gì là thực, cái gì là rung động thực của chân sư, cái gì là rung động thực của một sinh thể vũ trụ. Vì ta là Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, TA LÀ một sinh thể vũ trụ, TA LÀ THUẦN KHIẾT, TA LÀ THỰC.

Chính con, cái ta ý thức của con, cũng thực. Và con có thể biết là ta thực – nếu con sẵn lòng nhìn vượt qua nhận thức ô nhiễm, không thực. Liệu con có sẵn sàng biết ta như ta là, hay con sẽ hài lòng với một kẻ giả mạo nói cho con nghe những điều con muốn nghe và quả quyết với con rằng: “Ồ nhất định rồi, nhất định nhận thức của bạn là thực, cách nhìn của bạn là thực”? Nếu đó là điều con muốn, ta sẽ cúi đầu tôn trọng hoàn toàn quyền tự quyết của con. Ta sẽ vui lòng để cho con phóng chiếu bất cứ hình ảnh nào con muốn lên bài giảng này.

Hãy cho ta một tuần cửu nhật

Nhưng từ điểm này trở đi, ta sẽ chỉ nói với những ai sẵn lòng bước xa hơn nhận thức của mình, sẵn lòng tìm biết Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Vì ta đến đây với một đề nghị. Nếu con sẵn lòng tìm biết Sứ vụ Thiêng liêng của con, con hãy dành ra một tuần cầu nguyện cửu nhật (novena) cho ta. Con hãy dùng bài chú của ta, đọc chú 14 lần nỗi ngày, nghe bài truyền đọc này nếu con muốn – hay chỉ nghe một vài đoạn nếu con có thì giờ – để con hòa điệu với rung động của ta đang thực sự tuôn chảy như một cấu trúc kết tinh xuyên qua những lời đó. Con hãy hòa điệu với hiện diện của ta. Đọc bài chú, xong ngồi đó với một quyển sổ và một tờ giấy trắng tinh, rồi ghi xuống bất cứ gì khởi lên trong con, bất cứ gì khởi lên mà không phân tích, không xét đoán, không lượng định. Ghi xuống và để yên cho nó chảy.

Nếu con làm vậy trong vòng 33 ngày, con sẽ có được một tầm nhìn khác hơn về bản thân, về đời con, về đường tâm linh và về Sứ vụ Thiêng liêng của con. Những gì được tỏ lộ sẽ tương ứng với sự sẵn lòng của con nhìn xa hơn nhận thức hiện thời của con, sẵn lòng nhận diện các hạn chế trong nhận thức, nhận diện cái cơ chế mà con sẽ cần hầu vượt khỏi trạng thái tâm hiện thời, vượt khỏi nhận thức khởi lên từ một trạng thái tâm cao hơn tức là cái nhìn về cuộc sống từ tầng mức ether, tầng mức bản sắc của con. Hãy sẵn lòng nhìn ra cách tiếp cận cuộc sống sâu xa hơn mà con đang có, xong hãy sẵn lòng nhìn vượt qua đó, nhìn thấy các giới hạn của nó, nhìn thấy rằng có một cách khác để nhìn cuộc sống – một cách Ki-tô để nhìn cuộc sống. Một cách cao vượt hơn hẳn cách của con người, đến độ tâm vỏ ngoài không làm sao hiểu thấu được. Nhưng cái ta ý thức thì có khả năng trải nghiệm cái đó, hợp nhất với cái đó, nhìn xuyên qua cái đó. Và như vậy, con sẽ có thể biểu đạt nó qua tâm vỏ ngoài cùng cơ thể vật lý của con. Con có thể sống nó, con có thể đồng sáng tạo thực tại cao hơn, nhưng trước tiên con phải hòa điệu với nó và trải nghiệm nó, và biết được đó là chính bản thể chân thực của con.

Và như vậy, bài giảng của ta đã xong, chén của con đã ngập, tràn cả ra ngoài. Một số các con, nếu con trung thực, sẽ nhận thấy luân xa của mình đã tràn đấy từ một lúc rồi, đến độ con không thể nào nhận thêm ánh sáng nữa, và vì vậy con đã trải qua nhiều loại cảm giác khó chịu và con chỉ muốn bài này chấm dứt. Thậm chí có cả những người không thể nghe nổi toàn bộ bài giảng này vì ánh sáng sẽ khuấy động chất liệu riêng của họ, khuấy động lên sự miễn cưỡng của họ khi phải nhìn xa hơn nhận thức, và do đó giản dị là họ phải ngừng lại vì không thể chịu nổi thêm nữa.

Trường đời Cay đắng không là một nơi dễ chịu chút nào. Chúng tôi cống hiến cho con một giải pháp khác hơn. Nếu con chấp nhận lời đề nghị của ta, ta sẽ cho con một ý niệm chỉ đạo thiêng liêng. Nhưng con phải nhìn vượt ra khỏi mong muốn thấy hệ thống tin tưởng của mình, thế giới quan của mình, thậm chí cả nhận thực hiện tại của mình, được xác nhận. Và ta cũng phải cảnh báo con, nếu con muốn nhận được chỉ đạo thiêng liêng đích thực, con sẽ phải thăng vượt mọi ham muốn, mọi nhu cầu sử dụng bất kỳ hình thức bói toán nào, bất kỳ phương sách máy móc nào mà con nghĩ sẽ đem lại cho mình câu trả lời, đặc biệt là những phương sách hay kỹ thuật đem lại cho con câu trả lời “có” hay “không”, bởi vì “có” và “không” cần được nhận rõ là thuộc về cõi nhị nguyên.

Nhưng bất kỳ phương sách hay kỹ thuật nào mà qua đó con đặt câu hỏi và tìm cầu trả lời cũng cần được nhận diện là bị giới hạn bởi chính câu hỏi của con. Và câu hỏi của con thì là sàn phẩm của trạng thái tâm cùng nhận thức hiện thời của con. Cho nên làm thế nào con có thể đặt những câu hỏi vượt ra ngoài trạng thái tâm cùng nhận thức? Thực tế đơn giản là con không thể, và do đó những câu trả lời con nhận được qua các loại kỹ thuật đó không thể đưa con vượt khỏi trạng thái tâm cùng nhận thức của con. Và như vậy sẽ có rủi ro rất lớn là chúng sẽ chỉ khiến cho trạng thái tâm cùng nhận thức của con đông đặc lại, cho đến khi con tưởng đó là dạng nhận thức duy nhất, đó là nhận thức cao nhất, là chân lý duy nhất. Và chính khi đó là lúc con bị kẹt vào thế tiến thoái lưỡng nan khi con không thể hòa điệu với bất cứ gì vượt khỏi hộp tư duy của con, và cái hộp này giờ đây giống như cái hầm giữ tiền kín mít của ngân hàng mà không gì từ cõi tâm linh có thể xuyên thủng qua.

Ta, Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, không thể làm việc lâu lắm với một cái tâm không sẵn lòng chất vấn nhận thức của nó mà lại muốn những câu trả lời máy móc từ cõi nhị nguyên. Làm sao một cái tâm như vậy thấu suốt được cấu trúc kết tinh mà ta là, dòng tâm thức mà TA LÀ, tiếng nói vô thinh do cấu trúc kết tinh tạo ra và gửi đến toàn bộ vũ trụ như một dòng tâm thức tuôn chảy?

À, cái này còn vượt cả âm nhạc của những quả cầu. Đối với những ai sẵn lòng hòa điệu, đó là một âm thanh thật tế nhị, thật đẹp đẽ, thật truyền cảm đến độ nó sẽ nâng con bay vút lên đôi cánh của muôn thiên thần, nếu có thể nói như vậy. Và con sẽ bay bổng lên theo tiếng nói vô thinh đó, ngày càng hòa nhập vào những biểu hiện cao hơn nữa, rồì cứ thế nâng lên mãi cho tới cấu trúc kết tinh. Trong chốc lát, con có thể nghĩ là khi lên tới đỉnh sẽ có một hình dạng nào rõ ràng hơn, một sinh thể nào rõ nét hơn, là Đại Chỉ đạo Thiêng liêng hay chăng? Nhưng khi con đến được đỉểm cao nhất là đỉnh chóp của kim tự tháp, con không còn nhìn lên nữa. Con quay lại và con nhìn xuống thấy toàn bộ cấu trúc, và con ngộ ra toàn bộ cấu trúc đó chính là Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, mỗi tầng của nó, mỗi thành phần của nó, bởi vì nó là một tổng thể, một tổng thể không làm sao phân ra được – và đó là sự chỉ đạo thiêng liêng. Con có thể là một phần của chỉ đạo thiêng liêng đó, nhưng chỉ khi con biết được sự nhận biết thuần khiết, khi con tự biết chính mình như điểm gặp gỡ giữa Đấng Sáng tạo và tạo vật của ngài.

Chỉ đạo thiêng liêng là một ngọn lửa đẹp vô ngần, đến độ ta đã thương yêu nó từ những thuở xa xôi không thể nào đếm hết. Thuở đó ta cũng từng là một sinh thể cá biệt, ta cũng từng có một khả năng tự nhận biết cục bộ. Ta đã không đầu thai trên địa cầu hoặc ngay cả trong vũ trụ vật chất hay bầu cõi của con, mà trong một bầu cõi cao hơn. Nhưng ta đã phải nâng cao tâm thức của mình cho đến khi ta nghe được âm thanh tuyệt diệu đó, chẳng khác gì ngọn đèn hải đăng gọi ta trở về nhà. Và khi ta thiền định về âm thanh đó, hòa nhập vào nó và bước theo nó, ta nhận chân đó là ngọn lửa của chỉ đạo thiêng liêng, là rung động của chỉ đạo thiêng liêng, là dòng chảy của chỉ đạo thiêng liêng. Và ta quyết định là ta muốn biết rõ từng khía cạnh, từng cách biểu đạt mà chỉ đạo thiêng liêng có thể có. Và như vậy, ta đã hợp nhất với nó cho tới khi ta thăng vượt giai đọan làm sinh thể cá biệt để đạt đến tầng tâm thức của một sinh thể vũ trụ, cầm giữ trách vụ, ngọn lửa, viễn quan chỉ đạo thiêng liêng cho nguyên cả một vũ trụ. Thế nhưng ta vẫn có khả năng thị hiện sự Hiện diện của mình ở bất cứ nơi nào trong cấu trúc kết tinh đó trải rộng khắp vũ trụ.

Hiển nhiên là có những khu vực dày đặc đến độ không một sinh thể nào ở đó có thể hòa điệu với chỉ đạo thiêng liêng. Tuy nhiên, chỉ đạo thiêng liêng đứng ngoài cả thời gian lẫn không gian, và vì vậy nó có mặt mọi nơi. Con là một cái ta ý thức. Nếu con nhìn xa hơn nhận thức của mình và trạng thái tâm mình, và nếu con hòa điệu vào nhận biết thuần khiết mà con là, thì nhận biết thuần khiết đó có thể hòa điệu với chỉ đạo thiêng liêng. Và con sẽ có thể biết được ta y như ta biết con. Bởi vì kẻ biết với kẻ được biết trở thành một trong định ngộ, tức là trong sự duy nhất giữa Đấng Sáng tạo và tạo vật của ngài, giữa hai khía cạnh nam và nữ của Thượng đế. Nơi đó, những ai ở trong cõi Mẹ, trong cõi của biểu đạt, được tỉnh ngộ để nhận biết mình là nối dài của Cha, và như vậy bên trong họ, cả Cha lẫn Mẹ là một. Ta niêm phong con, con yêu dấu, trong món quà của chỉ đạo thiêng liêng – nếu con chịu bước theo đó cho đến khi về nhà. Bởi vì ta ở nhà.

Bốn tầng của tâm

Một bài giảng của chân sư thăng thiên Giê-su

Ta muốn gửi các con một bài dạy căn bản về ý nghĩa thật của câu ta từng nói về “nhiều gian trong căn nhà Cha ta”. Câu này đã khiến nhiều người bối rối, và ta hoàn toàn thông cảm. Câu này là ví dụ điển hình về những giới hạn trong hiểu biết và từ vựng được sử dụng cách đây 2000 năm. Ta đã có ít cơ hội giảng giải cho người thời đó về một sự thật vô cùng thâm sâu mà mọi người tầm đạo tâm linh cần lãnh hội. Vậy bây giờ ta sẽ dùng hiểu bíết và từ vựng thời nay để làm điều đó.     

Trong thế giới ngày nay, hầu hết mọi người đều biết là có năng lượng. Hầu hết cũng biết năng lượng là một hình thức rung động. Hầu hết đã nghe nói tới thuyết tương đối của Albert Einstein, qua đó mọi thứ trong vũ trụ đều được tạo bằng năng lượng. Tiếc thay, hầu hết cũng chưa thật sự hấp thụ được những hệ quả to lớn của khám phá này. Và vì vậy, họ đã không có nỗ lực nào để thay đổi thế giới quan của mình hầu đáp ứng với thực tế nơi tất cả đều là năng lượng.  

Sự thật đơn giản là toàn bộ vũ trụ được tạo ra từ một chất căn bản duy nhất. Trong quá khứ, người ta gọi đó là ether. Ý niệm ether đã được đạo Phật cùng một số triết lý biết đến từ nhiều thế kỷ. Vào thời trung cổ tại Âu châu, các nhà giả kim (alchemist) cũng đã có biết đến – và có thể nói trong một số trường hợp, họ đã thực sự là những nhà khoa học thực nghiệm đầu tiên. Có cả những nhà vật lý chấp nhận khái niệm ether, cho tới khi một thí nghiệm đáng tiếc đã không tìm được tác động vật chất nào của ether – nhưng lý do họ không tìm được là vì ether không có đặc tính vật chất nào cả.

Từ đó, đa số nhà vật lý đã bỏ rơi khái niệm ether, một quyết định thật đáng tiếc cho khoa học. Vì quyết định này mà họ không thể hiểu được năng lượng một cách trọn vẹn, Họ thừa biết năng lượng là rung động, nhưng rung động chỉ hiện hữu nếu có một môi thể rung động. Như sóng biển không thể hiện hữu nếu không có biển. Cho nên sẽ không có sóng năng lượng, và cũng không có vũ trụ vật chất, trừ khi có một cái gì đó để rung động.      

Cái gì đó rung động chính là chất căn bản mà Thượng đế đã sử dụng để sinh tạo toàn thể thể giới hình tướng. Chất này được mô tả trong Thánh kinh qua câu “Và Đức Chúa Trời phán, hãy có ánh sáng.” Ánh sáng cũng có thể mô tả là diện nữ của Thượng đế Cha-Mẹ. Ánh sáng là Mẹ Thiêng liêng, thân thể của Mẹ Thiêng liêng, là Đấng sinh ra mọi hình tướng được chiếu hình lên Mẹ bởi ý muốn của Cha qua tâm của Con. Hình tướng được biểu hiện và nuôi dưỡng bởi quyền năng của Thánh linh, như Mẹ Mary yêu dấu có giảng dạy. Ánh sáng Mẹ còn có tên gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật.

Như con biết, ánh sáng mà con nhìn thấy là những sóng ánh sáng, rung động trong một dải tần số nhất định. Ánh sáng màu đỏ rung động ở tần số thấp hơn ánh sáng màu xanh hay màu tím. Và con cũng biết, có những tần số thấp hơn hay cao hơn ánh sáng nhìn thấy. Mắt con người không thấy được những tần số này cho dù chúng có thực không kém gì ánh sáng đỏ hay xanh.  

Đặc biệt cho bài này, chúng ta hãy dùng khái niệm căn bản: tất cả đều là rung động. Như vậy thì trong thế giới hình tướng, không hề có hàng rào bất khả xâm phạm nào. Mọi thứ đều là cùng một chất, chỉ khác chúng rung động ở những tần số, hay mức độ, khác nhau mà thôi. Tất cả đều được tạo bằng sóng năng lượng, và khác biệt duy nhất giữa Trời và Đất là độ rung của sóng năng lượng.

Câu “Nhà Cha ta có nhiều gian” thật sự có nghĩa như thế: nhà Cha ta là một tấm thảm năng lượng liên tục, một tấm thảm những rung động liên tục. Tấm thảm liên tục ấy có từng phân đoạn, và mỗi phân đoạn là một nhóm tần số. Mỗi phân đoạn là một gian trong căn Nhà của Thượng đế. Trong số đó, có một phân đoạn được con người gọi là vũ trụ vật chất. Ở ngoài cõi này là cái mà con người gọi là cõi tâm linh, hay Trời. Nhưng ngay trong cõi tâm linh cũng có nhiều phân đoạn nữa.

Bốn thể phàm của con

Qua bài này, ta muốn giúp các con hiểu rằng trong vũ trụ vật chất có mấy phân đoạn như thế. Nói chính xác, có cả thảy bốn phân đoạn, hay cõi, trong vũ trụ vật chất. Cõi mà mọi người đều quen thuộc là vũ trụ làm bằng vật chất. Đây là thế giới mà con có thể nhận biết qua giác quan vật lý của mình. Nó được tạo bằng những rung động trong một dải tần số mà giác quan vật lý có khả năng phát hiện. Lý do phát hiện được là vì cơ thể con được tạo bằng những năng lượng tương tự trong cùng dải tần số. Nói cách khác, cái gì làm bằng vật chất thì phát hiện được rung động của vật chất và chỉ những rung động đó thôi. Điều này giải thích tại sao các nhà vật lý kia đã không thể tìm thấy ether qua dụng cụ vật chất.

Bên trên cõi vật chất có ba phân đoạn nữa vẫn thuộc về cái gọi chung là vũ trụ vật chất. Khi từ cõi vật chất con đi lên phân đoạn trên, con bước vào một cõi có thể gọi là cõi cảm xúc. Ở trên nữa là cõi tư tưởng, và trên nữa là cõi bản sắc.  

Trong nhiều tôn giáo cùng triết lý lâu đời, như Phật giáo, Hy lạp cổ hay giáo lý huyền bí của các nhà giả kim, bốn cõi này được mô tả là bốn góc của Địa cầu, với tên gọi là đất, nước, không khí, lửa. Khái niệm này liên hệ với ý tưởng cổ xưa về hình vuông xuất phát từ hình tròn. Hình tròn biểu tượng cho Trời, vô tận và không có phân chia – nếu chúng ta dùng ý niệm không gian và thời gian. Nó tương ứng với ether.

Còn hình vuông biểu tượng cho Địa cầu, đúng hơn, cho vũ trụ vật chất. Vũ trụ vật chất là cõi của thời gian và không gian, được tạo ra bằng cách lấy cõi vô tận của hình tròn mà chia thành bốn hướng, bốn chiều kích, tức là bốn tọa độ của không gian và thời gian.  

Để con dễ hình dung, ta sẽ nói đến mối tương quan với tâm con người. Ta đã giảng trong trang mạng này là tất cả mọi thứ đều được nuôi giữ duy bằng một dòng năng lượng của Thượng đế tuôn chảy từ cõi tâm linh xuống vũ trụ vật chất. Trong mỗi con người, năng lượng tuôn xuống từ cái ta tâm linh xuyên qua những lớp tiềm thức cho tới khi nó chạm tâm ý thức. Năng lượng chảy xuống từ cõi tâm linh và đầu tiên nó vào cõi lửa. Một số giáo lý huyền bí gọi cõi này là bát cung ether, hay thể nhớ. Ta muốn gọi đó là cõi bản sắc. Đây là phần của tâm con cất giữ ký ức mọi trải nghiệm trong thế giới vật chất. Nó cũng cất giữ ý niệm bản sắc mà con đã xây dựng qua nhiều kiếp sống suốt hành trình của dòng sống con trong thế gian này. Khi năng lượng sự sống lần đầu tiên nhập vào tâm con, tức bản thân con, nó chảy qua bản sắc của con, và do đó nó bị bản sắc tô màu. Bản sắc con cũng bao gồm cách con nhìn thế giới, nhìn Thượng đế, quan hệ của con với thế giới và quan hệ của con với Thượng đế. Cho nên nó là cái nền tảng cho con phản ứng với cuộc đời trong cõi này.

Sau khi chảy qua bản sắc thể của con, nó nhập cõi không khí. Một số giáo lý gọi là cõi trí. Ta muốn gọi đó là cõi tư tưởng. Ở cõi này, năng lượng bị các tư tưởng của con về chính con và về thế giới tô màu. Tư tưởng con phần lớn được định đoạt bởi bản sắc con, nhưng vì chúng nằm ở một tầng thấp hơn trong tâm con, chúng mềm lỏng hơn, dễ thay đổi hơn những hình ảnh vùi sâu nơi bản sắc. Nói cách khác, tư tưởng có thể thích ứng hay bị ảnh hưởng bởi những tình huống cụ thể mà con gặp trong đời. Có thể nói, bản sắc định đoạt cách con nhìn đời rộng lớn, còn tư tưởng là cách con hiểu từng chi tiết trong tấm ảnh lớn đó. Bản sắc quyết định cách con nhìn thế giới, còn tư tưởng quyết định cách con nghĩ tưởng thế giới vận hành làm sao.

Sau khi năng lượng chảy qua thể tư tưởng, nó nhập vào cõi cảm xúc. Đây là cảm thể, chứa đựng cảm xúc của con về chính con và về thế giới. Cảm xúc chỉ đơn giản là năng lượng trong chuyển động, và chúng là tiền thân của hành động thể xác. Cho nên cảm xúc định đoạt cách con biến tư tưởng thành hành động. Có thể nói, một mình tư tưởng không có khả năng dẫn tới hành động. Tư tưởng chỉ đơn thuần là ý nghĩ, và để chuyển ý nghĩ thành hành động vật lý, tư tưởng cần đến hai đặc tính của cảm xúc, là phương hướng và cường độ. Cảm xúc con sẽ hướng tư tưởng con vào một hành động cụ thể, và cường độ cảm xúc sẽ định đoạt sức mạnh của hành động.  

Bước chót là khi năng lượng nhập vào bộ não cùng hệ thần kinh của cơ thể vật lý. Ở tầng này, cảm xúc của con được chuyển thành hành động, và hành động được định đoạt bởi phương hướng và cường độ của cảm xúc đứng đằng sau. Tất nhiên, phương hướng và cường độ của cảm xúc bị định đoạt bởi tư tưởng, và tư tưởng thì bị định đoạt bởi ý niệm bản sắc cùng thế giới quan của con.

Vậy con đã thấy, dòng chảy tự nhiên của năng lượng là tuôn xuống từ cái ta tâm linh qua thể bản sắc nơi nó bị thế giới quan của con tô màu. Năng lượng chảy tiếp vào thể tư tưởng nơi nó bị tư tưởng tô màu. Năng lượng lại chảy nữa vào thể cảm xúc nơi nó khoác lấy phương hướng cùng cường độ do cảm xúc định đoạt. Và cuối cùng, năng lượng chuyển thành hành động vật lý mà bộ não, hệ thần kinh cùng cơ thể đem ra thi hành.  

Người ta có thể ví nguyên tiến trình này như máy chiếu phim. Ánh sáng tuôn ra từ cái ta tâm linh giống như ánh sáng trắng tinh của bóng đèn trong máy chiếu. Các thể bản sắc, tư tưởng và cảm xúc giống như ba cuộn phim, và ánh sáng bị hình ảnh trên ba cuộn phim liên tiếp tô màu. Sau khi đi qua cả ba cuộn, ánh sáng được chiếu lên màn ảnh. Màn ảnh này chính là cái phần của tâm con ngụ trong vũ trụ vật chất. Đây là tâm ý thức của con và một số thành phần của tìềm thức con. Nó neo cứng vào trong não và hệ thần kinh của con.

Bốn tầng của vũ trụ vật chất

Hiểu được năng lượng vận chảy như thế qua tâm con, con cần đem hiểu biết này vào toàn thể vũ trụ vật chất. Vũ trụ vật chất cũng có bốn bát cung, hay tầng mức, khác nhau – bốn thể khác nhau.  Chúng tương đương với bốn tầng của tâm con, bởi vì thật sự vũ trụ chỉ đơn giản là một gian trong căn nhà, trong tâm của Thượng để. Như tâm con, vũ trụ vật chất được tạo bằng năng lượng cơ bản của Thượng đế tuôn chảy qua các cõi bản sắc, tư tưởng và cảm xúc trước khi nó thị hiện trong cõi vật chất.

Khi con hiểu rằng dòng năng lượng cơ bản này chảy xuyên qua bốn tầng của vũ trụ vật chất, thì con sẽ hiểu tầng thấp nhất, tầng của vật chất, là kết quả của những nguyên nhân tiềm ẩn hiện diện nơi ba tầng cao, là các thể cảm xúc, tư tưởng và bản sắc. Có thể nói vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là sự phóng chiếu của hình ảnh nằm sẵn nơi ba tầng cao. Thực sự, vũ trụ vật chất không là gì hơn những hình ảnh được chiếu lên màn ảnh của một rạp chiếu bóng.

Khi con suy ngẫm điều này, con sẽ hiểu ngay rằng con có thể – và con bắt buộc phải – thay đổi vũ trụ vật chất bằng cách thay đổi ba tầng cao của nó. Đối với cá nhân con, nếu con muốn thay đổi hoàn cảnh đời mình, con phải bắt đầu bằng cách thay đổi cảm xúc, tư tưởng và bản sắc của con. Chỉ khi nào con thay đổi những hình ảnh nằm trong ba thể cao thì con mới có thể thay đổi hình ảnh hiện ra trong thế giới vật chất. Cũng vậy, trên bình diện hành tinh, chìa khóa để loại bỏ khổ đau loài người là thanh lọc thể cảm xúc, tư tưởng cùng bản sắc của toàn thể hành tinh, bởi vì hành tinh vật chất chỉ là hình chiếu của những hình ảnh lưu trữ nơi những cõi cao.

Địa cầu đã được tạo ra bởi bảy đấng tâm linh gọi là Elohim. Các Elohim luôn duy trì hình ảnh một địa cầu toàn hảo, và hình ảnh này vẫn còn đó. Tuy nhiên, hình ảnh toàn hảo đó đã bị tạm thời che phủ bởi một hình ảnh bất toàn được phóng chiếu qua các thể bản sắc, tư tưởng lẫn cảm xúc của nhân loại. Đây là cái mà tâm lý học gọi là vô thức tập thể.

Nguyên nhân thực sự của khổ đau

Bây giờ ta muốn chỉ cho con thấy tại sao địa cầu có quá nhiều biểu hiện bất toàn và tại sao con người phải chịu quá nhiều đau khổ đến thế. Lý do là ba thể cao của loài người đã bị ô nhiễm bởi một bản sắc bất toàn, những tư tưởng bất toàn và những cảm xúc không trong sạch.   

Như mẹ yêu dấu của ta giải thích trong bài kế tiếp, mọi điều nơi cõi Trời đều được định ra theo quy luật Thượng đế. Cho nên nếu một sinh thể tâm linh đi ngược lại quy luật Thượng đế thì y sẽ không thể ở lại cõi Trời. Mẹ ta cũng giảng dạy rằng trong vũ trụ vật chất, người ta có khả năng đi ngược lại quy luật Thượng đế. Lý do là vì vũ trụ vật chất được thiết lập như một lớp học cho các dòng sống đang học tập để vươn lên trở thành giống như Thượng đế. Thượng đế đã phú cho các dòng sống này quyền tự quyết và cái khung sườn để họ thử nghiệm năng lượng của ngài.

Vì vậy, các định luật của vũ trụ vật chất cho phép con người đi ngược lại quy luật Thượng đế mà không phải rời cõi này. Nói cách khác, họ có thể dùng quyền tự quyết của họ để chú tâm vào những hình ảnh không phù hợp với các nguyên tắc mà Thượng đế đã sử dụng để thiết lập thế giới hình tướng. Con người có quyền tạo dựng bản sắc riêng, xem mình là một thể sống tách biệt với Thượng đế, là sinh thể vật chất thay vì tâm linh. Họ có quyền tạo ra những hình tư tưởng lệch lạc so với sự thật và thực tại Thượng đế. Họ có quyền nếm trải những cảm xúc là sự tha hóa của cảm thức chân thật của Thượng đế. Và khi họ lao vào những bất toàn như vậy, họ có khả năng biến đổi vũ trụ vật chất và tạo dựng một thế giới biểu hiện bất toàn.

Tuy nhiên khi Thượng đế ban cho con người quyền tự quyết, ngài cũng đặt ra một khuôn khổ có chức năng một chiếc van an toàn, hầu không một ai có thể phá hủy được vũ trụ vật chất. Nói cách khác, tuy con người có toàn quyền làm bất cứ gì mình muốn với năng lượng Thượng đế, họ sẽ bắt buộc phải trải nghiệm chính những hoàn cảnh sống mà họ đã tạo ra với năng lượng đó. Nếu họ tham gia vào tư tưởng hay cảm xúc bất toàn, họ sẽ sinh sản những điều kiện cũng bất toàn như thế trong thế giới vật chất, và khả năng sáng tạo của họ sẽ bị giới hạn bởi những gì họ tạo ra. Làm gì thì chịu nấy.  

Có thể nói, Thượng đế đã thiết kế vũ trụ vật chất như một tấm gương. Nó giống như một màn ảnh chiếu phim, phản ánh những gì được chiếu lên nó xuyên qua tâm con người. Cho nên bất cứ hình ảnh nào con giữ nơi những tầng cao của tâm con, nó sẽ định đoạt các điều kiện đời sống mà con trải nghiệm trong thế giới vật chất. Nếu con có một hình ảnh bất toàn, con sẽ tạo ra một biểu hiện bất toàn mà tự nó nhất định sẽ hủy hoại. Tựa như con xây cất một Tháp Babel vậy, nó nhất định phải sụp đổ do chính sức nặng của nó.

Ở khởi thủy của địa cầu, các sinh thể tự nhận biết mang tâm thức cao hơn con người bây giờ. Trong tâm thức đó, các dòng sống này tiếp xúc một cách ý thức với cái ta tâm linh cùng những vị thày tâm linh của mình. Con người sử dụng quyền tự quyết của mình để thử nghiệm với năng lượng của Thượng đế, và khi làm vậy, họ thường lầm lỗi, tạo ra những biểu hiện bất toàn. Tuy nhiên vì họ biết rõ quy luật sáng thế, họ có khả năng nhận ra bất toàn, thừa nhận sai lầm, và lập tức thay thế kết quả bất hảo bằng kết quả tốt đẹp hơn.  

Nhưng sau khi Con Người Sa ngã, loài người đánh mất liên lạc với cái ta tâm linh cùng các vị thày tâm linh của mình, và vì vậy họ cũng không còn biết gì về quy luật sáng thế nữa. Họ quên mất quy luật rằng bất cứ gì mình tạo ra trong cõi vật chất chỉ đơn giản là sự phóng chiếu những hình ảnh được cầm giữ nơi ba thể cao hơn. Và như thế, họ cũng mất luôn hiểu biết rằng họ có khả năng thay đổi điều kiện vũ trụ vật chất bằng cách thay đổi nội dung các thể cao.   

Thế là con người bắt đầu tin rằng các điều kiện trong thế giới vật chất là vĩnh viễn, vượt ngoài tầm kiểm soát ý thức của mình. Họ bắt đầu xem mình là nạn nhân của những tình huống mà họ không hề gây ra. Họ bắt đầu coi mình là nô lệ của những thế lực ngoài vòng kiểm soát. Nếu nhìn dưới một khía cạnh nào đó thì quả thật là họ không sai. Đúng vậy, vì khi không chịu thay đổi cảm xúc, tư tưởng cùng bản sắc của mình, thì tất nhiên họ không thể thay đổi thế giới vật chất, và họ trở thành nạn nhân của điều kiện đời sống. Kẹt một nỗi là một khi mình đã tạo ra các điều kiện đó thì bây giờ mình phải tháo gỡ nó đi.

Chính vì đã quên, đã từ chối trách nhiệm về hoàn cảnh của mình như vậy mà họ đã tạo cơ hội cho một số sinh thể từ các bầu cõi cao hơn – những sinh thể đã đối nghịch lại quy luật Thượng đế – đầu thai trên địa cầu. Trong bài giảng, đức Mẹ Mary cũng mô tả sự kiện này.  

Con thấy đó, có sự khác biệt căn bản giữa thử nghiệm quyền tự quyết của mình (và lầm lỗi khi mình làm vậy) với cố tình đối nghịch lại quy luật cùng ý chỉ sáng tạo của Thượng đế. Như Mẹ Mary có mô tả, một số sinh thể trong cõi tâm linh đã chủ tâm nghịch lại quy luật cùng ý chỉ sáng tạo của Thượng đế. Xong chúng bị sa xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, và cuối cùng một số đã đầu thai ở địa cầu.  

Những sinh thể đó đã khuynh loát nhiều người tin vào lời gian dối rằng tự do tối hậu chỉ có thể đạt được khi mình đi ngược lại quy luật Thượng đế. Chúng đã lừa dối tinh vi để gạt gẫm con người vi phạm quy luật Thượng đế, đồng thời tin rằng những hậu quả xấu mà mình gặt hái là không thể tránh được, thậm chí còn do Thượng đế làm ra.

Khi loài người rơi vào tâm thức thấp hơn, đó là khởi đầu cho một tiến trình ô nhiễm nơi bốn thể phàm của mọi người trên trái đất cũng như của tâm thức tập thể. Và điều này dẫn đến những điều kiện bất hảo dưới hình thức khổ đau, thiên tai cùng tai ương đủ loại.

Tất cả những gì con có thể thấy trong thế giới vật chất chỉ đơn giản là sự phản chiếu các thể cao hơn. Cả ba thể cao đó đã bị ô nhiễm và chứa đựng hình ảnh bất toàn. Nhưng có một thể đã hoàn toàn bị tà lực chiếm đoạt là cảm thể. Thể này là thể cốt yếu cho những ai muốn kiểm soát thế giới vật chất, bởi vì đó là cơ quan hoán chuyển tư tưởng thành hành động xác thân.

Bản chất của cảm xúc là lấy hình dạng của bất cứ hình ảnh nào được trí thể chiếu vào nó. Cảm xúc là năng lượng chuyển động, mà năng lượng thì không có ý niệm gì về đúng hay sai. Khi nó được hướng tới một hành động, nó sẽ tuôn vào đó mà không xét tới hậu quả. Cho nên nếu tà lực đã chiếm đoạt cảm thể một người, chúng có thể thao túng cho người đó làm bất cứ gì mà không xét đến hậu quả, không cân nhắc phải trái. Đây là nguồn gốc của hội chứng “Nếu thích thú thì cứ việc làm”, là hội chứng dựa trên lời dối gạt tinh vi rằng nếu mình cảm thấy ưa thích điều gì thì điều đó không thể sai trái.    

Vậy bây giờ con đã thấy, có những thế lực không ngừng ra sức thao túng con người qua cảm thể. Một cách để chúng thực hiện điều này là khiến cho cảm thể con người luôn luôn dao động, rồi dần dần chúng bồi thêm cường độ cho tới khi người đó không thể cưỡng lại năng lực cảm xúc được nữa. Cảm xúc trào ra thành hành động, và đây là hiện tượng khi những cá nhân, những nhóm người, thậm chí cả quốc gia, cảm thấy bó buộc phải làm những hành động mà họ bình thường không bao giờ làm. Đây là nguyên nhân chủ yếu của chiến tranh. Trong suốt thời gian dẫn đến chiến tranh, con sẽ thấy cảm thể của cả một nước bị kích động tới mức người ta cảm thấy phải làm một cái gì đó, và cái đó là phải chiến đấu chống lại kẻ thù được coi là đã gây ra kích động.

Các sinh thể trí năng trong cả bốn cõi

Có điều quan trọng nữa ta muốn giảng cho con trong bài này là nơi cả bốn cõi của vũ trụ vật chất, có những sinh thể trí năng tự nhận biết. Con người là những sinh thể trí năng sống trong cõi vật chất. Nơi ba cõi cao hơn cũng có những sinh thể trí năng. Một số những sinh thể đó chưa từng hiện thân trong một thể xác vật lý. Còn một số khác thì đã từng đầu thai nhưng hiện đang cư ngụ ở những cõi khác của vũ trụ vật chất.

Tiến trình tự nhiên của các dòng sống là đi xuống một xác thân vật lý để thử nghiệm cõi vật chất, và giúp Thượng đế đồng sáng tạo tầng cấp này của thế giới hình tướng. Một khi đã hoàn thành mục đích hiện thân trong vũ trụ vật chất, dòng sống sẽ thăng lên cõi tâm linh. Nói cách khác, nếu một dòng sống còn ngụ, hoặc bị kẹt lại, nơi bốn cõi vật chất, cảm xúc, tư tưởng hay bản sắc, thì đây không phải là chuyện tự nhiên. Như trường hợp một dòng sống bị mất quân bình khiến cho một hay nhiều thể của mình bị tha hóa, thì dòng sống đó có thể bị kẹt lại trong vũ trụ vật chất, không có khả năng thăng lên cõi tâm linh..   

Bốn thể phàm tương ứng với bốn nguồn lực của Cha, Con, Mẹ và Thánh linh. Cha tương ứng với bản sắc thể, Con với trí thể, Mẹ với cảm thể, và Thánh linh với xác thể. Nếu một dòng sống bị mất quân bình trong cả bốn thể phàm, nó sẽ bị kẹt lại trong cõi vật chất, và nó sẽ mãi tái đầu thai trong một loạt thân xác khác nhau. Nếu một dòng sống đạt được quân bình xác thể nhưng không trong ba thể kia, nó có thể bị kẹt lại nơi cảm thể. Nếu nó đạt được quân bình xác thể và cảm thể, nó có thể bị kẹt lại nơi trí thể, và nếu nó quân bình được cả ba thể thấp thì nó có thể bị ket lại nơi bản sắc thể.

Nếu con muốn thật sự hiểu tại sao ta giảng dạy bài này, con cần nhận rõ rằng cả bốn cõi của vũ trụ vật chất chỉ khác nhau về rung động. Cho nên khi học bài này, con đừng rơi vào cái bẫy của lối suy nghĩ đường thẳng. Chẳng hạn, vì cõi vật chất có độ rung thấp nhất và các cõi kia có độ rung cao hơn, con dễ nghĩ lầm rằng ba cõi kia nằm cao hơn, vượt ngoài cõi vật chất. Nhưng nghĩ vậy không chính xác đâu.      

Ngay trong căn phòng con đang ngồi, có rất nhiều làn sóng vô tuyến đang hiện hữu trong cùng một khoảng không gian. Các sóng vô tuyến này tồn tại trong cùng một không gian với cơ thể con, với tường, bàn ghế và không khí trong phòng. Cũng vậy, những tần số rung động khác nhau có thể tồn tại trong cùng một không gian. Điều ta muốn nói là cõi vật chất tồn tại ở ngay cùng một chỗ với các cõi khác – cảm xúc, tư tưởng và bản sắc.

Điều quan trọng cần nhận rõ ở đây là giữa bốn cõi không hề có hàng rào bất khả xâm nào. Nói cho đúng, các cõi đó còn có thể trùng lấp nhau nữa. Chẳng hạn, rất có thể ở một khu vực nào đó của cõi vật chất, các rung động được biến đổi để chúng cộng hưởng với rung động ở một cõi khác.

Tâm con người có khả năng hoạt động như chiếc máy radio. Như ta vừa nói, có rất nhiều làn sóng vô tuyến xâm nhập vào căn phòng mà con đang ngồi. Nếu con bật máy lên, con có thể bắt được từng làn sóng bằng cách quay cái nút. Máy radio biến sóng năng lượng thành âm thanh nghe thấy, mà con nhận biết là những đài phát thanh khác nhau. Tâm con có khả năng tựa như chiếc máy radio vậy, nó có thể bắt sóng của mọi tầng cấp vũ trụ vật chất. Nó cũng có thể bắt được các tầng cấp trong cõi tâm linh. Nói cách khác, tâm con người có khả năng vượt ra ngoài cõi vật chất để đồng điệu với những sinh thể trí năng ở các cõi cảm xúc, tư tưởng, bản sắc, hoặc cả cõi tâm linh nữa.

Một hệ quả của lời dạy này là nếu con cố bắt liên lạc với sinh thể trí năng ở những cõi khác, con cần biết rằng không phải ai ai ở đó cũng thiện lành. Rất có thể một số đã từng cố tình đối nghịch lại các quy luật của Thượng đế, và họ sẽ cố lôi kéo con làm điều tương tự. Những lý do khiến họ làm vậy được giải thích trong bài giảng của đức Mẹ Mary.

Đã từng có một thời cả bốn cõi đều có những sinh thể thiện lành trú ngụ ở đó. Thế nhưng cõi cảm xúc bây giờ bị ô nhiễm, tha hóa đến độ không còn ai tốt nữa. Tất cả mọi sinh thể nơi cõi cảm xúc đều đã mất quân bình, họ tin rằng mục tiêu có thể biện minh cho mọi phương tiện, và phương châm của họ là “nếu thích thú thì cứ việc làm tới”. Trên địa cầu có nhiều người hiện thân tâm thức này bởi vì cảm thể họ bị mất quân bình do đồng cảm với cõi cảm xúc. Và họ trở thành nô lệ cho bọn thao túng đang hoành hành ở đó.

Cõi tư tưởng cũng bị ô nhiễm nặng nề, nhưng vẫn còn một số sinh thể không ác ý. Tuy vậy, rất nhiều trong số đó còn bị kẹt trong cách suy nghĩ rằng họ có thể hiểu được mọi chuyện bằng lý trí. Thậm chí, một số còn đinh ninh họ thông hiểu thế gian hơn cả Thượng đế và do đó họ hiểu rõ hơn Thượng đế phải vận hành vũ trụ làm sao. Đây là sự kiêu căng của trí thức, và con sẽ thấy trên địa cầu cũng có nhiều người hiện thân lòng tự kiêu này. Lý do là vì trí thể của họ đã đồng tình với những sinh thể tự kiêu nơi cõi tư tưởng. 

Cõi bản sắc là cõi tương đối trong sạch nhất, cho dù cũng bị ô nhiễm bởi một ý niệm bản sắc sai lầm. Ở đây có những sinh thể tự xem mình tách biệt với Thượng đế, và họ phóng chiếu cái nhìn này vào tâm thức loài người. Nhưng song song cũng có những sinh thể trong cõi ether giữ vững được bản sắc đúng đắn rằng mình là sinh thể tâm linh.

Các thày trong Đại đoàn Thăng thiên giáo hóa để phục vụ loài người. Các thày sẵn sàng giao tiếp với bất cứ ai để giúp họ tiến bước trên đường tu tâm linh. Khi địa cầu còn trong sáng, các thày đã có thể hiện ra trước con người trong cõi vật chất, và ai nấy đều có thể gặp gỡ, đàm đạo với các thày. Điều này xảy ra không phải vì các thày đã hiện ra trong một thể xác vật lý, mà vì tâm thức con người thời đó còn trong trắng đến độ có thể nhận biết các thày trong “thân thể” tâm linh của các thày. Với giác quan vật lý, họ nhìn thấy được thân tâm linh của các thày.

Nhưng ngày nay, những sự mất quân bình mà loài người tạo ra đã kéo thấp độ rung của toàn cõi vật chất, và việc nhận biết các thày đã trở nên khó khăn hơn. Con người không thể nhận biết các thày qua giác quan của cơ thể, trừ những trường hợp hiếm hoi khi các thày mượn tạm một thân thể vật chất.

Cho nên muốn giao tiếp với Đại đoàn Thăng thiên trong thế giới hiện đại, con phải nâng cao tâm thức, và điều này có nghĩa con phải quân bình cả bốn thể phàm của mình. Con chỉ tạo được quân bình bằng cách đạt đến trung đạo của tâm thức Ki-tô. Nếu con không quân bình trong tâm Ki-tô thì con sẽ không liên lạc được với Đại đoàn Thăng thiên. Nhưng tiếc thay, con vẫn có khả năng liên hệ với các sinh thể trú ngụ nơi các cõi phàm. Con đừng quên rằng chúng bị kẹt lại ở đó chính vì chúng đã mất quân bình trong một hay nhiều thể. Cho nên nếu con muốn giao tiếp một cách an toàn với cõi trên, con cần phải vươn lên tâm thức Ki-tô, và điều này có nghĩa con phải quân bình cả bốn thể phàm của con.

Thiên đàng hay Địa ngục trên địa cầu

Qua bài giảng này ta còn có một mục đích nữa, là chỉ cho con thấy cả bốn tầng của vũ trụ vật chất đều tồn tại chung trong cùng không gian. Khác biệt duy nhất là độ rung. Vì tâm con người có khả năng điều khiển ánh sáng Thượng đế, nó có thể hạ thấp hoặc nâng cao độ rung của ánh sáng. Điều ta muốn nói là con người có khả năng thay đổi những rung động của thế giới vật chất để cộng hưởng với rung động của một trong mấy cõi kia.

Ví dụ, có nhiều khu vực trên hành tinh này, đặc biệt ở các thành phố lớn, nơi một số đông dân cư đã gia tăng sự mất quân bình nơi cảm thể mình đến nỗi toàn khu vực phải rung động ở tần số của cõi cảm xúc. Cõi cảm xúc hiện có những biểu hiện thấp kém nhất trong số các cõi. Một số khu vực của cõi cảm xúc đã thực sự trở thành cái mà người ta xem là Địa ngục. Cho nên trên địa cầu cũng có nhiều nơi với độ rung như cõi cảm xúc. Thực sự đó là những nơi Địa ngục Trần gian.  

Tương tự như vậy, có một số khu vực rung ở cùng tần số với cõi tư tưởng, chẳng hạn các học viện nơi người ta tôn vinh trí thức con người nhưng lại phủ nhận trí tuệ vượt trội của tâm Ki-tô. Và cuối cùng, có những khu vực được cống hiến cho sinh hoạt tâm linh, đồng điệu với cõi ether và cả với cõi tâm linh. Những nơi này chính là Thiên đàng Hạ thế.

Cho nên một lần nữa con thấy đó, con người có khả năng tạo dựng thực tại của mình. Con tạo ra thực tại qua quyền năng của tâm, nhưng để hiểu làm thế nào, con cần phải nhận ra rằng tâm con có đến mấy tầng. Tâm phàm của con rất giống một chiếc radio chỉ biết khuếch đại những tần số vô tuyến để giác quan có thể bắt được. Những gì con sáng tạo trong tâm phàm được định đoạt bởi những gì con tiếp nhận vào trong tâm từ các cõi cao hơn của tâm.   

Câu hỏi đặt ra bây giờ là liệu chiếc radio của tâm con sẽ bắt tần số của đài phát thanh nào? Nó sẽ đồng tần số với cái ta Ki-tô, hay nó đồng tần số với những sinh thể ở các cõi thấp? Ngay hôm nay con phải chọn con phục vụ cho ai. Con phải chọn gian phòng trong căn nhà của Cha ta nơi con muốn sống, và cách con chọn là đặt chú tâm vào một tầng cõi đặc thù nào đó. Nếu con còn mất quân bình nơi một thể thấp, con sẽ chú tâm vào cõi vật chất, cảm xúc hay tư tưởng. Nếu bản sắc thể của con còn mất quân bình, con sẽ chú tâm vào cõi bản sắc mà không lên được cao hơn. Nhưng nếu cả bốn thể phàm của con được quân bình thì con sẽ vươn lên cao hơn cõi bản sắc để hòa điệu với Đại đoàn Thượng thăng. Khi đó con sẽ trở thành cánh cửa mở cho rung động và chân lý nơi Thiên đàng xối xuống địa cầu. Con có khả năng trở thành cánh cửa mở đó để Lời Hằng sống chảy vào thế gian.   

Tia thứ Ba: Con luôn luôn xứng đáng nhận tình thương

Bài truyền đọc do Đại thiên thần Charity cùng với Paul người Venice, ngày 18/4/2009, qua trung gian Kim Michaels.

“Và dù ta nói với giọng của con người và của thiên thần, nhưng nếu không có lòng từ thiện, thì ta không là gì cả.” Con yêu dấu, những lời trên đáng suy ngẫm. Các con mới nghe một bản nhạc truyền đạt sự hùng vĩ của sự rung động của đại thiên thần. TA LÀ Charity (Từ thiện). Các con yêu dấu, thày đến đây để cho các con ý niệm từ thiện thực sự là gì.

Thực sự thì từ thiện không hẳn là chữ đúng, nhưng vì ngôn ngữ có giới hạn nên không có một từ nào bày tỏ một cách đúng đắn rung động đằng sau nó. Các con, dùng ngôn ngữ và sự hiểu biết của mình, có thể tìm ra một từ thích hợp hơn, và đúng thực, đó là “vô điều kiện tánh”. Đây là sự rung động được bày tỏ qua Tia thứ Ba, bình thường được gọi là Tia thứ Ba của Tình thương.

Tình thương, như nhiều từ khác, với thời gian đã mang một lớp vỏ nhị nguyên khiến nó trở nên hầu như vô dụng. Do đó, tình thương vô điều kiện, lẽ dĩ nhiên là một khái niệm thích hợp hơn. Nhưng tại sao không chỉ giản dị gọi là vô điều kiện tánh?

Dòng Sông sự Sống là gì? Nó là sự biểu lộ vô điều kiện của bất cứ đặc tính nào của Thượng đế. Không ai có thể nào tiến xa hơn trên con đường tâm linh mà không thực sự hòa điệu với sự rung động của vô điều kiện tánh – giống như con đã nghe thày Lanto giảng, hòa điều với sự rung động của minh triết.

Có rất nhiều người trong các phong trào tâm linh và tôn giáo hiểu được nhu cầu vươn lên trên lòng ích kỷ, tính vị kỷ và các hình thức biểu lộ thấp khác. Điều mà họ tìm cầu là hòa điệu với sự rung động của tình thương, nhưng đó là tình thương nhị nguyên là đối cực của sợ hãi, giận dữ, hận thù. Lẽ đương nhiên tình thương, theo nghĩa thiêng liêng, không có đối cực vì nếu nó có đối cực thì nó đã không thiêng liêng.

Như Chân sư MORE đã nói, sa nhân có ảo tưởng vĩ đại là họ đang chống đối Thượng đế. Ta chỉ có thể chống đối cái gì thuộc cõi nhị nguyên, do đó họ chỉ chống đối một hình ảnh khô chết của Thượng đế. Nhiều người không chống đối gì cả nhưng họ muốn đi vào tình thương. Nhưng nếu con muốn hòa điệu với một hình ảnh khô chết, thì làm sao con có thể chạm được tình thương thật sự? Như thày Lanto đã giải thích, điều này không thể xảy ra được.

7.1. Con hãy suy ngẫm vô điều kiện tánh

Do đó, ta cần suy ngẫm về vô điều kiện tánh. Vô điều kiện tánh. Đó thực sự là lý do vì sao các thày đã trao truyền khái niệm rằng ở một mức nào đó của con đường tâm linh, con cần ngưng ý muốn thay đổi chính mình. Cách duy nhất để vượt qua ảo tưởng cuối cùng của cái ta tách biệt là chấp nhận chính mình – một cách vô điều kiện – như gì con là.

Khi các thày giảng về hai tia đầu, con đã nghe về nhu cầu làm bước chuyển vọt này. Thày, cùng với thày Paul người Venice, tới đây để cho con tầm nhìn của Tia thứ Ba.

Làm sao con có thể tiến lên Tia thứ Tư của tinh khiết nếu con không hòa điệu với vô điều kiện tánh? Phải chăng chính điều kiện đã biểu hiện bợn nhơ trong tâm và thân thể con – ngay cả trong thân vật lý của trái đất, mà ta có thể thấy qua bao nhiêu sự bất quân bằng và thiên tai trong môi trường thiên nhiên?

Một lần nữa, không có công thức bí mật hay thần bí nào có tác dụng tự động. Khái niệm con không thể và không xứng đáng biểu lộ tình thương, khái niệm đó chính là vấn đề.

Tình thương là một lực vô điều kiện muốn được biểu lộ. Con không cần làm gì để trở thành cánh cửa mở cho vô điều kiện tánh biểu lộ. Có điều kiện nào mà con cần hội đủ chăng để biểu lộ cái vô điều kiện – tình thương vô điều kiện tự nó tuôn chảy và tuôn chảy và thăng vượt và tăng triển và biểu lộ, bất kể điều kiện như thế nào?

Một lần nữa, con có thấy chăng là điều này không thể xảy ra, điều này hoàn toàn phi lý và chỉ có cái ta tách biệt mới có thể tin như vậy? Con hơn cái ta tách biệt. Khi con còn nắm chặt khái niệm là con cần tới một trạng thái toàn hảo nào đó – trước khi con xứng đáng và có khả năng nhận lãnh tình thương của Thượng đế tuôn chảy xuyên qua con – khi con còn thấy mình tách biệt với dòng chảy của tình thương, thì tình thương không thể tuôn chảy. Nó sẽ không chấp nhận bất cứ điều kiện nào.

Con có quyền chấp nhận điều kiện cho chính mình. Nhưng con đừng rơi vào cạm bẫy của tâm thức vi tế của những sinh thể đã hoàn toàn tự đồng hóa với tâm thức nhị nguyên, và do đó đã cao ngạo tin rằng họ đang là một đối cực chống lại Thượng đế. Con không thể hạn chế Thượng đế, con không thể hạn chế tình thương, con không thể hạn chế sự biểu hiện của tình thương.

Hoặc con để nó tuôn chảy, hay nó sẽ tuôn chảy vòng quanh con. Không thể có cái gì ở giữa. Con có thể nghĩ có cái gì ở giữa, vì con người từ rất lâu đã tạo ra hình ảnh nhị nguyên, tương đối của tình thương, như là đối cực của hận thù, giận dữ, sợ hãi v.v.. Một số người đã trở nên thiện nghệ trong việc tạo một bề ngoài thương yêu và nhân từ.

Con có thể thấy ở nhiều nơi, ngay cả ở trung tâm chữa lành này, là có một số người đã rất thiện nghệ trong việc tạo một hình ảnh, như người đại diện một tổ chức thế gian. Hoặc con có thể tìm tới những người khiêm tốn suốt ngày đứng giúp người khác bước qua vũng nước chữa lành, và con có thể tìm thấy nơi họ một biểu lộ tình thương không gượng dối, không điều kiện. Biểu lộ này được tảy rửa trong ước muốn giúp người khác.

7.2. Khắc phục nỗi sợ bị ruồng bỏ

Tình thương không muốn sở hữu. Khi nó không muốn sở hữu, thì cũng có nghĩa nó không cần được đền đáp. Con hãy xem xét nỗi sợ biểu lộ tình thương vì sợ bị ruồng bỏ. Khi con có nỗi sợ bị ruồng bỏ, thì con chưa hòa điệu với sự rung động của vô điều kiện tánh. Khi tình thương được biểu lộ vô điều kiện, thì làm sao con có thể sợ bị ruồng bỏ?

Làm sao tình thương vô điều kiện có thể bị ruồng bỏ? Tình thương vô điều kiện tự nó đầy đủ. Nó vui sướng khi chỉ đơn giản được biểu lộ, khi nó tự biểu lộ, khi nó tuôn chảy.

Khi con nghĩ con phải biểu lộ tình thương cho một người mà thôi – và con muốn tình thương đó được người đó đón nhận, ngay cả là được đón nhận một cách nào đó – thì con đang không ở trong dòng chảy của tình thương vô điều kiện. Con đang hòa điệu với rung động thấp của tình thương có điều kiện. Con vẫn có thể có tình thương đối với một người khác, con vẫn có ý muốn biểu lộ tình thương đó, nhưng con chưa đạt tới tiềm năng cao nhất. Con sợ bị ruồng bỏ, hay con muốn sở hữu, hay được đền đáp một cách nào đó.

Khi con nghĩ con cần điều gì từ một người khác hay từ nguồn nào đó trong vũ trụ vật chất, thì con cảm thấy thiếu thốn. Con có tâm thức thiếu hụt. Con nghĩ con thiếu điều gì, và người nào khác phải tới để lấp đi sự thiếu hụt đó, lấp đi lỗ hổng đó, để con có thể trọn vẹn. Đó là một ảo tưởng.

Ngay cả khái niệm ngọn lửa song sinh – tức là có một người là ngọn lửa song sinh của con và do đó ngọn lửa song sinh đó là tình thương toàn hảo có thể khiến con trọn vẹn – đó cũng không phải là mức hiểu biết cao nhất. Ngọn lửa song sinh tâm linh thực sự của con là cái ta cao của con, là Hiện diện TA LÀ của con. Chỉ khi nào con hợp nhất với thì con mới đầy đủ, mới trọn vẹn.

7.3. Vô điều kiện tánh và sự chữa lành

Những điều trên soi sáng ra sao khái niệm chữa lành? Nó có nghĩa là con không thể tự chữa lành khi còn trong tâm thức cho rằng mình cần chữa lành. Con không thể trở nên trọn vẹn với tâm thức thấy mình không trọn vẹn.

Cách duy nhất để thoát ra khỏi thế tiến thoái lưỡng nan này là thăng vượt ảo tưởng là con không trọn vẹn. Điều này thoạt nghe giống như một thế tiến thoái lưỡng nan khác. Làm sao con có thể thăng vượt ảo tưởng mình không trọn vẹn khi mình đang cảm thấy mình không trọn vẹn?

Nhưng sự thực là con có thể làm được – khi con nhận ra sự kiện con là ai. Con là một sinh thể có tự nhận biết, và như Chân sư MORE đã giảng, con đã được ban cho quyền tự quyết hoàn toàn. Con có tự do sáng tạo mọi trải nghiệm mà con mong muốn trải nghiệm. Làm sao con tạo ra một trải nghiệm? Bằng cách khoác vào một bộ y phục, một vai trò, và nghĩ: “Đây là người TA LÀ”. Như các thày đã giảng, dù con có đồng hóa mình với ý niệm bản sắc tách biệt đó biết bao nhiêu chăng nữa, thì con vẫn là gì con là.

Con có tiềm năng nhận ra và thừa nhận con là ai. Con có tiềm năng nói: “Không phải là một lực bên ngoài – đây có thể là rắn, hay lực bên ngoài nào khác, cũng có thể là Thượng đế vỏ ngoài muốn trừng phạt tôi – đã khiến tôi rơi vào cảm nhận mình không trọn vẹn. Đó là kết quả của một số chọn lựa mà tôi đã lấy.”

Khi con nhận ra chính con đã chọn lựa rơi vào cảm nhận không trọn vẹn, thì điều hợp lý là con có quyền năng thay đổi những chọn lựa đó. Con có thể thay đổi chúng bằng chọn lựa khác đem con trở lại với trọn vẹn, hay đúng hơn, mang con ra khỏi ảo tưởng là con đã tách biệt khỏi sự trọn vẹn. Vì đúng thực, làm sao con có thể tách biệt khỏi cái vô điều kiện?

“Vô điều kiện” có nghĩa là có mặt khắp nơi. Con không thể tìm ra một chỗ nơi đó tình thương vô điều kiện của Thượng đế vắng mặt. Điều này không thể có được.

Con giống như con cá chối bỏ nó đang ướt. Thày cũng biết là loài cá thường được coi là không thông minh, nhưng tuy thế, con cũng thấy nếu một con cá nghĩ như vậy thì thật là lếu láo.

Lẽ dĩ nhiên, con nhận ra là tự ngã không khôn ngoan lắm – tuy nó nghĩ nó khôn ngoan, tuy có người nghĩ nó khôn ngoan. Đúng thực là con có thể, như một số người đã làm, man trá tạo cho mình một đia vị khiến nhiều người trong thế gian coi tự ngã của con khôn ngoan hay xuất sắc một lối nào đó. Tuy thế, khi con có thể bắt đầu cười tự ngã, thì con đã bắt đầu tách ra khỏi nó.

7.4. Vô điều kiện tánh trong quan hệ con người

Đúng thực là có nhu cầu nhìn nhận tình thương không phải là tình yêu lứa đôi trịnh trọng mà con thấy mô tả trong phim, kịch, sách hay tranh vẽ. Con yêu dấu, ta không nên nhìn tình thương với thái độ trịnh trọng.

Nếu con coi tình thương trịnh trọng, thì đó chỉ có thể là tình thương có điều kiện. Khi con hòa điệu với tình thương vô điều kiện của Thượng đế, con chỉ đơn giản trôi theo Dòng Sông sự Sống. Do đó, con chỉ cảm thấy vui mừng.

Con hãy xem xét tình cảnh con nghĩ con thương yêu một người khác, nhưng con không cảm thấy vui mừng. Con cảm thấy căng thẳng, con sợ bị ruồng bỏ, hay con cảm thấy người kia phải thương con trở lại và phải cư xử một cách nào đó. Con thực sự đang tìm cách – nếu con thành thật với chính mình – giới hạn người kia thay vì cho người kia tự do. Con có thấy chăng là tình thương vô điều kiện không bao giờ tìm cách giới hạn ai cả, mà chỉ muốn tất cả mọi người trở nên HƠN NỮA, và tự do trôi theo Dòng Sông sự Sống? Vậy làm sao con có thể tạo trong tâm hình ảnh là chỉ có một người duy nhất trên trái đất xứng đáng được nhận lãnh tình yêu của con, và con nhất định tình yêu này phải được đáp trả? Nếu không được vậy thì con rơi vào trạng thái kịch cỡm mà con thấy trong các vở kịch là con muốn chết thay vì bị ruồng bỏ. Con có thấy sự hài hước trong đó chăng? Đây đúng là một màn trong một hài kịch thiêng liêng, như người xưa nói, tuy đây không phải là sự thiêng liêng thực sự mà chỉ là một hình ảnh của sự thiêng liêng do con người tạo ra.

Con hãy cười sự trịnh trọng của mình khi con nghĩ tới tình yêu. Con hãy trút bỏ bộ áo diễn kịch của vai trò người tình trịnh trọng. Con hãy đơn giản trút bỏ nó! Con hãy trở nên người tình vui vẻ vì con nhận ra con là người yêu dấu của một người tình vĩ đại, là Người Tình Thiêng liêng thương yêu con như người yêu dấu của ngài.

Đúng thực là cái ta cao của con, Hiện diện TA LÀ của con, chính là Người Tình Thiêng liêng của con, thương yêu con như người con yêu dấu duy nhất. Nếu con muốn nhận được tình yêu cho chính cá nhân mình, con đừng nên tìm nơi một người khác vì không ai cho con được. Con hãy tìm nơi cái ta cao của con. Con hãy đầy đủ trong tình yêu đó.

Lúc đó con có thể, khi con đã hoàn toàn chào đón và chấp nhận sự đầy đủ đó, tiến thêm bước nữa và nhập một với dòng chảy của tình thương. Qua đó, con trở thành một với Người Tình Thiêng liêng, và nay con trở thành Người Tình Thiêng liêng đang hiện thân – là cánh cửa mở cho dòng chảy của tình thương. Con là cánh cửa mở cho lực thương yêu mọi sự sống và tìm cách nâng cao mọi sự sống. Lúc đó làm sao con có thể rơi vào cạm bẫy của ảo tưởng cho rằng tình yêu của con phải chuyên chú vào một người mà thôi?

Có phải chăng là thày đang nói là con không thể có môt quan hệ thương yêu giữa một người nam và một người nữ? Không, thày không nói vậy. Thày chỉ nói là con sẽ không bao giờ có một quan hệ thành công, một quan hệ thể hiện được tiềm năng cao nhất của nó, nếu con không tự giải thoát khỏi lớp vỏ của điều kiện tánh – và qua đó con cũng giải thoát người bạn đường của con. Quan hệ của con trở nên một quan hệ vui vẻ, vui đùa, tuôn chảy không bị gò bó bởi giới hạn, điều kiện, mong chờ, lên án, và cảm nhận tình yêu không được đáp trả.

7.5. Vì sao con muốn lên thiên đàng?

Như Chân sư MORE có nói, nếu cách con sống đời tâm linh không dựa trên sự vui mừng, thì tâm linh đâu có nghĩa lý gì? Vì sao con muốn lên thiên đàng nếu con nghĩ thiên đàng sẽ khiến con khổ sở? Vì sao con lại muốn có một quan hệ tình yêu nếu con nghĩ nó sẽ khiến con khổ sở?

Con hãy thay đổi nhận thức của mình. Con hãy bước ra ngoài điều kiện tánh và chào đón vô điều kiện tánh. Con có cảm thấy là con không thể buông bỏ tình yêu đối với một người nào đó? Đó chính là một điều kiện. Nếu con còn bám chặt nó, thì con sẽ khổ sở và có thể con cũng khiến người kia khổ sở luôn.

Lẽ dĩ nhiên, thày là biểu hiện của tình thương vô điều kiện của Thượng đế và thày thương yêu con vô điều kiện – dù con chọn muốn mình khổ sở. Tình thương của thày không có điều kiện, và do đó con sẽ nhận tình thương đó bất kể con nghĩ gì về chính mình. Dù con có nghĩ – vì điều gì con đã làm hay đã không làm – là con không xứng đáng nhận tình thương của thày, nhưng không phải vậy.

Nếu con không thể buông bỏ cảm nhận mình không xứng đáng – nếu con đã học pháp, đã đọc các bài nguyện, hay đã thực tập thiền hay các hình thức thực tập tâm linh khác mà vẫn cảm thấy bị kẹt trong một điều kiện nào đó – thì con có một chọn lựa cuối. Con hãy ngưng tìm cách thoát ra khỏi điều kiện, con hãy chào đón nó.

Chuyện gì xảy ra khi con đi vào một trạng thái rung động thấp, khi con chấp nhận một điều kiện nào đó? Con chấp nhận rằng, vì điều kiện đó, con không thể để cho tình thương tuôn chảy tự do và vô điều kiện. Nó phải được biểu hiện hay không được biểu hiện tùy theo một tiêu chuẩn nào đó. Đó chính là điều khiến con cảm thấy không trọn vẹn. Con khóa dòng chảy từ thể cao của con, dòng chảy của vô điều kiện tánh chảy xuống từ Hiện diện TA LÀ của con đang tìm cách nâng mọi sự sống lên. Đó chính là lý do vì sao con cảm thấy khổ sở. Con cảm thấy, vì điều kiện này hay điều kiện kia, con không thể thương yêu.

Do đó, con hãy thương yêu điều kiện đang khiến con nghĩ con không thể thương yêu. Con hãy thương yêu cảm nhận mình đang khổ sở. Nếu con có thể thương yêu điều mà nhiều người cho là không thể thương yêu, thì con không còn tách biệt với dòng chảy của tình thương. Chắc hẳn là một ngày nào đó, con sẽ thức tỉnh và nói: “Hay quá, tôi không còn khổ sở nữa.” Lúc đó, con hãy đi theo niềm hân hoan của mình.

7.6. Hãy nghĩ tới việc sử dụng uy lực của âm nhạc

Các thày, là đại diện của Tia thứ Ba, muốn lưu ý con về uy lực của âm nhạc. Hầu hết các con đã nhận ra là, trong suốt cuộc đời mình, có những bản nhạc nâng cao tâm hồn mình và giúp mình hòa điệu. Có thể là con không nhận ra điều này với tâm vỏ ngoài, nhưng các bài nhạc đó đã giúp con hòa điệu với một rung động bên ngoài tâm thức bình thường của con, qua đó giúp con hoà điệu với một rung động vượt quá điều kiện của con. Nếu con cảm thấy tâm hồn bay bổng qua âm nhạc, thì con hãy dùng âm nhạc. Con hãy tìm loại nhạc nâng tâm hồn con lên vì nó biểu lộ dòng chảy của Dòng Sông sự Sống.

Con đừng chỉ nghe những khúc nhạc đó khi con lái xe, rửa chén hay làm những việc tay chân khác. Con hãy thỉnh thoảng vào một căn phòng nơi con có thể ở một mình và không bị quấy rầy. Con hãy bắt đầu bản nhạc, tắt đèn, nằm xuống giường sao cho chỉ có tối thiểu trọng lực kéo thân thể con xuống. Sau đó con cho phép âm nhạc đưa con theo dòng chảy của nó cho tới khi con nhận ra mình tới không gian thiêng liêng của vô điều kiện tánh. Con bỗng nhiên nghe thấy đằng sau bài nhạc âm thanh của chính sự sống. Con yêu dấu, khi con nghe âm thanh đó, tiếng ngân của vũ trụ, con sẽ có được, một lần nữa, một sự đồng-đo lường, một trải nghiệm của tình thương thực sự khi nó vô điều kiện.

Con có thể dùng trải nghiệm này để có một cái nhìn khác về cuộc đời và thấy là điều kiện tánh lấy đi cảm giác nổi lềnh bềnh khi không có điều gì lôi kéo con về một điều kiện nào đó, một vai trò và bộ y phục trong màn kịch của vũ trụ vật chất. Đây không phải là trốn tránh – khi con dùng nó không để trốn chạy các vấn đề mà con đang phải đương đầu. Con dùng nó để có một tầm nhìn khác về các vấn đề của mình, để con nhận ra con không một với vấn đề. Con hơn nữa, vì con đã trải nghiệm là con hơn nữa.

Con có nghĩ chăng là người yêu kịch nghệ mà thày nói tới có thể nổi lềnh bềnh trong không gian kỳ diệu? Không đâu, vì y quá chìm đắm trong chính mình và các điều kiện của y, và không thể buông bỏ chúng. Nhưng con thì con có thể! Cái ta thật của con có thể trải nghiệm vô điều kiện tánh. Chỉ khi nào con đã trải nghiệm , thì con mới thật sự biết là có cái gì bên ngoài thế giới điều kiện. Chỉ khi nào con biết nó, thì con mới có thể tiến lên bước tới là nhập một với nó. Lúc đó con thấy mình trước tiên là đối tượng của tình thương của Người Tình Thiêng liêng, sau đó con nhập một với Người Tình Thiêng liêng và con thấy – con là cánh cửa mở của – tình thương muốn được biểu lộ đối với mọi sự sống. Đây là chìa khóa để vượt qua ý niệm tình thương giả, tình thương có điều kiện.

7.7. Thân thể không phải là kẻ thù của con

Con không thể giản dị ép mình phải thương yêu một người hay thương yêu căn bệnh của mình, hay ép tình thương của mình biểu lộ cách nào khác. Con chỉ có thể hòa điệu với trạng thái vô điều kiện và để nó tuôn chảy – để nó tuôn chảy.

Con yêu dấu, điều này nghĩa là gì? Khi con nghĩ về nó một cách trung thực, con sẽ thấy là có rất nhiều chuyện trên thế gian mà con không muốn thấy, con co rút lại trước chúng, con rút lui khỏi chúng, con mong muốn chúng không hiện hữu. Chắc chắn đây là điều hiểu được, khi ta thấy tình trạng của thế giới.

Tuy nhiên, thực tế là khi có điều gì con không muốn thấy, thì con nghĩ, con cảm thấy, con có cảm giác là con không thể biểu lộ tình thương với cái đó. Con cảm thấy là cái đó không xứng đáng được thương yêu. Con phải là vị quan tòa và phải giữ lại tình thương để nó không tuôn chảy qua con tới điều kiện đó hay người đó hay nhóm người thuộc tôn giáo hay chủng tộc đó, hay bất cứ cái gì khác phân chia con người.

Khi con bắt đầu khóa dòng chảy của tình thương, thì chuyện gì đương nhiên sẽ xảy ra? Con người của con, thể thấp của con, trở thành một hệ thống khép kín. Khi đặc tính này lan qua bốn thể phàm của con và tới thể vật lý, thì con bị bệnh.

Lúc đó con nghĩ là thân thể của con đang chống đối lại con. Con sợ không dám nhìn vào tình trạng thân thể, con mong muốn không thấy nó, con muốn chạy trốn nó, như thày Lanto đã giảng. Con nghĩ con không thể nào thương yêu điều đang tàn phá thân thể của con.

Con đang làm gì trong tiến trình này? Con đang nói là những tế bào bị ung thư, con không thể thương yêu chúng. Nhưng các tế bào này đang làm gì? Chúng đang trải bày một trạng thái tâm thức đã khiến con khóa dòng chảy của tình thương. Khi con nói là con không thể thương yêu các tế bào đang trải bày tâm thức đó, thì làm sao các tế bào đó có thể giải thoát chúng khỏi bệnh trạng đó?

Con phải nhận ra là tế bào không có sự tự nhận biết giống như con. Chúng chỉ có thể trải bày những gì được phóng chiếu lên chúng. Khi con phóng chiếu một hình ảnh không thương yêu khiến chúng mang một bệnh – hoặc bệnh ung thư hay bệnh nào khác – và sau đó con củng cố thêm bằng cách phóng chiếu hình ảnh khác là các tế bào đó phải bị tiêu diệt và bứng ra khỏi thân thể con – vì con không thương yêu chúng, có thể con tức giận hay thù hận chúng – thì làm sao các tế bào đó thoát được hai gánh nặng mà con đặt lên chúng?

Con là người duy nhất có thể phá được vòng lẩn quẩn đó. Con làm điều này bằng cách nhận ra là chính sự thiếu thốn tình thương đã khiến các tế bào của con trải bày thành căn bệnh. Cách chữa lành thật sự duy nhất là tái lập dòng chảy của tình thương – và con phải là người làm công việc tái lập đó. Con yêu dấu, con không cần phải thương yêu căn bệnh. Nhưng con cần thương yêu các tế bào để con thương yêu chúng thoát căn bệnh – thoát để tự do phơi bày trạng thái cao hơn của sự duy nhất, của sự khỏe mạnh toàn hảo.

Như thày Lanto đã giảng, ta có thể thấy minh triết ở khắp nơi. Có minh triết trong các tế bào của con. Chúng không có tự nhận biết, nhưng chúng có minh triết của Mẹ Thiêng liêng biết cách thể hiện sức khỏe toàn hảo – nếu chúng được phép trải bày đặc tính bên trong chúng. Có phải chăng là Thượng đế đã viết luật của ngài lên tạng phủ của con? Khi con thương yêu các tế bào tự do, chúng sẽ biết cách rũ bỏ bệnh ung thư hay các chứng bệnh khác và trải bày tình trạng khỏe mạnh tự nhiên của chúng.

7.8. Tình thương của thày lúc nào cũng sẽ có mặt

Thày đang ngưng lại để ghi nhận dòng tâm thức trở ngược về từ các con – các sợ hãi và nghi ngờ những gì các thày đã nói với con trong bài này và các bài trước. Thày đang hấp thụ tâm thức đó. Sự kiện con nghi ngờ lời thày, con sợ không dám đem ra áp dụng, không có nghĩa là thày không thương yêu con. Thày thương yêu con bất kể con phản ứng ra sao hay không phản ứng lại lời nói và sự rung động của thày. Tình thương của thày vô điều kiện, vượt thời gian. Nếu con không thể chấp nhận nó lúc này, thì con đừng lo lắng. Con không cần chê trách mình vì con không thể tức khắc chấp nhận điều con nghe thấy.

Thày muốn con biết là thày sẽ luôn luôn có mặt. Tình thương của thày sẽ luôn luôn có mặt. Nếu con không thể chấp nhận nó lúc này, thì bất cứ lúc nào con có thể chấp nhận nó, con đừng rơi vào cạm bẫy của ảo tưởng cho rằng vì con không thể chấp nhận thày trong quá khứ, thì con cũng không thể chấp nhận thày bây giờ, vì con không xứng đáng. Con đừng nên tạo ra thêm những lớp ảo tưởng bên trên ảo tưởng.

Con hãy nhớ lời thày: tình thương của thày vô điều kiện. Con không cần hội đủ điều kiện nào để xứng đáng nhận lãnh nó. Con chỉ có hai chọn lựa: hoặc con chấp nhận, hoặc con chối bỏ. Tình thương thày vô điều kiện, do đó nếu con chối bỏ nó, thày không bị ảnh hưởng bởi sự chối bỏ đó.

Thày sẽ tiếp tục thương yêu con vô điều kiện. Bất kể con lúc này chối bỏ tình thương của thày mạnh mẽ như thế nào chăng nữa, bất cứ lúc nào trong tương lai khi con quyết định trút bỏ bộ y phục, thì tình thương của thày vẫn có đó để con chấp nhận. Tự ngã của con muốn con nghĩ là không thể như thế. Nhưng sự thực là như thế.

Trong quá khứ đã như thế.

Trong tương lai cũng sẽ như thế.

Đó là sự thực về tình thương. Đó là tình thương thực sự. Nếu con muốn tách ra khỏi tình thương của thày, nếu con muốn chối bỏ nó, thì thày vẫn thương yêu con vì con chối bỏ thày. Bất kể con cảm nhận ra sao, con nghĩ gì, thày vẫn thương yêu con.

Tình cảm và tư tưởng là hình ảnh phù du đi qua tâm con người. Con hãy ngưng máy chiếu phim thì con sẽ thấy là màn ảnh cuộc đời vẫn trắng, bất kể hình ảnh nào đã được phóng chiếu lên đó. Cốt lõi con người con, cái Ta Biết của con, là một tấm màn trắng, có nghĩa là dù con được tạo ra với cá thể, con không được tạo ra với điều kiện. Con yêu dấu, con đã không được tạo ra với bất cứ điều kiện nhị nguyên nào.

Con được tạo ra với đặc tính cá biệt vô điều kiện. Thày biết rõ là tâm đường thẳng của con không thể thấu hiểu khái niệm này. Nhưng phải có một cách diễn tả bằng lời khiến con suy nghiệm, cho tới khi con tới điểm chuyển đổi nhận thức. Con nhận ra vô điều kiện tánh có thật, và các điều kiện không có thật, các điều kiện này chỉ đang che khuất tấm màn trắng bằng cách khiến con chú tâm vào những hình ảnh phù du không thể nào thỏa mãn con người thật của con, lòng khát khao tình thương thật của con.

Làm sao bất cứ tình thương nào đến từ cõi vật chất có thể thỏa mãn lòng khao khát tình thương bẩm sinh của con? Lòng khao khát bẩm sinh của con là lòng khao khát nhập một với cái con là, cái ta cao của con. Đó là lòng khao khát trầm mình trong Dòng Sông sự Sống bằng cách thực thi vai trò mà cái ta cao đã tạo ra cho con – đó là một người đồng sáng tạo và thể hiện nước Trời trong vũ trụ vật chất.

7.9. Hãy hòa điệu với tình thương

Lời của thày đến với các con qua trung gian một người đang hiện thân trong cõi vật chất, và điều không thể tránh được khi con hiện thân, là khả năng thương yêu của con có giới hạn. Chắc chắn là không ai đang hiện thân có thể đồng thời ở trong sự viên mãn của tâm thức thăng thiên – cũng là sự viên mãn của vô điều kiện tánh. Con hãy đừng chú tâm vào người sứ giả bên ngoài. Con hãy vượt quá hình tướng bên ngoài, con hãy vượt quá âm thanh của lời nói, con hãy vượt quá ngôn từ.

Con hãy theo ngôn từ như theo một dòng tâm thức dẫn tới sinh thể thật mà TA LÀ. Thày là một với đẳng cấp Tình thương Thượng đế, tình thương vô điều kiện và tất cả các sinh thể đang biểu lộ vô điều kiện tánh đó. Con hãy theo dòng tâm thức đó và nhận ra là khả năng thương yêu của thày quả thật vô biên. Thày có thể nhận lãnh và tiêu trừ bất cứ điều kiện nào mà con muốn buông bỏ. Như phần kết của bài truyền đọc này, thày cho con cơ hội buông bỏ vào dòng tâm thức của thày mọi điều mà con muốn buông bỏ. Con đã nói, với Chân sư MORE: “Đủ rồi, như vậy là đủ rồi”. Do đó, thày sẽ để vị sứ giả đọc những câu sau đây trong lúc con buông bỏ.

[Sứ giả đọc những lời dâng lên từ bên trong;]

Tình thương là một dòng suối tuôn chảy, một suối nguồn của vô điều kiện tánh, giống như dòng nước cứ chảy, chảy qua các tảng đá – ngay cả loại đá cứng nhất – và soi mòn chúng, từng chút từng chút một. Nó mềm mại hơn tảng đá rất nhiều, và tâm đường thẳng không thể hình dung là nó có thể soi mòn tảng đá. Nhưng, tình thương chính như thế. Nó tuôn chảy vô điều kiện, và nếu nó có vẻ như đang không chảy về đâu, nếu có vẻ là con người không nhận nó và không thay đổi, nó vẫn không ngừng chảy. Qua nhiều ngàn năm, nó sẽ soi mòn tảng đá rắn chắc của cái ta tách biệt.

Quả thật Người Tình Thiêng liêng sẽ không bao giờ bỏ rơi người yêu dấu, sẽ không bao giờ ngưng tuôn chảy, sẽ không bao giờ ngưng cho ra. Rốt cuộc các điều kiện khó khăn nhất sẽ bị soi mòn bởi dòng chảy của tình thương, dòng chảy vĩnh hằng, không thể ngăn chặn, vô điều kiện của tình thương. Phải chăng là các điều kiện đều được cấu tạo bởi các thành phần nhỏ hơn, như con biết tảng đá được cấu tạo bởi phân tử và nguyên tử, và nhỏ hơn nữa, bởi các hạt hạ nguyên tử li ti cấu tạo nguyên tử. Tình thương tuôn chảy có thể chỉ bứng đi được một hạt hạ nguyên tử của tảng đá, nhưng tuy thế, đó vẫn là một sự thay đổi.

Tình thương tuôn chảy không nản chí nhưng luôn luôn được khích lệ và do đó cứ tuôn chảy mãi và bứng đi một nguyên tử, và một nguyên tử nữa, và một nữa, và một nữa. Chẳng bao lâu, Dòng Sông sự Sống đục được một khe núi trong nền đá của tâm thức con người. Tuôn chảy, tuôn chảy, tuôn chảy mãi mãi. Con hãy thấy là ngọn núi hùng vĩ nhất cũng bị soi mòn dần dần bởi nước mưa mềm mại từ trời đổ xuống, như giọt nước mưa mềm mại của tình thương rơi xuống người chính đạo và người bất chính, sự xấu xa và sự tốt lành.

Với tình thương, không có gì chính đạo hay bất chính, không có gì xấu xa hay tốt lành. Tình thương tuôn chảy không điều kiện, hoàn toàn không có điều kiện nào. Với tình thương, điều kiện không có thực chất và không thường hằng. Tình thương biết rằng nếu nó tiếp tục tuôn chảy, thì nó sẽ soi mòn những điều kiện khó khăn nhất. Ngay cả những trái tim khô cứng nhất cũng sẽ bị soi mòn bởi dòng chảy không thể ngăn chặn của tình thương.

Một ngày nào đó. trái tim đó sẽ nhìn lại chính nó và nói: “Tại sao tôi cứ tách mình ra khỏi dòng chảy của tình thương? Tôi đã chán ngán kinh nghiệm tách biệt. Bây giờ tôi hiếu kỳ muốn biết tôi sẽ cảm thấy thế nào khi ở trong dòng chảy của tình thương.” Bỗng nhiên nó buông mình vào dòng chảy như đập vỡ nước – và bỗng nhiên Dòng Sông sự Sống bị ngăn chặn từ bao nhiêu kiếp được thoát ra như một bộc phát mà không điều kiện nào, không tự ngã nào – dù là tự ngã cường tráng nhất – có thể ngăn được. Cái ta thực của con tuôn chảy với tình thương và cảm thấy biết bao hân hoan, biết bao tự do khi thoát khỏi điều kiện. Giải thoát hoàn toàn, vô điều kiện.

[Đại thiên thần Charity tiếp tục:]

Vậy các con hãy hít vào [cử tọa hít vào]. Hãy nhận biết điều kiện và trút bỏ nó khi con thở ra [cử tọa thở ra].

Bây giờ các con hãy hít vào và giữ hơi thở, và khi các con thở ra thày sẽ hít vào. Hãy thở ra [cử tọa thở ra trong khi sứ giả hít vào].

Khi thày trao tình thương vô điều kiện, các con hãy hít vào và hít vào tình thương đó [sứ giả thở ra, cử tọa hít vào].

Bây giờ các con hãy trút bỏ, và thày sẽ hít vào điều kiện [cử tọa thở ra trong khi sứ giả hít vào].

Hãy hít vào tình thương [sứ giả thở ra, cử tọa hít vào].

Hãy trút bỏ (cử tọa thở ra trong khi sứ giả hít vào].

Hãy hít vào [sứ giả thở ra, cử tọa hít vào].

Các con bây giờ đã trải nghiệm hơi hít vào và thở ra của tình thương. Tuy thế, TA LÀ không giới hạn bởi không gian và thời gian, và các con có thể lặp lại sự thực hành này bất cứ lúc nào, chẳng hạn như sau khi nghe một bản nhạc đánh thức lại cảm nhận tuôn chảy nơi con.

Các thày, là đại diện Tia thứ Ba, ngợi khen các con đã sẵn sàng đi vào Hiện diện của các thày, và qua đó, tuy có thể các con không nhận ra, các con đã đôi phần tách mình ra khỏi các nỗi sợ của mình. Các con không thể ở trong Hiện diện của Tình thương Vô điều kiện mà vẫn hoàn toàn đồng hóa với nỗi sợ. Sự kiện các con ở đây chứng minh là các con không còn hoàn toàn đồng hóa với cái ta tách biệt. Thày khuyến khích các con đón nhận cái ta mới đó, nó biết con hơn nữa, vì con đã trải nghiệm sự hợp nhất với cái Hơn Nữa.

Các con được niêm phong, nhưng một lần nữa chúng ta lại thấy giới hạn của ngôn từ. Làm sao các con có thể được niêm phong trong cái vô điều kiện? Các con yêu dấu, các con hãy vượt quá ý tưởng muốn được niêm phong, và chỉ trong dòng chảy của tình thương vô điều kiện.

Tia thứ Nhất: Một quan niệm không đường thẳng về nghiệp quả

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 17/4/2009.

TA LÀ HƠN NỮA. Các con phải biết là thày tới mau chóng và ra đi cũng mau chóng. Khi thày đã nói những gì cần nói, thày không quan tâm các phép lịch sự thông thường đòi hỏi phải chấm dứt một cách nào đó. Khi chuyện đã quá đủ, thì thày chuyển sang chuyện khác.

Đây là một lời gợi ý cho tất cả các con. Khi đã quá đủ thì con hãy chuyển sang chuyện khác. Con hãy vứt bỏ cùm xích của bất cứ tâm thức nào mà con đã chấp nhận. Con có quyền có bất cứ trải nghiệm nào mà con muốn, nhưng con phải biết là khi con đã trải nghiệm đủ một kinh nghiệm nào đó, thì con thực sự có thể chuyển sang chuyện khác.

Đó là chìa khóa chủ yếu cho sự chữa lành. Đó là chìa khóa để phục hồi sự chữa lành thực sự. Con hãy nhìn xem con người tìm sự chữa lành như thế nào trên trái đất này. Các con hãy xem xét ngành y khoa mà các con có ngày hôm nay. Họ ngầm hứa hẹn điều gì? Họ hứa hẹn là khi cơ thể con có bệnh, họ có thể cho con một phương pháp máy móc để chữa lành. Con không cần giải quyết tâm thức đã kết đọng thành căn bệnh trong cơ thể. Con không cần xem xét cây đà trong chính mắt mình.

Đó là điều họ hứa hẹn. Có phải chăng đây cũng là điều mà nhiều tôn giáo đã hứa hẹn qua các thời đại? “Nếu quý vị theo tôn giáo của chúng tôi, nếu quý vị tuân theo các luật lệ và quy tắc mà chúng tôi đề ra, thì một ngày nào đó quý vị sẽ được vào nước Trời mà không cần xem xét cây đà trong chính mắt mình.”

Ấy, đó chính là lời hứa hẹn. Đã có bao nhiêu người tin lời hứa hẹn đó để rồi khám phá – sau kiếp sống này – là đây là một lời hứa giả và họ phải trở lại đầu thai trên trái đất? Họ càng ngày càng nghi ngờ các tôn giáo, vì họ thấy tính chất đạo đức giả của tôn giáo khi chính các giáo sĩ cũng tin rằng chỉ cần tuân theo các nghi thức bên ngoài. Họ nghĩ họ có thể làm bất cứ điều gì nếu họ không bị lộ tảy vì có thể trốn sau bình phong của giáo hội, tỷ dụ như trường hợp giáo hội Công giáo và nạn xâm phạm trẻ em tràn lan khắp giáo hội, quả đã xúc phạm những gì Giê-su chủ trương. Phải chăng là Giê-su có nói rằng tội tổn thương trẻ em nặng hơn tội bị đeo gông vào cổ và vứt xuống biển?

Con cũng thấy điều này nơi nhiều giáo hội khác, tỷ dụ như khi một mục sư trong một giáo hội cực chính thống đã bị lật tảy khi nói rằng: “Con có thể là một người của Thượng đế và vẫn có thể có các thú vui bên lề.” Quả là một sự đạo đức giả khi họ tuyên bố có thể đại điện Thượng đế đồng thời nghĩ rằng Thượng đế sẽ không thấy những gì họ che giấu khỏi con mắt người đời. Thượng đế không ở trên trời nhìn xuống con, nhưng Thượng đế bên trong con, đợi khi con tìm cầu Người Tình Thiêng liêng thương yêu con như là người con trai hay con gái yêu dấu.

5.1. Lòng chân thật là căn bản của sự chữa lành

Để phục hồi sự chữa lành thực sự, chúng ta cần bắt đầu với một nền móng vững chắc. Chúng ta cần bắt đầu với Tia thứ Nhất của ý chí của Thượng đế. Vậy, đặc tính của Tia thứ Nhất là gì? Con có thể nghĩ đó là ý chí của Thượng đế, con có thể nghĩ đó là uy lực của Thượng đế, nhưng ta có nên nghĩ tới đặc tính khác là sự chân thật chăng?

Con yêu dấu, phải chăng chân thật là một đặc tính của Tia thứ Nhất? Nó phải chăng là một biểu hiện của ý chí và uy lực cửa Thượng đế? Cốt lõi của lòng chân thật là gì? Phải chăng là sự nhập một với ý chí của Thượng đế? Thượng đế đúng thực là sinh thể chân thật tối hậu – vì Thượng đế không thể che giấu điều gì với chính mình.

Con có lẽ đã nghe người ta dùng lý trí đường thẳng hỏi câu này “Nếu Thượng đế toàn năng, thì Thượng đế có thể tạo chăng một tảng đá lớn đến độ chính ngài không thể nâng lên được?” Thượng đế là cái Một, do đó Thượng đế không thể tạo ra cái gì có thể che giấu khỏi mắt ngài – do đó ngài là tính chân thật. Con hãy xem xét cốt lõi của sự gian dối. Đó là niềm tin có thể che giấu một điều gì đó, có thể nói và làm một đàng và nghĩ một nẻo. Quả thực là khi con rắn nói chuyện với E-và, nó đã giả dạng là một người tới giải phóng, tới để giải thoát nàng khỏi cùm xích của vị thày tâm linh trong vườn địa đàng. Ngay nơi đó nó đã tạo nền móng của bệnh tật – với sự gian dối, với ảo tưởng là có thể che giấu một điều gì đó.

Con hãy xem xét lòng chân thật và luật tự quyết cho con quyền có bất cứ trải nghiệm nào mà con mong muốn, cho con quyền bước lên sân khấu cuộc đời và khoác vào bất cứ bộ áo tuồng nào mà con muốn trải nghiệm. Không có gì sai trái, không có gì tội lỗi – hay bất cứ danh từ nào khác mà người ta muốn dùng – khi con thử khoác vào nhiều bộ áo tuồng trên sân khấu cuộc đời. Thượng đế đã cho con quyền làm điều này.

Khi con bắt đầu tin rằng con bị kẹt trong một bộ áo tuồng nào đó và có một lực bên ngoài ngăn chặn không cho con chuyển sang chuyện khác, thì sự gian dối xuất hiện. Vì sao thày nói đây là sự gian dối? Bởi vì khi con nhìn sự việc một cách thiết thực, thì con nhận ra là Thượng đế đã cho con quyền tự do tuyệt đối thử bất cứ bộ áo tuồng nào mà con mong muốn. Thượng đế không ép con phải thử bất cứ bộ áo tuồng nào, và điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là chính con đã chọn lựa bộ áo tuồng mà con đã mặc vào.

Khi con xây dựng niềm tin là con đã không chọn lựa hoàn cảnh hiện tại của mình – nghĩa là hoàn cảnh hiện tại của con không phải là hậu quả của những chọn lựa trong hiện tại và quá khứ của con – thì con tự đặt mình vào thế kẹt mà các thày đã gọi là thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu con nghĩ là có một lực bên ngoài đã đặt con vào hoàn cảnh hiện tại của mình, thì ai sẽ có thể giải thoát con ra khỏi hoàn cảnh đó? Theo đúng lý luận hợp lý thì phải nói đó là một lực bên ngoài, phải không con? Điều này có nghĩa là con đã trao đi quyền thay đổi hoàn cảnh của con. Con đã tự đặt mình vào thái độ tiêu cực chờ đợi một lực bên ngoài nào đó thay con hành sự. Con đã làm một điều mà con cũng có quyền làm – đó là trao cho một lực bên ngoài quyền tự quyết của mình.

Thày nhắc lại là Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Con có quyền làm điều trên. Như thày Maitreya đã giảng trong quyển sách của thày, con có quyền quyết định là con không muốn quyết định. Con có thể lấy quyết định là con không muốn quyết định nữa. Lúc đó, con tạo ra hình ảnh khô chết về một quyền lực bên ngoài điều khiển đời con.

5.2. Hãy thận trọng các điểm vi tế của luật tự quyết

Rắn sẽ rỉ vào tai con là con có quyền tạo ra vai tuồng đó, khoác vào bộ y phụ cáo tuồng đó để thử xem thế nào là cảm giác bất lực. Nếu con nhìn với lý trí đường thẳng, thì rắn có vẻ có lý. Nhưng điểm vi tế là một khi con trao đi uy lực của mình, thì làm sao con có thể rũ bỏ bộ áo tuồng? Làm sao con có thể giản dị bỏ nó lại phía sau và cất bước ra đi? Con có thấy điểm vi tế này chăng?

Nếu ta dùng lý luận đường thẳng, phân tích thì ta khó nói là rắn không có lý. Thượng đế đã cho con quyền tự do tuyệt đối và không giới hạn chọn lựa của con. Con có thể thử khoác vào bất cứ bộ áo tuồng nào, và bất kể bộ áo tuồng đó là gì, Thượng đế vẫn chấp nhận con như là sinh thể mà Thượng đế đã tạo ra như một sự nối dài của chính ngài. Bất cứ lúc nào con muốn bỏ đi con người cũ và khoác vào con người mới trong Ki-tô, con người mới trong cái Một, thì Thượng đế sẽ mở tay chào đón con. Thượng đế không giới hạn quyền tự do khoác vào một bộ áo tuồng và sau đó cởi nó ra.

Sự thực là lối lý luận của rắn giới hạn quyền tự do của con. Khi con chấp nhận lời gian dối, ảo tưởng cho rằng có một lực bên ngoài – tỷ dụ như vị Thượng đế giận dữ ở trên trời đã khiến con sinh ra trong tội lỗi – đã kết đọng hoàn cảnh hiện tại của con, thì con không thể giản dị tin rằng con có thể cởi bộ áo tuồng ra, từ bỏ con người cũ, và được tái sinh và trở nên một con người mới trong Ki-tô. Thượng đế đã cho con uy lực và quyền tự do để thực thi uy lực đó, nhưng rắn và tâm thức rắn tìm cách tước đi uy lực đó của con.

Thày, như là người đại diện của Ý chí của Thượng đế, tuyên bố rằng ý chí tối cao của Thượng đế là cho con quyền thực thi quyền tự quyết và tạo ra bất cứ trải nghiệm nào mà con mong muốn, vì như vậy con có cơ hội học hỏi. Đó là lý do vì sao con có thể tách mình ra khỏi cái một và tin vào sự dối trá của rắn và đi theo con đường giả, con đường hướng hạ, càng lúc càng tách mình ra khỏi cái một.

Con có quyền làm chuyện đó. Thày ủng hộ việc con có quyền đó. Nhưng điều thày muốn nói ở đây là ý chí của Thượng đế hoàn toàn không muốn con bị đau khổ vì bị giam cầm trong một ý niệm bản sắc hạn hẹp. Ý chí của Thượng đế không muốn con trở nên ít hơn, theo nghĩa con tự thấy mình ít hơn Sinh thể trong sáng mà Thượng đế đã tạo ra.

5.3. Khía cạnh Alpha và Omega của sự chữa lành

Khía cạnh Alpha của ý chí của Thượng đế cho con quyền tự do chọn lựa tuyệt đối. Khía cạnh Omega của ý chí của Thượng đế muốn con dùng quyền tự do chọn lựa để trở nên hơn nữa, chứ không ít hơn.

Bài học của sự chữa lành thực sự là gì? Sự chữa lành thực sự là gì? Đó là tự chữa lành!

Mục đích sự sống là gì? Đó là sự tăng trưởng cái ta, sự tăng trưởng sự tự nhận biết. Đó chính là toàn bộ mục đích của thế giới hình tướng là nơi con bắt đầu với một ý niệm bản sắc rất địa phương, con tự đồng hóa mình với một hình tướng vật chất, tỷ dụ như thân thể của mình. Ý niệm bản sắc đó có hạn hẹp đến đâu, con vẫn có tiềm năng tăng trưởng sự tự nhận biết cho đến khi con đạt được tâm thức của Đấng mà con là một phần của Đấng đó. Sự tăng trưởng đó là tự tăng trưởng. Thượng đế không áp đặt nó lên con, vì sự tự tăng trưởng không thể bị áp đặt.

Bước khởi đầu của sự tự chữa lành chính thực là con nhận ra con đã chọn lựa tách mình ra khỏi cái Một. Lý do vì sao thân thể hay tâm của con cần chữa lành là vì con đã lấy một số chọn lựa đã giới hạn mình, thay vì mở rộng ý niệm bản ngã của mình. Con bị giam trong một ảo tưởng qua đó con không còn thấy mình là một sinh thể tâm linh đang tạm thời khoác vào một vai tuồng và bộ áo tuồng trong màn kịch của vũ trụ vật chất. Thay vào đó, con nghĩ là con bị giam trong vũ trụ này, bị giam trong vai tuồng nào đó. Khi con làm vậy thì con trao đi quyền năng tự chữa lành của mình.

Làm sao con thực thi được quyền năng đó? Con yêu dấu, khi con đã thực sự hiểu luật tự quyết, thì con nhận ra con có quyền tự do, hoàn toàn tự do. Thượng đế đã cho con một ý chí hoàn toàn tự do. Điều này có nghĩa là, giống như con có quyền chọn khoác vào một bộ áo tuồng nào đó – bất kể bộ áo tuồng này là gì – thì bất cứ lúc nào, con có tự do tuyệt đối tách mình ra khỏi bộ áo tuồng – con chỉ giản dị cởi nó ra, bỏ nó xuống, để cho con người cũ chết đi và được tái sinh với một ý niệm bản ngã mới. Làm như thế là nhìn nhận quyền năng mà Thượng đế đã ban cho con. Chính tự ngã của con và các thày giả, những người có tâm thức rắn, đang tìm cách tước đoạt quyền năng của con bằng cách khiến con tin rằng hoặc con chính bộ áo tuồng hoặc con không thể giản dị cởi nó ra.

5.4. Mở tâm đón nhận một quan niệm mới về nghiệp quả

Khi con nhìn vào tập thể nhân loại, thì con có thể quan sát một lằn ranh phân chia. Nhiều người vẫn hoàn toàn tự đồng hóa với xác thân vật lý và với hoàn cảnh gia đình, văn hóa, quốc tịch, tôn giáo, sắc tộc, chủng tộc hay bất cứ sự phân chia nào khác của môi trường nơi họ lớn lên. Những người có tâm linh cao hơn đã bắt đầu tỉnh giấc khỏi ảo tưởng đó và nhận ra họ hơn những bản sắc vỏ ngoài, nhãn hiệu và phân chia. Tuy nhiên, khi con bắt đầu tỉnh giấc và nhận ra mình hơn nữa, con phải đối mặt với luận điệu gian dối là con không thể giản dị rũ bỏ cái bản sắc cũ. Luận điệu này cho rằng nếu con đã phạm lỗi lầm thì con đã có tội. Con phải đền tội, con phải cân bằng nghiệp quả.

Thày muốn mời con tham dự một cuộc thí nghiệm tư tưởng. Chúng ta hãy lấy một giáo lý được trao truyền ở phương Đông – đây cũng là một giáo lý mà các thày cảm thấy cần giảng dạy trong các đợt truyền giáo trước của giáo lý chân sư thăng thiên – là quan niệm coi nghiệp là một lực bên ngoài. Con đã phạm lỗi trong một kiếp trước và mang một món nợ với sự sống, và do đó cán cân phải được cân bằng lại. Năng lượng mà con đã tha hóa cần phải được cân bằng trở lại.

Quan niệm này không nhất thiết sai. Con có quyền tự quyết làm bất cứ điều gì con muốn. Nhưng cái gì cho con khả năng làm bất cứ điều gì trong thế giới vật chất này? Đó chính là vì con nhận một phần năng lượng tâm linh từ Hiện diện TA LÀ của con, và con biểu hiện nó qua bốn thể phàm của con. Lẽ đương nhiên con chịu trách nhiệm về cách con sử dụng năng lượng đó. Con không thể vĩnh viễn rời bỏ trái đất nếu con chưa nâng lên tất cả năng lượng mà con đã pha màu với rung động của phản tình thương đang giới hạn mọi sự sống.

Con phải tới điểm mà sự hiện diện của con trên trái đất ít nhất phải là một sự quân bằng – con không kéo sự sống xuống. Lẽ dĩ nhiên con không xuống đây để kéo sự sống xuống, và con cũng không xuống đây để vật lộn trong mấy trăm kiếp để rồi trở lại điểm thăng bằng và rời trái đất. Con tới đây để đem lại một món quà tích cực, để đem ánh sáng của mình chiếu vào sự tăm tối của vũ trụ vật chất với mục đích tối hậu là nâng cao toàn bầu cõi, như thày Maitreya có giảng, lên tới điểm nó có thể thăng thiên và thể hiện nước Trời. Chúng ta hãy xem xét sự việc con là một người đồng sáng tạo đã thử nghiệm với quyền tự quyết trong nhiều kiếp sống. Con đã khoác lên một số vai tuồng, con đã đồng hóa mình như một sinh thể tách biệt, và con đã dùng năng lượng mà Hiện diện TA LÀ đã ban cho con để sở hữu và chiếm hữu một số vật cho cái ta tách biệt đó. Có thể là con đã tìm cách nâng nó lên trên người khác, và qua đó đã đạt được chức vị nổi bật trong xã hội cho con cơ hội hạ thấp người khác và coi mình quan trọng hơn người khác.

Lẽ dĩ nhiên có nhiều cách để tạo nghiệp. Con hãy nhìn sự việc một cách thực tiễn và nhận ra rằng không có gì nói ra bằng lời mà không thể bị tâm thức rắn và lý luận rắn bẻ quẹo. Đó chính là bản chất của lý luận rắn, nghĩa là khi con đã ăn trái cấm, thì con sẽ “khôn ngoan như Thượng đế”, con trở thành như Thượng đế, “biết thiện và ác”. Có nghĩa là lúc đó con đi vào tâm thức nhị nguyên và nghĩ rằng – tự ngã con nghĩ rằng – nó có quyền định nghĩa thiện và ác một cách tối hậu.

Đó là lý do vì sao có những tôn giáo trên trái đất tự coi mình là tôn giáo thực duy nhất, và qua đó ấn định niềm tin tuyệt đối là những ai không theo tôn giáo đó sẽ phải bị thiêu đốt vĩnh viễn trong đia ngục. Có những người đã theo một triết lý chính trị và coi nó cao hơn tất cả mọi triết lý khác, và do đó tin rằng diệt trừ tất cả các triết lý khác và áp đặt thể chế của họ lên toàn thế giới là một điều chính đáng.

Tâm thức rắn giam con trong niềm tin là hình tướng mà con thấy trong thế giới vật chất có một thực tại tối hậu. Con không thể giản dị rời bỏ chúng. Con bị đóng đinh bởi hình tướng, bởi hình ảnh, bởi tâm thức. Như cuộc đời của Giê-su đã trải bày, con bước vào vở bi kịch của cuộc đời, và quả thực là chúng có thể “đóng đinh” con. Có vẻ, ngay cả với Giê-su, không thể làm gì khác ngoài thủ vai tuồng đó.

Con hãy nhìn hình ảnh những chặng đường thập tự của Giê-su như truyền thống Công giáo mô tả. Giê-su bị kết án tử hình. Giê-su nhận cây thập tự. Nhưng đây cũng là một hành động thụ động chấp nhận một vật mà người khác giao cho thày. Giê-su té ngã, ai đó giúp Giê-su khiêng cây thập tự, ai đó lau nước mắt của thày, ai đó tìm cách khuyên thày nên bỏ cuộc. Thày bị đóng đinh trên cây thập tự, thày chết, thân xác thày bị đem xuống, thân thày bị chôn xuống mồ. Con yêu dấu, tất cả đều có tính chất thụ động.

Điều gì thiếu sót trong hình ảnh các chặng đường thập tự? Nhiều điều lắm, nhưng đầu tiên là sự kiện Giê-su biết rất rõ chuyện gì có thể xảy ra khi thày chọn bước vào thành Jerusalem. Quan trọng hơn cả là khi thày bị treo trên cây thập tự, thày chọn dứt bỏ hồn ma, qua đó ngay tức khắc rũ bỏ ý niệm cái ta tách biệt và chứng minh rằng mọi người đều có tiềm năng để sinh thể cũ, cái ta cũ chết đi tức khắc. Khi làm vậy con không ngưng hiện hữu, như các thày giả và tự ngã muốn con nghĩ, nhưng con thật sự được tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn, cái ta mà con vẫn là trong mắt của Thượng đế.

5.5. Một quan niệm cách mạng về nghiệp quả

Có một thực tại sâu sắc hơn. Con hãy quay trở về quan niệm nghiệp quả, con có thấy ảo tưởng mà tâm thức rắn dán lên quan niệm này? Khi con hiểu là tâm rắn dựa trên sự tách biệt, và khi con tách rời khỏi nguồn cội của mình, thì con phải tin gì về uy lực của Thượng đế? Con phải tin rằng nó chỉ có thể phát xuất từ bên ngoài con.

Khi con xem mình là một sinh thể tách biệt, con không thể chấp nhận là uy lực của Thượng đế có thể đến từ bên trong con. Con dễ rơi vào niềm tin gồm hai cực điểm, một bên là con cần một đấng cứu rỗi bên ngoài, và bên kia là con cần làm điều gì đó trên thế gian này, với tư cách một cái ta tách biệt, để chuộc tội hay cân bằng nghiệp quả.

Con hãy chú ý nghe điều thày đang nói. Con hãy cảnh giác ngay bên giờ, có thể con nên bước lui lại và nhận ra là cái tâm vỏ ngoài, tâm phân tích của con đang đánh lừa con để hoặc con không nghe lời thày nói, hoặc con không nghe ý nghĩa thực của nó. Thày đã nói gì trước đây? Con đã chấp nhận là có điều gì sai trái với con, có vấn đề cá biệt nào đó đang ngăn chặn con bước vào nước Trời. Điều thật sự sai trái với con là khái niệm có điều gì đó sai trái.

Khái niệm này từ đâu tới? Nó tới từ ảo tưởng tách biệt, từ sự thành lập cái ta tách biệt! Ta có thể nói là quả thực có cái gì sai trái với cái ta tách biệt, nếu ta suy nghĩ theo lối nhị nguyên. Nhưng không có gì sai trái với con, sinh thể mà con thực sự là.

Nhìn một cách rộng rãi hơn, ta có thể nói là cũng không có gì sai trái với cái ta tách biệt, vì Thượng đế không có quan niệm đúng và sai. Thượng đế chỉ quan niệm cái gì thật và không thật. Chỉ những gì được tạo ra trong cái một, là biểu lộ của cái một, chỉ có những cái này là có thật. Tất cả những gì được tạo ra trong tâm thức tách biệt không có thật và do đó không thể ảnh hưởng đến phần thật của con người con. Chúng không thể giới hạn nó, không thể nhốt nó vào cái lồng do một vai tuồng, bộ áo tuồng, hình tướng hay ý niệm bản ngã nào đó tạo ra.

Con có bắt đầu thấy nghiệp quả thực sự là gì chăng? Con đã quá quen thuộc, quá bị điều kiện hóa bởi tâm nhị nguyên nên con đã tin rằng thực sự có hai đối cực – và một cực là Thượng đế và cực kia là phản-Thượng đế. Đây chính là sự cao ngạo và lòng kiêu hãnh tâm linh của sa nhân khi họ nghĩ rằng khi họ chống lại Thượng đế thì họ có thể ảnh hưởng Thượng đế hay các sinh thể tâm linh không tách biệt khỏi cái một. Thượng đế không phải là đối cực của sự tách biệt. Thượng đế là cái Một, không phân chia, không thể phân chia, không điều kiện. Làm sao một điều kiện lại có thể chống lại cái vô điều kiện?

Con có thấy chăng là trong cái một không thể có điều kiện? Làm sao con tách ra khỏi cái một? Bằng cách tạo ra điều kiện! Và làm sao con tạo ra điều kiện? Con phải tạo ra hai điều kiện, ít nhất là hai, chống đối lẫn nhau.

Nếu không có sự chống đối, thì con vẫn còn cái một và do đó không có tách biệt.

Thày là chân sư của Ý chí của Thượng đế. Thày có các người bạn yêu dấu ở sáu tia kia. Vậy có nghĩa chăng là thày chống đối thày Saint Germain, vì thày ở tia thứ nhất và thày Saint Germain ở tia thứ bảy, tức là hai cực điểm trên một nấc thang đường thẳng? Điều này làm sao xảy ra được? Có thể nào là Ý chí của Thượng đế chống lại Tự do của Thượng đế, khi ý muốn của Thượng đế là mọi sinh thể đều tự do – và con có tự do khi con nhập một với ý chí của Thượng đế muốn nâng mọi sự sống lên?

Con có thể nghĩ là trong một kiếp trước con đã tạo nghiệp xấu và nếu con muốn thăng thiên, con cần cân bằng nghiệp đó bằng cách tạo ra nghiệp tốt. Nhưng xấu và tốt là hai điều kiện nhị nguyên. Con không thể hóa giải, cân bằng hay phủ định một điều kiện nhị nguyên bằng cách thêm vào điều kiện đối nghịch. Con không thể khắc phục một vấn đề với cùng tâm thức đã tạo ra vấn đề.

Nghiệp quả là gì? Nó được tạo ra khi con dùng khả năng sáng tạo của mình qua phin lọc của cái ta tách biệt, nhị nguyên. Bất cứ điều gì con làm qua phin lọc đó tạo ra nghiệp khiến con tách biệt khỏi cái một. Chính vì con xem mình là một sinh thể tách biệt nên con chú tâm vào cái ta của mình, và do đó có thể đã có hành động vị kỷ hay ích kỷ theo định nghĩa thông thường – và do đó con tạo ra điều mà đa số gọi là nghiệp xấu. Chính ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt đã tạo ra nó.

Nếu vậy thì làm sao con có thể giải trừ bằng cách làm điều gì khác qua cái ta tách biệt? Con có thấy chăng là quan niệm con đã tạo nghiệp xấu với cái ta tách biệt, và nay con cân bằng nghiệp đó bằng cái ta tách biệt, là một điều phi lý, mâu thuẫn? Con càng nỗ lực cân bằng nghiệp do cái ta tách biệt tạo ra, thì con càng củng cố ảo tưởng con là một cái ta tách biệt.

5.6. Khi cân bằng nghiệp quả là một trở ngại cho sự thăng thiên

Con có thể nghĩ là thày nói đi nói lại cùng một chuyện – và thày quả đang làm vậy. Nhưng thày nói điều đó dưới những góc độ hơi khác nhau, vì thày đang cho con một hình tư tưởng kỷ hà. Nếu con không thấy nó từ một góc nhìn này, có thể con sẽ thấy nó từ một góc nhìn hơi khác. Ý chính là: con hãy nhận ra là quan niệm con cần cân bằng nghiệp quả đang củng cố ý niệm con là một sinh thể tách biệt. Phải chăng ngụ ý là con không thể thăng thiên – có nghĩa là, trên căn bản, trở về với cái một – nếu con chưa cân bằng nghiệp quả?

Trong tâm, con nói: “Tôi là một sinh thể tách biệt, và tôi phải tiếp tục là một sinh thể tách biệt, cho tới khi, trong tương lai nào đó, tôi cân bằng hết nghiệp quả như một sinh thể tách biệt và – “bụp” một cái – một ngày nào đó tôi sẽ thăng thiên mà không hiểu rõ vì sao.” Một số trong các con, đã quả thực nhận được từ những lần truyền giáo trước của chân sư thăng thiên một hình ảnh – hay cũng có thể nói là con đã chấp nhận một hình ảnh – là ngay tiến trình thăng thiên cũng có tính chất thụ động trong đó con cân bằng nghiệp quả và mọi chuyện còn lại sẽ tự động xảy ra.

Không phải vậy đâu! Làm sao con thăng thiên? Bằng cách lấy lại quyền năng của ý chí của con! Con có nghĩ chăng là thày, Chân sư MORE, đang đứng trên thiên đàng và tìm cách ép buộc người khác thăng thiên? Thày làm như vậy thì đạt được gì? Những người đó sẽ vào thiên đàng với cùng trạng thái tâm thức mà họ đang hiện có. Các thày không muốn thấy những khuôn mặt buồn bã hay những khuôn mặt kịch cỡm mà ta thấy trên trái đất. Các thày muốn con như con là – trong cái một.

Thày không nói là con trở về thiên đàng giống y như khi con từ thiên đàng xuống thế. Con học hỏi khi con sống trong các cõi dày đặc hơn, con mở rộng ý niệm bản ngã của mình vượt quá khi con được tạo ra. Nhưng vì con trở về trong cái một, con nhận ra là con và các thày không khác nhau. Con là một nối dài của chính Bản thể của các thày.

Điều thày đề nghị với con rất giản dị. Con hãy suy ngẫm là con, như một sinh thể tách biệt, đi tới kết luận là con là một sinh thể tâm linh từ thiên đàng xuống và muốn trở về thiên đàng. Để có thể trở về con phải cân bằng nghiệp quả, do đó con tiến hành công việc với cùng tâm thức tách biệt.

Con có thể tiến triển đôi chút nếu con làm như vậy. Con có thể cân bằng năng lượng. Con có khía cạnh Alpha của trạng thái tâm thức của con mà con dán lên năng lượng, Ánh sáng Mẫu-Vật. Khía cạnh Omega của Ánh sáng Mẫu-Vật mang vào độ rung thấp hơn vì nhận các hình ảnh dán lên nó. Con có thể phần nào làm công việc cân bằng, vì chắc chắn là một hành động vị tha sẽ cân bằng nghiệp quả, theo cách nói của con. Nhưng thày phải nói với con là con không thể hoàn thành tiến trình này nếu con vẫn còn nhìn mình như một cái ta tách biệt. Điều này không thể xảy ra.

Vì sao lại không thể xảy ra? Lý do là điều thày đã giảng – con chỉ có thể vào thiên đàng khi con trở thành một với uy lực của Thượng đế trong con. Con chỉ có thể trở thành một với cái đó khi con chiến thắng cái ta tách biệt.

Con phải chọn lựa thăng thiên. Thăng thiên không phải là chuyện thực thi một số yêu cầu vỏ ngoài rồi – “bụp” một cái – con ở trên cõi thăng thiên. Thăng thiên phải là một quyết định, một chọn lựa.

5.7. Một cách nhanh chóng hơn để vượt lên trên nghiệp quả

Tuy con có thể tiến triển đôi chút với tâm thức của cái ta tách biệt, con hãy xem xét một con đường khác. Con hãy suy ngẫm là thay vì chú tâm vào việc cân bằng nghiệp quả, hay một lực bên ngoài nào khác, con lắng nghe lời dạy của Ki-tô. Có phải chăng là thày đã nói: “Trước tiên hãy tìm cầu Nước Trời và sự công chính của Thượng đế, thì tất cả những thứ kia sẽ được ban thêm cho con.”

Nước Trời là gì? Nó thực là tâm thức Ki-tô dựa trên cái một nơi con có sự công chính – cách sử dụng đúng – của uy lực sáng tạo của mình. Con dùng nó để nâng cái Tất cả lên thay vì cái ta tách biệt. Con hãy suy ngẫm là thay vì chú tâm vào hành động cân bằng nghiệp quả là một hành động vỏ ngoài và có phần máy móc, con chú tâm vào việc chuyển đổi ý niệm bản sắc, hình ảnh về chính mình, cách nhìn cuộc đời. Con trải qua một chuyển đổi kinh thiên động địa vể bản sắc khi con không còn thấy tách biệt nhưng thấy cái một.

Chuyện gì sẽ xảy ra trong tiến trình này? Chuyện sẽ xảy ra là con lấy lại uy lực của mình, con kết nối trở lại với sinh thể cao mà con là và khi đó con có thể nói với Giê-su: “Ta và cha ta là một. Cha ta làm việc cho đến bây giờ, nay ta cũng làm việc như vậy.”

Khi con đi vào trạng thái một đó – ít nhất là một phần của trạng thái một tuy chưa hoàn toàn là quả vị Ki-tô – và con thấy con vẫn còn một ít nghiệp quả, thì con nghĩ công việc cân bằng nghiệp quả đó có khó chăng khi con có uy lực của Thượng đế chảy xuyên qua con và giúp con hoàn thành công việc? Đi con đường tâm linh dễ hơn nhiều khi ta khởi đầu bằng tìm cầu cái một, thay vì tìm cách thực thi một yêu cầu vỏ ngoài như cân bằng nghiệp quả và nghĩ rằng cái một sẽ tự động đến sau. Qua cách đó con giới hạn mình – có thể là trong suốt phần còn lại của kiếp sống này – vào việc sử dụng uy lực chảy xuyên qua cái ta tách biệt, thay vì uy lực của sinh thể cao mà con là.

Ảo tưởng, con yêu dấu – ảo tưởng! Lý luận của tâm rắn vi tế biết bao? Nó rất vi tế khi con nhìn nó từ bên trong cái ta tách biệt. Nó rất lộ liễu khi con vươn lên tâm Ki-tô và đạt được tầm nhìn vô điều kiện giúp con thấy chân lý không diễn tả bằng lời nói hay giáo lý. Con đã theo lời gọi của Ki-tô: “Thượng đế là Tánh linh, và những ai thờ kính ngài phải thờ kính trong Tánh linh và chân lý.”

Khi con biết Tánh linh của Chân lý, con nhận ra sự rung động của chân lý, và con có thước cùng-đo tối hậu, cây gậy chỉ đường tối hậu, cây gậy của Moses, có khả năng rẽ nước Biển Chết – là biểu tượng của tâm thức nhị nguyên. Lúc đó con có thể an toàn vượt qua biển nhưng, khi đoàn quân của cái chết tới sau con, thì nước của tâm thức nhị nguyên của chúng sẽ tràn lên chúng. Chúng bị cuốn đi trong sự náo loạn, trong khi con bước sang bờ bên kia, tới vùng đất của Do Thái, biểu tượng cho cái thật.

5.8. Một quan niệm không đường thẳng về luân hồi

Chắc con có nghe là El Morya, Chân sư MORE, có tiền kiếp là Thomas More, là Thomas Beckett, là vị Chân sư nào đó, hay một nhân vật lịch sử nào đó. Nếu con đi trở ngược dòng thời gian, thì thày có từng đầu thai như Abraham. Nhưng con thấy chăng, Thomas More đã chết, Abraham đã chết. Tuy rằng con có thể nghĩ thày đã từng đầu thai như Abraham, nhưng thày nói là không phải vậy. Vì trước khi có Abraham, TA LÀ.

Vậy phải chăng thày chối bỏ đã có một tiền thân là Abraham? Phải chăng thày chối bỏ giáo lý được trao truyền? Không, thày không chối bỏ. Thày muốn con tiến lên cao hơn và nhận ra là như một sinh thể thăng thiên, thày đã nhập một với Sinh thể cao, mà từ sinh thể đó đã đầu thai như Abraham. Ý niệm bản ngã đã đầu thai như Abraham và những nhân vật kia không còn nữa. Thày HƠN NỮA. Thày đã vươn lên trên mọi ý niệm bản ngã thế gian. Thày đã trút bỏ các bộ áo tuồng. Thay đã đứng trần truồng trước hồ nước chữa lành và đã bước đi qua bờ bên kia. TA LÀ một sinh thể tái sinh, như con cũng có thể tái sinh, con yêu dấu.

Con hãy đi theo niềm hân hoan của mình! Con hãy xem điều gì mang lại cho con niềm vui lớn nhất, vì con sẽ thấy là điều cho con niềm vui lớn nhất là ý niệm là một với cai Ta bên trong của con, với ngọn Lửa Thượng đế của con, với Bản thể tâm linh cao hơn mà từ đó con sinh ra. Con hãy dùng niềm vui đó như thước đo để quyết định làm điều này hay điều kia ở giai đoạn này của cuộc đời của con.

Điều cho con niềm vui lớn nhất là điều mang con đến gần hơn sự hợp nhất với Bản thể cao hơn của con. Nếu có điều gì hạ năng lượng của con xuống, lấy mất sự chú tâm của con, khiến con cảm thấy mình phải làm sao để xứng đáng với một hình ảnh nào đó, mình phải đóng một vai tuồng nào đó, thì con hãy bước lui lại và nói: “Việc này không phải là việc của tôi!”

Những người phái nữ hiện nay đang hòa điệu hơn với con người tâm linh và sứ vụ thiêng liêng của họ hơn là người phái nam. Con cảm nhận là khi một người nam tới gần con và có thể có nhiều thiện ý – nhưng trong tâm người đó có một hình ảnh là con phải như thế nào nếu con chấp nhận đề nghị của y – con cảm thấy là người đó đang tước đi niềm hân hoan của con.

Con hãy bước lui lại và tìm xem đâu là niềm hân hoan của con, và con hãy theo nó – như nhiều người trong các con đã làm. Thày chỉ đơn giản giúp con chú tâm có ý thức là con có thể nhận biết rõ hơn về điều đó, con có thể cảm nhận có ý thức trong tim đâu là niềm hân hoan, cái gì mở rộng bản thể mình, ý niệm bản thể của mình, niềm vui của mình.

Có nhiều cách để thực hiện điều này. Con có thể đạt được qua sự sùng kính, như nhiều người đã làm qua nhiều thời đại, sùng kính Thượng đế, Giê-su, Mẹ Mary, đức Phật, Khrisna hay những vị đại diện tâm linh chân chính khác. Như Ấn giáo mô tả, có nhiều đường dẫn tới Thượng đế, nhiều hình thức yoga. Con hãy theo phương pháp đem lại cho con niềm vui lớn nhất, và đừng xem những người đang theo niềm hân hoan của họ là sai.

Con yêu dấu, thày nói với con là thày là đại diện của Ý chí của Thượng đế vì thày sùng kính vô điều kiện Ý chí của Thượng đế. Thày thương yêu Ý chí của Thượng đế. Thày thương yêu Uy lực của Thượng đế, biểu lộ cùng với tình thương vô điều kiện muốn nâng mọi sự sống lên.

Làm sao con có thể nhập một cách tối hậu với ý chí và uy lực của Thượng đế? Con có thể nào chiếm uy lực của Thượng đế bằng vũ lực của cái ta tách biệt chăng? Không đâu, con chỉ có thể thương yêu ý chí và uy lực – ý chí muốn nâng mọi sự sống lên. Khi con không còn động cơ nào khác, thì uy lực của Thượng đế sẽ tuôn chảy xuyên qua con để nâng mọi sự sống lên.

Con yêu dấu, con hãy được niêm trong tình thương của thày – yêu Ý chí của Thượng đế và yêu con. Ý muốn của Thượng đế là con có quyền tự quyết, và con có thể nghĩ là nếu con lấy chọn lựa “sai” thì thày sẽ không thương yêu con. Nhưng Thượng đế đã cho con quyền tự quyết và do đó – bất kể chọn lựa nào con đã lấy – thày vẫn thương yêu con vô điều kiện.

Lẽ dĩ nhiên, tình thương của thày không ngăn thày là một vị thày nghiêm nghị, không tìm cách khiển trách con, nhưng muốn cho con một thước cùng-đo – mà tâm rắn không thể tranh cãi, bóp méo và bẻ quẹo. Tình thương của thày bất di dịch, như Tảng đá của Ki-tô. Khi con chân thật, con sẽ tìm sự bất di dịch của Tảng đá của Ki-tô để có thể phân biện đâu là thật đâu là giả.

Con yêu dấu, TA LÀ thật. Con có chịu nhìn nhận chăng là con cũng thật? Nếu vậy, con hãy được niêm trong Ngọn lửa của Thực tại.

Hãy để tình thương tuôn chảy!

Bài giảng của chân sư thăng thiên Elohim Heros và Amora qua trung gian Kim Michaels, ngày 2/1/2009. Bài này được xếp thành Chương 6 của quyển Làm sao giáo tiếp từ trái tim (How to Communicate from the Heart, Kim Michaels, 2014).

Các thày đến đây như một với cái Duy nhất, thày được gọi là Heros và Amora, là Elohim của Tia sáng Thứ ba, để cống hiến các con một chút hiểu biết và, nếu các con chấp nhận, kinh nghiệm trực tiếp tình thương liên hệ ra sao với giao tiếp từ trái tim.

Tại sao thày lại muốn con đọc bài thỉnh cầu Chiến thắng Quá khứ trước khi nghe bài truyền đọc về tình thương này? Con nhớ là trong bài thỉnh cầu đó con xác định lòng tha thứ triệt để, vô điều kiện, tha thứ mọi chuyện đã xảy ra trong quá khứ giữa con và người khác, giữa con và Thượng đế, và giữa con và Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con neo chặt trong tình thương vô điều kiện thì quá khứ không biến đi nhưng nó không còn ảnh hưởng hiện tại của con – và do đó nó không ành hưởng tương lai của con. Con yêu dấu, vì sao lại như vậy? Đó là vì khi con là Một với ngọn lửa, với Dòng Sông Sự Sống của tình thương vô điều kiện thì con biết là con hơn, hơn vô kể những gì con đã thể hiện trong quá khứ trên quả điạ cầu hạn hẹp này.

Con có thể bước ra ngoài và ngắm nhìn tia nắng phản chiếu trên vũng nước bên đường. Tia nắng đó không đồng hóa mình với vũng nước. Nó biết nó là một tia nắng. Dù con có thể nhìn tia nắng qua cửa sổ nhơ bẩn và thấy tia nắng bị nhuộm màu bởi cửa sổ, nhưng tia nắng chỉ bị nhuộm màu trong mắt của riêng con mà thôi, còn chính nó thì nó biết là nó là một phần của Mặt trời. Con cũng vậy đó, con là một phần nối dài của Mặt trời Hiện diện TA LÀ của con, và từ đó của Mặt trời đấng Sáng tạo ra con. Khi con tự cho phép kết nối lại với thực tại đó thì con sẽ cảm thấy tình thương vô điều kiện của đấng Sáng tạo tuôn chảy trong con. Khi đó thì làm sao con có thể đồng hóa mình với tình huống hay điều kiện đã xảy ra trong quá khứ trên địa cầu này? Con sẽ biết là con hơn thế rất nhiều. Con cũng sẽ biết là người khác cũng hơn các thể hiện mà con đã gặp trong quá khứ. Từ đó con sẽ vượt qua khuynh hướng thường gây xung đột nhất trên thế gian, là khuynh hướng giữ chặt hình ảnh về mình, về người khác, và ngay cả về thế gian và Thượng đế dựa trên quá khứ.

Quá khứ trở thành kho dữ liệu

Qua các bài giảng về tuệ giác và trí năng – trong đó các thày đã giảng là trí năng được tạo ra để hoạt động trong thế giới hình tướng bằng cách tìm ra và phân loại sự khác biệt và phân tích nguyên do trong thế giới hình tướng – con nhận ra chuyện đã xảy ra cho tất cả mọi người là họ tạo ra một kho dữ liệu trong tiềm thức của họ. Đa số không nhận ra sự kiện này, nhưng một số đã bắt đầu vén bức màn và nhận ra làm sao họ tạo những hình ảnh này trong quá khứ.

Một khi kho dữ liệu được thành lập thì một biến cố mới xảy ra sẽ ngay lập tức được so sánh với kho dữ liệu. Khi con gặp một người thì ngay lập tức tiềm thức của con dán cho người đó một nhãn hiệu để xếp họ vào thể loại hay ngăn tủ mà con đã thiết lập dựa trên quá khứ. Khi đó, con biết phải đối xử với người đó ra sao dựa trên cách mà con đã đối xử với người cùng thể loại trong quá khứ.

Con có thể nghĩ là khi một người mới gặp một người khác lần đầu, ít ra là trong kiếp sống này, thì họ sẽ nhìn người đó không định kiến và cho người đó cơ hội chứng tỏ con người thật của mình. Nhưng ít ai làm được chuyện này. Ngược lại, họ tức khắc và vô thức xếp người kia vào một thể loại gọn ghẽ nho nhỏ trong kho dữ liệu trong tiềm thức của họ. Một khi tiềm thức cảm thấy có đủ thông tin để xếp loại người khác thì mình không còn đối xử với người đó như một cá nhân duy nhất nữa. Mình sẽ đối xử với người đó như là mình muốn đối xử – thực ra là mình đã đối xử – với những người tượng tự trong quá khứ.

Căn bản xung đột

Hiện tượng trên, khi đi đến tột cùng, dĩ nhiên là lý do tạo xung đột giữa các nhóm người, tỷ dụ giữa người khác màu da, khác giòng giống, hay giữa nam nữ. Ta gặp một một người và tức khắc lượng định: “Đây là người nam hay nữ?” Nếu vậy thì ta cần phải cư xử một cách nào đó. Ta tự hỏi: “Người này da đen hay da trắng?” và liền quyết định phải cư xử một cách nào đó. “Người này là người Do Thái hay thuộc một chủng tộc mà ta đã từng biết?” Nếu vậy thì ta phải cư xử thích ứng.

Trí năng suy luận như sau: nếu người này thuộc nhóm mấy triệu người da đen hay mấy tỷ phụ nữ, thì chắc chắn họ phải cư xử giống như những người cùng nhóm. Như các thày đã giảng hôm qua, trí năng không có khả năng tiếp cận cái vô biên, cái vô điều kiện của Dòng Sông Sự Sống, nó chỉ hiểu được thế giới hình tướng hạn hẹp trong đó mọi thứ đều được phân loại dựa trên tính chất nào đó. Tính chất đó là gì?

Hãy dùng tuệ giác để nhận định người trí thức

Đây là lúc con cần dùng tuệ giác để nhận định những người trí thức trên thế gian này. Họ là những người thuộc chính quyền, tôn giáo hay khoa học tự cho mình có hiểu biết hơn người. Con hãy quan sát họ, và sau đó nghiên cứu kỹ hơn. Con sẽ thấy là nhiều người trí thức rất thông minh và có thiện ý, nhưng họ cũng hoàn toàn tin chắc, dựa trên trí năng suy luận, là khoa học là cách duy nhất để hiểu thực tại, không có gì ngoài thế giới vật chất, và tôn giáo chỉ là một cái gì không thực do trí tưởng tượng dựng nên.

Cũng giống vậy, con sẽ thấy là có người hoàn toàn tin chắc, dựa trên trí năng suy luận, là chỉ có ý thức hệ hay hệ thống chính trị của họ là có giá trị, và nó sẽ đem nước Trời hay một thiên đàng nào khác tới thế gian này. Dĩ nhiên là trong lãnh vực tôn giáo, con cũng sẽ tìm thấy các nhà thần học hoàn toàn tin chắc là chỉ có tôn giáo của họ là có giá trị, tất cả các tôn giáo khác đều sai, khoa học cũng sai, không có giá trị, vân vân và vân vân.

Khi con xem xét thì sẽ nhận ra rằng tất cả mọi người đều có một thế giới quan, một cách nhuộm màu định ra bộ màu của kho dữ liệu của họ. Ai ai đều tin chắc kho dữ liệu của mình không chủ quan, và nó là cách duy nhất nhìn đời đúng đắn. Do đó, họ không bao giờ tự hỏi quan niệm căn bản về cuộc đời của họ có đúng hay không. Quan niệm căn bản này chính là nền tảng của kho dữ liệu, nó nhuộm màu mọi thứ trong đó. 

Rơi vào phản tình thương

Khi một người chấp nhận cái nhìn hạn hẹp như vậy thì họ không tránh rơi vào rung động của phản thình thương. Khi con chấp nhận một cái nhìn hạn hẹp và coi nó là sự thực bất biến – và chỉ có nó là đúng –  thì con sẽ phải đối diện sự kiện có nhiều cái nhìn khác trên thế gian này. Do đó, con sẽ bị rơi vào tranh chấp nhị nguyên vì phải bảo vệ quan điểm của mình trước những quan điểm ngược hoặc khác quan điểm của con. Cũng có thể là con muốn đạp đổ những quan điểm đó, hay đi tới muốn đạp đổ hay giết những người chủ trương hay tin vào chúng.

Cảm xúc bị đe dọa bởi quan điểm khác – định kiến giới hạn khác, hay thế giới quan khác – là chỉ dấu phản thình thương. Đó là chỉ dấu con đã bị các thày giả chủ trương phản tình thương quyến rũ, bị cuốn hút bởi tâm thức phản tình thương, và đã để tâm thức này ảnh hưởng kho dữ liệu, có thể là đã cho nó làm nền tảng của kho dữ liệu của con. Nó đã nhuộm màu cốt lõi thế giới quan của con, cách con nhìn thế gian, Thượng đế và người khác. Nó nhuộm màu cách con nhìn chính mình và liên hệ với thế gian, người khác và Thượng đế, và ngay cả cách con liên hệ với chính mình tức là cách con tự đánh giá mình.

Điều mà thày cố trình bày ở đây là khi con rơi vào trạng thái tâm thức đó thì không thể giao tiếp từ trái tim. Như các thày đã nói trước đây, giao tiếp từ trái tim đặt căn bản trên quan niệm duy nhất, tức là cốt lõi con người mình là một với tất cả mọi sự sống. Nếu con muốn tiếp cận cái duy nhất đó – tức là chấp nhận cái duy nhất, cho nó tuôn chảy trong con và biểu lộ qua con – thì con phải chịu chất vấn kho dữ liệu, thế giới quan của con và tự hỏi: “Nó dựa trên tình thương hay phản tình thương?”. Các con yêu dấu, tình thương thật sự, tình thương chân chính, tình thương sống động, là tình thương vô điều kiện.

Vì sao tình thương bị hiểu lầm

Nếu con nhìn thế gian thì sẽ nhận ra là trong số các khả năng hay đặc tính thì tình thương có lẽ bị ngộ nhận nhất. Vần đề là vì con người muốn hiểu tình thương là gì. Con người xem thế nào là hiểu? Họ coi nó là một hoạt động của trí năng được thi hành bằng cách so sánh với những gì có trong kho dữ liệu. Do đó tình thương sẽ bị nhuộm màu bởi thế giới quan là nền tảng của kho dữ liệu. nhưng tình thương cũng bị nhuộm màu bởi các kinh nghiệm cũ về tình thương, hay là cái gì được coi là tình thương, trên địa cầu.

Thực tế là rất ít người trên địa cầu đã trải nghiệm tình thương vô điều kiện trong cõi vật chất.  Ta cũng có thể nói là hình thái trong sạch nhất của tình thương vô điều kiện không thể bộc lộ trên trái đất vì rung động của trái đất quá thô đặc. Tuy thế, ta vẫn có thể thấy vài hình thái – như là bóng dáng – của tình thương vô điều kiện. Đa số chưa trải nghiệm tình thương này, vì họ chỉ biết tình thương có điều kiện, tức là quan niệm trong kho dữ liệu là tình thương phải được bày tỏ như thế nào, được hình thành dựa trên thế giới quan và kinh nghiệm quá khứ của họ.

Khi một người tìm cách hiểu tình thương là gì, thì một cách đương nhiên và không ý thức, họ sẽ dựa trên kho dữ liệu của họ. Nhưng các con đã nhận ra ý của thày chưa? Kho dữ liệu được thiết kế và hình thành bởi trí năng, mà trí năng thì được thiết kế để giúp con người sống trong thế giới hình tướng trong đó mọi vật đều được phân biện do đặc tính và giới hạn của chúng.

Tình thương không có điều kiện.  Làm sao tình thương có thể bị giam vào kho dữ liệu, là cái gì được thiết kế để giúp con người sống trong thế giới vật chất? Các con có thấy chăng là không thể hiểu tình thương vô điều kiện bằng cách đó được. Hoặc là con người không hiểu tình thương là gì – và có nhiều người đã chịu thua không muốn hiểu – hoặc là họ tưởng họ hiểu tình thương là gì. Nhưng thực sự là họ chỉ hiểu một cái gì do kho dữ liệu chế ra và được họ phóng lên Thượng đế.

Hãy để tình thương tuôn chảy

Nếu con có một người trên địa cầu nhìn mặt trời qua cặp kính màu đỏ và tin chắc là mặt trời màu đỏ, trong khi con thì không đeo kính và thấy rõ mặt trời trên bàu trời như thế nào, thì dĩ nhiên là con thấy rõ người ấy buồn cười quá.  Con có thấy chăng là có rất nhiều người trên trái đất đang nhìn thế gian và tình thương qua kính màu? Họ khẳng định rằng tình thương là như vậy, sự sống là như vậy, Thượng đế là như vậy, người khác là như vậy. Những người này không để hòa điệu cùng tình thương vô điều kiện. Họ không thể nhận được nó, họ không thể kinh nghiệm nó.

Họ cũng không thể cho tình thương vô điều kiện, vì họ không thể để cho nó không có điều kiện, và để nó tuôn chảy và biểu lộ qua họ một cách vô điều kiện. Thày không muốn nói là tình thương vô điều kiện lúc nào cũng giống nhau, nhưng trong mọi hoàn cảnh, nó đều thể hiện qua hành động nâng cao người khác lên, tùy trình độ tâm thức của họ lúc đó.

Trong khi đó thì con người luôn luôn tìm cách biểu lộ tình thương theo hình ảnh mà họ có trong kho dữ liệu. Điều này dĩ nhiên có nghĩa là họ sẽ phải điều khiển tình thương. Và cũng có nghĩa là họ tự cắt rời khỏi Dòng Sông Sự Sống, là dòng tình thương vô điều kiện – là cái gì không điều khiển được, không thể điều khiển được, vì nếu như vậy thì nó đã không còn là vô điều kiện nữa.

Nếu con thực sự muốn giao tiếp từ trái tim, thì con hãy suy ngẫm về tình thương vô điều kiện và so sánh nó với ý kiến của con về tình thương. Con phải chịu chất vấn kho dữ liệu của con và nhận ra là nó đã nhuộm màu quan điểm của con về tình thương ra sao. Chính nó đã ngăn cản không cho con mở tâm đón nhận dòng tình thương vô điều kiện, và cũng không kinh nghiệm là con đang được thương vô điều kiện.

Những gì con làm cho người khác

Ki-tô có nói: “Con hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho mình”. Ý nghĩa thực sự của câu này là những gì con làm cho người cho thấy những gì con đã làm cho chính mình – một cách vô ý thức. Khi con thiết lập một kho dữ liệu và dùng nó để phán xét người khác, con có thấy điều đương nhiên là người đầu tiên bị bỏ vào kho dữ liệu chính là con?

Điều tự nhiên là con đã phán xét chính mình trước khi con bắt đầu phóng phán xét này tới người khác. Khi con phán xét người khác thì con đã nhốt mình vào một hộp tư tường khiến con không kinh nghiệm được tình thương vô điều kiện của Nguồn cội của mình. Do đó, con không kinh nghiệm được tình thương vô điều kiện và cứ luôn luôn cố biện minh cho tình thương có điều kiện của mình.

Làm sao vượt qua bế tắc này? Làm sao ngưng cái vòng luẩn quẩn này? Ta có thể bắt đầu bằng cách dùng tâm – không phải là dùng trí năng, nhưng dùng chân tâm – để hiểu vấn đề là gì và nhận ra nhu cầu vượt lên trên kho dữ liệu và tách ra khỏi các phin lọc. Sau đó con cứ tiếp tục tách ra cho tới khi con đứng xa đến độ con có thể nhìn quá các phin lọc, và bắt đầu thấy thế giới thoáng hiện đằng sau các phin lọc, đó chính là thế giới thực.

Lúc đó con sẽ thấy mặt trời như nó thực sự là, thấy chân tâm của con như nó thực sự là, và kinh nghiệm được tình thương vô điều kiện mà chân tâm dành cho con. Con sẽ chợt tỉnh ngộ và nhận ra sự thực tuyệt đối và kỳ diệu là Hiện diện TA LÀ của con không nhìn thế giới qua các phin lọc mà tâm phàm của con đã tạo ra. Đây là một điều không dễ nhận ra ngay, ngay cả khi đã trực diện những điều thày đang giảng. Một người thường cần nhiều năm, có khi là nhiều kiếp, mới có thể tách đủ ra khỏi tự ngã để cái Ta biết của người đó nhận ra là tự ngã không phải lúc nào cũng đúng.

Tự ngã không ảnh hửơng được thực tại

Con hãy nhìn những người đang bị chìm đắm vào một tranh chấp nào đó. Cái Ta biết của họ hoàn toàn đồng hóa với tự ngã và cách tự ngã nhìn cuộc đời. Đối với họ, bảo vệ tôn giáo hay ý thức hệ là một vấn đề sinh tử, và họ có thể đi tới giết người để làm chuyện này.

Con là những người tâm linh nên dĩ nhiên là con đã bắt đầu tách ra khỏi tự ngã, tức là con đã thấy là tự ngã không phải lúc nào cũng đúng. Nhưng con cũng nên thận trọng và nhận ra điểm tế nhị là các người tâm linh cần nhận ra – cần trải nghiệm – các giới hạn của tự ngã như một sự thực tuyệt đối, không thể chối cãi.

Các con hãy nhớ lại thời Trung cổ khi con người tin rằng vũ trụ rất nhỏ và quả đất là trung tâm vũ trụ. Và các con hãy nhìn lại thời nay khi mọi người từ khi bắt đầu khôn lớn đều biết rằng quả đất chỉ như là một hạt bụi nhỏ trong vũ trụ bao la gồm nhiều tỷ thiên hà. Bây giờ các con hãy thấy là hiện nay có nhiều tỷ người trên địa cầu vẫn bị chìm đắm trong niềm tin rằng nếu họ cầu Thượng đế hay làm một số nghi lễ nào đó, họ sẽ điều khiển được Thượng đế và khiến ngài cho họ gì họ muốn.

Đây chính là điều mà con cần nhận ra – đó là tự ngã hoàn toàn không có quyền gì trên thực tại cả. Tự ngã có thể cả quyết cách nó nhìn thế gian là đúng, nhưng đó vẫn chỉ là một ảo tưởng. Bên ngoài vũ trụ song hành mà tự ngã tự tạo ra có một vũ trụ thực hoàn toàn không bị chi phối bởi nó – giống như Mặt trời không bị ảnh hưởng bởi bất cứ chuyện gì xảy ra trên địa cầu. Con có nghĩ rằng Mặt trời bị ảnh hưởng bởi sự việc hôm nay là một ngày mây mù? Chắc hẳn là con cũng nhận ra là tuy chỗ con ở có vài đám mây, nhưng cũng có rất nhiều vùng đất rộng trên địa cầu đang không có mây.

Tình thương vô điều kiện không có điều kiện

Khi con bị chìm đắm vào thế giới quan của con – tức là khi con bị kẹt trong quan điểm tự ngã và kho dữ liệu bé nhỏ của con là trung tâm vũ trụ – thì con không thể trải nghiệm tình thương vô điều kiện. Con yêu dấu, tình thương vô điều kiện không có điều kiện nào hết – tức là nó tỏa xuống tất cả mọi người trên địa cầu 24 tiếng mỗi ngày.

Con thực sự không thể rút vào bất cứ bầu cõi nào – trong thế giới vật chất hay cõi nào khác – mà trong đó không có tình thương vô điều kiện của Thượng đế. Điều này không thể xảy ra được. Làm sao ngăn được cái gì vô điều kiện? Nó xuyên qua tất cả mọi điều kiện! Con có thể nghĩ là con đang tách ra khỏi nó, nhưng con chỉ tách ra vì con nhìn thế gian qua kho dữ liệu đang nói với con: “Tình thương là thế này thế kia, nó không là thế này thế khác.”

Khi con giao tiếp với người khác, lẽ dĩ nhiên là con giao tiếp qua kho dữ liệu của con. Và người kia giao tiếp với con qua kho dữ liệu của họ. Đó là lý do tại sao con thấy những người có kho dữ liệu hoàn toàn khác nhau hay xung đột với nhau. Đó là lý do tại sao con thấy con người hay tụ họp với những người có kho dữ liệu giống họ, đó là để tránh những xung đột tai hại nhất. Nhưng con cũng thấy là khi mình tụ họp với người có cùng ảo tưởng với mình thì mình khó vượt qua các ảo tưởng này. Khi các người tâm linh hay tôn giáo trên thế giới củng cố cho nhau ảo tưởng của họ thì họ ngăn trở tiến bộ tâm linh của họ – vì họ thuyết phục lẫn nhau là quan điểm của họ về thực tại là chân lý duy nhất.

Hãy đừng đứng tách ra

Các thày đã cố ý không muốn phong trào này có một hình ảnh đậm nét. Các thày không muốn các con cảm thấy mình khác các người tâm linh khác, và dĩ nhiên là sẽ nghĩ mình hơn người khác vì mình có một số giáo lý cao siêu. Các thày muốn các con giao tiếp từ trái tim bằng cách hòa điệu với chân ngã và để kinh nghiệm tình thương vô điều kiện biểu lộ, và sau đó trải nghiệm – không bằng trí năng suy luận mà qua kinh nghiệm trực tiếp – là con hơn cái thể hiện vật chất này.

Lúc đó, con sẽ có thể tạo cho mình thói quen, là mỗi khi con gặp người khác, con không phản ứng theo những gì họ nói, họ làm mà cũng không theo rung động bên ngoài hay trạng thái tâm thức của họ. Trái lại, con tạo thói quen hòa điệu với cái ta vô biên của mình. Con cũng có thể nhận ra rằng người kia – bất kể hình tướng bên ngoài và biểu hiện của họ ra sao – cũng có một cái ta vô biên.

Khi con cảm thấy có xung đột với người khác thì con có thể xin cái ta vô biên của mình giao tiếp với cái ta vô biên của họ, và đem tối đa cảm nhận hợp nhất xuống cái ta-ý-thức của họ. Con sẽ thấy là nhiều xung đột sẽ được giải quyết một sớm một chiều khi họ có tâm thức mới. Và dĩ nhiên cũng là vì chính con cũng có tâm thức mới hai bên không là đối thủ của nhau. Mọi người chắc chắn đều liên đới trong thế giới vô biên, dù rằng có vẻ rất tách biệt trong thế giới vật chất và ảo tưởng này.

Kho dữ liệu đánh bẫy con như thế nào

Tác dụng của kho dữ liệu là tâm vô thức của con lúc nào cũng nỗ lực so sánh mọi chuyện với những gì có trong kho dữ liệu. Những gì có trong kho dữ liệu là những gì đã xảy ra trong quá khứ. Do đó, con không kinh nghiệm giây phút hiện tại như nó đang là. Con không kinh nghiệm thực tại với tâm trẻ thơ, như Giê-su đã giảng. 

Con kinh nghiệm thực tại qua phin lọc của quá khứ chứ không kinh nghiệm giây phút hiện tại. Con phóng chiếu lên thực tại một hình ảnh dựa trên những gì có trong kho dữ liệu. Tất cả mọi thứ trong thế giới vật chất đều được tạo ra từ ánh sáng Mẫu-Vật, là một tấm gương vũ trụ phản chiếu những gì phóng chiếu tới nó. Nếu con cho phép quá khứ phóng chiếu tới giây phút hiện tại rằng thế giới có nhiều người không tốt đang muốn hại mình, thì con sẽ thu hút những người sẵn sàng đóng vai đó.

Người đó có thể có một nhu cầu được hình thành bởi quan điểm thế giới có nhiều người muốn làm nạn nhân, hoặc không muốn tự lấy quyết định và cần người khác lay chuyển và bảo phải làm gì. Đây là hiện tượng tương ứng tức là người có nhu cầu điều khiển người khác sẽ thu hút người có nhu cầu bị điều khiển, làm nạn nhân.

Khi nào thì con sẽ được tự do? Con sẽ được tự do khi con chịu nhìn vào kho dữ liệu và nhìn vào từng hồ sơ từng ngăn tủ trong tiềm thức của con. Con có thể vào đó và dọn dẹp, vứt đi các mảnh tài liệu cũ kỹ và nhận ra con không cần phải giữ tờ biên nhận của tiệm chạp phô 15 năm về trước.

Cũng vậy, quyết định mà con lấy dựa trên những gì xảy ra 15 kiếp về trước cũng không cần ở đó nữa.

Hãy sẵn sàng kinh nghiệm tình thương vô điều kiện

Điều cơ yếu mà thày muốn nói ở đây là con chỉ có thể giao tiếp từ trái tim khi con kinh nghiệm được tình thương vô điều kiện và con sẵn sàng gửi tình thương vô điều kiện đó tới người khác. Con sẵn sàng không phán xét họ, không dán nhãn họ, và cho phép họ là gì họ là ngay lúc này. Khi đó, như thày MORE đã giảng, con cũng sẽ cho phép con là gì con là bất kể người kia chọn lựa ra sao, vì con nhận ra mình có thể chọn phản ứng của mình bất kể trạng thái tâm thức của họ.

Nếu con không làm vậy thì con đã mặc nhiên cho phép tất cả các người đã đối xử với con một cách nào đó trong quá khứ quyết định phản ứng của con đối với người trước mặt đang có vẻ đối xử tương tự. Nhưng người này thực ra chỉ biểu lộ trạng thái tâm thức của mình không liên quan gì đến các người kia trong quá khứ. Người đang đứng trước mặt con không liên hệ gì đến những người mà con đã gặp trong quá khứ, quả thật là không có liên hệ khách quan nào. Các người này chỉ có liên hệ trong tâm con, vì con cứ thu hút một loại người vì con không giải quyết được phin lọc trong kho dữ liệu cho rằng thế giới toàn những người như vậy.

Giao tiếp từ trái tim là thể hiện tình thương vô điều kiện. Tình thương vô điều kiện có nghĩa không lệ thuộc quá khứ. Đây không có nghĩa là con không nhớ quá khứ, mà có nghĩa là con không mang vết thương vết thẹo tình cảm và các định kiến khiến con phản ứng một cách nào đó khi con gặp một người nhấn các nút được tạo ra trong quá khứ.

Hãy tiếp xúc hiện tại ngay lúc này

Con không có nút nào hết. Con có thể nói như sau: “Bất kể chuyện gì xảy ra trong quá khứ, ngay lúc này, tôi không sống lại quá khứ. Tôi sống giây phút hiện tại với tâm như một tấm bảng trắng, với tâm ngây thơ của đứa trẻ.” Khi con làm thế thì con tự giải thoát khỏi khuôn nếp phản ứng cũ và tìm ra một phản ứng cao hơn khi con gặp một hoàn cảnh giống như một hoàn cảnh con đã gặp trước đây. Khi con chứng tỏ con muốn chọn một phản ứng cao hơn thì con mở cửa để tình thương vô điều kiện tràn vào, vì con không tìm cách bảo vệ mình và ngăn chặn người khác. Ngược lại con đang tìm cách nâng người khác lên, và đó chính là điều kiện khiến tâm con mở ra đón nhận dòng chảy của tình thương vô điều kiện.

Con có thấy là những gì thày vừa nói có vẻ mâu thuẫn chăng? Thày nói là có một điều kiện để tâm con mở ra đón nhận dòng chảy của tình thương vô điều kiện. Nhưng điều kiện này là con không có điều kiện – tức là con để cho thình thương tuôn chảy và bày tỏ vô điều kiện. Khi con bị các điều kiện của kho dữ liệu và quá khứ giam hãm thì con muốn điều khiển cách tình thương thể hiện qua con. Đó chính là lúc con khóa dòng chảy vì con đã đặt điều kiện là tình thương phải thể hiện ra sao. Tình thương vô điều kiện sẽ rút lại và nói: “Tôi tôn trọng chọn lựa của bạn. Nhưng tôi sẽ có mặt ngay khi bạn quyết định thay đổi chọn lựa, và cho phép tôi tuôn chảy qua bạn.”

Con chỉ có thể có khi con cho

Con có thể phối hợp các điều thày giảng và rút ra hai kết luận quan trọng chăng? Tình thương vô điều kiện muốn được tuôn chảy để nâng mọi sự sống lên. Nếu con ra điều kiện trong tâm con và dùng để phán xét người khác, thì tức là con nói: “Tôi không thể bày tỏ tình thương với một người trừ khi người đó hội đủ một số tiêu chuẩn. Người nào không hội đủ tiêu chuẩn phải bị trừng phạt hay điều khiển.” Như vậy là con đã không cho tình thương một cách tự do và vô điều kiện, và khi con không cho người khác tình thương vô điều kiện, thì tình thương không thể tuôn chảy qua con – và do đó con không kinh nghiệm được tình thương vô điều kiện.

Con có thấy ý nghĩa ẩn dụ trong bài cầu thỉnh: “Vì những gì ta cho, ta chắc chắn sẽ nhận”? Nếu con muốn được tha thứ, hãy tha thứ người khác. Nếu con muốn được tình thương, hãy cho người khác tình thương – nhưng hãy cho vô điều kiện. Tha thứ người khác vô điều kiện thì mình sẽ được tha thứ vô điều kiện. Con có nghe Ki-tô nói: Chớ phán xét, vì mình sẽ bị phán xét. Vì những gì con làm cho người khác thì con sẽ hứng chịu, vì thế giới này chỉ là một tấm gương.

Con hãy sẵn sàng nhận ra là nếu con không kinh nghiệm tình thương vô điều kiện, đó là vì có điều kiện nào đó trong kho dữ liệu của con đang làm nghẽn dòng chảy của nó. Con đang tìm cách điều khiển dòng chảy vì con muốn kềm chế người khác để khiến họ phải quy phục thế giới quan của con, và như thế giúp con cảm thấy thế giới quan của mình không bị đe dọa. Con hãy sẵn sàng chất vấn thế giới quan của con, nhưng thêm nữa con hãy xét xem con có thể rũ bỏ nó luôn chăng. Con hãy quan sát những người đang chìm đắm trong hệ thống tín điều của họ.  Nhiều người không thể đột nhiên rũ bỏ nó, vì làm vậy thì họ sẽ bị khủng hoảng bản sắc, tức là không còn biết mình là ai nữa.

Tâm linh có thật

Ý nghĩa thật của con đường tâm linh là con sẽ dần dần tiến tới chỗ con có thể làm giống như Giê-su khi trên cây thập tự.  Giê-su đột nhiên bừng thấy là mặc dù thày đã đạt được tâm Ki-tô tới một mức cao trong kiếp sống này, nhưng thày vẫn còn chờ mong là mọi phải diễn tiến một cách nào đó. Chính những chờ mong này đã trói buộc thày vào địa cầu. Đó là lúc thày quyết định – đây là hành động buông bỏ tối hậu – để cho quá khứ hoàn toàn chết đi, và đó cũng là lúc thày được tái sinh.

Nếu lúc đó Giê-su không để cho quá khứ chết hết đi, thì con nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra? Thày sẽ phải đầu thai trở lại để vượt qua quá khứ đó, cho tới khi thày sẵn sàng chất vấn cách thày nhìn thế giới và nhận ra là nó không có thực.

Có người cho rằng Giê-su vốn là Thượng đế hay là con Thượng đế, và do đó thày được bảo đảm chiến thắng và thăng hoa. Nhưng không có gì bảo đảm cả trong thế giới tự quyết này. Giê-su khi trên thập tự có thể từ chối không rũ bỏ hết quá khứ, và nếu vậy không trở thành Giê-su Ki-tô, tức là tiếp tục là vị mà có người đã gọi là Giê-su người thợ một, tuy rằng thày có thể thổ lộ sự thực là trong kiếp đó Giê-su không hề làm nghề thợ mộc.

Cho mọi người chọn lựa thực

Ta có thể nói mục đích của con đường tâm linh là vượt qua các điều kiện nơi mình để rồi giản dị thấy thế giới như nó là, chấp nhận nó như nó là, chấp nhận là cái gì đang là thể hiện cái không thật, và cái không thật thì không bao giờ thường hằng. Do đó, mỗi lúc con đều cho phép tình thương vô điều kiện thể hiện để mọi người có thể chọn giữa tình thương và phản tình thương.

Con không đi vào rung động của phản tình thương và tìm cách buộc người khác phải chọn lựa một cách nào đó. Con cho họ cơ hội lựa chọn. Con sẵn sàng để tình thương phát biểu rất thẳng thắn – nếu cần – khiến họ phải trực diện chọn lựa đó bằng cách chứng minh rõ ràng  – nếu cần – là họ có thể có chọn lựa khác. Nhưng con không vượt qua lằn ranh và muốn ép buộc họ. Con giữ tự do của mình để con có thể ở trong tình thương vô điều kiện bất kể lựa chọn của họ.

Dĩ nhiên là con có thiện ý muốn giúp người khác –  và con có thể đã bỏ ra nhiều công sức giúp người đó nhận ra điều gì – nhưng nếu họ không chịu nhận ra thì con sẽ cảm thấy như thế nào? Nếu con có tình cảm tiêu cực hay dính mắc thì con đã không hoàn toàn ở trong tình thương vô điều kiện, và con cần làm việc chỉnh sửa tâm mình. Con cần phải xem lại kho dữ liệu của mình và nhận ra tại sao con đã tạo hình ảnh là người quanh mình – mà con biết là Thượng đế đã cho họ quyền tự quyết – phải phản ứng một cách nào đó, phải chọn lựa một cách nào đó khi con nói hay làm điều gì.  Vì sao con đã cho phép mình cất vào kho dữ liệu, vào thế giới quan của mình, các yếu tố phản tình thương này?

Nếu con không chờ mong thì con không thể bị thất vọng, bất kể người kia làm gì hay không làm. Con có thấy chăng là chỉ khi nào con không bị thất vọng hay bị ảnh hưởng một cách tiêu cực bởi người khác thì con mới thật sự có tự do. Chỉ khi đó con mới ở trong tình thương vô điều kiện. Con yêu dấu, làm sao con có tự do? Chỉ có cách duy nhất là ở trong tình thương vô điều kiện. Chỉ ở nơi không điều kiện thì con mới được thật sự tự do.

Hãy nhận Hiện diện của thày

Thêm vào lời nói, thày đã neo chặt Hiện diện của thày là hai yếu tố nam nữ, hai thể hiện nam nữ, của Tia sáng Thứ ba của Tình thương của Thượng đế. Con đã có cơ hội cảm nhận nó, nếu con chấp nhận nó. Nếu con không cảm nhận nó thì con nên biết là Hiện diện của thày vượt qua giới hạn của thế giới vật chất. Bất cứ lúc nào trong tương lai, con đều có thể cảm nhận Hiện diện của thày nếu con chịu mở tâm đón nhận. Nếu con chưa mở tâm được lúc này thì đừng nản chí, đừng để kho dữ liệu chế ra một phán xét. Con hãy nhìn nhận là con cần làm việc tảy rửa các điều kiện đang ngăn chặn con không nhận được tình thương vô điều kiện, và chấp nhận là con xứng đáng được nhận nó. Sau đó, con hãy ra sức làm việc, và nhận ra rằng khi con đã quét dọn đủ số các ngăn tài liệu thì Mặt trời của tình thương vô điều kiện sẽ chiếu sáng xuyên qua đám mây, và con sẽ cảm nhận được nó.

Con yêu dấu, thày LÀ một đấng vượt thời gian và không gian. Con cũng vậy, con vũng vượt thời gian và không gian. Con hiện đang chọn coi mình là một sinh thể bị thời gian và không gian giới hạn – và chọn lựa này hoàn toàn chấp nhận được – nhưng con nên biết đây không phải là chọn lựa duy nhất của con.

Thày niêm con trong ngọn lửa của Tình Thương Vô điều kiện của TA LÀ. Thày niêm các phong trào các người tâm linh đang đi tìm một trạng thái tâm thức cao hơn. Khi con tiếp tục hướng về tình thương vô điều kiện, thì ông hoàng thế gian sẽ tìm đến nhưng sẽ không nắm được gì nơi con. Mặc dù đại diện của hắn có thể gia nhập, nhưng họ sẽ không phá đổ được phong trào này. Họ sẽ ngừng được vòng xoắn đi lên đã hình thành và có tiềm năng gia tốc để trở thành vùng ánh sáng huy hoàng xóa tan màn đêm đang bao phủ quả đất. Đây là ánh sáng soi đường tới một thực tại mới, một cách hội tụ mới, một cách giao tiếp mới đựa trên tình thương vô điều kiện. Thày niêm các con trong tình thương đó.

Nhiều hơn là hiểu biết bằng trí năng

Bài giảng của chân sư thăng thiên Elohim Apollo qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/1/2009. Bài này được xếp thành Chương 4 của quyển Làm sao giáo tiếp từ trái tim (How to Communicate from the Heart, Kim Michaels, 2014).

Tên ta là Apollo, TA LÀ và mọi người biết ta là Elohim của Tia Sáng thứ 2 của sự Minh Triết của Thượng đế. Ta đến đây để giúp các con hiểu ý nghĩa của Tia Sáng thứ 2 trong sự giao tế từ con tim.

Cái khó khăn con phải đương đầu là làm sao giữ được mình LÀ giữa cái tăm tối Không Là đầy dãy trên hành tinh này. Cái Không-Là này đã có mặt trên hành tinh này lâu đến độ các lực đằng sau nó tưởng rằng họ làm chủ hành tinh này và có quyền sở hữu luôn cả hành tinh này.

Họ không ngờ rằng đang có một nhóm người nhỏ vượt ra khỏi tầm kiểm soát của họ và chứng minh cho thế giới thấy rằng nhóm người này muốn là tình thương vô điều kiện dù hoàn cảnh bên ngoài có như thế nào chăng nữa.

Sự lạm dụng tôn giáo

Dù rằng con người sẽ đau đớn khi phải đối mặt với các vấn đề cá nhân của mình, con cần nhận ra rằng muốn cho nhân loại tiến lên và vượt qua các giới hạn, thì phải có những người chịu tiên phong làm mũi giáo dẫn đường và chứng minh rằng họ sẵn sàng giải quyết các vấn đề cá nhân của họ và như thế họ có thể tạo cảm hứng cho người khác làm theo.

Từ bấy lâu nay, các thầy đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần – trong những cảnh huống khác nhau và dùng những từ ngữ khác nhau – các thầy đã nói nhiều lần là trong một thời gian rất là dài những người thầy giả đã dùng tôn giáo để lừa dối con nghĩ rằng con có thể đi vào nước Trời mà không cần phải nhận ra cái xà nhà trong mắt con, không cần phải nhìn thẳng vào tự ngã của con.

Có nguyên cả một tâm thức như thế đè lên trên hành tinh này như một đám mây đen kịt. Có những người tâm linh hàng đầu cũng bị dụ dỗ tin rằng họ có thể tìm ra tôn giáo tối hậu hay người thầy tối hậu sẽ làm hết mọi việc cần làm dùm cho họ.

Hoặc họ tin rằng họ có thể tìm ra một công thức thần sầu giúp cho họ đi vào nước Trời mà không cần phải nhọc công làm cái công việc nhìn vào tự ngã của mình, vứt đi những quyết định cũ sai lầm, lấy những quyết định mới tốt hơn vì họ nhận ra được là những quyết định cũ của họ đã giới hạn họ – dù là chuyện nhận ra mình sai lầm cũng đã làm cho họ đau đớn.

Chỉ khi nào con chịu nhìn vào các lựa chọn cũ của mình trong thái độ trên thì con mới nhận ra được là con to lớn hơn cái bản sắc mà con đã tạo ra qua những lựa chọn cũ này. Con có thể vượt lên trên chúng, bỏ chúng lại đằng sau, vứt chúng vào đống lửa của cái Ta Là của con.

Trái tim đầy những gì?

Thày More đã xây một nền tảng vững chắc khi Thày nói tới ý chí của Thượng đế trong sự giao tiếp bằng trái tim. Thực ra có nhiều người trên thế gian này không muốn giao tiếp bằng trái tim. Ngay cả chuyện nối kết với cái Một của trái tim, họ còn không muốn nữa.

Chúng ta có thể mở rộng sự hiểu biết và nhớ lại lời dạy của Ki-tô. Thày nói rằng cái gì nó đầy ắp trong con tim sẽ tràn ra ngoài cửa miệng. Thật vậy, con tim có thể bị pha màu sắc của sự giận dữ hay tình cảm tiêu cực khác

Lẽ dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là con tim đã dính chặt với cảm xúc tiêu cực đó. Nên nhớ rằng con tim là cái cốt lõi của mình. Không có cái gì trên thế gian này chế ngự được cái cốt lõi. Điều này không có nghĩa là con cứ tiếp tục để cho luân xa trái tim của con bị nhét đầy cái nhìn tiêu cực và những rung động thấp kèm theo.

Con có thể thấy được những người trên thế gian này với con tim biểu lộ sắc thái phản-tình thương. Con tim họ mang cái nhìn cơ bản của họ về cuộc đời và thái độ cơ bản của họ đối với cuộc đời.

Họ có khuynh hướng phản ứng lại với cuộc đời một cách tiêu cực. Hoặc là họ phóng chiếu cái tiêu cực lên người khác. Đó là lúc cái miệng sẽ tuôn ra điều tiêu cực mỗi khi họ ở trong hoàn cảnh không đúng sự mong chờ của họ.

Lẽ dĩ nhiên là sự mong chờ này đến từ cái nhìn cuộc đời của họ. Họ đã chọn lựa nhìn cuộc đời như thế và họ cho rằng cách họ nhìn cuộc đời là sự thật tối hậu. Họ không thấy ra được là đây chỉ là một ảo tưởng không thật của tâm nhị nguyên mà họ tự nguyện cho đó là sự thật. Sau đó họ đã tự ý phóng chiếu cái ảo tưởng này lên trên ánh sáng Mẫu-Vật.

Một khi con tim đã bị pha màu sắc biểu lộ tiêu cực, những người này sẽ không chịu nhìn nhận là nó là ảo tưởng và không nhìn nhận rằng chính mình đã lựa chọn ôm lấy ảo tưởng này.

Ngược lại, họ sẽ phóng chiếu ra hình ảnh cho rằng mọi chuyện thật sự là như vậy. Bởi vì họ đang sống trong một thế giới song song của riêng họ với đầy sợ hãi, giận dữ hay bất cứ cảm xúc tiêu cực nào mà đã họ chọn làm thái độ căn bản của khi tiếp xúc với cuộc đời.

Hãy nhìn vào chính trái tim của con

Các con minh triết hơn vì các con đã bắt đầu trong lọc tim của mình. Các con đã bắt đầu vượt lên cao. Nhưng một số các con vẫn còn một phần nào yếu tố phản-tình thương trong luân xa trái tim khiến các con pha màu cái nhìn về cuộc đời của mình.

Điều Thày muốn giúp con hiểu ở đây là ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con đầu tiên hết đi vào cái phòng bí mật trong tim của con rồi từ đó đi vào luân xa trái tim. Như vậy nếu trong luân xa tim của con có một yếu tố ảo tưởng không-thật, cái không-thật này sẽ pha màu ánh sáng ngay trong sự biểu hiện đầu tiên của nó trong con người thấp của con.

Đó là lý do tại sao rất khó mà thấy được những yếu tố ảo tưởng trong luân xa trái tim vì con cứ tin chắc rằng mọi chuyện nó phải là như vậy thôi. Con không muốn ngừng lại và nghĩ: “Có thể chăng, đây chỉ là một ảo tưởng?”

Con sẽ nghĩ là con không cần phải đặt vấn đề. Con cho rằng con đã giải quyết nhiều chuyện trong tâm lý của mình, con đã buông bỏ nhiều dính mắc, con đã buông bỏ nhiều ảo tưởng, cho nên cái yếu tố này trong con người con không cần phải tra vấn nó đâu.

Con cho rằng yếu tố này dựa trên sự thật. Con cho rằng trong nó có sự thật vì nó được thẩm thấu bởi ánh sáng đến từ Hiện diện TA LÀ. Con thấy được sức mạnh của ánh sáng nhưng lại không thấy được ánh sáng đã bị pha màu bởi cái ảo tưởng nhị nguyên mà con đã chấp nhận là sự thật.

Làm sao con có thể nhìn xuyên suốt và nhận ra được là chúng là những ảo tưởng cốt lõi trong con? Con nhận ra được sự thật khi con gặp một vị thầy sống. Ý của ta là người thày đó không nhất thiết phải là một vị có danh tiếng, chức tước, thẩm quyển hay học vấn cao.

Ý ta muốn nói là con gặp được một vị thày sống giả dạng dưới nhiều hình thái khác nhau. Thày More đã từng nói: “Nếu vị thày là một con kiến, thì hãy theo con kiến đó”, phải không con? Con còn nhớ câu chuyện cổ tích xưa về y trang mới của Hoàng đế trong đó đứa bé nhỏ xíu thốt lên: “Ủa sao hoàng đế đâu có mặc quần áo gì đâu?” 

Khiêm nhường là một đức tính cốt yếu trên con đường tu

“Con có sẵn sàng để cho người chung quanh con nói cho con biết điều mà con không thấy được?” Con có sẵn sàng để thấy một yếu tố ảo tưởng đã ăn sâu trong cốt lõi của con người thấp của con mà con không thấy nó là ảo tưởng và con nghĩ rằng con không cần phải đặt vấn đề với nó?

Những người đi tìm tâm linh muốn biểu hiện trọn vẹn tiềm năng của mình cần có can đảm phơi bày ra công chúng những dính mắc của mình và chứng minh cho mọi người thấy là họ sẵn sàng nhìn vào bất cứ khía cạnh nào của tự ngã của họ và họ sẵn sàng vượt lên trên chúng, vứt chúng lại đằng sau.

Làm như vậy sẽ tạo cảm hứng cho nhân loại tiến cao hơn. Họ sẽ thấy được rằng cái ảo tưởng cho rằng mình sẽ được cứu rỗi tự động mà không cần phải thấy cái xà nhà trong mắt của mình, cái ảo tưởng này quả thực chỉ là một ảo tưởng mà thôi. Đây là một sự dối trá, một con đường giả không đưa tới cứu rỗi, kéo họ ra khỏi con đường chân chính mà Ki-tô, Phật, Lão tử và bất cứ vị thày tâm linh khác đã chứng minh. Các vị thày này đã thật sự nối kết được và hiểu được mọi sự sống là một.

Nhận từ con tim

Khi con muốn người khác giúp con và nói cho con biết điều mà một mình con không thấy được, lúc ấy con cần bước lên bước kế tiếp. Con cần hiểu ra rằng chỉ có một cách giúp cho con nhìn thấy điều mà bây giờ con không thấy được là con phải vượt lên trên cái trí vỏ ngoài của con. Con phải cho phép người khác giao tiếp với con bằng con tim của họ và con cũng đón nhận họ từ con tim của mình. Giao tiếp là một tiến trình hai chiều, phải không con?

Ít ra thì phải hai chiều nếu muốn thành công. Thày muốn nói với con rằng giao tiếp bằng trái tim chỉ xảy ra nếu có dòng chảy từ Alpha tới Omega, dòng chảy của sự cho và nhận. Người kia  có thể đang muốn nói cho con một điều từ con tim của họ, khi họ đang kết nối với con tim của họ, nhưng nếu chính con không kết nối với trái tim mình và không chịu tiếp nhận từ trái tim mình, thì sự giao tiếp này không đem lại kết quả cho con thấy điều mà con không thấy được.

Lúc đó, con không lên cao được. Con sẽ đi xuống thấp hơn, con sẽ có phản ứng sợ hãi và tìm cách bênh vực cho cái mà mình không thấy được, bênh vực cái ảo tưởng mà mình tưởng là sự thật. Con đã từng thấy điều này lập đi lập lại ngoài đời khi người ta cứ khăng khăng bênh vực ảo tưởng của họ, tranh cãi là nó là sự thật hay cho rằng họ không có nhu cầu đặt vấn đề về các ảo tưởng này. Có khi họ còn đi tới cái cực đoan là tấn công những kia mà họ cho rằng đang tấn công họ hay tấn công ảo tưởng của họ, thế giới quan của họ, tôn giáo yêu dấu của họ hay ý thức hệ chính trị của họ.

Hãy khôn ngoan hơn tự ngã của con

Con cần khôn ngoan hơn. Con cần dùng sự minh triết của Tia sáng thứ 2 và nói: “Con sẽ cao hơn những người bênh vực ảo tưởng của họ. Con sẽ đi vào trái tim của mình. Con sẽ không đi vào cái trí phân tích và tìm cách bênh vực ảo tưởng của mình khi có người đang cố gắng nói cho con biết điều gì từ trái tim của họ.” Đôi khi có những người đang cố gắng nói một điều gì về con mà họ chưa hoàn toàn an trụ nơi trái tim họ. Họ có thể hơi bực bội, hay nóng giận vì họ đã phải chịu đựng con trong một thời gian nào đó. Họ đã chán quá rồi và bây giờ thị họ muốn nói ra. Vì họ bực bội hay nóng giận nên nhiều người vịn vào đó để không chịu lắng nghe họ.

Nhưng thày nói với con, nếu con khôn ngoan thì con sẽ nói, nếu có ai nói điều gì với con, con sẽ bỏ qua những thiếu sót của người đó. Con sẽ bỏ qua sự rung động của họ lúc đó. Con sẽ vượt lên trên các lời nói. Con sẽ đi vào trong tim mình và hỏi: “Có điểm gì trong đây là thật, là điều mình cần nhìn thấy? Người này nói có lý không? Người này có thấy được điều gì bên trong mình mà mình cần phải sửa đổi không, dù là cái thấy của người này không hoàn hảo?”

Con nên khôn ngoan mà nhìn ra một cái bẫy khác của tự ngã. Tự ngã có khuynh hướng dùng cái trí phân tích để tranh luận bênh vực hay chống lại các tin tưởng của con, để tranh luận bênh vực hay chống lại điều gì người khác nói. Con nên có sự minh triết và áp dụng những bài pháp mà các thày đã dạy con về tâm nhị nguyên [Xem các cuốn sách, Giải thoát khỏi Ảo tưởng của Tự ngã, Giải thoát khỏi Trò chơi của Tự ngã, Giải thoát khỏi Bi kịch của Tự ngã]. Con cần nhận ra rằng tâm nhị nguyên có thể chứng minh bất cứ cái gì là đúng. Bởi vì tâm nhị nguyên đặt nền tảng trên khả năng phân tích của trí, là cái trí năng.

Con phải nhận ra sự hạn chế của trí năng. Thày không có ý nói là trí năng là một cái gì xấu mà con phải né tránh. Nó là một phần cần thiết trong tâm con người. Nhưng nó được đặc biệt tạo dựng để xử lý thế giới hình tướng. Như các thày đã giảng dạy rất sâu sắc trong các cuốn sách của Mẹ Mary và Maitreya, thế giới hình tướng có đặc tính là mọi sự vật trông khác nhau, cái này nhìn khác hẳn cái kia khi so sánh chúng với nhau.

Cái trí phân tích được tạo dựng để xử lý những sự khác biệt này. Nó phân tích và phân loại những đặc tính khiến cho hình tướng này khác với hình tướng kia. Nó giúp cho con xét đoán để biết được cái gì tích cực hay không tích cực, cái gì giúp con và mọi sự sống mở rộng ra và cái gì hạn chế con và mọi sự sống. Cái trí có thể làm được một phần nào việc này, đặc biệt là khi nó nằm dưới sự hướng dẫn của con tim.

Lẽ dĩ nhiên, giống như trường hợp mọi khả năng khác, cái trí có thể cho mình là cứu cánh. Con đã từng thấy những người chưa bao giờ kết nối với trái tim của họ. Họ tin rằng cái trí cao cấp và không cần chịu sự điều khiển của trái tim vì cái trí hoàn toàn có khả năng biết được chân lý một mình nó. Như thày đã nói, cái trí được tạo dựng để giúp con phân biệt những vật trong thế giới hình tướng.

Cái trí không thể khám phá ra chân lý tối hậu, sự thật tối hậu. Nó còn không hiểu nổi các khái niệm này. Con đã từng thấy nhiều người bị giam hãm trong cái trí. Họ có thể tranh cãi hàng giờ đồng hồ về một ý tưởng hay thế giới quan, dù là sâu thẳm trong họ, họ biết là chẳng có chân lý tối hậu nào cả và cũng chẳng có một luận cứ tối hậu nào cả. Rốt cuộc thì họ cũng thấy rằng khi dùng cái trí, bất cứ ý kiến nào cũng có thể cãi ngược lại với một ý kiến khác và họ đi đến chỗ tin rằng chẳng có chân lý tối hậu nào cả.

Biết chân lý tối hậu

Làm sao con có thể kết nối được với chân lý tối hậu? Con yêu dấu, chỉ qua con tim của con mà thôi. Như thày More đã nói, chỉ có con tim mới kết nối được với sự thật tối hậu là mọi sự sống là một. Lẽ dĩ nhiên khi con nhận ra điều này, con đã có cái biểu lộ tối hậu của minh triết. Con thấy được là một mặt con có cái biết của cái trí, rất giỏi trông thấy các chi tiết nhưng rất dở không thấy được bức tranh tổng thể, vì chỉ có trái tim mới thấy được cái tổng thể. Lẽ dĩ nhiên là cái trí luôn luôn chú tâm vào những điểm khác biệt, nó đã được tạo dựng để phân tích và phân loại những điểm khác biệt. Do đó, nó không thể thấy, không thể nhìn sâu sắc để nhận ra sự thật bên dưới là mọi sự sống là một.

Những người bị giam hãm trong cái trí thấy họ tách biệt khỏi mọi người, tách biệt khỏi Thượng đế. Rồi thì, sự hiện hữu của Thượng đế và bản thể của Thượng đế trở thành một đề tài tranh luận của trí năng.

Thay vì tìm cách nối kết với Thượng đế, trải nghiệm trực tiếp Thượng đế trong tim mình, thì cái trí tranh cãi xem hình ảnh nào của Thượng đế là hình ảnh tối hậu của vị Thượng đế xa xăm ở bên ngoài con người. Đây là điều mà các nhà trí thức thần học đã làm trong mấy ngàn năm qua. Họ không bước được một bước nhỏ tới sự trải nghiệm trực tiếp về cái duy nhất của Cái Là của Thượng đế.

Vượt lên trên chờ đợi

Câu hỏi mấu chốt là: “Con có muốn giao tiếp với mọi người từ con tim hay không?” Câu trả lời của con sẽ đưa con tới mức minh triết tương ứng. Hoặc là con tiếp tục thấy mình tách biệt với người khác. Hoặc là con thấy hay bắt đầu thấy là bên dưới là mọi sự sống là một. Con có muốn nâng cao tự ngã của mình? Con có muốn bênh vực cho tự ngã tách biệt của mình? Con có muốn bảo vệ cho mình không bị tổn thương? Hay là trong mọi tình huống, con đều tìm cách nâng cao mọi sự sống?

Thày khuyên con nên đọc đi đọc lại nhiều lần những lời giảng của thày More bởi vì trong đó có những chìa khóa tâm linh mà ít ai nhận ra được lần đầu. Thày khuyên con quán các lời của thày More với trái tim của con cho tới khi con nhận ra sự thật bên dưới những lời nói của thày. Khi nào con thật sự trải nghiệm sự thật và sự minh triết của quyền tự quyết, thì con hiểu rằng không có bất cứ lý do gì, không có cái gì biện minh được cho sự chờ đợi rằng mọi sự phải xảy ra như thế này hay như thế kia trên trái đất này. Khi con có minh triết, con cũng hiểu rằng nói như trên không có nghĩa là con sống và nhắm mắt chấp nhận tất cả mọi thứ đang xảy ra mà không có sự phân biện tâm linh.

Thật vậy, làm sao mọi sự có thể thay đổi được nếu không có những người tiên phong muốn có cái gì cao hơn, muốn vượt lên trên những gì đang được biểu hiện ngay bây giờ? Con cần nhận ra rằng con không thể nào thay đổi được mọi chuyện trên trái đất này, nếu con có một chuẩn mực, rồi con so sánh người khác và hành động của họ với chuẩn mực của con, con phê phán họ với cái tâm phê phán phàm phu và con kết luận họ sai trái vì họ không đạt được tiêu chuẩn của con đặt ra cho họ. Những sinh thể sa ngã cũng đã muốn thay đổi trái đất, một số tin rằng họ sẽ cứu rỗi nhân loại qua sự kiểm soát, và áp lực mọi người phải hành động theo một hướng nào đó. Họ cho rằng nếu mọi người sống theo chuẩn mực bên ngoài, họ sẽ được vào cõi Trời.

Tạo cảm hứng thay vì áp lực

Lẽ dĩ nhiên sự thực là chỉ có một cách đi vào nước Trời là nhận ra rằng con chưa bao giờ tách biệt khỏi nước Trời vì mọi sự đều là nước Trời và chỉ có nước Trời mà thôi. Cách duy nhất để trái đất này thay đổi tốt lành hơn không thể dùng áp lực mà phải tạo cảm hứng cho mọi người lấy những quyết định tốt hơn. Những người cho mình là thày là những vị thày giả vì họ đã tách họ ra khỏi cái một của mọi sự sống.

Do đó, họ tìm cảch kiểm soát, áp lực người khác và tước đoạt quyền tự quyết của người khác. Con chỉ có thể bước vào nước Trời bằng sự tự quyết của con. Con chọn đi vào nước Trời, ngược lại với con chọn không muốn đi vào nước Trời. Con yêu dấu, con không thể nào áp lực người khác lấy chọn lựa đó. Con có thể áp lực người khác làm một hành động nào đó, con có thể áp lực họ chấp nhận một số tin tưởng nào đó. Nhưng con không thể áp lực họ là người như thế này hay người như thế kia.

Họ phải lấy quyết định tự do là họ muốn là người như thế đó. Nếu con nghĩ rằng con làm việc cho ánh sáng, cho các chân sư, làm việc để nâng cao toàn thể nhân loại, mà con có cái ý niệm vi tế muốn áp lực người khác chấp nhận một số tin tưởng, thậm chí áp lực họ đi theo một tôn giáo nào đó, thì thực ra con không làm việc cho ánh sáng, con đang chống lại ánh sáng.

Đây là trường hợp của nhiều người có ý hướng tốt trong thế giới tâm linh nhưng lại bị kẹt trong cái ảo tưởng về sự cứu rỗi tự động vỏ ngoài. Các con là những người có trí tuệ, các con phải giải thoát trái tim mình ra khỏi mọi yếu tố của ảo tưởng này để con không bao giờ tìm cách áp lực người khác. Ngược lại, con tìm cách cho họ cảm hứng để chọn lựa hay hơn.

Tại sao thế giới đang như thế này?

Tại sao thế giới đang như thế này? Thế giới này là kết quả của những chọn lựa của tập thể. Chọn lựa của từng cá nhân gộp chung lại với nhiều cá nhân thành chọn lựa tập thể đã tạo ra các điều kiện sống hiện nay. Làm sao thay đổi đây? Chỉ khi nào đủ túc số một nhóm đông đảo cá nhân chọn lựa khác đi vì họ có được sự minh triết lấy một chọn lựa mới tốt hơn. Tuy nhiên con không thể áp lực họ thấy được sự minh triết đó. Con chỉ có thể tạo cảm hứng cho họ qua sự truyền dạy của con. Con dạy như thế nào? Con dạy bằng gương sống của con, con là, con là một với sự minh triết đó.

Con dạy bằng cách con làm gương cho người khác thấy là con sẵn sàng nhìn vào các ảo tưởng, các ảo tưởng trong thế giới chung quanh con (điều này dễ làm và an toàn vì đây là ảo tưởng do người khác tạo ra) và các ảo tưởng bên trong con. Con nhận ra rằng con đã chấp nhận một số ảo tưởng từ bên ngoài tới nhưng chính con cũng đã tạo ra ảo tưởng.

Tại sao con tạo ra một số ảo tưởng? Con tạo ra chúng để con có cái cớ để không tiến lên cao hơn, cái cớ để kềm giữ ánh sáng của mình. Thật ra, con xuống thế gian này để là một ngôi Mặt Trời tỏa rạng ánh sáng đặc thù của con về tình thương vô điều kiện của Thượng đế. Khi tình thương của con cứ bị bác bỏ liên tục bởi những người đã quên mất là họ là những đứa con của tình thương, con mới quyết định kềm giữ lại ánh sáng của con đối với người phàm phu.

Con phải có lý do tại sao chuyện con kềm giữ ánh sáng là cần thiết và thích ứng. Để làm được chuyện này con đã tạo ra một số ảo tưởng nay đã thâm nhập cốt lõi của tâm phàm của con nơi luân xa trái tim. Như vậy nó đã pha màu cách con nhìn đời, và ngay cả cách con nhìn chính mình.

Không chịu cho

Nếu con ngần ngại và không chịu cho – ở đây thày nói tới tinh thần cho rộng rãi và vô điều kiện – thì con đã tạo ra một ảo tưởng biện minh tại sao con không cho, tại sao con không phải cho, tại sao không thể nào cho được, tại sao cho là không đúng.

Có hàng loạt những ảo tưởng như vậy, nhưng chúng là thế đấy: chúng là ảo tưởng, hỡi con yêu dấu. Con không xuống đây để kềm giữ ánh sáng của mình. Con xuống đây vì con thấy hành tinh này tăm tối bởi vì đa số đã kềm giữ ánh sáng của họ. Con xuống đây để tạo một sự thay đổi! Con không tạo sự thay đổi bằng cách làm y như mọi người là kềm giữ ánh sáng của mình. Thày tin rằng con thấy được điều này. Làm sao con tạo được sự thay đổi? Bằng cách làm điều mà người khác không làm.

Bằng cách con cho vô điều kiện, không có nghĩa là con cho một cách vô minh, mà con cho với sự minh triết. Con không cho người khác ánh sáng và năng lượng của con vì con thương cảm, để giúp người đó tiếp tục ở lại trong trạng thái tâm thức giới hạn của họ. Con cho để nâng cao người kia lên trên trạng thái tâm thức hiện thời của họ. Thậm chí có vài trường hợp trông có vẻ như con đang kềm giữ ánh sáng để tránh không khuyến khích người kia. Nhưng khi con quán chiếu lại với sự minh triết rộng lớn hơn, con hiểu rằng thực sự con đã không kềm giữ ánh sáng của mình.

Đây là trường hợp con định hướng ánh sáng của con, khi con cho, con dùng phương cách thích hợp để tạo cơ hội tối ưu để nâng người đó lên cao bằng cách con tạo cảm hứng cho người đó thấy được là cuộc đời của họ có thể tốt lành hơn, rộng lớn hơn hiện tại. Thực vậy, có những trường hợp con không hạ thấp con xuống cùng mức độ và tâm thức của người kia và đồng cảm với họ. Ngược lại con cho họ ánh sáng của con bằng cách làm gương cho họ thấy là có một trạng thái tâm thức cao hơn. Con sẽ không hạ thấp con xuống cùng mức tâm thức của họ, con nhất định không làm như vậy, dù là họ cố gắng kéo con xuống thấp để họ có cái cớ không phải thay đổi chính họ.

Cho trong minh triết

Có một sự khác biệt vi tế giữa giữ lại và cho trong minh triết mà thày sẽ cố giúp cho con thấy. Giữ lại có nghĩa là con ngừng dòng chảy. Cho trong minh triết nghĩa là con điều khiển dòng chảy theo hướng đem lại kết quả tốt nhất. Làm sao con biết chuyển hướng dòng chảy như thế nào? Nếu con dùng trí phân tích vỏ ngoài thì con không sao biết được. Con biết được khi con nối kết với trái tim và con để cho chân tâm của con điều khiển dòng ánh sáng xuyên qua con. Con yêu dấu đây là cách điều khiển dòng ánh sáng.

Con không tìm cách kiểm soát người khác, đó là điều mọi người làm khi họ sợ. Con luôn luôn tìm cách làm chủ và để cho Thượng đế làm chủ chính tâm của con. Như vậy trong mọi hoàn cảnh, con có thể chọn không phản ứng với một phản ứng lập trình có sẵn, giống như thày MORE đã nói. Con có thể chọn nối kết với trái tim mình và từ đó con đáp ứng với một đáp ứng cao hơn. Đáp ứng đó có mục đích nâng cao tâm thức người kia, dù là khi cần thiết, con cũng có thể chất vấn người đó để họ thấy được là họ cần thay đổi. Một lần nữa, con không xét đoán vấn đề với trí vỏ ngoài. Cái trí này có thể phê phán vi tế và từ đó ngăn chặn dòng chảy.

Đôi khi con nghĩ: “Người này phải thay đổi và người này phải thấy điều này ngay bây giờ và tôi phải cứng rắn với người này.” Những lúc khác, con lại nghĩ: “Ồ, người này đang buồn bực. Tôi không thể nào cứng rắn với người này lúc này. Tôi không thể nói cho họ biết sự thật. Tôi phải lui về và không làm gương cho họ thấy tôi ĐANG LÀ trong trạng thái tâm thức cao.” Con thấy không, một lần nữa, là trong nhị nguyên luôn luôn có hai phân cực ngược nhau và ngay cả cái ảo tưởng của lối suy nghĩ xám đứng giữa. Con phải minh triết thấy ra điều này và lùi về. Lần nữa, con không cần phân tích. Con chỉ nối kết với trái tim và để cho chân tâm biểu lộ xuyên qua con.

Mặt Trời nhiều hơn là một hiện tượng vật lý

Mặt Trời vật lý mà con thấy trên trời thật ra nhiều hơn là một hiện tượng vật lý. Nếu những nhà trí thức khoa học tin rằng họ biết hết mọi chuyện, hay ít ra họ cho rằng chẳng có gì khác ngoài vũ trụ vật chất này, nếu họ dùng khoa học để đo lường tổng số năng lượng phát ra từ Mặt Trời vật lý và sau đó đo lường tổng số những tiến trình nội tại xảy ra bên trong Mặt Trời, họ sẽ thấy giữa hai con số có sự thiếu hụt. Năng lượng sản xuất từ các tiến trình vật lý của Mặt Trời không đủ để giải thích tổng số năng lượng mà Mặt Trời phát ra. Thật ra, Mặt Trời vật lý giản dị chỉ là cánh cửa mở cho ánh sáng từ cõi tâm linh tuôn chảy xuống cõi vật chất. Con cũng vậy, con được tạo dựng ra để là cánh cửa mở như thế.

Con có thể điều khiển ánh sáng đến từ Hiện Diện TA LÀ. nhưng đừng rơi vào cái bẫy tìm cách điều khiển nó với trí phân tích vỏ ngoài, thường dễ rơi vào thói quen phán xét của tâm phàm phu. Ngược lại, con chú tâm vào việc nâng cao mọi sự sống thay vì phán xét là người này phải làm như thế này hay như thế kia. Hãy để ánh sáng tuôn chảy và quan sát xem nó tuôn chảy như thế nào. Hãy quan sát chính mình. “Tôi có đang buông bỏ không? Tôi có đang phán xét người kia một cách vi tế không và sự phán xét này đã ngăn cản không cho ánh sáng biểu lộ xuyên qua tôi với tiềm năng cao nhất của nó?” Rồi từ lần con minh triết hơn khi con vượt lên trên sự thông minh của cái trí và luôn cả sự thông minh của các người thày giả. Họ đã đầu độc mọi khía cạnh của cuộc sống trên trái đất này với lý luận nhị nguyên “tinh vi” của họ.

Con hãy vượt lên trên nhị nguyên – cái mà một số người còn lầm tưởng gọi là minh triết. Con hãy minh triết với sự minh triết của trái tim. Sự minh triết này tuôn chảy từ chân tâm cao của con mà cái Ta Biết của con hiểu được nhưng trí vỏ ngoài của con thì không thể hiểu được.

Kho dữ liệu của con

Nhiều lần những người bị kẹt trong cái trí thấp có thể nghĩ ra những luận cứ để bênh vực điều này hay kiều kia hay điều mới nào khác, những luận cứ mà họ cho rằng không thể nào đả phá nổi. Con có thể thấy chuyện này xảy ra với những thày thông giáo và Pha-ri-si chất vấn Ki-tô và những người Bà là môn chất vấn Phật. Vị nào đã đi vào trong tim và nối kết với cái duy nhất trong mọi sự sống có thể trả lời phá tan mọi luận cứ của những bộ óc ưu tú nhất trên hành tinh này, và không những thể còn làm chấn động luôn cái trí. Kết quả là nó mở trái tim ra để đón nhận một kinh nghiệm trực tiếp, vượt lên trên bất cứ cái gì mà cái trí có thể phân tích và phân loại.