Hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/12/2019 tại Tallinn, Estonia.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Ta sẽ trở ngược về một câu ta đã nói cách đây 2500 năm vào thời ta còn hiện thân trong một cơ thể vật lý trên địa cầu. Một trong những lời dạy cốt yếu của Phật giáo là mọi thứ đều là Phật tánh. Câu này thật sự nghĩa là gì? Nhiều người đã bị bối rối vì câu này. Nhiều Phật tử chân thành và có thiện chí đã suy đoán về câu này và đưa ra những thuyết cùng những cách diễn giải khác nhau, trong số đó có nhiều điểm có căn cứ phần nào. Ta hoàn toàn không muốn chỉ trích hay thay thế những thuyết đó nhưng ta muốn cho con một cái nhìn dựa trên tâm thức tập thể ngày hôm nay cũng như những giáo lý mà các chân sư thăng thiên đã ban ra cho tới giờ.

Nếu con hiểu mọi thứ đều là Phật tánh, điều này có nghĩa là Phật tánh phải vượt khỏi hình tướng. Con thử nhìn hình tướng trong vũ trụ, nhìn cái ghế này, nhìn tấm thảm kia, nhìn cửa sổ, nhìn cái bàn; liệu con có thể nói cái bàn đó là Phật tánh hay không? Con sẽ không nói như vậy, nhưng con sẽ nói là cái bàn được tạo ra từ Phật tánh. Nói cách khác, nếu con có thể nhìn đằng sau hình tướng, nhìn vượt khỏi hình tướng, thì con sẽ thấy Phật tánh. Điều này khó hiểu cho con người cách đây 2500 năm.

Với trí năng thời nay, việc nắm bắt điều này đã trở nên dễ dàng hơn một chút vì con đã lớn lên và được dạy dỗ khái niệm về cái ghế này, cái bàn này được cấu tạo bằng những đơn vị nhỏ hơn gọi là phân tử, nguyên tử, ngay cả hạt hạ nguyên tử. Cho nên con có thể nói mọi thứ đều là nguyên tử, và do đó cái ghế này cũng là nguyên tử. Tất nhiên, không có nghĩa là các hạt nguyên tử trông giống như cái ghế. Con cũng biết nguyên tử không thể nhìn thấy bằng mắt trần trụi và do đó nguyên tử không có cái mà bình thường con gọi là hình dạng. Chúng không có hình dạng của bàn ghế. Chúng có thể có một hình dạng nào đó như con đã được dạy dỗ suy nghĩ, nhưng đó không phải là cái gì con nhìn thấy được bằng giác quan. Cho nên con có thể nhảy vọt một bước và bảo rằng cái ghế được tạo bằng nguyên tử và nguyên tử được tạo bằng Phật tánh. Nhưng sự khác biệt là ở chỗ Phật tánh không có hình tướng. Nó không có hình tướng nào mà con có thể nhận thức, không có hình tướng nào mà con có thể nhận thức bằng một tâm trí vẫn tập trung vào vũ trụ vật chất này.

Điều con có thể nói là Phật tánh có tiềm năng khoác lấy hình tướng. Nhưng nếu Phật tánh không có hình tướng, tại sao con lại cần đến Phật tánh? Con cần đến nó bởi vì nếu không có một bản thể vô hình tướng có khả năng khoác lấy hình tướng, thì hình tướng được tạo ra như thế nào? Con có thể suy ra điều gì từ những khám phá của khoa học? Con lấy một vật mà mắt con có thể nhìn thấy, một hình dạng hữu hình như một cái ghế và con nhận ra là cái ghế đó không bỗng xuất hiện một cách hoàn toàn bất ngờ trong hình tướng hiện thời của nó, nó không xuất hiện từ tự nhiên hay từ hư vô. Không lúc nào con có thể nói: “À bây giờ không có ghế, à bây giờ có ghế. Đùng một cái, thế là ghế hiện ra.” Đó không phải là cách thức mà vật được tạo ra, con biết chuyện này, con biết cái ghế làm bằng kim loại. Kim loại đó khởi đầu là các loại quặng dưới đất, nó phải được đào lên, phải được nấu chảy, phải được biến thành sắt, và chất sắt này phải được chế tạo thêm nữa để có hình dạng nhất định và trở thành chân ghế. Xong lại cần thêm gỗ cũng được chế tạo và ghép vào. Rồi thêm lớp đệm, thêm lớp vải, tất cả những thứ đó phải được chế tạo để làm cái ghế.

Nhưng tất cả những thứ đó mà con gọi là nguyên liệu cũng không xuất hiện hoàn toàn bất ngờ. Quặng sắt nằm dưới đất được tạo bằng những phân tử sắt, nhưng phân tử được tạo bằng những đơn vị nhỏ hơn gọi là nguyên tử, nguyên tử được tạo bằng hạt hạ nguyên tử, và thậm chí hạt hạ nguyên tử được tạo bằng sóng năng lượng. Cho nên khi con đi vào từng giai đoạn cần thiết để tạo ra một hình tướng, một hình tướng mà mắt thấy được, con bước xuống những tầng cấp ngày càng vi tế hơn. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là con lần hồi tiến tới những hình thức đơn giản hơn. Một cái ghế, hay ngay cả một công trình công phu hơn như toàn bộ tòa nhà này, là một cái gì vô cùng phức tạp. Nhưng phân tử thì ít phức tạp hơn, nguyên tử ít phức tạp hơn nữa, và hạt hạ nguyên tử còn ít hơn nữa. Cho nên con hướng về một trạng thái ngày càng ít phức tạp hơn, một hình tướng ngày càng ít rõ rệt.

Vì thế, thật khó mà nhảy được bước nhảy vọt kia và nói rằng: Phải tới một điểm chúng ta có một chất cơ bản, ít ra là chất cơ bản mà chúng ta có thể nhận thức từ vũ trụ này, và chất cơ bản này không có hình tướng nhưng lại có tiềm năng khoác lấy bất kỳ hình tướng nào. Chất này, chúng ta có thể gọi là Phật tánh. Phật tánh, một cách nào đó, là nhiều hơn thế nữa, nhưng ít ra – để giúp con hình dung hay nhận thức được – chúng ta có thể nói Phật tánh là chất cơ bản mà từ đó mọi hình tướng được nặn ra.

Bây giờ sẽ có người bảo là điều trên không phù hợp với hệ tư tưởng khoa học hiện thời, nhưng đó là vì hệ tư tưởng khoa học hiện thời dựa trên một sự bất nhất nhận thức (cognitive dissonance). Khoa học đã chứng minh là con có thể bước xuống những tầng ngày càng sâu hơn, vượt khỏi những hình thức mà mắt người có thể nhìn thấy. Kết luận hợp lý là phải có một chất cơ bản nào đó mà từ đó tất cả mọi thứ được tạo ra. Vấn đề với khoa học là khoa học bị hệ tư tưởng duy vật chi phối đến độ cho rằng không thể có bất cứ gì ngoài vũ trụ vật chất. Và theo cách nhận thức của các nhà chủ nghĩa duy vật, điều này có nghĩa là không thể có một chất nào mà không có hình tướng, bởi vì cái đó sẽ là hư vô, và như người ta hay nói, không có gì có thể hiện ra từ hư vô. Điều này hoàn toàn đúng, không có gì có thể hiện ra từ hư vô, hay chính xác hơn, không có vật gì có thể hiện ra từ hư vô, mà mọi vật hiện ra từ Phật tánh, tức là chất cơ bản. Ý tưởng một chất cơ bản vô hình tướng nhưng lại là nguồn gốc của mọi hình tướng, hoàn toàn phù hợp với các khám phá của khoa học. Có lẽ nó không phù hợp với hệ tư tưởng duy vật, nhưng chẳng qua hệ tư tưởng duy vật chỉ là một trong nhiều cách diễn giải những khám phá của khoa học. Thậm chí hệ tư tưởng duy vật còn không giải thích được tất cả mọi khám phá của khoa học hiện thời, và qua đó con có thể thấy được sự thiếu sót của nó.

Cho nên có một chất cơ bản gọi là Phật tánh mà từ đó mọi hình tướng được tạo thành. Điều này thật sự nghĩa là gì? À, có một khái niệm mà nhiều người rất gắn bó và xem là vô cùng quan trọng. Đó là khái niệm “thực tại”. Một vật hoặc có thật, hoặc không có thật. Nhưng nếu tất cả mọi thứ mà con nhìn thấy trong vũ trụ vật chất được hình thành từ một chất cơ bản vô hình tướng, thì liệu con có thể nói rằng mọi hình tướng mà con thấy là thực hay không? Chúng không có hiện hữu riêng biệt, chúng không có hiện hữu độc lập. Nếu không có Phật tánh, nếu không có chất cơ bản, thì sẽ không thể có hình tướng. Mỗi hình tướng mà con thấy, cái bàn, cái ghế, mặt trời, các vì sao, tất cả đều được tạo ra từ cùng một chất cơ bản. Chất cơ bản cấu tạo cái ghế này có thể được biến hóa, hay đúng hơn, nó có thể được đem trở lại trạng thái vô hình tướng của nó, rồi được sử dụng để nặn ra một hình tướng hoàn toàn khác như một đóa hoa hay một ngôi sao ở xa tít, đó là vì trong Phật tánh đó, trong sự vô hình tướng cơ bản đó, không có thời gian, không có không gian, không có ý niệm địa phương (locality).

Một khi hình tướng, một khi chất cấu tạo cái ghế này, được đem trở lại trạng thái vô hình tướng, nó có thể tức khắc (tức là vượt thời gian) được sử dụng để hình thành một ngôi sao ở xa hàng triệu năm ánh sáng. Vậy liệu con có thể bảo cái ghế này là thực khi nó không có sự hiện hữu độc lập, tự đủ nào hay không? Nó có một sự hiện hữu lệ thuộc, vì rốt cuộc nó phụ thuộc vào Phật tánh, nhưng tự thân nó không thể hiện hữu. Cái ghế này sẽ có nghĩa là gì nếu không có sàn nhà để đặt ghế trên sàn, hay không có một người để ngồi vào ghế? Liệu ghế có đi vào được hiện thực nếu không có những người nghĩ ra nhu cầu ngồi cao hơn sàn nhà? Cho nên, đúng vậy, không có vật gì có thể hiện ra từ hư vô, nhưng Phật tánh không phải là hư vô.

Cho nên con thấy được là mọi vật, mọi hình tướng, đều có một nguồn gốc lệ thuộc, một nguồn gốc phụ thuộc vào lẫn nhau – một lý duyên khởi. Vật không hiện ra trong hư không, nó không hiện ra từ hư không. Nó được tạo bằng một chất cơ bản, nhưng nó được tạo ra vì một lý do, một mục đích. Ghế đã không thể hiện hữu nếu không có sàn, nếu không có tường, nếu không có mái, nếu không có người, nếu không có tất cả những thứ đó. Nó đã không thể được tạo ra nếu không có một địa cầu với quặng sắt, nếu không có cây cối mọc lên thành gỗ, vân vân… cho nên con thấy là không có gì, không có hình tướng nào, có thể được xem là thực trong ý nghĩa tối hậu. Không một vật nào hiện hữu tự thân nó, hiện hữu một cách độc lập. Mọi thứ đều nối kết. Mọi thứ đều nối kết lẫn nhau. Toàn bộ vũ trụ là một tổng thể nối kết duy nhất, một tổng thể tương kết duy nhất. Thật ra điều này phù hợp với các khám phá của khoa học. Các nhà khoa học đã phát hiện là ý niệm địa phương và tách biệt không hiện hữu. Thực tại sâu xa hơn là tính phi địa phương (non-locality), tính tương kết (interconnectedness). Thực tại mà con nhìn thấy khi con đạt được cái mà ta gọi là “giác ngộ” là một thực tại nơi không có vật gì tách biệt ở bất cứ nơi nào trong vũ trụ. Mọi thứ đều tương kết. Không chỉ có vậy, mà con còn thấy được là không có vật nào là thường hằng.

Khoa học đã cho thấy điều gì mà nhiều tôn giáo đã không chỉ ra? Khoa học cho thấy là có một tiến trình rất dài đã lần hồi hình thành những hình dạng khác nhau. Không có sự sáng tạo tức khắc, mà sự sáng tạo xảy ra lần hồi khi những gì được tạo ra trước – hay đã đi vào hiện hữu trước – trở thành nền tảng cho những gì đi sau vào hiện hữu. Cho nên một lần nữa, nguồn gốc hình thành tương kết có thể đi trở ngược về rất, rất xa. Ta biết là tâm đường thẳng sẽ nói là phải có một điểm khởi đầu tuyệt đối, nhưng chúng ta hãy gác lại chuyện này một bên để xét thấy rằng chúng ta có thể đi trở ngược lại thời gian trong quá trình lần hồi đó, thì một lần nữa, nó chứng minh tính tương kết của tất cả.

Vậy đâu là mục đích của toàn bộ tiến trình duyên khởi đó, là nơi thực tại sâu xa của Phật tánh khoác vào tất cả những hình tướng khác biệt đó? Mục đích là gì? Các nhà duy vật quả quyết là không có mục đích gì hết; tất cả chỉ xảy ra tình cờ. Tình cở là gì chứ? Họ có thể giải thích được tình cờ là gì chăng? Thế nào là tính ngẫu nhiên (randomness)? Hãy định nghĩa đi. Không thể được. Tại sao vậy chứ? Tại vì tính ngẫu nhiên đích thực không có hình tướng, và trong hệ tư tưởng duy vật, chỉ có những gì có hình tướng mới được xem là thực. Bất nhất nhận thức. Họ tuyên bố là họ có một thế giới quan, nhưng thế giới quan nhằm giải thích mọi vật đã có thể ra đời như thế nào thì phải dựa vào một điều gọi là sự tình cờ, sự ngẫu nhiên. Thế giới quan của họ bảo rằng chỉ vật nào có hình tướng mới thực, nhưng tình cờ và ngẫu nhiên không có hình tướng thì làm sao chúng là thực được đây? Và nếu chúng không thực, làm thế nào chúng có thể tạo ra tất cả những hình tướng mà họ bảo là có thực? Bất nhất nhận thức.

Thêm một tầng lớp bất nhất nhận thức nữa: Con là ai mà tuyên bố rằng chỉ có thế giới vật chất là hiện hữu? Con là ai? Con là sinh thể có khả năng tự nhận biết (self-awareness). Lý do duy nhất con có thể bảo một cái gì đó có thực hay không thực là vì con tự nhận biết. Tự nhận biết đến từ đâu? Liệu con có thể giải thích làm thế nào sự tình cờ và ngẫu nhiên sản xuất ra được khả năng tự nhận biết, là khả năng tìm kiếm trật tự ở mọi nơi? Làm thế nào chuyện đó có thể xảy ra? Con có giải thích được không? Nếu con không giải thích được thì có lẽ cách giải thích của con không trọn vẹn, thậm chí cách đó có thể là không thực nữa. Vì vậy, nếu con cởi mở đi tìm một cách giải thích khác, thì đó là như sau.

Tất cả những hình tướng mà con thấy trong thế giới vật chất, vật lý, hữu hình, đã được tạo ra vì một mục đích duy nhất: để đem lại cho các sinh thể tự nhận biết một trải nghiệm nào đó. Các con là con người, các con tự xem mình là dạng sống tiến bộ nhất trên địa cầu. Một lần nữa, bất nhất nhận thức. Con tuyên bố, con nghĩ con là một trong những dạng sống chót hết, nếu không là dạng sống xuất hiện chót hết trên trái đất. Có nghĩa lý gì mà bảo rằng dạng sống tiến bộ nhất đã được tạo ra chót hết? Chẳng hữu lý hơn hay sao là nói rằng tất cả những gì đã được tạo ra, tất cả các hình tướng đã xuất hiện, đều xoay quanh dạng sống tiến bộ nhất hầu mang lại cho các sinh thể tự nhận biết này một trải nghiệm nhất định nào đó? Con thử nhìn một nhà hát, mục đích của nhà hát là gì? Để mang lại cho khán giả một trải nghiệm. Liệu nhà hát có xuất hiện từ một tiến trình ngẫu nhiên? Liệu nhà hát có tự nó xây dựng lên, rồi sau khi xây dựng, tự dưng có khán giả ngẫu nhiên hiện ra? Chẳng hữu lý hơn hay sao là nói rằng ngay từ đầu, nhà hát đã được xây dựng với trọng tâm là khán giả?

Thế giới là gì? Trong thế giới ngày nay, người ta có một khái niệm xuất phát từ công nghệ, hẳn là do khoa học đề xướng, gọi là máy giả thực tại (reality simulator). Con có thể đeo vào một cặp kính, đi vào một căn phòng được xây đặc biệt, và bỗng nhiên con nhìn thấy trước mắt một môi trường nhân tạo. Mục đích làm ra máy giả thực tại là gì? Là đem lại cho người sử dụng máy một trải nghiệm cụ thể.

Con sẽ có thể nói trải nghiệm đó không dựa trên thực tại, và người đó không đang trải nghiệm một thế giới có thực. Nhưng người đó cho đó là thế giới thực, y trải nghiệm như thể đó là thế giới thực, và do đó dưới nhãn quan của y, y đang có một trải nghiệm thực. Và bởi vì y có trải nghiệm đó cho nên y có thể thay đổi tâm thức, xoay chuyển tâm thức của mình – tức là y có một thế giới quan đổi khác. Y có thể cảm thấy mình bị ứ một loại trải nghiệm nào đó và rốt cuộc y quyết định mình đã chán ngán trải nghiệm đó rồi. Bây giờ y muốn một trải nghiệm khác hơn.

Một số người có thể hoài nghi và bảo: “Ồ chuyện này hoàn toàn vô lý, không có gì người đó trải nghiệm là thực cả, vậy điều gì khiến bạn chắc chắn là những gì bạn trải nghiệm trong thế gian là thực?” Liệu có khó khăn lắm hay không để làm bước nhảy và nói: “Những gì tôi trải nghiệm trong máy giả thực tại có vẻ thực khi tôi ngồi trong máy.” Vậy chẳng phải là hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại tinh xảo hơn bất cứ gì mà loài người từng chế tạo ra? Chắc chắn con có thể nói là khi con ở trong bầu cõi địa cầu, ở trong một cơ thể vật lý trên địa cầu, những gì con trải nghiệm qua cơ thể đó và những giác quan đó dường như vô cùng hiện thực, phải không con? Và nếu con là một nhà duy vật, con có thể nói: “Nhưng đâu là ích lợi của một trải nghiệm không thực?” Thật không có gì quan trọng thế giới mà con trải nghiệm trong máy giả thực tại có thực hay không. Điều quan trọng là, trải nghiệm mà con đang có, trải nghiệm nhất thời mà con đang có, ảnh hưởng như thế nào lên tâm thức của con? Trải nghiệm thì nhất thời nhưng tâm thức của con thì cứ tiếp nối, và một trải nghiệm nhất thời có thể tác động lên tâm thức của con, đặt nó vào một con đường mới, tạo cho nó một hướng đi mới, mang lại cho nó một ý niệm mới về bản ngã. Đây chính là công dụng của máy giả thực tại.

Điều duy nhất con cần làm là làm bước nhảy đó và nhận ra địa cầu là một bộ máy giả thực tại. Con có thể nói, bởi vì mọi thứ đều là Phật tánh cho nên mọi thứ cũng có thể trở về trạng thái thuần khiết vô hình tướng của nó rồi chuyển thành một hình tướng khác. Không một hình tướng nào trên trái đất là thực ở mức cùng cực. Các nhà khoa học cũng biết ngay cả trái đất cũng đã không luôn luôn hiện hữu và sẽ không hiện hữu mãi mãi. Cho nên theo một định nghĩa khoa học, chúng ta phải nói là không có gì trên địa cầu là thực. Nhưng điều đó có quan trọng lắm không? Điều quan trọng là đối với mấy tỷ sinh thể tự nhận biết đã bước vào máy giả thực tại có tên là trái đất, thế gian có vẻ thực, và vì nó có vẻ thực cho nên nó đem lại cho họ một trải nghiệm khiến tâm thức của họ, ý niệm bản ngã liên tục của họ, xoay chuyển. Đó là toàn bộ mục đích.

Cho nên chúng ta có thể nói, hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại được thíết kế để đem lại cho các sinh thể tự nhận biết một loại trải nghiệm đặc thù. Đâu là trải nghiệm mà địa cầu đã được thiết kế để cho con? Có hai loại trải nghiệm, hai loại rất khác nhau mà địa cầu được thiết kế để cho con. Một loại là những trải nghiệm “trầm mình”, là khi con có cảm giác mình đang sống trong một thế giới có thực. Trong tâm con hoàn toàn đồng hóa với cơ thể vật lý và con tự xem mình là một sinh thể có thực, sinh sống trong một thế giới có thực, và thế giới này tác động lên cách nhìn của con về chính con. Nói cách khác, con bị thế gian quy định. Đây là trải nghiệm trầm mình – tuyệt đại số loài người trên hành tinh vẫn ở trong loại trải nghiệm này, vẫn ở trong giai đoạn trầm mình. Họ nghĩ thế giới là thực, họ nghĩ trải nghiệm của họ là thực, và không những họ tin chắc mình ở trong một thế giới thực, mà ngay cả nhận thức của họ về thế giới, ý tưởng của họ về loại thế giới mà họ đang sống, cũng là thực.

Điểm độc đáo của chiếc máy giả thực tại của địa cầu là nó có thể chứa bảy tỷ sinh thể tự nhận biết: họ đều sống trong cùng một môi trường – mặc dù môi trường vỏ ngoài chung quanh hành tinh có thể khác, nhưng họ sống trên cùng một hành tinh – vậy mà mỗi người lại có một trải nghiệm chủ quan cá nhân về hành tinh đó. Nói cách khác, đối với rất nhiều người, môi trường vỏ ngoài là giống nhau, nhưng đối với mỗi cá nhân thì trải nghiệm bên trong lại khác nhau. Tại sao như vậy? Bởi vì như ta đã trình bày, toàn bộ mục đích của thế giới hình tướng là để đem lại cho các sinh thể tự nhận biết một trải nghiệm đặc thù. Làm thế nào họ có được trải nghiệm đó? À, họ không có trải nghiệm đó bên ngoài tâm họ đâu. Cho dù các triết gia có nói gì, con không thể trải nghiệm thế giới như thế giới là, bởi vì con trải nghiệm thế giới qua tâm con, và điều này có nghĩa là các đặc tính của tâm con sẽ ảnh hưởng đến cách con nhìn thế giới. Ngay cả khoa vật lý lượng tử cũng đã chứng minh là tâm của nhà khoa học ảnh hưởng những đo đạc mà họ quan sát trong thử nghiệm. Cho nên mỗi con người có một trải nghiệm đặc thù của mình. Mỗi con người tin chắc trải nghiệm của mình là thực.

Nhưng cảm nhận thực tại đó đến từ đâu? Nếu thật là mọi thứ được tạo ra từ một chất cơ bản và không có hình tướng nào là thường hằng hay độc lập, thì không hề có thực tại nào bên ngoài tâm con người. Cho nên cảm nhận thực tại phải đến từ bên trong tâm con người – chứ nó đến từ đâu nữa? Vậy làm thế nào hai người có thể sống trong cùng một môi trường mà lại có trải nghiệm rất khác nhau về môi trường đó, chẳng hạn như một tín đồ sùng đạo Cơ đốc tin chắc thế giới vận hành y như Kinh thánh mô tả, trong khi người thứ hai có thể là một người cũng không kém sùng bái như lại sùng bái chủ nghĩa duy vật, sẽ tin chắc thế giới vận hành y như được mô tả trong thánh kinh duy vật? Đó là vì mỗi người mang trong tâm mình cái mà chúng ta có thể gọi là một bộ phin, lọc lựa ra một số tín hiệu đến với mình qua giác quan. Tâm loại bỏ đi một số tín hiệu, và đối với những tín hiệu được phép đi qua, tâm chồng lên trên đó một hình ảnh. Cho nên đối với tín đồ Cơ đốc, thế giới quan Cơ đốc sẽ có vẻ thực, trong khi đối với người duy vật thì thế giới quan duy vật sẽ có vẻ thực. Trong ý nghĩa tối hậu, cả hai thế giới quan đều không thực. Thậm chí, chuyện tranh luận xem cái nào thực hơn cái nào – cái nào đúng hơn cái nào – cũng không có nghĩa lý. Giản dị, chúng chỉ là những thế giới quan được tạo ra trong máy giả thực tại trên địa cầu, và máy giả thực tại là một cái máy chuyên làm đồ giả. Đó không phải là thực tại, mà chỉ mô phỏng thực tại. Có nghĩa là không một thế giới quan nào có thể được chế tạo trong máy là thực. Nó chỉ có vẻ thực khi con nhìn nó từ một góc cạnh nào đó qua một phin lọc nào đó trong tâm – một bộ phin hay một trạng thái của tâm lọc lựa ra một số tín hiệu hay chồng lên những tín hiệu khác một cách diễn giải nào đó. Khi con không chất vấn phin lọc đó, khi thậm chí con không nhận ra đó lả một phin lọc, thì những gì con trải nghiệm xuyên qua phin lọc sẽ có vẻ rất thực đối với con. Đây là “giai đoạn trầm mình” của máy giả thực tại có tên là địa cầu.

Vậy giai đoạn kia là gì? Là “giai đoạn tỉnh ngộ”. Giờ đây con đang bắt đầu thức tỉnh từ cảm nhận mình sống trong một môi trường thực nơi mọi chuyện mình trải nghiệm đều thực. Nhưng làm thế nào con thức tỉnh khỏi cảm nhận đó chứ? Nó chỉ xảy ra sau khi con sẵn lòng tra vấn thế giới quan, tra vấn phin lọc của con – là phin lọc đã loại bỏ ra một số tín hiệu và áp đặt một cách diễn giải trên những tín hiệu mà nó để cho lọt qua. Khi con khởi sự tra vấn thế giới quan này, đó là lúc con bắt đầu tỉnh ngộ. Con thấy gì trên địa cầu chứ? Con thấy là mọi người đã tạo dựng nhiều thế giới quan khác nhau. Đi trở ngược thời gian, con thấy một số nền văn minh đã hiện hữu trên địa cầu nhưng bị phân rẽ bởi khoảng cách, phân rẽ bởi đại dương. Đã có một nền văn minh Maya với thế giới quan khác hẳn thế giới quan của châu Âu vào cùng thời, nhưng do bị chia cách bởi Đại tây dương, cả hai thế giới quan đều không hay biết gì về nhau. Cho nên một nền văn minh có thể tồn tại nhiều thế kỷ mà thế giới quan không hề bị thách thức. Chuyện này cũng tốt thôi, vì nó hoàn toàn phù hợp với công dụng của bộ máy giả thực tại.

Đã có một thời khi có sự cần thiết là những nền văn minh bị chi phối bởi những thế giới quan cá biệt phải sống tách biệt và không tương tác với nhau để thế giới quan không bị thách thức. Đã có một thời khi con người được hoạch định để sống trong bộ máy giả thực tại gọi là địa cầu và không có gì sẽ thách đố thế giới quan của họ. Suốt một thời gian rất đài, họ được phép có trải nghiệm xuyên qua thế giới quan của họ. Nhưng con thấy đó, tâm con người không bao giờ chịu ngồi yên. Con người là một sinh thể không được sinh tạo trong một trạng thái tĩnh tại, mà đã mang sẵn trong bản chất một niềm khao khát vô cùng sâu sắc muốn tăng trưởng.

Do mong muốn tăng trưởng này mà con người không thể nếm mãi cùng một trải nghiệm một cách vô hạn định. Con người không thể trầm mình mãi mãi trong kinh nghiệm đó mà vẫn cứ bảo: “Ôi sao trải nghiệm này quá tuyệt vời!” Có thật không? Con không thể có trải nghiệm đó mãi mãi. Con không thể ở trong cùng trải nghiệm đó mãi mãi vì sẽ tới lúc con bị chán ngấy. Con muốn cái gì hơn thế. Có một giai đoạn khi con chán chê một loại trải nghiệm và giờ đây con muốn một loại trải nghiệm khác. Con muốn một cái gì khác hơn. Đó là tại sao con thấy có những người từng đầu thai trong một nền văn minh suốt nhiều kiếp lại muốn thay đổi, và họ đầu thai trong một nền văn minh khác để họ nếm một trải nghiệm khác mặc dù họ vẫn ở trên trái đất. Cũng sẽ tới một điểm khi giờ đây con không chỉ muốn một loại trải nghiệm khác trong khả năng mà máy giả thực tại địa cầu có thể cống hiến, mà con muốn nhiều hơn những gì con có thể có được trên địa cầu. Đây là thời điểm khi một dòng sống khởi sự giai đoạn tỉnh ngộ.

Yếu tố nào hướng dẫn loại trải nghiệm mà người ta có? Bao lâu họ cần trải nghiệm như vậy? Phải, đó là quyền tự quyết. Tuy nhiên, điều gì cho con khả năng có loại trải nghiệm mà con có thể có trên địa cầu? Như ta vừa nói, cái ghế không tự dưng hiện ra từ hư vô. Một người không hiện ra từ hư vô. Để có thể chế tạo những loại trải nghiệm có mặt trong máy giả thực tại địa cầu, phải cần có nhiều người. Đó là khi con thấy một nền văn minh xuất hiện, có thể với hàng triệu người, và trải nghiệm mà họ có được sẽ tùy thuộc vào sự có mặt và tương tác của tất cả những con người đó. Điều này tạo ra một sự nối kết nào đó giữa các sinh thể này.

Có thể nói mỗi sinh thể tự nhận biết đã, như các chân sư có giảng, khởi đầu với một ý niệm bản sắc chỉ nhỏ như cái chấm. Nếu con sống một mình trong toàn vũ trụ, con sẽ khó lòng mở rộng ý niệm bản sắc đó – chắc chắn con sẽ cần một thời gian rất dài. Nhưng vì con không một mình, vì có những sinh thể tự nhận biết khác trong thế giới của con, cho nên bằng cách tương tác với các sinh thể này, con sẽ khuếch trương được ý niệm bản ngã của mình nhanh chóng hơn. Do con phần nào bị thách đố, con thấy được nhiều cách khác để nhìn cuộc sống, nhiều cách khác để giải thích thế giới. Đây chính là yếu tố giúp cho máy giả thực tại thực hiện mục đích dễ dàng hơn, tức là khiến cho sự nhận biết của những sinh thể đang ngụ trong máy được tăng triển và ý niệm bản ngã của họ được mở rộng. Cho nên có một điểm khi một nhóm người cần sống chung với nhau dưới hình thức nhóm, nhưng họ vẫn cần sống biệt lập để xây dựng ý niệm bản sắc mà họ đã tạo ra trong nhóm.

Cũng đến một thời điểm khi mong muốn trải nghiệm một cái gì hơn nữa trở thành một nét chủ yếu trong tâm của ít nhất một số người, nhưng làm thế nào chuyện đó xảy ra được đây? Làm thế nào con có thể trải nghiệm một điều gì khác lạ hay một điều gì hơn nữa nếu mọi người đều bị kẹt trong cùng một thế giới quan? Trong một số trường hợp, người ta có thể đặt lại vấn đề thế giới quan của mình, nhưng chuyện này chỉ xảy ra khi người ta bắt đầu chuyển sang giai đoạn tỉnh ngộ – đây chính là thời điểm con bắt đầu tra vấn thế giới quan của mình một cách tự nguyện trong nội tâm. Nhưng rất khó thực hiện sự chuyển đổi này trực tiếp từ giai đoạn trầm mình sang giai đoạn tỉnh ngộ. Đại khái có một bước chuyển tiếp giữa hai giai đoạn đó, là khi một nền văn minh không thể tiếp tục đứng cô lập mãi, và nó tiếp xúc với một nền văn minh khác đã phát triển riêng rẽ suốt một thời gian rất dài. Như con thấy ví dụ nền văn minh Maya đã trải qua hàng bao thế kỷ phát triển tới mức những năm 1500. Nền văn minh châu Âu cũng đã bỏ ra một thời gian rất dài để phát triển cho tới điểm mốc đó. Nhưng giờ đây cả hai gặp gỡ và đây là cơ hội cho cả hai thăng vượt trạng thái cũ. Ta cũng biết một số người sẽ bảo là sự gặp gỡ đó đã đem đến hậu quả thảm khốc cho người Maya khi văn minh của họ bị người Âu châu tiêu diệt tàn bạo. Tuy vậy, đó vẫn là một cơ hội cho cả hai khám phá ra một cách sống khác, một cách nhìn khác về cuộc sống, và đó là một cơ hội tăng triển.

Tất nhiên, con có thể nói là khi hai nền văn minh với thế giới quan khác hẳn nhau bỗng nhiên gặp gỡ, chuyện gì bắt buộc sẽ xảy ra? Cả hai đều đang cảm nhận thế giới quan của mình không chỉ là một thế giới quan mà là thực tại – một thực tại dựa trên một thẩm quyền cao hơn, một chân lý tối hậu nào đó. Do đó sẽ không thể tránh được xung đột, không tránh được va chạm, và ai nấy đều cảm thấy thế giới quan của mình bị đe dọa. Mục đích là gì chứ? Mục đích là khi một nhóm dòng sống, ví dụ mấy tỷ người liên hệ với máy giả thực tại địa cầu, đã phát triển tới một mức nào đó, thì sẽ có một số dòng sống đã phát triển gần hơn tới giai đoạn tỉnh ngộ, trong khi những dòng sống kia vẫn bám vào thế giới quan cũ cùng cảm nhận về thực tại mà thế giới quan này cung cấp, cho nên họ từ chối đặt lại vấn đề. Nếu những người bám víu này cứ được để yên, có thể họ sẽ ở lại trong máy một thời gian rất, rất dài. Thật sự, họ có thể bị kẹt cứng trong thế giới quan đó. Chính vì mọi người, mọi dòng sống sinh sống trong một bộ máy giả thực tại được nối kết với nhau mà mới có sự kiện một số sẽ kéo theo những người khác đi lên, và điều này phù hợp với định luật tự quyết.

Hơn thế nữa, khi con sống trong một nền văn minh biệt lập với một thế giới quan nhất định, con có thể có một trải nghiệm nào đó, nhưng chuyện gì xảy ra khi hai nền văn minh đụng độ? Phải chăng đó cũng chỉ là một trải nghiệm khác hơn, một loại trải nghiệm khác mà con có thể có trong máy giả thực tại? Đầu tiên, con trải nghiệm là chỉ có một thế giới quan, tức là thế giới quan của nền văn minh của con. Sau đó con trải nghiệm là có những thế giới quan khác nữa – và quả thật là có rất nhiều thế giới quan khác hẳn nhau. Tất cả đều quả quyết là mình thực, là mình dựa trên một thẩm quyền cao hơn. Chuyện gì xảy ra khi người ta nhìn ra điều này? Đúng vậy, một số sẽ cố bám vào niềm tin rằng chỉ có thế giới quan của mình mới là đích thực và họ phải ép buộc người khác tuân theo. Nhưng có những dòng sống khác sẽ bắt đầu nghĩ: “Nếu từng nấy thế giới quan khác nhau đều quả quyết là mình thực, thì lôgíc cho thấy tất cả đều không thể thực cùng một lúc. Tất cả không thể đều thực khi chúng khác nhau đến như vậy, thậm chí còn đối chọi lẫn nhau.” Đây là lúc sinh thể khởi đầu giai đoạn thức tỉnh. Y bắt đầu chất vấn một cách ý thức những thế giới quan khác nhau, rồi y đạt tới điểm y bắt đầu tự vấn: “Tại sao con người tạo ra những thế giới quan đó? Tại sao chúng ta cần tới thế giới quan?” Y bắt đầu đặt vấn đề: “Có phải tất cả mọi thế giới quan trên địa cầu đều hạn chế, có phải chúng không mô tả toàn bộ cách vận hành của thế gian? Có chăng một thế giới quan nào cao hơn chưa được thị hiện trên địa cầu?”  

Sau đó sẽ đến một giai đọan cao hơn khi con bắt đầu hỏi: “Nếu như không có thế giới quan nào là thực một cách tối hậu thì sao? Nếu như chuyện bàn cãi xem thế giới quan nào là thực, là tối hậu, cũng là vô nghĩa? Nếu như tôi chỉ cần ngừng cảm thấy mình bị đe dọa bởi các loại thế giới quan khác biệt? Nếu như tôi nhìn nhận và nhận ra là một thế giới quan chỉ có một công dụng mà thôi, và công dụng này không phải để quy định thực tại là gì, không phải để mô tả cách vận hành tối hậu của thế gian là gì? Mà công dụng duy nhất của một thế giới quan là để đem lại cho một nhóm người một trải nghiệm nào đó? Vậy tại sao tôi phải lo ngại người khác có thế giới quan khác với tôi? Tại sao tôi lại không nghĩ: Mình hãy tập trung vào thế giới quan của mình cũng như trải nghiệm mình có được qua thế giới quan đó? Mình hãy vui hưởng trải nghiệm đó, trầm mình vào trải nghiệm đó, nếm mùi trài nghiệm đó cho tới khi mình chán chê, và khi mình chán chê, đâu là những chọn lựa mở ra cho mình? Phải, khi đó mình sẽ đi tìm một thế giới quan khác sẽ cho mình một trải nghiệm khác. Chuyện này không có gì sai trái.”

Con có thể xoay chuyển như vậy chỉ trong một kiếp đầu thai, nhưng nếu không, chắc chắn con có thể xoay chuyển thế giới quan từ kiếp này sang kiếp khác. Cuối cùng có thể con sẽ đạt tới một điểm khi con nhận ra nếu địa cầu thật sự là một bộ máy giả thực tại, thì nếu như có gì ở ngoài bộ máy đó thì sao? Nếu như có một thế giới khác ở ngoài máy giả thực tại thì sao? Khi con bước vào căn phòng được xây đặc biệt trên địa cầu để chiếu lên môi trường giả tưởng, con biết là bên ngoài vẫn có một thế giới mà con gọi là thế giới thực tại. Nếu như tất cả những gì mà con đã coi là thực chỉ là một cái máy giả thực tại lớn hơn? Nếu như có một cái gì đó bên ngoài bộ máy đó? Và nếu cái đó là thực hơn, có thể đó chính là thực tại bên ngoài bộ máy? Nói cách khác, những gì mà các chân sư gọi là hành tinh tự nhiên – là những hành tinh đã bước vào vòng xoáy hướng thượng luôn luôn tự thăng vượt – có thể được xem là thế giới thực, trong khi các hành tinh phi tự nhiên là máy giả thực tại. Con cũng có thể nói, toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên là một loại máy giả thực tại, và chỉ cõi thăng thiên mới là thế giới thực, cho dù con muốn nhìn như thế nào.

Tuy nhiên, con cũng có một chọn lựa là đạt tới điểm con nhận ra: “Tôi đã chán chê máy giả thực tại trên địa cầu, tôi đã chán chê những loại trải nghiệm mà tôi có thể có trong máy này rồi. Nếu như tôi “tốt nghiệp” thì sao? Nếu như tôi có thể vĩnh viễn bước ra khỏi bộ máy này thay vì cứ đầu thai lại hoài hoài?” À, làm thế nào con làm được chuyện này? Con yêu dấu, con phải nhận ra là mỗi thế giới quan – bất kỳ thế giới quan nào mà con có thể có bên trong máy giả thực tại tên là địa cầu – cuối cùng cũng không thực. Mỗi thế giới quan như vậy được cung cấp, hay được tạo ra, được sản sinh ra, để tạo điều kiện cho một loại trải nghiệm nhất định nào đó.

Giờ đây con có thể nhìn địa cầu và nói: “Thế còn tất cả những xung đột và cuộc chiến thì sao? Mục đích là để làm gì?” Địa cầu là một loại máy giả thực tại đặc biệt. Con thử nghĩ xem, các sinh thể tự nhận biết được sinh tạo với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm rồi được ban cho quyền tự quyết để khuếch trương ý niệm bản sắc đó. Khi con mang một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm, làm thế nào con có thể nhận ra là mọi thứ đều liên kết với nhau? Làm thế nào con có thể nhận ra lý duyên khởi mà ta vừa nói đến? Đó, con hiện ra như một sinh thể tự nhận biết, con tự trải nghiệm như một sinh thể riêng biệt, khác biệt mọi sinh thể khác. Con sống trong một môi trường và con cũng khác biệt môi trường đó. Vậy làm thế nào con bắt đầu xây dựng một ý niệm bản sắc? Con phải bắt đầu bằng cách tự xem mình là một sinh thể tách biệt. Đây chính là điều mà một máy giả thực tại như địa cầu được thiết kế để giúp con làm. Nó chỉ được thiết kế để cho con một loại trải nghiệm đặc biệt là trải nghiệm của một sinh thể tách biệt.

Các chân sư có nói là có những hành tinh tự nhiên, và trên hành tinh tự nhiên, con cũng khởi đầu với một ý niệm bản sắc nhỏ như chấm. Con tự xem mình phần nào như là một sinh thể tách biệt, nhưng con nhận ra bản sắc con là nhiều hơn cái bản sắc nhỏ như chấm đó. Đó là tại sao trên các hành tinh tự nhiên, con không có những xung đột giữa các sinh thể tự nhận biết với nhau. Trên địa cầu, con có xung đột vì như các chân sư đã giải thích, một hệ quả cùng cực của quyền tự quyết được ban cho con là con phải có khả năng thám hiểm tất cả mọi cõi lựa chọn mà con có thể. Điều này có nghĩa là con phải có khả năng trải nghiệm trạng thái của một sinh thể hoàn toàn tách biệt có thể làm bất cứ gì mình muốn bất kể hậu quả cho các sinh thể tách biệt khác. Con có thể làm bất cứ gì con muốn và tin tưởng là mình sẽ tránh được hậu quả của việc mình làm.

Hành tinh địa cầu cho con trải nghiệm đó khi con không có cảm giác là mình kết nối với cái ta cao hơn của mình. Con không có cảm giác kết nối nào với những sinh thể khác. Con phủ nhận sự kiện hành động của con gây hậu quả cho người khác, hoặc hậu quả đó quan trọng đối với họ, và nó sẽ tác động lên chính con. Trên một hành tinh tự nhiên nơi các sinh thể nhận biết mọi thứ đều nối kết, họ biết mọi chuyện mình làm sẽ ảnh hưởng đến tổng thể. Trên địa cầu, con có thể có trải nghiệm mình không liên quan gì đến tổng thể, mình là một sinh thể tách biệt sinh sống giữa những sinh thể tách biệt khác, cho nên mặc dù con thấy được hành động của mình gây ra hậu quả vật lý, nó vẫn không gây ra bất kỳ hậu quả nào xa hơn, và nó không có tác động đến tổng thể.

Vấn đề là một khi người ta bước vào cảm nhận tách biệt này, họ có một cảm nhận mạnh mẽ về thực tại rằng: “Chuyện này thực. Chúng ta thực sự là những sinh thể tách biệt. Chúng ta đang sống thực sự trong một thế giới tách biệt. Chúng ta là những sinh thể cao trội trên địa cầu. Chúng ta quan trọng hơn mọi người khác. Tôn giáo chúng ta là tôn giáo chân chính duy nhất và do đó điều cần thiết và chính đáng là chúng ta giết hết những ai không theo tôn giáo chúng ta.” Đây là một trải nghiệm mà con có thể có trong máy giả thực tại trên địa cầu và nó nằm trong toàn bộ phạm vi của quyền tự quyết. Nhưng điều gì xảy ra khi người ta bị mắc kẹt trong loại trải nghiệm đó? Đúng vậy, có một cơ chế an toàn là mặc dù họ trải nghiệm mình là sinh thể tách biệt nhưng kỳ thực họ không tách biệt chút nào, vì họ luôn tương kết với tất cả mọi sinh thể khác ở trong cùng bộ máy giả thực tại, và do đó khi có một số người tỉnh ngộ, điều này sẽ kéo mọi người khác lên theo.

Đó là tại sao con đã thấy trong nhân loại, trong xã hội loài người, có một chiều hướng tiến hóa. Nhiều công nghệ mới đã được khởi xướng cho phép những nền văn minh biệt lập bắt đầu tương tác với nhau, và con thấy được thế giới đã trở nên ngày càng nối kết như thế nào, và mạng lưới internet là giai đoạn mới nhất của chiều hướng này. Bây giờ con thấy các thế giới quan của loài người sẽ bắt đầu chạm trán với nhau nhiều hơn, và đó là vì tập thể loài người đã bước vào khởi đầu của giai đọan tỉnh ngộ. Có mốt số người vẫn còn bám chặt vào tâm thức tách biệt, nhưng chuyện này hoàn toàn phù hợp với định luật tự quyết khi trong máy giả thực tại có những người bị những thế giới quan khác thách đố hầu họ có cơ hội chất vấn thế giới quan của họ.

Con sẽ có thể nói: “Nhưng rất nhiều người không đang nắm lấy cơ hội đó”. Điều này tất nhiên cũng đúng cho kiếp sống này, hay có lẽ cho nhiều kiếp sống, nhưng dù sao đi nữa trong giai đoạn mà địa cầu đang trải qua, hay nhân loại đang trải qua, thì cách cấu trúc của địa cầu khiến con không thể sống trên hành tinh này mà không nhận thức được những thế giới quan khác đang có mặt và không bị thách đố trong thế giới quan của mình. Sẽ tới một điểm, sẽ tới một thời điểm cho hầu hết mọi người khi họ sẽ cởi mở hơn để chất vấn thế giới quan của mình. Điều này sẽ xảy ra đặc biệt là vì con sẽ không mãi mãi đầu thai với cùng một thế giới quan. Nhiều người khi tái đầu thai sẽ chuyển sang một nền văn minh khác hay một thế giới quan khác, cho nên mọi người sẽ đều có cơ hội chất vấn thế giới quan của mình. Sự kiện này nằm trọn trong phạm vi của quyền tự quyết bởi vì mọi người trên địa cầu đều nối kết, cho nên khi một số bắt đầu thức tỉnh, điều hoàn toàn tự nhiên là họ sẽ kéo theo số còn lại, sẽ thách đố số còn lại cũng phải đặt lại vấn đề thế giới quan của mình.

Dựa vào đó, chúng ta có thể nói: “Liệu điều này có đem lại ý nghĩa gì cho nỗ lực khiến người khác chất vấn thế giới quan của họ hay không?” Con nhìn xem khi tín đồ các tôn giáo tin chắc là mình nắm chân lý đích thực duy nhất, hay khi người cộng sản tin chắc là họ có hệ thống chính trị chân chính duy nhất, hay người duy vật tin chắc là họ nắm thế giới quan đúng đắn duy nhất, rồi họ trở thành những nhà truyền giáo ráo riết đi cải đạo người khác, liệu điều đó có đem lại ý nghĩa gì hay không? Tất nhiên là nó đem lại ý nghĩa vì đó là thêm một trải nghiệm mà con có thể có. Trong nguyên tầm trải nghiệm mà máy giả thực tại địa cầu cống hiến, con có thể cảm nhận: “Tôi có thế giới quan cao nhất cho nên tôi cần đi cải đạo mọi người”. Và con mang cảm nhận đó suốt mấy kiếp sống cho tới khi con chán chê và con bước lên một tầm nhìn cao hơn. Bây giờ thì con có thể tập trung trải nghiệm thế giới quan mà con đã chọn, nhưng cuối cùng thì con sẽ bước lên và bắt đầu tra vấn mọi thế giới quan hiện hành trên trái đất để tìm cái gì cao hơn.

Đây là lúc cuộc xoay chuyển có thể xảy ra trong tâm con, vì bước kế tiếp trong nhận biết cao hơn là khi con nhận ra địa cầu là một bộ máy giả thực tại. Nó đúng là thế đó. Nhưng điều con nhìn thấy trong máy giả thực tại địa cầu là con nhìn thấy máy, con nhìn thấy căn phòng con đã bước vào, nhưng máy không chạy được một mình. Bên ngoài căn phòng có nhân viên điều khiển máy, và những vị điều khiển máy giả thực tại trên địa cầu là những sinh thể đã từng, phần lớn, ở trong máy đó và gọi là đã tốt nghiệp. Họ đã chán ngán những trải nghiệm trong máy và họ đã bước ra ngoài, nhưng thay vì bỏ đi luôn, họ đã hiến thân mình để giúp những ai vẫn còn trong bộ máy.

Cho nên ở một mức nào đó, sự chọn lựa mở ra cho con là con nhìn vào thật nhiều những thế giới quan có mặt trên trái đất và nhận ra là chúng đều được tạo ra trong máy giả thực tại. Có lẽ một số trong số đó đã nhận được sự đóng góp từ bên ngoài bộ máy, nhưng sau đó người đời đã sử dụng khả năng tâm thức cố hữu của họ mà phóng chiếu lên các xung lực đến từ ngoài, rồi dựng lên một thế giới quan mới, và thế giới quan này thì được tạo ra bên trong bộ máy. Cho nên một khi con ngộ ra được điều này, con có thể nói: “À, nếu như tôi có thể nhận được trực tiếp từ những vị điều khiển máy ở ngoài thì sao?” Khi đệ tử sẵn sàng, vị thày sẽ xuất hiện. Đó là tại sao suốt bao nhiêu thời đại, một số người đã sẵn sàng tiếp nhận từ ngoài bộ máy giả thực tại và họ đã nhận được.

Khi ta, Phật Gautama, bước chân trên trái đất trong một cơ thể vật lý 2500 năm về trước, có phải ta đã tự mình nghĩ ra giáo lý đạo Phật hay chăng? Liệu ta là một sinh thể vẫn sống trong máy giả thực tại mà lại đưa ra được giáo lý đó? Không đâu. Ta nhận ra sự giới hạn của những thế giới quan mà ta tiếp cận thời đó, và ta đã mở tâm ra để với lên điều gì đó nằm vượt ngoài bộ máy. Và ta đã nhận được, và điều đó đã trở thành giáo lý đạo Phật. Giáo lý này được ban truyền từ bên ngoài bộ máy, và tất nhiên kể từ thời đó, đã có những người không trực tiếp liên lạc với các vị điều khiển máy bên ngoài đã sử dụng thế giới quan cố hữu của họ để đè chồng lên những ý tưởng tạo ra giáo lý mà ngày nay con gọi là đạo Phật. Một số người đã giữ được một độ thuần khiết nào đó của lời dạy ban đầu. Một số khác đã áp đặt một cách diễn giải rất khác với lời dạy ban đầu. Nhưng rất, rất ít người đã dùng lời dạy ban đầu của Phật giáo để nối kết với các vị điều khiển ở ngoài bộ máy.

Khi Giê-su bước chân trên trái đất 2000 năm về trước, thày cũng đã đạt đến mức tâm thức chất vấn mọi thế giới quan mà thày nhìn thấy trên địa cầu. Thày cũng ngộ ra là rất nhiều thế giới quan được tạo dựng hoàn toàn bên trong máy giả thực tại. Chúng dựa trên trải nghiệm của những người bên trong bộ máy. Họ lấy những trải nghiệm đó và đè chồng lên thế giới quan. Điều này cũng tốt thôi vì nó đem lại cho họ một trải nghiệm, và cảm giác trải nghiệm đó là thực. Vấn đề là, nếu thế giới quan do các điều kiện hiện hành trong máy tạo ra không thể giúp con bước ra ngoài bộ máy, thì nó sẽ giữ chặt con lại ở trong đó.

Cho nên Giê-su đạt tới điểm khi thày sẵn lòng nhìn ra điều đó. Và thày đã nhìn ra. Thày ngộ được sự giới hạn của những thế giới quan đó. Thày sẵn sàng chất vấn chúng. Thày sẵn sàng đạt tới điểm nói rằng: “Có thể nào tự mình ta không thể làm được gì? Hay có điều gì đó mà Cha ở bên ngoài ta con thể cho ta, một viễn quan khác hơn là những gì ta có thể nhận được từ bên trong thế gian này?” Và Giê-su với tay ra, và như định luật nói rõ, khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày phải xuất hiện, và Giê-su được ban cho một lời dạy từ bên ngoài bộ máy. Người đời đã làm gì với lời dạy đó chứ? Phải, như Giê-su vừa nói trong bài giảng của thày hôm nay, người đời đã hoàn toàn bóp méo nó đi.

Điều mà thày gọi là “tâm thức Sa-tăng” là cái mà ta gọi là “tâm thức hiện hữu bên trong máy giả thực tại”. Tâm thức đó có khả năng nhận thức một cái gì đó bên ngoài bộ máy, nhưng một khi nó bắt được liên lạc với bên ngoài, nó lại muốn buộc cho sáng ngộ đó phải ép mình vào trong thế giới quan đã được tạo ra trong máy. Nói cách khác, thay vì sử dụng sự tiếp xúc đó với bên ngoài để thăng vượt máy giả thực tại, nó lại sử dụng để củng cố và xác nhận chính cái thế giới quan đã giam nó trong máy.

Có người sẽ bào: “Nhưng đó có chẳng phải là một trải nghiệm khác mà người ta có thể có, khi người ta cảm thấy thế giới quan của mình được xác nhận bởi một thẩm quyền tối thượng, dù họ gọi đó là Thượng đế hay một cái tên nào khác?” Tất nhiên đó là một loại trải nghiệm khác, nhưng một lần nữa, vì mọi sinh thể ở trong bộ máy được nối kết với nhau, điều hoàn toàn bình thường là một số người sẽ với lên một trải nghiệm cao hơn và đem xuống được một điều gì đó có thể thách đố thế giới quan hiện hữu. Dựa vào đó con có thể nói: “Có một số thế giới quan trên địa cầu bảo là có điều gì đó không ổn với tạo vật của Thượng đế và đó là lý do chúng ta chứng kiến bao nhiêu cảnh khốn cùng, bao nhiêu đau khổ và xung đột trên địa cầu.” Nhưng nếu dựa vào viễn quan mà ta vừa trao cho con, không có gì đã đi trật đường.

Địa cầu là một máy giả thực tại được thiết kế để đem lại cho các sinh thể ở bên trong một loạt những trải nghiệm khác nhau. Họ có quyền tự quyết chọn lựa loại trải nghiệm nào họ muốn. Theo một nghĩa nào đó, họ không chọn lựa giữa những trải nghiệm đã từng có, mà họ phần nào có tự do ấn định trải nghiệm của họ, và điều này họ vẫn làm khi họ tạo ra tất cả những thế giới quan đó đụng độ với nhau. Không có gì đã bị trật đường. Vấn đề duy nhất là: “Liệu cá nhân con đã đủ chán chê những trải nghiệm con đang nhìn thấy trên địa cầu hay chưa?” Nếu con đã đủ chán thì con có thể làm hai chuyện. Con có thể tìm cách bắt liên lạc với những vị điều khiển máy bên ngoài bộ máy, và đem xuống một xung lực sẽ giúp con định ra một thế giới quan khác hơn sẽ mang lại cho con một trải nghiệm mà chưa ai trên địa cầu từng nếm mùi. Chuyện này hoàn toàn chính đáng. Nhưng chọn lựa kia là con nhận ra là con đã chán ngán tất cả mọi loại trải nghiệm – là loại trải nghiệm mà con có thể có trên trái đất, loại trải nghiệm mà con có thể có như một sinh thể tách biệt. Con muốn bước lên cao hơn và đi vào nhận thức sâu xa là mặc dù con đã khởi sự như một sinh thể nhỏ như cái chấm, giờ đây con đã khuếch trương ý niệm bản sắc của mình đến mức con ngộ ra là con không phải là một sinh thể tách biệt, mà con là thành phần của một tổng thể tương kết. Thay vì trải nghiệm những gì con có thể trải nghiệm như một sinh thể tách biệt, con muốn có trải nghiệm mình nối kết.

Cho nên khi con đạt đến điểm này, đó là lúc con có thể khởi sự giai đoạn chót của tiến trình tỉnh ngộ có thể dẫn con tới điểm vĩnh viễn bước ra khỏi bộ máy giả thực tại của địa cầu, mà hiển nhiên các chân sư gọi là thăng thiên. Liệu có tên gọi nào khác hay không? Tất nhiên là có, nhưng các chân sư đang trao cho con một lời dạy mà các thày không bảo là lời dạy tối hậu, mà là một lời dạy được thiết kế đặc biệt để giúp cho những ai sẵn lòng bước ra khỏi bộ máy càng nhanh càng tốt. Đối với nhiều người, việc này có thể thực hiện được trong một kiếp người, vì con đã làm xong nhiều chuyện trong các kiếp trước rồi. Cho nên đó là mục đích duy nhất. Các thày không có mục đích cho con chân lý tối thượng vì một lý do vô cùng giản dị. Mục đích giáo lý của chân sư không phải là cho con thêm một loại trải nghiệm để con có thể nếm mùi trong máy giả thực tại địa cầu. Mục đích giáo lý của chân sư là để giúp con vĩnh viễn rởi khỏi máy giả thực tại.

Liệu có những giáo lý nào khác có thể giúp con rời khỏi máy giả thực tại hay chăng? Chắc chắn là có. Đạo Phật là một giáo lý đã giúp được một số người. Đạo Cơ đốc trong dạng thuần khiết cũng đã giúp được một số người. Ngay cả đạo Hồi cũng đã giúp được một số người khi họ đi theo con đường thần bí. Có những giáo lý khác cũng đã giúp được con người. Nhưng những gì các chân sư thăng thiên ban truyền ngày hôm nay được dựa trên tâm thức tập thể của ngày hôm nay. Do đó nó đã được hoạch định cho những ai đã đạt tới những mức độ tỉnh thức cao hơn và đã sẵn sàng bước những bước cuối cùng. Đó là điều mà ta muốn trao cho con trong bài giảng này. Đối với một số người, đây chỉ là chuyện tầm phào. Một số người khác sẽ đọc bài này và bảo là chuyện ngớ ngẩn, vô nghĩa lý. Một số khác sẽ đọc và bảo bài này không thể nào là của đức Phật. Một số khác sẽ đọc và bảo bài này không thể nào của các chân sư thăng thiên. Hãy mặc cho họ có trải nghiệm đó. Điều quan trọng là bài này là gì đối với con?

Con đi theo những lời dạy đánh động được nội tâm của con, những lời dạy mà con biết có thể giúp con bước ra khỏi máy giả thực tại, và khi con thật sự rời khỏi bộ máy đó, chắc chắn ta sẽ ở đó để đón chào con, cùng với Giê-su, Saint Germain, chân sư More, Mẹ Mary và nhiều vị chân sư thăng thiên khác nữa. Thật ra, các thày có thể sẽ đứng xếp hàng để đón chào con. Nhưng một lần nữa, vì các thày ngụ trong tâm duy nhất cho nên chuyện đó cũng hoàn toàn tốt thôi.  

Với lời đó, con yêu dấu, ta biết ơn con đã cho phép ta đưa ra lời dạy vừa rồi, bài giảng vừa rồi. Lời dạy đó đã không thể trao cho bất cứ ai, mà chỉ cho những người đã mở tâm mình ra để có khả năng và lòng mong muốn tiếp nhận được. Và con thấy đó, luôn luôn có lý duyên khởi đang vận hành. Chúng tôi là các chân sư thăng thiên không thể truyền rải một điều gì đó trên địa cầu “từ hư vô”. Chúng tôi phải cần đến một ai đó bên trong máy giả thực tại nâng cao tâm thức mình đến mức có khả năng nhận được. Và vì thế ta vô cùng biết ơn. Như vậy, ta niêm ấn buổi hội nghị này trong Ngọn lửa Biết ơn của Phật.  

Tất cả đều nối kết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 21/9/2019 tại Kyiv, Ukraine.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Thật là một niềm vui rất lớn cho ta được niêm hội nghị chân sư thăng thiên này tại quốc gia Ukraine. Và ta cũng rất vui nói với các con là các con đã vượt quá tiềm năng cao nhất mà chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã dự đoán cho hội nghị này. Các con đã làm được như vậy là do đã sẵn sàng đến với nhau, và mặc dù những khác biệt về ngôn ngữ, quốc gia hay văn hóa, các con đã đạt được một mức độ kết hợp cao hơn là chúng tôi có thể dự đoán. Điều này đã mở ra khả năng cho chúng tôi truyền rải nhiều ánh sáng hơn những gì có thể.

Bởi vì điều gì định đoạt lượng ánh sáng mà chúng tôi truyền rải tại một hội nghị? Phần lớn, đó là khả năng của luân xa các tham dự viên – kể cả những tham dự viên nối kết qua mạng lưới internet – để tỏa rạng, phát sóng ánh sáng vào tâm thức tập thể. Nếu chúng tôi ban ra nhiều ánh sáng hơn là luân xa các con có khả năng tiếp nhận thì sẽ quá nhiều cho các con, và nếu ánh sáng không thể tỏa ra thì không chắc nó sẽ thực hiện được mục đích của nó. Qua sự kiện các con vừa nhận được những bài truyền đọc với uy lực rất lớn, các con có thể biết là mình đã sẵn lòng đến với nhau trong hợp nhất – là sự hợp nhất đạt được khi không chỉ luân xa của từng cá nhân được chúng tôi sử dụng, mà các con đã hình thành một tâm và một tim kết hợp rộng lớn hơn, khiến luân xa mọi người được phối hợp lại, được đồng bộ với nhau để nhân lên gấp nhiều lần những gì chúng tôi truyền rải.

Ta không bảo là mọi hội nghị đều như vậy, hay các con phải bắt đầu đánh giá xem hội nghị nào mà không nhận được bài truyền đọc đầy uy lực thì tham dự viên đã không kết đoàn. Có những hội nghị mang những mục tiêu khác. Có những bài truyền đọc mà mục đích chủ yếu là để giảng dạy giáo lý. Và do đó, vì phần nào chúng ta đang ở một khu vực mang tâm thức tập thể rất dày đặc nên mới có nhu cầu phóng ra một lực thúc đẩy thật mạnh mẽ hầu đâm thủng, phá vỡ một số khuôn đúc trong tâm tập thể.

Trong hội nghị này, chúng tôi đã gợi ý một số khái niệm mà chúng tôi chưa đề cập trước đây. Con đã nghe chúng tôi trình bày về một khái niệm – lý duyên khởi – có lẽ xa lạ đối với đa số các con nhưng lại khá phổ biến trong một số giới đạo Phật. Tất nhiên đó là một cách gọi hơi hoa mĩ vì con có thể diễn tả một cách khác: Tất cả mọi thứ đều nối kết với nhau. Khái niệm này mang nhiều hệ quả mà chúng tôi sẽ có dịp trình bày chi tiết hơn trong thời gian tới. Thật ra chúng tôi cũng đã có đề cập bằng những từ ngữ và ý tưởng khác rồi, nhưng như con cũng biết, chúng tôi thường trở lại một đề tài đã bàn đến trước đây để đưa nó lên một tầng cao hơn, bởi vì tiến trình truyền pháp có một số chu kỳ, và tiến trình tăng trưởng của con cũng có một số chu kỳ nhất định. Cho nên thỉnh thoảng, chúng tôi sẽ giảng lại về một đề tài đã được giảng trước đó để đem lại một cái gì mới và đưa nó lên một tầm nhìn cao hơn.

Khi bảo rằng tất cả mọi thứ đều nối kết thì câu này có nghĩa là gì? Có nghĩa là ảo tưởng, hay ấn tượng do giác quan của con tạo ra là một ảo tưởng. Con nhìn qua giác quan của con, và với tâm vỏ ngoài giới hạn giác quan, con thấy mọi thứ đều tách biệt. Con có thể bảo rằng cái loa bên này tách biệt với cái loa bên kia, rằng mặt trời tách biệt với mặt trăng, địa cầu tách biệt với sao Thủy hay sao Kim. Một người bên Nga tách biệt với một người bên Mỹ, vân vân.

Thế giới chú tâm vào sự khác biệt, chú tâm vào những vật tách biệt. Đây là một ảo tưởng mà con có thể bắt đầu rèn luyện tâm trí để con nhìn vượt qua. Và con có thể làm điều này một cách cao hơn hầu hết mọi người đã làm được trước đây nhờ con được học rất nhiều giáo lý mà chúng tôi đã ban ra. Trước tiên là giáo lý về bốn tầng của vũ trụ vật chất. Nó cho thấy là dải tần số vật chất, quang phổ vật lý, cũng giống như phần nổi của một tảng băng hiển lộ trên mặt nước, trong khi phần còn lại thì không thấy được bởi nó ẩn dưới mặt nước.

Cũng vậy, ba thể cao của phàm ngã con không thấy được. Nhưng như con cũng biết, nếu 90% băng đá bên dưới chuyển động thì chẳng phải là phần nổi bên trên cũng sẽ chuyển động theo hay không? Cho nên nếu bên dưới có dòng nước ngầm di chuyển về hướng Nam, thì dù cho bên trên có một ngọn gió thật mạnh thổi về hướng Bắc, phần nổi của tảng đá vẫn sẽ trôi ngược gió về hướng Nam.

Và như vậy nếu trong ba thể cao của con có sự chuyển động về một hướng nào đó, thì có thể tâm ý thức của con sẽ rất khó lòng đi ngược về hướng kia. Con sẽ đi theo những ngọn sóng ngầm trong tiềm thức. Và đó là tại sao con có tiềm năng nắm quyền chủ động đời mình bằng cách giải tỏa những năng lượng đó, giải quyết tâm lý và buông bỏ những cái ngã, vân vân. Nhưng con cũng có thể rèn luyện tâm trí để con cảm nhận sự nối kết sâu hơn bên dưới cho dù con không nhất thiết nhìn thấy được.

Điều này sẽ đem lại rất nhiều ích lợi cho đường tu của con. Sơ khởi ta sẽ đưa ra một ví dụ. Sứ giả này đang dang hai bàn tay ra khá xa. Nếu giả dụ con lấy một tấm vải che phần dưới cơ thể của ông thì con có thể thấy hai bàn tay này tách biệt với nhau. Bây giờ hai bàn tay bắt đầu chuyển động nhịp nhàng với nhau và chúng gặp nhau ở giữa – con có thể nghĩ chúng là hai vật tách biệt đang di động nhịp nhàng. Nhưng tất nhiên vì không có tấm vải nào đang che cơ thể của ông, cho nên con thấy rõ chúng thuộc về, chúng gắn liền với cùng một cơ thể. Và do đó, thật không có gì lạ lắm khi cơ thể này có thể làm cho chúng chuyển động.

Nhưng bây giờ con hãy tưởng tượng hai vật có vẻ tách biệt đối với giác quan của con. Nếu một vật di chuyển về hướng này và vật kia di chuyển về hướng kia, con sẽ có thể nghĩ rằng có hai nguyên nhân khác nhau đang làm chúng chuyển động. Và con có thể nghĩ, như khoa học đã nghĩ như vậy từ mấy thế kỷ qua, rằng thế giới được tạo thành bởi những vật tách biệt, những vật không nối kết với nhau, không trao đổi tín hiệu với nhau. Và do đó nếu chúng di chuyển về hướng khác nhau, nhất định là phải có những nguyên nhân khác nhau khiến chúng chuyển động. Nhưng thật là không phải vậy. Không có vật nào tách biệt cả. Và cũng không có nguyên nhân nào tách biệt. Không có hậu quả tách biệt lẫn nguyên nhân tách biệt.

Điều gì có thể giải thích chuyện này? Làm thế nào con hình dung được đây? Một lần nữa, con hãy lấy ví dụ hai bàn tay của sứ giả này đang chuyển động nhịp nhàng với nhau trước khi chúng chụm lại. Dựa trên giác quan, con có thể bảo là có hai bàn tay đang hiện hữu trong thời gian và không gian. Chúng đang di chuyển một cách liên tục với nhau trước khi gặp gỡ. Nhưng như chúng tôi đã gợi ý trước đây, điều xảy ra không thực là vậy. Bởi vì quang phổ vật lý giống như hình ảnh trên một màn hình chiếu phim. Những chuyển động mà con thấy trên màn hình không liên tục vì chúng do cuộn phim tạo ra, và cuộn phim thì có nhiều tấm ảnh tách rời được ánh sáng chiếu xuyên qua. Chính các tấm ảnh này chuyển động, nhưng chúng chuyển động nhanh đến độ con không thấy có một tấm ảnh đang thay thế một tấm khác. Nhưng dĩ nhiên con cũng biết, trong phim cũ thời xưa quay chậm hơn, con có thể nhận thấy hình bị nhảy giật giật, khiến người ta đi đứng trong phim cũng giật giật như thế – và nhờ vậy con dễ nhận ra đó là những tấm ảnh cố định riêng rẽ đang được trình chiếu ở một tốc độ khiến con có cảm giác chúng là phim xi-nê.

Khi con biết mọi chuyện xảy ra trong cõi vật lý là kết quả của những nguyên nhân trong ba cõi cao hơn, con sẽ bắt đầu thấy được là không có hai bàn tay đang chuyển động cùng với nhau trong một động tác liên tục. Nếu con có thể chiếu chậm lại, con sẽ thấy: đây, có một tấm ảnh đang được trình chiếu ngay bây giờ bởi những gì đang xảy ra trong ba cõi tình cảm, lý trí và bản sắc, tức là sự tương tác giữa những năng lượng và khuôn đúc trong ba cõi đó. Nếu con hình dung được và chiếu cho thật chậm, con sẽ có thể nói: đây, có một tấm ảnh nữa đang được tạo ra bởi tương tác trong ba cõi cao. Và đây, lại thêm một tấm ảnh nữa. Và đúng vậy, đối với con hai bàn tay có vẻ như xích lại gần với nhau. Nhưng câu hỏi đặt ra là: liệu có phải là cùng hai bàn tay đó hay không? Có phải là cùng hai bàn tay đang chuyển động từ tấm ảnh này sang tấm ảnh kia rồi sang tấm ảnh nọ? Hay phải chăng nó giống như những tấm ảnh riêng rẽ trên một cuộn phim đang quay và được chiếu lên màn hình, hết tấm này sau tấm kia?

Nói cách khác, thực tế là cho dù con thấy cái đó như một vật liên tục và một sự chuyển động liên tục, thật ra nó giống như một chuỗi ảnh được chiếu lên màn hình, nhưng nó nhanh đến độ các giác quan vỏ ngoài của con, tâm vỏ ngoài của con không thể nắm bắt được.

Tại sao chuyện này lại quan trọng? Vì nhiều lý do. Nhưng sơ khởi, vì con hiểu ra là nếu con thực sự muốn thay đổi cõi vật lý thì con sẽ cần thay đổi nguyên nhân, con cần làm việc trên nguyên nhân thay vì trên kết quả. Đây là điều chúng tôi đã dạy con làm bằng cách làm sạch bốn thể phàm của con. Và khi thời điểm thích hợp, chúng tôi sẽ dạy con nhiều hơn, không những về cách làm sạch bốn thể phàm mà vượt ra ngoài năng trường của con để bắt đầu làm sạch một số khuôn đúc, hình ảnh, năng lượng cùng mô thức sóng đang ảnh hưởng đến hoàn cảnh vỏ ngoài của con. Nhưng điều này chúng tôi chưa thể trao cho con cho đến khi chúng tôi dạy con về cách khắc phục ngã gốc (primal self). Bởi vì nếu không, có thể con sẽ bị rất nhiều ngã tách biệt xúi giục con lạm dụng lời dạy đó để đạt quyền năng thay đổi hoàn cảnh vật lý cho dù con sẽ xen vào quyền tự quyết của người khác.

Nhưng điều con hiểu ra khi con suy ngẫm về lời dạy trên là sự kiện con đã bị lập trình để nghĩ rằng một khi một nguyên nhân đã được kích hoạt thì không gì sẽ có thể lật ngược lại được. Không gì có thể thay đổi nó được. Sứ giả này đã lớn lên với một người ông rất ham thích săn bắn và súng ống, nhưng ông cũng rất quan tâm đến an toàn. Phương châm của ông là: “Đừng bao giờ quên, một khi viên đạn đã rời khỏi nòng súng thì không một thế lực nào trên địa cầu sẽ có thể quay nó ngược trở lại.” Đây là điều mà khi lớn lên con đã được dạy dỗ để suy nghĩ. Một khi một nguyên nhân được kích hoạt thì không một thế lực nào trên địa cầu có thể quay nó trở ngược lại. Một khi trận tuyết lở đã khởi động thì không gì có thể ngăn nó đổ xuống sườn núi.

Nhưng làm thế nào Ki-tô đã làm yên được cơn bão chứ? Ki-tô đã làm được vì tâm của thày không rơi vào cái ảo tưởng thường tình cho rằng cơn bão là một hiện tượng liên tục được tạo ra bởi một nguyên nhân nào đó, và một khi nó đã được khởi động thì nó bắt buộc phải tiếp diễn cho đến khi kiệt sức. Giê-su nhận ra là rất nhiều lần trong mỗi giây, thế giới vật lý lại được tái tạo, được trình chiếu lại một lần nữa. Giữa hai lần trình chiếu riêng rẽ đó có một khoảng thời gian – một khoảnh khắc rất, rất ngắn, nhưng không phải là không có. Có một khoảnh khắc im lặng. Và nếu con có thể uốn cong tâm mình hay kéo tâm cho khỏi tập trung vào sự kiện, và nếu thay vào đó con tập trung vào sự im lặng giữa hai lần trình chiếu, thì con có thể thay đổi hình chiếu ở cõi vật lý. Hay đúng hơn, con thay đổi ở các cõi cao hơn và sau đó cõi vật lý cũng thay đổi theo.

Tuy thời nay không phải là một thời con cần sản xuất ra loại hiện tượng mà Giê-su đã làm 2000 năm về trước, nhưng con có thể dùng lời dạy này để thị hiện những hoàn cảnh vỏ ngoài tốt đẹp hơn cho mình, kể cả việc chữa lành xác thân vật lý. Nếu con suy ngẫm về lời dạy, con sẽ nhận ra là trong thế gian này không có hiện tượng nào là liên tục, mà chỉ có những hình ảnh riêng rời được phóng chiếu, và ở giữa thì có im lặng. Im lặng đó, mặc dù có vẻ ngắn ngủi hơn cả một khoảnh khắc, thật ra vượt khỏi thời gian. Điều này có nghĩa là khi con tu luyện tâm trí, con có khả năng dùng khoảnh khắc im lặng đó để thay đổi các khuôn đúc trong cõi bản sắc, lý trí và tình cảm và khiến cho sự thị hiện vật lý cũng thay đổi theo.

Ta tuyệt nhiên không bảo là lúc đầu con sẽ cần làm được chuyện này trong tích tắc. Nhưng với thời gian, con sẽ lần hồi chấp nhận những hình ảnh khác hơn về hoàn cảnh đời sống của con có thể thay đổi ra sao, về những gì con có thể thị hiện trong đời, những gì con có thể thu hút về phía con – và con làm chuyện đó trước hết trong thể bản sắc, xong trong thể lý trí, xong trong thể tình cảm. Với thời gian, có thể những hoàn cảnh tốt hơn đó sẽ thị hiện. Con có thể cho rằng chuyện này thật là khó tin, nhưng hãy để ta hỏi con câu này. Con có cảm thấy con đã từng trải nghiệm là mình đã cải thiện hoàn cảnh đời sống của mình hay không? Nếu có thì con chỉ có thể làm vậy một cách mà thôi, và cách đó là cách ta vừa mô tả. Có điều là con đã không ý thức, và vì vậy con không thể thực hiện một cách đều đặn, chắc chắn. Nhưng đó chính là cách con có thể luyện tập để thực hiện.

Con thấy đó, sự kiện một hình ảnh được chiếu ra nhiều lần mỗi giây trên màn hình của thế giới vật chất có nghĩa là ngay khi nó được thay đổi trên màn hình của ba thể cao, thì cùng lúc đó sự thị hiện vật lý cũng thay đổi. Và bởi vì rõ ràng ba cõi cao là một dạng năng lượng cao hơn – một dạng năng lượng ít vật lý hơn và do đó cũng lỏng hơn dạng vật lý – cho nên thật là hữu lý để con chấp nhận chúng dễ thay đổi hơn. Chúng linh hoạt hơn, mềm lỏng hơn, không cứng đặc như đá. Vả lại, ngay cả cái cứng đặc như đá cũng không tồn tại được hoài hoài, và đó là tại sao nó có khả năng được thay đổi khi hình ảnh do ánh sáng rọi xuyên qua thay đổi.

Chuyện này nghe có vẻ như là phép thần tiên, nhưng không đâu con. Chẳng có gì là thần tiên trong đó. Nhưng trên thực tế, đó không phải là một lời dạy có thể được nắm bắt hay thực hiện bởi một người mới cất bước trên đường tu. Nó đòi hỏi một sự trưởng thành nào đó. Nó đòi hỏi kinh nghiệm. Nhưng nhiều người trong số các con đã sẵn sàng để ít ra bắt đầu suy ngẫm, trước hết bằng cách nhận ra là không có gì là không thể thay đổi. Và thêm vào đó, con cũng cần được cảnh báo là tất cả mọi thứ đều nối kết với nhau.

Điều này có nghĩa là nếu con muốn thay đổi hoàn cảnh đời con, đó sẽ không chỉ là chuyện nhìn vào ba thể cao của mình. Chắc chắn con cần bắt đầu ở đó. Con cần bắt đầu thanh lọc năng lượng ở đó, chữa lành tâm lý của mình và vứt bỏ đi những cái ngã tách biệt. Nhưng ngay cả khi con đạt đến một mức tâm thức cao như Giê-su hay như chính ta đã đạt được, thì điều này không có nghĩa là con chỉ cần búng tay là sẽ thay đổi được tuyệt đối bất kỳ hoàn cảnh vật lý nào. Bởi vì có những hoàn cảnh mà con không muốn thay đổi do chúng sẽ áp đặt lên quyền tự quyết của người khác. Và đó là tại sao chúng tôi đã cho con tất cả những lời dạy kia về nhu cầu thanh lọc tâm thức cho sạch ngã tách biệt, hầu con không sử dụng hiểu biết này để đoạt một số ưu thế cho cá nhân mình, khiến con quên mất tổng thể rộng lớn hay thậm chí làm hại cả người khác.

Để áp dụng lời dạy này cho đúng đắn, con cần có phần nào cái mà chúng tôi gọi là sự nhận biết Ki-tô, tính nhân bản cơ yếu, cảm nhận nối kết với mọi người, để con nhận ra là có những điều con sẽ không làm. Có những điều mà con sẽ không thay đổi, bởi vì người khác có quyền trình chiếu ra những chọn lựa mà họ đã chọn. Nói cách khác và để cho con một ví dụ hiển nhiên, nếu con có con cái thì con có thể muốn tránh cho con mình những biến cố đau lòng. Nhưng nếu đứa con đã kết đọng biến cố đó qua chính tâm thức của nó thì nó sẽ cần trải nghiệm hậu quả của biến cố đó để mà tăng triển. Nếu con tránh cho nó không bị đau lòng và do đó cản trở sự tăng triển của nó, thì đây không phải là một cách dùng giáo lý và hiểu biết cao lắm.

Trước khi con có thể thực sự dùng được lời dạy này, con sẽ cần đạt được một trình độ buông bỏ, lãnh đạm nào đó, một sự không dính mắc nào đó, và con không còn ý thức cá nhân trong cuộc sống nữa.

Ta cũng biết những gì ta đưa ra ở đây chỉ là một thoáng hé mở về một giáo lý rộng lớn hơn. Nhưng vì con đã thực hiện những gì con đã thực hiện nơi đây, cho nên ta quyết định cho con thêm một chút quà đặc biệt mặc dù nó không nhất thiết nằm trong chương trình hội nghị này. Nhưng bây giờ thì lời dạy này đã được đặt vào cõi vật lý, và đối với những ai trong số các con đã sẵn sàng thì các con hãy suy ngẫm về lời dạy. Chắc chắn với thời gian, chúng tôi sẽ còn ban ra nhiều lời dạy nữa khi thấy thời điểm cũng như cộng đồng đệ tử đã sẵn sàng.

Và như vậy, thật là một niềm vui rất lớn cho ta được niêm hội nghị này, niêm các con ngồi đây lẫn các tham dự viên trên mạng internet. Ta niêm ánh sáng đã được rải truyền đến những quốc gia từng là thành viên của Liên bang Sô viết, để các quốc gia này bước lên cao hơn và để những ai sẵn sàng tự do tìm được tự do. Tất nhiên, có thể có một số người ở đâu đó vẫn muốn tiếp tục đau khổ, và bởi vì chúng tôi tôn trọng quyền tự quyết cho nên chúng tôi cũng sẽ tôn trọng quyền muốn đau khổ, quyền tự do đau khổ của mọi người. Nhưng chắc chắn con cũng thấy được, quyền tự do đau khổ không nằm trong ngọn lửa tự do của Saint Germain và do đó nó không đến từ các chân sư thăng thiên, nó không phải là một ngọn lửa tâm linh. Chính sự vắng mặt này của ngọn lửa mới tạo ra đau khổ.

Đau khổ không có thực chất. Ngọn lửa thì có thực chất – mặc dù đó không phải là một chất vật lý – vì đó là một ngọn lửa tâm linh. Nhưng đau khổ, oán giận, mọi loại hận thù, mọi loại năng lượng xuất phát từ sợ hãi đó, thực sự không có thực chất của một chất trường tồn. Đó là tại sao những gì có vẻ mang chất vật lý có thể được thay đổi bởi một năng lượng cao hơn. Nó có thể được thay đổi chính vì mặc dù nó có vẻ có chất liệu, nó có vẻ là vật chất rắn đặc hay là năng lượng cảm xúc dày đặc, nhưng nó chỉ hiện ra như vậy khi được nhận thức qua phin lọc những cái ngã vỏ ngoài, qua tâm vỏ ngoài. Khi con nhìn vượt khỏi nó, con sẽ thấy là nó không hề có chất liệu liên tục. Nó chỉ là một ảo ảnh được trình chiếu trên màn hình. Và ở giữa các hình ảnh được trình chiếu thì màn hình vẫn trắng tinh. Và như con cũng biết trên một màn hình trắng tinh, bất cứ hình ảnh nào cũng có thể được trình chiếu. Khi con nhìn thấy màu trắng tinh ở giữa các hình ảnh, con biết là bất cứ lúc nào, hay đúng hơn ngay lúc sau đó, một hình ảnh mới có thể được trình chiếu. Điều này không nhất thiết có nghĩa là con có thể thay đổi toàn bộ hoàn cảnh trong một tích tắc – bởi vì một phần của giáo lý duyên khởi là có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng một tình huống có vẻ giản dị – nhưng bằng cách thay đổi các yếu tố này lần hồi, con có khả năng thay đổi hoàn cảnh một cách đáng kể.

Như con có thể thấy, ta hân hoan ban cho con lời dạy này đến độ gần như ta không thể ngừng nói. Nhưng bây giờ ta sẽ niêm hội nghị này trong tim vui mừng và ta trao cho con niềm vui đó. Niềm vui của ta tràn đầy. Và ta mong niềm vui của con cũng tràn đầy.

Gautama TA LÀ.

Khi vật chất và chính con không quan trọng

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 16/1/2019.

TA LÀ chân sư Saint Germain, và cho khai ngộ thứ bảy và cũng là cuối cùng tại khóa nhập thất của thày, thày muốn dẫn con theo một hướng hơi khác. Thày có nói trong một bài giảng trước là con cần đạt tới điểm khi “vật chất không còn quan trọng” [matter trong Anh ngữ có nghĩa là vật chất, và cũng có nghĩa là quan trọng]. Cho khai ngộ thứ bảy này, con cần đạt tới điểm khi chính con cũng không quan trọng.

16.1. Trọng lực

Bây giờ con hãy dõi nhìn con xem con phản ứng thế nào khi con nghe hay đọc câu này: “Con không quan trọng.” Phản ứng con cảm thấy trong bản thân mình là thế nào? Nó sẽ phần nào cho con thấy là con có một cái ngã muốn được quan trọng, một cái ngã có nhu cầu được quan trọng, thậm chí một nhu cầu ám ảnh-cưỡng chế là mình quan trọng, là mình đem lại sự khác biệt.

Các thày đã nói gì với con về mục đích của những khai ngộ mà con kinh qua giữa các tầng 48 và 96? Đó là để con vươn mình lên khỏi lực kéo của tâm thức tập thể. Con có thể so sánh lực này với trọng lực. Theo một nghĩa nào đó, tâm thức tập thể vận hành như một lực hấp dẫn tìm cách kéo mọi người xuống mức mà chúng ta có thể gọi là mẫu số chung thấp nhất – không nhất thiết là mức thấp nhất của tâm thức tập thể nhưng là mức trung bình. Chắc chắn trong tập thể cũng có những khác biệt – sẽ có người ở mức thấp hơn và người ở mức cao hơn – nhưng có một mức trung bình nào đó, và lực hấp dẫn của tâm thức tập thể sẽ tìm cách kéo mọi người xuống ít nhất mức trung bình đó.

Để vượt lên trên mức đó và cất bước trên đường tu tâm linh, con cần kéo mình ra khỏi trọng lực đó. Điều này đòi hỏi một sự quyết tâm nào đó, một sức mạnh ý chí, một động lượng và nhiệt tình nào đó. Chúng ta còn có thể nói là nó đòi hỏi một nỗ lực chiến đấu nào đó, mặc dù các vị Thượng sư khác đã cố giúp con nắm ý là con thoát khỏi cảm nhận chiến đấu, rằng con không còn cảm giác là con đang chiến đấu chống lại tâm thức tập thể.   

Làm thế nào con thoát khỏi tâm thức tập thể, tâm thức đại chúng? Chúng ta ở trên một hành tinh có tên là địa cầu nơi vật chất rất dày đặc, nơi tâm thức tập thể cũng rất mạnh mẽ và khá thấp so với mức tâm thức của quả vị Ki-tô. Muốn thoát ra khỏi sẽ đòi hỏi một nỗ lực, một quyết tâm khá lớn. Bây giờ nếu con so sánh với nỗ lực để thoát khỏi trọng lực của trái đất, con sẽ thấy là nếu con dùng phương thức quen thuộc, con sẽ chế tạo một chiếc hỏa tiễn và động cơ của nó phải rất lớn. Nó phải đem theo thật nhiều nhiên liệu để khi đốt cháy, nhiên liệu sẽ đẩy hỏa tiễn ra khỏi vòng kềm toả của trọng lực địa cầu, bay vào quỹ đạo. Một khi tàu vũ trụ đã ở trên quỹ đạo, không còn lực hút nào sẽ kéo nó xuống mặt đất nữa. Nó quay quanh địa cầu trên một tầng quỹ đạo nhất định và nó có thể bay tiếp như vậy gần như vĩnh viễn. Nó không cần đến bất kỳ nỗ lực nào nữa.

Điều thày đang cố giúp con thực hiện với bảy tầng khai ngộ này ở khóa nhập thất của thày là dẫn con đến một điểm nơi con – nếu có thể nói như vậy – sẽ đi vào quỹ đạo, con sẽ thoát ra khỏi lực hút của tâm thức tập thể. Nhưng ngược với phi thuyền không gian, điều này không có nghĩa là thày muốn con ở lại mức đó vĩnh viễn. Thày không muốn con cứ bay vòng vòng ở mức tâm thức đó mãi mãi. Và tất nhiên thày muốn con tiếp tục tăng triển về hướng tầng 144.

Dù sao thì rất có thể sẽ tới điểm con lên được một quỹ đạo nào đó và giờ đây, ít ra là phần nào, ông hoàng của thế gian có thể đến và không tìm được gì nơi con để mà nắm lấy. Nói cách khác, nếu chúng ta gọi ông hoàng thế gian là tâm thức tập thể, thì tâm thức tập thể không tìm được gì nơi con để kéo con trở xuống. Điều này không có nghĩa là một ông hoàng thế gian khác, cụ thể là sa nhân, sẽ không nắm được gì nơi con. Chúng sẽ phần nào nắm được gì đó nơi con cho tới tầng 144, mặc dù tất nhiên, sẽ tới một thời điểm khi con bắt đầu nhìn xuyên thấu qua tất cả mọi mưu kế của chúng. Và do đó, nói một cách thiết thực, con không còn bị mắc lừa để cho chúng lôi kéo mình được nữa.

16.2. Đi vào quỹ đạo

Điều thày nói ở đây là có thể sẽ tới một điểm khi con đã vào quỹ đạo, con đã phóng mình lên cao hơn tâm thức tập thể đến độ con đi vào một quỹ đạo nơi con không có nguy cơ bị trượt trở xuống. Tất nhiên, đó là điểm mà thày muốn con đạt tới sau khi đã bước theo tất cả những tầng khai ngộ của toàn bộ khóa tu này về bảy tia sáng. Con sẽ cần gì để bay vào quỹ đạo và giải thoát khỏi lực hút của tâm thức tập thể? Nhìn vào chiếc hỏa tiễn, con cũng biết đó không chỉ là một chiếc hỏa tiễn rất lớn nằm trên mặt đất, mà nó còn có mấy tầng. Nó mang một động cơ cao áp rất lớn được hoạch định để đưa nó lên một độ cao nào đó, rồi nó làm gì chứ? Phải, nó tự tách ra khỏi động cơ đó, tách ra khỏi nguyên cái thân hỏa tiễn ở phía dưới và nó để cho phần này rơi trở lại mặt đất.

Con đã làm gì khi con vươn lên từ tầng 48 đến tầng 96? Con đã dùng một cỗ máy, một cỗ xe, và cỗ xe này là một cái ngã. Ngã được tạo thành bởi một số phàm linh nội tại, như các thày đã có đề cập trong khóa tu này. Thực sự nó là nhiều hơn một phàm linh nội tại và đó là tại sao thày ưa gọi đó là ngã, bởi vì ngã có thể có nhiều tầng lớp khác nhau. Một phàm linh nội tại có một chương trình hạn hẹp duy nhất, giống như một chương trình trong máy tính của con được thiết kế để thực hiện một công việc rất đặc thù, chẳng hạn như làm toán hay quản lý email. Đó là một phàm linh nội tại với một nhiệm vụ nhất định, một lập trình nhất định. Còn một cái ngã có thể phức tạp hơn, có nhiều thành phần, nhiều mức độ khác nhau, thậm chí nhiều phàm linh nội tại khác nhau hay nhiều ngã khác nhau.

Con đã chế tạo ra một cái ngã để dùng làm cỗ xe đưa con từ tầng 48 lên đến tầng 96. Một lần nữa, không có gì đáng trách ở đây, vì ai ai cũng đã đều phải làm vậy hầu vươn mình lên cao hơn tâm thức tập thể. Con cần nhìn nhận ở đây là nếu con muốn lên cao hơn tầng 96 và vượt qua cuộc khai ngộ then chốt ở tầng 96, cái ngã này phải ra đi. Con cần để nó rơi ra khỏi con, để nó rơi trở lại địa cầu. Làm thế nào con có thể làm được điều này?  

16.3. Cái ngã xem trọng vật chất

Con chỉ có thể làm được điều này bằng cách chấp nhận, bằng cách suy ngẫm về câu này của thày: “Tôi không quan trọng”. “Tôi” ở đây là cái “tôi” nào mà không quan trọng? Đó chính là cáí “tôi”, cái ngã đó mà con đã sử dụng làm cỗ xe để lên tới tầng 96. Ngã đó chủ yếu là một cái ngã phản ứng lại vật chất. Nó đã được tạo ra để phản ứng lại vật chất, hay đúng hơn trạng thái của vật chất được nhìn xuyên qua tâm thức tập thể.    

Thày đã rất cố gắng giúp con thấy được là có một sự khác biệt giữa cái mà khoa học gọi là thực tại khách quan và thực tại được nhận thức. Nói cách khác, có một cái có thể gọi là “thực tại khách quan” theo nghĩa đó là trạng thái của địa cầu do các Elohim sinh tạo. Xong có cái có thể gọi là “nhận thức chủ quan” của thực tại, tức là tâm thức tập thể. Tâm thức tập thể có một cái nhìn đặc thù về vật chất. Chính tâm thức tập thể đã tạo ra độ dày đặc hiện thời của vật chất, và do đó tâm thức tập thể cũng không thể vượt qua độ dày đặc hiện thời của vật chất. Ngay cả Albert Einstein cũng từng nói: “Người ta không thể vượt qua một vấn đề với cùng tâm thức đã tạo ra vấn đề.”

Làm thế nào con vượt qua được độ dày đặc hiện thời của vật chất? Chỉ bằng cách vươn lên một cái gì cao hơn, là tâm thức Ki-tô. Ở tầng tâm thức thứ 48, con có thể vươn lên cao hơn tầng này để đi lên một bước cao hơn. Đó chính là một yếu tố của tâm thức Ki-tô đưa con lên tầng 49. Con có thể cứ tiếp tục làm như vậy cho đến khi con đạt đến tầng 96. Con cần đến Ki-tô, cần đến tâm thức Ki-tô là cái biết toàn vũ. Con cần nó để đi lên từ tầng 48 tới tầng 96. Ở mỗi tầng như vậy, con nhận được một món quà của tâm thức Ki-tô toàn vũ hoặc từ tâm thức đã cá thể hóa qua một chân sư thăng thiên, qua chính cái ta Ki-tô của con, và vân vân.

Con không thể tự kéo con lên bằng cách kéo sợi dây giày ở chân con. Con không thể đi từ tầng 48 đến tầng 96 mà không nhận được điều gì đó từ Ki-tô. Vậy có nghĩa thế nào khi con đi lên cao hơn tầng 96? Đương nhiên con vẫn cần nhận được điều gì đó từ Ki-tô để lên được tầng 144. Cho mỗi tầng ở trên 96, con vẫn cần nhận được một món quà từ Ki-tô, nhưng bên trên tầng 96, con có tiềm năng xoay chuyển và chấp nhận rằng Ki-tô không phải là một lực ngoại lai đến với con từ ngoài. Ki-tô trở thành một lực nội tại đến với con từ bên trong. Có nghĩa là con trở thành một dụng cụ hữu hiệu hơn để Ki-tô tự biểu lộ và giúp được người khác. Con chuyển từ một cái nhìn từ ngoài về một đấng cứu thế ở ngoài mình, sang đấng Ki-tô nội tại, và con bắt đầu hiện thân đấng Ki-tô nội tại này ngày càng rõ rệt và trọn vẹn hơn khi con đến gần hơn với tầng 144.    

16.4. Cái ngã phản Ki-tô

Quan tâm của thày ở đây là làm thế nào cho con vượt qua được khai ngộ ở tầng 96, là khi con bắt đầu hiện thân được Ki-tô thay vì con xem Ki-tô là một lực ngoại lai. Con cần nhìn nhận ở đây là cái ngã mà con đã xây dựng để đưa con lên tầng 96 không có khả năng làm chuyện này. Nó không có khả năng xoay chuyển và nhìn Ki-tô như một lực nội tại, một thực tại bên trong. Nó sẽ luôn luôn nhìn Ki-tô là ngoại lai và cũng sẽ luôn luôn nhìn vật chất là ngoại lai. Nó sẽ luôn luôn nhìn mọi người khác là ngoại lai và nó cũng sẽ nhìn lực hấp dẫn của tâm thức tập thể như một lực ngoại lai đang cưỡng chống lại nó.

Con có thể nói là cái ngã mà con đã xây dựng được đặt trên nền tảng sự cưỡng chống. Nó dựa trên việc chiến đấu chống lại một đối phương, chiến đấu chống lại một cái gì kháng cự bước tiến của con. Đó là tại sao thày có nói tới việc con đạt tới điểm con hàng phục thay vì con cố ép mình cứ bước tới, và con mở tâm ra để tiếp nhận. Con mở tâm ra và để yên cho mọi sự trải bày, ngay cả khi con không thấy được rõ ràng bằng tâm ý thức vỏ ngoài của con.     

Có những đệ tử tâm linh, cho dù là theo giáo lý của chân sư thăng thiên hay những giáo lý khác, đạt đến tầng 96 nhưng vẫn chưa hiểu được những gì mà thày cùng các Thượng sư khác đã chuẩn bị cho con hiểu. Họ không nắm được những điều mà các thày đã chuẩn bị cho con nắm. Họ đã không nắm bắt được nhu cầu để cho ngã này chết đi. Con thấy đó, con yêu dấu, tất cả chúng ta đều cần đến một động lực để bước chân trên con đường tâm linh. Tất cả chúng ta đều cần nỗ lực vươn cao hơn tâm thức tập thể và chúng ta cần động cơ để thực hiện điều đó.

Khi con khởi sự ở tầng 48, con đã mang một số giấc mơ, một số mong mỏi, một số động lực để thúc đẩy con gia nhập khóa tu này. Khi con theo học khóa tu, động lực này của con đã phần nào thay đổi. Con vẫn còn một số yếu tố của cái có thể gọi là một động lực “phàm nhân”, một tham vọng, một ham muốn phàm phu muốn là một người đặc biệt với những quyền năng đặc biệt và khả năng làm được những điều mà không ai khác có thể làm được. Đối với mỗi người, mong muốn này có thể khoác vào rất nhiều hình dạng khác nhau.   

Ở đây con cần nỗ lực xét xem đâu là những yếu tố động lực của cái ngã vỏ ngoài này. Sau đó con cần sẵn lòng nhìn nhận một cách cởi mở rằng con đang mang động lực đó, vì nếu con không công khai nhìn nhận, con sẽ không thể để cho nó ra đi. Những người đã bị rớt cuộc khai ngộ ở tầng này là vì họ không sẵn sàng công nhận là họ có mang một yếu tố nào đó của động lực phàm phu này. Có thể là họ kiêu hãnh chăng? Có thể là họ mong muốn cảm thấy mình tốt đẹp hơn người khác. Có thể là họ mong muốn có khả năng thị hiện một điều gì thần diệu giống như Giê-su để không ai có thể bác bỏ họ, hay có thể bất cứ gì khác.

Nhưng cái đó luôn luôn xoay quanh ngã vỏ ngoài đó, cái ngã muốn nhận được một phần thưởng nào đó cho tất cả những phấn đấu mà nó cho là nó đã trải qua để phóng con lên tới tầng 96. Con có bắt đầu thấy điều thày đang nói ở đây chăng? Ngã này đã là cỗ xe của con đưa con đến tầng 96. Trong cương vị đó, nó đã phục vụ cho một mục tiêu chính đáng, nhưng ngã này đi con đường riêng của nó. Tự thân nó được xây dựng với một động lực. Con có nhớ bức tranh quen thuộc của củ cà rốt treo lủng lẳng trên cây gậy trước mũi con lừa đang kéo xe hay không? Con lừa tưởng là một ngày kia nó sẽ đuổi kịp củ cà rốt. Trên cơ bản, đó cũng chính là tình trạng của cái ngã vỏ ngoài này. Nó đã kéo chiếc xe của con, cái xe bò hay xe ngựa của con, từ tầng 48 đến tầng 96. Nó tưởng là một ngày nó sẽ đuổi kịp củ cà rốt. Nó sẽ bắt được củ cà rốt và cắn lấy phần thưởng.  

16.5. Cái ngã muốn phần thưởng

Điều con cần nắm bắt ở mức này, ở tầng khai ngộ thứ bảy tại khoá nhập thất của thày, là ngã vỏ ngoài sẽ không bao giờ nhận được phần thưởng nếu con tiếp tục tiến bước trên con đường quả vị Ki-tô. Không có phần thưởng nào cho ngã vỏ ngoài, chưa từng bao giờ có và cũng sẽ không bao giờ có. Suốt thời gian qua, con người đã tạo dựng biết bao hình ảnh mộng mơ vẽ vời chuyện đoạt giải thưởng. Các thày đã từng thấy những đệ tử của chân sư thăng thiên nghĩ rằng, chẳng hạn, một khi họ đạt được một trình độ nào đó thì một số chân sư sẽ bỗng nhiên xuất hiện ra trước mắt họ, dẫn họ đi tham dự một buổi lễ điểm đạo mãn khóa, rồi từ đó họ sẽ được ban cho đủ loại phúc lợi mà họ đã ao ước.

Chuyện đó sẽ không xảy ra. Chừng nào con còn mang tham vọng đó, các thày sẽ không thể tiếp cận với con, vì làm vậy sẽ chỉ củng cố cho ngã vỏ ngoài. Chừng nào con còn muốn được các thày công nhận, các thày bắt buộc sẽ phải lánh xa con vì đó là cơ hội duy nhất để các thày giúp con tránh bị mắc bẫy trong ngã vỏ ngoài. Như thày có nói, có những đệ tử đến được tầng này mà vẫn bị thôi thúc bởi lòng ham muốn phần thưởng. Họ đã quá dính mắc với lòng ham muốn phần thưởng này đến độ họ không thể buông ngã vỏ ngoài ra. Vậy họ làm gì sau đó? Họ bắt đầu sử dụng các quyền năng của tâm mà họ đã vun bồi cho đến tầng 96 để cố tặng cho mình phần thưởng đó, ngay đây trên địa cầu.  

Con sẽ thấy ngay cả Giê-su cũng từng nói đến vấn đề nhận phần thưởng trên địa cầu hay ở thiên đường – và quả thực là con có thể! Trong khuôn khổ Định luật Tự quyết, con hoàn toàn có quyền vươn lên tầng 96 với mong muốn nhận được phần thưởng nào đó. Nhưng tới đó thì con phải quyết định: “Giờ đây, liệu tôi có muốn đi lên tiếp để tìm kiếm một phần thưởng cao hơn (là thăng thiên), hay là tôi muốn phần thưởng mà mình đã định bụng sẽ nhận được khi mình đang leo lên tầng 96?” Nếu con muốn phần thưởng mà con đã định bụng trong tâm vỏ ngoài, trong ngã phàm phu, thì con có thể sử dụng các khả năng của con để tìm cầu nó ở đây trên địa cầu. Con đã trông thấy những người làm chuyện đó. Họ đã đạt đến tầng 96 và giờ đây họ cố trở thành một loại đạo sư hay lãnh đạo. Họ cố quy tụ môn đồ cho thật đông đảo để họ được nể trọng và cảm thấy mình sao quá đặc biệt, và môn đồ thì sẽ nhắm mắt theo họ trong bất kỳ cuộc phiêu lưu nào.     

Một lần nữa, chuyện đó không nhất thiết là cấm kỵ trong khuôn khổ Định luật Tự quyết, nhưng chắc chắn đó không phải là quả vị Ki-tô. Thày mong muốn những ai trong số các con hãy sẵn lòng bước lên cao hơn trên con đường quả vị Ki-tô. Con sẽ cần gì để làm được chuyện đó? Tất nhiên, con sẽ cần xem xét ngã vỏ ngoài đó một cách trung thực cùng củ cà rốt mà nó đã dùng để kéo cỗ xe bốn thể phàm của con lên đến tầng 96 – rồi sau đó con buông nó ra. Con nhận ra đó không phải là động lực cao nhất. Thậm chí đó cũng không phải là phần thưởng cao nhất mà con có thể nhận được, và con tìm ra cách để cho nó ra đi.     

16.6. Chuyện đó không nhắm vào con

Sứ giả này nhiều năm trước đây đã kinh qua khai ngộ này. Suốt thời gian mấy năm trời, cho dù ông có sống qua sự cố gì hay gặp phải tình huống gì, ông cũng dùng phương châm: “Chuyện này không nhắm vào tôi. Chuyện này thật không nhắm vào tôi!” (It is not about me!) Kết quả là ông đã lần hồi tách mình ra khỏi ngã phàm phu cho tới khi nó không còn lực kéo nào đối với ông nữa. Ông đạt tới điểm không làm theo động lực của ngã vỏ ngoài nữa. Nó không còn quan trọng gì nữa. Đơn giản là ngã vỏ ngoài không quan trọng gì nữa. Tất nhiên con sẽ có thể nói: “Liệu điều thày vừa dạy con có đủ để con khắc phục ngã vỏ ngoài hay không?” Không, không nhất thiết là vậy, nhưng hiển nhiên các thày không có ý bỏ con ở đó. Cho dù bài giảng này sẽ kết thúc khóa tu, các thày đã ban ra trong hai năm qua những giáo lý mà con có thể bắt đầu sử dụng ngay sau khi hoàn tất khóa này. Những giáo lý đó khởi đầu với quyển “Những cuộc đời của tôi” và tiếp tục với những quyển khác sẽ đào sâu hơn về những đề tài như ngã gốc cũng như tiến trình mà con – trong tư cách một avatar hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu – đã tu bồi một cái ngã phản ứng lại sa nhân.

Tất nhiên, phương thức thực sự để vượt qua ngã vỏ ngoài là nhìn vào cái ngã gốc đó và ngừng phản ứng, ngừng phản ứng lại sa nhân, ngừng phản ứng lại hầu hết mọi người khác hay các điều kiện của vật chất. Con không phản ứng lại tất cả những điều kiện vỏ ngoài đó. Con bước tới điểm mình tự do, mình thoát ra khỏi các khuôn nếp phản ứng đó, để đời mình không biến thành một trận đấu bóng bàn bất tận nơi có người đánh trái banh cho con và con cảm thấy mình buộc phải đánh banh trở lại do mình cảm thấy mình phải phản ứng.

Con yêu dấu, ngã, cái ngã vỏ ngoài mà con đã dùng từ tầng 48 đến 96, vận hành theo cùng phương cách như ngã gốc. Thật ra, ngã gốc là một thành phần của ngã vỏ ngoài. Những ngã này luôn luôn có một vấn đề gì đó với những gì chúng thấy trên địa cầu, một vấn đề cần phải giải quyết theo cách nhìn của chúng. Làm thế nào vấn đề đó sẽ được giải quyết đây? Phải, ngã phóng chiếu lên con ý tưởng là con phải làm gì đó để giải quyết vấn đề. Nó cũng phóng chiếu ý tưởng là vấn đề chỉ có thể được giải quyết khi người khác thay đổi. Nói cách khác, con liên tục nằm trong cái thế bị kéo-đẩy vì con cảm thấy mình phải làm gì đó để thay đổi người khác.    

Đương nhiên là người khác đâu có sẵn sàng thay đổi, cho nên con cũng cảm thấy là mình không bao giờ có thể hoàn thành được mục tiêu của mình. Con bất lực, con không thể hoàn thành mục tiêu vì con luôn luôn chờ cho người khác hoặc điều kiện vỏ ngoài nào khác thay đổi. Đây chính là cốt lõi của tình trạng mà cái ngã phản động này, hay tập đoàn những cái ngã này, đặt con vào. Nó đặt con vào một vị thế chờ đợi nơi con luôn luôn phải chờ một điều gì đó. Đi lên cao hơn tầng 96 có nghĩa là con bắt đầu buông xả toàn bộ ngã phản động đó, buông xả mọi ngã phản động. Con bắt đầu để cho chúng ra đi hầu con không phản ứng lại bất cứ gì trên địa cầu. Con không chờ đợi một điều gì mà ngược lại con xem xét: “Ngay bây giờ tôi có thể làm gì, tôi có thể làm gì trong hoàn cảnh vỏ ngoài của tôi để tự cải thiện, để vươn lên một mức tâm thức cao hơn?”  

16.7. Con không thể chờ quả vị Ki-tô

Không phải là chuyện các điều kiện vỏ ngoài hay người khác sẽ làm điều gì đó. Chừng nào con còn bị kẹt trong tư duy nghĩ rằng hạnh phúc của mình, hay tâm an tịnh của mình, hay sự phát triển tâm linh của mình, hay sự biểu đạt quả vị Ki-tô của mình, tùy thuộc vào một số điều kiện vỏ ngoài hay vào người khác, thì con sẽ không là Ki-tô trong hành động. Con không thể biểu đạt bất cứ gì. Con sẽ ngồi chờ và con sẽ nghĩ: “Khi nào điều kiện này hay điều kiện kia được hội đủ thì tôi mới có thể biểu lộ quả vị Ki-tô của tôi.” 

Như thày đã có nói (và các thày đã nói rất nhiều lần), không hề có điều kiện lý tưởng nào để biểu lộ quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô là thách thức hiện trạng. Theo một nghĩa nào đó, bất kỳ điều kiện nào con đối mặt cũng là điều kiện lý tưởng để con thách thức hiện trạng và biểu hiện một cái gì cao hơn – đó chính là quả vị Ki-tô. Khi con bắt đầu làm như vậy trong bất kỳ hoàn cảnh nào mình gặp, con sẽ tuần tự xây dựng được một động lượng, và rồi các điều kiện sẽ thay đổi. Các điều kiện sẽ không thay đổi cho tới khi con bắt đầu sử dụng những điều kiện mà con có và chấp nhận chúng là cơ hội toàn hảo để con biểu đạt quả vị Ki-tô. Con bắt đầu ngay ở chỗ con đang đứng, con tận dụng nó, con thăng vượt nó, con biểu hiện một cái gì cao hơn – đó chính là cách con bước lên được bước kế tiếp.   

Rồi khi con bước lên bước kế tiếp, và cứ thế bước này sau bước khác, sẽ tới một điểm khi con có thể nhìn lại và bảo rằng mình đã thực sự đi được một quãng đường khá dài. Con đã đi được khoảng đó bằng cách đi từng bước nhỏ một, và luôn luôn làm việc với tình huống mà con được đặt vào. Ngược lại, những ai mà nghĩ rằng một khi mình đi một bước thật dài thì mình sẽ có thể là Ki-tô, thì quả thực họ sẽ không bao giờ tới được điểm đó.  

Các thày đã có kể chuyện về nhà hiền triết cổ Hy Lạp tên là Zeno, ông đưa ra nghịch lý về cách làm thế nào con có thể đi từ một điểm A tới điểm B. Trước tiên con phải tới được điểm ở giữa A và B cái đã. Xong con chia đoạn đường còn lại làm hai và con phải tới được điểm ở giữa đó, rồi cứ thế con tiếp tục chia đoạn đường còn lại ra làm hai và con luôn luôn phải tới được điểm giữa. Có nghĩa là con sẽ không bao giờ tới đích – đây chính là tâm thức phàm phu. Theo một nghĩa nào đó, thậm chí con còn không nói được: “Tôi sẽ đi tới điểm giữa”, mà con nhìn vào ngọn núi và nói: “Khi ngọn núi đến với tôi thì tôi sẽ là Ki-tô.” Chuyện đó sẽ không xảy ra trên một hành tinh như địa cầu. Ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, chuyện đó cũng sẽ không xảy ra, nhưng trên một hành tinh tự nhiên người ta không chờ đợi chuyện đó xảy ra.

16.8. Hiểu sai tầng 96

Có một khoảng cách ở đây (Chân sư MORE đã có giảng về khoảng cách này cũng như về việc khắc phục khoảng cách trong những cuốn sách thày có nêu lên ở trên). Khoảng cách là đối với các con đã đạt đến tầng 96, con đã nối kết lại với nhận biết trực giác là có một cõi tốt đẹp hơn. Nếu con là một avatar, con biết cuộc sống trên một hành tinh tự nhiên như thế nào. Nếu con là một cư dân nguyên thủy của địa cầu, con cảm nhận được cuộc sống trên địa cầu trước khi sa nhân đến đây. Con biết có một điều kiện lý tưởng và con cũng biết hiện trạng địa cầu khác xa với điều kiện lý tưởng đó. Nếu con cho phép ngã vỏ ngoài dùng chuyện đó để bảo rằng con sẽ có thể là Ki-tô trên địa cầu khi nào địa cầu hoàn thành điều kiện lý tưởng, thì con yêu dấu, con đã hiểu sai hoàn toàn – con hoàn toàn hiểu sai rồi con. Mặc dù chuyện này có thể làm con kinh ngạc, nhưng con có thể lên đến tầng 96 mà vẫn hoàn toàn hiểu sai vì con vẫn quá đồng hóa với cái ngã vỏ ngoài đã đưa con tới điểm này. Con không sẵn lòng buông bỏ ý niệm về phần thưởng mà con nghĩ mình phải nhận được. Một lần nữa, không có phần thưởng đâu con! Cho dù ngã vỏ ngoài có tưởng tượng phần thưởng gì đi nữa khi con leo đến tầng 96, đó hoàn toàn là chuyện giả tưởng. Nó không có chút thực tế nào hết.

Liệu chuyện đó là sai trái? Không! Liệu chuyện đó là vô ích. Cũng không! Nó không vô ich nếu nó đã cho con động lực để con leo tiếp. Con yêu dấu, nếu con chịu quay trở lại và đọc lại những sách đó, học lại những sách đó, con sẽ thấy là từ Chân sư MORE trở đi, tất cả các thày đã cố giúp con khởi sự tháo gỡ tình trạng đồng hóa với ngã vỏ ngoài đó – không tới độ là con bỗng chốc mất hết mọi liên hệ với nó, vì nếu vậy thì con đã không còn cỗ xe để chở con đi. Các thày đã nỗ lực giúp con từ từ ngưng đồng hóa với nó, khắc phục những ham muốn cùng mơ tưởng của ngã vỏ ngoài. Có một điều duy nhất mà các thày không thể giúp con khắc phục ở các tầng thấp hơn, đó là cốt lõi của động lực đã khiến con cất bước trên đường tu. Con thấy không, đâu là cốt lõi của động lực đó, con yêu dấu? Ngã vỏ ngoài là gì chứ? Đó là cái ngã phản ứng, nó phản ứng lại một điều gì đó trên địa cầu. Ngã vỏ ngoài tưởng tượng là khi nào con đạt đến tầng 96 và nhận được phần thưởng của mình, phần thưởng đó sẽ cho con một sự công nhận nào đó trên địa cầu, vì đó là loại phần thưởng duy nhất mà ngã vỏ ngoài có thể tưởng tượng được.

16.9. Cốt lõi của ngã vỏ ngoài

Cốt lõi của ngã vỏ ngoài này là nó mong muốn được người ta công nhận một cách nào đó, hay được một địa vị nào đó (tựu trung cũng là cùng một thứ) trên địa cầu, nghĩa là được công nhận bởi người khác, bởi các định chế trong xã hội hoặc bất cứ gì khác. Đó là cốt lõi của ngã vỏ ngoài này. Nó muốn một phần thưởng trên trái đất. Thày không thể làm chọn lựa đó dùm con, thày không thể vượt qua khai ngộ này dùm con. Đó là tại sao thày phải kết thúc khóa học này, không chỉ phần của thày mà phần của tất cả các Thượng sư khác nữa. Thày phải chấm dứt khóa tu này và bỏ con lại nơi một ngã ba đường. Thày đã đặt con trước sống và chết. Các thày đã đặt con trước sống và chết.

Giờ đây con đứng ở ngã ba đường. Nếu con chọn ngã rẽ nơi con sẽ tiếp tục tìm cầu một phần thưởng trên địa cầu, thì nỗ lực của các thày để đưa con vào con đường quả vị Ki-tô đã thất bại. Đây là rủi ro mà các thày đã biết rõ và sẵn sàng chấp nhận. Đường tu không máy móc tự động. Các thày không thể đảm bảo một kết quả nào. Các thày là chân sư thăng thiên và sẽ không ảnh hưởng đến tâm con hay quyền tự quyết của con.    

Nhưng nếu ở ngã ba này, con lấy ngã rẽ kia, con sẽ tự đặt mình trên con đường quả vị Ki-tô. Khi đó, con sẽ có thể sử dụng các dụng cụ và giáo lý mà các thày đã ban ra, và qua sứ giả này các thày đã ban ra rất nhiều giáo lý về con đường quả vị Ki-tô. Tất nhiên là ở ngoài kia cũng có những giáo lý khác mà con có thể dùng nếu con muốn. Rồi con có thể từ từ bắt đầu leo cao hơn. Một lần nữa, thày không bảo là sẽ có một điểm khi đùng một cái, ngã vỏ ngoài của con thình lình biến mất toàn bộ. Một lần nữa, con sẽ khắc phục từng bước một. Như các thày đã có giảng, có thể nói là ở một mức độ nào đó, con sẽ vẫn còn một số yếu tố của ngã vỏ ngoài với con cho tới khi con thăng thiên. Con có thể gọi con đường từ tầng 96 tới tầng 144 là con đường khắc phục ngã vỏ ngoài này từng bước một.

16.10. Từ bỏ phần thưởng

Dù sao đi nữa, điều thày nói với con là có thể sẽ tới một điểm khi, với tâm vỏ ngoài, con làm hòa với sự kiện là bước chân trên đường tu tâm linh sẽ không bao giờ có phần thưởng nào trên địa cầu. Phần thưởng duy nhất của đường tu tâm linh là khi con thăng thiên, có nghĩa là phần thưởng của con nằm trên thiên đường khi con bước vào tâm thức thăng thiên. Thày có thể cam đoan với con là một khi con ở trong tâm thức thăng thiên và chiêm nghiệm sự khác biệt, sự tương phản giữa hai trạng thái thăng thiên với chưa thăng thiên, đó sẽ là phần thưởng tối hậu. Nhưng tất nhiên, có lẽ câu này mang rất ít ý nghĩa đối với con nếu con vẫn còn đồng hóa với cái ngã vỏ ngoài bị ám ảnh bởi ham muốn một phần thưởng trên địa cầu.  

Một lần nữa, điều quan trọng là bản thân con hay cái gì khác? Nếu điều quan trọng là bản thân con, con sẽ lấy ngã rẽ bên kia và đi tìm một địa vị hay lòng nể trọng nào đó trên địa cầu. Nếu con lấy ngã rẽ bên này, con sẽ buông bỏ ham muốn được người khác công nhận trên địa cầu. Không có nghĩa là người ta sẽ không công nhận con nhưng con không ham được công nhận, con không muốn được công nhận. Con không giữ trong tâm ý tưởng rằng một ngày kia chuyện đó phải xảy ra. Con cho nó đi, con để cho ngã đó chết đi. Ngã luôn luôn phóng chiếu ra một vấn đề – trong trường hợp này là vấn đề được công nhận, rằng con cần được người khác công nhận thế nào đó. À, được công nhận trên địa cầu nghĩa là gì chứ? Nghĩa là người khác phải để ý con và xem con là đặc biệt. Một cách nào đó, họ phải ghi nhận là con đặc biệt.

Đấy, nó có nghĩa là họ phải thay đổi, có đúng không con? Họ phải dùng quyền tự quyết của họ để công nhận con. Chuyện này vượt ra ngoài quyền tự quyết của con. Con không thể chọn lựa là người khác phải chọn lựa công nhận con. Con không thể thay đổi điều đó bằng ý chí tự do của con. Con có thể thay đổi bằng ý chí không tự do của con, tức bằng ý chí của ngã vỏ ngoài. Con có thể tìm cách ép buộc họ, và cho dù con có thể không gọi đó là cưỡng bức, con có thể cưỡng bức họ phải công nhận con. Đó không phải là ý chí tự do của con, vì khi đó con đang đi vào con đường tay trái, sử dụng ma thuật đen để ảnh hưởng lên tâm trí người khác. Con có thể làm vậy và đoạt được sự coi trọng của người khác.  

Nếu đó là mong muốn của con, thày chỉ có thể nói: “Con cứ đi theo con đường đó, rồi khi nào (trong kiếp này hay một kiếp tới) con đạt tới điểm con chán chê chuyện đó, con hãy trở về với thày và thày sẽ giúp con từ điểm đó trở đi” Nếu con đi theo con đường đó, không có một chân sư thăng thiên nào sẽ thực sự giúp được con. Con có thể nghĩ là các thày sẽ giúp được, nhưng sự giúp đỡ sẽ không đến từ các chân sư thăng thiên đích thực mà từ hàng ngũ giả trá của những kẻ giả danh là chân sư thăng thiên.

16.11. Chọn lựa giữa sống và chết

Con thấy đó, con yêu dấu, thày đã chỉ ra cho con một con đường tiến bước. Có những dụng cụ mà con có thể dùng, có sách mà con có thể đọc, nhưng cho dù chuyện này có thể khiến con kinh ngạc, thày phải bỏ con lại mà không cho con bất kỳ loại phần thưởng nào, bất kỳ kết quả chung cuộc nào. Thày không bỏ con lại trong một trạng thái đặc biệt nơi con đã vượt qua cuộc khai ngộ. Thày bỏ con lại ở đây là điểm con đã nhận thức được cuộc khai ngộ mà con đối mặt.

Như thày đã nói, thày không thể chọn lựa dùm con, và ngay cả nếu thày có thể thì thày cũng sẽ không làm, bởi vì tất nhiên nó sẽ không giúp cho con tăng triển. Con tăng triển bằng cách chọn lựa từ trong nội tâm mình, vì con đã tới điểm rốt ráo nơi con không chọn lựa bằng tâm vỏ ngoài nữa. Thày cũng biết có nhiều đệ tử đến được điểm này sẽ phản ứng như thế này: “Tôi đang chọn lựa bằng tâm vỏ ngoài để bước đi trên con đường quả vị Ki-tô. Tôi sẽ lấy tất cả những sách này, tôi sẽ học sách, tôi sẽ đọc bài thỉnh và tôi sẽ đạt tới đích.” Con thấy đó, con yêu dấu, con thực sự không thể bước trên đường quả vị Ki-tô qua tâm vỏ ngoài. Giữa tầng 48 và 96 thì con còn có thể bước trên đường tu qua tâm vỏ ngoài – đó là điều thày đã nói với con. Nhưng con không thể lên cao hơn tầng 96 với tâm vỏ ngoài. Tất nhiên, con có thể quyết định với tâm vỏ ngoài để bước vào con đường quả vị Ki-tô và con nghĩ là mình đang bước vào đường tu, nhưng quyết định đặt mình vào đường tu phải đến từ bên trong. Đó không phải là một quyết định duy ý chí mà là một quyết định tự phát, nội tâm. Con không cưỡng ép quyết định đó. Con không thể bắt nó xảy ra. Con chỉ có thể để yên cho nó xảy ra bằng cách sử dụng các dụng cụ nhằm hóa giải ngã gốc cùng những loại ngã khác đang kéo con ra khỏi quyết định và lôi con vào chuyện giải quyết một vấn đề nào đó.  

Theo một nghĩa nào đó, ta cũng có thể hỏi: “Cho tới giờ, con đã nhìn con đường tâm linh như thế nào?” Cái ngã đã đưa con từ tầng 48 lên tầng 96 đã nhìn con đường tâm linh một cách rất đặc thù: “Đường tu tâm linh là một bài toán mà tôi cần phải giải. Có một cuộc khai ngộ, và để vượt qua khai ngộ, tôi phải nhận biết một điều gì đó, phải nhìn ra một điều gì đó, phải hiểu ra một điều gì đó. Có một vấn đề mà tôi cần giải quyết.” Nói như vậy là chính đáng giữa tầng 48 và 96, nhưng cao hơn tầng 96, nó không còn chính đáng nữa. Ngay cả chuyện đưa con lên tầng 97, nó cũng sẽ không làm được.  

16.12. Từ bỏ ngã chuyên giải quyết các vấn đề

Con cần xoay chuyển toàn bộ cái nhìn của con về đường tu và nhận ra đó không phải là chuyện giải quyết một vấn đề, mà là chuyện ngừng hẳn và không cố giải quyết các vấn đề. Đó là chuyện để yên cho nó trải bày ra. Tại sao vậy? Các thày đã nói gì? Vấn đề to lớn trên địa cầu là tâm thức tách biệt mà sa nhân đã tạo ra qua tâm thức nhị nguyên. Con mang ảo tưởng con là một sinh thể tách biệt, ai ai cũng là sinh thể tách biệt, ai ai cũng chỉ lo cho mình, xem mình là số một và cố vơ tối đa về phần mình.

Trên căn bản, tâm thức tập thể hiện đang ở mức này, mặc dù tại một số quốc gia chắc chắn đã có phát triển được một ý thức phổ thông nhân bản hơn. Nhưng dù sao thì sự tách biệt vẫn đang hiện hữu. Có một tâm thức tập thể nơi ai nấy đều xem mình là những cá nhân tách biệt, nhiều khi lại còn tranh chấp, giao chiến với nhau. Ai nấy cũng xem mình thuộc vào một đoàn nhóm nào đó, và nếu con thuộc nhóm nào thì con phải tuân theo nhóm đó. Nếu con thuộc một nhóm, con sẽ phải thù ghét những ai thuộc những nhóm khác, và vân vân.    

Để gỡ mình ra khỏi toàn bộ tình trạng tranh đấu đó, con phải làm gì đây? Hiển nhiên con phải xem mình đứng tách khỏi những người trong nhóm nơi mình đã sinh trưởng, thậm chí tách cả đối với mọi người trong tâm thức tập thể. Để đi từ tầng 48 lên tầng 96, con làm gì chứ? Con xây dựng một cái ngã xem mình tách riêng khỏi mọi người trong tâm thức tập thể. Đó là điều tự nhiên. Một lần nữa, không có gì chê trách ở đây, vì đó chỉ là điều mà con phải làm, nhưng con sẽ không vượt lên cao hơn tầng 96 được nếu con sử dụng cái ngã này, vì con đường quả vị Ki-tô là gì chứ?   

Con đường quả vị Ki-tô là khắc phục ảo tưởng tách biệt và nhìn ra là đằng sau mọi hiện tượng trên trái đất (tức là mọi thứ vật chất, mọi tâm thức, tâm thức nhị nguyên, tâm thức tách biệt) có một thực tại hợp nhất nằm bên dưới, là sự duy nhất của mọi sự sống. Mọi sự sống là một, và không hề có tách biệt nào. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là để lên đến tầng 96, con phải xây dựng một cái ngã cá nhân thật dũng mãnh. Nhưng để đạt tới trạng thái thăng thiên, con phải đập vỡ ngã đó. Từng bước một từ tầng 48 đến tầng 96, con đã vun bồi một cái ngã, xong con cần chuyển hướng. Giờ đây, từng bước một, từ tầng 97 đến 144, con đang gỡ bỏ ngã đó đi. Con gỡ bỏ cái ngã tự xem mình là tách biệt. Khi nào con tới chỗ để cho yếu tố cuối cùng của ngã đó ra đi, thì đó là lúc con bước vào trạng thái hợp nhất là thăng thiên.   

Giờ đây, con đã làm tất cả những gì con muốn làm trong cương vị một ngã tách biệt trong một bầu cõi chưa thăng thiên, không chỉ trên địa cầu mà nói chung trong bầu chưa thăng thiên. Con đã làm tất cả những gì con muốn làm như một sinh thể tách biệt. Con có thể để cho yếu tố cuối cùng đó của ngã vỏ ngoài ra đi và con thăng thiên. Tất nhiên ở tầng 96 con chưa tới mức đó, nhưng con đã tới mức con có thể bắt đầu nhận ra đây là công việc mình cần làm. Con cần gỡ bỏ từng bước một ngã tách biệt đó. Và khi con làm vậy, phần thưởng là con sẽ cảm nhận được sự duy nhất ngày càng lớn hơn và lớn hơn nữa trong con.

Lúc đầu, việc này có thể hơi khó khăn một chút. Con sẽ cảm thấy hợp nhất với gì chứ? Đương nhiên, không phải với tất cả những người mà con vừa nỗ lực hết mình để tháo gỡ ra khỏi. Cũng không phải với sa nhân. Thày xin gợi ý – một lần nữa, đây là điều mà các thày đã ban cho con giáo lý cùng dụng cụ để con thực hiện – là con bắt đầu chú tâm vào việc tìm kiếm sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con ở bên trong chính con.

Rồi nếu điều này dễ dàng hơn cho con, con hãy chú tâm vào việc tìm kiếm hợp nhất với một vị chân sư thăng thiên đặc biệt nào đó. Vị đó không cần phải là thày, mà bất cứ vị nào con cảm thấy gần gũi nhất trong tim con. Xong khi con bước lên cao hơn, con có thể cảm thấy hợp nhất với những người tâm linh khác, mặc dù có thể con sẽ khó lòng tìm được những người tâm linh ở mức tâm thức đó. Con có thể tìm thấy một số và con có thể khởi sự vun bồi một cảm nhận kết hợp với các vị ấy.

Con hãy cẩn thận ở đây, vì như các thày đã chứng kiến trong biết bao phong trào tâm linh, con không thể để nảy lên ý tưởng tự cao tự đại: “Ô chúng ta là những đệ tử cao cấp nhất trên hành tinh, cho nên chúng ta tốt đẹp hơn người khác.” Đây không phải là quả vị Ki-tô, cũng không phải là hợp nhất. Các con có thể vun bồi sự hợp nhất với nhau nhưng không bằng cách mình là người cao siêu hơn mọi người. Rồi khi con bước lên cao hơn trong tâm Ki-tô, con sẽ bắt đầu vun bồi thực sự cảm nhận hợp nhất này với mọi sự sống. Một lần nữa, con có thể nói là con đang đứng riêng ra khỏi tâm thức tập thể khi con lên đến tầng 96, nhưng khi con đến gần hơn tầng 144, con không hề bị lôi kéo nữa, con không có nguy cơ bị lôi kéo vào tâm thức tập thể nữa, và do đó con có thể bắt đầu cảm thấy mình hợp nhất với mọi người, mọi sự sống.

Thày có thể giảng thêm nhiều nữa cho tới bất tận, nhưng các thày đã trao cho con đủ lời dạy trong những cuốn sách khác. Cho nên một lần nữa, thày cần bỏ con lại ở đây, không với một cảm giác chung cuộc, một cảm giác là con đã vượt xong cuộc khai ngộ chót trong khóa tu này, mà con đang đối mặt với cuộc khai ngộ chót trong khóa tu. Thày đã đặt con trước sống và chết – con hãy chọn sự sống!

Vượt qua những điều lấy mất an bình

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 15/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain, và ở tầng khai ngộ thứ sáu của khóa nhập thất của thày, dĩ nhiên chúng ta giáp mặt chủ yếu với Tia thứ Sáu của An bình. Con cần gì để an bình ở mức tâm thức của con trên một hành tinh như địa cầu? Câu hỏi thật ra nên được đặt lại như sau: “Đâu là ‘con’ mang tiềm năng an bình đó trên địa cầu?”

14.1. Làm hòa với sự kiện mình có một ngã vỏ ngoài

Suốt khóa tu này, các thày đã cho con thấy rõ là con có một ngã vỏ ngoài, và con cũng có cái các thày đã gọi là cái Ta Biết – mà các thày cũng có thể gọi là cái ta bên trong, hay cái ta thuần khiết. Các thày đã nói rõ là khi con khởi sự khóa tu này ở tầng 48, con đồng hóa khá chặt chẽ với ngã vỏ ngoài, cái Ta Biết khá đồng hóa với ngã vỏ ngoài. Con không hoàn toàn đồng hóa với nó, bởi vì nếu thế thì con đã không khởi sự được khóa tu này. Các thày cũng đã nói rõ là mục đích chính của khóa tu là làm giảm dần cảm nhận đồng hóa của cái Ta Biết với ngã vỏ ngoài. Bây giờ đến tầng này, chúng ta tới điểm hoàn tất vòng tròn, qua đó con sẵn sàng xoay chuyển trong thái độ của con, trong cách con nhìn bản thân mình, và đi một bước thật quan trọng trong tiến trình tiêu trừ sự đồng hóa.

Các thày đã chỉ rõ là khi con bước xuống hiện thân trên trái đất, con đã khoác vào tất cả những ảo tưởng tương ứng với 144 tầng tâm thức. Mặc dù khóa tu này nhằm dẫn con đến tầng 96, con vẫn còn một số ảo tưởng mà con chưa lột bỏ ở tầng này – và cũng không trù định là con lột bỏ. Điều này có nghĩa là chừng nào con còn đầu thai trên trái đất, con sẽ còn mang một số yếu tố của ngã vỏ ngoài với con. Khi con bước lên gần hơn với tầng 144, chính những yếu tố này của ngã vỏ ngoài là cái giữ con lại trong hiện thân. Chúng buộc con lại với xác thân vật lý, bởi vì nếu không thì con đã không thể ở lại trong xác thân vật lý đó và sẽ bước ra ngoài, đến độ con có thể rút đi cả sinh lực. Thậm chí con có thể rút sinh lực quá sớm trước khi con thật sự sẵn sàng thăng thiên, và điều này có nghĩa là con sẽ phải đầu thai một lần nữa. Do đó ở trên một tầng cấp nào đó, cái ngã vỏ ngoài mà con còn sót lại chính là một cơ chế an toàn.

Tất nhiên con nhận ra là dưới tầng 48 – nơi con người bị hoàn toàn đồng hóa với ngã vỏ ngoài – ngã vỏ ngoài không giúp gì hết cho sự phát triển tâm linh của con. Điều con làm giữa tầng 48 và 96 là con khởi sự tiến trình tháo gỡ cảm nhận đồng hóa đó với ngã vỏ ngoài, nghĩa là con không bị tâm thức tập thể lôi kéo xuống. Con không bị trôi theo những dòng nước cuốn của tâm thức đại chúng. Có thể nói là con đang tu bồi một cá thể sẽ giúp con tách mình ra khỏi tâm thức tập thể. Con không làm những chuyện mà mọi người đều làm. Khi con vượt lên trên tầng 48, tới một điểm ngã vỏ ngoài mà con còn sót lại sẽ không thực sự cản trở sự phát triển tâm linh của con. Điều này xảy ra khi con đạt tới điểm con làm hòa với những gì thày vừa nói với con. Con làm hòa với sự kiện là chừng nào con còn ở lại trong hiện thân thì con sẽ vẫn còn một số yếu tố của ngã vỏ ngoài.

14.2. Từ bỏ giấc mơ đạt một mức tối hậu

Điều này có nghĩa là con sẽ phải từ bỏ một giấc mơ mà nhiều người tâm linh vẫn có. Thậm chí đây là một giấc mơ nằm sâu trong tâm thức tập thể và giấc mơ này có thể trình chiếu ra nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, con thấy trong nhiều trò chơi nhi đồng có một khu vực được quy định là vùng đất nhà, là căn cứ an toàn. Nếu em nào chạy vào được vùng đất đó, em không thể bị đội kia bắt được, hay nói cách khác, em đã thoát được về nhà.

Nhiều người cũng có giấc mơ trúng số để một ngày kia họ sẽ dư giả tiền bạc cho đến cuối đời. Hoặc nữa, người ta cũng có giấc mơ đạt được trạng thái bất tử hay sức khỏe toàn hảo, hay bất kỳ trạng thái nào nơi họ cảm thấy mình tuyệt đối an toàn trên trái đất. Có rất nhiều người tâm linh, kể cả đệ tử của chân sư thăng thiên, khi họ tìm được một giáo lý tâm linh dạy về việc nâng cao tâm thức, thì họ liền khởi lên giấc mơ là một ngày kia họ sẽ vươn lên một tầng tâm thức cao đến độ họ sẽ “thoát được về nhà”. Họ sẽ giác ngộ. Họ sẽ đạt đến tâm thức toàn vũ. Họ sẽ là một chân sư thăng thiên chưa thăng. Họ sẽ sạch tự ngã. Họ sẽ là bất cứ gì họ có thể mơ tưởng, nhưng trong một nghĩa nào đó, đây là giấc mơ sống trên địa cầu mà lại không bị tác động bởi bất cứ gì trên địa cầu.

Bây giờ điều quan trọng là con nhìn vào giấc mơ đó và nhìn nhận là con đang có nó. Mọi người đều có giấc mơ đó. Thày cũng từng có giấc mơ đó trong những kiếp đầu thai trước kia khi thày chưa đến gần điểm thăng thiên. Tất cả chúng ta đều có nó vì đó là một phần của tập thể, và chúng ta thì sống trong lòng tập thể. Chúng ta chỉ thoát ra khỏi tập thể bằng cách xem xét những gì có trong tập thể và vượt lên trên.

Điều con cần làm ở đây, ở tầng này của khóa nhập thất của thày, là chỉ đơn giản xoay chuyển tâm con chút đỉnh. Con cần nhìn nhận là chừng nào con còn đầu thai thì con sẽ còn mang một yếu tố ngã vỏ ngoài trong con. Sau đó con cần chấp nhận điều đó và làm hòa với nó. Tất nhiên, con sẽ không đồng hóa với ngã vỏ ngoài vì hiện thời con đã không hoàn toàn đồng hóa với nó rồi. Có nghĩa là ngã vỏ ngoài không còn thật sự quan trọng nữa. Một khi con đạt tới điểm con không đồng hóa với nó và nó không còn điều khiển đời con thì nó chẳng quan trọng gì nữa.

14.3. Ngã vỏ ngoài và Sứ vụ Thiêng liêng của con

Con nhận ra là con có thể đạt tới điểm khi ngã vỏ ngoài còn sót lại không thật sự ngăn cản con thực hiện các mục tiêu con đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng. Do đó, con có thể biểu lộ một mức độ ngã vỏ ngoài nào đó mà không bị đi trệch khỏi Sứ vụ Thiêng liêng. Một trong những cách mà điều này có thể thị hiện là khi con còn một số mong muốn chính đáng để trải nghiệm trên trái đất. Hiển nhiên là khi con lên cao hơn tầng 96, con không còn một ngã vỏ ngoài muốn thao túng hay kiểm soát người khác, hoặc làm cho họ buồn phiền hay bất cứ gì khác. Con không còn một ngã vỏ ngoài muốn làm chuyện bất hợp pháp để kiếm tiền chẳng hạn. Con đã vươn lên cao hơn những khía cạnh tương đối vị kỷ của ngã vỏ ngoài.

Có thể là con đã sống rất lâu trên hành tinh này và có một số đồ vật, một số mong muốn hay một số trải nghiệm mà con muốn có, nhưng con cảm thấy mình chưa thỏa nguyện những trải nghiệm đó. Trong trường hợp này, con hoàn toàn có thể tiến bước trên đường tu ở mức cao hơn tầng 96 mà vẫn còn mang một số mong muốn, vẫn còn tìm cách toại nguyện những mong muốn đó, nhưng con sẽ làm vậy một cách quân bình hầu không gây xáo trộn cho sự tiến hành của Sứ vụ Thiêng liêng.

Đây chỉ là một ví dụ nhưng rất rất nhiều người trên địa cầu vẫn không cảm thấy là mình đã thỏa nguyện với mong muốn tình dục của mình. Một lần nữa, các thày không bao giờ nói là một khi con đạt đến tầng 96, con sẽ cần sống độc thân cho đến chết. Đó chưa bao giờ là một mục tiêu mà các thày định ra cho con. Nếu con sinh hoạt tình dục một cách quân bình và trách nhiệm, con tuyệt đối có thể có quan hệ tình dục và chuyện này sẽ không khiến con đi trệch hướng khỏi Sứ vụ Thiêng liêng. Điều này cũng áp dụng cho các loại mong muốn khác, chẳng hạn như muốn có một lối sống vật chất nào đó, sở hữu một căn nhà đẹp, đi du lịch và thăm viếng nhiều nơi trên thế giới, bất kỳ mong muốn nào mà con có thể có mà không là một mong muốn hủy hoại.

Con cần làm hòa với thực tế là con có một cái ngã vỏ ngoài, rằng con sẽ có một cái ngã vỏ ngoài có thể ảnh hưởng đến cách con nhìn cuộc sống, và nó có thể kéo con vào việc toại nguyện một số ham muốn. Con cần biết rằng chuyện đó không sao cả, miễn là nó không làm xáo trộn sự tiến hành của Sứ vụ Thiêng liêng. Điều này có nghĩa là con đi vào trạng thái chấp nhận là mình có một ngã vỏ ngoài. Nhưng con không chấp nhận là điều này sẽ không bao giờ thay đổi.

Con không ngừng theo dõi chính mình cũng như các phản ứng của mình. Con nhận ra là đối với mỗi tầng tâm thức mà con vươn tới ở trên tầng 96, con sẽ phải nhìn ra một ảo tưởng đặc thù nào đó của ngã vỏ ngoài và con buông nó ra. Có một phàm linh nội tại, một cái ngã mà con cần để cho chết đi. Con theo dõi chuyện này liên tục – không phải một cách mất quân bình, mà đơn giản là con tỉnh thức. Con giám sát phản ứng của mình nhưng con không bị nó làm bận tâm. Con không cảm thấy là mình bất toàn hay không đủ tốt do mình mang ngã vỏ ngoài đó. Kỳ thực, như các Thượng sư khác đã có đề cập, con đạt tới điểm khi con chấp nhận con người mà con là, ngay trong lúc này. Con chấp nhận con đang ở một mức nào đó trên đường tu và việc có ngã vỏ ngoài là một chuyện hoàn toàn tự nhiên, tất phải như vậy.

14.4. Tránh sự phủ nhận

Lý do điều này quan trọng đến vậy là vì, như thày đã nói ngay từ đầu, tầng 96 đưa cho con một khai ngộ vô cùng chủ yếu. Nếu con dõi nhìn những người tâm linh, kể cả đệ tử của chân sư thăng thiên, con sẽ thấy một số không nắm được ở mức ý thức cách vận động cơ bản của đường tu tâm linh. Đơn giản là họ không xoay chuyển trong tâm và không nhận ra là ngã vỏ ngoài phải chết đi – và muốn làm vậy thì họ phải nhìn thấy nó. Thay vào đó, họ cứ tiếp tục tìn vào ảo tưởng về con đường công truyền mà các thày đã nói đến biết bao lần, là cho rằng bằng cách tuân thủ một cách tu tập vỏ ngoài thì một ngày kia họ sẽ tự động rũ bỏ tự ngã hoặc ngã vỏ ngoài.

Họ cứ chờ cho thời điểm đó xảy đến. Thậm chí có một số khởi sự khóa tu này với giấc mơ là một khi họ hoàn tất khóa tu, đùng một cái họ sẽ thoát được về nhà. Một số sẽ bị thất vọng khi đến bài học chót của thày, họ sẽ tìm ra là chuyện đó không xảy ra, chuyện đó không xảy ra một cách tự động.

Con cũng thấy một số người rơi vào một hình thái phủ nhận, là họ bắt đầu tìm cầu một số chỉ dấu cụ thể. Khi họ cố leo lên tầng 96, họ nhìn nhận là mình đã có tiến bộ. Họ đã vượt qua được một số điều mà họ đã mang nhiều năm trước đây khi họ mới cất bước trên đường tâm linh. Giờ đây họ bắt đầu tin là mình là đệ tử cao cấp, mình đã đạt đến một tầng cấp nào đó. Một số còn tới độ tự xưng mình là sạch tự ngã hay đã giác ngộ, hay bất kỳ tên nào khác mà hệ tư tưởng tâm linh của họ đặt cho mục tiêu tối hậu trên đường tu. Con thấy khắp các cộng đồng tâm linh, Thời mới hay đệ tử của chân sư, có những người rơi vào trạng thái phủ nhận khi họ thực sự tin mình không còn tự ngã hay ngã vỏ ngoài nữa, nhưng niềm tin đó dựa trên sự phủ nhận những thứ vẫn còn sót lại trong họ.

Thày đang cố giúp con tránh bước vào trạng thái phủ nhận đó, để con chấp nhận là mình vẫn còn một ngã vỏ ngoài, và con sẽ còn mang một ngã vỏ ngoài cho tới khi con thăng thiên. Cho nên bằng cách chấp nhận, con sẽ có thể làm hòa với thực tế đó, con có thể làm hòa với bản thân con là một đệ tử hoàn toàn xứng đáng của chân sư thăng thiên cho dù mình vẫn còn sót lại một ngã vỏ ngoài. Kỳ thực, các thày không bao giờ bảo là các thày chờ đợi con phải sạch ngã vỏ ngoài khi con còn hiện thân. Điểm này, con có thể làm hòa với nó. Khi nào con đã an bình với nó, con sẽ có thể xây dựng thêm từ đó.

14.5. Làm hòa với vật chất

Hiển nhiên là thày có một ý định rộng mở cho bài học này. Trong một bài trước, thày có nói về nỗi oán giận Mẹ, oán giận cõi vật chất, khi con cảm thấy cõi vật chất là kẻ thù đang kháng cự lại mình, vân vân và vân vân. Khi con làm hòa với sự kiện là con không cần toàn hảo để được các chân sư thăng thiên chấp nhận, con cũng xoay chuyển và nhận ra là trái đất, hay cõi vật chất, không cần phải toàn hảo để con có thể cảm thấy an bình khi mình hiện diện nơi đây.

Nói cách khác, một số trong các con là avatar đã đến đây từ một hành tinh tự nhiên nơi vật chất bớt dày đặc hơn hẳn địa cầu. Một số trong các con là những cư dân nguyên thủy của địa cầu vẫn còn giữ được một ký ức nội tâm về một thời trước khi trái đất rơi xuống độ dày đặc hiện thời. Con cảm nhận là mọi chuyện không được như ý. Ở đây con cần xoay chuyển và nhận ra là, đúng vậy, tình trạng địa cầu có tiềm năng cao hơn như bây giờ. Và tất nhiên, các thày là chân sư thăng thiên đang từ từ và lần hồi đưa hành tinh lên trạng thái cao hơn đó, và đương nhiên các con đang ở đây để giúp một tay.

Con sẽ không giúp được các thày nâng địa cầu lên cao hơn nếu con kháng cự lại hiện trạng của nó ngay bây giờ. Nếu con cưỡng chống lại những gì đang ở đây ngay bây giờ thì con đang nói trong tiềm thức: “Tôi không thể là Ki-tô chừng nào hành tinh dày đặc như thế này. Tôi không thể biểu đạt tiềm năng tâm linh của mình chừng nào trên hành tinh còn những biểu hiện khủng khiếp như thế này.” Đây chính là ảo tưởng của sự trụ tâm vào những thứ vỏ ngoài, và nó đã khiến cho biết bao đệ tử tâm linh đi lạc vào con đường quanh co mà thày đã có đề cập, là tìm cách dùng vũ lực để thay đổi người khác hay thay đổi các điều kiện vỏ ngoài.

Điều này dẫn chúng ta đến điểm con cần nhận chân địa cầu là một hành tinh đang ở một độ dày đặc nhất định. Tâm thức tập thể đang ở một độ dày đặc, hỗn mang, biến loạn – một độ entropy nào đó như khoa nhiệt động học sẽ gọi như thế. Con cần chấp nhận đây là hiện trạng. Con không chấp nhận là nó sẽ vĩnh viễn và cứ giữ mãi như vậy. Con chấp nhận là con sẽ làm hòa với các điều kiện hiện hữu. Con sẽ chấp nhận là không những các điều kiện này sẽ cho phép con biểu đạt quả vị Ki-tô của mình mà nó còn là điều kiện lý tưởng để con biểu đạt quả vị Ki-tô của con. Quả vị Ki-tô là gì chứ con? Các thày đã nói nhiều lần: “Quả vị Ki-tô không phải là một tình trạng lý tưởng nào đó, không phải là một trạng thái của tâm chỉ có thể biểu lộ trong những điều kiện lý tưởng.”

Con hãy nhìn Giê-su khi thày bước trên mặt đất 2000 năm trước đây tại Palestine – một vùng đất vô cùng tăm tối, nặng nề với một tâm thức tập thể rất rất dày đặc, dày đặc hơn hẳn so với những gì hầu hết các con đã chứng kiến khi lớn lên trong kiếp này. Thế nhưng thày vẫn biểu lộ được quả vị Ki-tô, vì quả vị Ki-tô là gì? Là khi con thách thức hiện trạng, và cho dù hiện trạng có là gì đi nữa, con vẫn có thể thách thức nó. Thậm chí con còn có thể nói, hiện trạng càng thấp thì thách thức càng dễ. Không có nghĩa là việc biểu lộ quả vị Ki-tô là dễ dàng, nhưng chắc chắn là nó khả thi, và đây là điều con cần chấp nhận. Con cần chấp nhận là mặc dù địa cầu đang rất dày đặc, con vẫn có khả năng hoàn thành những mục tiêu con đã đề ra trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình, bởi vì các mục tiêu đó được đề ra trong sự nhận biết về độ dày đặc hiện tại của vật chất. Con đã không định ra một mục tiêu thiếu thực tế cho bản thân, mà con đã định ra một mục tiêu thực tế. Để thị hiện mục tiêu thực tế này, con cần chấp nhận việc thị hiện là một chuyện khả dĩ ngay cả trong những điều kiện hiện tại.

Sau đó, con cũng cần bắt đầu xem xét các mong muốn, các kỳ vọng vỏ ngoài của mình. Con cần nhận chân rất nhiều những mong muốn vỏ ngoài đó không thực tế (đây là những mong muốn mà có thể con đã đem theo từ những kiếp trước, hay đã khoác vào ở tuổi ấu thơ, hay đã hình thành khi con tìm thấy giáo lý tâm linh, ngay cả giáo lý của chân sư thăng thiên). Chúng dựa trên cái giấc mơ “thoát được về nhà”, khi phần nào con tìm ra một cách hiện diện trên trái đất mà không bị những gì xảy ra trên trái đất chạm vào mình. Con cần nhận diện ở đây là một số những mong muốn đó chỉ đơn giản là thiếu thực tế, và con cần để cho chúng ra đi.

14.6. Kỳ vọng về những gì phải là  

Khi con làm vậy, con có thể thực hiện thêm một cuộc xoay chuyển. Con có thể nhìn nhận là kỳ thực, cản trở lớn nhất để con thị hiện một điều gì đó trên địa cầu (như thày đã nói, thị hiện một lối sống vật chất tốt đẹp hơn, thị hiện Sứ vụ Thiêng liêng của con, thị hiện sự quân bình hay hài hòa giữa cuộc sống tâm linh và cuộc sống vật chất), cản trở lớn nhất để con thị hiện các mục tiêu đó là các kỳ vọng của con – kỳ vọng rằng mọi chuyện phải như thế nào.

Nếu con có một kỳ vọng, một chờ đợi, do ngã vỏ ngoài dựng lên và nếu nó trái ngược với các mục tiêu trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì chừng nào con còn giữ chặt kỳ vọng đó trong tâm ý thức, nó sẽ chặn đứng không cho Sứ vụ thị hiện. Con sẽ không thể chấp nhận để cho các mục tiêu trong Sứ vụ đi xuống tầng vật lý. Và do đó, con sẽ ngăn chặn chúng trong tiềm thức, và nhiều người tâm linh đã làm chuyện đó.

Điều này có nghĩa là giờ đây con phải xét lại những điều con có thể đã đọc trong sách về cách thị hiện những thứ mình muốn. Chẳng hạn có sách sẽ bảo là con cần vô cùng chính xác cụ thể khi thiết lập một “bản đồ kho báu”. Nếu muốn thị hiện một căn nhà thì con phải định rõ trong nhà phải có gì, hay thậm chí con tìm một tấm hình thật chính xác cho thấy căn nhà phải như thế nào với tối đa chi tiết. Điều thày nói với con bây giờ là con hãy xoay chuyển trong tâm và làm cho tâm mình lỏng đi. Con khiến cho kỳ vọng của mình lỏng đi.

Con nhìn vào chính con và hỏi: “Liệu tôi có một số mục tiêu và tôi có ý phải hoàn thành chúng như thế nào, và tôi cảm thế nào về chúng?” Con có thể làm bài tập này và thử hỏi: “Được rồi, đây là các mục tiêu của tôi, nếu như bây giờ có một khuôn mặt thẩm quyền bảo tôi là chúng tuyệt đối không thể thị hiện được thì liệu tôi sẽ phản ứng làm sao?”

Nếu con cảm thấy một phản ứng rất mạnh gần như không cưỡng nổi, một cảm giác hoảng sợ rằng các mục tiêu đó không thể thị hiện, thì con sẽ biết là các mục tiêu và kỳ vọng đó xuất phát từ ngã vỏ ngoài. Chúng đến từ cái ngã vỏ ngoài không ứng phó nổi với sự mất mát. Một khi ngã vỏ ngoài đã quyết định về một mục tiêu hay một kỳ vọng, bất cứ gì không hoàn toàn toại nguyện được kỳ vọng đó sẽ được nó trải nghiệm như một mất mát. Nếu con nhận diện phản ứng này nơi con, con biết là nó đến từ ngã vỏ ngoài, và đó là lúc con cần xem xét lại các mục tiêu và kỳ vọng đó và hiểu ra là con cần để cho chúng ra đi.

Con cần nhìn ra đó là một phàm linh nội tại hay ngã vỏ ngoài đặc thù đang cố bám lấy các mục tiêu đó, và con cần để cho ngã đó chết đi. Con sẽ không giải thoát khỏi ngã đó bằng cách hoàn thành mục tiêu, vì nó sẽ chỉ tạo thêm một mục tiêu khác nữa và nó sẽ dời cột gôn ra chỗ khác. Con sẽ chỉ giải thoát khỏi nó nếu con để cho phàm linh đó chết đi. Con cần làm cho kỳ vọng của mình mềm lỏng.

Trong tất cả những quyển sách kia về thị hiện, người ta cũng sẽ bảo con phải định rõ ra mục tiêu, rồi con cần trụ tâm vào đó đều đặn mỗi ngày. Con cần có ý muốn vô cùng vững mạnh để thị hiện mục tiêu này, vô cùng kiên định trong quyết tâm và ý chí. Con cần đem hết sức mạnh ý chí của mình ra để ép nó đi vào hiện thực.

14.7. Không có an bình qua vũ lực

Thày không đang bảo con là những quyển sách và khóa học đó nói dối. Con hoàn toàn có khả năng thị hiện đồ vật theo cách họ mô tả, tuy nhiên nó không dính dáng chút nào với quả vị Ki-tô. Cho nên nếu con muốn thị hiện đồ vật theo cách đó thì con có thể. Đó là tại sao thày đã nói là con có thể đạt tới tầng 96 và bắt đầu sử dụng quyền năng của tâm để thị hiện một số thứ. Con có thể làm được, chuyện đó khả dĩ và có những người đã làm được.

Nhưng nó sẽ không đưa con lên cao hơn tầng 96, có nghĩa là rốt cuộc con sẽ bắt đầu thụt lùi và ngày càng chú trọng nhiều hơn đến bản thân. Kỳ thực, con có thể tuột xuống tầng tâm thức thấp nhất có thể có trên trái đất. Hơn thế nữa, con có thể rơi hẳn vào tâm thức sa ngã. Con thấy được ở đây là thày đang nói điều này cho con để con nhận ra là con đã vươn tới một mức tâm thức nào đó, con đã đạt được một số khả năng của tâm, và con có thể dùng những kỹ thuật vỏ ngoài đó để thị hiện một số điều con muốn. Điều thày mong muốn nhìn thấy, tất nhiên, là thay vì thị hiện những mong muốn, kỳ vọng và mục tiêu vỏ ngoài đó, con sẽ thị hiện những gì nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Và để làm được vậy, con cần từ bỏ các kỳ vọng và mục tiêu vỏ ngoài đó. Con cần quy hàng và buông bỏ chúng.

Làm thế nào con sẽ đạt được an bình ở mức này? Không phải bằng cách tiếp tục sử dụng sức mạnh ý chí, cưỡng ép cho mục tiêu trở thành hiện thực. Cho dù con có thị hiện được một mục tiêu thì một mục tiêu khác sẽ hiện ra. Nghĩa là có thể con phải vĩnh viễn sử dụng ý chí để cưỡng ép mọi chuyện đi vào hiện thực. Con sẽ không an bình vì chừng nào con còn dùng vũ lực, con không thể cùng lúc an bình được. Đơn giản là không thể nào vừa sử dụng vũ lực mà vừa an bình được. Và đương nhiên, con yêu dấu, nếu con không thể an bình thì con cũng không thể tự do, và đó là tầng khai ngộ thứ bảy, là cuộc khai ngộ không những sẽ dẫn con lền tầng 96 mà sẽ còn đưa con đi tiếp cao hơn cả 96.

Làm thế nào con có thể an bình? Con không thể an bình qua vũ lực. Con chỉ có thể – và thày nói CHỈ với chữ hoa – con CHỈ có thể an bình qua buông bỏ.

14.8. Một cách thị hiện cao hơn

Con có thể nhận thấy là trong con có một cái ngã vừa phản ứng lại câu nói vừa rồi. Có thể con có cảm giác như là con sẽ không bao giờ thị hiện được điều gì nếu mình không nhất quyết sử dụng sức mạnh của ý chí, đặc biệt là trên một hành tinh dày đặc như địa cầu. Điều đó đúng! Nếu con ở một mức tâm thức nào đó, cách duy nhất để thị hiện một cái gì đó là dùng ý chí mạnh mẽ để ép uổng nó vào hiện thực. Nhưng khi con xoay chuyển và vươn lên cao hơn mức tâm thức đó, con có khả năng thị hiện những gì được ghi trong Sứ vụ Thiêng liêng của con – không nhất thiết những gì nằm trong ngã vỏ ngoài, nhưng chắc chắn những gì nằm trong Sứ vụ của con. Bây giờ, làm thế nào con làm được đây?

À, con hãy xét xem con muốn thị hiện qua trung gian cái ngã nào? Khi con dùng vũ lực, con cũng đang dùng ngã vỏ ngoài. Con không chỉ thị hiện qua ngã vỏ ngoài mà con đang thị hiện xuyên qua ngã vỏ ngoài cũng như viễn quan của ngã vỏ ngoài. Có những sa nhân đã bị cắt khỏi Hiện diện TA LÀ của chúng. Chúng chỉ có thể thị hiện bằng cách sử dụng những năng lượng đã sẵn đem vào quang phổ vật lý, và chúng có khả năng thị hiện một số chuyện rất ngoạn mục dưới con mắt của hầu hết mọi người. Nhưng con, hiển nhiên, con không bị cắt đứt khỏi Hiện diện TA LÀ của con, cho nên con sẽ không chỉ thị hiện với những năng lượng đã có sẵn trong cõi vật chất, mặc dù con cũng sẽ dùng những năng lượng đó nếu con thị hiện một cách cưỡng chế.

Thật ra con sẽ lấy một số năng lượng từ Hiện diện TA LÀ và sử dụng để thị hiện các mục tiêu của ngã vỏ ngoài. Đây là tại sao con đường gọi là tà đạo, con đường tay trái, có thể quyến rũ đến như vậy. Con thấy không, con vươn lên một mức nào đó và con kết nối chặt chẽ hơn với Hiện diện TA LÀ của con, cho nên con cũng ít đồng hóa hơn với ngã vỏ ngoài. Con có khả năng sử dụng sức mạnh ý chí và cưỡng ép ánh sáng của Hiện diện TA LÀ đi vào khuôn đúc mà ngã vỏ ngoài đã quy định, và như vậy con thị hiện các mục tiêu vỏ ngoài đó.

Tất nhiên, khi con làm vậy, điều sẽ xảy ra là lần hồi ánh sáng chảy xuống từ Hiện diện TA LÀ sẽ giảm thiểu. Đây là một cơ chế an toàn để ngăn cản con tạo ngày càng nhiều nghiệp quả và trở nên đồng hóa nhiều hơn với ngã vỏ ngoài, để rồi con rơi vào một vòng xoáy ốc hướng hạ. Ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ sẽ suy giảm. Đây có thể là một lời cảnh tỉnh, và một số người đã nhận ra lời cảnh tỉnh đó. Khi họ cảm thấy mình không còn quyền năng thị hiện nữa thì họ bắt đầu tự hỏi tại sao lại như thế, và họ quay trở lại con đường chính đạo.

14.9. Con đường tay trái

Nhưng một số khác đã đi theo một con đường khác. Họ đã tiếp tục bước đi trên con đường tay trái. Giờ đây họ bắt đầu sử dụng những năng lượng đã sẵn có mặt trong cõi vật chất  để tiếp tục thị hiện những gì họ muốn. Đây là chuyện khả thi, và nếu họ làm vậy, sẽ tới một điểm khi họ trở thành đệ tử của một sa nhân. Sa nhân này sẽ dạy họ cách thức sử dụng cái gọi là ma thuật đen để thị hiện những gì họ ham muốn.

Con thấy đó, con khởi sự bằng cách sử dụng ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con, xong khi nó không còn đủ mạnh để thị hiện những gì con muốn, con quay sang sử dụng năng lượng đã có sẵn trong cõi vật chất. Đương nhiên, điều này có nghĩa là con phải đánh cắp năng lượng này từ người khác, và cứ thế chuyện này sẽ kéo con vào vòng xoáy bất tận là tìm cách khuynh đảo và kiểm soát người khác.

Nếu con không muốn bước vào tình trạng đó, con phải đạt tới điểm con nhìn nhận là con không muốn thị hiện bất cứ gì qua ngã vỏ ngoài. Có nghĩa là con phải kinh qua một giai đoạn buông bỏ một cách cố tình các mục tiêu, mong muốn và kỳ vọng của ngã vỏ ngoài. Con từ bỏ các mục tiêu đó bởi vì với ngã vỏ ngoài, con có thể học hỏi cách nhận diện các mục tiêu của nó. Chúng thường mang giấc mơ về một trạng thái tối hậu nào đó – một trạng thái giàu có tối hậu, một trải nghiệm tình dục tối hậu, một trải nghiệm tâm linh tối hậu nào đó. Nó luôn luôn cực đoan. Nó luôn luôn phải cực đoan hơn trước. Nó luôn luôn là một trạng thái cuối cùng nào đó. Đó là tại sao nó trở thành một vòng ốc xoáy bất tận, một cuộc tìm cầu không bao giờ chấm dứt để chinh phục ngày càng nhiều hơn.

Con có thể dần dà nhận diện những mục tiêu đó và sau đó con buông chúng ra. Con có thể buông mục tiêu muốn có trải nghiệm tình dục tuyệt đỉnh mà không phải từ bỏ tình dục hoàn toàn (mặc dù con cũng có thể từ bỏ trong một thời gian nếu con cảm thấy muốn làm vậy). Điều thày muốn nói là sẽ tới điểm khi chìa khóa để tiến bước cao hơn là quy hàng, là buông bỏ – buông bỏ, buông bỏ, buông bỏ.

Điều này có nghĩa là con bước vào một giai đoạn khi con nhận ra là mặc dù con có khả năng thị hiện một số mong muốn qua ngã vỏ ngoài, nhưng con lại không muốn làm vậy. Một số trong các con (kỳ thực, tất cả các con) sẽ gặp cám dỗ này dưới một dạng nào đó, nhưng một số các con sẽ gặp nó dưới một dạng rất cụ thể. Con sẽ chạm trán với một hoàn cảnh nơi con thấy rõ là con có thể thị hiện căn nhà lý tưởng, chẳng hạn, qua việc sử dụng vũ lực. Nhưng thay vào đó, con chọn sự buông bỏ, con buông bỏ giấc mơ có được căn nhà trong mơ. Điều này có nghĩa là cho một thời gian, con sẽ không có căn nhà trong mơ hay ngay cả không có nhà nào hết.

Thế rồi có thể thời điểm sẽ đến khi một căn nhà khác sẽ thị hiện, tuy không đúng hẳn căn nhà trong mơ nhưng nó vẫn tạo điều kiện thuận lợi cho Sứ vụ Thiêng liêng tiến hành tốt hơn là với căn nhà mơ ước kia. Nếu con đã cưỡng ép căn nhà kia vào hiện thực thì con đã phải chịu một số ràng buộc. Nó sẽ đòi hỏi con bỏ ra một số năng lực, thời giờ cũng như chú ý, có nghĩa là con không còn gì sót lại cho những công việc khác, kể cả một số khía cạnh của Sứ vụ của con. Con bắt đầu phân biện rõ hơn là mình nên sử dụng thời gian và năng lực như thế nào để không dành ra quá nhiều cho các nhu cầu của ngã vỏ ngoài đến độ nó kéo con ra khỏi việc thực hiện Sứ vụ Thiêng liêng.

14.10. Mong muốn nội tâm hay mong muốn vỏ ngoài

Xong con cũng có thể bắt đầu làm cuộc xoay chuyển mà Giê-su đã chứng tỏ khi chính thày đã nói cách đây 2000 năm: “Ta không thể tự mình làm nổi việc gì.” Như con thấy đó, dựa trên những gì thày vừa nói, câu này đòi hỏi thêm một chút giải thích. Hiển nhiên là Giê-su đã có thể tự mình làm một điều gì đó, nghĩa là qua ngã vỏ ngoài của thày, thày đã có thể thực hiện một số công việc ở mức tâm thức mà thày có lúc đó. Thày đã có thể thị hiện rất nhiều thứ với ngã vỏ ngoài của thày. Điều mà thày thực sự muốn nói là: “Ta không muốn làm bất cứ gì do ngã của ta.” Và thày cũng nói: “Đó là Cha ở trong ta – chính Ngài làm mọi việc,” có nghĩa: “Chính Hiện diện TA LÀ và viễn quan cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của ta đang quyết định những gì thị hiện ra trong đời ta.”

Con đạt đến một điểm khi con cần đối mặt với sự lượng định: “Liệu tôi có muốn những gì thị hiện trong đời tôi là do quyết định của ý chí ngã vỏ ngoài, hay là tôi muốn ý chí cao hơn – Hiện diện TA LÀ của tôi, những chọn lựa mà tôi đã lấy khi thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng – định đoạt những gì sẽ thị hiện trong đời tôi?” Đây chính là điều đòi hỏi sự buông bỏ. Con buông bỏ, con quy hàng trước ý chí cao hơn đó. Giống như Giê-su, con nói: “Xin ý của Cha được thành, chứ không phải ý của con.” Điều này không có nghĩa là có một Thượng đế ở trên trời, một chúa tể độc tài nào đó đang tìm cách kiểm soát con. Con không quy phục một ý chí ở ngoài con. Khi con thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình, con đã sử dụng ý chí ở bên trong chính con.

Tất nhiên, ngã vỏ ngoài sẽ bảo là con quy phục một ý chí bên ngoài, vì đối với nó, ý chí cao hơn của con nằm bên ngoài. Nhưng kỳ thực, đối với con trong cương vị cái Ta Biết, ý chí của ngã vỏ ngoài mới là nằm bên ngoài. Ngã vỏ ngoài tìm cách cưỡng ép ý chí của nó lên con, ngược với những gì con đã chọn lựa và quyết định khi con ở trong trạng thái cao hơn, trạng thái minh mẫn để thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng. Con thấy đó, đây là chuyện thực hiện cuộc xoay chuyển này: “Tôi thực sự muốn gì?”

Và thực sự, có thể nói đó là chuyện con muốn có những loại trải nghiệm nào cho phần còn lại của đời con? Và ở đây chúng ta bước vào – ít nhất từ một nhãn quan nào đó – trở ngại lớn nhất, thử thách lớn nhất, mà con người phải đối diện trên địa cầu, là thử thách về sở hữu.

14.11. Thử thách sở hữu

Con hãy nhìn hành tinh này! Bước lui lại và nhìn hành tinh này. Nhìn tất cả tình trạng hỗn loạn, tất cả những xáo trộn, tất cả những chuyển biến. Những thiên tai, động đất, bão tố, chiến tranh, tất cả những thứ đang không ngừng khiến con người bị bật rễ, bị mất nhà cửa, phá hủy toàn bộ những thành phố. Đây có thật là một hành tinh nơi con muốn tìm mọi cách để sở hữu một cái gì? Có thật khôn ngoan hay không khi con bước vào tâm trạng tham vọng sở hữu một cái gì?

Một lần nữa, hãy lấy ví dụ căn nhà trong mơ. Không có gì sai trái nếu con ở một căn nhà thoải mái, nhưng liệu con sở hữu căn nhà hay là căn nhà sở hữu con? Theo một nghĩa nào đó, đây là thử thách con đối mặt trên địa cầu. Con có thể sở hữu đồ vật trên địa cầu – đúng là con có thể – nhưng luôn luôn sẽ có một cái giá mà con phải trả. Nó đòi hỏi ở con một số năng lực, thời giờ và chú ý. Thày không đang nói tới cả chuyện tiền bạc cho dù con sẽ cần tiền bạc để sở hữu một cái gì đó. Nó đòi hỏi con dành chú ý cho nó, và để bảo toàn những gì con sở hữu, nó cũng đòi hỏi nơi con sự chú ý.

Câu hỏi đặt ra là: “Con muốn loại trải nghiệm nào cho phần còn lại của đời con?” Liệu con muốn trải nghiệm chuyện sở hữu một đồ vật, hay con muốn trải nghiệm sự tăng triển tâm linh? Con hiểu chứ phải không con, rằng sở hữu là đứng yên một chỗ và tăng triển là chuyển động. Các thày đã có đề cập đến Dòng sông sự Sống. Con không xuôi chảy theo Dòng sông sự Sống khi con sở hữu một cái gì. Điều này không có nghĩa là con không thể vừa sở hữu vừa xuôi chảy với Dòng sông sự Sống – nhưng chỉ khi nào cái con sở hữu không sở hữu con. Chừng nào con còn mong muốn sở hữu thì con sẽ không an bình được trên một hành tinh như địa cầu – chuyện đó không thể. Luôn luôn sẽ có những mối đe dọa mà con tưởng tượng ra, và thày có thể cam đoan với con là khi con sở hữu một cái gì mà con không muốn đánh mất, con sẽ dư khả năng tưởng tượng ra đủ mọi loại đe dọa có thể cướp nó khỏi tay con.

Sứ giả này cách đây ít lâu đã xem một phim tài liệu trên tivi về các nhà tỷ phú. Ông hiểu ra là nếu ông tin tất cả những gì được trình chiếu, mọi người đúng lý phải cảm thấy tội nghiệp cho các nhà tỷ phú bởi vì việc ứng phó với tài sản to lớn như vậy thật là một chuyện khó khăn. Tất nhiên ông đã bật cười, nhưng bên trong ẩn một chân lý, đó là người ta càng sở hữu thì cái họ sở hữu sẽ càng sở hữu họ. Khi họ càng bị sở hữu bởi vật sở hữu, thì họ phải dành ra càng nhiều sức lực và chú ý để lo gom góp nhiều hơn hay để khỏi đánh mất những gì mình đang có. Đối với nhiều người, họ sẽ đạt tới điểm tích tụ được tất cả mọi thứ mà mình mong muốn lúc ban đầu, và giờ đây họ lo lắng sẽ đánh mất nó. Điều này, tất nhiên, sẽ không thuận lợi cho sự phát triển của con trong những mục tiêu đề ra trong Sứ vụ Thiêng liêng.

14.12. Rũ bỏ cái ngã sở hữu

Con cần nhìn vào điểm này và nhận ra đó là một ngã vỏ ngoài. Nó rất dũng mãnh trên hành tinh này vì động lượng trong tâm thức tập thể cũng rất mạnh mẽ – nhưng con đã đến đây để làm gì? Con đến đây để tự nâng mình lên cao hơn tâm thức tập thể và như vậy góp phần nâng cao tâm thức tập thể.

Tất nhiên là ở tầng khai ngộ này, con có khả năng rũ bỏ ngã này. Con có thể nhận ra là mình không muốn thị hiện những mục tiêu của ngã vỏ ngoài và mình cũng không muốn thị hiện bất cứ gì xuyên qua ngã vỏ ngoài. Con không muốn thị hiện bất cứ gì qua vũ lực. Vậy thì làm thế nào con thị hiện được cái gì đây? Nhiều người đã từng đọc những cuốn sách kinh điển kia về thị hiện, sẽ bảo: “Đúng vậy, làm thế nào con có thể thị hiện bất cứ gì nếu con không dùng vũ lực và sức mạnh ý chí, nếu con không trụ tâm và không tập trung năng lượng? Thày bảo con buông bỏ mọi mục tiêu và mong muốn, bảo con không được cụ thể chính xác, bảo con phải làm lỏng tâm mình và kỳ vọng của mình. Vậy làm sao con thị hiện được gì đây?”

Con yêu dấu, khoảng 2500 trước đây có một bậc đại hiền đã giảng dạy về Trung đạo. Thày không đang bảo con không được dùng sức mạnh của ý chí, hay không được tập trung, hay không được quyết tâm. Thày đang bảo con chuyển sự chú tâm của con ra khỏi ngã vỏ ngoài và hòa điệu với Sứ vụ Thiêng liêng. Thày cũng bảo con làm lỏng tâm con, làm lỏng các kỳ vọng của con, ít ra trong một thời gian, vì con sẽ cần chút thời gian để buông xả các kỳ vọng từ ngã vỏ ngoài. Con cần bước vào một giai đoạn tạm thời nơi con sẵn lòng để cho mọi chuyện nổi trôi, như thể nổi trôi không định hướng trên mặt nước, và con để cho dòng nước cuốn con trôi đi.

Con thấy đó, con yêu dấu, có một cách lấy quyết định với ngã vỏ ngoài, là khi con dùng sức mạnh ý chí hay con tập trung vào mục tiêu và trở thành vô cùng cương quyết. Có thể nói, con gạt sang một bên bất kỳ lực chống đối nào ngăn cản con thực hiện mục tiêu của mình. Nhưng cũng có một cách khác là con buông bỏ tất cả những mong muốn vỏ ngoài đó và con đi vào trạng thái mà Giê-su mô tả là: “Xin ý của Cha được thành, chứ không phải ý của con.”

Nói cách khác, con không bảo là con không muốn bất cứ gì thị hiện trong đời con, mà con chỉ nói là con không muốn ý chí của ngã vỏ ngoài thị hiện. Con muốn ý chí cao hơn mà chính con đã định ra khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng. Con sẵn lòng chờ cho điều đó xảy ra. Con sẵn lòng để cho nó xảy ra, để cho nó trải bày. Con sẵn lòng bước vào một trạng thái của tâm nơi con nghĩ là mình không đang thị hiện gì hết. Con không đang cưỡng ép bất cứ gì thị hiện, mà con chỉ để yên cho nó rơi vào thị hiện.

14.13. Để yên cho mọi chuyện thị hiện

Trong thế giới Ả rập, người ta có câu ngạn ngữ về quả cam rơi vào chiếc khăn đóng mình đội trên đầu. Con ngồi dưới cây cam và quả cam rơi xuống một cách tự nhiên. Đây là trạng thái tâm mà con có khả năng bước vào ở mức này. Không tìm cách ép buộc Ánh sáng Mẫu-Vật phải cho con những gì ngã vỏ ngoài mong muốn, con trao cho Ánh sáng Mẫu-Vật khoảng trống để nó thị hiện điều mà chính con, qua ý chí cao hơn của con, đã quyết định mong muốn. Con cho phép các mong muốn cao hơn của con đi xuống thị hiện vật lý thay vì ngăn chặn chúng với tất cả những kỳ vọng vỏ ngoài đó. Con có thấy được không? Cách thị hiện cưỡng bức của ngã vỏ ngoài là một chuyện khả thi, nhưng có một cách khác mà thoạt nhìn tưởng chừng là một cách thụ động (ít ra đối với ngã vỏ ngoài), nhưng nó không thụ động chút nào. Đơn giản, con kết nối lại với Sứ vụ Thiêng liêng và cho phép tự nó thị hiện ra.

Con thấy đó, con yêu dấu, nhiều người theo học những cuốn sách về thị hiện thường làm vậy từ một tâm trạng thiếu thốn, họ thiếu thốn vì họ muốn một cái gì đó. Thường khi là tiền bạc. Họ không đủ tiền, họ muốn thị hiện ra tiền, cho nên họ theo học các khóa đó và họ khiến cho ý muốn vỏ ngoài đó bị đông đặc lại. Sau đó họ dồn tất cả sức lực của ý chí cùng quyết tâm để cố đẩy nó lên các cõi cao hơn. Có lẽ họ không biết gì về ba thể cao như con, nhưng dù sao thì họ cũng cố gắng – từ mức ý thức – đẩy nó lên các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc. Khi họ làm vậy từ tầng ý thức, trước tiên họ phải đẩy lên cõi tình cảm, rồi họ phải đẩy lên cõi lý trí, rồi họ phải đẩy lên cõi bản sắc. Một khi họ đã đẩy được vào cõi bản sắc, xung lực có thể sẽ quay ngược lại và bắt đầu đi trở xuống.

Vấn đề là con chỉ có sẵn một khối năng lượng giới hạn khi con cố gửi xung lực đó đi lên cõi tình cảm. Có thể trong thể tình cảm của con có đủ loại xáo trộn mà con chưa giải quyết, và chúng sẽ tạo ra sức cưỡng chống lại. Sóng năng lượng mà con gửi ra bằng tâm ý thức tạo ra đủ loại mô thức giao thoa với các năng lượng khuếch tán và hỗn loạn hiện diện trong cảm thể con. Đến khi nó tới được cõi lý trí thì không những nó đã bị suy yếu mà phần nào còn bị bóp méo. Một lần nữa, trong trí thể của con lại có đủ loại điều kiện hỗn loạn khác, đủ loại tin tưởng chưa giải quyết. Và khi nó lên tới thể bản sắc, nó lại bị khuếch tán thêm nữa. Nơi thể bản sắc, rất có thể là con không rõ ràng lắm về con người thực mà con là, về những gì mà con thực muốn, cho nên một lần nữa lại có sự suy giảm và biến thái. Cho nên đến khi xung lực sẵn sàng quay trở xuống, nó không còn gì như cũ và sức mạnh của nó đã suy yếu.

Nhiều, rất nhiều người làm như vậy. Họ bỏ thì giờ ra, ngấu nghiến đọc những cuốn sách hứa hẹn cho họ đủ mọi thứ. Họ dành ra nhiều thời gian và sức lực để làm theo nhưng rồi chẳng có gì xảy ra. Họ ngồi đó, không hiểu tại sao chẳng có gì thị hiện, hoặc họ bỏ rơi toàn bộ, thậm chí họ bỏ rơi cả đường tu tâm linh bởi vì sự thật là họ có bao giờ cất bước trên đường tu tâm linh đâu, mà họ chỉ tìm cầu một lối thoát vá víu tạm thời. Hoặc cũng có thể là một phần mục tiêu của họ được thị hiện, và giờ đây họ thực sự nghĩ đó là cách thị hiện mọi chuyện. Họ lại thử một lần nữa, nhưng rồi họ phải đi đến kết luận là nó không hiệu nghiệm. Chuyện đó không hiệu nghiệm chút nào.

Điều thày yêu cầu con làm khác hẳn. Thày yêu cầu con buông bỏ tất cả mọi thứ vỏ ngoài, sẵn lòng để cho mình nổi trôi, để mình xuôi chảy theo Dòng sông sự Sống, để yên cho sự sống cuốn con theo bất cứ hướng nào mà nó muốn. Và khi đó, con vươn lên, con với tới những gì con đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nghĩa là con né tránh được bất kỳ lực kháng cự nào đến từ ngã vỏ ngoài ở các thể tình cảm, lý trí và bản sắc thấp của con. Con đi thẳng tới nguồn cội của những gì con đã thảo ra trước khi con đầu thai trong kiếp này. Xong con kết nối với cái đó, và con sẵn lòng để yên cho nó thị hiện ra cho dù con chưa thấy được nó là gì, cho dù nó có thể không đồng thuận với các kỳ vọng vỏ ngoài mà con đã vun trồng ở một thời điểm nào đó. Con sẵn lòng buông bỏ các kỳ vọng đó và con nói: “Xin ý chí cao hơn của con được hoàn thành cho dù nó có là gì, chứ không phải ý chí vỏ ngoài của con. Dù bất cứ gì có xảy ra, con cũng sẽ chấp nhận, con sẽ đón nhận, và con sẽ biết ơn tất cả những gì con được nhận.”

14.14. Thị hiện qua buông bỏ

Thật ra có nhiều người đã thị hiện một điều gì không đúng hẳn như ý muốn của ngã vỏ ngoài. Họ xem đó là không đủ hay họ đã từ chối thẳng thừng. Có những người đã thị hiện được một số cơ hội mới, nhưng vì nó không đúng với mong ước cho nên họ đã không nắm lấy. Và như thế họ đã bỏ lỡ một cơ hội tăng triển mà họ đã định ra trong Sứ vụ Thiêng liêng. Ở mức này, thày yêu cầu con hãy sẵn sàng trở nên mềm lỏng, sẵn sàng buông bỏ mọi hình ảnh cố định về đời mình phải trải ra như thế nào. Con hãy kết nối lại với ý chí cao hơn đó, là ý chí đích thực mà con đã có khi con không nhìn mọi chuyện xuyên qua lăng kính dày đặc của bốn thể phàm.

Đây là một hành động buông bỏ có khả năng thực sự đưa con đến một trạng thái an bình vì con chấp nhận một số chuyện. Con chấp nhận khía cạnh omega của sự thị hiện trên địa cầu, nghĩa là địa cầu có một độ dày đặc nào đó, mọi người đều có quyền tự quyết của mình và tâm thức tập thể ở một trình độ nào đó. Những yếu tố này định ra giới hạn cho những gì con có thể thị hiện. Do tất cả những điều kiện vỏ ngoài đó, con không nhất thiết thị hiện được điều kiện lý tưởng mà con có thể hình dung. Nhưng điều mà con luôn luôn thị hiện được là những gì sẽ giúp con tăng triển lên một mức tâm thức cao hơn. Đó là omega – là làm hòa với mọi thứ như chúng hiện là, và tận dụng chúng một cách tối hảo thay vì phàn nàn là chúng không lý tưởng.

Khía cạnh alpha là con vượt ra khỏi các ham muốn của ngã vỏ ngoài. Con tái nối kết với các mong muốn cao hơn mà chính con đã từng có trước khi hiện thân. Con cho phép những mong muốn này thị hiện và con chấp nhận như vậy là tốt đủ, đó là cơ hội mà con muốn và con sẽ ôm lấy nó. Con sẽ tận dụng nó một cách tối hảo và sẽ đặt trọng tâm vào việc tăng triển thay vì sở hữu.

Có một khái niệm rất quan trọng mà Giê-su đã bày tỏ cách đây không lâu trong một bài truyền đọc nơi thày nói là các chân sư thăng thiên giống như những nhân viên bán xe cũ sử dụng kỹ thuật nhử mồi xong đánh tráo. Con người hiện ở một trạng thái tâm thức thấp đến độ khi họ chưa tìm được con đường tâm linh thì họ sẽ tạo ra đủ mọi loại mơ ước và ham muốn. Các thày phải cho họ một cái gì đó mà họ có thể liên hệ và chấp nhận, một cái gì có thể thúc đẩy họ cất bước trên đường tu. Rồi sau đó tất nhiên, khi họ đã tiến xa hơn trên đường tu, các thày phải xoay chuyển họ để họ nhận ra là các mong muốn ban đầu của họ không thực tế lắm, và giờ đây, hy vọng là họ có thể nhận lấy một mong muốn cao hơn sẽ đặt họ trên con đường dẫn đến tầng 144.

Vấn đề ở đây y hệt như vậy. Điều không thể tránh được là khi các con khởi sự khóa tu này, con có một số mong muốn, một số chờ đợi không được cao nhất. Làm thế nào con có thể ở tầng tâm thức thứ 48? Làm thế nào con có được một chờ đợi thực tế  về đường tu tâm linh khi con ở tầng 48? Con không thể. Các Thượng sư khác cũng đã đề cập đến cùng điểm này. Điều vô cùng quan trọng ở mức này là con thực sự đạt tới mức con xem xét các kỳ vọng không thực tế đó và con để cho chúng ra đi.

14.15. Làm hòa với sự bất toàn

Con cần đặc biệt làm hòa với thực tế là chừng nào con còn ở trong hiện thân vật lý, con sẽ không đạt đến một trạng thái giác ngộ hay một tâm thức toàn vũ tối thượng nào đó (hoặc bất kỳ cái tên nào mà con muốn gọi). Cho đến khi con thăng thiên, con sẽ vẫn mang một số yếu tố của tâm thức phàm nhân. Trên thế giới sẽ có những người không đồng ý với câu này. Một số sẽ bảo đó là một lời dạy hoàn toàn sai lầm. Một số sẽ nói: “Nhưng chắc chắn Giê-su hay đức Phật, vị đạo sư này hay vị đạo sư kia, hay vị đạo sư sắp tới, phải đã chứng đạt giác ngộ chứ.” Điều này tùy thuộc vào cách con định nghĩa giác ngộ là thế nào. Nếu con định nghĩa giác ngộ là đã hoàn toàn rũ sạch ngã vỏ ngoài, thì không một ai đã đạt được trạng thái đó cho tới điểm ngay trước khi vị đó thăng thiên. Giê-su đã không đạt đến đó cho tới khi thày bị đóng đinh trên thập tự giá và từ bỏ hồn mình (the ghost), tức là khía cạnh chung cuộc của ngã vỏ ngoài, kỳ vọng chót cùng của ngã vỏ ngoài.

Con thấy ở đây, chắc chắn con có thể nói khi con đạt tới một tầng tâm thức nào đó thì con đã vươn lên cao hơn tầng 48 rất nhiều, cho nên con giác ngộ hơn khi trước. Vấn đề là con thấy trên thế giới có những vị xưng mình là đạo sư đã giác ngộ và vân vân. Giờ đây các vị ấy bắt đầu tin là mình không còn cần soi gương, không cần tìm cái xà trong mắt vì họ không còn xà nào nữa, họ không còn tự ngã, không còn ngã vỏ ngoài nữa. Có nghĩa là từ điểm đó trở đi, họ không còn tăng triển nữa. Điều thày cố trao cho con là ý niệm thực tiễn rằng chừng nào con còn đầu thai thì con vẫn cần soi mình trong gương, vẫn cần tăng triển, vẫn cần vượt qua và buông bỏ nhiều thứ, và con vẫn cần để cho chúng chết đi. Đó là cách duy nhất để con leo đến được tầng 144 và thăng thiên.

Con có nghĩ là thày đã từng làm gì khác hơn hay không, con yêu dấu? Thày đã phải làm y hệt như vậy để hội đủ tư cách thăng thiên. Giê-su cũng vậy, Gautama cũng vậy, Chân sư MORE cũng vậy, Kuthumi cũng vậy, Mẹ Mary cũng vậy, và tất cả những vị đã thăng thiên khỏi trái đất cũng đã đều làm như vậy. Tất cả các thày đều đã bước chân trên con đường mà các thày đang dạy con bước theo. Sự khác biệt là hầu hết các thày đã không có những bậc thăng thiên làm thày giáo cho mình, ít ra những bậc mà các thày ý thức được hay có thể đọc được bài giảng. Nhưng các con thì có. Thày hy vọng con sẽ sử dụng giáo lý vỏ ngoài này một cách hữu ích, sẽ làm cuộc xoay chuyển đó, sẽ làm những xoay chuyển mà thày đã nói đến trong bài giảng này, hầu còn chuẩn bị thực hiện cuộc xoay chuyển to lớn hơn nữa mà thày sẽ đề cập trong bài tới. Thày hẹn gặp lại con để trao bài học đó cho con.

Cách con nhìn vật sẽ đồng sáng tạo vật đó

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 14/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain và cho bài học thứ năm này, chúng ta sẽ giáp mặt với Tia thứ Năm của Viễn quan. Con yêu dấu, viễn quan không như người ta thường nghĩ, không như con từng hiểu khi con lớn lên trong thế giới hiện đại. Hình ảnh mà con đã nhận được từ tuổi thơ ấu bảo viễn quan là một cái gì thụ động. Có một vật nào đó hiện hữu khách quan ở ngoài kia, rồi có một cái gọi là ánh sáng đập vào nó, ánh sáng dội ngược lại trên nó, đi vào võng mạc mắt con nơi ánh sáng được chuyển thành một tấm hình mà não bộ của con nhìn thấy và xử lý.

12.1. Viễn quan thay đổi với thời gian

Các thày ta đã có nói, đây là một ảo tưởng vì thị giác không hề thụ động. Sa nhân muốn con nghĩ là nó thụ động, và đó là tại sao chúng đã thành công khiến cho tất cả mọi xã hội trên địa cầu dạy dỗ trẻ em ảo tưởng về tính thụ động của thị giác.

Nhưng như các thày đã đề cập, viễn quan là một cái gì chủ động. Chúng ta cần bàn nhiều hơn về lý do tại sao viễn quan lại chủ động và nó vận hành ra sao, và điều này liên quan tới những danh sách mà thày đã yêu cầu con lập ra trong bài giảng trước. Thày đã xin con lập ra một danh sách những thứ tuyệt đối không thể nào thay đổi được. Về từ ngữ được sử dụng ở đây, thật sự thày đã chơi một mẹo nhỏ với con khi thày bảo là thày muốn con lập danh sách một số “thứ” tuyệt đổi không thể thay đổi được, hay ít nhất không một quyền năng nào trên địa cầu có thể thay đổi được. Thày đã nói trước đó là các Elohim đã quy định và thiết lập một khuôn đúc nhất định cho trái đất và không có một quyền năng nào trên địa cầu, ngay cả toàn bộ tâm thức tập thể cũng không thể nào thay đổi được. Do đó, đúng là những thứ tuyệt đổi không thể thay đổi.

12.2. Công nghệ thay đổi viễn quan

Và tất nhiên, con đã lớn lên trong một thế giợi có rất nhiều công nghệ. Điều này dẫn chúng ta đến danh sách thứ nhì gồm những thứ có thể được thay đổi nhưng chỉ bằng những phương tiện vật lý, công nghệ hay bằng lao động vật lý. Hiển nhiên trong những thập niên vừa qua, công nghệ (do đã nhận được cảm hứng chủ yếu từ thày cũng như từ các chân sư thăng thiên khác) thật sự đã có một số khám phá thách thức những quan điểm trước đây về cuộc sống. Có những thứ mà một trăm năm về trước người ta bảo là tuyệt đối không thể nào thay đổi, nhưng giờ đây con biết rõ là chúng có thể được thay đổi.

Hạt nguyên tử có thể bị đập vỡ, và chính những hòn gạch xây dựng vật chất đó – như trước đây người ta vẫn tưởng – có thể bị đập vỡ. Đã có một thời người ta tuyệt đối bác bỏ đó là chuyện khả dĩ. Con thấy đã có sự chuyển đổi nào đó do công nghệ, và những gì không thể xảy ra cách đây chỉ vài chục năm, giờ đây trở thành khả dĩ. Tất nhiên một cách chung chung, con người đã chưa điều chỉnh được cái nhìn của mình về cuộc sống dựa theo các khám phá đó, vậy thày cần con bắt đầu điều chỉnh cái nhìn của con về cuộc sống. Thày cần con nhận chân ra công nghệ thực sự là gì. Tại sao – một lần nữa chúng ta sẽ dùng ví dụ này – tại sao nền công nghệ thời nay có khả năng đập vỡ nguyên tử? Thậm chí, tại sao con lại có một nền công nghệ có thể đập vỡ cả những hạt hạ nguyên tử thành những mảnh nhỏ hơn nữa? Đó là vì ngày nay con có sự hiểu biết không có mặt vào thời trước.

Trước khi thuyết tương đối của Albert Einstein ra đời vào năm 1905, loài người không có hiểu biết gì, ngay cả trong lý thuyết, về khả năng đập vỡ nguyên tử. Đó là vì vào thời đó, các nhà khoa học còn mang một cái nhìn nhị nguyên về thế giới, qua đó họ thấy một rào cản tuyệt đối giữa vật chất và năng lượng. Thế giới được cấu tạo bởi hai thành phần tách biệt, và cái này không thể biến hóa thành cái kia. Rồi Einstein tìm ra thuyết tương đối và ngộ ra là mọi vật chất thật sự chỉ là một dạng của năng lượng. Điều này hoàn toàn phù hợp với những gì thày đã nói với con trước đây. Con cần bắt đầu nhìn ra là đằng sau mọi hình tướng mà mắt người có thể trông thấy, có một năng lượng thuần khiết. Có một mô hình phức tạp những sóng năng lượng, những tín hiệu bật-tắt, những mô thức giao thoa giữa các năng lượng. Đó chính là thực tại thâm sâu hơn.

12.3. Nhìn thấy tất cả là lỏng

Lý do điểm này quan trọng là một khi con nhìn thấy một thực tại năng lượng bên dưới tầm mức vật chất (hoặc tầm mức đồ vật vĩ mô), con sẽ nhận ra tầm mức năng lượng này là lỏng. Khi con nhìn một hiện tượng vật lý nào đó, chẳng hạn đỉnh Everest hay bất kỳ ngọn núi nào mà con đã chiêm ngưỡng, con nhìn vào khối đá khổng lồ đó và con nghĩ nó vượt khỏi mọi khả năng thay đổi. Nó rắn đặc, nó to lớn khủng khiếp. Nhưng khi con nhìn vượt khỏi tầm mức vật lý, tầm mức đồ vật vĩ mô, con sẽ thấy thực tại thâm sâu hơn, và ngay cả ngọn núi rắn chắc kia cũng được tạo bằng năng lượng đang rung động, và năng lượng thì lỏng hơn vật chất rất nhiều. Ít nhất trên lý thuyết, có một khả năng thay đổi cho năng lượng cấu tạo ngọn núi đó. Tất nhiên, nếu năng lượng thay đổi thì vật chất cũng sẽ phải thay đổi theo. Điều mà Einstein đã làm là thay đổi quan điểm truyền thống, quan điểm vật lý cổ điển, về nhân và quả.

Tiếc thay, đó là điều mà các nhà khoa học nói chung đã không sẵn lòng thừa nhận. Về bề nổi, họ đã không sẵn lòng thừa nhận vì họ không muốn từ bỏ chủ nghĩa duy vật, họ không muốn nhìn thấy một mối liên hệ giữa vật chất và tâm. Ở mức sâu hơn, thực tế là họ bị đui mù bởi các sa nhân đã xâm nhập vào các giới quyền chức khoa học y như chúng đã từng chi phối Giáo hội Công giáo vào thời Trung cổ (nhưng đây chỉ là một vấn đề bên lề vì thật sự thày không muốn bước vào một cuộc tranh luận chính trị ở đây).

12.4. Xem năng lượng là nguyên nhân và vật chất là kết quả

Điều thày muốn chỉ ra cho con là trong quan điểm vật lý cổ điển về thực tại, có một cái được xem là nguyên nhân và một cái được xem là kết quả. Nói cách khác, nếu có một trái banh bi-da di chuyển trên bàn bi-da, đó là một hành động vật lý. Trái banh là một vật vật lý đang di chuyển trong một không gian vật lý, và phải có một nguyên nhân vật lý, cụ thể ở đây là một cây gậy đập vào trái banh khiến nó chuyển động. Đây là cách mà người ta quan niệm nhân và quả trong vật lý cổ điển – một nguyên nhân vật lý phải có một kết quả vật lý.

Einstein đã phá vỡ cách nhìn trên – nếu người ta chịu để cho nó bị phá vỡ trong tâm họ. Ông làm được vậy là vì trên cơ bản, ông nói rằng vật chất, và mọi hiện tượng vật chất, đều là kết quả. Trong quan điểm của Einstein, chúng là kết quả của một nguyên nhân mà mắt không nhìn thấy gọi là năng lượng. Chúng ta có thể đi xa hơn vậy nhưng dù sao thì trong nhãn quan của Einstein, nguyên nhân sâu xa của mọi hiện tượng vật chất là năng lượng, là thế giới năng lượng. Con vẫn có thể bảo là có một đồ vật vật lý gọi là trái banh bi-da và có một cây gậy vật lý đập vào banh, nhưng lý do những vật vật lý đó có thể hiện hữu là vì có một nguyên nhân nằm bên dưới, là năng lượng lỏng đang rung động.

Mọi vật vật lý rắn đặc hiện hữu như là kết quả của một nguyên nhân nằm bên dưới là năng lượng lỏng. Điểm này quan trọng, con cần ghi nhớ. Nhưng chúng ta sẽ đi xa hơn nữa. Lý do khiến cho các nhà khoa học (hay ít ra các nhà khoa học duy vật) không muốn công nhận các thuyết của Einstein hay hệ quả của ngành vật lý lượng tử là vì họ không muốn từ bỏ giấc mộng khách quan. Do ảnh hưởng của sa nhân, họ đã định nghĩa giấc mộng khách quan là sự quan sát không bị ảnh hưởng bởi tâm của nhà khoa học đang quan sát.

Chuyện này trở ngược về một thời điểm khi người ta tìm cách tách rời khoa học khỏi Giáo hội Công giáo và mô tả mọi tôn giáo là chủ quan. Hay nói cách khác, mọi trải nghiệm của tâm đều là chủ quan, và do đó phải loại bỏ tâm ra khỏi khoa học. Điều mà các nhà khoa học hay nhà duy vật không nhìn nhận là tất nhiên, họ không thể làm được chuyện đó, bởi vì cho dù con có làm gì đi nữa thì con cũng phải cần đến tâm. Nếu con thực sự muốn khách quan thì chuyện xây dựng hơn nhiều là con hãy tìm hiểu xem tâm ảnh hưởng đến sự quan sát như thế nào – hay ngay cả tìm hiểu xem tâm ảnh hưởng những quan sát nào mà con chọn lựa, con chọn lựa chúng như thế nào, và sau đó con chọn cách diễn giải như thế nào. Nếu làm vậy thì hiển nhiên con sẽ tìm ra là không có gì có thể gọi là một quan sát khoa học khách quan.

Một quan sát không có nghĩa lý gì trừ phi nó được diễn giải, nghĩa là nó được đặt vào một bối cảnh rộng lớn hơn. Bối cảnh mà các nhà duy vật đã tạo ra vô cùng chủ quan, bởi vì họ chỉ muốn tìm diễn giải trong vũ trụ vật chất. Đó không phải là một thế giới quan khách quan mà họ đã tạo dựng. Nó cũng chủ quan y như thế giới quan thời Trung cổ mà Giáo hội Công giáo đã tạo dựng. Và điều này, họ sẽ không chịu nhìn nhận.

12.5. Chấp nhận là con có một cái nhìn chủ quan

Điều chúng ta cần làm ở đây là nhìn nhận một chuyện thật giản dị. Con là một đệ tử tâm linh. Con đang ở một tầng tâm thức nào đó. Như các thày đã giải thích, con đang nhìn cuộc sống qua một phin lọc gồm có một số ảo tưởng. Do đó cho dù các nhà khoa học có tin gì đi nữa, con vẫn có thể xác định trong tâm ý thức rằng con chấp nhận cách mình nhìn cuộc sống là hoàn toàn chủ quan. Cách nhìn này là sản phẩm của những ảo tưởng mà con vẫn mang và chưa gỡ bỏ được.

Trong cương vị một đệ tử tâm linh và một cá nhân, con không cần tìm kiếm một sự khách quan nào đó. Thày cũng biết là trong con có một cái ngã mong muốn rải truyền các niềm tin và sự hiểu biết tâm linh của mình để khiến cho người khác chấp nhận. Chúng ta hãy tạm gác chuyện đó sang một bên. Chúng ta đơn giản bỏ nó qua một bên và nói rằng trong cương vị một cá nhân, con có thể nhìn nhận là cách con nhìn cuộc sống là sản phẩm của trạng thái tâm hiện thời của con, của những ảo tưởng mà con đã khoác vào khi con bước xuống dưới tầng 144 và vẫn chưa lột bỏ được. Con không cần tìm kiếm một cái nhìn khách quan về thực tại như các nhà khoa học đang tìm.

Do đó, vấn đề đối với con không phải là sự thật tuyệt đối là gì, thực tại khách quan là gì. Vấn đề đơn giản là như sau: Làm thế nào con có thể cải thiện các điều kiện vật chất hiện thời của con? Không phải là vấn đề đạt tới một mức tối hậu nào đó, mà như các thày đã dạy xuyên qua khoá tu này, đó là vấn đề con nhận ra là cuộc sống sẽ cải thiện từng bước nhỏ một. Làm thế nào con có thể đi từ mức của con ngay bây giờ lên mức kế tiếp, rồi cứ thế lên tiếp nữa và lên tiếp mãi, để lần lần cải thiện các điều kiện vật lý và vật chất của mình, hầu chúng đứng đồng bộ với những gì thày đã nói: Trong Sứ vụ Thiêng liêng của con đã ghi những gì, và điều gì cho phép con nhận được những tư tưởng sẽ giúp thị hiện Thời Hoàng kim của thày? Làm thế nào con sẽ thực hiện được chuyện này?

12.6. Nơi nhập thất của Saint Germain không làm bằng đồ vật

Điều con có thể làm là thừa nhận rằng con đã được dạy dỗ một cái nhìn méo mó về thực tại, một cái nhìn méo mó về nhân và quả, một cái nhìn méo mó về vật chất và năng lượng. Tuy không phải là lỗi con, điều đó đã khiến con mang một số tin tưởng về những gì có thể được thay đổi và những gì không thể thay đổi. Khi nào con thừa nhận chuyện này thì con mới có thể nhìn ra bước lôgíc kế tiếp là chất vấn cách mình nhìn thực tại, những gì mình nghĩ có thểkhông thể được thay đổi.  

Đây là khi con đi vào các khía cạnh kia của các danh sách mà thày đã yêu cầu con ghi ra. Thày đã xin con lập ra một danh sách những thứ mà con nghĩ tâm có tiềm năng thay đổi và những thứ con nghĩ tâm không thể thay đổi. Tất nhiên đó là những điều quan trọng hơn để con xem xét trong bài học này, bài học thứ năm tại nhập thất của thày. Điều thày muốn cho con thấy tại khóa nhập thất này là một điều thày ao ước có thể đưa ra cho mọi người trong cõi vật lý được thấy, nhưng chưa sẵn có công nghệ để làm được chuyện đó. Thày cho con thấy rằng những gì con xem là vật chất không hề giống như nó hiện ra xuyên qua giác quan vật lý của con. Tại khóa nhập thất của thày, con ở trong thể bản sắc, con không đang trải nghiệm khóa tu qua trung gian giác quan vật lý. Đây thật là một điểm quan trọng mà con cần suy ngẫm. Thày đã có nói là trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên, một số hình ảnh của Hang Biểu tượng đã được ban ra. Nếu con đọc những cuốn sách đó, con sẽ thấy là những hình ảnh đó phần lớn dựa trên cách nhìn theo giác quan con người.

Nói cách khác, do tâm thức tập thể thời đó mà chỉ một cái nhìn nhất định về Hang Biểu tượng có thể được đưa ra. Đó là cái nhìn dựa trên giác quan, được nới rộng thêm chút xíu để con thấy một cái gì bình thường con không thấy được qua giác quan tuy con có tiềm năng thấy được qua giác quan. Tất nhiên khi con ở trong thể bản sắc, con không bị hạn chế bởi nhận thức giác quan. Con có một nhận thức hoàn toàn khác, cho nên quả thực khóa nhập thất của thày không đến nỗi vật lý đường thẳng như con tưởng trong tâm thức tỉnh ngủ.

Thật sự không có cách nào dễ dàng để khép lại khoảng cách đó. Không có cách nào dễ dàng để mô tả bằng ngôn từ khóa nhập thất của thày vì nhận thức của con quá khác lạ. Khi con trở xuống cơ thể vật lý của mình và tỉnh dậy, đương nhiên con lại nhìn cuộc sống qua giác quan vật lý. Đây là một chuyện con có thể bắt đầu thay đổi. Thày không bảo là thày chờ đợi con sẽ thay đổi được hoàn toàn sau khi học xong bài này hay ngay cả hết khóa tu này. Con cần tới gần hơn với tầng 144 trước khi con có thể thực sự giải phóng viễn quan của con khỏi giác quan vật lý. Nhưng con có thể khởi sự. Con có thể khởi sự bằng cách, như thày đã nói, nhận ra trong tâm ý thức rằng viễn quan là một khả năng chủ động.

12.7. Viễn quan bị lập trình như thế nào

Con thấy đó, con yêu dấu, tất cả các con đều đã tập đi xe đạp. Nếu con trở ngược về quá khứ, con sẽ nhớ là lúc ban đầu, giữ thăng bằng là một chuyện rất khó khăn. Rồi đến một điểm nó trở thành tự động. Đó là vì rất rất nhiều chuyện trong cõi vật lý (con dùng cơ thể vật lý để làm rất nhiều chuyện) đòi hỏi nhiều chú ý – trừ phi bốn thể phàm của con có khả năng hoạt động như một máy tính và tạo ra những chương trình có khả năng “làm việc ở đằng sau”, nếu có thể nói như vậy. Giờ đây khi con leo lên chiếc xe đạp, con không cần phải đặt chú ý vào chuyện giữ thăng bằng nữa. Con chỉ ngồi lên xe đạp và có một chương trình trong tâm tiềm thức sẽ tiếp quản, và nó hoàn toàn tự động. Con có dư chú ý để quan sát cảnh vật chung quanh, hay ngay cả rút điện thoại ra đọc tin nhắn, như con thấy nhiều người làm khi họ đạp xe khắp các thành phố trên thế giới.

Điều con cần nhận ra là có nhiều chương trình như thế vận hành. Không phải là thày đang bảo là có gì sai trái hay những chương trình đó có ý hại con. Thày chỉ nói là đã đến lúc con ngộ ra là khi con nhìn bất cứ gì – khi con dùng mắt vật lý của con – thì có một chương trình trong bốn thể phàm đã được trù hoạch để biến thị giác trở thành tự động. Thật ra đây là một lãnh vực mà khoa học đã nghiên cứu phần nào, gọi là khả năng “nhận dạng mẫu” (pattern recognition).

Chức năng của chương trình này là nhìn vào các khuôn mẫu. Thày đã nói gì với con? Thày đã nói là toàn bộ thế giới được tạo thành từ hình ảnh vô cùng phức tạp đó. Thày đã nói nó giống như một màn hình với vô số những cái chấm nhỏ, và chấm đó hình thành những mô thức vô cùng tinh xảo. Điều mà chương trình trong tâm con làm là nó áp đặt một số hình ảnh lên mô thức đó. Hẳn con nhớ khi con còn bé, có lẽ con đã lấy một bức ảnh chụp trên tờ báo và nhìn nó qua kính lúp. Con đã thấy bức ảnh đen trắng trên báo được tạo thành bởi nhiều đốm nhỏ màu đen. Mật độ của đốm tạo ra cảm tưởng là con nhìn thấy những sắc xám khác nhau, và theo một nghĩa nào đó, đây cũng chính là cách hình thành thực tại.

Khi con nhìn vào bức ảnh trên tờ báo cũ, con không thấy từng cái chấm nhỏ riêng lẻ. Không phải vì mắt con không có khả năng nhìn thấy chấm nhỏ mà vì chương trình trong tiềm thức con đã chồng một hình ảnh lên trên các dấu chấm. Con tìm kiếm một hình mẫu. Chương trình tìm kiếm một hình mẫu.

12.8. Con người có xu hướng đặt tên cho mọi thứ

Chuyện này đòi hỏi chúng ta đi trở ngược về một bộ kinh cổ có tên là Sáng thế ký. Trong đó có câu chuyện về Thượng đế tạo ra Adam, con người đầu tiên, như thế nào. Tất nhiên đây không phải là một lời dạy hoàn toàn chính xác. Thật ra, nó chịu ảnh hưởng của sa nhân, như con sẽ thấy qua sự góp mặt của rắn nơi Vườn Địa đàng Eden. Dù sao đi nữa, chuyện kể lại là trước tiên, Thượng đế đã tạo ra tất cả các loài động vật, xong ngài tạo ra Adam, xong ngài ban cho Adam quyền năng đặt tên cho tất cả các loài động vật, thực vật cùng đồ vật trên trái đất. Adam gọi tên là gì thì đó sẽ là tên của chúng. Hiển nhiên tiến trình này bị sa nhân ảnh hưởng một cách sâu đậm – một cách thâm sâu và cơ bản. Chúng ở trong tâm thức tách biệt và chỉ trong tâm thức tách biệt người ta mới có nhu cầu đặt tên.

Bây giờ con thử suy ngẫm chuyện này. Con hãy tưởng tượng con đang ở vùng thảo nguyên châu Phi và con nhìn thấy một mô thức vô cùng phức tạp những màu sắc và hình dạng. Con có thể xem hình ảnh đó duy chỉ là sự tương tác giữa những tia sáng, những chấm nhỏ, hay ngay cả nhiều loại hình dạng khác nhau. Thậm chí con có thể nhận diện một số hình dạng đang di chuyển trên thảo nguyên, hình như đang làm gì đó với các nhánh cỏ. Có những hình dạng khác đang vươn lên cao làm gì đó với cây cối. Con thử nghĩ xem, đối với người dân sơ khai từng sống trên thảo nguyên châu Phi này, câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào anh ta có thể sống sót trên thảo nguyên này? Một trong những thử thách to lớn hiển nhiên là làm thế nào không biến mình thành miếng mồi ngon cho cái mà ngày nay con sẽ gọi là sư tử.

Con người sơ khai đó phải làm gì đây? Anh ta phải tạo ra một mô hình trong tiềm thức có khả năng nhận diện hình dạng con sư tử, nhận diện nó là nguy hiểm để mà có ngay biện pháp trốn chạy trước khi mình có thể suy nghĩ thấu đáo về sự việc. Con thấy đây chính là điểm nảy sinh ra nhu cầu đặt tên. “Sư tử! Nguy hiểm! Chạy trốn!” Chuyện này phải diễn ra thật mau lẹ, mau lẹ đến nỗi tâm ý thức thật không sao làm kịp.

Con thấy ở đây là trong trạng thái Địa đàng nguyên thủy của địa cầu, không có nhu cầu để mà đặt tên và xem mọi thứ là tách biệt như vậy. Chỉ sau cuộc sa ngã vào nhị nguyên mới có nhu cầu đặt tên cho vật và xem vật như một vật tuyệt đối. Chuyện xảy ra là con đã lớn lên và được dạy dỗ, ngay cả trong thế giới hiện đại, để dùng quyền năng viễn kiến của mình mà không nhìn thấy năng lượng, không nhìn thấy các mô thức phức tạp của sóng năng lượng, của những cái chấm hay những hình dạng. Con nhìn thấy những “vật” và con đặt tên cho những vật đó. Quyền năng thị nhãn của con đã phần lớn bị kết dính với ngôn ngữ, là cách dùng ngôn từ đặt tên cho vật.

Điều này không nhất thiết là một vấn đề lớn. Nó trở thành một vấn đề khi con đạt đến những tầng cao hơn của đường tu. Con cần bắt đầu nhìn nhận ở đây là những gì đã từng hữu ích ở một tầng mức nào đó (chẳng hạn cái gì đã giúp con đi xe đạp) sẽ trở thành một trở ngại ở những tầng mức cao hơn. Một khi con đã gọi tên cái gì đó là một vật, thì không những con sẽ nghĩ nó có một thực tại khách quan mà con cũng nghĩ đó là một cái gì tách biệt. Điều này nghĩa là gì?

12.9. Vật trở nên tách biệt như thế nào

Có nghĩa là ở tầm mức trước mặt, vật đó tách biệt với con. “Tôi đang ở đây, và ở kia có một vật gọi là chiếc xe đạp. Nó tách biệt khỏi tôi. Tôi có thể để nó trong ga-ra khi tôi bước vào nhà. Tôi không thể để lại thân thể tôi trong ga-ra khi tôi bước vào nhà nhưng tôi có thể để lại chiếc xe đạp. Đó là một vật tách biệt, nó tách biệt với tôi”. Ở một tầm mức tinh tế hơn, giờ đây chiếc xe đạp đã trở thành tách biệt khỏi bản chất thuần nhất của thực tại. Nó là một vật tách biệt đang nổi trôi trong không gian, hay đúng hơn nó đứng trên mặt đất, nhưng dù sao con đã nắm được ý thày. Bây giờ nó là một vật tách biệt, nó không kết nối với bất cứ gì. Chuyện vừa xảy ra ở đây là khi con bước xuống nhị nguyên, khi con sử dụng quyền năng thị nhãn của mình để tìm kiếm các hình mẫu đó và đặt tên cho chúng là đồ vật có sự hiện hữu khách quan tách biệt nào đó, thì con đã hoàn toàn che khuất thực tại nằm bên dưới, nơi mọi thứ đều kết nối và là thành phần của một tổng thể.

Con hãy tưởng tượng con đi chơi biển vào một ngày gió rất lớn và sóng rất cao. Tưởng tượng con đang nhìn biển cả, và những ngọn sóng hiển nhiên là những thành phần của biển. Sóng có thể rất lớn, rất mạnh, rất cao, và giữa sóng là những vùng lõm rất sâu. Tuy nhiên con vẫn thấy được là sóng được hình thành từ biển và không hề tách biệt khỏi biển. Bây giờ con hãy tưởng tượng con tạo ra một màn sương mù bên dưới, và sương mù nằm dưới thấp khiến con chỉ nhìn thấy đỉnh sóng ở trên mà không nhìn thấy biển cả ở dưới. Trong trường hợp này, con sẽ chỉ thấy những tháp nước, những hình dạng của nước, và con sẽ thấy chúng tách rời nhau. Thậm chí có thể con còn phân vân: “Ủa, tháp nước này từ đâu đến? Tại sao nó bỗng hiện ra nơi đây? Liệu nó có liên hệ gì với cái tháp nước ở đằng kia hay không?”

Trong cốt lõi, đây chính là điều xảy ra cho loài người như là hệ quả của tiến trình thày vừa mô tả. Con đã dần dà nhìn thấy một thế giới gồm những vật tách biệt. Con không nhìn ra là tất cả những vật đó đều nối kết với nhau vì chúng là sự biểu đạt của một thực tại duy nhất bên dưới. Hậu quả của chuyện này là gì? Đó là con nghĩ: “Đây là một vật tách biệt, nó tách biệt khỏi tôi, nó tách biệt khỏi tâm tôi, và do đó tôi không có cách chi ảnh hưởng đến nó hay thay đổi được nó bằng tâm của tôi. Làm thế nào tôi có thể thay đổi bằng tâm tôi khi không có sự nối kết nào giữa vật và tâm tôi?”

12.10. Tìm một cách nhìn khác

Để khắc phục ảo tưởng này – rằng có quá nhiều thứ con không thể thay đổi, và không thể thay đổi bằng tâm – con cần khởi sự chất vấn cái nhìn đó. Con cần bắt đầu rất từ từ nhận ra là có một cách khác để nhìn.

Con có thể tìm xem một số ảo thị (optical illusion) đã được người ta sáng chế để đánh lừa thị giác của con. Thoạt nhìn thì con thấy một vật gì đó, nhưng khi con nhìn kỹ hơn, con lại thấy một vật khác. Có một số tấm hình khá phổ biến chỉ là một đống chấm, nhưng khi con nhìn kỹ, bỗng dưng sẽ hiện ra hình dạng của một con cá heo hoặc bất kỳ hình dạng nào khác. Con có thể dùng những tấm hình này để nhận ra là con không thể hoàn toàn tin cậy giác quan của mình. Thật ra không phải là vấn đề giác quan của con mà là cái chương trình trong tâm tiềm thức đã chụp lấy dữ liệu do giác quan cung cấp và đè chồng lên một hình ảnh dựa trên khả năng nhận dạng mẫu, quy định một số vật và tìm kiếm những vật đó.

Con nhận ra là khi con nhìn một cái gì, con không đang thực sự nhìn cái đang ở đó. Chương trình trong tiềm thức nhìn vào cảnh vật, tìm kiếm những dạng mẫu mà nó đã sẵn nhận diện, đã sẵn lưu trữ trong kho dữ liệu này. Một khi nó tìm ra dạng mẫu đó, nó chỉ giản dị đè cái này lên những gì con đang nhìn. Trong nhiều trường hợp, thật sự con nhìn thấy một vật với mắt con nhưng bộ não lại hiển thị một hình ảnh gì khác trong đầu con. Bộ não hiển thị hình ảnh được tạo ra bởi chương trình tiềm thức chuyên tìm kiếm khuôn mẫu. Đây là một con sư tử. Đây là một con hươu cao cổ. Đây là một con ngựa vằn, vân vân và vân vân. Con không nhìn cái đang ở đó, vì cái đang ở đó là một mô thức phức tạp những sóng năng lượng, những cái chấm, những tín hiệu bật-tắt. Cái ở đó thì lỏng nhưng trong tâm con, nó bị biến thành một cái gì tuyệt đối, một cái gì khách quan. Con đang nghĩ – con đã bị lập trình để nghĩ – rằng cái con đang nhìn là một thực thể khách quan nằm ngoài tâm con, tách biệt khỏi tâm.

Điều thày cần con bắt đầu suy ngẫm ở đây là: Đó là một ảo tưởng. Đã đến lúc con bắt đầu chất vấn nó vì lý do giản dị là con sẽ không bao giờ thay đổi được bất cứ gì bằng tâm nếu con thấy nó tách biệt khỏi tâm. Để con, để tâm con có thể thay đổi được gì, phải có một sự nối kết giữa tâm con và vật đó. Vì vậy, chừng nào con còn nhìn thế giới qua trung gian chương trình tiềm thức này đang tô vẽ mọi thứ là tách biệt, con sẽ không bao giờ thay đổi được hoàn cảnh vật lý, vật chất, của con bằng tâm. Chuyện đó không thể nào làm được.

12.11. Thị hiện những gì có vẻ khả dĩ

Một lần nữa con có thể nhìn lại những cuốn sách hay khóa dạy về thuật kết đọng vàng bạc từ hư không. Những người theo học như vậy không thành công vì lý do giản dị là họ đang cố làm đúng chuyện đó – họ đang cố thị hiện những vật mà họ xem là tách biệt với chính họ. Đó là tại sao điều thày mong muốn cho khóa tu này là con đừng thử làm những chuyện mà ngay từ đầu đã là chuyện bất khả thi, mà thay vào đó, con hãy điều chỉnh lại cái nhìn của mình. Đó là lý do thày đã nói: “Hãy điều chỉnh kỳ vọng của con”, hầu con có thể làm được, thị hiện được một cái gì con sẽ dễ chấp nhận là chuyện khả dĩ. Nói cách khác, các thày muốn con khởi sự với một việc rõ ràng khả thi – một việc mà con có khả năng thay đổi bằng cách thay đổi tâm mình.

Môt lần nữa, con có thể nhìn vào hoàn cảnh vật lý của con và con thấy một số thay đổi con mong muốn xảy ra. Ở điểm này, chúng ta có thể xem xét: Làm thế nào để những thay đổi đó xảy ra? Thày có nói là con không muốn cưỡng ép quyền tự quyết của người khác. Nếu sự thay đổi đòi hỏi người khác phải thay đổi thì đó không phải là điều thày yêu cầu con chú tâm vào. Thày yêu cầu con chọn ra một khía cạnh nào đó của đời con mà sự thay đổi không đòi hỏi con phải cưỡng ép người khác. Sau đó, thày yêu cầu con lấy hoàn cảnh đó và nhận ra là ngay cả ở tầng vật lý, có những thay đổi khả dĩ sẽ không nhất thiết là thay đổi thần diệu. Chúng chỉ đơn giản đòi hỏi con thực hiện một sự xoay chuyển để con nhìn thấy cái gì đó mà con hiện chưa nhìn thấy.

Con có thể nhìn những người trải qua một cơn trầm cảm (và có thể chính con đã từng trải qua trong đời mình hoặc con đã thấy người khác trải qua). Họ đã bước vào một vòng xoáy ốc hướng hạ, đã khoác vào một cái nhìn rất tiêu cực, gây giới hạn, về cuộc sống hay về bản thân họ. Họ nghĩ mình thật tồi tệ: “Không cách chi tôi tìm được việc làm tốt, tôi không đủ giỏi, tôi thiếu khả năng, tôi không được học hành, tôi không có cái này, không có cái kia.” Con sẽ thấy có những người khác ở trong cùng tình cảnh như vậy ở mức vật lý, vật chất, nhưng bỗng dưng có gì xảy ra thay đổi hẳn và họ tìm được việc làm tốt.

Tại sao một người không tìm được việc làm trong khi người kia lại tìm được? Là vì người thứ nhì mở tâm ra với những điều khả dĩ mà người thứ nhất không mở ra và vì vậy không nhìn thấy được. Xoay chuyển đầu tiên mà con cần thực hiện là con bắt đầu nhìn vào hoàn cảnh của mình và nhận ra là có những khía cạnh trong hoàn cảnh mình mà cho tới giờ mình xem là không thể hoặc khó lòng thay đổi. Hay thậm chí, có lẽ con chưa hề nghĩ đó là chuyện có khả năng thay đổi vì con đã được dạy dỗ là sự thể phải như vậy.

12.12. Nhìn thấy khả năng mới

Chẳng hạn, sứ giả này đã lớn lên trong một thị trấn khá nhỏ tại Đan mạch nơi cả gia đình ông đã sinh trưởng. Thân nhân của ông vẫn sống ở đó và sẽ chết ở đó. Họ không bao giờ nảy ra ý tưởng là họ có thể dời đi một thành phố khác để tìm việc làm tốt hơn. Họ chỉ có thể mường tượng những loại công việc có sẵn nơi chôn nhau cắt rốn của họ. Đơn giản, việc dọn đi xa hay đi học hay làm một nghề gì khác không phải là cách nhìn cuộc sống mà họ đã được dạy dỗ. Nhưng con cũng thấy, tất nhiên, có nhiều người khác không ngại di chuyển, không ngại tìm cầu học vấn ở mức cao hơn và do đó họ cũng đã xoay sở để có được công việc tốt hơn. Con thấy là đối với con ở mức này, con cần phải có chút tin tưởng để nhìn vào tình trạng của mình và tự hỏi: “Có thật là có những cơ hội mà hiện thời tôi chưa thấy được vì có gì đó trong thái độ của tôi đang ngăn chặn không cho chúng hiện ra? Tôi không đang nghĩ là mình có khả năng làm được chuyện này.”

Một lần nữa, con lại có thể nhìn vào tuổi thơ ấu của sứ giả này khi ông có ước mơ trở thành một nhà văn. Khi ông lớn lên, người ta bảo ông: “Con không thể nào làm nghề viết văn tại Đan mạch mà kiếm đủ sống, vì chẳng có bao nhiêu người biết đọc tiếng Đan mạch.” Đó không nhất thiết là một lời nhận định hoàn toàn thiếu thực tế, mặc dù một số nhà văn tại Đan mạch đã xoay sở để kiếm đủ sống từ nghề cầm bút. Dù sao đi nữa, sứ giả này đã làm gì? Ngay từ khi còn bé, ông luôn luôn cảm nhận mạnh mẽ là mình cần học tiếng Anh. Thế là nhờ biết viết tiếng Anh mà trong một thời gian ông đã có thể kiếm sống như một nhà văn.

Thày không đang bảo là con phải làm y như thế, nhưng con cần nhìn nhận là khi con lớn lên, con đã khoác vào một số tin tưởng từ gia đình con, từ môi trường chung quanh, từ xã hội của con. Vấn đề không phải là có những thứ con xem là bất khả thi, mà con chỉ không xem chúng là khả thi. Thậm chí con không nghĩ chúng là chuyện có thể, và ai nấy chung quanh con cũng không nghĩ chúng là có thể.

Đây là điều mà con có thể khởi sự xem xét ngay bây giờ và nhận ra là có thể có những cơ hội ở ngoài kia trong cõi vật lý, đã sẵn thị hiện trong cõi vật lý. Con chỉ cần hòa nhập với chúng rồi sau đó con cần sẵn lòng vươn theo đó và thay đổi. Điều này có thể áp dụng trong rất nhiều khía cạnh đời con, chẳng hạn như trong các mối quan hệ, nơi con sinh sống, cách sống của con, sự học tập và giáo dục của con, sự nghiệp của con. Rất rất nhiều người thời nay có nhiều hơn là một sự nghiệp trong một đời người. Một khi họ ra trường hay tìm được việc làm, họ không bị khóa chặt trong cùng một công việc suốt 40 năm trước mặt. Quả thực, xã hội đã trở nên lỏng hơn. Mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, có tâm lỏng hơn, có cách suy nghĩ linh hoạt hơn rất nhiều so với thế hệ trước.

Thày chỉ yêu cầu con, trong cương vị một học trò tâm linh ở tầng khai ngộ này, nhìn lại một lần nữa những thứ gì mà con có trong tâm nơi tâm con không được lỏng, không được linh động. Con cho là có một số lằn ranh, một số giới hạn mà con không thể vượt qua. Vậy thì con cần chất vấn các giới hạn đó và khởi sự bước đi xa hơn. Đây là một bước rất thực tiễn, rất khả thi. Vượt xa hơn nữa, tất nhiên là thày muốn con vượt xa hơn nữa. Thày muốn con bắt đầu chất vấn chính cách nhìn của con về thực tại vật lý. Thày vừa nói với con làm thế nào con có thể làm được chuyện đó, là bằng cách nhìn xa hơn tầng cấp những thứ mà con đặt tên.

12.13. Tầng thâm sâu hơn của thực tại

Con cần nhìn ra là vượt quá những thứ đó còn có một tầng cấp thâm sâu hơn của thực tại – những sóng năng lượng, những mô thức giao thoa, những tín hiệu bật-tắt, những cái chấm. Đúng thực là con có thể tự đào tạo bản thân để đạt tới mức con thấy được – ít nhất là thấy thoáng hiện và không nhất thiết một cách vật lý – hay con cảm nhận được rằng mọi sự vật con nhìn thấy chung quanh mình là không rắn đặc, không cứng nhắc và bất khả chuyển đổi. Chúng chỉ là những cách biểu đạt của tầng mức năng lượng lỏng bên dưới đó mà thôi. Sau đó con có thể đi thêm một bước và nhìn nhận: “Điều gì khiến cho mọi chuyện ở mức vĩ mô có vẻ là vật tách biệt? Nếu chúng thực sự không tách biệt – như các khoa học gia đã chứng minh rất nhiều lần là không có gì tách biệt, mà mọi thứ đều nối kết với nhau – thì tại sao chúng lại có vẻ tách biệt?”

Chúng có vẻ tách biệt bởi một lý do duy nhất mà thôi. Chính tâm con đã chồng cái hình ảnh đó lên trên chúng. Chính tâm con đã khiến chúng dường như tách biệt. Con đã bị lập trình để nghĩ chúng là những thực thể khách quan, chúng là những vật tách biệt, nhưng kỳ thực không phải vậy. Không có nơi nào trong vũ trụ có vật tách biệt. Tất cả mọi sự vật đều là thành phần của bản chất thuần nhất của thực tại, tấm thảm của sự sống. Một khi con bắt đầu nhập vào và hòa điệu với nó, con sẽ nhận ra, như thày đã bảo con, rằng tất cả đều là tạo vật của tâm.

Các Elohim đã tạo ra hành tinh, và tập thể loài người đã tạo ra rất nhiều trong số các điều kiện hiện hành trên hành tinh, nhưng tất cả đều là những tạo vật của tâm. Có nghĩa là từ một nhãn quan nào đó, không hề có vật nào không thể được tâm thay đổi. Câu hỏi đặt ra là: “Tâm nào?” Có một số thứ chỉ có thể được thay đổi bởi một tâm ở tầng mức Elohim. Có một số thứ không thể thay đổi ở tầng mức tâm con người. Tuy vậy, có rất rất nhiều thứ hơn nữa có thể được thay đổi ở tầng mức tâm con người, nhiều hơn là đa số con người có thể chấp nhận.

Đó là điều thày yêu cầu con khởi sự chất vấn, vì việc thay đổi hoàn cảnh vỏ ngoài của con có hai khía cạnh. Có khía cạnh alpha và khía cạnh omega. Omega là khi con thu hút về phía con những điều kiện đã có sẵn trong cõi vật lý. Con thu hút việc làm đó, con thu hút người phối ngẫu đó trong mối quan hệ. Con thu hút, con trở thành một thỏi nam châm.

Làm thế nào con trở thành một thỏi nam châm? Một lần nữa, con cần khắc phục cảm nhận tách biệt. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là ngay cả khái niệm nam châm cũng tăng cường cho cảm nhận tách biệt vì con xem nam châm như một vật khách quan đang thu hút một vật khách quan khác. Nhưng dù sao thày vẫn muốn sử dụng hình ảnh từ trường ở đây để cho con thấy là có một số điều kiện đã sẵn thị hiện trong cõi vật lý. Con chỉ cần phát hiện ra chúng, từ hóa chúng về phía con, từ hóa chính con về phía chúng, để hấp dẫn chúng về phía con, và hấp dẫn con về phía hoàn cảnh đó.

Không phải là chuyện tạo ra một cái gì chưa sẵn có trong cõi vật lý, mà là chuyện khám phá và nhận ra rằng chính tư duy mà con có ngay bây giờ đang ngăn cản con khám phá cái sẵn ở đó. Đây là khía cạnh omega của việc cải thiện hoàn cảnh của con, khía cạnh omega của thị hiện.

Bây giờ, khía cạnh alpha là khi con thị hiện một cái gì đang không có mặt trong cõi vật lý – chuyên này nghe có vẻ bí hiểm, thậm chí thần diệu, nhưng nó thật không thần diệu đến như vậy. Thày đã nói điều gì là một trong những mục tiêu mà thày mong muốn con đặt ra cho mình? Đó là con trở thành một người có khả năng tiếp nhận một tư tưởng từ thày sẽ giúp thị hiện Thời Hoàng kim. Con hãy nhìn sứ giả này một lần nữa. Tất cả những cuốn sách mà ông đã viết đều nhận linh hứng từ cõi thăng thiên. Ông đã thị hiện một cái gì chưa hiện diện trong cõi vật lý trước đây. Tất nhiên, đây không phải là cách duy nhất để thị hiện nhưng thày chỉ muốn đưa ra một ví dụ cho con.

Không có gì thần bí hay thần diệu gì trong đó. Đơn giản đó chỉ là chuyện nhận được một ý tưởng từ cõi thăng thiên mà con đưa xuống qua ba tầng cao của tâm con cho đến khi nó thị hiện ở tầng vật lý. Việc làm này không quá sức tất cả các con. Thày không đang đặt ra cho con một mục tiêu vượt quá khả năng của con cũng như những gì con có thể bắt đầu làm ở mức tâm thức hiện thời của con. Tất nhiên là thày không đề ra cho con mục tiêu thị hiện vàng bạc từ hư không, bởi vì con không thể làm chuyện đó ở mức tâm thức hiện thời của con. Thật ra, hầu hết những ai ở mức tâm thức đủ cao để thực hiện, sẽ không chọn làm chuyện đó vì nhiều lý do khác nhau. Ở đây thày đang trao cho con một mục tiêu thực tiễn về những gì khả thi, những gì con có thể thực hiện bằng cách khởi sự xoay chuyển viễn quan của mình, xoay chuyển cách mình nhìn cuộc sống.  

12.14. Con đồng sáng tạo hoàn cảnh của con

Con yêu dấu, thày đã trình bày về bộ máy giả thực tại, và vũ trụ vật chất là một bộ máy giả thực tại. Cho tới tầng tâm thức hiện thời của con, đã không có sự cần thiết để con chất vấn cách vận hành cơ bản của máy giả thực tại. Nhưng giờ đây, con cần làm một cuộc chuyển đổi nho nhỏ và đơn giản là nhận ra điều mà thày đã nói với con, tức là địa cầu không thực sự giả dạng thực tại, mà chính tâm con mới giả dạng thực tại. Chính tâm con tạo dựng cảm nhận thực tại đó khiến khi con nhìn sự vật, con sẽ nói: “Đây là một con sư tử, đây là một con hươu cao cổ” rồi con nghĩ cái đó có một thực thể khách quan. Con chỉ đặt tên cho cái đang ở đó.

Con cần nhận ra là con không chỉ đặt tên cho cái đã sẵn ở đó, mà con còn đồng sáng tạo. À, thày biết là con sắp sửa nói (và đây là một câu hỏi hữu lý): “Nhưng chẳng phải là đã có sẵn một số thứ không do tâm con tạo ra hay sao?” Tất nhiên là có. Thày đã giải thích là các Elohim đã tạo ra địa cầu và tập thể loài người đã tạo ra rất nhiều những thứ khác mà con thấy trên trái đất. Có những thứ đã có sẵn ở đó rồi. Con có thể nói là nếu con lìa đời ngay lúc này và không còn hiện thân thì sư tử và hươu cao cổ sẽ không biến mất khỏi châu Phi. Tất nhiên là chúng không biến mất. Điều thày muốn nói là những thứ khách quan, những thứ đang hiện diện trong tâm con, không phải là những thứ quan trọng đối với con.

Thày sẽ nói là những con sư tử và hươu cao cổ kia không phải là thực thể khách quan theo nghĩa các nhà khoa học thường dùng. Chúng vẫn được tạo ra bởi một cái tâm, chúng vẫn là tạo vật của tâm, chỉ có cái là không phải tâm con. Điều thày nói ở đây là: Đúng vậy, có một số thứ ở ngoài kia không do tâm con tạo ra, nhưng hoàn cảnh cá nhân của con, ngay cả hoàn cảnh vật lý của con, là do tâm con đồng sáng tạo. Tâm con đã không toàn bộ tạo ra nó bởi vì, một lần nữa, những hoàn cảnh vỏ ngoài đó cũng được người khác tạo ra, vân vân và vân vân. Con đang sống trong một bộ máy giả thực tại chịu sự ảnh hưởng của nhiều người khác, nhưng chắc chắn có những khía cạnh trong hoàn cảnh cá nhân của con là do tâm con đồng sáng tạo.  

Con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điểm này thật cẩn thận – đây không phải là chuyện con nhìn một cái gì đã sẵn ở đó trước khi con nhìn, mà có một số khía cạnh trong hoàn cảnh cá nhân của con được đồng sáng tạo do hành động nhìn của con. Chính bằng cách nhìn chúng mà con thực sự tạo ra những hoàn cảnh đó. Có thể con không tạo ra mọi khía cạnh của tình huống đó, nhưng con tạo ra một số khía cạnh ảnh hưởng đến cá nhân con. Cách con trải nghiệm cuộc sống được đồng sáng tạo trong bốn thể phàm của con.

Như các thày đã nói nhiều lần, điều gì là điều duy nhất mà con có quyền năng thay đổi? Đó là chính tâm con, bốn tầng của tâm con. Con có quyền năng thay đổi cái đó, bất kể các chọn lựa của người khác và bất kể các điều kiện vỏ ngoài. Khi con thay đổi cách con nhìn cuộc đời, một số khía cạnh trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con sẽ thay đổi. Tại sao vậy? Làm sao thày nói được điều này khi nó ngược hẳn với mọi điều con đã được dạy dỗ để mà tin theo? Bởi vì thày là một chân sư thăng thiên, con yêu dấu, và thày đã thăng thiên bằng cách khắc phục ảo tưởng mà thày đang cố giúp con khắc phục, cụ thể là sự tách biệt giữa tâm và vật chất.

12.15. Thay đổi trải nghiệm về cuộc sống

Con thấy đó, con yêu dấu, như thày đã nói trong bài giảng trước, thời tiết ở Nam cực không thành vấn đề khi con ngồi đây trong căn phòng ấm áp này. Điều quan trọng đối với con là trải nghiệm của con về môi trường chung quanh, trải nghiệm của con về đời con. Điều đó mới quan trọng với con. Để hội đủ tư cách thăng thiên, con không cần phải thay đổi tình trạng vật lý trên trái đất. Điều duy nhất con cần phải thay đổi để hội đủ điều kiện thăng thiên là những điều kiện bên trong bốn thể phàm của con.

Điều duy nhất con cần phải thay đổi để có một trải nghiệm tích cực hơn về cuộc sống so với trải nghiệm của con ngay bây giờ, là các điều kiện bên trong bốn thể phàm của con. Có một câu thành ngữ phổ biến trong các cộng đồng Thời mới, đó là: “Khi con thay đổi cách con nhìn vật, thì vật mà con nhìn sẽ thay đổi.” Câu đó không nhất thiết là thực tế tuyệt đối (theo nghĩa là con có thể thay đổi mọi thứ) nhưng như thày nói, trong hoàn cảnh cá nhân của con, có những thứ mà con có khả năng thay đổi bằng cách thay đổi cách con nhìn chúng.

Bây giờ con đang ở tầng khai ngộ mà đó là bước kế tiếp của con. Con cần nhận chân nó, nhìn nhận nó, và như vậy con bắt đầu xem xét mình đang nhìn mọi vật như thế nào, mình nhìn đời mình như thế nào, mình nhìn mọi điều kiện như thế nào.

Con hãy nhìn nhận là bất kể các điều kiện vỏ ngoài có thế nào, bất kể người khác, bất kể thời tiết tại Nam cực có thế nào, vẫn có một điều gì mà con có thể khởi sự thay đổi ngay bây giờ, và điều đó chính là cách con nhìn cuộc sống. Con có thể bắt đầu chuyển rời khỏi cái nhìn vật tách biệt. Con có thể bắt đầu nhìn xa hơn hình ảnh rắn đặc đó. Con có thể bắt đầu nhìn ra là tất cả đều nối kết, tất cả đều lỏng, và tại sao nó lỏng chứ?

Làm thế nào bộ máy giả thực tại của địa cầu sản xuất ra tất cả những hiện tượng đó mà giác quan bảo con đó là những vật tách biệt, rắn đặc? Máy giả thực tại trên địa cầu có bốn tầng – bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý. Tầng vật lý là gì? Đó là một màn hình. Có một hình ảnh được chiếu lên màn hình. Làm cách nào hình ảnh đó được chiếu lên màn hình của thế giới vật lý? Nó được chiếu lên do trong cõi bản sắc có một hình ảnh được hình thành, định ra những thông số tổng quát, một khung sườn toàn bộ nào đó. Xong nó được chiếu vào tầng lý trí nơi nó trở nên cụ thể hơn, chi tiết hơn. Xong nó được chiếu vào tầng cảm xúc nơi nó nhận được động lực, thôi thúc, xung lực năng lượng biến nó thành vật lý.

Thày cần con bắt đầu xoay chuyển tâm con một cách ý thức cho đến chỗ con nhận ra là bất cứ gì con nhìn thấy cũng không là một thế giới khách quan đang hiện hữu ở ngoài kia. Bất cứ gì con thấy đều là sự phóng chiếu trên một màn hình những hình ảnh đang hiện hữu ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Hoàn cảnh của con ngay bây giờ có một số khía cạnh không được tạo ra bởi bốn thể phàm của con, như thày đã nói nhiều lần. Nhưng có những khía cạnh khác của hoàn cảnh đó không là gì hơn sự phóng chiếu trên màn hình thế giới vật lý của những hình ảnh mà con mang trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. Những hình ảnh này, con có quyền năng khởi sự thay đổi. Con không thể búng tay thay đổi tất cả những hình ảnh đó cùng một lúc, nhưng con có thể khởi sự thay đổi chúng. Khi con làm vậy, một số khía cạnh trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con sẽ thay đổi. Chúng sẽ thay đổi, con yêu dấu.

Nếu cần, con hãy bước vào một rạp chiếu phim và nhìn lên màn hình. Con sẽ thấy khi không có phim đang trình chiếu, nó chỉ một màu trắng tinh, không có hình gì trên đó. Con sẽ thấy là bất kể bộ phim nào con đặt vào máy chiếu, hình ảnh đó cũng sẽ hiển thị trên màn ảnh. Nếu con thay đổi hình ảnh, thay đổi cuộn phim nơi ba thể cao của con, con sẽ thay đổi hình ảnh được trình chiếu trên màn hình vì hình ảnh đó không bền lâu, và tự thân nó không có thực tại khách quan nào. Đó là một hình ảnh được chiếu lên màn hình của thế giới vật lý và nó được chiếu rất rất nhiều lần mỗi giây. Ánh sáng chỉ đơn giản chiếu rọi qua cuộn phim trong ba cái tâm cao của con. Khi con thay đổi cuộn phim thì con sẽ thay đổi những gì được trình chiếu trên màn ảnh. Không có cách nào khác, con yêu dấu.

Thày biết điều này trái ngược với mọi thứ con đã được dạy dỗ và tin tưởng khi lớn lên. Đương nhiên là trái ngược rồi. Đó chính là toàn bộ mục đích của khóa tu này: thay đổi để con không bị kẹt trong những điều con đã được dạy dỗ phải tin vào. Bởi vì nếu thế, con nhất định sẽ không thể thăng thiên sau kiếp này, vì sa nhân đã làm mọi cách để lập trình tâm thức tập thể rằng thăng thiên là chuyện bất khả thi.

Trong cốt lõi, đó chính là điều mà các thày đã làm ngay từ bài học đầu tiên của Chân sư MORE trong khóa tu này. Đã đến lúc con cần bước lên và thực sự chất vấn cách con nhìn thực tại và nhận ra một số khía cạnh trong hoàn cảnh của con chỉ là sự phóng chiếu của những hình ảnh con đang cầm giữ, những gì con nghĩ là khả thi, những gì con nghĩ là có thể thay đổi, những gì con nghĩ là không thể thay đổi.

12.16. Vật được duy trì bởi tâm

Con yêu dấu, con có thấy điều thày nói ở đây? Con đã bị lập trình để tin rằng có những khía cạnh trong hoàn cảnh của mình có một thực tại khách quan bên ngoài tâm con. Chúng là những điều kiện vỏ ngoài định đoạt những gì con có thểkhông thể làm. Thày đã nói với con: “Con là một sinh thể tâm linh. Các điều kiện vật lý không quy định được con.” Cái gì quy định con chứ? Những hình ảnh trong chính tâm con, đó là cái quy định con. Liệu con có thể thay đổi một số điều kiện ngoại cảnh hay không? Không, vì chúng được tạo ra bởi một cái tâm khác tâm con. Nhưng con có khả năng thay đổi những khía cạnh trong hoàn cảnh của con mà tâm con đã tạo ra.

Tại sao có một số điều kiện cứ duy trì mãi trong thời gian? Là vì trong ba thể cao của con vẫn còn một cuộn phim mà ánh sáng chiếu rọi qua. Ánh sáng sẽ khoác vào hình dạng đó và cái đó được chiếu lên màn hình. Chừng nào con chưa đi vào ba thể cao và thay đổi những gì con tin là khả thi, con sẽ tiếp tục phóng chiếu hình ảnh đó, và nó sẽ khoác vào những gì con tưởng là tình huống ngoại cảnh đang giới hạn con.

Giới hạn chỉ hiện hữu trong tâm con mà thôi (không phải trong mọi trường hợp trong đời con nhưng trong nhiều trường hợp, nhiều khía cạnh của đời con). Con không nhìn ra là có một cách khác để nhìn. Thật ra có hẳn một cơ hội mới, có hẳn một khả năng khác để kết đọng một cái gì mà hiện thời con cho là bất khả thi.

Có những điều con không thể thay đổi trong cương vị một con người. Có những điều con không thể thay đổi ở mức tâm thức hiện tại của con. Con có thể nâng cao tâm thức mình và thay đổi chúng. Nhưng có những điều mà con có khả năng thay đổi ở mức tâm thức hiện thời của con. Điều duy nhất ngăn cản con thay đổi chúng là con đang có một niềm tin hay một chương trình trong tiềm thức khiến con nghĩ việc thay đổi là bất khả thi. Đó chính là điều con cần chất vấn ở tầng khai ngộ thứ năm này tại khóa nhập thất của thày.

Liệu sự chuyện đổi này có dễ thực hiện hay chăng? Không, con yêu dấu! Nó không dễ. Nếu con dõi nhìn con ngay lúc này, con sẽ thấy một phản ứng trong con, một cảm giác nhẹ nhõm khi con nghe thày nói vậy. Có một phàm linh nội tại, một ngã tách biệt trong con không muốn con phá vỡ hàng rào đó và thoát ra khỏi giới hạn đó – bởi vì khi đó nó sẽ chết. Sự chuyển đổi sẽ không dễ dàng nhưng đó là một chuyển đổi khả thi ở mức khai ngộ hiện thời của con.

Đó là tại sao Chân sư MORE đã không bắt con phải đối mặt với vấn đề này ở ngay tầng đầu của khóa tu này, nhưng giờ đây con có khả năng thực hiện cuộc xoay chuyển đó. Khi con bắt tay vào việc, con sẽ nhận thấy con sẽ tin một cách dễ dàng hơn rằng một số khía cạnh trong hoàn cảnh vật lý của mình có thể thay đổi thực sự.

Con sẽ tin dễ dàng hơn rằng mình có thể nhận được một hiểu biết mới, một sáng ngộ mới, một viễn quan mới, một ý tưởng mới về cách thay đổi một điều gì đó trong đời sống cá nhân (hay ngay cả thực hiện một điều gì sẽ giúp thị hiện Thời Hoàng kim của thày) bằng cách thay đổi một điều gì đó mà con nhìn thấy trong thế giới bên ngoài.

Đó là những gì thày muốn trao cho con qua bài học này. Như luôn luôn, bài học rất dài, nhưng khi chúng ta ngày càng đến gần hơn với tầng 96, tất nhiên các khai ngộ, theo một nghĩa nào đó, sẽ tinh tế hơn, gai góc hơn, cho nên đòi hỏi nhiều giải thích hơn một chút. Thày cảm ơn con đã chú ý theo đõi và thày rất mong sẽ trao cho con bài học tới.

Chào mừng con đến máy giả thực tại địa cầu

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 13/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain, và trong bài thứ tư tại khóa nhập thất của thày, chúng ta sẽ sử dụng Tia thứ Tư của Thuần khiết hay Gia tốc. Thày có ý định thanh tẩy điều gì chứ? Cái nhìn của con về cõi vật chất, cõi vật lý, vũ trụ vật lý.

Con yêu dấu, thày đã có giảng là tất cả mọi thứ được làm bằng vật chất, mà vật chất thực sự được cấu tạo bằng những hạt nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa xuống tận đến năng lượng. Thật sự năng lượng là gì? Năng lượng có thể so sánh với một thứ mà con dùng trong công nghệ máy tính là tín hiệu bật-tắt. Bất cứ gì đều hoặc bật hoặc tắt, chỉ có điều là, tất nhiên, năng lượng cấu tạo vũ trụ vật chất phức tạp hơn so với thiết bị máy tính. Cho tới nay, trình độ hiện thời của ngành tin học còn rất thô sơ vì nó dựa trên số nhị phân, tức chỉ có thể có hai tín hiệu, hoặc bật hoặc tắt.

10.1. Màn hình bật-tắt của vũ trụ vật chất

Hệ thống mà con gặp trong thực tế không chỉ có hai trạng thái bật và tắt. Nó có một trạng thái bật và một trạng thái tắt, nhưng trạng thái bật không chỉ bật thôi, mà nó có thể khoác vào bảy sắc thái hay bảy màu sắc khác nhau tùy theo bảy tia sáng. Nói cách khác, con hãy tưởng tượng vũ trụ vật lý được tạo bằng một màn hình – đây là cách dễ nhất để con hình dung. Ánh sáng Mẫu-Vật hình thành một màn hình. Bình thường, màn hình này trống không – hay đúng hơn, bình thường nó không trống không, nhưng trước khi bất cứ gì được sinh tạo, trước khi trái đất được sinh tạo thì màn hình còn trống không. Sau đó các Elohim đã áp lên màn hình một số khuôn đúc, khiến cho những chấm nhỏ đó bật lên, và chúng bật lên với màu sắc của mỗi tia trong số bảy tia sáng. Thế là con có một màn hình với những chấm nhỏ đó mang màu sắc theo bảy tia.

Tất nhiên con cần hiểu, điều thày đang giải thích ở đây là một biểu diễn tượng trưng không hoàn toàn chính xác trong cái nhìn đường thẳng. Cách trình bày này đã được điều chỉnh cho thích hợp với mức tâm thức hiện thời của con hầu con nắm bắt được với hình ảnh, với hiểu biết con đang có về vũ trụ. Khi con tiến hơn đến tầng 144, thày không muốn con nghĩ đây là cách hiểu tối hậu về cách vận hành của vũ trụ, vì tất nhiên con sẽ có thể đạt tới những trình độ hiểu biết ngày càng thâm sâu hơn.

Dù sao thì cho bài giảng này, con hãy tưởng tượng con đang ở trong một căn phòng tựa như một quả bán cầu. Hình cầu giống như một mái vòm bên trên, và bên trong hình cầu từa tựa như một màn hình tivi gồm có rất nhiều những cái chấm có thể bật hay tắt, có nghĩa là người ta có thể hiển thị ra tuyệt đối bất cứ hình ảnh nào con có thể tưởng tượng được. Con hãy nhận ra đây là cách vũ trụ vận hành trên hành tinh địa cầu. Đây là cách hành tinh địa cầu được tạo ra. Các Elohim đã tạo ra bằng cách bật lên tất cả những tín hiệu nhỏ bé đó và cho chúng một màu sắc tùy theo mỗi tia trong số bảy tia sáng. Điều này không có nghĩa là tất cả mọi thứ con nhìn thấy trên trái đất, kể cả các biểu hiện mất cân bằng, được tạo bằng những màu sắc thuần khiết của một trong bảy tia sáng hay sự phối hợp của bảy tia sáng. Bởi vì bảy tia sáng cũng có dạng tha hóa, và tất nhiên, những dạng tha hóa này được dùng để tạo ra những biểu hiện mất cân bằng mà con thấy ngày nay.

10.2. Địa cầu là một bộ máy giả thực tại

Mục đích thày cho con minh họa này là để giúp con thấy trái đất chỉ đơn giản là một màn hình có khả năng hiển thị nhiều hình ảnh khác nhau. Thày không nói trái đất có thể hiển thị bất kỳ hình ảnh nào vì các Elohim đã chọn ra một khuôn đúc nhất định cho địa cầu, nhưng trong phạm vi khuôn đúc này, trái đất có khả năng hiển thị những hình ảnh rất đa dạng. Có nghĩa là trái đất có khả năng hiển thị những sự mất quân bình hiện tại mà con thấy, nhưng nó cũng có cùng khả năng hiển thị trạng thái hài hòa đã có mặt trước khi loài người bước xuống nhị nguyên và trước khi sa nhân đến đây. Nó cũng có thể hiển thị một trạng thái còn cao hơn cả thời đó, cao hơn những gì có mặt khi các Elohim sinh tạo địa cầu. Hiển nhiên, ý định là con người đồng sáng tạo sẽ nâng hành tinh lên cao hơn trạng thái nguyên thủy, và quả thực các dòng sống trong ba lượt sóng đầu tiên đã làm được việc đó.

Điều này thật sự có nghĩa là gì? Có nghĩa là con có thể đặt ra câu hỏi: “Liệu trái đất có phải là một thế giới thực hay không?” Thày biết chúng ta đã có đề cập sơ đến vấn đề này trong bài giảng đầu của thày nhưng bây giờ thày quay trở lại vì con đã có thời gian để nghiền ngẫm ý tưởng này. Thực tế mà con đi đến là trái đất không phải là một thế giới thực. Vậy trái đất là gì chứ? Chúng ta có so sánh nó như cái mà ngày nay con gọi là một bộ máy giả thực tại (reality simulator). Hẳn con cũng đã nghe nói đến máy mô phỏng hay máy giả bộ lái máy bay (flight simulator). Chắc hẳn con cũng từng có một trình mô phỏng máy bay trên máy tính của con. Màn hình máy tính hiển thị những gì con thấy từ buồng lái của phi công khi con cất cánh, đang bay hay hạ cánh. Con có nhiều loại máy mô phỏng khác, như cặp kính thực tế ảo mà ngày nay con có thể đeo vào và có cảm giác như mình đang ở trong một thế giới hoàn toàn khác lạ.

Điều thày muốn con suy ngẫm với tâm ý thức (vì con đã có nhìn và trải nghiệm điều này tại khóa nhập thất của thày) là sự kiện vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là một bộ máy giả thực tại. Điều này thật sự có nghĩa gì? Trước hết, có nghĩa là bất cứ gì con nhìn thấy trên địa cầu không phải là thế giới thực, nó chỉ được mô phỏng, nhưng nó không được mô phỏng để hiện ra như là đồ mô phỏng, mà nó được mô phỏng để hiện ra như là thực. Con có thể đi xem chiếu phim và con cũng biết màn hình xi-nê có khả năng chiếu bất cứ phim gì. Con thừa biết là dù con đang xem phim gì trong rạp, phim con đang theo dõi không là thế giới thực. Tất cả là tạo dựng, tất cả là giả vờ. Con biết rõ điều đó vì con đã bước vào rạp chiếu phim, và con cũng biết điều đó vì khi con bước ra ngoài rạp, con lại nhìn thấy thành phố quen thuộc của con chứ không phải một ngôi làng nhỏ của dân cao bồi miền Viễn Tây xứ Mỹ.

Bây giờ con hãy tưởng tượng con sinh ra trong rạp chiếu phim, con lớn lên trong rạp và con chưa bao giờ bước ra khỏi rạp. Con hoàn toàn mù tịt mọi thứ bên ngoài rạp, và đó chính là hoàn cảnh của con làm người đầu thai trên địa cầu. Con đã sinh ra trong bộ máy giả thực tại; không những vậy, con đã từng sống trong bộ máy đó suốt nhiều kiếp trước. Khi con sinh ra đời, con không có khung tham chiếu nào để biết là bên ngoài máy có bất cứ gì. Con không biết đây là một bộ máy giả thực tại thì làm sao con có thể đặt thành vấn đề? Con không có gì để mà so sánh. Tất cả những gì con đã thấy và đã trải nghiệm là cảnh giả dạng.

Có thể con đã có những cảm giác trực quan bên trong dựa trên một tiền kiếp, có lẽ đi ngược trở về thời con mới đến hành tinh như một avatar, hay như một cư dân nguyên thủy của địa cầu khi con đã trải nghiệm trái đất trong một trạng thái thuần khiết hơn. Có thể con có nội cảm là nhất định có chuyện gì đó không ổn, nhất định phải có một cái gì khác, nhất định một thế giới phải có một cách sống nào khác hơn. Thậm chí có thể con cảm thấy là mình không thực sự thuộc về nơi đây, rằng đây không phải là môi trường thực sự của mình, rằng đúng lý mình không được ở đây, cùng rất nhiều cảm giác khác giống như vậy mà người tâm linh có thể có. Rất có thể là vì con có những cảm giác đó mà con đã trở thành một người tâm linh đang tu học giáo lý tâm linh này. Sâu thẳm bên trong, con biết là vượt khỏi vũ trụ vật chất còn có cái gì đó, con cảm nhận là phải có một thế giới tâm linh, phải có những sinh thể trong một thế giới tâm linh, và phải có cách tương tác với những sinh thể đó, và đây chính là điều con đang làm ngay bây giờ. Con có thể có những cảm nhận này và điều thày yêu cầu con làm là nắm lấy nó để dùng làm khung tham chiếu khi con nhìn địa cầu. Và giờ đây, con nhận chân trong tâm ý thức của con: “Giản dị đây chỉ là một cái máy giả thực tại.”

10.3. Tại sao máy giả thực tại có vẻ thực

Một khi con bắt đầu suy ngẫm ý tưởng này và nhận được sự xác nhận trực giác đó thật là một ý tưởng đúng đắn, con có thể đi bước kế tiếp. Bây giờ con có thể tự hỏi: “Tại sao máy giả thực tại địa cầu lại có vẻ thực?” Các thày đã cho con một lời giải thích về điểm này rồi. Các thày có nói là có 144 tầng tâm thức, và khi con đi xuống địa cầu lần đầu, hiện thân lần đầu trên địa cầu, con khởi sự ở tầng 48. Các thày cũng nói là khi con xuống đầu thai, con đã khoác vào một ảo tưởng ở mỗi tầng từ 144 xuống đến 48. Nói cách khác, cho mỗi tầng trong số 144, có một ảo tưởng nhất định mà con cần giải quyết, một bí ẩn, một câu đố nhất định mà con cần giải đáp trước khi con được giải thoát khỏi tầng đó.

Để đi xuống tầng 48, con đã khoác vào một ảo tưởng ở mỗi tầng tâm thức từ 144 đến 48, và chính những ảo tưởng này khiến cho địa cầu có vẻ như thế giới thực. Tất nhiên, nếu con bước xuống thấp hơn cả tầng 48 (cho đến tầng tâm thức thấp nhất), con sẽ khoác thêm nhiều ảo tưởng nữa, và chúng sẽ khiến cho ảo tưởng một địa cầu thực càng có vẻ thực hơn nữa – tức là cái thế giới hiện ra cho giác quan và tâm vỏ ngoài của con.

Con đã vươn lên khá gần với tầng 96 và giờ đây chúng ta đối diện với một tầng tâm thức khác hẳn vì con đã rũ bỏ rất nhiều những ảo tưởng đó. Đó là tại sao con cần, ở mức ý thức, đi thêm một bước này là nhận diện địa cầu như là một bộ máy giả thực tại. Con cũng cần nhận ra một hiểu biết thâm sâu hơn về cách làm thế nào địa cầu giả dạng được thực tại, nhưng ở đay, chúng ta cần giải quyết một vấn đề ngôn từ. Thày vừa nói gì chứ? “Làm thế nào địa cầu giả dạng được thực tại.” Con thấy không, con yêu dấu, địa cầu không giả dạng thực tại. Đây là một ý tưởng mà con thực sự cần suy ngẫm để nó ghi chặt trong tâm ý thức của con.

Địa cầu không phải là một vật sống đang làm chuyện gì đó hay đang có ý định gì đó. Cho dù một số nền văn hóa có phóng chiếu thế nào – rằng thiên nhiên là một vật sống và thiên nhiên có tâm thức, một điều mà thày không phủ nhận – trong khuôn khổ cuộc khai ngộ này, điều thày muốn con chú tâm vào là sự kiện địa cầu là một màn hình. Ánh sáng Mẫu-Vật là một màn hình. Nó hiển thị bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó. Nó không có ý định, nó không có quan điểm về cách con trải nghiệm những hình ảnh được phóng chiếu như thế nào. Nói cách khác, địa cầu không làm gi con. Nó không điều khiển, khuynh loát tâm con. Trong máy giả thực tại không có gì đang khuynh loát tâm con.

Vậy làm thế nào địa cầu giả dạng được thực tại? Nó không giả dạng gì hết! Vậy cái gì đang giả dạng thực tại? Tâm con. Bốn thể phàm của con giả dạng thực tại. Ý niệm thực tại mà con đã từng có về thế giới ngay đây trên trái đất hoàn toàn là một sản phẩm của tâm con. Đây là ý tưởng then chốt mà con cần lãnh hội, không những ở tầng này mà con cần giữ vững ý tưởng này với con cho tới tuốt tầng 144, vi đây là ý tưởng sẽ chuyên chở con đến tầng 144.

Con sẽ cần đối phó với điều gì khi con lên cao hơn tầng 96? Phải, con sẽ đối phó với một mức khai ngộ khác hơn so với những tầng dưới. Dưới tầng 96, con tập trung chủ yếu vào bản thân, con nhìn mọi thứ từ một nhãn quan nhất định, tụ quanh chính con. Có rất nhiều câu hỏi mà con không thể đặt ra hay nghĩ đến ở dưới tầng đó. Khi con đến tầng 96, như thày đã nói, cuộc khai ngộ then chốt sẽ là: Liệu con sẽ tiếp tục tập trung vào bản thân hay là con sẽ tập trung vào tổng thể?

Để vượt qua những ảo tưởng đó (đang lôi kéo con chú tâm vào bản thân), con cần giữ vững trong tâm ý tưởng rằng địa cầu không giả dạng thực tại, mà bất kỳ cảm nhận hay quan điểm về thực tại mà con có liên quan đến địa cầu, là sản phẩm của một ảo tưởng trong tâm con. Đây là một ý tưởng cốt yếu, tuyệt đối cốt yếu – nếu có gì có thể tuyệt đối đến như vậy trong một bộ máy giả thực tại. Tuy nhiên, một điều tuyệt đối về máy giả thực tại, và điều đó là: Tuyệt đối không có gì là thực. Có nghĩa là tuyệt đối không có gì có thể chặn đứng sự tăng triển tâm linh của con, ngăn cản sự tăng triển tâm linh của con, kềm hãm con ở lại trong một ảo tưởng – ngoại trừ những gì xảy ra trong tâm con. Không có gì tuyệt đối trong máy giả thực tại ngoại trừ cái tin tưởng, ảo tưởng, mà con không sẵn lòng chất vấn.

10.4. Nhà tù ở trong tâm con

Nếu có một ảo tưởng trong tâm mà con không sẵn sàng chất vấn – vì con nghĩ là nó không cần chất vấn, con không được phép chất vấn hay con nghĩ nó thực – thì đó chính là cái tuyệt đối sẽ giữ con lại ở mức đó một cách vô hạn định, ít ra cho đến khi một điều gì xảy ra làm tan vỡ ảo tưởng. Tất nhiên, thày cần con nhìn nhận là một ảo tưởng không bao giờ tuyệt đối. Nó là một ảo tưởng. Nó không thực. Nó không có bất kỳ tính chất lâu dài nào. Nó không có tuổi thọ, không có hiện hữu ngoại trừ trong tâm. Chính tâm con gán thực tại cho những gì con thấy trên địa cầu. Thày cần con suy ngẫm điều này và thày mong muốn con lấy một quyển sổ và ngồi xuống với bài thỉnh. Con hãy học bài giảng trước, xong đọc bài thỉnh đi kèm với giảng này, rồi sau khi con đọc xong bài thỉnh, con hãy tự động ghi xuống bất cứ gì trên trái đất có vẻ là thực đối với con. Thày muốn con làm việc này mỗi ngày trong vòng chín ngày mà con học bài tập này, ít nhất chín ngày (hoặc nhiều hơn nếu con học nhiều hơn, và thày thật sự khuyên con làm nhiều hơn).

Con sẽ thấy là có một sự tuần tự khi con làm bài tập này. Trước hết, con sẽ khám phá ngày càng nhiều thứ hơn mà con cho là thực. Con cũng sẽ nhận ra là khi con làm bài tập, một số thứ mà con xem là thực sẽ tan biến mất. Không phải mọi thứ sẽ tan biến vì con sẽ không nhảy ngay lên được tầng 144 (và thày không yêu cầu con làm chuyện đó, thày không chờ đợi con sẽ làm chuyện đó). Điều thày yêu cầu con làm là nhận ra, giờ đây khi con đến mức này, con đã khắc phục được một số ảo tưởng so với khi con mới khởi sự khóa tu này. Con hoàn toàn có thể khắc phục một ảo tưởng về bản thân để vươn lên tầng tâm thức kế tiếp mà vẫn chưa thật sự đưa nó vào cách con nhìn thế giới. Nói cách khác, con có thể nâng tâm thức bằng cách thay đổi tâm con, nhưng vẫn còn một cái nhìn tổng quát nào đó về cuộc sống mà con chưa chất vấn. Điều thày yêu cầu con làm trong bài tập này là khởi sự chất vấn một cách ý thức cái nhìn của con về thế giới và những gì con cho là thực bên trong máy giả thực tại.

10.5. Tự ngã khiến mọi thứ có vẻ thực

Con yêu dấu, các thày đã từng đàm thoại với con và ban ra những lời dạy rất thâm sâu về tự ngã con người. Con có thể nói, máy giả thực tại “thật sự” đó là tự ngã của con vì chính tự ngã khiến cho mọi thứ có vẻ thực. Thêm vào đó, con yêu dấu, nó còn khiến cho mọi thứ có vẻ quan trọng nữa: cái đó quan trọng, cái đó mang ý nghĩa.

Điểm này có liên hệ đến lời dạy mà các thày đã ban về tâm thức nhị nguyên. Tất cả mọi ảo tưởng mà thày đang nói tới cho đến tầng 144 đều dựa trên tâm thức nhị nguyên và cảm nhận tách biệt. Con sẽ không hoàn toàn khắc phục được ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt cho tới khi con đập vỡ bí ẩn cuối cùng ở tầng 144, nhưng chắc chắn con có thể xích lại gần hơn rất nhiều với viễn kiến mình là môt sinh thể hợp nhất với Tất Cả.

Một điều khác (mà các thày đã nói đến dông dài) cũng xuất phát từ tâm thức nhị nguyên và tự ngã, là tư duy cuồng đại, tư duy cho rằng có cái gì đó tối hậu với tầm hệ trọng cuồng đại. Nhiều học trò tâm linh đã khoác lấy tư duy này và đưa nó vào giáo lý đã giúp họ tìm ra đường tu tâm linh. Nhiều học trò của chân sư thăng thiên đã làm vậy với các giáo lý của chân sư, đặc biệt trong Thời đại Song ngư và những tổ chức mà các thày đã có thể đỡ đầu vào thời đó. Những ai chưa vượt qua được các khai ngộ của Thời đại Song ngư vẫn còn nhu cầu cảm thấy công việc mình làm là hệ trọng một cách cuồng đại và – nếu có thể nói như vậy – họ cho rằng họ đang cứu nguy thế giới cho thày Saint Germain để đưa thế giới vào Thời Hoàng kim, Thời đại Bảo bình.

Nhiều người tâm linh và Thời mới khác cũng đã làm tương tự, và con thấy nhiều nhóm Thời mới dạy thành viên ý tưởng rằng mọi chuyện họ làm là quan trọng cuồng đại. Thày không đang hạ thấp những gì họ làm là không quan trọng, nhưng điều thày yêu cầu con làm ở tầng khai ngộ này là bắt đầu chất vấn thật sự, ở mức ý thức, tư duy cuồng đại đó. Tại sao thày yêu cầu điều này? Vì lý do rất giản dị là mục đích của thày là dạy con cách thị hiện, cách kết đọng, những hoàn cảnh tốt đẹp hơn cho bản thân con và hành tinh – trong vật chất. Nó đòi hỏi ta thay đổi vật chất. Con yêu dấu, làm thế nào con có được những hoàn cảnh vật chất tốt đẹp hơn nếu con không thay đổi vật chất? Làm thế nào con thay đổi được vật chất bằng tâm nếu con nghĩ vật chất không thể thay đổi và những gì xảy ra trong vật chất hệ trọng đến độ nó có thể ảnh hưởng đến con, một sinh thể tâm linh?

10.6. Cái bẫy cuồng đại nuốt hết chú ý của con

Con chẩng thấy sao, con yêu dấu, là có hai khía cạnh, hai mặt với mỗi đồng tiền? Trong nhị nguyên luôn luôn có hai mặt. Tư duy cuồng đại làm gì con? Nó cho con cảm nhận là tất cả những gì con làm đều hệ trọng, rằng chính con hệ trọng. Đâu là mặt kia của đồng tiền, đâu là cái giá con phải trả khi cảm nhận một điều gì là hệ trọng? Đó là con cũng nghĩ có một số điều kiện trong thế giới vật chất mà con không thể thay đổi. Con có thể ngồi đó (và có nhiều học trò tâm linh ở trong đúng tình cảnh này, kể cả nhiều học trò của chân sư thăng thiên) và cảm thấy mình rất quan trọng nhưng đó là một cái lồng mạ vàng.

Con cảm thấy mình quan trọng nhưng con bị đánh bẫy trong lồng và sa nhân đã đặt con vào đúng nơi chúng muốn. Con không ở nơi mà thày muốn vì thày muốn con tự do. Thày muốn con ra khỏi lồng và đó là điều thày nhắm dạy con trong khóa tu này. Trong bài học này, chúng ta khởi sự bằng cách chất vấn cảm nhận thực tại của con.

Con nghĩ các điều kiện trong vật chất là thực. Chẳng hạn – để cho con một ví dụ thô thiển – nếu chúng ta đi ngược trở lại một vài thập niên trước, con nghĩ là tại Liên Xô có những người “ở bên kia” đang chống đối tự do của con nơi các xứ Tây phương. Con nghĩ họ là mối đe dọa cho toàn thế giới và tự do của toàn thế giới. Con cảm thấy mặc dù con sinh ra ở phương Tây nhưng con không thể chỉ hưởng thụ tự do mình đang có ở phương Tây vì ngày mai tự do này có thể không còn nữa. Con phải gia nhập cuộc chiến đấu cuồng đại chống lại Liên Xô và điều này nuốt trọn hết thời giờ cũng như sự chú ý của con. Khi con làm vậy, con cảm thấy mình rất rất quan trọng, nhưng nếu như con đã sử dụng tự do con có không để giao chiến với người khác mà để làm việc trên bản thân mình và khắc phục ảo tưởng của mình thì sao? Nhiều người bị mắc bẫy trong cuộc đấu tranh cuồng đại này nơi họ phải thay đổi một điều gì đó.

Bây giờ con hãy áp dụng điều này vào một học trò của chân sư thăng thiên, và các thày đã thấy chuyện này cứ lặp đi lăp lại hoài. Các học trò của chân sư đã lý luận: “Việc khắc phục một số điều kiện trong vật chất là quan trọng một cách cuồng đại hầu chúng ta bước vào Thời đại Hoàng kim.” Cách họ có thể đóng góp là đọc bài chú mấy tiếng đồng hồ mỗi ngày. Một lần nữa, không phải chuyện này không quan trọng và không có kết quả trên người đọc bài chú bài thỉnh, nhưng vấn đề là đối với nhiều học trò, nó đã trở thành một cái cớ. Họ tập trung quá sức vào việc thực hiện công việc tối quan trọng kia đến độ họ không còn chú ý sót lại để chú tâm vào việc giải quyết những vấn đề trong tâm lý họ.

10.7. Vươn lên con đường quả vị Ki-tô

Con yêu dấu, không bao giờ ý định của các thày là khiến cho một học trò tìm ra giáo lý của chân sư thăng thiên ở tầng tâm thức thứ 60 chẳng hạn, đề rồi khi người đó tu tập giáo lý, vươn lên tới tầng 65 mà lại quyết định: “À bây giờ tôi phải tập trung vào chuyện đọc tất cả những bài chú này để cứu nguy hành tinh cho Saint Germain.” Xong người đó ngừng ở đó. Suốt 20 năm trời, người đó đọc thật nhiều bài chú nhưng không nâng được tâm thức mình lên vì đã không nhìn vào bản thân và vượt qua ảo tưởng của mình. Đây không phải là ý định của các thày. Làm vậy sẽ không thực hiện được tiềm năng của giáo lý bởi vì nó không giúp cho con người tiến gần hơn đến việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Cũng có thể việc đọc chú và đọc thỉnh nằm trong Sứ vụ của họ, nhưng không tới mức lấn át hết mọi khía cạnh khác của Sứ vụ Thiêng liêng.

Con thấy đó, con yêu dấu, ngay bây giờ chúng ta đang ở điểm nơi các thày cần con bước lui lại khỏi tất cả những chuyện đó và nhận ra (tất nhiên hầu hết các con đã nhận ra được điều này trong khóa học này) rằng chìa khóa để tinh tấn là làm việc trên bản thân, nhìn vào bản thân, khắc phục ảo tưởng. Điều con cần nhìn ngay lúc này là: “Tại sao tôi nghĩ một số thứ là thực?” Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói: Đương nhiên là có sa nhân trên hành tinh nơi bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất. Có nhiều người ở một mức tâm thức thấp hơn đang khởi xướng, bành trướng, gia tăng cuộc giao tranh giữa mình và người khác. Và phải, cuộc giao tranh này có nguyên một con quái vật toàn cầu không ngừng tìm cách lôi kéo hành tinh vào nhiều xung đột hơn và nhiều hơn nữa.

Tuy nhiên đối với con, câu hỏi đặt ra là: “Ý nghĩa chuyện này đối với con là gì?” Không phải là ý nghĩa đối với con ở 10 hay 15 hay 20 tầng tâm thức thấp hơn mức con đang đứng, mà ý nghĩa đối với con ngay trong lúc này? Liệu việc tiếp tục giao tranh cuồng đại có tầm quan trọng cuồng đại cho con hay không? Hay điều quan trọng cho con là con khắc phục các ảo tưởng mà thày đang cố giúp con khắc phục hầu con vươn lên tầng 96 và vượt quá cả tầng 96, là khi con ngừng tập trung vào chính mình để cất bước đi trên con đường quả vị Ki-tô và quả vị Phật dẫn đến tầng 144? Đó là điều mà trong tâm thày mới là quan trọng.

10.8. Chất vấn cái nhìn của con về đường tu tâm linh

Hy vọng của thày là qua những khai ngộ này tại nhập thất của thày, đó cũng là điều quan trọng nhất cho con trong tâm ý thức. Có nghĩa là con cần bắt đầu chất vấn tất cả mọi thứ, kể cả cái nhìn của con về đường tu tâm linh. Cái gì đã dẫn con đến điểm con đang đứng, cái gì đã giúp con? Con đã nhìn đường tu như thế nào? Con đã chú tâm vào những thứ vỏ ngoài hay không? Những thứ đó có vẻ quan trọng với con hay không? Liệu chúng đã có vẻ quan trọng một cách cuồng đại đối với con hay không?

Con thấy đó, con yêu dấu, đúng thật là có những sa nhân trên hành tinh nhưng đối với một học trò tâm linh đang bước trên đường tu, việc chúng có mặt ảnh hưởng đến con như thế nào? Sa nhân muốn làm gì chứ? Chúng muốn kéo con ra khỏi con đường quả vị Ki-tô. Như các thày đã có nhắc nhiều lần, việc tham gia vào cuộc giao tranh nhị nguyên với sa nhân không phải là con đường quả vị Ki-tô mà nó sẽ kéo con ra khỏi con đường đó.

Cho dù con nhập cuộc giao tranh nhị nguyên với sa nhân bằng cách chiến đấu với vũ khí vật lý hay chiến đấu với bài chú và bài thỉnh, con vẫn đã nhập vào cuộc giao tranh. Để con vượt quá khai ngộ ở tầng 96, con cần tháo gỡ mình ra khỏi giao tranh. Điều thày nói là như sau: “Giao tranh cuồng đại có thực hay không?” Phải, điều này tùy theo con định nghĩa thực tại là thế nào. Nó thực theo nghĩa là trên hành tinh sa nhân. Có một tâm thức tập thể nào đó. Có nhiều người ở các tầng tâm thức thấp hơn. Chuyện đó có thực theo nghĩa là một điều kiện tạm thời đang hiện hữu. Nhưng nó không thực theo nghĩa là nó có chút vĩnh hằng nào. Nó không hiện hữu mãi mãi. Đó là một điều kiện tạm thời nhưng nó có mặt trong lúc này.

Câu hỏi là: “Liệu sa nhân có bất kỳ thực tế thực nào hay không? Liệu các điều kiện trên địa cầu có bất kỳ thực tế thực nào hay không?” Chúng có mặt ở đây nhưng chúng nhất thời. Nếu chúng chỉ nhất thời thì điều này có nghĩa gì cho con? À, vậy con là ai, con là ? Con có phải là một con người đang bước trên đường tu tâm linh? Hay con là một sinh thể tâm linh đang bước trên con đường khai ngộ do bộ máy giả thực tại có tên là địa cầu cống hiến? Tất nhiên, con là một sinh thể tâm linh. Có nghĩa là gì? Có nghĩa, con yêu dấu, là những điều kiện đang có mặt nhất thời trên địa cầu ngay lúc này không hề có quyền năng thay đổi Tánh linh của con.

Các thày đã nói điều này bao nhiêu lần rồi! Cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, có nghĩa là nó không thể bị bất cứ gì trên địa cầu thay đổi vĩnh viễn. Thật ra, thậm chí bất cứ gì trên địa cầu cũng không thể thay đổi cái Ta Biết một cách tạm thời, nhưng tất nhiên, cái Ta Biết có thể khoác vào những ảo tưởng sẽ tô màu cách nó nhìn thế giới. Con đã làm gì chứ? Con đã khoác vào một số ảo tưởng. Một lần nữa, không có trách cứ gì ở đây, không có sai trái gì trong chuyện này, đó là một phần của trải nghiệm sống trong máy giả thực tại. Trước tiên, con trầm mình vào trong đó, rồi sau đó con tỉnh ngộ. Con đang ở trong tiến trình tỉnh ngộ và đã đến lúc, ở tầng khai ngộ này, con tỉnh ngộ khỏi ảo tưởng rằng vật chất có ảnh hưởng trên con, một sinh thể tâm linh.

10.9. Vật chất không thể thay đổi một sinh thể tâm linh

Giọng nói của thày đang cường độ, con yêu dấu. Nó không giận dữ. Thày không đang giận con. Thày không đang bắt lỗi con. Thày chỉ đang đơn giản gia tốc tâm thức con để con dễ dàng hơn có được cái bật sáng, cái trải nghiệm “à ra thế” ở mức ý thức mà con đã từng có ở những tầng cao hơn tại nhập thất của thày, hầu con trải nghiệm thực tại của những điều thày nói. Bước đi mà con cần đi bây giờ là nhìn nhận một cách ý thức rằng không có một điều kiện nào trong vật chất có khả năng thay đổi con như một sinh thể tâm linh. Tại sao điều này quan trọng đến thế? Bởi vì làm thế nào con có thể thay đổi vật chất nếu con nghĩ vật chất thay đổi con?

Sa nhân muốn con nghĩ gì? Chúng muốn con nghĩ (ngay cả khi con nghĩ mình là một sinh thể tâm linh) là con đã đi vào thế gian này và con đã mắc phải một lỗi lầm mà con sẽ không bao giờ lật ngược, hóa giải được. Con bị mắc kẹt ở đây mãi mãi do lỗi lầm này. Con là một kẻ có tội, con đã phạm vào chuyện này và con sẽ không bao giờ vượt qua được. Có thể con đã đến đây như một sinh thể tâm linh nhưng nay con ở đây thì con đã làm một chuyện thay đổi bản chất sinh thể tâm linh của mình, và do đó con sẽ không bao giờ thoát khỏi nơi đây. Chừng nào con còn tin vào ảo tưởng đó, con sẽ không bao giờ thoát khỏi cuộc giao tranh với sa nhân. Đâu là khung tham chiếu của con về thực tại tối hậu trên trái đất? À, khung tham chiếu của con là sa nhân cùng những lời gian dối mà chúng đã bắt loài người phải chịu đựng suốt hàng ngàn, hàng triệu năm trời.

Điều thày muốn, điều mà tất cả các Thượng sư đều muốn, là khung tham chiếu của con, hệ tham chiếu của con, là các chân sư thăng thiên, hầu con biết những giáo lý và trải nghiệm mà các thày có thể ban cho con trực tiếp nơi tim là thực tại tối hậu. Trải nghiệm mà tất cả các thày muốn trao cho con là con là một cái Ta Biết. Con là nhận biết thuần khiết, có nghĩa là khi con trải nghiệm mình là nhận biết thuần khiết, không có gì trên địa cầu quan trọng nữa, không có gì trong vật chất quan trọng nữa [chơi chữ trong Anh ngữ: nothing in matter matters]. Vật chất không quan trọng. Nó đã không thay đổi được con là ai.

Cho dù mọi thứ có là gì trong vật chất, chúng không thể thay đổi con, và do đó một cách tối hậu, chúng không quan trọng đối với con. Con yêu dấu, con thấy đó, tại sao con lại cảm nhận bất cứ gì trên trái đất có thực tại đó? Đúng vậy, vì con đã khoác vào một ảo tưởng, nhưng ảo tưởng đó là gì? Ảo tưởng đó bảo rằng có một điều kiện nào đó trong vật chất quan trọng đối với con. Nhưng tại sao một cái gì có thể quan trọng đối với con? Bởi vì con nghĩ là nó quy định được con. Nó quy định con là ai, con có thể làm gì và không thể làm gì. Nó hạn chế con. Nó đánh bẫy con. Nếu không thì đâu có quan trọng gì?

10.10. Thay đổi nhãn quan

Ngay lúc này con đang ngồi ở một nơi thoải mái, có lẽ trong một căn phòng khá ấm cúng. Bây giờ con thử phóng chiếu con bay tới Nam cực với gió hú và nhiệt độ thấp hơn hẳn điểm đông băng. Con có thể bị đông cứng lại trong vòng mấy phút nếu con ở đó. Các điều kiện đó, con sẽ nói, khá hiện thực phải không? Chúng đang có mặt ở đó nhưng chúng có quan trọng với con không? Không, bởi vì mặc dù chúng có thể thực, chúng không thực ở nơi con ngồi.

Điều thày yêu cầu con làm ở đây là nhìn vào địa cầu, nhìn nơi con đã lớn lên, xã hội, hoàn cảnh nơi con đã khôn lớn. Nhìn vào mọi người và thấy họ đang bị mắc kẹt trong một số điều kiện, xong con nhìn vào những điều kiện đó và nói: “Liệu những điều kiện này còn quan trọng với tôi nữa hay không? Hiển nhiên chúng đã từng quan trọng với tôi khi tôi lớn lên. Tôi đã lớn lên trong môi trường đó, tôi đã có lòng hiếu thảo và đồng cảm nào đó đối với cha mẹ tôi và mọi người quanh tôi, và điều này cũng tự nhiên thôi. Nhưng bây giờ tôi có thể bước lui lại, tôi có thể nhìn vào và nói: ‘Liệu cái đó còn quan trọng với tôi nữa hay không’ khi giờ đây mình là con người mà mình là? Liệu các điều kiện đó có quan trọng không? Vậy liệu tôi sẽ để cho chúng cứ mãi quy định mình, quy định những gì mình nghĩ mình có thể làm hay không thể làm?”

10.11. Lập ra một danh sách

Thày biết thày đang cho con rất nhiều điều để suy ngẫm trong bài giảng này, nhưng đây là Tia thứ Tư của Gia tốc thì thày làm sao khác được? Thày muốn trao cho con thêm một điều nữa. Thày cần con bước lui lại, và một lần nữa điều sẽ ích lợi cho con là con đọc bài thỉnh rồi ghi xuống những gì đến với con sau đó. Thày cần con lui lại và xét xem những điều kiện vật lý nào trong hoàn cảnh nơi con đã lớn lên mà con nghĩ con không thể thay đổi bằng tâm. Sẽ hữu ích nếu con viết ra một danh sách và danh sách này có thể bao gồm một số mục:

  • Danh sách những điều kiện con nghĩ tuyệt đối không thể thay đổi được cho dù có làm gì. Như trong câu ngạn ngữ, không có một quyền năng nào trên địa cầu có thể thay đổi được những điều kiện trên danh sách này.
  • Danh sách những điều kiện có thể thay đổi được nhưng chỉ bằng những phương thức vật lý. Nói cách khác, con có thể nói là con có một thửa đất trống với tiềm năng xây nhà trên đó. Để xây căn nhà này, con phải thực hiện một số công đoạn vật lý như đào móng, đổ bê-tông, xây tường gạch hay dựng sườn gỗ, lợp mái, vân vân và vân vân. Nói cách khác, nó sẽ đòi hỏi lao động thể xác, công nghệ vật lý thì con mới thay đổi được những vật cụ thể đó.
  • Danh sách thứ ba là những thứ mà con nghĩ có tiềm năng thay đổi bằng tâm.

Thày cần con lập ra ba danh sách đó và nhìn vào những điều kiện trong danh sách thứ ba mà con nghĩ có thể thay đổi được bằng tâm. Sau khi con đã nhìn vào những điều kiện có thể thay đổi được bằng tâm, thày cần con làm một danh sách thứ tư, cũng tương tự như danh sách đầu, nhưng đây là danh sách đặc thù những thứ con nghĩ không thể thay đổi được bằng tâm.

Thày cần con lập ra những danh sách đó rồi trong bài giảng tới, thày sẽ hướng dẫn con thêm về cách sử dụng các danh sách này, con sẽ làm gì với chúng, và làm thế nào con kinh qua những xoay chuyển trong tâm sẽ chất vấn cảm nhận thực tại của con. Thày chắc chắn con sẽ nhận ra những thứ con cho là không thể thay đổi bằng tâm, thì đó chính là những thứ mà tâm con đã gán cho cảm nhận thực tại tuyệt đối này. Con yêu dấu, chính cảm nhận thực tại tuyệt đối này đang giam con trong chiếc lồng mạ vàng.

Ngay cả giáo lý tâm linh, thậm chí giáo lý của chân sư thăng thiên, cũng có thể giam con trong một cái lồng mạ vàng nơi con cảm thấy mình nằm trong số những đệ tử tâm linh cao cấp nhất trên hành tinh. Con đang làm những công việc quan trọng cho Saint Germain cho nên con cảm thấy mình quan trọng một cách cuồng đại. Tuy nhiên,  con vẫn đang bị mắc kẹt vì khi con thật sự xem xét thế giới và quan hệ của con với thế giới vật chất, con cho rằng vật chất quy định chính con cho dù con nghĩ mình là một sinh thể tâm linh.

Câu hỏi ở đây là: “Cái gì thực đối với con?” Lý do tại sao câu hỏi này quan trọng là bởi vì những gì con nghĩ là thực và những gì con nghĩ là không thể thay đổi, đó chính là cái quy định con. Nó quy định cái nhìn của con rằng con là một sinh thể đang đầu thai vật lý trên địa cầu. Nó quy định cái nhìn của con về chính con. Con có thể xem mình là một sinh thể tâm linh nhưng con vẫn xem con là một sinh thể tâm linh trong vũ trụ vật chất. Con có một cảm nhận nào đó về cách con quan hệ với vũ trụ vật chất, những gì con có thể làm và không thể làm, và cái đó quy định con.

Thày cần con bắt đầu chất vấn cái đang quy định con, vì để lên cao hơn, con cần ngừng không cho các điều kiện vật chất đó quy định con. Thay vào đó, con tìm ra một cách mới để quy định mình như một sinh thể trong cõi vật chất.

Yêu Sứ vụ Thiêng liêng hơn là mơ mộng

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 12/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain. Đây là tầng khai ngộ thứ ba ở khóa nhập thất của thày, tương ứng với Tia thứ Bảy của Tự do và Tia thứ Ba của Tình thương. Tự do và tình thương, hiển nhiên, không có nghĩa là yêu đương tự do như nhiều người diễn giải vào những năm 1960 trở về sau, mà có nghĩa là chúng ta cần nhìn vào tình thương, và đối nghịch của phản-tình-thương, trong quan hệ của con với cõi vật lý, cõi vật chất, cõi của Mẹ. Trong bài giảng vừa rồi, thày có nói là thày mong muốn giảng về cách làm thế nào con đem lại hài hòa giữa đời sống tâm linh và đời sống thực tiễn hàng ngày của con. Đây là một đề tài rất quan trọng cho mọi người tâm linh, đặc biệt khi chúng ta ngày càng bước sâu hơn vào Thời đại Bảo bình.

8.1. Sự phân chia giữa sinh hoạt tâm linh và sinh hoạt hàng ngày

Con yêu dấu, khi con nhìn ngược trở về 2000 năm qua trong thế giới phương Tây, con sẽ thấy là các giáo hội Cơ đốc đã lập ra một lằn ranh tương đối rõ rệt giữa cái mà con có thể gọi là đời sống tâm linh (hay ít ra đời sống tôn giáo) và đời sống thực tiễn hàng ngày. Công bằng mà nói, chuyện đó đã xảy ra phần nào là vì ai nấy đã phải làm lụng thật vất vả để kiếm sống. Con không thể chờ đợi người ta có thể làm việc mười tiếng một ngày mà còn đủ sự chú ý hay sức lực để quan tâm đến chuyện tâm linh. Cứ sáu ngày mỗi tuần, họ đã phải làm lụng mà không thể thật sự để ý tới bất cứ gì tâm linh hay tôn giáo, cho nên họ chỉ có một ngày để đi lễ nhà thờ.

Tuy nhiên hệ quả của sự thể này là trong tâm thức tập thể ở phương Tây, nó đã tạo ra một sự phân biệt rất rõ ràng giữa cái mà con gọi là cuộc sống bình thường hàng ngày và một cuộc sống tôn giáo hay tâm linh. Có rất rất nhiều người nghĩ rằng nếu họ đi lễ nhà thờ vào ngày Chúa nhật, nếu họ xưng tội, nếu họ tham dự Thánh lễ và thắp nến, thì sau đó họ có thể bước ra và sống cuộc đời bình thường theo cách họ muốn trong sáu ngày kia. Theo nhiều cách, họ đã phần nào mặc cả với Thượng đế khi họ nói: “Lạy Chúa, nếu con dành ngày Chúa nhật cho ngài thì ngài hãy cho con sáu ngày còn lại để con làm những gì con muốn. Vậy ngày Chúa nhật tới đây, con sẽ lại đến nhà thờ, lại xưng tội, và con sẽ được tha thứ mọi chuyện con đã làm trong tuần.”

Rất rất nhiều người tâm linh, đặc biệt từ những năm 1960, đã ngộ ra trong nội tâm là cách phân chia rõ rệt như thế giữa “đời và đạo” – nếu có thể nói như vậy – không còn chính đáng nữa khi chúng ta bước sang một thời đại mới. Chúng ta cần tìm một cách nhìn khác về khía cạnh tâm linh và khía cạnh thực tiễn của cuộc sống. Đây là một thử thách to lớn cho nhiều người tâm linh và tất nhiên, nó đã đòi hỏi mỗi người thử nghiệm nhiều cách khác nhau.

8.2. Sự thù ghét cõi của Mẹ

Điều chúng ta cần nói đến trước tiên là sự kiện nhiều người tâm linh đã tạo dựng một loại mộng mơ thiếu thực tế về thế nào là sống tâm linh. Dĩ nhiên, mỗi người mỗi khác, và mỗi nhóm trong các phong trào tâm linh hay Thời mới cũng đã tạo ra biến thể riêng của mình về ý nghĩa của một đời sống tâm linh. Trong số những cách nhìn đó, có một điểm chung là viễn kiến của họ đều dựa trên một thái độ nhất định đối với cõi vật chất. Tất nhiên, đây cũng là một vấn đề đã có mặt từ lâu, không những trong truyền thống đạo Cơ đốc ở Tây phương mà ngay cả ở phương Đông trong các truyền thống đạo Phật và đạo Ấn. Đây là một con quái vật rất mạnh mẽ trong tâm thức tập thể mô tả vật chất như là kẻ thù của sự phát triển tâm linh.

Con yêu dấu, đây hoàn toàn là một ảo tưởng do sa nhân tạo dựng. Thật không có cách nào khác để mà diễn đạt. Đó hoàn toàn là một ảo tưởng, do các sa nhân cố tình tạo ra hầu ngăn cản điều mà chúng coi là mối đe dọa to lớn cho quyền cai trị của chúng trên địa cầu. Con thấy đó, con yêu dấu, điều mà sa nhân đã làm là chúng đã tạo ra sự tách biệt này vì chúng ở trong tâm thức tách biệt, cho nên chúng không thể nào nhịn nổi chuyện tạo ra tách biệt. Chúng đã tạo ra tách biệt giữa những nhóm sa nhân khác nhau, một nhóm chủ ý nắm quyền kiểm soát tôn giáo cùng đời sống tôn giáo, và một nhóm chủ ý nắm quyền kiểm soát đời sống thế tục. Đó là tại sao con có một sự tách biệt ngay đó. Trên cơ bản, chúng bảo là nếu con vâng lời các sa nhân nắm kiểm soát tôn giáo vào ngày Chúa nhật, thì con cũng vâng lời các sa nhân nắm kiểm soát đời sống thế tục vào sáu ngày còn lại.

Thái độ này dựa trên sự kiện là tự thân các sa nhân thù ghét vật chất, chúng thù ghét cõi của Mẹ, tức là cõi vật chất. Chúng thù ghét như vậy chỉ vì vật chất đem lại hậu quả cho chúng, và chúng thì rất ghét hậu quả. Sa nhân thù ghét hậu quả. Nhiều sa nhân tin rằng nếu chúng thật sự có quyền tự quyết thì chúng phải có khả năng lấy bất kỳ chọn lựa nào mà không phải đối mặt với hậu quả.

Hiển nhiên, như các thày đã từng đề cập, nhiều người tâm linh đã phần nào khoác vào thái độ đó, và chuyện này thật là không thực tế. Các thày đã nói rồi: Nếu con làm một sự chọn lựa mà không bị hậu quả vật lý nào, thì làm sao con biết con đã chọn lựa đây? Nếu con không trải nghiệm một hậu quả, làm thế nào con có thể dựa theo đó mà điều chỉnh trạng thái tâm mình? Và nếu con không thể điều chỉnh trạng thái tâm con, làm thế nào con tăng triển được đây?

Con thấy không, đối với sa nhân, tăng triển không phải là mục đích của cuộc sống vì từ rất lâu chúng đã từ chối tăng triển, từ chối tự thăng vượt. Mục đích của chúng là gầy dựng cho bản thân một địa vị quyền thế ưu đãi rồi bám lấy địa vị đó mãi mãi. Con thấy ở đây, mục đích của sa nhân hoàn toàn khác với mục đích của người tầm đạo chân chính. Vậy thì có nghĩa lý gì mà con, một người tầm đạo tâm linh, lại có thái độ đối với cõi vật chất giống như sa nhân?

8.3. Tại sao người tâm linh không ưa vật chất

Tất nhiên, các thày hiểu rõ tại sao quá nhiều người tâm linh lại có thái độ đó. Đó là vì con đã trải nghiệm những hậu quả, hay đúng hơn, con đã trải nghiệm những điều kiện vô cùng khắc nghiệt, khó chịu, trong cõi vật chất.

Các thày có giảng dạy về các avatar đã đến địa cầu và thường bị sa nhân hiếp đáp tàn nhẫn, thậm chí còn bị tra tấn, giết hại tàn bạo ngay trong kiếp đầu tiên. Đây không phải là một hậu quả trực tiếp của một hành vi của con, bởi vì con đã không làm sa nhân bất cứ điều gì. Đó là một hậu quả của sự chọn lựa mà con đã lấy khi con quyết định đến một hành tinh gian nan như trái đất nơi sa nhân có tầm ảnh hưởng to lớn như vậy. Như con thấy, đó không phải là một hậu quả trực tiếp mà là một hậu quả gián tiếp.

Lẽ tự nhiên, trên một hành tinh như trái đất với quá nhiều bạo lực và đấu tranh như thế này, sự kiện con người nảy sinh gần như một nỗi thù ghét, hay ít ra một niềm oán giận, đối với cõi Mẹ hay cõi vật chất, là một chuyện vô cùng dễ hiểu. Chính cõi vật chất đã trải bày những hậu quả rất khắc nghiệt, khó chịu đó ra. Trong nhiều trường hợp, chính cơ thể vật lý đã cho con nỗi đau dữ dội này, và đương nhiên, cơ thể vật lý được cấu tạo bằng vật chất. Một lần nữa, các thày đã nhắc đi nhắc lại điều này rất nhiều lần: Không có lỗi gì từ phía con. Sự kiện bao nhiêu người tâm linh mang lòng oán giận này đối với cõi vật chất, hay cõi vật lý, cõi của Mẹ, là một điều hoàn toàn thông cảm được. Nhưng giờ đây con đã đạt tới một điểm trên đường tu của con, trong khoá học này, khi đã đến lúc con nhận ra là mặc dù phản ứng của con thông cảm được, thái độ đó không còn xây dựng nữa (thật ra nó chưa bao giờ xây dựng).

8.4. Sự oán giận vật chất ngăn chặn việc đồng sáng tạo

Con yêu dấu, điều gì mà thày vừa nói nằm trong mục tiêu của thày ở đây? Đó là giúp con kết đọng, giúp con thị hiện một hoàn cảnh tốt đẹp hơn cho con. Mục tiêu của thày qua bảy tầng khai ngộ này là để giúp con thị hiện một hoàn cảnh nơi con có sự hài hòa hơn giữa cái nhìn tâm linh của con về cuộc sống và hoàn cảnh thực tiễn hàng ngày của con. Làm sao thày làm được điều đó nếu con oán giận vật chất? Để có hài hòa giữa cuộc sống tâm linh và thực tiễn, một cái gì đó phải thay đổi trong vật chất, đúng không con? Nếu một cái gì đó phải thay đổi trong vật chất, con yêu dấu, điều này có nghĩa là con phải làm việc với vật chất thay vì cưỡng chống lại vật chất. Con phải ngừng cưỡng chống vật chất. Con phải ngừng cưỡng chống cõi Mẹ! Con phải ngừng nhìn vào các điều kiện trên địa cầu và tự nhủ (ít ra là trong tiềm thức): “Ồ, nếu điều kiện khác hơn thì sau đó tôi sẽ có thể sống một cuộc đời tâm linh hơn, sau đó tôi sẽ có thể cảm thấy an bình trên trái đất, sau đó tôi có thể hạnh phúc trên hành tinh này.”

Con thấy đó, con yêu dấu, quá nhiều người tâm linh mà con thấy trên địa cầu (trong mọi loại phong trào, dù là tôn giáo truyền thống, tâm linh, Thời mới hay bất cứ gì khác, ngay cả những người không tham gia vào phong trào nào) có thái độ này: “Ước gì vật chất thay đổi thì thái độ của tôi sẽ có thể thay đổi.” Chẳng phải toàn bộ mục đích của khóa học tự điều ngự này là để giúp con nhận ra vật chất chỉ có thể trải bày những gì được phóng chiếu lên nó hay sao? Nếu có gì phải thay đổi ở đây thì sự thay đổi đó phải bắt đầu trong tâm. Như thày đã nói, mọi hiện tượng vật chất đã khởi đầu trong một cái tâm nào đó. Nếu có điều gì cần thay đổi trong tâm liên quan đến hoàn cảnh của con, thì tâm đó là tâm của ai? Chẳng phải là tâm của con hay sao? Liệu con có quyền năng thay đổi được những cái tâm khác, cho dù là tâm Thượng đế hay tâm của người khác?

8.5. Làm thế nào thay đổi vật chất

Con yêu dấu, con hãy nhìn tín đồ các tôn giáo truyền thống mà xem. Họ đến nơi thờ phượng, họ đi lên bàn thờ, họ quỳ gối trước bàn thờ xong họ cầu nguyện Thượng đế. Trong cốt lõi, họ đang cầu nguyện để Thượng đế thay đổi tâm của ngài: “Kính thưa Thượng đế, xin ngài hãy thay đổi tâm của ngài và cho con một hậu quả khác hơn về những chuyện mà con đang phóng chiếu trong tâm của con.” À, tỷ như con có thể thay đổi được tâm Thượng đế, liệu việc thay đổi tâm con có dễ thực hiện hơn chăng? Con yêu dấu, có nghĩa lý gì mà con, một đệ tử của chân sư thăng thiên, vẫn còn giữ ở đâu đó trong tâm mình cái ý tưởng rằng một ngày nào đó mình sẽ tìm ra công thức bí mật (và có lẽ Saint Germain sẽ trao cho con trong khóa học này về kết đọng) hầu con có thể thay đổi vật chất mà không cần thay đổi tâm? Các thày đã dạy con rồi đó, thày biết rõ, nhưng liệu con có nhập tâm hay chưa? Con có vỡ ra hay chưa? Con yêu dấu, con cần đạt tới điểm nó vỡ ra và con nhận ra là con không thể làm việc với vật chất và thị hiện một hoàn cảnh tốt đẹp hơn trong vật chất mà lại vẫn cưỡng chống, oán giận vật chất – con sẽ chỉ đẩy nó ra xa hơn mà thôi.

Nhiều người trong số các con mang ý tưởng là phải có một cách thần diệu nào đó để thay đổi vật chất. Đúng là có một cách, con yêu dấu. Có một cách thần điệu để thay đổi vật chất, và cách thần diệu đó là sử dụng quyền năng của tâm con. Con không thể sử dụng quyền năng thay đổi vật chất này nếu con oán giận vật chất, nếu con cưỡng lại. Con cần tới điểm con chấp nhận là con đang ở trong vật chất, ở trong cõi vật chất. Con chấp nhận là con ở đây vì con đã chọn ở đây, vì con muốn ở đây.

Thày công nhận là việc đạt đến điểm này không hoàn toàn nằm trong ranh giới hay khuôn khổ mà thày đã định ra cho khóa tu này. Các thày đã có ban lời dạy trong những cuốn sách khác (bắt đầu với cuốn “Những kiếp sống của tôi” và những sách bài tập khác theo sau) sẽ giúp con làm hòa với sự kiện mình sống trong vật chất. Nếu con không xoay chuyển được ngay bây giờ, con sẽ cần dùng những sách đó và làm hòa với sự hiện diện của con ở đây. Một số trong các con sẽ có thể sử dụng những điều thày nói ở đây và làm cuộc xoay chuyển trong tâm mình, qua đó it nhất con sẽ nhận ra được (cho dù con chưa hoàn toàn khắc phục được chấn thương nhập đời, nhưng con vẫn nhận ra được) là con đang có thái độ kháng cự lại vật chất trong tâm. Gần như là con đã quyết định từ chối làm việc với vật chất, hay ít ra con đã từ chối sử dụng tâm mình để làm việc với vật chất. Có thể con có làm việc với vật chất bằng những phương cách vật lý nhưng con không dùng tâm để làm việc với vật chất. Trong nhiều trường hợp, chuyện này liên quan tới sự kiện là trên thế giới có một con quái vật rất lâu đời bảo rằng người tâm linh nên tránh không được giao lưu với vật chất trong đời sống thực tiễn hàng ngày vì như vậy sẽ làm hại đến sự phát triển tâm linh của họ.

8.6. Vật chất không chống lại phát triển tâm linh

Con yêu dấu, con hãy nhìn vào mô hình phổ biến tại phương Đông lẫn phương Tây. Mô hình này cho thấy gì? Tại phương Đông có ý niệm khá quảng bá là những người thật sự tâm linh sẽ rút lên núi Himalaya tu tập. Có một giáo phái mật truyền gồm những vị đắc đạo người Ấn mà không ai từng gặp mặt đang sống nơi những vùng núi hẻo lánh đó, và các vị đang cầm giữ sự cân bằng tâm linh cho hành tinh. Tại Ấn độ, con cũng có truyền thống vô cùng lâu đời của những vị đạo sư thiết lập đạo tràng nơi học trò có thể đến nhập thất, rút lui hẳn khỏi thế gian để sống trong hiện diện của thày mình. Có những thiền viện Phật giáo được thiết lập ẩn khuất, như con thấy ở Tây tạng chẳng hạn có những tu viện được lập ra với chủ ý duy nhất là cống hiến điều mà họ xem là pháp tu tâm linh, trong nhiều trường hợp bỏ hẳn đời sống thực tiễn. Và con cũng thấy một điều tương tự ở phương Tây với các vị tu sĩ và nữ tu trong truyền thống Công giáo. Trong cách nhìn đó, nếu con thật sự là người tâm linh thì con không thể gia nhập vào cuộc sống thực tiễn hàng ngày. Con phải rút lui khỏi thế gian, vân vân.

Một lần nữa, nếu là trong các thế kỷ trước thì điều này cũng chính đáng, bởi vì các điều kiện sinh sống vật lý quá khó khăn, khắc nghiệt, đòi hỏi nhiều lao động về thể xác lẫn sự chú ý của con người. Sau một ngày làm lụng vất vả, ai nấy đều mệt mỏi. Nhưng ngày nay, nền công nghệ mà phần lớn do thày đỡ đầu, đã cho phép con có một cuộc sống rảnh rỗi hơn – nếu con đặt chiếc điện thoại đó xuống và ngừng theo dõi mọi chuyện xảy ra trên Facebook. Nếu con muốn, con có thể chọn lựa là mình có nhiều thì giờ rảnh rỗi hơn, dư dả nhiều khả năng chú ý hơn. Con có thể thấy là công nghệ cùng lối sống hiện đại đã đem lại một bối cảnh nơi con hoàn toàn có khả năng sống một cuộc đời tương đối năng hoạt giữa xã hội mà vẫn phát triển tâm linh tối đa.

8.7. Đời sống tâm linh của Thời đại Bảo bình không ở trong tu viện

Bây giờ con yêu dấu, có lẽ ở đây chúng ta cần phân biệt. Có một số người tâm linh trên địa cầu không thật sự có mối liên hệ gì với thày hay với Thời Hoàng kim mà thày mong muốn đem lại. Những gì thày nói ở đây không áp dụng cho những người đó, nhưng đối với tuyệt đại đa số những ai đang đầu thai lúc này và có sự quan tâm về tâm linh, thì họ có một mối quan hệ nào đó với thày. Vì vậy trong Sự vụ Thiêng liêng của họ (mà chính họ đã thảo ra trước khi đầu thai) có một ý muốn hỗ trợ việc thị hiện Thời Hoàng kim của thày.

Con yêu dấu, nếu con là một trong những người muốn đóng góp đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain thì thày nói với con: Con sẽ không làm được chuyện này bằng cách rút khỏi thế gian để sống trong một tu viện. Thày không bảo là con không thể làm vậy trong một thời gian ngắn, nhưng con sẽ không làm được vậy bằng cách sống một cuộc đời mà nhiều người tâm linh gọi là lối sống tâm linh, là lối sống mà họ thường hình dung khi họ nói chuyện rút lui khỏi thế gian. Quá nhiều người đã tìm cách khởi xướng những phong trào nhằm thiết lập một loại tịnh đường nào đó. Rồi họ kêu gọi người ta đến sống và làm việc, và họ nghĩ đó là lối sống tâm linh, nhưng đó không phải lả mô thức tâm linh trong Thời đại Bảo bình.

Thời đại Bảo bình là thời đại của cộng đồng, thời đại của Thánh linh. Cộng đồng không có nghĩa là con tự cô lập khỏi thế giới và tạo ra một cộng đồng những người tâm linh có cùng niềm tin và sở thích. Cộng đồng có nghĩa là con sống trong cộng đồng rộng lơn hơn. Con dự phần vào đời sống ngoài kia trong thế giới. Trong nhiều trường hợp, con vẫn có công ăn việc làm bình thường nơi con làm việc với người khác. Con phần nào gia nhập vào xã hội. Thời đại Thánh linh có nghĩa là Thánh linh có thể tuôn chảy, không chỉ trong những gì mà truyền thống xem là môi trường tôn giáo, mà trong đời sống hàng ngày bởi vì con ở đó. Con không thể biết được khi nào con có thể là cánh cửa mở khi mình thốt ra một lời nói cho ai đó và lời nói này sẽ giúp người kia nhảy vọt trên đường tâm linh của họ, ngay cả khi họ không có vẻ gì là người tâm linh.

8.8. Phá vỡ rào cản giữa đời sống thực tiễn và tâm linh

Làm thế nào con sẽ đem lại hài hòa giữa đời sống tâm linh và đời sống thực tiễn? Con sẽ chỉ làm được nếu con thay đổi thái độ đối với ý nghĩa của “đời sống tâm linh” và ý nghĩa của “đời sống thực tiễn”. Con sẽ phải phá bỏ những hàng rào cản trong tâm con. Thày đã nói ai tạo ra rào cản đó chứ? Sa nhân. Làm thế nào con sẽ có thể là người tâm linh đích thực nếu con cho phép những rào cản do sa nhân dựng lên tồn tại trong chính tâm mình? Chúng phải ra đi, con yêu dấu.

Con phải tới điểm không còn phân rẽ đó giữa đạo và đời trong tâm con. Con không còn cách biệt nào giữa những gì con xem là sinh hoạt tâm linh và những gì con xem là sinh hoạt thực tiễn. Điều này không có nghĩa là phần nào con có thể tìm ra một lối sống nơi mọi sinh hoạt đều là tâm linh dựa theo mô thức tâm linh của con. Không đâu, con yêu dấu, nó có nghĩa là con cần làm điều mà rất ít người sẵn sàng làm (trong số những người tự xem mình là tâm linh). Con cần phải thay đổi thái độ để ngừng xem các “sinh hoạt tâm linh” là tâm linh. Con phá vỡ toàn bộ khuôn đúc đó đã được dựng lên trong tâm thức tập thể về ý nghĩa sinh hoạt tâm linh.

Không phải là chuyện đi nhà thờ hay đi chùa hay đi nhập thất. Không phải là chuyện tham gia một số sinh hoạt nào đó, như tụng kinh, đọc bài chú bài thỉnh, cầu nguyện, tham thiền, trầm tư, tỉnh giác hay bất kể. Đó không phải là ý nghĩa của sinh hoạt tâm linh trong Thời đại Bảo bình. Trong Thời đại Bảo bình, tất cả mọi thứ đều là sinh hoạt tâm linh – nếu con làm với tư duy xem đó là tâm linh.

8.9. Vượt qua nỗi oán giận vật chất

Con yêu dấu, điều này khởi đầu khi con xem xét, con chân thành và sẵn lòng nhìn nhận là mình đang mang trong tâm một nỗi oán giận đối với vật chất. Một lần nữa, sự kiện con có nỗi oán giận này rất dễ hiểu, và thày không trách con. Thày không đang nói là con không nên có hay con không bao giờ được có nỗi niềm đó. Con yêu dấu, thày không biết làm thế nào con có thể, như một avatar, đến một hành tinh dày đặc như thế này mà không nuôi dưỡng nỗi oán giận đối với vật chất. Không phải thày nói con không bao giờ nên như vậy, mà thày chỉ nói là con cần nhìn nhận là con có nỗi niềm đó và đã đến lúc con thăng vượt nó.

Con thăng vượt bằng cách làm việc trên chính con và thực sự nhìn vào cõi vật chất. Thày đã có nói là con cần nhìn xa hơn các hiện tượng vật chất. Con cần nhận ra vật chất được cấu tạo bằng nguyên tử, phân tử, hạt hạ nguyên tử và sóng năng lượng. Ở đây con cần nhận ra là tất cả mọi hiện tượng vật chất mà con thấy đều thật sự làm bằng chất cơ bản đó.

Con yêu dấu, chất cơ bản đó, mà các thày gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật, không phải là kẻ thù của con. Nó không tìm cách trả đũa con, hãm hại con hay kháng cự con! Khi nào con vượt khỏi tất cả những hình ảnh và khuôn đúc đó được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, thì con mới chạm được Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết. Ánh sáng Mẫu-Vật này không hề cưỡng lại con chút nào. Tự thân Ánh sáng Mẫu-Vật không tách biệt khỏi Tánh linh. Khi con đi xuống và chạm Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết, như cái Ta Biết hoàn toàn có khả năng làm được (nếu con gạt sang một bên thái độ bình thường của con), thì con sẽ thấy Ánh sáng Mẫu-Vật không hề tách rời khỏi Tánh linh. Giữa Mẹ Thiêng liêng và Cha Thiêng liêng không hề có ngăn cách.

Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là ngay cả sự phân biệt giữa cái gọi là khía cạnh “cha” của Thượng đế và khía cạnh “mẹ” của Thượng đế có khuyng hướng tạo ra, hay ít nhất duy trì, một tính chất nhị nguyên nào đó, nhưng cả hai không hề tách biệt. Ánh sáng Mẫu-Vật là một phần nối dài của Cha. Ánh sáng Mẫu-Vật được sử dụng để hình thành hành tinh địa cầu là một phần nối dài của Ánh sáng Mẫu-Vật trong cõi tâm linh, chỉ khác chút xíu về mặt rung động. Dù sao thì, con yêu dấu, điểm quan trọng ở đây là khi con đi xuống Ánh sáng Mẫu-Vật cơ bản đã hình thành địa cầu, Ánh sáng Mẫu-Vật đó có khả năng diễn bày ra bất kỳ hình tướng nào được phóng chiếu lên nó, trong khuôn khổ cái khuôn đúc bao gồm mọi hình tướng khả dĩ mà các Elohim đã thiết lập.

Điều này có nghĩa Ánh sáng Mẫu-Vật có khả năng diễn bày một trạng thái địa đàng trên trái đất cũng dễ dàng y như tình trạng hỗn loạn mà con chứng kiến trên địa cầu. Khi con thực sự suy ngẫm điểm này, con nhận ra Ánh sáng Mẫu-Vật không phải là kẻ thù của con ở đây. Ánh sáng Mẫu-Vật không hề cưỡng lại con, vậy tại sao con lại cưỡng lại chứ – bởi vì con đang cưỡng lại nó trong tâm đó.

Một lần nữa, điều hoàn toàn thông cảm được là con đã đến hành tinh này và đã nuôi lớn niềm oán giận Ánh sáng Mẫu-Vật (hoặc ngay cả nếu con là một cư dân nguyên thủy, một khi con chạm trán với sa nhân và những gì chúng làm với Ánh sáng Mẫu-Vật tạo ra các hậu quả đau đớn đó, thì con cũng nảy sinh lòng oán giận). Một lần nữa, không có chuyện trách cứ gì ở đây, nhưng đã đến lúc con nhìn lại và nhận ra là nếu con thật sự muốn thay đổi hoàn cảnh của mình trong vật chất, thì đâu sẽ là cách duy nhất để con làm được? Đó là con hành động qua trung gian vật chất. Cách duy nhất để thay đổi vật chất là chấp nhận và ôm lấy vật chất, là ngừng oán giận nó, ngừng cưỡng lại nó, ngừng đẩy nó ra xa con.

8.10. Bất nhất trong nhận thức của người tâm linh

Con thấy chăng, con yêu dấu, nhiều người tâm linh mang cái gọi là “bất nhất nhận thức” (cognitive dissonance)? Họ mang một sự mâu thuẫn giữa những gì họ tin và những gì họ làm. Một mặt, con tin là cuộc sống có một phương điện tâm linh, có một thực tại tâm linh, nhưng con vẫn chấp nhận phần lớn lời xuyên tạc của tôn giáo cho rằng có sự phân biệt, hay sự chia cách, giữa vật chất và Tánh linh. Vật chất ở ngay đây, còn Tánh linh thì ở đâu khác, và do đó vật chất không tâm linh.

Khi con thức tỉnh thấy cuộc sống có một khía cạnh tâm linh, dường như trong con có một thành phần cảm thấy dễ chấp nhận Tánh linh. Con ôm lấy, con chấp nhận có một Tánh linh. Có thể con không có khái niệm rõ ràng Tánh linh là gì, hay con chưa có một trải nghiệm trực tiếp, nhưng con cảm thấy mình dễ dàng chấp nhận một số giáo lý tâm linh bảo con Tánh linh là gì và cõi tâm linh như thế nào. Chẳng hạn nhiều người theo Thời mới có lòng tin và sự quan tâm rất lớn đối với thiên thần và họ nghĩ mọi chuyện trên cõi thiên thần đều tuyệt vời.

Đồng thời, con vẫn tin cõi vật chất cách biệt với cõi tâm linh. Con nghĩ, để thay đổi một điều gì đó trong vật chất, con phải đi qua trung gian cõi tâm linh. Bằng một cách nào đó, con phải với tay tới một sinh thể tâm linh có quyền năng thay đổi vật chất, và sinh thể này sẽ có thể thay đổi vật chất cho con. Tên khóa tu này là gì, con yêu dấu? Là khóa tu tự điều ngự! Tự điều ngự không có nghĩa là con tìm được một sinh thể tâm linh giống như một ông thần hay ông Già Nô-en với quyền năng toại nguyện mọi ước muốn của con.

8.11. Khắc phục phàm linh oán giận vật chất

Tự điều ngự có nghĩa là chính con có khả năng thay đổi vật chất, nhưng một lần nữa, con không thể thay đổi vật chất nếu con kháng cự lại nó. Con phải đạt tới điểm con nhìn ra sự kháng cự đó, nhìn ra đó là một phàm linh nội tại hay một ngã tách biệt, và con phải lui ra khỏi nó. Con phải sử dụng những lời dạy này mà thày trao cho con, sử dụng bài thỉnh cho đến khi cái Ta Biết bỗng nhiên bước ra ngoài phàm linh đó, thấy nó là một phàm linh, thấy chính phàm linh đó đã được tạo dựng từ nỗi oán giận vật chất, từ lực cưỡng lại vật chất. Khi đó, con cần không bước vào bất kỳ kiểu tranh luận nào với nó.

Phàm linh sẽ cố bảo vệ mạng sống của nó, bênh vực sự hiện hữu của nó. Nó sẽ nghĩ ra đủ mọi lập luận (và có thể sa nhân cũng sẽ phóng vào tâm con tất cả những lập luận đó) là tại sao vật chất là như vậy, tại sao vật chất đã tách ra khỏi Tánh linh và tại sao tất cả mọi hậu quả tiêu cực mà con thấy trong vật chất không thể nào đến từ Tánh linh, cho nên vật chất phải được tách rời khỏi Tánh linh, và nhiều luận cứ khác nữa. Con không phải bước vào cuộc tranh luận vì con sẽ không vứt bỏ được phàm linh này bằng cách chứng minh là nó sai. Con sẽ chỉ vứt bỏ nó được khi con thấy nó như cái nó là, thấy nó là một phàm linh tách biệt trong bản thân con, nhận ra con là cái Ta Biết chứ không là phàm linh đó, con không muốn nó trong đời con nữa và con giản dị cho nó chết đi.

Khi nào con còn tranh cãi với nó, cố gắng biện minh cho nó hay chứng minh là nó sai, thì con đang cho nó năng lượng. Con cần ngừng không cho nó năng lượng nữa và để cho nó chết. Ai đã tạo ra nó? Chính con. Ai đã nuôi dưỡng nó? Chính con, qua sự chú ý của con, qua các tin tưởng của con. Khi con ngừng cho nó thức ăn năng lượng của con, nó sẽ chết. Tất nhiên con có thể thỉnh cầu để các chân sư tiêu hủy nó đi, nhưng dù sao thì khi con ngừng nuôi dưỡng nó, nó sẽ chết. Đây là mục tiêu của con ở mức này của khoá nhập thất của thày, là đạt tới điểm khi phàm linh oán giận vật chất của con qua đời. Nó không còn nữa.

8.12. Xét đến các mộng mơ của con

Con phải đạt tới mức chấp nhận là vật chất không cưỡng lại nỗ lực của con nhằm thiết lập một cuộc sống tâm linh hơn. Tuy nhiên, vật chất sẽ không tuân theo những mộng mơ mà con hiện có về thế nào là sống tâm linh. Con phải nỗ lực nhìn ra là ý tưởng bảo đời sống tâm linh phải như thế nào, cũng là một phàm linh. Tất nhiên, giống như phàm linh kia, cái này cũng gắn liền với một phàm linh tập thể, nhưng nó là một phàm linh nội tại và con cũng phải để cho nó chết đi.

Chừng nào con còn bám giữ phàm linh nội tại này bảo đời sống tâm linh phải như thế nào, con sẽ không thể thấy những gì chính con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng về cách con muốn sống đời con. Một lần nữa, thày có thể cam đoan là hầu hết các con đã không ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng là mình muốn rút khỏi thế gian để sống trong tu viện hay trong tịnh thất. Con đã thiết kế Sự vụ Thiêng liêng để con sẽ sống một cuộc đời tương đối năng hoạt, sẽ tương tác với người khác, để con là cánh cửa mở, như thày đã nói, cho việc biểu hiện một số ý tưởng từ cõi thăng thiên.

Thày không đang nói đến chuyện tất cả các con biểu hiện những phát minh to lớn. Cuộc sống hàng ngày được cải thiện là nhờ những người bình thường hàng ngày đưa ra ý mới về những cách làm hay hơn. Chuyện này xảy ra trong môi trường làm việc hay trong bất kỳ hoàn cảnh nào khác nơi con có mặt. Luôn luôn có chỗ cho sự cải tiến qua sáng kiến mới, nhưng ai sẽ là người đưa ra được đây? Đúng vậy, là một người có sự hòa điệu cùng một khả năng hay kinh nghiệm chuyên môn trong lãnh vực đó.

Con thấy được ở đây là có thể có – và đối với hầu hết người tâm linh, chắc chắn là có – sự khác biệt lớn lao giữa sự mơ mộng về một đời sống tâm linh và những gì con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng của con. Khi con buông bỏ những ý tưởng về đời sống tâm linh, khi con buông bỏ nỗi oán giận đối với vật chất, con sẽ có thể bắt đầu nhìn ra những gì con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng. Khi con thảo Sứ vụ đó, con không ở trong cùng một trạng thái tâm như bây giờ. Lúc đó con không mang oán giận đối với vật chất – con không cảm thấy nó – con không mang ý nghĩa lý tưởng xa vời về lối sống tâm linh, mà con xem xét một cách rất thiết thực và nói: “Đâu là tiềm năng tăng triển cho tôi trong kiếp này? Làm thế nào tôi thực hiện được chuyện này tốt nhất dựa trên quá trình của mình, nghiệp quả của mình và những người mà mình có mối ràng buộc? Tôi muốn đầu thai trong loại xã hội như thế nào để có thể làm cánh cửa mở và biểu hiện ý tưởng mới cho các chân sư thăng thiên và Saint Germain?”

8.13. Tiến bộ là một vấn đề thực tiễn

Từ một quan điểm hoàn toàn thực tế, điều gì đã tạo ra tiến bộ trong xã hội mà con thấy trong một ngàn năm qua? Đó là sáng kiến mới! Ai đã đưa ra những sáng kiến đó? Có phải là các tu sĩ và nữ tu trong tu viện? Có phải là những vị tâm linh ngồi trong hang đá núi Himalaya? Hay đó là những người sống ở ngoài kia trong đời sống thực tế, khiến họ trong nhiều trường hợp nghiệm thấy một vấn đề, và nhờ thế họ đã với lên một giải pháp tốt đẹp hơn?

Thày không bảo là không có giá trị nào trong việc ngồi trong hang đá trên núi Himalaya và đạt đến một tầng tâm thức cao hơn. Thày chỉ nói là đối với hầu hết các con, đó không phải là điều mà con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng, vì con đã nhìn thấy rất rõ là việc đưa nền văn minh này tiến lên Thời Hoàng kim của Saint Germain không phải là một vấn đề lý tưởng, mà là một vấn đề thực tiễn.

Biết bao học trò của chân sư thăng thiên đã từng nghe nói về Saint Germain và một thời hoàng kim, đang có những mộng mơ hoàn toàn không thực tế về ý nghĩa của nó. Họ nghĩ là thày có một cái nhìn lý tưởng, xa vời, tựa như chuyện địa đàng không tưởng nào đó về một xã hội tương lai. Họ nghĩ là một ngày nào đó trong tương lai sẽ có một sự đột phá rồi Thời Hoàng kim sẽ hiện ra. Cũng từa tựa như cơn điên loạn tập thể mà con thấy trước năm 2012 khi bao nhiêu người Thời mới tin rằng địa cầu sẽ xoay hướng một cách thần diệu để bước vào một chiều không gian mới và rồi mọi chuyện sẽ thay đổi.

Con yêu dấu, đây là vấn đề mà chúng ta đã có nói đến gần đây, tức là có một khoảng cách giữa thực tế và những gì mà người tâm linh tin tưởng. Mục đích của khóa tu tự điều ngự là để giúp con khắc phục khoảng cách, hầu con có thể thị hiện những gì con có trong tâm con. Và để khắc phục khoảng cách đó, con phải điều chỉnh những thứ đó trong tâm để đem nó xuống một tầm mức thực tiễn và thực tế. Làm thế nào Thời Hoàng kim của Saint Germain thị hiện được đây? Không phải đùng một cái đâu. Nó sẽ thị hiện qua vô số những bước nhỏ có vẻ không mấy quan trọng. Sẽ có rất rất nhiều người đưa ra những ý tưởng nhỏ bé tự thân sẽ chỉ tác động rất ít trên tầng cấp toàn cầu, nhưng hợp chung tất cả những ý nhỏ bé đó lại, nó sẽ đưa nền văn minh này đi lên.

Con yêu dấu, không phải là sẽ có một thời điểm khi con có thể nói, vào ngày 11 tháng 1 năm 2053 Thời Hoàng kim sẽ xuất hiện. Khi Thơi Hoàng kim trở nên hiện thực, hầu hết mọi người trên địa cầu sẽ không để ý thấy nữa. Họ sẽ nhận thấy các điều kiện sinh sống cải thiện lần hồi, và đó chính là bản chất của Thời Hoàng kim. Đó không là chuyện xoay chuyển duy tâm, thần diệu, mà là chuyện bước đi từng bước một, và chính con cũng sẽ làm như vậy. Quá nhiều người trong các con mang ý tưởng trong tâm là một ngày kia một sự chuyển vọt to lớn sẽ xảy đến và bỗng dưng con có được lối sống tâm linh mà con hiện không có.

8.14. Thu hẹp khoảng cách

Trong tâm con thấy, đây là tình trạng thực tế của con ngay bây giờ, và kia là nơi mà các lý tưởng tâm linh của con bảo con phải đến, và giữa hai điểm đó có một khoảng cách khổng lồ. Nếu con lui lại một bước và nhìn vào khoảng cách, con sẽ thấy là trong tâm con không có một cách thực tế nào để đóng lại khoảng cách đó. Con không thấy làm sao mình đóng lại được khoảng cách. “Làm thế nào tôi sẽ rời hoàn cảnh thực tiễn hàng ngày của tôi – nơi tôi vẫn phải kiếm sống, phải chăm sóc con cái, phải đi làm, phải cái này, phải cái kia trong cõi vật lý – làm thế nào tôi sẽ rời tất cả những bổn phận đó để sống lối sống tâm linh mà tôi mường tượng?” Phải, con sẽ không bao giờ làm được bởi vì lối sống tâm linh mà con mường tượng trái ngược với chính Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Con yêu dấu, thày có thể cam đoan với con là nếu con cố thị hiện một điều gì trái ngược với Sứ vụ của con, có một phần trong tâm tiềm thức sẽ phá hoại nỗ lực của con. Các nhà tâm lý học hay nói về “hội chứng tự phá hoại” và trong một số trường hợp, đó là vì người đó có những vấn đề tâm lý trầm trọng. Nhưng đối với nhiều người tâm linh, hội chứng tự phá hoại có nghĩa là tâm ý thức của họ đã chọn ra một mục tiêu đi ngược lại Sứ vụ Thiêng liêng của họ, và trong tiềm thức họ sẽ tự phá hoại bản thân hầu tránh bị kẹt lại trong một sinh hoạt sẽ khiến họ rời xa Sứ vụ của họ.

Con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điểm này thật kỹ, và có thể con nhìn ra một số sự việc trong đời mình khi mình đã có ý bước vào một lãnh vực nào đó nhưng rồi có gì đó đã xảy đến. Một cách nào đó, con đã phá hoại mục tiêu đó. Có thể con sẽ nhìn lại với sự oán giận và nuối tiếc: “Tại sao mình đã làm vậy, và tại sao mình ngu thế?” Rất có thể sự thật là bởi vì mục tiêu, hay mong muốn ý thức của con, đã không đồng thuận với Sứ vụ Thiêng liêng.

8.15. Để ý đến sự chú ý

Do đó con cần nhìn nhận là chừng nào tâm con còn bị ám ảnh bởi mộng mơ thiếu thực tế đó, con sẽ không thể lui lại và có tâm tĩnh lặng để mà thoáng nhìn thấy Sứ vụ Thiêng liêng. Con cần nhận ra là nếu con muốn nhìn thấy một điều gì mà tâm ý thức hiện chưa thấy được, thì con phải tạo một khoảng không gian trong tâm nơi viễn quan đó có thể hiện xuyên qua. Con phải nhận ra là sự chú ý của con vô cùng quan trọng.

Đã có những lời dạy của chân sư thăng thiên nói về một bức màn năng lượng. Cái ác có nghĩa là bức màn năng lượng [trong Anh ngữ, cái ác là “evil” và màn năng lượng là “energy veil”, chơi chữ là “e-veil”]. Có một bức màn năng lượng ngăn cản con nhìn thấy. Nhiều học trò của chân sư thăng thiên đã suy luận là các tà lực đã tạo ra bức màn năng lượng đó. Tất nhiên, tà lực đã tạo ra một bức màn năng lượng. Tâm thức tập thể đã tạo ra một bức màn năng lượng, và đương nhiên con sẽ phải đâm thủng qua. Nếu con đã theo học khóa tu này cho đến tầng tâm thức này thì con đã học được cách đâm thủng qua với các bài chú, bài thỉnh. Con không hoàn toàn bị đui mù bởi bức màn năng lượng của tà lực và tâm thức tập thể.

Vậy thì cái gì làm con đui mù? Đó là bức màn năng lượng mà con đã tạo ra và duy trì trong chính tâm con. Màn năng lượng này được tạo ra do sự chú ý của con đã tập trung vào một số các giấc mơ mộng và hình ảnh không thực tế đó về người tâm linh phải như thế nào và lối sống tâm linh có nghĩa là gì. Con yêu dấu – lý tưởng nhất – thày mong muốn là con sẽ nhìn được những ý tưởng đó như một quả bong bóng và con có thể lấy một cây kim nhỏ chích vào quả bong cho nó nổ tung ra – và bao nhiêu mơ mộng cũng tan theo. Một lần nữa, điều này không hẳn là thiết thực, ít ra là đối với đa số các con. Con sẽ phải nỗ lực một chút để làm chuyện này.

Con sẽ phải sẵn lòng nhận ra một sự thật rất rất giản dị. Như thày đã có nói trong một đợt truyền pháp trước, con người là nô lệ cho sự chú ý của mình. Chú ý hướng về đâu, năng lượng của con sẽ theo về đó. Khi con đặt chú ý vào một điều gì, như ước mơ về lối sống tâm linh, năng lượng con sẽ đi theo đó. Một khi con đặt nhiều chú ý hơn vào đó, một bức màn năng lượng được dựng lên. Nó sẽ ngăn cản con làm gì? Nó ngăn cản con thấy được một viễn quan nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng, bởi vì con quá tập trung vào viễn kiến con tạo ra trong tâm ý thức đến độ con không thể hòa điệu với tâm cao hơn.

Điều cũng xảy ra là càng nhiều năng lượng dành cho điều gì thì bức màn năng lượng sẽ càng kiên cố, và bấy giờ nó không chỉ trở thành một bức màn năng lượng mà một nam châm năng lượng sẽ lôi kéo chú ý của con. Con đặt chú ý vào một khuôn đúc thì con cho phép năng lượng chảy vào khuôn đúc. Khi năng lượng đạt mức tới hạn (critical mass), khuôn đúc sẽ bắt đầu lôi kéo sự chú ý để con ngày càng tập trung nhiều hơn vào nó. Nó biến thành một vòng ốc xoáy có thể nuốt hết tất cả năng lượng, tất cả sự chú ý của con cho đến hết quãng đời còn lại.

Trên lý thuyết, con có thể duy trì viễn quan hiện thời của con về con người tâm linh. Con có thể đeo đuổi viễn quan suốt phần đời còn lại mà không bao giờ đạt được. Điều này, tất nhiên, thày không mong muốn nhìn thấy ở con. Thày mong thấy con đâm thủng bức màn năng lượng, đập tan bức màn năng lượng, đập tan giấc mơ mộng không thực tế kia và nhìn ra những gì con đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng, là những điều thực tế và thiết thực cho con trong kiếp này. Để làm được vậy, con phải sẵn lòng tạo ra khe hở đó, tĩnh lặng đó trong tâm mình nơi con có thể bất chợt nhìn xuyên qua bức màn.

8.16. Công thức bí mật

Thành thật mà nói, con yêu dấu, đây là một bí mật mà con có thể bảo là một trong những công thức bí mật mà nhiều người mơ ước. Chỉ có cái là nó không đúng hẳn như những gì họ ước mơ.

Bí mật là như sau: Khi sự chú ý của con bị thu hút tập trung vào một lãnh vực nào đó, con sẽ không thể nhìn quá nó được nếu con vẫn cứ chú tâm vào nó. Con phải rút chú ý ra khỏi lãnh vực đó – ít ra là đủ lâu để có được một tĩnh lặng nào đó trong tâm khi những đám mây sẽ tẽ ra và một tia sáng mặt trời từ Hiện diện TA LÀ có thể rọi qua. Phải có một khe hở. Chừng nào con còn chú tâm vào giấc mơ thì sẽ không còn chú ý nào sót lại cho Hiện diện TA LÀ của con. Đại ý con bảo rằng: “Hiện diện TA LÀ, hãy đừng làm phiền tôi, hãy đừng quấy rầy tôi, để yên cho tôi tập trung vào viễn kiến vỏ ngoài này!”

Đó không phải là cách con tinh tấn trên đường tu. Ngay đây con phải bắt đầu với một quyết định ý thức: “Được rồi, tôi sẽ xem xét giấc mơ của tôi về ý nghĩa của một người tâm linh và đời sống tâm linh. Tôi sẵn sàng tra vấn viễn kiến này. Tôi sẵn sàng nhìn xem nó có cao nhất hay không. Đặc biệt, tôi sẵn sàng nhìn xem nó có đồng thuận với Sứ vụ Thiêng liêng hay không. Nếu không thì tôi sẽ muốn biết, và tôi muốn để cho mơ mộng đó ra đi, và tôi muốn nhìn thấy những gì ở trong Sứ vụ của tôi.”

Khó khăn ở đây, con yêu dấu, là mơ mộng của con về ý nghĩa người tâm linh có thể là một viễn kiến rất đầy đủ, bao quát, chi tiết mà con mang trong tâm ý thức. Trong nhiều trường hợp, khi con có khe hở qua đó con nhận được điều gì đó từ Hiện diện TA LÀ, thì điều này sẽ không là viễn quan trọn vẹn của Sứ vụ Thiêng liêng cho phần còn lại của kiếp này. Điều con nhận được là bước kế tiếp mà con cần đi, và nó sẽ không có vẻ gì là lý tưởng, lãng mạn, tuyệt vời như giấc mơ mộng vỏ ngoài.

Một lần nữa, con cần phải quyết định trong ý thức là con sẵn sàng để cho mơ mộng này ra đi, con sẵn sàng bước theo lời gợi nhắc nhận được từ bên trong và đi từng bước một. Rất có thể con nhận được một thôi thúc từ Hiện diện TA LÀ để làm một việc gì đó rất thiết thực mà con không thấy có liên hệ nào với viễn kiên vỏ ngoài. Đó là tại sao sau đó, con phải sẵn sàng bỏ sang một bên cái nhìn vỏ ngoài và nói: “Tôi sẽ đi theo lời gợi nhắc này từ trực giác nội tâm cho dù nó có dẫn tôi đi đâu.” Thày cam đoan với con là nếu cứ bền chí đi theo những lời nhắn gọi từ Hiện diện TA LÀ, chúng sẽ đưa con tới mục tiêu mà con đã định ra trong Sứ vụ. Nó có thể không liên quan gì nhiều tới viễn kiến vỏ ngoài nhưng một lần nữa, con cần quyết định: “Tôi muốn đi theo cái nào, viễn quan thực tiễn và thực tế mà tôi đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng, hay những mộng mơ lý tưởng nhưng không thực tế mà tôi đã dần dà chấp nhận với tâm vỏ ngoài?”

8.17. Xét lại phong trào tâm linh của con

Có những người – và sẽ có nhiều người hơn nữa khi giáo lý này phổ biến nhiều hơn – sẽ khám phá ra quyển sách này và họ đang ở trong một phong trào tâm linh nhất định. Dựa trên giáo lý của phong trào đó, họ có một viễn kiến về người tâm linh phải như thế nào. Sẽ có một số người mà viễn kiến vỏ ngoài mà họ nhận được gần như đi ngược lại, hay ít nhất rất xa với những gì họ đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng. Con sẽ có thể nói: “Vậy tại sao họ lại gia nhập phong trào tâm linh đó chứ?” Họ đã gia nhập vì họ phải học hỏi một điều gì đó.

Nói cách khác, trong Sứ vụ của họ có ghi là họ nên gia nhập phong trào này nhưng Sứ vụ không bảo là họ nên tán thành và chấp nhận viễn kiến của phong trào này về ý nghĩa của một người tâm linh. Họ cần phải học một bài học nào đó, và trong một số trường hợp, đó là học làm thế nào mình không nên làm một số chuyện trong một môi trường tâm linh, hay mình không nên sống tâm linh như thế nào. Họ phải học một điều gì đó. Một khi học xong thì đến lúc họ cần bước đi tiếp, đến lúc họ buông bỏ viễn kiến đó về người tâm linh.

Cũng có nhiều người tâm linh đang đầu thai hiện nay đã từng đầu thai trong những kiếp trước trong khung cảnh tu viện hay tịnh thất. Con đã là một người tâm linh trong nhiều kiếp rồi, do đó con đã tự động hướng về lối sống mà thuở đó có vẻ là lối sống tâm linh nhất. Nhiều người trong các con có những lý tưởng mà con đã đem theo từ kiếp này sang kiếp khác, rằng: “Là người tâm linh thì tôi phải sống như thế nào?” Gần như là con bị thúc ép phải sống lối sống tâm linh đó.

Con thấy có biết bao người, chẳng hạn ở phương Tây, gần như quỳ xuống tán dương khi họ gặp các vị lạt ma hay đạo sư từ phương Đông. Họ nghĩ các vị này chắc hẳn đang có một đời sống tâm linh quá tuyệt vời so với những gì họ có được ở phương Tây. Họ nghĩ mọi chuyện ở phương Tây đều phản tâm linh nhưng các vị lạt ma kia, với dáng đi khoan thai trong áo cà sa tha thướt đủ màu, mới là những người tâm linh đích thực. Họ nghĩ là mình phải cố bắt chước theo và cũng sống như thế. Con yêu dấu, thày không bảo là con không nên làm vậy – nếu đó là Sứ vụ Thiêng liêng của con. Thày chỉ muốn gợi cho con là nếu Sứ vụ của con có ghi là con trở thành một vị lạt ma thì có lẽ con đã không hiện thân tại phương Tây.

Tại sao con đã đầu thai tại phương Tây? Chẳng phải con đã thấy đó là cách hay nhất để con giúp đẩy mạnh Thời Hoàng kim của Saint Germain hay sao? Cho nên con hãy khởi sự đi chứ! Hãy với lên viễn quan chỉ ra cho con thấy làm thế nào con có thể giúp thị hiện Thời Hoàng kim ngay nơi con đang sinh sống, thay vì du hành sang Ắn độ, du hành sang Tây tạng hay nhập vào tu viện, nhập vào tịnh thất nơi con có thể cách ly khỏi thế giới Tây phương.

8.18. Con yêu gì hơn?

Thày không đang bảo con làm điều gì mà con không muốn làm trong tâm cao hơn của con. Có thể thày đang bảo con làm điều gì mà tâm vỏ ngoài của con không muốn làm. Đó là tại sao giờ đây con đối mặt với sự chọn lựa trên Tia thứ Ba của Tình thương: “Con yêu cái gì hơn?” Liệu con yêu tâm vỏ ngoài, viễn kiến vỏ ngoài, hay con yêu Hiện diện TA LÀ và viễn quan mà con đã đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng của con? Đó là viễn quan mà chính con đã đặt vào đó khi con có tầm nhìn rộng rãi hơn tầm nhìn của con trong lúc này.

Điều thày nói với con là nếu con chịu dùng bài giảng này, con thật sự có khả năng xoay chuyển nhãn quan của con. Con có khả năng giải thoát khỏi nỗi ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsion) của những viễn kiến và mục tiêu vỏ ngoài đó, những mộng mơ đó. Con sẽ có khả năng đạt được minh mẫn về thực tế thiết thực mà con đã đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng. Con yêu dấu, con yêu gì hơn? Những lý tưởng xa vời có thể sẽ chẳng bao giờ thành hình hay thực tế thiết thực mà con có thể cải thiện từng bước và từng bước? Chúng ta vừa nói đến khoảng cách. Quá nhiều người tâm linh tuy thấy được khoảng cách nhưng khoảng cách cứ còn đứng mãi ở đó, là vì họ ngồi chờ cho đến khi họ nhìn thấy một bước tâm linh rõ ràng để mà bước tới. Nhưng họ lại coi nhẹ và từ chối rất nhiều những bước nhỏ thiết thực mà họ đã có thể đi theo để cải thiện đời họ.

Có câu ngạn ngữ cổ xưa bảo rằng nếu con ngước mắt lên trời và cố với lấy các vì sao thì ít ra tay con sẽ không bị lấm đầy bùn. Con yêu dấu, nếu con nhìn lên các vì sao mà lại coi nhẹ tất cả những con đường dẫn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn dưới này, thì có ich gì cho con? Sẽ chẳng tốt hơn hay sao nếu con nhập cuộc và làm bẩn tay, nhưng đồng thời con cũng khám phá ra những cách cải thiện đời mình và xích lại gần hơn với những gì con đã viết trong Sứ vụ của con?

8.19. Khoảng cách trong tâm vỏ ngoài

Khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng, con nhìn thấy con sẽ khởi đầu kiếp sống ở mức nào. Con cũng đặt ra một mục tiêu thực tế cho những gì con có khả năng đạt được trong kiếp này, những mức tăng triển mà con có thể vượt qua. Nói cách khác nếu chúng ta dùng hình ảnh 144 tầng tâm thức, con có thể nói là con khởi đầu ở tầng 56 và con có thể lên tới tầng 120. Giữa tầng 56 và 120 có một khoảng cách to lớn, phải không con? Có thể con không hình dung được khoảng cách lớn thế nào nhưng nó rất lớn. Thực tế là con có thể lấp được, nhưng con sẽ làm thế nào đây? Liệu con sẽ nhảy bổng từ tầng 56 vì con đã phát hiện ra một công thức bí mật trong sách cũ? Hay là con sẽ đạt đến tầng 120 bằng cách trước tiên leo lên tầng 57, rồi tâng 58, rồi tầng 59 và cứ thế?

Con có thấy tại sao trong tâm vỏ ngoài có một khoảng cách? Đó là vì con đã không ngó ngàng gì đến những bước nhỏ sẽ dẫn con tới mục tiêu, hay con có một mục tiêu hoàn toàn không thực tế cho nên con không thể sắp đặt một chuỗi bước nhỏ dẫn đến mục tiêu. Rất nhiều người tâm linh có một mục tiêu trong tâm vỏ ngoài hoàn toàn không thực tế. Không một ai, kể cả thày, có thể đưa họ đến mục tiêu từ nơi họ đang đứng và đề ra một tiến trình hợp lý, thực tiễn gồm những bước khả thi sẽ dẫn họ đến muc tiêu. Đơn giản là không có cách nào để tới đó. Đây là tại sao sa nhân đã dựng lên những mục tiêu này vì chúng biết là không ai có thể đạt được. Và do đó người ta cứ không ngừng chạy đuổi theo hũ vàng ở cuối cầu vồng rồi bị bất mãn, thất vọng – và đó chính là điều sa nhân mong muốn. Thày không muốn con bị bất mãn, thất vọng. Thày muốn con được thỏa nguyện khi con biết rằng mình đang làm theo tất cả những bước nhỏ trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Đó là điều thày mong muốn thấy. Đó là điều tất cả các thày đều mong muốn thấy.

Nói thật, liệu con có tin là các thày đã thảo ra nguyên khoá tu này để khi con hoàn tât, con vẫn thấy một khoảng cách và con cảm thấy thất chí? Các thày muốn con khép lại khoảng cách đó. Các thày muốn con nhận ra đường tu là vấn đề bước đi từng bước khả thi một, hầu con được toại nguyện ở tầng mức hiện tại của con. Thày Nada đã nỗ lực rất nhiều để giúp con đến được tầng này, và các vị Thượng sư kia cũng đã đề cập tới điểm này. Thày cũng đề cập vì mục đích của các thày là giúp con đạt tới điểm nơi khoảng cách không còn nữa. Con bằng lòng khi con làm những gì con có thể làm và tiếp tục bước tới cho đến khi con đạt mức cao nhất mà con có thể đạt được trong Sứ vụ Thiêng liêng, có lẽ còn đi xa hơn nữa.

Đối với một số các con, điều đó có nghĩa là con sẽ đạt đến tầng 144 trong kiếp này. Đó là mong muốn của các thày, con yêu dấu. Chắc hẳn con có thể cảm thấy thày hứng khởi như thế nào, phải không? Thày hy vọng con cũng xoay chuyển được và con hứng khởi là mình thực tiễn, thay vì hứng khởi về một mơ mộng viển vông sẽ không bao giờ thị hiện.

Con thấy đó, con yêu dấu, thị hiện tức là có một viễn quan thực tế về những gì mình có thể thị hiện, dựa trên hoàn cảnh cá nhân của mình và hành tinh nơi mình sống. Có những avatar đã bị sa nhân đánh lừa khiến họ chấp nhận viễn kiến về những gì họ muốn thị hiện. Viễn kíến này thực tế trên một hành tinh tự nhiên, nhưng nó không thực tế trên địa cầu – một lần nữa, giống như chuyện chạy đuổi theo hũ vàng ở cuối cầu vồng. Thày muốn con tìm thấy vàng thực kìa, là viễn quan  trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Vàng đó sẽ đến với con, một hạt nhỏ rồi lại một hạt nhỏ, chứ không phải cái hũ vàng nằm nguyên con ở đó. Con hãy bước theo những bước nhỏ đó. Bước từng bước một, và con sẽ đến nơi con muốn đến. Đó chính là điều thày muốn cho con.

Trên địa cầu có gì thực chăng?

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 11/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain, và cho phần thứ hai của công việc con đang làm tại khóa nhập thất của thày, thày mong muốn con xem xét trong tâm ý thức: “Cái gì thực và cái gì không thực?” Hiển nhiên suốt hàng thế kỷ, các triết gia đã thảo luận và tranh cãi rất nhiều về bản chất của thực tại, về cái có thể xem là thực và cái không thể xem là thực. Hãy để thày cho con một cái nhìn thực tiễn hơn.

6.1. Phòng máy giả thực tại

Khi con tham dự khóa nhập thất của thày ở tầng này, thày có một căn phòng đặc biệt để con vào thăm. Đó là một căn phòng không những hình tròn mà bên trong nó giống một quả cầu, có nghĩa là con có thể nhìn khắp chung quanh những gì được chiếu lên tường từ bên trong. Các bức tường này tạo thành một màn hình trên đó thày có thể chiếu lên bất cứ hình ảnh nào. Điểm quan trọng trong phần thực tập này khi con bước vào phòng – và tất nhiên thày biết, con không đang ở trong cơ thể vật lý mà trong thể bản sắc của con – là con sẽ có trải nghiệm mình ở trong một thế giới thực.

Không có gì ở đó cho phép con nhận ra là con không đang ở trong một thế giới thực. Ở khởi đầu của bài tập, con nghĩ, con cảm thấy, con trải nghiệm là con ở trong một thế giới thực. Sau khi con tiến xa hơn trong bài tập, các thày dạy con là có những cách thức để con có thể, chỉ bằng quyền năng của tâm mình, ảnh hưởng những gì được chiếu lên bên trong quả cầu. Nói cách khác, con nhận ra là con ở trong một thế giới không thực như nó hiện ra lúc đầu khi con mới bước vào. Nó không hoàn toàn thực theo nghĩa nó được tạo dựng bởi một lực bên ngoài không liên quan gì tới tâm con. Nó không thực theo nghĩa mà con thường coi là “thế giới thực” trên địa cầu khi con nghĩ thế giới đó không thể bị quyền năng của tâm ảnh hưởng.

Từ từ con học được là con thật sự có khả năng sử dụng quyền năng tâm mình để ảnh hưởng cái có vẻ là một thế giới thực. Bây giờ khi con thực tập bài học này, thày cần con suy ngẫm điểm này với tâm ý thức. Lẽ tự nhiên, thày không mong mỏi con đạt được kết luận là không có gì trong cõi vật lý là thực. Có những người, ngay cả một số đệ tử tâm linh, bỗng nhiên nghi ngờ mọi thứ trong thế giới vật lý là thực, và thường khi họ rơi vào một khủng hoảng bản sắc có thể dẫn họ vào cả bệnh viện tâm thần. Điều đó, tất nhiên, không phải là điều thày muốn thấy cho con. Vì vậy chúng ta sẽ xét xem khi chúng ta bảo cái gì đó là thực hay không thực, thì điều đó có nghĩa là gì.

6.2. Thực tại có nghĩa là gì?

Sự phân chia mà thày muốn thiết lập ở đây, như con biết rất rõ vì con là học trò của chân sư thăng thiên, là con không sống trong một thế giới chỉ có con người sinh sống. Con không một mình, con sống với bảy tỷ con người khác, nhưng con cũng biết có những loại sinh thể khác trong thế giới nơi con sống. Có các chân sư thăng thiên, có các Elohim, có các thiên thần và đại thiên thần, và có Đấng Sáng tạo ở trên đỉnh kim tự tháp. Sự phân chia mà thày muốn làm là như sau: Những gì đã được tạo ra bởi những sinh thể ở một mức tâm thức cao hơn con người, là thực. Nói cách khác, những gì do các chân sư thăng thiên, các Elohim tạo ra là thực, theo nghĩa là nó không nằm trong phạm vi ảnh hưởng của quyền năng tâm con người.

Các thày đã ban cho con nhiều lời dạy về tiến trình sáng tạo vũ trụ, sáng tạo các bầu cõi khác nhau. Các thày có nói là hành tinh địa cầu được tạo ra bởi bảy sinh thể tâm linh gọi là Elohim. Các đấng ấy đã chung sức với nhau, sử dụng uy lực đồng sáng tạo để sinh tạo hành tinh này. Họ đã sinh tạo địa cầu trong một trạng thái thuần khiết hơn, cao hơn những gì con thấy được ngày nay. Tạo vật nguyên thủy đó của các Elohim, khuôn đúc nguyên thủy mà các Elohim đã quy định cho địa cầu, chúng ta sẽ gọi đó là thực trong bài tập này. Nó mang thực tại ở trong nó. Thậm chí con có thể đi lên những tầng cao hơn, và tất nhiên, có nhiều sinh thể thăng thiên vượt cả tầng cấp các Elohim đã lập dựng địa cầu. Có những bầu cõi khác nhau đi tuốt lên tới mức của Đấng Sáng tạo.

Tuy vậy, vấn đề ở đây đơn giản là như sau: Trong vũ trụ mà con đang sống, ngay cả trong cõi vật lý, có những thứ đã được tạo ra bởi những sinh thể ở một trạng thái tâm thức thăng thiên. Nói cách khác, đó là những sinh thể thường hằng, không ở trong nhị nguyên, không tự xem mình là sinh thể tách biệt, và hợp nhất với tổng thể. Các sinh thể này đã lập ra một số cấu trúc trong thế giới nơi con sống, và trong khuôn khổ bài tập này, chúng ta sẽ định nghĩa các cấu trúc đó là thực. Dựa trên định nghĩa này, chắc chắn là có một số khía cạnh của địa cầu là thực. Tự thân hành tinh này có một thực tại nào đó, và một số đặc tính và nét đặc trưng của hành tinh này cũng có một thực tại nào đó.

6.3. Làm thế nào địa cầu đã trở thành địa cầu hôm nay

Tuy nhiên, bây giờ chúng ta cần xác định một sự khác biệt vì con cũng biết địa cầu không còn ở trạng thái nguyên thủy, trạng thái trinh nguyên nữa. Địa cầu không trong cùng trạng thái như khi các Elohim tạo lập. Điều này có nghĩa là chúng ta cần xét xem làm thế nào hành tinh đã bước vào tình trạng hiện thời, trạng thái hiện thời. Các thày đã giải thích là sự thể này đã điễn ra  trong một khoảng thời gian rất, rất đài, và khi hành tinh được sinh tạo lúc ban đầu, đã có mấy đợt sóng sinh lực của những vị đồng sáng tạo đi xuống điạ cầu. Các vị này nay đã thăng thiên khỏi địa cầu, nhưng khi còn ở đây, họ đã xây đắp thêm trên nền tảng của các Elohim và biến hành tinh này thành một hành tinh đẹp hơn nữa, sắc nét và chi tiết hơn nữa. Họ đã đồng sáng tạo địa cầu.

Các thày cũng có giải thích là ở một thời điểm, một khúc ngoặt đã xảy ra khi ngày càng nhiều dòng sống đến hiện thân trên điạ cầu bắt đầu rơi vào trạng thái tách biệt và nhị nguyên. Lần hồi, họ khởi sự một vòng xoáy ốc hướng hạ dẫn đến tình trạng hiện nay. Những đợt sóng đó, những dòng sống đó, đã phản-sáng-tạo địa cầu bằng cách kéo nó xuống khỏi tầng cấp của các Elohim, cho nên ngày nay địa cầu ở dưới tầng cấp đó khá xa.

Điều con nhận ra ở đây là khi các thày định nghĩa những gì do các sinh thể thăng thiên tạo ra là thực, thì so với cái thực đó, các thày cũng cần gọi những gì mà các sinh thể chưa thăng thiên phản-sáng-tạo là không thực. Có nghĩa là theo định nghĩa này, rất nhiều điều kiện và đặc điểm mà con hiện chứng kiến trên địa cầu là không thực. Tất nhiên, chúng ta có thể có những cách định nghĩa khác về thực lẫn không thực, nhưng dựa trên định nghĩa này, các thày cần nói là hầu hết các điều kiện mà con thấy trên trái đất ngày hôm nay đều là không thực.

6.4. Những gì không thực có thể được thay đổi

Tại sao phân biệt như vậy lại quan trọng? Bởi vì nhờ đó, con có thể bắt đầu dần dần chuyển đổi thái độ của mình, cách nhìn của mình về cuộc sống, và nhận ra rằng rất nhiều hạn chế mà con thấy chung quanh con, rất nhiều giới hạn mà con đã phải đương đầu từ khi con hiện thân lần đầu tiên trên địa cầu – và chắc chắn trong kiếp này nữa – đều không thực theo nghĩa tối hậu. Mặc dù việc phân biệt như thế là quan trọng, nhưng con sẽ có thể nói từ một quan điểm hoàn toàn thực tiễn: “Phân biệt như vậy không quan trọng lắm vì dù các điều kiện trên địa cầu có thực hay không thực, thì chúng vẫn hiện diện ở đây và con vẫn bị chúng tác động.” Tất nhiên, điều này hoàn toàn đúng thôi, nhưng liệu cách suy nghĩ thực tiễn như vậy có thật là cách duy nhất, hay là cách cao nhất mà con có thể áp dụng hay không?

Con thấy đó, con yêu dấu, khi con lớn lên – trong cả kiếp này lẫn những kiếp trước – con đã bị lập trình để chấp nhận rằng những gì hiện có trên trái đất là thực. Con đã bị lập trình bởi cha mẹ, bởi gia đình, bởi người đời trong xã hội, thậm chí bởi cả những định chế trong xã hội của con, để chấp nhận các điều kiện hiện hành là thực, Chúng biểu trưng cho một thế giới có thực, nghĩa là con không có quyền hạn trong tâm con để thay đổi chúng. Đây là niềm tin mà thày cần con khởi sự tra vấn.

6.5. Làm thế nào một cái gì đó được tạo ra

Để làm vậy, chúng ta cần đi một bước thật đơn giản. Chúng ta cần tự hỏi (như các thày đã có giảng dạy trước đây) làm thế nào một cái gì đó được tạo ra? Các thày đã từng nói là chỉ có Đấng Sáng tạo mới có quyền năng sáng tạo từ hư vô – nếu có thể nói như vậy. Các triết gia và khoa học gia đã từ lâu tranh luận về câu “sáng tạo từ hư vô” này và họ đã đi đến một số kết luận khác nhau. Sự thật là Đấng Sáng tạo có quyền năng tạo ra thế giới nơi con sinh sống, quy định các thông số cho thế giới này, và tạo ra “chất” (the substance) từ chính Bản thể của ngài. Nói cách khác, trước khi Đấng Sáng tạo bắt đầu sáng tạo, không có gì hiện hữu – không có thế giới, không có cả khoảng trống nơi bất cứ gì có thể được tạo lập.

Con sẽ có thể nói, không nhất thiết là “không có gì”, bởi vì các thày có dạy con về cái gọi là Tất Cả. Dù vậy, so với những thứ được xác định trong vũ trụ của con, thật là không có “vật gì” khi Đấng Sáng tạo bắt đầu sáng tạo. Ngược lại thì tất cả những sinh thể khác trong cõi nơi con sống, trong thế giới hình tướng nơi con sống, đều là những sinh thể đồng sáng tạo. Họ không sáng tạo từ hư vô. Họ sáng tạo dựa trên những gì Đấng Sáng tạo đã sáng tạo.

Con đồng sáng tạo như thế nào? Con đồng sáng tạo bằng cách hình thành những hình ảnh, những khuôn đúc trong tâm con. Dù tâm con có như thế nào và tùy theo trình độ đồng sáng tạo của con, con hình thành những hình ảnh đó trong tâm mình, xong con phóng chiếu chúng lên chất cơ bản mà Đấng Sáng tạo đã tạo ra để cho con một cái gì mà từ đó con có thể đồng sáng tạo. Vì những lý do thực tiễn, các thày đã gọi chất đó là Ánh sáng Mẫu-Vật. Con hình thành một hình ảnh trong tâm – trong trường hợp của con, qua trung gian bốn tầng cấp của tâm – và con phóng chiếu nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Chúng ta có thể nói, ngay cả các Elohim khi sinh tạo trái đất cũng đã đồng sáng tạo theo cách đó. Các Elohim cũng đã thiết lập những hình ảnh trong tâm mình, phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và với thời gian qua một số lần lặp lại nhịp nhàng, họ đã làm thị hiện trái đất. Cách đó không giống như người ta thường hiểu về sự sáng tạo, là có một loại vật chất vật lý nào đó mà các Elohim đã sử dụng để tạo ra trái đất.

Địa cầu được thị hiện theo nghĩa là trước tiên các Elohim đã tạo ra một hình ảnh của địa cầu nơi cõi bản sắc. Đây là một hình ảnh phức tạp, dựa trên cả bảy tia sáng tâm linh, với mỗi Elohim đại diện cho một tia sáng. Các Elohim đã có hình ảnh này, rồi xây dựng nó lần hồi, củng cố nó, khiến nó rung động ở một mức nhất định (hay cũng có thể nói, ở một độ rung, một tần số nhất định), sau đó đã sử dụng chính rung động này để đẩy khuôn đúc của mình xuống cõi lý trí. Ở đây, các Elohim đã bổ sung cho khuôn đúc, khiến nó thêm chi tiết ở mức lý trí, xong cuối cùng khiến nó rung động ở một mức khác hơn trước khi đẩy nó xuống cõi tình cảm. Một lần nữa ở cõi tình cảm, các Elohim lại làm việc như vậy với khuôn đúc, khiến cho nó chi tiết hơn nữa, khiến cho nó – theo một nghĩa nào đó – năng hoạt hơn, rồi lại gia tăng rung động của khuôn đúc cho tới khi đẩy nó xuống cõi vật lý.

Có thể con sẽ nói, dựa trên những gì con đã được dạy dỗ trong kiếp này: “Vậy chứ quá trình tiến hóa thì để đâu?” Quá trình tiến hóa không hề bị loại bỏ, vì những gì các Elohim đẩy xuống cõi vật lý vẫn chưa là một hành tinh đã được hoàn tất, theo nghĩa là đã có đủ tất cả mọi dạng sống mà con thấy ngày nay hay đã thấy trong quá khứ. Tuy nhiên cái mà các Elohim đẩy xuống cõi vật lý là một hành tinh, dù không có đúng kích thước hiện thời, nhưng ít nhất đã có cái khuôn đúc cơ bản mà con tìm thấy ở mọi hành tinh, ngay cả ở trái đất hiện thời. Như thày vừa nói, cái đó phần nào khác hơn, nhưng nó đã được đẩy xuống cõi vật lý và đã không xuất hiện lần hồi trong cõi vật lý. Không phải là bụi vũ trụ đã lần hồi tụ lại để hình thành trái đất, mà trái đất trong khuôn đúc cơ bản của nó đã được đẩy xuống cõi vật lý, và nếu con nhìn quá trình này ở mức giác quan vật lý thì nó đã xuất hiện ra – trong nghĩa đen – từ “hư vô”. Sau khi khuôn đúc cơ bản của trái đất được đẩy xuống cõi vật lý thì từ từ một quá trình tiến hóa đã khởi sự, cũng do các Elohim hướng dẫn. Rồi sau một khoảng thời gian rất, rất dài, quá trình lần hồi đó đã tạo ra một trái đất đầy đủ điều kiện sinh sống cho các làn sóng của những dòng sống đầu tiên.

6.6. Vật chất không thực

Điều mà thày đang trao cho con ở đây là một ý niệm vô cùng quan trọng. Ngay cả những gì thày gọi là thực vẫn là do một cái tâm tạo ra, hay trong trường hợp này, do bảy cái tâm tạo ra. Con có thể thấy trong thế giới ngày nay, người ta có một triết lý duy vật bảo rằng không có gì hiện hữu ngoài thế giới vật chất. Triết lý này cũng bảo tâm con là một sản phẩm của những tiến trình vật chất trong bộ não của con. Ý tưởng, cảm xúc của con đều là sản phẩm của tiến trình vật chất trong bộ não. Có nghĩa là theo triết lý duy vật, tâm thật ra không có thực – mà chỉ vật chất mới có thực. Việc chúng ta xem xét điểm này quan trọng là vì con không thể lớn lên trong thế giới hiện đại mà không bị nó ảnh hưởng. Có thể nói, có một con quái vật vô cùng hùng mạnh trong tâm thức tập thể tin rằng chỉ có những gì mang chất vật lý mới là thực.

Điều thày cố chỉ ra cho con ở đây là trên thực tế, không có vật chất. Vật chất không hiện hữu như một chất riêng biệt vì vật chất đã được tâm tạo ra. Vật chất là một tạo vật của tâm. Con thấy không, điều mà các nhà duy vật muốn con tin – vì đó cũng là điều họ tin, hay đúng hơn hầu hết bọn họ, nếu chúng ta bỏ ra các sa nhân chỉ sử dụng triết lý duy vật để mà khuynh loát con người – là có một quá trình đã đem vật chất vào hiện hữu. Và một khi vật chất đã được đem vào hiện hữu, nó sẽ tiếp tục hiện hữu mãi mãi hoặc trong một thời gian rất dài. Nói cách khác, vật chất có một thực tại nào đó, và thực tại này hiện hữu độc lập với tâm. Điều mà các nhà duy vật đó muốn con tin là tâm con chỉ có thể là chủ quan, nhưng vật chất thì khách quan. Vật chất có một hiện hữu khách quan, độc lập với tâm.

Lý do chúng ta xem xét ảo ảnh này quan trọng là vì, tất nhiên, nó đã được sa nhân chế tạo ra. Nó đã được chế tạo ra vì một mục đích rõ ràng là tước mất quyền năng của quần chúng. Toàn bộ mục đích của triết lý duy vật là khiến cho mọi người tin rằng tâm mình không có quyền năng thay đổi vật chất. Do đó, một khi trái đất đã ở trong một tình trạng nào đó, một khi vật chất đã rơi xuống một độ dày đặc nào đó, thì không có gì mà loài người có thể làm được để thay đổi sự thể. Chuyện chỉ có thể là như thế vì mọi điều kiện hiện thời đã được tạo nên bởi những định luật tự nhiên khách quan, vượt trên mọi cá nhân, mà không sức mạnh nào của con người có thể thay đổi được.

Con có thể quay sang đối cực ngược lại là tôn giáo truyền thống, và tương tự, con cũng có thể thấy một triết lý đang tước mất quyền năng con người. Người ta bảo con là toàn bộ thế giới đã được sinh tạo bởi Thượng đế, thậm chí Thượng đế Toàn năng. Và đương nhiên, điều này có nghĩa là các điều kiện hiện hành trên trái đất đã được Đấng Sáng tạo Toàn năng tạo ra – một lần nữa lại có nghĩa là tâm con người, ngay cả tâm của tập thể loài người, cũng không có quyền năng thay đổi được.

Con thấy rõ là con đã lớn lên trong một xã hội mặc dù có hai đối cực có vẻ trái ngược nhau, nhưng cả hai lại thật sự giống nhau ở điểm là cả hai đều tước mất quyền năng của con. Cả hai đều truyền bá một triết lý bảo rằng nhân loại không có quyền năng thay đổi các điều kiện hiện hành trên trái đất. Một triết lý như vậy chỉ có thể đến từ sa nhân, và đó là tại sao con cần xem xét điểm này rất cẩn thận. Con cần khởi sự tra vấn tại sao con lại tin vào chuyện đó, liệu nó thực hay không, cho tới khi nào con đạt đến kết luận – không dựa trên suy luận trí thức mà dựa trên một kinh nghiệm nội tâm trực nhận – rằng nó không thật. Làm thế nào con sẽ đến được kết luận đó? Vì khi con tham dự khóa nhập thất của thày, con kinh nghiệm được là cả tôn giáo truyền thống lẫn khoa học duy vật đều không thật. Các kết luận, các triết lý của họ, không thật. Điều duy nhất mà con cần làm là đưa điều này xuống tâm ý thức của con hầu con có thể, trong một sáng ngộ trực giác như ánh chớp, kinh nghiệm thực tại ở đây. Thày cũng biết một số các con đã thực hiện được điều này, nhưng dù sao đi nữa, thật không có gì sai trái nếu con có trải nghiệm thần bí mấy lần, và như vậy con lần hồi tăng cường cảm nhận là họ sai lầm khi họ bảo tâm không thể ảnh hưởng vật chất.

6.7. Tại sao tâm có khả năng ảnh hưởng vật chất

Tại sao tâm có khả năng ảnh hưởng vật chất chứ? Tại vì ngay từ đầu, toàn bộ vũ trụ vật chất là do tâm tạo ra, do tâm của các Elohim và sinh thể tâm linh khác tạo ra. Kể từ khi địa cầu bước vào một vòng xoáy hướng hạ, rất nhiều điều kiện mà con chứng kiến trên địa cầu cũng là do tâm tạo ra, tức là tâm tập thể của nhân loại. Tâm tập thể này phần lớn đã bị sa nhân đánh lừa và khuynh loát sau khi chúng bắt đầu đầu thai ở đây. Giờ đây con có vòng xoáy hướng hạ này trong đó tâm thức tập thể, do sa nhân sai khiến, dần dần kéo địa cầu xuống một mức ngày càng thấp hơn. Sự kiện này mang một số hệ quả, kể cả những xung đột, thiên tai cùng nhiều sự mất quân bình khác trong thiên nhiên. Nhưng trước tiên, nó khiến cho vật chất dày đặc hơn, vì trước khi vòng xoáy hướng hạ này khởi sự, vật chất không đến nỗi dày đặc hơn bây giờ – qua đó thày muốn nói là vật chất từng rung động ở một độ rung cao hơn. Tại sao điều này lại quan trọng? Vì vật chất càng dày đặc thì tâm sẽ càng khó lòng thay đổi vật chất hơn.

Con có hiểu chăng sa nhân đã làm gì? Chúng đã – trong nghĩa đen – thiết lập một tiến trình qua đó chúng đã đánh lừa và thao túng để loài người kéo thấp tâm thức tập thể xuống và do đó cũng khiến cho vật chất dày đặc hơn. Sa nhân được hưởng lợi như thế nào? Chúng có lòng sốt sắng bất tận muốn khuynh loát, kiểm soát, tàn phá và giết hại người khác qua những phương thức vật lý. Cho nên vật chất càng dày đặc thì công việc kiểm soát nhân loại của chúng càng dễ dàng hơn. Vì khi vật chất càng dày đặc thì loài người càng ít khả năng cưỡng lại chúng qua quyền năng của tâm, và do đó chỉ còn cách cưỡng lại qua những phương tiện vật lý mà thôi. Trong địa hạt này, sa nhân luôn luôn có mòi chiếm được thế thượng phong vì chúng sẵn sàng ra tay làm những chuyện mà các cư dân nguyên thủy của địa cầu cũng như những các avatar đã đến địa cầu sau đó không sẵn sàng làm. Cả hai nhóm người này không sẵn lòng giết hại vô số sinh mạng hầu, chẳng hạn, tăng cường thế lực cho một đế quốc, một chủ thuyết chính trị hay một tôn giáo nào đó. Nhưng sa nhân thì sẵn sàng làm chuyên này, và chúng cũng sẵn sàng tiêu diệt những cá nhân nào chống đối chúng. Vì thế mà chúng mới giành được thế thượng phong.

Khi vật chất bớt dày đặc, khi con người nhận thức rõ hơn về quyền năng của tâm mình, sa nhân sẽ không có được cùng những cơ hội để giành lấy quyền kiểm soát. Điều mà sa nhân đã làm là, trong nghĩa đen, chúng đã tìm ra cách kéo vật chất xuống độ dày đặc hiện tại. Và giờ đây, điều mà chúng cố làm với triết lý của chúng trong tôn giáo lẫn trong chủ nghĩa duy vật, là tìm cách khiến cho nhân loại chấp nhận vật chất không bao giờ có thể được nâng lên một độ rung cao hơn, và các điều kiện hiện thời không bao giờ thay đổi được trong cốt lõi, bởi vì: “Mọi chuyện là như vậy đó, không có gì ta có thể làm được để thay đổi. Chắc chắn không có gì ta có thể làm được để thay đổi qua quyền năng của tâm.”

6.8. Hóa giải lập trình trên chính mình

Con yêu dấu, đó là một tâm thức vô cùng thuyết phục đã được áp đặt lên hành tinh này từ quá lâu rồi (ít ra là tôn giáo) và nó đã tác động đến tâm thức tập thể đến độ con không thể khôn lớn ở đây mà không bị nó ảnh hưởng. Điều con cần làm bây giờ là khởi sự giải hóa bản thân khỏi sự lập trình mà con đã nhận lãnh suốt những năm tháng lớn lên, cả trong kiếp này lẫn những kiếp trước. Đây không phải là một công việc con có thể hoàn thành trong một ngày. Thày không yêu cầu con nghĩ rằng sẽ đến một điểm khi đùng một cái, con sẽ bỗng dưng giải thoát khỏi tâm thức đó. Tất nhiên là điểm đó sẽ đến, nhưng nó sẽ không xảy ra trong vòng năm phút. Thày cần con nỗ lực làm việc trên chuyện này, và thày cần con nhận ra là con có những phàm linh nội tại tin tưởng vào sự lập trình đó và con sẽ cần thời gian để tháo gỡ chúng đi.

Dù sao thì thày cũng cần con thực hiện sự xoay chuyển đó ở đây, trong tâm ý thức của con, qua đó con bắt đầu nhận ra là có một sự phân biệt mà con cần làm khi con xem xét các điều kiện vật lý trên trái đất. Trước hết, có một số điều kiện mà tâm con người không có quyền năng thay đổi. Để nói cho đơn giản, khi các Elohim tạo lập trái đất, trái đất tròn. Trong tâm con người không có quyền năng thay đổi hình tròn của trái đất cho dù mọi người trên hành tinh có cố gắng biết mấy với quyền năng tâm mình để biến nó thành hình bầu dục – chuyện này không thể. Con người không thể lật bỏ khuôn đúc cơ bản.

Tuy nhiên, rất nhiều điều kiện khác trên địa cầu, kể cả như thày đã nói, độ dày đặc của vật chất (thày biết điểm này rất khó cho con hình dung, nhưng dù sao thì nó vẫn đúng) có khả năng được thay đổi qua quyền năng của tâm. Điều quan trọng là con bắt đầu làm cuộc xoay chuyển, trên cơ bản con bắt đầu nhận ra, ít nhất con bắt đầu suy ngẫm, rằng bất kỳ điều kiện nào mà con gặp đều mang tiềm năng chuyển đổi qua quyền năng của tâm. Câu hỏi mà giờ đây con cần suy ngẫm là: “Chúng ta đang nói về cái tâm nào?”

6.9. Tâm cá nhân và tâm tập thể

Ở đây chúng ta cần phân biệt giữa tâm cá nhân và tâm tập thể. Thày đã nói là độ dày đặc hiện thời của vật chất đã được tạo dựng trong một khoảng thời gian rất dài bởi tâm tập thể bao gồm tất cả mọi sinh thể đang đầu thai trên hành tinh, không những ở một thời điểm nhất định mà suốt một quá trình rất dài. Là một cá nhân, con sẽ làm sao đây để lật ngược lại? Phải, đương nhiên là một cá nhân, con không có quyền năng lật ngược lại tâm tập thể của tất cả mọi người.

Con có thấy thày đang dẫn con đến đâu? Thày đang cố dẫn con đến điểm con nhận ra là thày đang ở một thế cân bằng rất tinh tế. Một mặt, thày cần giúp con bắt đầu tra vấn những gì con đã được dạy dỗ. Thày cần con bắt đầu nhận ra vật chất là một tạo vật của tâm. Nhưng mặt khác, thày cũng cần con đừng rơi vào những mộng ảo quyền năng vĩ đại mà thày Nada đã có nói đến, là khi quá nhiều người tâm linh hay đệ tử Thời mới, kể cả đệ tử của chân sư thăng thiên, tin rằng một ngày kia mình sẽ đạt được quyền năng của tâm to lớn đến độ mình chỉ cần búng ngón tay là thay đổi trên trái đất sẽ xảy ra như trong phép lạ.

Thày cần con lạc quan, nhưng một sự lạc quan thực tế, qua đó con không dựng lên một kỳ vọng mình sẽ làm được nhiều hơn là mình có thể thật sự làm được trong tư thế của một cá nhân. Nếu con cho phép mình bước vào những kỳ vọng thiếu thực tế đó, thì con đang đẩy mình vào con đường thất vọng. Có những cuốn sách và khóa học ở ngoài kia tuyên bố là chỉ cần một vài chương sách ngắn hay một vài ngày để họ dạy con cách làm kết đọng (precipitate) tiền của hay vàng bạc từ hư không. Tất cả những ai mua sách đó hay học những khóa đó rốt cuộc đều thất vọng vì họ không thể toại nguyện được kỳ vọng đó.

Ở tầng thứ hai này, thày cố gắng cho con sử dụng Tia thứ Hai của Minh triết để xây dựng một dự kiến thực tế về những gì có thể làm được. Con cần nhận ra ở đây là các điều kiện hiện hành trên địa cầu là do tâm tập thể tạo ra. Là một cá nhân, con không thể lật ngược tâm tập thể. Con không có quyền năng đó. Vì vậy thật là không thực tế nếu con dựng lên một kỳ vọng là con có thể học được một loại quyền năng cho tâm lật bỏ tâm thức tập thể. Điều này không chỉ đi ngược lại Luật Tự quyết, mà nó cũng không phải là quả vị Ki-tô.

6.10. Dự kiến thực tế

Con thấy đó, con yêu dấu, các sa nhân đã tìm ra cách đạt được một số quyền năng, ít ra ở một mức độ nào đó, để cưỡng ép hay lật bỏ tâm của tập thể. Đó là cách mà Adolf Hitler đã làm để lôi kéo đa số quần chúng nước Đức ủng hộ ông ta. Tuy vậy, không một sinh thể Ki-tô nào sẽ làm như thế, tất nhiên. Cho nên con thấy là ở vị thế một sinh thể Ki-tô, là một người đang bước chân trên con đường quả vị Ki-tô, con không có mảy may ham muốn nào thu hoạch quyền năng thao túng tâm tập thể, hay ngay cả tâm của đúng một người. Đó không phải là quan tâm của con. Do đó con cần lượng định một cách thực tiễn và nói: “Tôi có thể tập trung vào điều gì? Tôi có thể tập trung vào dự kiến nào tôi có thể thực hiện được khi đi theo những bước khai ngộ của Saint Germain?”

Và đây là gợi ý của thày. Khi con ngày càng bước lại gần hơn với tầng tâm thức 144, sẽ có một giai đọan khi con bắt đầu có những quyền năng của tâm khiến con có thể, ít ra là trong một bản địa giới hạn, thăng vượt độ dày đặc của vật chất. Nếu con xem xét một số lý lẽ được người ta đưa ra, con sẽ thấy chẳng hạn nhiều nhà duy vật sẽ tìm cách hết sức để phủ nhận các phép lạ của Giê-su. Thậm chí con thấy cả một số tín đồ đạo Cơ đốc phủ nhận, hay ít ra bỏ ngoài tai, những phép lạ của Giê-su. Tuy nhiên những công việc mà Giê-su đã làm có một ý nghĩa. Một số phép lạ (không phải mọi phép lạ được ghi chép trong kinh điển mà một số) quả là có thực, theo nghĩa là Giê-su đã thành công vượt qua độ dày đặc của vật chất – ví dụ như biến hóa một chất thành chất khác, làm yên cơn bão, đi bộ trên mặt nước, vân vân và vân vân. Đó là vì Gie-su đã gần đạt đến tầng tâm thức 144. Tất nhiên con cũng biết khóa tu này nhằm đưa con đến tầng 96, và sau tầng 96 vẫn còn một khoảng dài trước khi con lên được tầng 144. Ở mức này, thật là không thực tế nếu con xây dựng ý tưởng là khi con đạt đến tầng 96 thì con sẽ có thể thực hiện phép lạ như Giê-su. Con yêu dấu, chuyện này không thực tế lắm đâu.

Tuy nhiên, con đã thấy Giê-su làm gì khi thày thực hiện những việc gọi là phép lạ đó – thực sự không phải là phép lạ mà chỉ đơn giản là sự áp dụng định luật tự nhiên và quyền năng của tâm? Phải, điều thày Giê-su làm là hoặc thày đã chữa lành ở mức cá nhân, hoặc thày đã làm phép lạ mà không điều khiển tâm người khác. Khi thày biến nước thành rượu, thày đã biến hóa chất vật lý đó, nhưng thày không biến đổi tâm. Thày làm việc trên một chất vật lý chứ không trên tâm của người khác. Khi thày đi bộ trên mặt nước, thày đã không thay đổi tâm của các môn đệ, nhưng tất nhiên thày đã cho phép Peter vươn lên một mức tâm thức cao hơn để Peter cũng đi bộ được trên mặt nước cùng thày. Peter đã không duy trì được tâm thức đó và bắt đầu chìm xuống nước, và điều này cho con thấy là thật sự, việc nâng cao tâm thức của người khác một cách giả tạo không mấy ích lợi.

Đó là lý do tại sao các thày đang trao cho con một khóa học tuần tự sẽ dần dần nâng cao tâm thức con dựa trên chính nỗ lực của con, dựa trên việc xây dựng những chứng đạt nội tâm thay vì dẫn con vào một trạng thái hưng phấn chỉ kéo dài chốc lát vì nó không thể được duy trì. Điều mà Giê-su đã làm cho Peter thật ra là để chứng tỏ rằng một người ở một mức tâm thức thấp hơn có thể được tạm thời nâng lên, nhưng thật sự nó không đem lại tác dụng gì, vì như con cũng thấy sau phiên xét xử, Peter đã chối bỏ Giê-su tới ba lần cho dù ông đã được ban cho kinh nghiệm đó.  

Điều thày cần con làm ở tầng thứ hai này là xây dựng một dự kiến thực tế về những gì mình có khả năng làm được sau khi con hoàn tất khóa tu này. Thày muốn gợi ý cho con, trước tiên con hãy nhận ra là rất nhiều ước mơ mà người ta vẫn có – cho dù con là đệ tử của chân sư thăng thiên hay là người theo Thời mới hay cả những người bình thường – không thể được thỏa mãn trong khuôn khổ Định luật Tự quyết. Nếu con có ước mơ làm cho nhiều người thay đổi đời họ, hay cách hành xử của họ hay trạng thái tâm họ, thì ước mơ đó không nằm trong các thông số của Luật Tự quyết – trừ khi con có thể truyền cảm hứng cho họ làm như vậy. Nhưng rất, rất nhiều người lại mơ ước là chẳng hạn, mình có được quyền năng khiến cho ai nấy bị áp đảo bởi sức mạnh của tánh linh đến độ họ nhận ra nơi con quyền năng to lớn đó và con là nhân vật xuất chúng đó. Chuyện đó không hợp với Luật Tự quyết đâu con. Con thấy là Giê-su đã không làm như vậy ngoại trừ trong một vài trường hợp khi điều kiện rất khác.

Điều con nhận ra ở đây là con cần điều chỉnh kỳ vọng của mình hầu con không tự đặt ra cho mình một mục tiêu có dính dáng đến chuyện thao túng quyền tự quyết của người khác. Nếu con làm vậy, tất nhiên là con sẽ tạo nghiệp, và đây chính là điều có thể dẫn con tới điểm khi ở tầng tâm thức 96, con bị rớt trong cuộc khai ngộ quyết định mà thày đã có nói tới. Con sẽ tìm cách gia tăng quyền năng của mình thay vì tìm cách nâng cao toàn thể.

Ở đây thày cũng mong con xem xét là con muốn đặt ra cho mình một mục tiêu khả thi dựa trên các điều kiện hiện hữu trên trái đất, dựa trên sự kiện con không có khả năng khống chế tâm thức tập thể. Mục tiêu đó cũng cần “hợp pháp”, dựa trên sự cân nhắc về Luật Tự quyết, để con không tìm cách điều khiển tâm người khác. Có nghĩa là trong giai đọan này của đường tu, thày yêu cầu con tập trung thật sự vào một mục tiêu liên quan chủ yếu đến chính bản thân con, một mục tiêu không đòi hỏi người khác phải thay đổi tâm họ, cuộc đời họ hay cách hành xử của họ để thỏa mãn mục tiêu của con.

Thày cũng yêu cầu con xét xem con có thể làm gì để giúp thăng tiến Thời Hoàng kim của thày. Thày đã có nói ở đây là cuộc khai ngộ quyết định ở tầng 96 là liệu con có tiếp tục trụ tâm vào chính mình hay con sẽ bắt đầu tập trung vào toàn thể. Điều thày đang hướng dẫn con đi tới là con cần định ra một mục tiêu không đòi hỏi mình phải áp đặt quyền lực của mình lên người khác, nhưng đồng thời, mục tiêu đó cũng không quá tập trung vào hoàn cảnh cùng những điều kiện cá nhân của con, mà có được tầm quan trọng nào đó đối với toàn thể. Ở điểm này, thày yêu cầu con xem xét là việc đồng sáng tạo có hai yếu tố.

6.11. Hai khía cạnh của đồng sáng tạo

Khía cạnh alpha của đồng sáng tạo là con thị hiện một điều gì đó một cách trực tiếp – giống như thày đã có nói về các Elohim – dưới dạng một chất vật lý hiện ra từ “hư vô”. Trước đó thì không có chất vật lý nào cả, mà giờ đây lại có một hành tinh vật lý. Đây là thuật thị hiện bằng kết đọng (precipitation). Thày cũng yêu cầu con xem xét khía cạnh omega của đồng sáng tạo, là khi con nắm lấy các điều kiện đang hiện diện trên địa cầu và con cải thiện chúng.

Chẳng hạn, con có thể thấy là cho dù vòng xoáy hướng hạ đã từ rất lâu khiến cho vật chất dày đặc hơn cũng như đã kéo xã hội ngày càng thấp xuống hơn, vòng xoáy này đã được đảo ngược. Trong thời gian qua, nền văn minh đã đi vào một vòng xoáy hướng thượng và đã có nhiều tiến triển trong các điều kiện sinh sống. Đó phần lớn là lý do tại sao con có thể ngồi đây mà tận hưởng thú vui đọc một quyển sách. Con có thì giờ đọc quyển sách đó thay vì bỏ hết thì giờ ra cong lưng làm lụng trên đồng ruộng rồi lăn ra ngủ khi về tới nhà.

Đời sống đã cải thiện, nhưng làm thế nào chuyện đó đã xảy ra? Nó đã xảy ra phần lớn là vì một số người đã có khả năng hòa điệu với cõi thăng thiên và đem xuống những tư tưởng đã cải thiện một số điều kiện sống trên địa cầu. Khía cạnh alpha của đồng sáng tạo là sự kết đọng trực tiếp. Còn khía cạnh omega của đồng sáng tạo là đưa ý tưởng tử cõi thăng thiên xuống cõi vật lý.

Thày yêu cầu con, trước tiên, hãy định ra một mục tiêu cho bản thân hầu ở cuối khoá tu này, con ở trong một trạng thái tâm qua đó con có khả năng nhận được tư tưởng từ thày hay từ một chân sư thăng thiên khác mà con đã chọn, là những tư tưởng liên quan đến một lãnh vực đời sống mà con quan tâm đặc biệt. Nói cách khác, đây không phải là chuyện làm thị hiện của cải từ hư vô – đó không phải là muc tiêu của con lúc này – mà là thị hiện một ý tưởng. Thày cũng yêu cầu con xem xét một mục tiêu khác nữa cho bản thân, là thay đổi hoàn cảnh cá nhân trong đời mình hầu không còn mâu thuẫn nào giữa đời sống tâm linh và đời sống thực tế, vật lý hàng ngày của con. Đây thật ra là một điều mà thày sẽ đề cập nhiều hơn trong bài giảng tới, nhưng ở đây thày muốn cho con một ý niệm về mục tiêu của khóa học này:

  • Con trở thành cánh cửa mở cho những ý tưởng từ các chân sư thăng thiên nhằm cải thiện một khía cạnh nào đó của cuộc sống.
  • Con đem lại sự hài hòa giữa đời sống tâm linh và đời sống thực tiễn của con.

Đó chính là điều mà thày mong muốn trao cho con qua bài giảng này, và thày mong sẽ nối lại câu chuyện với con ở tầng kế tiếp.

Con là một nghệ nhân điêu khắc năng lượng thuần khiết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 10/1/2019.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain và thày vô cùng vui mừng trao cho con phần đầu của các cuộc khai ngộ mà con sẽ đi qua dưới thày tại khóa nhập thất của thày có tên là Hang Biểu tượng. Hãy cho thày bắt đầu với phần trình bày về nơi nhập thất này.

Có thể con đã quen thuộc với các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên cùng các giáo lý mô tả chi tiết hơn về nơi nhập thất này. Có thể con đã được thấy hình ảnh những đại sảnh mà người ta bảo là có tạc ghi nhiều biểu tượng huyền bí hay bí truyền mang một số ý nghĩa đặc biệt, và nếu con hiểu các biểu tượng này, con sẽ có khả năng làm thị hiện (kết đọng) bất cứ gì con muốn. Tất nhiên, đó là một lời dạy nhắm tới một mức tâm thức thấp hơn so với những lời dạy các thày trao truyền ngày hôm nay, cho nên các thày đã phải đánh động đến những gì học viên mong muốn ở mức đó. Các vị thượng sư khác đã cố gắng hết sức để giúp con vượt lên trên mức tâm thức đó, cho nên giờ đây con đã sẵn sàng nhận một giáo lý cao hơn.

4.1. Ý nghĩa thật của các biểu tượng

Thật có nghĩa là gì khi gọi khóa nhập thất của thày là hang “biểu tượng”? Để hiểu, con hãy cho thày trở ngược về một lời dạy của nhà hiền triết Hy lạp cổ Plato nhiều năm trước đây. Plato nói rằng có một cõi cao hơn vượt khỏi thế giới vật lý, vật chất, một cõi mà ông gọi là “những hình dạng lý tưởng”. Chúng ta cũng có thể nói, các hình dạng lý tưởng này là những biểu tượng. Chính sự tương tác giữa các hình dạng lý tưởng này nơi cõi cao hơn định đoạt những gì sẽ thị hiện trong cõi vật lý, cũng như những hình tướng mà mọi vật khoác lấy trong cõi vật lý. Đó là một cách mô tả chính xác hơn về Hang Biểu tượng, nhưng hiển nhiên hôm nay chúng ta có thể đi xa hơn nữa.

Các thày đã giảng dạy là con có một cơ thể vật lý, và vượt lên trên, con còn có một cảm thể, một trí thể và một bản sắc thể. Làm thế nào con đồng sáng tạo? Các thày có dạy là con nhận ánh sáng và năng lượng từ Hiện diện TA LÀ của con. Khi năng lượng này đi qua ba thể cao kia, nó sẽ khoác lấy hình tướng của bất cứ cấu trúc, hình ảnh, biểu tượng, hình dạng nào mà con có nơi ba thể đó. Đây thực sự là cách hình dung tiến trình đồng sáng tạo.

Cái mà Plato gọi là “thế giới hình dạng lý tưởng” phần nào là cõi tâm linh, là cõi thăng thiên, nhưng người ta cũng có thể bảo đó là ba thể phàm cao hơn kia của con. Con có một số hình tướng trong ba thể cao này. Quả thật, trong ba thể đó con có thể có một số hình tướng lý tưởng hơn, thuần khiết hơn, tinh xảo hơn, chi tiết hơn những gì thị hiện ra trong cõi vật lý. Thực tế là hầu hết mọi người đều có một hình dạng lý tưởng, một hình ảnh lý tưởng, một biểu tượng lý tưởng nào đó trong ba thể cao. Và bây giờ câu hỏi trở thành như sau: “Tại sao nó không thị hiện ra được trong cõi vật lý?”

4.2. Những người có tầm nhìn chỉ chú trọng đến mình

Khi con nhìn nhân loại, con sẽ biết là con người đang ở rất, rất nhiều tầng cấp tâm thức khác nhau. Hầu hết mọi người trên hành tinh này ở một mức thấp hơn nhiều so với tâm thức mà con có khi con bắt đầu khóa tu này [quyền sách này], ít ra là nếu con đã làm theo sự hướng dẫn của sáu vị thượng sư kia. Con nhìn vào nhiều người và con có thể thấy là trong ba thể phàm cao hơn của họ, không nhất thiết họ đang mang những hình dạng mà Plato gọi là lý tưởng. Họ có một tầm nhìn rất hạn chế, họ có một số hình ảnh và ý tưởng rất méo mó. Tuy vậy, con sẽ thấy là trong ba thể cao của hầu hết mọi người, những hình tướng đó vẫn còn cao hơn những gì được biểu thị trong cõi vật lý, vật chất, ít ra là trong đời sống riêng tư của họ.

Và câu hỏi trở thành: “Cái gì ngăn cản con người thị hiện vào cõi vật lý những hình dạng mà họ mang trong ba thể cao?” Câu hỏi này có thể ứng dụng đồng đều cho một người ở tầng tâm thức thấp nhất cũng như một đệ tử của chân sư thăng thiên ở mức của con. Hiển nhiên, nếu con đi xuống tầng tâm thức thấp nhất, con sẽ thấy là thật ra có những người ở đó có khả năng thị hiện trong cõi vật lý những thứ rất gần với các hình dạng mà họ có trong ba thể cao, và buồn thay, những gì họ có trong ba thể cao quả thực là những hình dạng vô cùng thấp, vô cùng méo mó và ô uế. Con có thể thấy một số người ở mức tâm thức thấp vẫn có được một viễn kiến cao hơn nào đó, chẳng hạn như một ông vua muốn thị hiện một cung điện lộng lẫy. Ông ta có khả năng hình dung ra cung điện đó và cũng có khả năng đem một cái gì gần giống như vậy vào thị hịên vật lý, nhưng tiếc thay, viễn kiến của ông tất nhiên là hoàn toàn vị kỷ. Việc xây dựng cung điện sẽ đòi hỏi sức lao động của hàng vạn người làm nô lệ cho ông.

Con thấy đó, có một số người có khả năng hình thành một viễn kiến trong ba thể cao và đem nó vào hiện thực vật lý. Có thể đó không phải là một viễn kiến phá hoại. Con không thể bảo là một số cung điện nguy nga mà con tìm thấy tại hầu hết mọi nước đều nhất thiết là xấu xí hay méo mó, và quả thực một số có thể khá đẹp từ một góc nhìn trần thế nào đó. Tuy vậy, khi con biết các cung điện đó đã được tạo dựng như thế nào thì con thấy những kẻ nảy sinh ra viễn kiến đó đã có một mức tâm thức rất thấp, rất vị kỷ, chỉ chú trọng đến bản thân. Để thị hiện viễn kiến của họ, hẳn là họ đã phải dùng đến sức nô lệ của hàng vạn con người.

Và con thấy là ở một tầng tâm thức thấp kém, người ta quả là có khả năng thực hiện một viễn kiến trong cõi vật lý, nhưng thứ nhất, viễn kiến đó vị kỷ, và thứ hai, cách thực hiện của họ cũng vị kỷ.

4.3. Làm thế nào một thời đại hoàng kim có thể thị hiện

Đối với một đệ tử của chân sư thăng thiên, câu hỏi bây giờ trở thành như sau: “Đó có phải là điều con muốn đạt hay không?” Liệu con có nghĩ là bằng cách theo học khóa tu này, thày sẽ trao cho con một công thức bí mật nào đó, một biểu tượng bí mật nào đó sẽ cho phép con thị hiện bất cứ gì con muốn? Con thấy đó, con yêu dấu, ở tầng khai ngộ đầu tiên tại khóa nhập thất của thày, tất nhiên con đang đối mặt với sự phối hợp giữa Tia thứ Nhất của Ý chí và Quyền năng với Tia thứ Bảy của Tự do. Khi con nhìn vào lịch sử nhân loại, con có thể thấy một số kẻ đã tập trung được một động lượng ý chí và quyền năng rất to lớn nhưng họ lại hoàn toàn mất quân bình về mặt tự do. Nói cách khác, để một ông vua thể hiện được ý chí của mình, ông ta đã phải sử dụng quyền lực, tước mất tự do của hàng vạn người hầu ông xây được cung điện đó, công trình kiến trúc đó.

Hiển nhiên, đây không phải là điều thày sẽ dạy con trong khóa này. Không thể nào thày sẽ dạy con sử dụng sức mạnh của ý chí để lật bỏ quyền tự quyết của người khác, cho dù của đúng một người hay của hàng vạn người. Con yêu dấu, con có hiểu là như các thày đã nói rất nhiều lần, các chân sư thăng thiên tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết hay chăng? Từ một góc nhìn nào đó, con có thể nói mục đích của thày là thị hiện một Thời Hoàng kim trên trái đất, và trong Thời Hoàng kim đó, không một ai sẽ thiếu thốn những thức cần thiết của đời sống và không một ai sẽ phải đau khổ. Phải, đó là mục đích của thày, con yêu dấu, nhưng làm thế nào thày sẽ hoàn thành được chứ? Thày không đang hình dung là Thời Hoàng kim sẽ được biểu hiện bởi một vài ông vua, một vài hoàng đế hay một vài nhà lãnh đạo oai phong nào đó, tuy họ có viễn kiến nhưng lại thực hiện viễn kiến của họ qua sự cưỡng ép, thao túng, tước đoạt quyền tự quyết của những người dân mà họ cai trị. Đó không phải là phương thức thị hiện Thời Hoàng kim mà thày hình dung.

Thày biết con có thể nghĩ: “À, đối với con thì chuyện đó tất nhiên rồi.” Vậy liệu đối với con, chuyện có tất nhiên hay chăng là thày cũng không có ý định thị hiện Thời Hoàng kim qua trung gian một số ít người tâm linh, cho dù với ý định tốt lành, sẽ lấn át ý muốn của đa số dân chúng? Chúng ta đã đề cập đến lớp 10% trên cùng, lớp 80% ở giữa và lớp 10% ở dưới cùng, và lẽ tự nhiên, các sa nhân đang đầu thai và những ai đã bị tâm thức sa ngã chiếm đoạt hết tâm trí, hình thành số 10% có tâm thức thấp nhất này. Đây là những người rất nhiều khi sẽ dùng vũ lực để ép uổng ý chí số 80% dân chúng phải đi theo âm mưu của họ. Nhưng cũng có những đệ tử của chân sư thăng thiên tưởng rằng vì mình thuộc lớp 10% cao nhất thì mình cũng có thể ép uổng ý chí số 80% đó theo viễn kiến và ý định cao hơn của mình.

Các thày đã cố giải thích thật rõ ràng cho con, đặc biệt qua các lời dạy về ngã gốc, về các avatar đến địa cầu, và về cách thức con có thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình và đạt được tiềm năng tâm linh cao nhất của con. Các thày đã cố nói thật rõ qua các lời dạy đó là các thày không muốn con đi ngược lại hay ép buộc ý muốn của đa số quần chúng. Đây không phải là cách thức thày muốn thị hiện Thời Hoàng kim của thày. Và điều này có nghĩa là ở cuối khóa tu này, nếu con làm theo sự hướng dẫn của thày và sẵn lòng bước lên cao hơn qua cả bảy tầng khai ngộ, thì thày sẽ dẫn con lên tới tầng tâm thức 96.

4.4. Cuộc khai ngộ quyết định ở tầng 96

Các thày đã có nói là ở tầng tâm thức 96, con đối mặt với một cuộc khai ngộ quyết định. Ở tầng 96, con sẽ đạt được một mức điều ngự nào đó để bẻ cong được vật chất bằng tâm mình. Do đó con trực diện với khai ngộ chủ yếu như sau: “Liệu con sẽ bước lên mức cao hơn của quả vị Ki-tô nơi con sẽ tìm cách nâng cao tổng thể, hay là con sẽ bắt đầu đi xuống mức thấp hơn nơi con sẽ sử dụng khả năng điều ngự của mình để bẻ gẫy ý chí người khác, để cưỡng ép ý chí người khác?” Đây là cuộc khai ngộ quyết định. Lẽ tự nhiên, mục tiêu của thày là giúp con vượt qua khai ngộ này và bước lên tới mức quả vị Ki-tô.

Đó là tại sao ngay từ đầu thày đã đề cập đến vấn đề này, bởi vì đối với thày, việc thiết lập một khung cảnh đúng đắn cho những cuộc khai ngộ mà con sẽ đi qua tại khóa nhập thất của thày thật là quan trọng. Con hẳn cũng biết là các thày đã nâng tâm thức con lên một mức cao hơn hẳn so với khi con mới khởi sự khóa tu. Điều này có nghĩa là thày cần tháo gỡ điều mà Nada đã đề cập khi nói về những mơ mộng hão huyền mà đệ tử tâm linh có thể có. Quả thực đó là một loại mộng tưởng rất phổ biến và rất thuyết phục mà nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên thường có, là cho rằng khi con bước lên cao hơn trên đường đạo, các khai ngộ sẽ ngày càng dễ dàng hơn. Có nhiều đệ tử tâm linh, đệ tử Thời mới, đệ tử của chân sư thăng thiên, mơ mộng rằng một ngày kia họ sẽ vượt qua một khai ngộ then chốt nào đó, rồi từ đó trở đi mọi chuyện sẽ dễ dãi – và kể như họ đã tới đích. Tất nhiên, chuyện đó không thực tế chút nào. Đó không phải là cách vận hành của con đường khai ngộ.

4.5. Con đường khai ngộ vận hành thế nào

Chúng ta có thể tiếp cận câu hỏi này một cách khác. Ta có thể nói là với tầng khai ngộ thứ 48, con nhìn cuộc sống xuyên qua phin lọc của một số ảo tưởng mà con đã khoác vào. Do đó, khai ngộ dẫn con từ tầng 48 đến 49 đòi hỏi con nhìn vượt quá các ảo tưởng mà con đang có, rồi đi lên một bước cao hơn khi con lột bỏ ảo tưởng chủ yếu của tầng 48. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là khai ngộ ở tầng 96 cũng từa tựa như thế. Con vẫn đang nhìn xuyên qua một số ảo tưởng đáng kể là những ảo tưởng còn sót lại từ tầng 96 đến 144. Con vẫn phải xem xét hoàn cảnh của mình và nhìn cuộc khai ngộ xuyên qua những ảo tưởng đó, và chúng vẫn khiến con bị đui mù.

Tất nhiên con có thể bảo là ở tầng 96, con không còn nhiều ảo tưởng như ở tầng 48. Ở tầng 48, điều khiến con khó nhìn ra cuộc khai ngộ mà con phải đối mặt ở mức đó không phải là tất cả các ảo tưởng trên mức 48, mà là đúng cái ảo tưởng ở ngay mức đó khiến con khó khăn vượt qua khai ngộ. Và ở tầng 96 cũng vậy, không phải tất cả các ảo tưởng mà con đã buông bỏ cho tới nay sẽ khiến con vượt qua khai ngộ dễ dàng hơn, và cũng không phải tất cả các ảo tưởng ở trên mức đó khiến con gặp khó khăn. Cái tạo khó khăn cho con là chính cái ảo tưởng ở mức con đang cố vượt qua. Nhìn ra ảo tưởng ở tầng 96 thật không dễ gì hơn tầng 48. Và cũng vậy, việc nhìn ra ảo tưởng ở tầng 144 sẽ không dễ gì hơn bất kỳ tầng nào khác. Con thấy đó, con yêu dấu, dù con ở tầng nào đi nữa, ảo tưởng ở tầng đó cũng sẽ khó khăn y như ở mọi tầng khác. Cho nên thật là vô nghĩa mà nghĩ rằng khi con tiến bước cao hơn thì đường tu sẽ trở nên dễ dàng hơn.

Tuy vậy, chúng ta có thể nói là từ một góc độ nào đó, ảo tưởng mà con đối diện ở tầng 48 sẽ trực tiếp hơn, hiển nhiên hơn, rõ rệt hơn, dễ thấy hơn rất nhiều khi con phải xác định cách hành xử nào là phải hay không phải. Điều này đúng theo một nghĩa nào đó. Ở những mức tâm thức thấp hơn, có một sự tương phản nhất định về mặt vượt qua khai ngộ giữa cái phải với cái không phải. Con không thể thấy tương phản đó ở tầng 48. Con dễ dàng thấy được tương phản ở tầng 96, nhưng ở tầng 96 con không thể dễ dàng thấy được sự khác biệt giữa việc vượt qua khai ngộ hay không vượt qua.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói là các ảo tưởng ngày càng trở nên vi tế hơn khi con bước lên cao hơn. Ở các tầng cao, việc xác định xem chọn lựa nào là đúng đắn hay không mấy đúng đắn trở nên khó khăn hơn so với các tầng thấp. Con cần buông bỏ mơ mộng cho rằng khi con đến tầng 96, mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn kể từ đó. Con cần sẵn lòng đối mặt với cuộc khai ngộ ở mỗi tầng trong số bảy tầng mà thày sẽ cống hiến cho con, và con không được mang hy vọng là một ngày kia thày sẽ trao cho con một công thức tối thượng nào đó sẽ khiến mọi chuyện đều dễ dàng và con có thể thị hiện bất cứ gì con muốn.

4.6. Quân bình trong tự quyết

Con thấy đó, như thày Nada đã có đề cập mấy lần trong các bài giảng của thày, có một nhu cầu thiết yếu là con quân bình ý chí cá nhân của mình với ý chí của người khác cũng như với viễn quan tổng thể về hành tinh. Con có thể nói: “Con là một đệ tử của chân sư thăng thiên và con muốn giúp thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain.” Đây là một mong muốn xây dựng và đáng trân trọng. Con cần xét xem, như Nada cũng có giảng, làm thế nào con có thể có những phàm linh nội tại dựa trên cơ chế bù đắp hay những cơ chế khác, tức là con có một viễn kiến về Thời Hoàng kim của Saint Germain mà lại không đồng thuận với chính viễn quan của thày. Thậm chí thày đã có nói về điểm này trong bài mở đầu của thày sau các bài giảng của Nada, khi thày mong muốn con tẩy sạch khỏi tâm trí con mọi mơ mộng về cách thức Thời Hoàng kim sẽ biểu hiện như thế nào.

Con muốn giúp thị hiện những gì chứ? Đó có phải là Thời Hoàng kim như thày nhìn, hay là Thời Hoàng kim như con nhìn – có lẽ dựa trên một số hình ảnh phổ biến đang chạy lông bông trong tâm thức tập thể? Nói thật trong nhiều trường hợp, đó là những hình ảnh dựa trên những gì sa nhân mường tượng cho một thời vàng son, nghĩa là họ mường tượng chính họ sẽ nắm lấy quyền kiểm soát. Cái nhìn của sa nhân về thời hoàng kim là sẽ có một vài người lãnh đạo tạo dựng những xã hội vô cùng tinh vi và phức tạp được áp đặt lên ý chí của đa số quần chúng. Một số những sa nhân này còn thành thật tin rằng một xã hội như vậy sẽ đem lại lợi ích cho mọi người, vì chúng không thể tin là con người có khả năng biết mình muốn gì hay mình có viễn quan như thế nào về một xã hội tốt đẹp hơn. Tất nhiên đây không phải là viễn quan của thày.

Viễn quan của thày là thị hiện một thời hoàng kim dựa trên tâm thức tập thể được nâng cao hầu đa số dân chúng trên địa cầu có được một viễn quan cho một xã hội tốt đẹp hơn. Con người sẽ thật sự có được một nhận thức bên trong, một sự chấp nhận bên trong, rằng một xã hội như vậy có khả năng thị hiện, và nó đang thị hiện, đang trên đà thị hiện. Đây là điều mà con đã chứng kiến tại rất nhiều quốc gia phát triển trên thế giới khi trong vòng khoảng 100 năm qua, người dân đã tiến bộ rất, rất xa khi họ chấp nhận rằng sự trù phú vật chất là một khả năng mà nước họ có thể đạt được. Con có thể thấy là ba thế hệ về trước, thế hệ ông bà cố của những người dân đó đã không thể nào tin và chấp nhận là xã hội ngày nay có thể hiện hữu. Họ sẽ coi xã hội hôm nay là một giấc mơ hão huyền thật xa vời.

Viễn quan của thày là nâng cao mọi người, và làm thế nào chúng ta thực hiện được chứ? Chúng ta thực hiện không bằng cách cưỡng ép mọi người, mà bằng cách khiến cho lớp 10% ở trên cùng nâng cao viễn kiến của mình, để các con là những người đang đầu thai, đang tham gia vào tâm thức tập thể, có thể kéo đa số đi lên. Không phải là con sẽ ép buộc họ phải nhìn thấy, mà con khiến cho họ có khả năng nhìn thấy. Rồi họ sẽ bắt đầu nhìn thấy và chấp nhận một viễn kiến cao hơn. Vậy con cần làm gì – nếu có thể nói như vậy – để con đặt ý chí của con cho thẳng hàng với ý chí của Saint Germain? Phải, ở đây con cần nhìn nhận là không bao giờ có hoàn cảnh nào mà con, như một người đồng sáng tạo, có thể thị hiện bất cứ gì mình muốn mà không xét đến mình là một phần của một tổng thể rộng lớn hơn.

4.7. Ý chí cá nhân và ý chí rộng lớn hơn

Các thày đã giảng dạy là một số trong các con là avatar đến địa cầu từ một hành tinh tự nhiên. Các thày có nói là trên một hành tinh tự nhiên, vật chất bớt dày đặc hơn, và cũng dễ dàng hơn rất nhiều để con có viễn kiến ở những tầng cao hơn của tâm và thị hiện viễn kiến đó trong cõi vật lý. Nhưng các thày cũng có nói là trên một hành tinh tự nhiên, con không ở trong tâm thức nhị nguyên, cho nên con không bị rơi vào ảo tưởng tách biệt khiến con nghĩ mình là một cá nhân tách biệt sinh sống giữa những cá nhân tách biệt khác. Con không bị ảo tưởng là hành vi của mình đối với người khác không ảnh hưởng gì đến mình. Con biết mình là một phần của tổng thể. Và đối với các cư dân nguyên thủy của địa cầu cũng vậy, họ biết điều đó trước khi sa nhân đến đây.

Nhưng có một sự khác biệt giữa một avatar và một cư dân nguyên thủy, theo nghĩa là các cư dân nguyên thủy đã chưa phát triển được một cá thể mạnh mẽ như các avatar đến địa cầu từ một hành tinh tự nhiên. Đó là lý do tại sao con thấy 80% dân chúng trên trái đất bị tâm thức tập thể ảnh hưởng rất nhiều. Và đó cũng là tại sao các thày nói đến việc nâng cao tâm thức tập thể để cho những người đó, những người thuộc số 80% này, nắm bắt được viễn kiến do số 10% ở trên cùng khởi xướng. Dĩ nhiên, trong số 10% trên cùng đó cũng có một số là dân cư nguyên thủy đã phát triển tới mức đó. Điều thày muốn nói ở đây là khi con đến địa cầu như một avatar, con đã không đến với viễn kiến mình là một loại lãnh đạo chuyên chế sẽ cưỡng bách ý chí của dân chúng.

Con đã đến đây với viễn kiến là mình sẽ tạo cảm hứng cho người khác. Con cũng đã đến đây với sự hiểu biết, với kinh nghiệm từ một hành tinh tự nhiên là mình không dùng khả năng đồng sáng tạo của mình trong chốn không người, như thể việc mình làm không ảnh hưởng đến ai khác. Con dùng khả năng đồng sáng tạo dựa trên ý chí của con nhưng ý chí này không phải là một ý chí tách biệt. Nó đứng thẳng hàng, đồng thuận với tổng thể, với một viễn quan rộng lớn hơn – trước tiên là với Hiện diện TA LÀ của con. Con có thể nói: “Làm thế nào một vị đồng sáng tạo tân lập trên một hành tinh tự nhiên có thể đồng thuận ý chí của mình với một viễn quan toàn bộ khi y chỉ có một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm?” Phải, y không thể, nhưng y có thể đồng thuận ý chí cá nhân với ý chí của Hiện diện TA LÀ của y. Khi con làm vậy, Hiện diện TA LÀ của con sẽ đứng thẳng hàng với tổng thể, với viễn quan toàn bộ của hành tinh đó. Và do đó, con không sử dụng ý chí của mình để đi ngược lại ý chí của những vị đồng sáng tạo khác chung quanh con. Ở mức này, đây là một điểm rất quan trọng mà con cần ghi nhớ.

Con cũng cần nhìn nhận là mặc dù các thày có nói là việc thị hiện những gì mình muốn dễ dàng hơn trên một hành tinh tự nhiên, điều đó không có nghĩa là con có thể có bất kỳ viễn kiến nào con muốn và thị hiện viễn kiến đó. Ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, vẫn có một số điều có thể gọi là “điều kiện”, về cách thức con sử dụng khả năng đồng sáng tạo của mình. Một số người sẽ gọi đó là những giới hạn, nhưng thày ưa dùng từ này hơn vì một lý do đặc biệt.

4.8. Làm cho ý chí thấp đồng thuận với ý chí cao

Vì vậy, thày muốn cho con viễn kiến là trên một hành tinh tự nhiên, con không sáng tạo trong hư vô. Con là một nghệ nhân, và thày dùng từ này vì thày muốn đối chiếu với một loại nghệ nhân mà con quen thuộc trên địa cầu – một nhà điêu khắc. Một nghệ sĩ điêu khắc không làm việc với không khí để nặn ra hình dạng; y làm việc với một vật liệu cụ thể. Có nghĩa là khi con xem đến việc đồng sáng tạo một bức tượng, con phải trước tiên dùng sức mạnh ý chí để chọn lựa loại vật liệu nào mà con sẽ dùng. Ngay cả thời xưa, các nhà điêu khắc đã có nhiều loại vật liệu để sử dụng. Họ có thể dùng đất sét. Đất sét là một vật liệu rất mềm, rất dễ nặn thành gần như bất kỳ hình dạng nào. Nếu con thiếu kiên nhẫn và muốn thị hiện thật nhanh thì con dùng đất sét. Vấn đề là đất sét sẽ không giữ được lâu dài, và cho dù nó được nung nóng, tuổi thọ của nó cũng sẽ hạn chế.

Một khi con có nhiều kinh nghiệm điêu khắc hơn, con có thể nói là nhu cầu thị hiện dễ dàng một viễn kiến nào đó sẽ không còn quan trọng lắm đối với con. Vì giờ đây con muốn thị hiện một cái gì có tuổi thọ dài hơn, có nghĩa là con cần chọn một vật liệu bền bỉ hơn. Con có thể chọn đá vôi chẳng hạn. Nó khó nặn tạc hơn đất sét nhưng nó lâu bền hơn, tuy vậy nó không lâu bền nhất và cũng không là vật liệu đẹp nhất. Đá hoa cương lâu bền hơn nhiều, nhưng cũng rất khó đẽo. Đá cẩm thạch dễ đẽo hơn đá hoa cương và, như nhiều người đồng ý, lại mang một vẻ đẹp, một màu sắc, một ánh sắc mỹ lệ hơn.

Con thấy được ở đây, như thày vừa nói, một trong những mơ mộng mà nhiều đệ tử tâm linh thường có, là họ nghĩ bằng cách đạt được một số khả năng thần diệu, họ có thể bù đắp cho sự mất mát mà họ đã cảm thấy khi họ gặp sa nhân lần đầu và bị sa nhân bài bác, Họ mơ ước thị hiện được một cái gì đó ngoạn mục đến độ không ai có thể bác bỏ, không ai có thể làm ngơ. Khi con biết là mình đang ở trên địa cầu nơi vật chất có độ dày đặc nào đó, con sẽ thấy ngay chuyện này cũng không là một ước mơ thực tế.  Cho nên ở tầng đầu tiên này, thày cần con – và thày biết thày đã làm chuyện này trước đây rồi – nhưng thày vẫn cần con lấy một quyết định ý thức là mình sẽ để cho những giấc mơ xa vời kia chết đi. Con hãy để cho chúng ra đi, bởi vì điều con muốn làm ở mức này là con muốn sử dụng sức mạnh ý chí để chọn lựa vật liệu mà con sẽ dùng hầu thị hiện tác phẩm nghệ thuật của con.

Con sẽ có thể nói: “Nhưng liệu con đã có một viễn kiến rõ ràng về những gì con muốn thị hiện hay chưa?” Thày sẽ trả lời: “Có, con đã có một viễn kiến rõ ràng khi con thiết lập Sứ vụ Thiêng liêng về những điều con muốn thị hiện trong kiếp sống này.” Không phải là chuyện con ngồi đây với mức tâm thức hiện thời của con, viễn kiến hiện thời của con, rồi quyết định với tâm vỏ ngoài là mình muốn thị hiện cái gì, mà là chuyện con quyết định với tâm ý thức là con muốn đặt cái tâm ý thức đó đứng thẳng hàng với ý chí cao hơn mà con đã dùng để thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng, thẳng hàng với ý chí cao hơn của Saint Germain cùng viễn quan của thày cho Thời Hoàng kim. Đây là việc mà thày cần con làm ở mức này. Thày cần con xem xét điều này. Thày cần con xem xét những giấc mơ cùng bất kỳ mong muốn nào, viễn kiến nào mà con có thể đã có khi muốn cưỡng ép ý chí của loài người trên địa cầu, ngay cả vì lợi ích của họ.

4.9. Xem mình là một nghệ nhân

Thày cần con thực hiện một sự xoay chuyển trong tâm con khi con bắt đầu xem mình là một nghệ sĩ và đời mình là một tác phẩm nghệ thuật. Đối với nhiều người trong số các con, điều này sẽ đòi hỏi con điều chỉnh to tát, vì cho tới giờ con đã nhìn đời con một cách khác. Một số trong các con có trong đầu một lãnh vực hoạt động đặc thù nào đó mà con muốn bước vào, hoặc con đã bước vào, hoặc con mơ ước bước vào, nơi con có thể phụng sự xã hội. Đó có thể là lãnh vực chính trị, có thể là giáo dục, là khoa học, là kinh tế, là truyền thông, là nhiều thứ khác nữa. Đó cũng có thể là lãnh vực gia đình, chăm sóc gia đình, nuôi nấng con cái và nhiều thứ nữa. Con đã có xu hướng nhìn cuộc đời xuyên qua một phin lọc dựa trên lãnh vực mà con chú ý. Trong nhiều trường hợp, con đã có xu hướng nhìn vào những phương cách hoạt động thực tế của lãnh vực đó. Chẳng hạn trong chính trị, nền chính trị vận hành ra sao? Mình phải cần gì để dấn thân vào chính trị? Hay chẳng hạn mình cần làm gì để trở thành một vị dân cử?

Trong nhiều trường hợp, con đã từng nhìn vào vấn đề như thế, giống như vị sứ giả này chẳng hạn khi ông còn ở tuổi thiếu niên. Ông đã có một viễn kiến bước vào chính trường tại Đan Mạch nơi ông sinh trưởng, và trở thành thủ tướng xứ đó. Con yêu dấu, thày có thể nói với con là với sự chứng đạt của ông trong tiền kiếp, nếu ông đã dành trọn chú tâm vào việc này thì ông đã có thể trở thành Thủ tướng Đan Mạch thật, nhưng đó không phải là viễn kiến cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của ông. Rất may ông đã có thể xem xét chính trị và nhận ra đó là lãnh vực của sự thỏa hiệp. Ở đó, con không thể nhìn vào các nguyên lý cao hơn, nhìn vào viễn kiến cao hơn về những gì thực sự cần thị hiện, mà con phải xét đến những gì có khả năng thành hình trong một tình hình chính trị nhất định. Thường khi con phải đổi chác, phải thỏa hiệp để có được một vị thế quyền lực. Ông đã nhìn ra là ông không sẵn sàng thỏa hiệp, và do đó ông đã quyết định không theo đuổi một sự nghiệp chính trị.

Thày biết, rất nhiều người trong số các con cũng đã làm một điều tương tự trong lãnh vực của con. Con đã nhìn vào các cơ chế vận hành ở đó, con đã nhận ra một số điều mà con không muốn làm, một số thỏa hiệp mà con không sẵn sàng bước vào, và do đó con đã trở nên chán nản. Thày không nói là con phải làm điều mà sứ giả này đã làm và từ bỏ lãnh vực mình quan tâm. Rất có thể đối với đa số các con, Sứ vụ Thiêng liêng của con chính là việc theo đuổi lãnh vực quan tâm đó. Tuy nhiên, để thực sự đem lại những điều mà con muốn đem lại trong Sứ vụ Thiêng liêng, con cần phải khắc phục cảm giác chán nản đó, cảm giác rằng những cơ chế vận hành của những điều con muốn thị hiện trên địa cầu thật quá khó khăn, quá méo mó, quá thiếu quân bình, đến nỗi con không muốn tiếp xúc chút nào với lãnh vực đó, hoặc con không thấy làm thế nào mình có thể thị hiện được điều gì cao hơn trong lãnh vực đó.

4.10. Tránh chán nản

Con hiểu chứ khi Nada bảo rằng sự chán nản là dụng cụ thiện xảo nhất trong hộp dụng cụ của ác quỷ? Sa nhân đã cố hết sức để làm tha hóa mọi lãnh vực sinh hoạt của con người trên hành tinh này, chính là với mục tiêu khiến cho những ai bắt đầu có được chút phân biện Ki-tô phải nhìn vào lãnh vực đó, nhìn vào sự tha hóa đó, nhìn thấy những mất quân bình đó, nhìn thấy những thỏa hiệp đó, rồi trở nên chán nản đến độ họ không muốn bỏ sức ra đem lại thay đổi. Con yêu dấu, con có thấy rất nhiều đệ tử tâm linh bị dằn vặt giữa hai lực kéo-đẩy này, hai đối cực này hay không? Một đằng, con mơ mộng về những cách con muốn thị hiện một cái gì thật quan trọng. Đằng khác, con lại bị chán nản và cảm thấy không có gì mình có thể làm được trên thực tế để đem lại thay đổi. Con có thấy hai đối cực đó tương tác với nhau như thế nào không?

Sự kiện con thấy những thỏa hiệp cùng khó khăn đó khiến con bị chán nản, nhưng chính điều đó – hầu con có thể tiếp tục sống trên hành tinh này – lại đẩy con đi vào mộng mơ và nghĩ rằng có một công thức thần diệu, một biểu tượng huyền bí nào đó sẽ cho phép con đâm xuyên qua mọi thỏa hiệp để vẫn thị hiện được thành quả kỳ diệu, ngọan mục. Con có thấy bao nhiêu người trong số các con đã bị dằng xé giữa hai lực đó, và chuyện này đã không nhất thiết dễ dàng hơn khi con tìm ra giáo lý của chân sư thăng thiên? Các thày cho con một viễn kiến về những gì có khả năng thành hiện thực, các thày đã nhấn mạnh rằng chính con là người có thể khiến nó xảy ra. Thế nhưng con vẫn thấy điều mà Chân sư MORE có nói đến trong một bài giảng trước, là cái “khoảng cách” – khoảng cách giữa giáo lý và trạng thái tâm thức của con, cuộc sống bình thường của con cùng những gì con nghĩ con có khả năng thị hiện.

Mong muốn của thày với bảy tầng khai ngộ này là giúp con khắc phục, đóng lại khoảng cách đó hầu không còn kẽ hở nào giữa những giáo lý mà các thày ban truyền và những gì mà thực tế con thấy mình có khả năng thị hiện trong đời mình. Nhưng thày sẽ không làm vậy bằng cách cho con một cây gậy thần. Thày sẽ làm vậy bằng cách giúp con xoay chuyển tâm thức.

4.11. Chọn trung gian nghệ thuật

Xoay chuyển đầu tiên mà thày yêu cầu con thực hiện là con xoay chuyển cách con tiếp cận cuộc sống thành một cách tiếp cận nghệ thuật. Tất nhiên thày sẽ cho con bảy tầng, nhưng ở tầng cấp đầu tiên này, điều đó có nghĩa là con chọn lựa trung gian nghệ thuật mà con muốn sử dụng. Đâu là phương tiện nghệ thuật mà con muốn sử dụng để biểu đạt sự sáng tạo của con? À, trên địa cầu có trung gian nghệ thuật nào? Con sẽ nói: “Đó, có vật chất, mọi thứ đều là vật chất.” Và thày sẽ trả lời: “Có thật vậy không?”

Các thày đã đưa ra nhiều lời dạy về đề tài này qua các tầng tu học trước. Con có thể nhìn thế giới ở mức vĩ mô nơi mọi thứ được coi là vật chất. Xong con có thể đi xuống mức vi mô của các phân tử, mức của nguyên tử, mức của hạt hạ nguyên tử, mức của các làn sóng năng lượng thuần khiết. Con có thể thấy mọi thứ không là vật chất vì vật chất là một mô thức giao thoa, một mô thức giao thoa vô cùng phức tạp, của những làn sóng năng lượng. Đâu là trung gian sáng tạo? Có phải là vật chất hay là năng lượng? Hay có lẽ đó là một chất vi tế hơn cả cái mà người thường gọi là năng lượng?  

Con thấy không, cái mà thế giới khoa học gọi là năng lượng là một thứ gì giống như điện lực hay ánh sáng mặt trời, nhưng đó vẫn là một chất vật lý – ít ra là phần nào. Có một năng lượng vi tế hơn, là năng lượng tình cảm, năng lượng lý trí, năng lượng ở tầng cấp bản sắc và năng lượng ở tầng cấp tâm linh. Đó là những tầng năng lượng vi tế hơn. Có một cách để nhìn vấn đề này không như cách con nhìn năng lượng trên địa cầu. Chúng chỉ đơn giản là những tín hiệu bật-tắt tí hon – gần giống như khi con nhìn thấy trên màn hình tivi hay máy tính có chiếc diode nhỏ, hoặc bật hoặc tắt. Khi bật, diode có thể khoác vào nhiều màu sắc khác nhau, và nhiều chiếc diode sẽ tạo chung một hình ảnh trên màn hình.

Con yêu dấu, khi con xem tivi, chẳng hạn một bộ phim chiến tranh, liệu con có nghĩ những gì con thấy trên màn ảnh thực sự là những người thật đang chạy quanh bắn súng vào nhau không? Dĩ nhiên là không, bởi vì con dư biết là những gì con nhìn thấy trên màn ảnh tivi chỉ là hình ảnh. Rồi khi con quay mặt khỏi màn hình, hay có lẽ ngay cả khi con nhìn vào chiếc máy tivi, khi con nhìn lên tường sau lưng tivi, nhìn những bức tranh treo trên tường, nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy có nhà hay có đồng ruộng, cây cối – khi con nhìn tất cả những thứ đó, mà con gọi là “thế giới thực”, thì tất cả những thứ con đang thấy là gì? Đó có phải là những vật thực được cấu tạo bằng vật chất, hay chúng thật sự cũng chỉ giống như những hình ảnh mà con vừa thấy trên màn hình tivi nơi có một đơn vị tí hon đang bật hay tắt, và thật nhiều những đơn vị như thế hợp chung lại thành một mô thức phức tạp mà tâm con chuyển thành bức tranh treo trên tường?

4.12. Tại sao khó lòng thị hiện điều mình muốn

Con yêu dấu, tại sao lại có một khoảng cách giữa những gì con có thể hình dung trong viễn quan và những gì con có thể thị hiện? Đó là vì nếu con đang cố thị hiện một cái gì đó dựa trên những biểu tượng và hình dạng đã có sẵn trong thế giới vật chất, thì con sẽ gặp phải sự cưỡng kháng và chống đối toàn diện, không những từ tâm thức tập thể mà cả từ chính vật chất.

Tự thân vật chất trở nên đông đặc thành một hình dạng. Chúng ta có thể nói là năng lượng hoàn toàn lỏng và có thể khoác lấy bất kỳ hình dạng nào, nhưng rồi một biểu tượng, một hình ảnh được phóng chồng lên năng lượng đó. Khi đó, năng lượng bị kéo thấp xuống cõi vật chất nơi nó trở thành cái mà con gọi là vật chất, và vật chất này bị khóa chặt vào hình dạng đó, khóa chặt vào khuôn đúc đó.

Khi con tìm cách lật bỏ khuôn đúc đó đi, có một sự kháng cự xảy ra, vì một khi năng lượng đã khoác lấy một hình dạng nào đó thì sẽ có kháng cự chống lại sự thay đổi. Đây không nhất thiết là một sự kháng cự có ác ý, nhưng khi một tinh linh (elemental being) đã khoác lấy hình dạng một cái cây thì tinh linh cũng đã được thấm nhuần nhu cầu muốn duy trì hình ảnh đó. Do đó mới có một sự kháng cự, ngay cả từ thiên nhiên hay bất cứ gì trong cõi vật lý, chống lại sự thay đổi. Đó là tại sao thày cần con bắt đầu cuộc xoay chuyển này, và tất nhiên thày sẽ nói nhiều hơn về điểm này trong các bài tới.

Ở đây thày cần con nhận ra trong ý thức rằng với cương vị một nghệ sĩ trên hành tinh địa cầu, con phải đối diện với một công việc vô cùng khó khăn do độ dày đặc của vật chất. Sự cưỡng chống vô cùng mạnh mẽ. Tâm thức tập thể dày đặc, và con không sáng tạo trong những điều kiện lý tưởng. Cho nên con cần rất, rất thận trọng khi chọn lựa trung gian mà con sẽ sử dụng để tạo ra tác phẩm điêu khắc của con. Thày cam đoan với con là con không muốn chọn trung gian vật chất, là trung gian của những hình dạng vĩ mô, rồi tìm cách thị hiện ở tầng mức đó.

Đây là điểm mà nhiều người đã theo học các khóa tu tập về thuật thị hịên kết đọng (precipitation) và thuật dùng tâm điều khiển vật chất, đã bị thất bại và không đạt được kết quả mà họ mong muốn. Họ đã khởi đầu ở tầng vật lý với một mong muốn, thường dựa trên sự bù đắp. Họ bắt đầu ở tầng vật lý xong họ quyết định với tâm vỏ ngoài: “Tôi muốn thị hiện căn nhà tuyệt đẹp này.” Xong họ đã tìm cách – dù họ có biết về ba cõi cao của tâm phàm hay không – sử dụng sức mạnh của tâm để phần nào phóng chiếu ra vũ trụ và khiến nó quay ngược trở về như một thị hiện vật lý. Thày không bảo là chuyện này không thể làm được cho những thứ đơn giản như một căn nhà, nhưng cho những thứ nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con thì đó không phải là một cách tiếp cận xây dựng.      

Con không thể khởi đầu với những hình dạng đã có sẵn trong cõi vật lý rồi cố làm cho nó tốt hơn hay cố kiện toàn nó. Là một đệ tử của chân sư thăng thiên, con có thể bảo là con sẽ quyết định với tâm vỏ ngoài: “Tôi muốn thị hiện một căn nhà tuyệt đẹp.” Xong con tạo ra viễn kiến cao nhất mà con có thể nghĩ ra về căn nhà đó. Xong con tập trung vào tâm bản sắc. Con phóng chiếu hình ảnh đó từ tâm ý thức vào tâm bản sắc, xong con hình dung ánh sáng của Hiện diện TA LÀ chảy xuyên hình ảnh đó, chảy xuống cõi lý trí, rồi xuống cõi tình cảm, rồi xuống cõi vật lý. Xong dựa trên những điều mà các thày đã nói, con nghĩ rằng sau khi con đã làm xong tất cả những bước đó thì tạo vật của con sẽ phải thị hiện nơi cõi vật lý. Điều thày nói với con là mặc dù chuyện đó có thể xảy ra, nhưng đó không phải là quả vị Ki-tô.

4.13. Chọn điểm khởi đầu

Quả vị Ki-tô là con không khởi đầu ở cõi vật lý. Con không khởi đầu ở mức vật lý với những điều kiện hiện hành và cố hình dung ra cách thức làm sao cho chúng tốt đẹp hơn. Quả vị Ki-tô là khi con nói: “Các điều kiện trong cõi vật lý không lý tưởng. Tại sao chúng không lý tưởng? Bởi vì có ai đó đã có một viễn kiến hạn chế, một viễn kiến nảy sinh từ nhị nguyên, một viễn kiến có thể đã nảy sinh từ tâm thức sa ngã, và họ đang phóng chiếu hình ảnh này lên năng lượng thuần khiết. Do đó, nếu chúng ta muốn thực sự thay đổi sự thể trong cõi vật lý, chúng ta cần vươn lên một viễn kiến cao hơn. Chúng ta cần giải phóng tâm mình khỏi sự ràng buộc vào những gì đang sẵn thị hiện, hầu chúng ta không khép tâm lại, mà chúng ta có thể mở tâm ra để nhận được một viễn kiến cao hơn từ trên.”  

Viễn quan của thày về Thời Hoàng kim cao hơn tất cả những gì hầu hết mọi người trên trái đất có thể mường tượng được. Do đó không có chuyện lấy những thứ đã có sẵn và làm cho nó đẹp hơn hay công phu hơn hay tinh xảo hơn. Thày đã có đề cập đến những người, những đệ tử của chân sư thăng thiên, đã mơ mộng về những thành phố mỹ lệ với đường phố lát vàng và những tòa nhà cũng làm bằng vàng. Họ chiêm ngưỡng một số đền thờ cổ Hy Lạp cùng những dinh thự tuyệt đẹp hiện có trên trái đất ngày nay, và họ phóng chiếu trong tâm những thành phố với đại lộ còn rộng hơn nữa và cao ốc còn cao hơn nữa, lát vàng hay làm toàn bằng vàng.

Nhưng đó không phải là viễn quan của thày về thành phố trong Thời Hoàng kim. Viễn quan của thày rất, rất khác. Điều thày muốn nói là như sau: Nếu con khởi sự với một cái gì đã sẵn thị hiện và sử dụng làm nền tảng cho những gì con có thể đồng sáng tạo, thì con đang tạo ra khó khăn và kháng cự rất lớn cho con. Có thể con sẽ thị hiện được một cái gì đó theo cạch đó, nhưng đó không phải là cái con đã hình dung trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Đó sẽ không là tiềm năng cao nhất của con, và đó cũng sẽ không là quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô vượt ra ngoài hiện trạng, chứ không làm cho hiện trạng công phu hơn và do đó cũng chai cứng hơn.

Thày cần con làm cuộc xoay chuyển này. Thày cần con khởi sự xoay chuyển và bắt đầu tự xem mình là một nghệ nhân, nhưng con không đang đẽo tượng từ vật chất. Con không đang lấy một tảng đá rồi tạc đẽo cho tới khi con có một bức tượng. Con đang điêu khắc bằng cách sử dụng năng lượng thuần khiết, năng lượng vi tế hơn trong cõi bản sắc cao, mà đôi khi các thày gọi là cõi ê-the để chỉ rõ năng lượng đó vượt khỏi cõi vật lý.

Con đang khởi sự với một khoảng không gian trống rỗng, một trang vở trắng xóa, một trạng thái trinh nguyên. Có những tín hiệu bật-tắt là những đơn vị năng lượng nhỏ nhất có thể có trong cõi chưa thăng thiên của con. Con đang khởi sự với màn hình hoàn toàn trống trải đó và con sắp sửa vươn lên để nắm lấy viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Xong một khi con có viễn quan đó, con sẽ chồng nó lên màn hình trống trải, rồi đem nó xuống qua các tầng bản sắc, lý trí và tình cảm đưa vào cõi vật lý.

Đây không phải là một viễn quan dựa trên những gì con nhìn thấy chung quanh con ngay bây giờ. Đây không phải là một viễn quan dựa trên những gì đang thị hiện, mà những gì có khả năng thị hiện – nếu viễn quan của con sạch bong không có gì đã sẵn thị hiện.