Đức Phật bất động và đức Phật hằng động

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 4/7/2016 nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama và thật là một đặc ân cho ta – và đã từng là đặc ân nhiều lần rồi – được niêm đại hội này của chân sư thăng thiên tại Hàn quốc. Ta muốn các con biết là từ cõi thăng thiên, các chân sư xem hội nghị này là một thành công mỹ mãn. Các con đã thể hiện một quyết tâm đáng kinh ngạc để chung sức với nhau, hòa điệu bản thể với nhau cũng như với các thày. Vì vậy, các thày đã có thể nhân lên các bài chú cùng bài thỉnh, và các con cũng đã có thể nhân lên các bài truyền đọc qua luân xa của mình, khiến cho các bài giảng thâm nhập vào tâm thức tập thể với uy lực thật dõng mãnh. Điều này, các thày vô cùng biết ơn và khen ngợi các con.

Các thày đã ban cho các con rất, rất nhiều lời dạy mà ta tin tưởng các con sẽ tiếp nhận, suy ngẫm, thảo luận, và ngay cả các con cũng có thể viết lách và trao đổi với nhau. Bằng cách đó, các con có thể dùng những lời dạy vỏ ngoài này để đạt một hiểu biết nội tâm sâu sắc hơn về một số điểm tuy không được nói ra thành lời nhưng vẫn được diễn tả ở những tầng mức cao hơn. Điều con cần hiểu là khi các thày đưa ra một bài truyền đọc, những gì được nói lên trong cõi vật lý chỉ là một phần của toàn bộ công việc trao truyền. Hiển nhiên không chỉ có ánh sáng được chuyên chở qua lời nói, mà bài truyền đọc còn mang theo một bộ phận ở tầng mức xúc cảm, lý trí cũng như bản sắc. Nếu con sẵn lòng sử dụng lời nói trong cõi vật lý làm nền tảng, con có thể học cách hòa điệu với các thành phần cảm xúc, lý trí và bản sắc rất khó chuyển đạt qua ngôn từ. Con vẫn có thể có được một cảm nhận trực giác, một trải nghiệm trực quan về toàn bộ những điều mà các thày mong muốn trao truyền qua bài truyền đọc.

Tất nhiên, các thày còn rất nhiều điều muốn nói về – và nói cho – đất nước Hàn quốc cũng như các nước khác tại châu Á. Cho nên các thày mong mỏi sẽ còn những cơ hội khác để trình bày thêm trong tương lai. Nhưng ngay bây giờ, ta muốn các con cảm thấy là hội nghị này tự thân nó đã đầy đủ. Như các thày có nói trước đó, mỗi hội nghị đều mang một tiềm năng thấp và một tiềm năng cao, và với hội nghị này thì các con đã vượt cao hơn cả tiềm năng cao. Điều ta muốn làm ở đây là một điều có lẽ đã chưa xảy ra trong hội nghị này vì rất nhiều người trong số các con chưa quen thuộc với giáo lý và đây cũng là lần đầu tiên các con tham dự một hội nghị của chân sư thăng thiên.

Bị kẹt trong quá khứ hay trong tương lai

Ta mong muốn đem đến cho con một sự thưởng thức về giây phút hiện tại, thưởng thức hiện tại bất tận. Như các thày đã có đề cập, nhiều người trên địa cầu đã lớn lên và được dạy dỗ để không sống trong giây phút hiện tại, mà ngược lại họ bị vướng mắc trong quá khứ hay bị kéo hút về phía tương lai. Một số người từng bị mắc kẹt ở một điểm quá khứ nào đó, có thể là vì họ đã sống qua một sự kiện đau buồn đến độ vết thương tình cảm khiến họ không làm sao thoát ra khỏi cơn đau, thoát ra khỏi vết thương, và họ cứ mãi sống đi sống lại giây phút đó. Hoặc cũng có thể vì họ được sống qua một sự kiện vui sướng trong đời đến độ họ cảm thấy không còn gì có thể vượt trội được trong tương lai.

Nếu con đến thăm Công viên Olympic ở đây và đọc tên các lực sĩ đã giành được huy chương tại Thế vận hội 1988, con sẽ thấy rất nhiều lực sĩ đã cảm nhận việc giành được huy chương, lập kỷ lục mới, đứng trên bục chiến thắng và nhận huy chương của mình là đỉnh cao trong đời mình. Nhiều người đã cảm thấy thật sự chẳng có gì có thể so sánh được với niềm vui đó, và vì vậy phần còn lại cùa đời họ đã thua kém giây phút vinh quang đó. Và họ không ngừng luyến tiếc giây phút đó.

Tất nhiên cũng có nhiều người khác không gắn bó với quá khứ nhưng lại hướng về tương lai. Một số nhìn về tương lai với nỗi sợ một điều gì đó có thể xảy ra, cho dù đó là một tai họa trong đời sống cá nhân (như một căn bệnh hay một vấn đề nào khác) hoặc một thảm họa rộng khắp địa cầu, như đại chiến hay thiên tai. Và tất nhiên còn có những người chờ đợi ngày tận thế, như các thày đã có đề cập trước đây.

Ngoài ra cũng có nhiều người bất mãn với thời điểm hiện tại, với cuộc sống và hoàn cảnh hiện thời của họ, và họ nhìn về tương lai với niềm hy vọng một ngày kia cuộc sống sẽ dễ chịu hơn. Nhiều người hy vọng là nếu họ cứ tiếp tục làm những gì người ta bảo họ làm, nếu họ cứ làm y như xã hội và cha mẹ họ đã sắp đặt cho họ, thì sẽ tới ngày họ nhận được phần thưởng mà họ mong mỏi sẽ nhận được.

Như các thày đã nói, các con là những vị đồng sáng tạo, cho nên nếu con cứ thụ động ngồi chờ như vậy thì đó sẽ không phải là cách tiếp cận xây dựng nhất. Nếu con ngồi chờ người khác, chờ xã hội hay chờ một công ty nào đó một ngày kia sẽ tới thay đổi đời con, thì rất có thể con sẽ thất vọng. Nếu con ngồi chờ một sinh thể Linh thiêng nào đó xuất hiện trong đời con và ban cho con mọi thứ con muốn, thì bào đảm con sẽ bị thất vọng.

Thưởng thức giây phút hiện tại

Hiển nhiên ta mong muốn con hiểu được một trong những lời dạy cốt yếu của Phật, những lời dạy tâm truyền đích thực của Phật, chính là khả năng sống trong giây phút hiện tại. Thật ra tất cả các con đều có khả năng đó, khả năng sống trong khoảnh khắc, nhưng một số sẽ gặp khó khăn khi đem vào thực hành. Nếu con đã trải qua một biến cố gây chấn thương sâu đậm trong đời mình và con cần trị liệu tâm lý, thì việc con khó lòng sống được trong khoảnh khắc hiện tại là một điều dễ thông cảm. Trong trường hợp này, các thày khuyến khích con nên tìm sự giúp đỡ qua một số hình thức trị liệu khác nhau. Tất nhiên các thày cũng khuyến khích con sử dụng các giáo lý và dụng cụ tâm linh của các thày để chữa lành tâm lý. Nếu con đã sống qua một đỉnh cao cuộc đời trong quá khứ và con luyến tiếc thời điểm đó, cách trị liệu thật sự duy nhất là con cần lấy quyết định ý thức là mình sẽ không còn ngoảnh lại nhìn về quá khứ, mà thay vào đó con sẽ mở tâm ra để nhận món quà mà con có thể nhận được ngay trong giây phút hiện tại.

Nếu con nhìn về tương lai với lòng sợ hãi một tai hoạ nào đó, thì một lần nữa ta khuyến khích con sử dụng những dụng cụ thích hợp để giải quyết chấn thương này, vì rõ ràng một chấn thương đã khiến con nhìn tương lai với lòng sợ hãi. Nếu con nhin về tương lai với hy vọng đoạt được một loại phần thưởng nào đó, ta khuyến khích con nhận ra mình là một vị đồng sáng tạo. Nếu con muốn một tương lai tốt đẹp hơn, con sẽ cần tự mình đồng sáng tạo ra tương lai đó thay vì thụ động ngồi chờ một cái gì bên ngoài thị hiện nó giùm con.

Con cần hiểu là để đồng sáng tạo một tương lai tốt đẹp hơn, con cần khởi sự bằng cách biết thưởng thức giây phút hiện tại, thưởng thức hoàn cảnh con đang gặp, như thày Saint Germain vừa trình bày với rất nhiều minh triết. Đây là một lời dạy then chốt của Phật – hãy có mặt trong hiện tại. Lời dạy này rõ ràng nhất trong Phật giáo Thiền tông có trọng điểm là trải nghiệm hiện tại. Ta không đang bảo con phải trở thành một thiền gia Phật giáo, nhưng ta muốn nói là việc sống trong hiện tại, ít ra trải nghiệm được hiện tại ở một số thời điểm nào đó, là một việc chính đáng.

Một khung tham chiếu

Bây giờ ta muốn dẫn con làm một bài thực tập nho nhỏ. Mục đích của ta là giúp con có được một kinh nghiệm về hiện tại. Con yêu dấu, con vừa tham gia hội nghị chân sư thăng thiên này. Suốt bốn ngày liền, một số các con đã ở đây. Con đã tham dự những bài đọc chú, bài thỉnh, bài nguyện. Con đã lắng nghe những bài truyền đọc. Con đã tương tác với nhau. Đối với nhiều người trong số các con, đây đã là một tiến trình hướng đến một mục tiêu. Luôn luôn có thêm bài thỉnh để đọc, bài giảng để nghe. Nhưng bây giờ con đã tới bài truyền đọc chót và con đã đọc bài thỉnh chót. Không còn gì khác để con hướng tới trước mặt, và do đó ta khuyến khích con nhìn ra là món quà quý giá nhất mà con có thể đem về từ hội nghị này là một trải nghiệm: Con trải nghiệm mình hoàn toàn hiện diện trong hiện tại, mình thưởng thức giây phút hiện tại.

Con yêu dấu, ta khuyến khích con tự nhủ trong tâm con: “NGỪNG LẠI! Tôi sẽ ngừng các khuôn nếp suy nghĩ quen thuộc của tôi.” Ta khuyến khích con hãy lui lại và nhìn vào chính mình, và nhận thấy trong tâm con luôn luôn có một khuôn nếp đang phóng chiếu ý tưởng hay cảm xúc lên màn hình sự nhận biết ý thức của con. Những ý tưởng và cảm xúc đó đang lôi kéo nhận biết của con vào một phản ứng nào đó, một chuỗi những ý nghĩ và tình cảm, có khi giống như một cuộn phim đang trình chiếu tự động. Chú ý của con bị cuốn theo đó mà con không thực sự hay biết chuyện gì đang xảy ra.

Bây giờ ta kêu gọi con nhận diện những gì đang xảy ra trong tâm con và nhận biết một cách ý thức rằng đơn giản, nó giống như một cuộn phim đang trình chiếu trên một màn hình trong rạp xi-nê hay trên máy truyền hình của con. Ta khuyến khích con nhận ra là con không cần bắt cuộn phim đó ngừng lại.

Có rất nhiều Phật tử cho rằng trong khi thiền định, con phải cố ngừng mọi ý tưởng, nhưng điều này rất khó thực hiện ngay cả đối với một thiền gia vô cùng thành thạo. Điều ta nói con làm là tự nhủ: “NGỪNG LẠI! Tôi sẽ không còn đồng hóa với cuốn phim những ý tưởng và cảm xúc của tôi nữa. Tôi sẽ để yên cho nó chạy, nhưng tôi sẽ đứng lui lại và tôi sẽ bước vào một nhận biết mới nơi tôi không phải là ý tưởng lẫn cảm xúc. Tôi không phải là tâm. Tôi không phải là cuốn phim đang quay trong tâm. Tôi là một sinh thể vô hình tướng. Tôi không cần bất cứ gì từ quá khứ để là con người trọn vẹn mà tôi là. Tôi không chờ đợi bất cứ gì ở tương lai để là con người trọn vẹn mà tôi là. Tôi trọn vẹn ngay bây giờ! Tôi trọn vẹn trong giây phút này đây! Tôi viên mãn!”

Khi đó, con có thể cảm nhận sâu thẳm bên trong có sự im lặng, là im lặng của Phật, là cái ta Phật của con. Hơn vậy, con cũng có thể cảm thấy như các vị Phật đang thiền tọa trong an tịnh tuyệt đối. Con không cần hình dung mình là bất cứ hình tướng nào. Thực sự con có thể, nếu điều này thích hợp hơn với con, xem mình là một sinh thể vô hình tướng, cảm thấy mình là một sinh thể vô hình tướng, và trải nghiệm mình là một sinh thể vô hình tướng.

Bây giờ ta khuyến khích con nhận ra là mình đang ngồi đây trong căn phòng này ngay lúc này. Con không một mình. Ở đây có nhiều người khác. Trong số đó có nhiều người con không quen biết. Có lẽ con đã không nói chuyện với họ trong suốt bốn ngày qua. Có lẽ con đã chưa nhìn vào mắt họ. Có lẽ con chưa thực sự tán thưởng những người đó, nhưng ta khuyến khích con hãy mở mắt ra bây giờ và nhìn chung quanh. Hãy cả gan nhìn vào mặt nhau, nhìn vào mắt nhau và chào đón nhau. Hãy cả gan nhìn vào mắt sứ giả này, đó chính thực là mắt của ta đang nhìn con xuyên qua mắt ông.

Con yêu dấu, chúng ta hãy nhận mặt nhau vì chúng ta đã đến với nhau trong một sự hợp nhất thật đặc biệt, hiếm thấy trên địa cầu này, là sự hợp nhất theo chiều ngang của các con ở dưới với các chân sư ở Trên. Đây là một giây phút đặc biệt. Đây là một giây phút hiếm có. Không mấy người đã được sống qua giây phút thế này trong cả đời mình, con yêu dấu. Ấy thế mà các con đang ở đây. Các con đang trải nghiệm giây phút này ngay bây giờ. Khi các con nhận ra là mình đang ở đây trong hợp nhất với nhau, các con đã thực hiện một công việc phụng sự tâm linh thật quý báu, vô giá. Các con đang ở đây hợp nhất với một chân sư thăng thiên, một sinh thể tâm linh. Khi con nhận ra điều này, làm sao con có thể muốn gì hơn từ giây phút hiện tại? Khi con nhận ra điều này, làm sao con có thể không có mặt trọn vẹn trong khoảnh khắc bây giờ?

Các con hãy trọn vẹn và cảm nhận là không có gì của quá khứ mà mình cần đến, không có gì của hiện tại mà mình cần đến, không có gì của thế gian mà mình cần đến, bởi vì các con viên mãn trong sự duy nhất của mình ngay bây giờ. Khi con kinh nghiệm sự viên mãn này, giờ đây con đã có một khung tham chiếu mới mà con có thể mang theo mình để mà sử dụng. Khi con có một chút thì giờ trong đời sống bận rộn của con – hay khi con quyết định dành ra thì giờ trong cuộc sống bận rộn – con có thể sử dụng bất kỳ phương thức nào mà con thích, kể cả nghe lại hay đọc lại bài truyền đọc này, đọc bài thỉnh, nghe nhạc, hay làm bất cứ điều gì hiệu quả nhất đối với con. Nhưng con hãy dành nỗ lực ra để hòa điệu với Hiện diện của ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Xong dựa trên kinh nghiệm giây phút này đây, con có thể lại chiêm nghiệm cùng cảm nhận viên mãn đó. Khi con làm vậy, con có thể đạt tới điểm con bắt đầu cảm thấy là mình có khả năng duy trì liên tục nhận biết hiện tại.

Không có phán xét trong tâm trẻ thơ

Ta cũng hiểu là lúc đầu sẽ có tương phản giữa trạng thái nhận thức bình thường của con và những khi con hoàn toàn hiện diện trong khoảnh khắc hiện tại. Có những lúc con hoàn toàn hiện diện, nhưng cũng sẽ có nhiều lúc trong đời sống bình thường đòi hỏi sự chú ý của con, lôi kéo chú ý của con vào các khuôn nếp kia. Khi con ngày càng chiêm nghiệm nhiều hơn những giây phút hiện diện trọn vẹn, sinh động trọn vẹn, thưởng thức trọn vẹn đó, có thể con sẽ bắt đầu cảm thấy sự tương phản ngày càng bớt đi.

Điều này không có nghĩa là con cứ ngồi đó suốt ngày, hoàn toàn tỉnh thức trong thế toạ thiền, bởi vì chắc chắn trong cuộc sống sẽ có rất nhiều lúc đòi hỏi con phải chú ý hoàn toàn. Nhưng con có thể đạt tới điểm, mỗi khi con nghĩ về chuyện này, con có thể hòa điệu vào bên trong, và con có thể hiện diện trọn vẹn trong giây phút hiện tại ngay cả khi con đang làm một số hoạt động không đòi hỏi sự chú ý toàn bộ.

Ta không đang bảo con, như một số Phật tử Thiền tông muốn con tin như vậy, là con luôn luôn có thể sống trọn vẹn trong giây phút hiện tại ngay giữa công việc bận rộn. Cuộc sống có rất nhiều đòi hỏi và thật chẳng có gì sai trái nếu có những lúc mình phải tập trung vào công việc mình đang làm và do đó mình không còn chú ý nào sót lại để mà tự hình dung, hay để cảm thấy rằng mình là đức Phật viên mãn, hoàn toàn không dính mắc với tình huống đang diễn ra trước mắt và đang thưởng thức tình huống đó từ ngoài.

Điều ta muốn nói là con có thể có một tâm thái nơi đời con là một tiến trình thưởng thức liên tục. Con thưởng thức cuộc đời nói chung, và bất cứ lúc nào con muốn, con cũng có thể hòa điệu vào bên trong và thưởng thức trọn vẹn giây phút hiện tại khi con dư ra một chút khả năng nhận biết. Tất nhiên, đây là một phần của tâm trẻ thơ, tâm ban sơ đó con.

Điều ta có thể góp thêm với những gì thày Saint Germain vừa trình bày là tâm trẻ thơ không phán xét. Nó không đánh giá. Nó không phân tích. Nó không so sánh. Trong cốt yếu, khi con bị kẹt trong quá khứ hay trong tương lai, con không ngừng phân tích, không ngừng so sánh hiện tại với quá khứ hay tương lai. Quá khứ tốt hơn hay tệ hơn hiện tại? Tương lai sẽ tốt hơn hay tệ hơn hiện tại? Luôn luôn có một câu chuyện diễn ra trong tâm, nó phân tích và nó so sánh. Khi cái ở đây lại nằm ở đó thì con không đang hiện diện trong giây phút này được, mà sự chú ý của con bị cuốn hút và tập trung vào việc phân tích. Con có khả năng – và con cần làm chuyện này một cách ý thức – trau dồi một trạng thái tâm không phán xét, không phân tích. Đây là một tiến trình tinh tế sẽ cần thời gian, nhưng bằng cách sử dụng các bài thỉnh và giáo lý của các chân sư, đó là một mục tiêu có thể đạt được.

Con có thể đạt tới điểm là con không còn nhu cầu xét đoán những gì xảy ra trong cuộc sống. Con không có nhu cầu phải luôn luôn bày tỏ quan điểm về chuyện này hay chuyện nọ, về người này làm gì hay người nọ nói gì, về các chính trị gia đang làm gì hay không làm gì, về đội thể thao địa phương làm gì hay không làm gì. Tất cả những thứ đó khiến cho hầu hết mọi người bận tâm, bây giờ nó có thể mất hẳn tầm quan trọng đến độ con không còn nhu cầu nuôi thêm cái phần trong tâm cứ muốn phán xét, hạ thấp cái này hay nâng cao cái kia. Nó luôn luôn dùng bậc thang nhị nguyên để so sánh phải với trái, tốt với xấu, trên với dưới, cái này với cái nọ. Giờ đây một cách cố tình và ý thức, con quyết định là con sẽ bắt đầu một tiến trình gạt bỏ tất cả những thứ đó sang một bên.

Con có thể đặc biệt thỉnh cầu sự tiêu hủy các năng lượng trong cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc đang kéo tâm con lặp đi lặp lại cùng những khuôn nếp đã khiến cho biết bao người bị rối bời trong cảm thể của mình đến độ họ luôn luôn cần phải bất bình về một ai đó. Họ cần có một con dê tế thần để trút hết nỗi tức giận vào đó, bởi vì họ không chịu nhìn nhận là thật ra họ đang tức giận chính họ. Bằng cách làm việc trên bản thân mình, con có thể đạt tới điểm không cần phán đoán mọi thứ nữa. Con không còn nhu cầu đánh giá mọi chuyện và con không cần có quan điểm về mọi chuyện.

Quan sát thay vì phán đoán

Vậy thì con sẽ làm gì đây, con sẽ hỏi? Cuộc đời như vậy có đáng sống hay chăng? Có nghĩa chăng là con biến thành một người không còn suy nghĩ? Không đâu con yêu dấu, không có nghĩa là con không tham gia vào cuộc sống. Có một trạng thái của tâm vượt khỏi sự phán xét dựa trên một bậc thang nhị nguyên, và đó là tâm thái khi con chỉ đơn giản quan sát. Không là đánh giá, phán xét nhị nguyên tương đối, mà là quan sát. Con có thể bắt đầu với sự quan sát bản thân dựa trên một chuẩn mực vô cùng đơn giản – nếu con muốn dùng từ “chuẩn mực”.

Sứ giả này nhiều năm trước đây đã hòa điệu vào Hiện diện của ta và nhận được ý tưởng rằng mục đích cuộc sống là quả vị Phật. Ông đã nhận ra là để đạt được quả vị Phật, ông sẽ cần khắc phục các dính mắc của mình. Ông có một khải tượng – mà ông nhận được từ ta – và ông nhìn thấy thời điểm ta kinh qua cuộc khai ngộ chót trước khi nhập Niết bàn. Ngồi dưới cây Bồ đề, ta phải giáp mặt với bọn quỷ của Mara. Ông ngộ ra là bọn quỷ Mara đã tìm cách xâm nhập vào tâm ta để cố tìm một khuôn nếp nào đó, một dính mắc nào đó mà chúng có thể sử dụng để lôi kéo chú ý của ta và khiến ta rơi vào một khuôn nếp phản ứng lại những gì chúng đang làm trước mắt ta.

Ông nhận ra là chúng đang cố nhìn vào dòng sống của ta, nhìn vào mọi kiếp hiện thân của ta, nhìn vào các dính mắc mà ta đã từng có, rồi chúng dùng các dính mắc này để giao tiếp với ta. Chỉ vì ta không còn dính mắc nào nữa cho nên ta mới có thể giữ tâm mình hoàn toàn tự do, không bị lôi kéo vào bất cứ gì mà quỷ Mara đưa ra. Điều này, tất nhiên, đi song song với lời dạy của thày Giê-su khi thày nói: “Ông hoàng của thế gian đến nhưng không nắm được gì nơi ta.”

Mặc dù chắc chắn sẽ có một khai ngộ chót mà con phải bước qua trước khi con nhập được Niết bàn hoặc trạng thái thăng thiên, con có thể xem cuộc sống như là phiên bản liên tục của khai ngộ nói trên. Con luôn luôn đối mặt với ông hoàng của thế gian, với bọn quỷ của Mara, và chúng chỉ có một muc tiêu mà thôi, là xâm nhập vào bản thân con, phát hiện ra một dính mắc nào đó rồi dùng nó để lôi kéo con vào một khuôn nếp phản ứng sẽ tiêu hao hết lượng chú ý có ý thức của con trong một thời gian. Đối với một số người, chuyện này không xảy ra “trong một thời gian” mà trọn một kiếp sống hay suốt nhiều kiếp sống, nghĩa là sự chú ý của họ hoàn toàn bị hao kiệt bởi một khuôn nếp nào đó, chẳng hạn như đánh bại những kẻ họ xem là thù địch, hay ham muốn một trải nghiệm nào đó, hay thực hiện một mục tiêu nào đó. Cho dù khuôn nếp đó có là gì thì rất, rất nhiều người bị cái đó làm hao kiệt chú ý trong nhiều kiếp sống. Con không nằm trong số người đó bởi vì nếu không, con đã không ở đây. Chú ý của con không hoàn toàn bị cuốn hút vào cuộc đời vật chất bởi vì nếu không, con đã không mở tâm ra con đường tâm linh.

Vì vậy con hãy nhìn nhận điều này, và con có thể nhìn ra là mục đích của đường tu tâm linh là lần hồi phát hiện và khắc phục các dính mắc của mình, hầu càng ngày con càng có ít vật liệu cho quỷ Mara nắm lấy, cho ông hoàng của thế gian nắm lấy để lôi kéo con vào khuôn nếp phản ứng với thế gian. Thước đo cho bước tiến của con trên đường tu là có bao nhiêu lần tâm con bị lôi kéo vào các khuôn nếp đó, chúng mãnh liệt đến chừng nào, và chúng động cảm đến chừng nào. Con càng cảm thấy chúng phai nhạt đi thì con sẽ càng trải nghiệm được an bình. Như thày Saint Germain có nói, con càng an bình bao nhiêu thì con càng có thể vui đùa với cuộc đời bấy nhiêu. Khi con đạt một lượng an bình nào đó, con sẽ bắt đầu hết gắn bó, con bắt đầu nhìn cuộc đời một cách khác hơn là đánh giá, phán xét, phân tích. Khi đó con cũng sẽ bắt đầu nhìn người khác, và nếu có ai đó kể cho con nghe chuyện đời họ, con không còn nhu cầu có bất kỳ quan điểm nào về cách họ phải sống ra sao.

Không có quan điểm về người khác

Gần như mọi lúc khi con có quan điểm về cách sống của người khác, đó là vì con cảm thấy mình bị đe doạ bởi một việc gì đó mà họ làm. Con có quan điểm là họ phải ngừng làm những chuyện khiến con cảm thấy bị đe dọa, hay những chuyện khiến con đi vào một khuôn nếp phản ứng. Rất, rất nhiều người có thái độ là khi họ phản ứng lại người khác, đó là do lỗi của người kia. Người kia là nguyên nhân khiến họ phản ứng lại. Nhưng họ đã không sẵn lòng nhìn vào thực tế là không ai có thể khiến họ phản ứng trừ khi họ đã mang sẵn dính mắc đó trong họ. Khi con bước trên đường tu tâm linh, đường tu quả vị Phật, hiển nhiên là con nhìn nhận chính con phải khắc phục các dính mắc của con. Và khi con làm vậy, không ai sẽ có thể lôi kéo con vào vòng khuôn nếp phản ứng đó.

Đó là khi con có thể bắt đầu nhìn vào người khác, và thay vì có một quan điểm được quy định bởi các vết thương và dính mắc của mình, giờ đây con chỉ giản dị quan sát. Con có thể quan sát: “Liệu người bạn của tôi có an bình hay chăng?” Nếu bạn con không an bình, con có thể dùng trực giác hòa nhập xem điều gì đã lấy mất an bình của bạn. Xong con có thể nhận được linh hứng để nói ra một điều gì đó thật đơn giản mà không cố bảo bạn phải làm gì. Con chỉ giản dị nói ra những gì con nhận xét đang lấy mất sự an bình của bạn. Có thể bạn con sẽ tìm được một cách nhìn khác về cuộc đời mà không bị cuốn hút mãi vào các khuôn nếp đó. Nếu bạn con mở tâm ra đón nhận, con có thể kể cho bạn nghe về kinh nghiệm bản thân khi con khắc phục được dính mắc của mình. Trong một số trường hợp, bạn con sẽ không sẵn sàng tiếp nhận và thậm chí còn có thể đáp trả lại một cách tiêu cực hay gạt bỏ nhận xét của con, nhưng con vẫn có thể giữ mình không bị dính mắc vào đó. Con không cần cảm thấy là mình bị chối bỏ. Làm sao con có thể cảm thấy bị chối bỏ khi con không hề có ý định thay đổi người bạn của con?

Đa số tương tác giữa con người đi theo cùng một khuôn nếp

Con yêu dấu, hầu hết mọi tương tác mà con chứng kiến ở mức cá nhân giữa con người với nhau đều có thể được xếp vào cùng một khuôn nếp. Con hãy quan sát một người mang một dính mắc nội tâm khiến họ không ngừng ở trong một khuôn nếp phản ứng nào đó. Khuôn nếp phản ứng này được kích hoạt, được khơi dậy hay được tăng cường bởi người khác. Khi họ không nhận ra nhu cầu tự cải sửa qua việc khắc phục khuôn nếp phản ứng, họ sẽ tìm cách thay đổi người khác hầu tránh không cho người khác khơi dậy khuôn nếp bên trong họ. Con thấy 98% sự tương tác giữa con người trên thế giới với nhau đều thuộc loại này, tức là người ta tìm cách thay đổi người khác hầu không phải thay đổi chính mình. Khi con bắt đầu nhìn ra sự thể này và khi con bắt đầu giải thoát khỏi nó, con sẽ cảm thấy sao mình tự do đến như vậy, an bình đến như vậy – một niềm vui không thể nào nén được!

Con yêu dấu, nếu lúc nãy khi ta dẫn con làm bài tập ở trên, con đã thực sự trải nghiệm được sự viên mãn của giây phút hiện tại, thì con cũng đã trải nghiệm được sự an bình mà con sẽ bắt đầu cảm nhận một cách liên tục khi con khắc phục các dính mắc đó. Rồi con sẽ nhìn nhận một cách ý thức: “Tôi không cần phải liên tục phán xét người khác hay phán xét cuộc đời, và thật ra tôi cũng không cần liên tục tự phán xét chính tôi. À, tôi có thể ngừng phán xét chính mình. Tôi không cần tự phán xét.” Xong con có thể giải thoát khỏi mưu đồ tinh vi của ác quỷ hay bọn quỷ Mara, là khiến con không ngừng tự phán xét mình dựa trên ý tưởng là mình thiếu sót, mình bất toàn, hay mình đã phạm lỗi trong quá khứ và giờ đây mình cần bỏ ra một thời gian dài đằng đẵng để mà bù lại. Thay vào đó, con có thể đơn giản bước vào một tâm thái – như sứ giả đã mô tả hôm trước – nơi con an bình là con người mà con là ngay bây giờ.

Con dư biết là con chưa đi muốt con đường tâm linh vì nếu không, con đã thăng thiên rồi. Con hiện đang đầu thai nhưng con không cần tự trách mình là con vẫn còn một chặng đường khá dài trước khi thăng thiên và con vẫn còn một số vấn đề tâm lý chưa giải quyết. Con có thể chỉ đơn giản quan sát chính mình. Con quan sát các phản ứng của con. Khi con thấy con phản ứng, con không cần tự phán xét nghiêm khắc hay cảm thấy buồn bực, hay cảm thấy là mình đã phạm lỗi, hay mình là một người xấu, hay mình không là một đệ tử tốt. Con chỉ đơn giản quan sát khuôn nếp đó xong con nói: “Tại sao tôi lại phản ứng cách như vậy, đâu là cái khuôn nếp, đâu là cái tin tưởng?” Một khi con thấy rõ hơn, có lẽ bằng cách đọc các bài thỉnh và thỉnh vị chân sư mà con ưa thích nhất trợ giúp con nhìn ra, thì khi đó con có thể nhìn ra khuôn nếp đó. Rồi con có thể nói: “Liệu tôi có muốn sống phần đời còn lại của mình mà cứ lặp lại khuôn nếp này mãi hay chăng?” Nếu con cảm thấy: “Không, tôi không muốn vậy nữa” thì con hãy nhìn vào quyết định và con thay đổi quyết định đó đi một cách ý thức. Như vậy con đã tiến lên một bước về hướng tự do, nhưng con vẫn luôn ở trong trạng thái không tự phán xét.

Con không cần phán xét: “Liệu tôi có là một để tử tốt, liệu tôi đã đạt tới một trình độ cao trên đường tu hay chưa?” Con chỉ cần đợi lần sau con nhìn thấy một khuôn nếp thì con quan sát mà không xét đoán: “Đâu là tác dụng của khuôn nếp này, nó đang ảnh hưởng cách hành xử của tôi cùng cách tôi cảm nhận chính mình và đời mình như thế nào? Tôi có muốn cảm nhận như vậy hay không? Tôi có muốn hành xử như vậy hay không?” Sau đó, con hãy đi theo cùng tiến trình và một lần nữa con lại tự giải thoát khỏi nó. Cứ thế con bước lên cao hơn và con tự do hơn. Rồi khi con lần lần gia tốc tiến trình này, con có thể đạt tới điểm con cảm thấy sự an bình liên tục khi con xuôi chảy từ một tình huống sang tình huống kế tiếp. Như các thày đã có nói về các Phật tử Tây tạng, con trụ vững nơi thực tại cuộc sống là một dòng chảy không ngừng.

Con là một sinh thể vượt thời gian

Con không cần lượng định tình huống xem nó tôt hay xấu, liệu nó có thành công hay con đã mắc phải sai lầm. Con nhìn nhận là bất cứ gì xảy ra trong cõi vật chất chỉ là một biểu hiện tạm thời. Con nhận ra là mặc dù có một số hậu quả vật lý mà con không thể tháo gỡ – vì con không thể thay đổi chúng, con không thể tự gỡ mình ra khỏi chúng vì chúng đã xảy ra trong quá khứ – thì hậu quả vật lý thật sự không ảnh hưởng gì đến sự trải nghiệm cuộc sống của con, vì trải nghiệm cuộc sống diễn ra bên trong con. Nó diễn ra trong tâm con. Vì thế con có khả năng nhận ra là cho dù hoàn cảnh vật lý trải nghiệm có là gì, đó vẫn là một cơ hội để con nhìn ra khuôn nếp phản ứng trong con, để con giải thoát khỏi khuôn nếp đó rồi bước tới gần hơn với quả vị Phật.

Những gì xảy ra trong kiếp này thật sự không mang tác động nào vĩnh viễn, liên tục và vô tận trên đời con. Và khi con lần lần thoát khỏi tính phán xét, lần lần thoát khỏi sự đồng hóa với cơ thể cũng như với hoàn cảnh vật lý của con, con nhận ra con là một sinh thể vượt thời gian, một sinh thể vĩnh hằng, một sinh thể không ngừng hiện diện. Trước kiếp đầu thai này, con đã từng sống qua rất nhiều kiếp khác, và con sẽ còn hiện hữu rất dài lâu sau kiếp này. Vậy thì những gì xảy ra trong cõi vật lý có gì quan trọng đâu khi chúng không ảnh hưởng gì đến cuộc sống của con sau kiếp này?

Con yêu dấu, nếu con có thể nhìn lại những gì đã xảy ra cho con một ngàn kiếp trước đây, con sẽ thấy là rất có thể con đã trải qua một biến cố vật lý khủng khiếp, chẳng hạn như bỏ mạng trong một cuộc chiến. Nhưng chuyện đó xảy ra một ngàn kiếp trước rồi. Ngày hôm nay liệu nó còn thực sự quan trọng hay không? Nó không quan trọng hơn khi con còn bé, con đánh mất một đồ chơi yêu quý rồi không làm sao tìm lại được. Ngày hôm nay, chuyện mất đồ chơi vào tuổi thơ ấu có thực sự quan trọng gì không?

Con nhận ra là biến cố vật lý tự thân nó không có ý nghĩa gì hết. Chúng chỉ có thể tác động con qua cách con phản ứng lại trong tâm con. Con yêu dấu, mặc dù con không thể thay đổi hậu quả vật lý, nhưng bất cứ lúc nào con cũng có khả năng thay đổi khuôn nếp phản ứng trong tâm con. Đây là chìa khóa cốt yếu để con bước tới quả vị Phật, cụ thể là con nhận ra là con luôn luôn có khả năng thay đổi những gì xảy ra trong tâm mình. Mà chính những gì xảy ra trong tâm con mới định đoạt trải nghiệm của con trong giây phút hiện tại, tức là trải nghiệm của con về cuộc sống. Chính cái đó cũng định đoạt tương lai của con, hướng đi của con trong tương lai.

Khuôn nếp phản ứng sẽ định đoạt tương lai con

Con thử nhìn xem những người vừa trải qua một biến cố không như ý. Họ đều phản ứng lại cùng một cách: Thất vọng, buồn bực, giận dữ, tiêu cực. Họ rơi vào một khuôn nếp phản ứng. Con yêu dấu, bây giờ con thử suy ngẫm điều này: Bất kỳ một biến cố nào xảy ra cho con trong cõi vật lý là một điểm độc nhất. Con đang ngồi đây ngay bây giờ, và hoàn cảnh của con ngay bây giờ là một điểm độc nhất. Trước mặt con là một mặt phẳng rộng mênh mông, một bề mặt rộng lớn như quảng trường vĩ đại kia trong Công viên Olympic vậy. Con ngồi ở một điểm và trước mặt con là toàn bộ quảng trường mở rộng. Trên lý thuyết, con có thể bước đi về bất cứ hướng nào con muốn trong quảng trường đó.

Cho dù con đã trải qua biến cố nào trong đời, con vẫn có rất nhiều con đường mở ra trước mặt về phía tương lai. Nhưng khi con có một khuôn nếp phản ứng trong tâm, khuôn nếp này sẽ ngăn cản không cho con thấy rất nhiều những con đường mở ra như vậy. Nó sẽ tập trung chú ý của con vào đúng một con đường, thường là con đường tiêu cực nhất. Con sẽ nghĩ đó là cách duy nhất con có thể phản ứng, là con đường duy nhất đưa con vào tương lai.

Ta nói với con, khi con bước đi trên con đường quả vị Phật và khắc phục dính mắc của mình, con sẽ tới một điểm khi con có thể trải nghiệm một sự cố, và từ một góc độ nào đó, đây không phải là một sự cố lý tưởng. Có thể đây không là điều con mong muốn, nhưng cho dù sự cố đó là gì, con vẫn thấy được nhiều con đường mở ra trước mặt mà con có thể đi theo vào tương lai. Vì con đã vượt qua được khuôn nếp phản ứng, cho nên con có tự do chọn lựa trong số các con đường đó, và đó chính là lúc con có thể xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Con ngộ ra đời con là một dòng chảy không ngừng, và đó không phải là một tiến trình nơi con có thể dừng lại và kẹt lại ở một điểm nào đó cho dù biến cố trải nghiệm có khủng khiếp, đau thương biết mấy. Dòng chảy không ngừng lại. Có thể con quyết định đi theo một hướng nào đó khiến con tưởng dòng chảy đã ngừng lại hay con đang bơi ngược chiều Dòng sông sự Sống và đang gặp phải sự chống đối kịch liệt, nhưng dòng chảy không hề ngừng lại.

Một khi con khắc phục khuôn nếp phản ứng, con sẽ thấy là chỉ cần một chút thay đổi trong cách nhìn cuộc sống, cách tiếp cận cuộc sống, thái độ đối với cuộc sống, thì con có thể thay đổi hướng đi đời con. Và như vậy trong tương lai, con sẽ tới một điểm đến hoàn toàn khác xa so với con đường con đã đi khi con còn mang khuôn nếp tiêu cực. Con yêu dấu, có quan trọng gi hay chăng những gì đã xảy ra trong đời sống vật lý của con? Có thực sự quan trọng hay chăng con đường mà con đã lấy miễn là con đến được điểm thăng thiên ở cuối kiếp này? Hoặc ít ra con đến được điểm cao nhất mà con có khả năng với tới hầu con mở ra một kiếp hiện thân tốt đẹp hơn khi con tái đầu thai?

Có thật quan trọng hay chăng những gì xảy ra cho con khi bất cứ gì xảy ra cũng đều có thể được dùng để thiết lập một hướng đi tốt đẹp hơn cho tương lai? Một khi con nhìn nhận điều này, con có thể tránh bị các khuôn nếp phản ứng đó lôi kéo. Con sẽ bắt đầu quan sát các khuôn nếp. Con sẽ bắt đầu giải thể các dính mắc, và với mỗi dính mắc mà con giải thể, con sẽ tiến một bước gần hơn với quả vị Phật. Hiển nhiên đây là điều mà ta mong muốn nhìn thấy nơi con. Đó cũng là điều mà ta đã cố giảng dạy và chứng tỏ cho các đệ tử của ta 2500 năm trước đây. Thuở đó quá ít người đã có thể nắm bắt được, nhưng dù sao thì một số người đã sử dụng được giáo lý của Phật để nắm bắt lấy, và ta hy vọng nhiều người hơn nữa sẽ dùng được giáo lý của các chân sư thăng thiên trong thời đại hôm nay để trụ vững nơi tinh túy của con đường quả vị Phật.

Đức Phật bất động và đức Phật hằng động

Con yêu dấu, ta mong muốn trao cho con một số suy nghĩ dựa trên những gì ta đã nói hôm trước, cụ thể là ta, đức Phật, là một sinh thể hằng thay đổi. Từ khi đầu thai lần chót cách đây 2500 năm, ta đã tự thăng vượt rất nhiều lần. Tất nhiên, ta thừa biết là câu nói này có vẻ khiêu khích đối với những ai có cái nhìn truyền thống về Phật. Nhưng lời nói này cố tình khiêu khích, vì ta không muốn tâm con bị đông đặc trong một hình ảnh bất động về Phật.

Đương nhiên từ một góc nhìn phàm phu, đúng là Phật có một yếu tố dường như không thay đổi. Điều con cần hiều – hầu giải quyết một điểm có vẻ nghịch lý – là một tâm thái của con người mà ta từng gọi là “Biển Luân hồi” nơi biến động và rối loạn xảy ra không ngừng. Tất nhiên, chính các dính mắc của con đã cuốn hút con vào các khuôn nếp phản ứng trước những chuyển biến trong cuộc sống vật lý của con, và cái đó tạo ra sự rối loạn khiến đời con trở thành một tiến trình hoàn toàn hỗn độn.   

Để bắt đầu vạch ra một hướng đi mới cho đời con, một lộ trình có hệ thống để tiến về quả vị Phật, con cần khắc phục phần nào tình trạng hỗn loạn đó để tìm thấy một chút an bình, một chút im lặng, một vài giây phút nơi con có thể bước lui lại và quan sát cuộc sống. Đó là khi con được ích lợi khi con tập trung vào Phật như là Phật bất động, Phật an bình, Phật im lặng, là Phật đem lại cho con một nơi trú ẩn khỏi những náo động của Biển Luân hồi. Đây là một hình ảnh chính đáng nếu con sử dụng trong mục đích đó.

Một khi con bước lên cao hơn trên đường tu và con đã bắt đầu thiết lập một sự an bình nội tâm nào đó, thì con cần nhìn nhận là mặc dù không một thế lực nào của thế gian có thể khiến cho Phật lay động, nhưng điều này không có nghĩa là Phật đứng yên một chỗ. Nó không có nghĩa là Phật không bao giờ thay đổi. Im lặng, an bình, bất động không có nghĩa là không hằng sống, không thăng vượt. Đó là tại sao các chân sư thăng thiên ngày nay đã ban ra lời dạy về Dòng sông sự Sống, một lời dạy – mà theo một cách nào đó, hay ít ra được diễn tả với ngôn từ hiện đại hơn – vượt khỏi các giáo lý mà ta đã giảng dạy 2500 năm về trước.

Con cần nhìn nhận là ở những mức cao hơn của đường tu, ngay cả quả vị Phật cũng không đứng yên một chỗ. Con sẽ thấy là một số người ở phương Đông, cả trong truyền thống Phật giáo lẫn Ấn giáo, mô tả cuộc sống như một chiếc bánh xe. Một cách nào đó, linh hồn con hiện ra từ Niết bàn và con bước vào hiện thân, con tạo nghiệp và nghiệp này khiến con cứ phải trở lại đầu thai. Rồi con tìm ra một con đường giải thoát khỏi nghiệp để con không còn phải trở lại đầu thai. Một số người và một số vị thày dạy rằng một khi con giải thoát khỏi bánh xe luân hồi, con biến mất để trở về trong Niết bàn. Con biến mất trong tư cách là một sinh thế cá biệt. Con yêu dấu, nếu thật là như vậy thì đâu là mục đích để con hiện ra từ một trạng thái hư vô, kinh qua tất cả những biến động đó trên trái đất để rồi lại trở về trạng thái hư vô? Ích lợi ở đâu? Chẳng có ich lợi gì hết, và đó là lý do tại sao quá nhiều người cảm thấy vô vọng, như thể sự sống không có ý nghĩa gì, vì sau tất cả những phấn đấu đó thì họ chỉ đơn giản biến mất.

Không có trạng thái vô ngã

Tất nhiên, các chân sư giảng dạy sự thật rằng con là một sinh thể không ngừng hiện diện. Sau khi con thoát khỏi bánh xe luân hồi, con có thể thăng thiên và tiếp tục con đường tiến hóa có ý thức dẫn đến những tầng tâm thức cao hơn nữa. Sau khi con đã làm yên những rối loạn trong tâm, điều quan trọng, điều cốt yếu là con bắt đầu trụ vững nơi bản chất không ngừng hiện diện của con, và như vậy con cũng trụ vững nơi Bản thể của Phật. Làm thế nào con có thể cảm thấy mình đang nỗ lực tiến về quả vị Phật nếu con nghĩ đó là một trạng thái cố định, không thay đổi? Hay một trạng thái vô ngã, một trạng thái không có cái ta, như một số vị thày dạy như vậy? Nhưng con yêu dấu, không có trạng thái nào mà không có cái ta. Đúng là có một trạng thái không có ngã phàm phu, không có ngã tách biệt, nhưng không có trạng thái vô ngã, theo nghĩa là luôn luôn có cái Ta mà Thượng đế đã sinh tạo, là cá thể thiêng liêng của con luôn luôn hiện diện và tự thăng vượt.

Vấn đề không phải là chuyện khắc phục ngã phàm phu rồi biến mất vào hư vô, mà là khắc phục ngã phàm phu rồi nối kết lại với cái Ta chân thực của con. Bí quyết ở đây, con yêu dấu, là hiểu rằng đối với ngã phàm phu, việc khắc phục ngã phàm phu sẽ mang cảm giác như một trạng thái vô ngã, một trạng thái hư vô. Ngã phàm phu không thể nào hình dung nổi một trạng thái ý thức mà không có hai đối cực nhị nguyên của ngã phàm phu. Đối với nó, đối với sa nhân, cái đó có vẻ như là hư vô, nhưng nó không phải là hư vô. Nó không phải là vô ngã, mà nó là cái Ta Một. Nó là cái Ta của Phật.

Hình ảnh mà ta muốn để lại cho các con, một lần nữa, là hình ảnh một dòng sông. Khi con nhìn một dòng sông khởi nguồn cao trên núi, con thấy trong giai đọan đầu, sông chảy xuống sườn dốc rất cao, nước chảy rất nhanh và cuồng loạn. Điều này tượng trưng cho giai đọan mà hầu hết mọi người đều kinh qua khi họ bị kẹt cứng trong các khuôn nếp phản ứng, kẹt cứng trong các dính mắc của họ, đến độ họ vướng vào Biển Luân hồi với những xoáy nước, với sóng dữ và bão táp ngổn ngang hỗn loạn. Tất cả mọi thứ trong đời họ đều rối lên như thể họ bị ném tới tấp ra tứ phía bởi một định mệnh tàn nhẫn. Họ hoàn toàn không kiểm soát được đời họ và họ không thể ngừng chiếc tàu lượn cứ phóng tới.

Thế rồi khi con bước vào đường tu và khám phá sự an bình nội tâm đích thực của Phật, con giống như những đoạn cuối của dòng sông khi sông dịu dàng uốn mình giữa phong cảnh yên ắng. Con bắt đầu trải nghiệm là mặc dù dòng sông vẫn chuyển động, nó có một cái gì không bao giờ ngừng hiện diện. Nhưng con vẫn cảm thấy sự an bình vì náo động không còn nữa.

Khi con đạt đến điểm này, con sẽ có một cái nhìn khác về Phật. Khi con cảm thấy bình an bên trong chính con, cho dù con vẫn biết là con còn đang đầu thai, con xuôi chảy với Dòng sông sự Sống, và con ngộ ra là sự an bình có thể đạt được trong chuyển động. Khi đó, con sẽ nhận ra là cái có vẻ là bất động, là sự an bình tĩnh tại của Phật, thật ra không đứng yên chút nào.

Con yêu dấu, con hãy hình dung dòng sông. Con đang đứng ở một điểm nào đó trên dòng sông cho nên con có xu hướng nhìn sông từ điểm đó. Bây giờ con hãy bước ra khỏi sông, ngắm nhìn nó từ xa, từ lúc nó khởi nguồn trên núi cao vùng Đông Hàn quốc rồi chảy xuyên qua thành phố Seoul này. Xong con hãy nhận ra là dòng sông này có thể được ngắm trong sự trọn vẹn của nó. Nó được cấu tạo bằng từng phân tử nước cá biệt, nhưng con có thể xoay nhãn quan và nhìn ra toàn bộ dòng sông là một khối nước nối kết liên tục. Cái đó, con yêu dấu, chính là Phật, là toàn bộ dòng sông, là tánh duy nhất của sông đang tuôn chảy. Một số thành phần của nó náo động, một số thành phần của nó yên lặng, nhưng cả dòng sông thì chỉ là một. Cái đó, con yêu dấu, chính là Phật. Đó là im lặng trong chuyển động. Đó là Dòng sông sự Sống, và TA LÀ dòng sông đó, và con cũng là dòng sông đó.  

Con sẽ có thể nói: “Nhưng con đang ở trong dòng sông.” Phài, con đang ở trong đó, nhưng điều này không ngăn cản con nối kết với tổng thể và nhận ra rằng toàn bộ dòng sông là Phật tánh. Do đó, con có thể hòa nhập vào cái toàn thể đó, và mặc dù con đang đứng ở một điểm trên sông, con vẫn có thể thoáng trải nghiệm được toàn thể của nó. Điều này cho con một cái nhìn hoàn toàn đổi khác về cuộc sống. Đó là chìa khóa tối hậu để con khắc phục những dính mắc cuối cùng mà con còn mang trong con ngay cả ở những giai đoạn cao hơn của đường tu. Những dính mắc này cần được vượt qua trước khi dòng sông đời con có thể chảy vào đại dương tối thượng, là đại dương an bình vượt khỏi Biển Luân hồi, hoặc như ta đã từng gọi, là Bờ Bên kia.

Như vậy, con yêu dấu, ta chúc con sự an bình trong chuyển động và ta niêm con trong hòa bình mà TA LÀ. Ta niêm phong đại hội này, một đột phá thực sự để bước lên trạng thái tâm thức cao hơn cho mỗi cá nhân các con cũng như cho trạng thái tâm thức tập thể tại Nam Hàn, Bắc Hàn cũng như vùng châu Á rộng lớn. Con được niêm trong sự an bình không ngừng tuôn chảy, không ngừng hiện diện của Phật.  

Những thay đổi cần thiết trong tư duy người châu Á

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama, ngày 2/7/2016, qua trung gian Kim Michaels nhân dịp một hội nghị tại Hàn quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama, và ta đến đây để gửi đến các con một số tuệ quán về một trong những thay đổi có khả năng đưa không chỉ Hàn quốc mà cả châu Á nói chung vào Thời Hoàng kim. Các con yêu dấu, ta thật vui mừng khi thấy sứ giả này đã có thể trình bày bài nói chuyện vừa rồi và cử tọa đã thực sự hiểu được những gì ông nói. Tất nhiên các chân sư chấp nhận tất cả các con như các con đang là, ngay trong lúc này, và các chân sư không mong muốn gì hơn là được thấy các con cũng chấp nhận chính mình như là những học trò trên đường tu tâm linh.    

Vì thế các con hãy an lạc bước trên đường tu, an lạc được sống, và an lạc được hiện thân trong khi các con đang hiện thân, thay vì các con đi đến cuối đường đời, hay ngay cả thăng thiên, rồi mới nhận ra là mình đã không tận dụng cơ hội đầu thai và không hoàn toàn thưởng thức cuộc đời. Và con đã không thưởng thức được cuộc đời vì con không thể chấp nhận được chính con như con là.

Bù đắp cho sự không chấp nhận bản thân

Như sứ giả này vừa nói hoàn toàn chính xác, các sa nhân đã cố tạo ra một tình trạng nơi không một ai có thể chấp nhận chính mình bởi vì luôn nghĩ rằng mình phải là một người nào khác. Con thấy trong nhiều xã hội, người ta đã tìm ra một cách bù đắp cho tình trạng này. Nếu trong một xã hội không ai chấp nhận được mình như là mình, và do đó mọi người đều có một cảm giác bất mãn, khổ sở nào đó thì làm thế nào họ sống được đây? Nhiều người sống bằng cách chấp nhận số phần của mình trong đời. Họ chấp nhận làm người nông dân, người công nhân, hay một người bình thường không bao giờ có thể thực sự vươn lên cao hơn. Một khi con chấp nhận như vậy thì con có thể, một cách kỳ lạ, sống với nó, bởi vì suy cho cùng, không ai khác trong tập thể của con có thể làm hơn con. Nếu mọi người đều khổ sở như nhau thì hầu hết mọi người sẽ thấy khổ sở cũng không đến nỗi tệ.

Nhưng con cũng thấy trong hầu hết các xã hội, có một thành phần khác đối phó với sự thiếu chấp nhận bản thân đó một cách hoàn toàn khác. Họ đứng riêng ra và tự coi mình là đặc biệt so với người khác. Họ cảm thấy họ thuộc về một thành phần xã hội đặc biệt, phần nào được nâng lên cao hơn mọi người khác là những nông dân, công nhân, những người dân bình thường. Khi con nhìn vào lịch sử hành tinh này, con thấy đây là một trong những đặc tính chủ yếu của hầu hết các xã hội.   

Các chân sư đã nói là các sa nhân, ngay từ lúc họ bị sa ngã (và thậm chí trước đó nữa trong nhiều trường hợp), đã muốn tạo ra cho mình một tư thế cao hơn, vượt trên người khác. Xu hướng muốn tạo ra một giai cấp xã hội vượt trên đa số quần chúng khởi đầu với sa nhân. Điều này không có nghĩa là bất cứ ai thuộc về một thành phần đặc bịêt của xã hội nhất thiết phải là một sa nhân. Nhiều người chỉ lỡ mắc kẹt vào tâm thức sa ngã nên họ cũng cố nâng mình lên cho thành đặc biệt. Họ tìm cách thuộc về một giai cấp đặc biệt và cảm thấy mình cao hơn, vượt trên người khác.

Phương cách mà họ thường sử dụng là bảo rằng giai cấp này có một số khả năng hay tính cách đặc biệt. Suốt các thời đại, người ta đã dùng nhiều hệ thống triết lý để biện minh cho cách phân chia đó, cách chia cắt xã hội thành giai cấp trên và dưới. Đó có thể là tôn giáo, và trong nhiều trường hợp đã là tôn giáo. Đó có thể là một triết lý cai trị. Thậm chí đó có thể là chủ nghĩa duy vật khoa học, như con thấy ngày nay có những người cho mình là có thể lực hơn mọi người mặc dù họ hiếm khi đến phòng tập thể dục.  

Con yêu dấu, người ta có đủ cách bào chữa cho sự thể này, và nếu con nhìn vào các lý do vỏ ngoài tại sao họ lại đặc biệt, nếu con tin những gì họ nói, thì con có thể nghĩ chắc hẳn họ cảm thấy rất hài lòng về bản thân và địa vị xã hội của họ. Chắc hẳn họ cảm thấy tốt đẹp hơn người khác thật, và ta phải đồng ý là có nhiều người trong giai cấp thượng lưu tin chắc là họ có những đặc tính khiến họ tốt đẹp hơn mọi người. Nhưng điều này chỉ nằm trên bề mặt của tâm thức họ, vì thực sự họ đang ở trong ảo mộng, đang tự dối gạt, đang không chịu nhìn sâu vào tâm lý họ để nhận ra là kỳ thực họ đang hoàn toàn đau khổ do không chấp nhận được chính mình.  

Có thể nói, cảm giác vỏ ngoài tự cho mình là hơn người chỉ đơn giản là một cách che đậy nỗi khổ đau bên trong, hầu giúp họ có thể sống với đau khổ mà không nhìn thấy đau khổ. Cũng y hệt như những người kia trong giai cấp hạ lưu đã tìm ra cách che đậy nỗi đau khổ nội tâm hầu họ không nhìn thấy điều đó trong sự tỉnh táo. Con nhận ra là tại châu Á nói chung, xã hội đã có một truyền thống lâu đời chia thành một giai cấp thượng lưu mang đặc quyền, và phần còn lại là những người dân cư xử một cách vô cùng khúm núm, phục tùng – nếu có thể nói như vậy – đối với giới thượng lưu.    

Sự phân rẽ trong xã hội châu Á

Vậy con có thể thấy những tàn dư của tình trạng này tại nhiều quốc gia châu Á trong cách người dân cư xử trước quyền lực, và ngay cả trong cách đối xử với nhau. Họ thường cúi đầu và cảm thấy họ phải khuất phục, đặc biệt là đối với những kẻ ở địa vị lãnh đạo hay uy quyền. Hiển nhiên là các chân sư mong muốn các con, là học trò tâm linh, vượt lên trên tâm thức này, và chấp nhận mình như mình là, và chấp nhận rằng bất kể người ta có địa vị gì trong xã hội thì con vẫn cảm thấy hài lòng trong nội tâm về chính mình, như hồi nãy có đứa con gái của con vừa bày tỏ. Bên ngoài thì con có thể tuân thủ luật lệ xã hội và làm những điều cần làm để sống còn trong hệ thống, nhưng bên trong con hãy nhận ra mình là ai và nhận ra giá trị của mình.  

Tuy nhiên người dân tại các nước Á châu cũng cần nhận ra là sự phân chia xã hội thành cao với thấp không thể nào đứng vững trong Thời đại Bảo bình. Con không thể xây dựng một xã hội hoàng kim nếu con có một giai cấp trên và một giai cấp dưới. Giai cấp thượng lưu sẽ không thể xây dựng được xã hội hoàng kim bởi vì họ không thể hòa điệu với tâm thức của Saint Germain. Làm thế nào họ có thể hòa điệu với Thánh thần của Tự do khi họ không có cả tự do trong bản thân họ, và họ không sẵn lòng ban bố tự do đó cho những thành phần thấp hơn trong xã hội?   

Các con cần chuyển đổi nhận thức của mình, cần kêu gọi mọi người nhận thức được cái cơ chế phân chia xã hội thành cao với thấp. Mọi người cần tỉnh thức về những lý do đã dẫn đến sự thể này, tỉnh thức rằng nó đã lỗi thời. Mọi người cần nhìn thẳng vào nó, công khai thảo luận về nó và sáng tạo một nền văn hóa khác hẳn.   

Một điều con nhận thấy trong nhiều nước Á châu kể cả Hàn quốc, là chỉ những ai thuộc các gia đình “chọn lọc” mới có thể đi học trường tốt và được ưu đãi trên thị trường việc làm. Nhiều hãng sở sẽ cứu xét thế lực gia đình của nhân viên trước khi bổ nhiệm vào những chức vị cao cấp. Con yêu dấu, có nghĩa lý gì từ một góc độ kinh doanh khi người ta thuê mướn nhân viên mà lại nhìn vào gốc gác gia đình thay vì xét xem người đó có đủ kiến thức, khả năng hay cá tính để đảm nhiệm trách vụ? Con yêu dấu, con có hiểu là tại sao nhiều công ty châu Á đã không thể tung ra những phát minh hay công nghệ mới như các công ty ở một số nước phương Tây hay chăng?

Nếu con tự hỏi, con yêu dấu, tại sao tập đoàn khổng lồ mang tên Samsung lại phải bắt chước sản phẩm của Apple thì con sẽ thấy lý do khá giản dị. Mặc dầu to lớn, có nhiều tiền và nhiều nguồn lực nhưng Samsung vẫn không có khả năng thuê mướn những người đủ sáng tạo hầu tung ra những sản phẩm mới lạ. Họ vẫn phải bắt chước, và tại sao như vậy, con yêu dấu? Phần lớn là vì cái văn hóa mà ta vừa nói tới, tức là dùng người dựa trên gốc gác gia đình thay vì khả năng sáng tạo hay những khả năng khác.

Khi con bắt đầu nhận ra điều này thì con thấy nó ảnh hưởng trên nhiều phương diện, không chỉ xã hội Hàn quốc mà nhiều xã hội châu Á khác nữa. Ở một số nước, vấn đề này thật là hiển nhiên, trong khi ở một số nước khác thì nó vi tế hơn. Ta có thể cam đoan với con là nếu Á châu muốn vươn lên tâm thức của Thời Hoàng kim thì nền văn hóa này phải được vượt thăng, tức là người ta phải sẵn lòng nhìn vào linh hồn, nhìn vào con người cùng những khả năng và đặc điểm sẵn có của mỗi người thay vì các hình thức bề ngoài. 

Thái độ đối với phụ nữ tại châu Á

Một trong những vấn đề cũng cần được giải quyết, tất nhiên, là thái độ đối với phụ nữ trong các xã hội châu Á. Con thấy là để có được một chân đứng cao cấp trong một hãng lớn tại Á châu, con không những phải thuộc một gia đình cao cấp mà thêm vào đó con phải là đàn ông. Một lần nữa, đây là một trong những lý do nhiều công ty châu Á bị tụt hậu, bởi vì không có gì bảo đảm nam giới có nhiều khả năng sáng tạo hơn, và trong nhiều trường hợp các sáng kiến mới lạ chỉ có thể đến từ nữ giới. Đây cũng là một vấn đề tại Tây phương nhưng là một chủ đề cho một bài khác.

Con thấy được là trong vùng này của thế giới đã có một truyền thống lâu đời áp chế những ai bị coi là thuộc giai cấp thấp kém, những ai bị coi là không quan trọng. Ngay cả trong giới thượng lưu cũng có truyền thống áp chế phụ nữ, không để cho phụ nữ phát huy khả năng sáng tạo, tài năng tổ chức, tầm nhìn cũng như sự đóng góp của mình cho xã hội.

Có thể nói là khi nhìn vào xã hội, con thấy được là có phân chia giai cấp, trên và dưới, dựa theo gốc gác gia đình, và đồng thời cũng có một giai cấp ở trên gồm nam giới thuộc một số gia đình chọn lọc, và có một giai cấp ở dưới gồm nữ giới bất kể mọi gốc gác gia đình. Con cần nhìn nhận, như ta vừa nói, là một linh hồn, một dòng sống, không độc quyền là nam hay nữ, mà sẽ đầu thai trong mỗi kiếp trong một xác thân vật lý khác nhau. Con không luôn luôn là người nam trong một cơ thể nam giới. Con cũng không luôn luôn là người nữ. Cho nên nếu con muốn tìm nhân viên thích hợp nhất cho một trách vụ ở hãng sở hay trong xã hội, con cần nhìn vào các đặc điểm của linh hồn, các đặc điểm nội tại của linh hồn.

Không trân quý cá nhân

Con yêu dấu, nhìn từ góc cạnh kinh doanh thuần túy, điều này phải khá hiển nhiên. Các lãnh đạo kinh doanh, như tại Hàn quốc, phải có khả năng nhìn thấy tại sao họ lại thua kém các công ty Tây phương về sáng tạo và họ phải làm gì để thu hẹp khoảng cách. Họ phải kết luận được là họ cần tìm kiếm những người mang khả năng đặc biệt trong bản thân thay vì chỉ nhìn một số nét bề ngoài rồi giả thiết rằng người xuất thân từ gia đình tốt sẽ sáng tạo hơn, lãnh đạo giỏi hơn. Con có thể tự hỏi tại sao họ không đi đến được kết luận đó? Có phải là họ không đủ khôn ngoan, không đủ thông minh? Hay là vì những lý do nào khác?  

Lý do, như các chân sư khác có đề cập, là châu Á có một truyền thống lâu đời coi trọng nhà nước hay tập đoàn hơn là cá nhân. Người ta không xem mỗi con người cá nhân là có giá trị cố hữu, là nguồn lực đặc trưng với khả năng độc đáo. Xu hướng chung là cho rằng nếu một trách vụ cần người đảm nhiệm thì gần như bất cứ ai, hay ít ra rất nhiều người, cũng có thể đảm nhiệm được. Do vậy mà nhà nước lẫn công ty đã cho phép mình coi thường cá nhân, tất nhiên là ngoại trừ người lãnh đạo tối cao. Và ngay cả điểm này cũng không hẳn đúng, vì con có thể thấy ở nhiều nước như Bắc Hàn ngày nay chẳng hạn, con trai của lãnh tụ cũ tự động trở thành lãnh tụ mới bất kể anh ta có thích hợp cho trách vụ đó hay không và bất kể anh ta có muốn giữ trách vụ đó hay không.

Khi con không trân quý cá nhân, không trân quý con người, làm sao con có thể chuyển hướng khỏi cái văn hóa chỉ chuộng gia đình và hình thức bề ngoài? Cho nên sự chuyển đổi cần xảy ra, mà sứ giả này đã có nhắc đến, là các con phải bắt đầu trân quý lẫn nhau, nhìn nhau như là bình đẳng, và quý trọng nhau như những cá nhân, những con người mà các con là. Các con quý trọng và hiểu rõ giá trị của sự khác biệt. Tại sao sứ giả này đã có thể nói chuyện với các con? Bởi vì ông có một cử tọa nơi hầu hết mọi người đều nhận thức được là mình muốn liên hệ với nhau một cách khác. Các con muốn liên hệ với nhau bình đẳng thay vì chia ra thành kẻ trên người dưới. Đây là tiềm năng của các con để tác động lên xã hội khi các con chấp nhận tâm thức này nơi chính mình, khi các con phát biểu và, tất nhiên, khi các con đọc lên những bài chú. Nhất định là sẽ rất, rất khó thay đổi được một tâm thức vô cùng lâu đời đã ăn sâu vào xã hội như thế.

Khi ta nói là điều đó rất khó khăn thì, tất nhiên, đó cũng chỉ là tương đối. Vì như chúng tôi các chân sư đã nói nhiều lần, đối với con người thì nó không thể, nhưng đối với Thượng đế thì tất cả đều có thể. Nhưng chúng tôi cũng lại nói, tâm thức con người cần chuyển đổi trước khi chúng tôi có thể sử dụng quyền năng của chúng tôi. Phải cần có một nhận thức ngày càng sâu rộng, một sự chuyển hướng trong nhận thức, rằng các con sẽ chấp nhận lẫn nhau như con người mà các con là, và các con bắt đầu liên hệ với nhau một cách khác.

Chuyển đổi thái độ của xã hội đối với cá nhân

Con yêu dấu, chúng tôi không có ý tạo ra ở đây một phong trào tâm linh sẽ lặp lại những khuôn nếp được thấy quá thường xuyên trong Thời đại Song ngư vừa qua, khi mà ngay cả các phong trào tâm linh cũng bị phân rẽ thành giai cấp trên và giai cấp dưới. Có những người xem mình tốt đẹp hơn người khác, và những người còn lại thì chấp nhận mình là hàng thứ dưới của kẻ lãnh đạo. Đây không phải là điều chúng tôi muốn xảy ra. Khi các con vượt qua được tâm thức này trong con thì những lời chú của con sẽ có nhiều quyền năng hơn và các con sẽ làm theo những gì sứ giả đã nói. Các con sẽ làm gương cho mọi người là các con có thể liên hệ với nhau cách khác.

Sự chuyển đổi nào cần thiết cho xã hội? Là các con nhận ra mục đích của sự sống hay của một xã hội là phục vụ con người, phục vụ sự tăng trưởng tâm thức, trao cho mọi người cơ hội biểu hiện các đức tính vốn có của mình, sự sáng tạo, kinh nghiệm và khả năng của mình. Nếu một xã hội trao cơ hội cho những ai từng phát triển những khả năng cao nhất trong tiền kiếp có thể biểu thị được khả năng này, thì xã hội sẽ thăng hoa. Nếu một tập đoàn thu hút được nhân sự có khả năng, biết trân quý khả năng và trao cho họ cơ hội thể hiện khả năng, thì tập đoàn đó sẽ thịnh vượng.    

Muốn vậy, mọi người cần thấy mục đích của xã hội là phục vụ con người. Mục đích của tập đoàn là phục vụ những người làm việc trong tập đoàn, chứ không phải là tạo thêm lợi nhuận ngày càng lớn hơn cho một số ít cổ đông không thực sự đóng góp cho tập đoàn vì họ chỉ sở hữu cổ phiếu và nhận cổ tức.   

Con yêu dấu có thấy không, vào thời Hoàng kim sẽ có một cấu trúc công ty hoàn toàn mới mà qua đó những ai trực tiếp đóng góp vào hoạt động của công ty sẽ được xem là mục đích chủ yếu của hoạt động công ty. Thậm chí mục đích của một công ty thời hoàng kim sẽ không là kiếm tiền. Mục đích sẽ là phục vụ những người làm việc cho công ty, và tất nhiên muốn vậy thì phải phục vụ những ai sử dụng sản phẩm và dịch vụ của công ty. Đây là một chuyển đổi lớn lao mà ngay cả bên Tây phương vẫn chưa chứng kiến, ngoại trừ một vài ngoại lệ hiếm hoi. Chúng tôi vẫn biết điều này sẽ không xảy ra tại châu Á trước tiên, nhưng vẫn hữu ích nhắc đến vì nó nằm trong khuôn mẫu hoàng kim. Và các con có thể đọc lên những lời kêu gọi để các xã hội châu Á khởi sự trân quý cá nhân, trân quý con người, và thấy được mục đích xã hội là phục vụ người dân của mình.

Mục đích của Hàn quốc

Đâu là mục đích của dân tộc Hàn quốc? Có phải là để cho một thiểu số thượng lưu ngày càng giàu có hơn? Các con không thấy sao, những quốc gia từng để cho sự thể này xảy ra đã dựng lên một giai cấp thượng lưu không còn cảm thấy trung thành với quốc gia đã ban cho họ địa vị đặc quyền của họ. Con hãy nhìn bao nhiêu tập đoàn khắp thế giới đã trở thành tập đoàn đa quốc gia, vì một khi họ thu hút loại người đeo đuổi quyền lực và của cải vô hạn thì không có gì – như bài thỉnh các con vừa đọc có nói – không có gì là đủ cho họ.

Không có quyền lực nào đủ lớn cho họ. Không có lợi nhuận nào đủ lớn cho họ. Không có một quốc gia nào trên thế giới có khả năng thỏa mãn sự tham lam vô đáy của họ. Ngay cả một đất nước rộng lớn như Hoa Kỳ cũng không thể thỏa mãn lòng tham của cải và quyền lực của các tập đoàn, và các tập đoàn này đã bành trường thành đa quốc gia. Họ càng đa quốc gia thì sự trung thành của họ càng ít đi đối với quốc gia và dân tộc của họ.

Con không thấy điều này đang xảy ra với một số tập đoàn lớn tại Hàn quốc hay sao? Có thực sự mục đích của một dân tộc là trao địa vị đặc quyền như vậy cho một thiểu số thượng lưu không giữ trung thành đối với quốc gia và dân tộc mình? Con nhìn xem đã bao nhiêu lần các tập đoàn đã chuyển hoạt động sản xuất sang một nước có giá nhân công rẻ mạt để khiến cho hàng vạn nhân viên của mình lâm vào cảnh thất nghiệp? Hơn thế, nhà nước lại để yên cho tập đoàn cứ thế bành trướng, để rồi phải hứng lấy một nan đề phải giải quyết, trong khi tập đoàn thì phủi tay. Có thực đó là khuôn mẫu mà con muốn lặp đi lặp lại nơi đây tại Hàn quốc cũng như tại các nước Á châu và nhiều nơi khác?       

Sa nhân không có lòng trung thành

Con cần kêu gọi để tạo ra sự chuyển đổi, và con cần kêu gọi sự phán xét đối với tâm thức của nhóm thượng lưu đặc quyền không có chút trung thành nào đối với quốc gia hay với những nhân viên đã làm việc cật lưng để giúp cho tập đoàn bành trướng to lớn đến thế. Con yêu dấu, con cần nhìn ra là các sa nhân hoàn toàn không trung thành với bất cứ ai. Con cũng cần nhìn ra là sa nhân luôn luôn đòi hỏi sự trung thành từ mọi người. Chúng luôn luôn đòi hỏi từ người khác những gì chúng không sẵn sàng cống hiến, và đây là một tâm thức cần được phán xét, cần được phơi bày, và mọi người cần quyết định là mình sẽ không tiếp tục khuất phục trước cái ma trận này nữa.  

“Chúng tôi sẽ không tiếp tục khuất phục trước giai cấp thượng lưu luôn đòi hỏi chúng tôi phải trung thành nhưng không cho lại được gì. Do đó, chúng tôi đòi hỏi một xã hội không dung thứ giai cấp thượng lưu này và không ban đặc quyền và trung thành cho họ, mà thay vào đó phải trung thành với người dân, với quần chúng, và cho phép mọi người dân được chia sẻ sự thịnh vượng của dân tộc.”

Đó không phải là khuôn mẫu của Thời đại Bảo bình. Đó không phải là một khuôn mẫu có thể bền vững trong Thời đại Bảo bình. Con sẽ thấy là những nước nào không thể thăng vượt khuôn mẫu này sẽ bị tụt hậu. Những tập đoàn nào không thăng vượt khuôn mẫu này cũng sẽ tụt hậu. Tại sao như thế, con yêu dấu? Tại vì Saint Germain sẽ truyền rải những loại công nghệ hoàn toàn mới mà thày đã có nhắc đến và sẽ đề cập thêm trong tương lai. Đây là những công nghệ dựa trên một tư duy hoàn toàn khác lạ và không là công nghệ dựa trên lực đẩy.

Giáo dục Thời Hoàng kim

Con có nghĩ là một công ty do giai cấp thượng lưu quyền lực của sa nhân lãnh đạo, hay do những người bị rơi kẹt trong tâm thức sa ngã lãnh đạo, sẽ có khả năng hòa điệu với Saint Germain và nhận được công nghệ này chăng? Không đâu con yêu dấu, bởi vì họ chỉ tìm kiếm những loại công nghệ mà họ có thể chiếm độc quyền và sử dụng để củng cố địa vị. Họ sẽ không đoái nhìn đến những công nghệ mới nhằm phục vụ và giải thoát người dân. Làm sao họ có thể hòa địêu với Thánh thần Tự do và nhận được những sản phẩm và công nghệ sáng tạo mà thày đang chờ dịp tung ra?

Những công nghệ này chỉ có thể được truyền đạt đến những người sáng tạo cao độ với một tâm thức mở rộng không thể được nuôi dưỡng trong cấu trúc truyền thống của các tập đoàn, hay ngay cả trong cách tổ chức giáo dục của hầu hết mọi nước. Và như con thấy tại nhiều nước Á châu, có tình trạng phân biệt trong hệ thống giáo dục với những trường đặc quyền dành cho gia đình khá giả và trường học phổ thông cho mọi người khác.   

Nhưng ngay cả trong mọi cơ sở giáo dục cũng đều có trọng tâm vào việc đạt điểm cao qua những tiêu chuẩn học vấn dựa trên khả năng học thuộc lòng, ghi chép và lặp lại những gì được chỉ dạy. Còn những khả năng khác thì bị xem là thứ yếu, như liệu học sinh có lãnh hội được kiến thức, có hội nhập, có sử dụng kiến thức một cách sáng tạo trong công việc hay không. Con có thấy được bản chất máy móc của việc mù quáng đặt trọng tâm vào những thành quả vỏ ngoài, vào kiến thức vỏ ngoài và sự ghi nhớ? Nó như là con rô-bót. Nó sản xuất ra những con người không biết suy nghĩ sáng tạo cho dù là mang kiến thức về một số đề tài cụ thể.

Làm sao những người như vậy có thể tiếp nhận những ý tưởng sáng tạo vượt xa các công nghệ hiện có? Làm sao họ có thể nghĩ ở ngoài cái hộp khi cả đời họ đã được dạy dỗ để chui vào trong hộp, một cái hộp được định ra bởi người khác, bởi xã hội, bởi giới thượng lưu đặc quyền, bởi tâm thức sa ngã? Làm thế nào những người bị kẹt trong cái hộp tư duy do tâm thức sa ngã dựng lên có thể hòa điệu với Saint Germain để nhận được ý tưởng mới và công nghệ mới? Không thể nào được, con yêu dấu.  

Liệu điều này có nghĩa là không một quốc gia châu Á nào có thể là nước tiên tiến về công nghệ và sáng tạo? Không, không có nghĩa là như vậy, bởi vì có những linh hồn đã tình nguyện đầu thai trong phần này của thế giới, và chắc chắn trong số đó có nhiều người ở Hàn quốc vì họ là những linh hồn sáng tạo và họ mong muốn góp phần đưa khu vực này tiến lên phía trước. Nhưng đâu là lối mở cho họ trong hệ thống giáo dục hiện tại, trong cơ cấu xã hội, trong các tập đoàn? Con yêu dấu, đâu là những nơi mà họ được trân quý? Nơi đâu họ sẽ được phép biểu đạt ý tưởng sáng tạo của họ? Con thấy không, tình trạng này phải thay đổi. Sự nhận thức phải thay đổi, và sự nhận thức phải ngày càng cao hơn về giá trị của những cá nhân có khả năng khởi lên những sáng kiến mà không ai khác có thể có trong hoàn cảnh cụ thể đó, xã hội đó.     

Tiềm năng sáng tạo tại Hàn quốc

Hiện có những người ở Hàn quốc hoàn toàn có khả năng đưa ra những ý tưởng có thể đưa Hàn quốc vào Thời Hoàng kim. Họ có khả năng lắng nghe các chân sư thăng thiên và lãnh ý, nhưng đâu là lối mở cho họ nơi xã hội sẽ sẵn lòng lắng nghe họ? Làm cách nào đưa ý tưởng đó ra? Dĩ nhiên là ở những nơi khác trên địa cầu, cùng ý tưởng đó cũng sẽ được đưa ra, và nếu có những xã hội sẵn sàng lắng nghe thì họ sẽ đem ra thực hiên và nhảy vọt đi trước.    

Ở Á châu thường có xu hướng đặt trọng tâm vào việc sản xuất sản phẩm, hoặc là số lượng lớn, hoặc là với phẩm lượng cao rồi tinh chỉnh thêm dựa theo một khuôn mẫu nhất định. Con yêu dấu, con có thể tinh chỉnh một chiếc xe tới đâu, tinh chỉnh một động cơ xăng hay diesel tới đâu? Chỉ giới hạn thôi, vì con chỉ có thể nâng hiệu năng trong một giới hạn nào đó. Sẽ tới một điểm khi xã hội phải nhảy một bước nhảy vọt, bỏ lại công nghệ cũ và tạo ra một loại công nghệ chuyên chở hoàn toàn mới lạ.    

Nếu một quốc gia, một cơ cấu doanh nghiệp, chỉ tập trung vào việc cải tiến những gì đã sẵn phát minh, thì họ sẽ đụng một lằn ranh về mức độ cải tiến. Và như thế sự phát triển của xã hội và các tập đoàn cũng bị giới hạn bởi lằn ranh đó. Con chưa thấy rõ điều này tại Nhật Bản hay sao? Đã có một thời Nhật Bản chiếm vị trí dẫn đầu các nền kinh tế thế giới nhờ khả năng biến con người thành những con rô-bót có thể sản xuất thật nhiều sản phẩm đồng dạng. Tại sao nước Nhật và kinh tế Nhật bắt đầu suy thoái? Là bởi họ đã đạt tới lằn ranh và không thể phát triển hơn nữa qua sự tiếp tục áp dụng đường lối máy móc, rô-bót cho con người, cho sản xuất và cho cơ cấu doanh nghiệp.   

Con thấy một hiện tượng tương tự cũng đang bắt đầu diễn ra tại các nước khác, kể cả Hàn quốc. Có một giới hạn nào đó cho mức độ cải tiến và tăng giá trị cho một chiếc điện thoại di động hay một máy tính. Dĩ nhiên là con có thể vượt ra ngoài cái hộp và sáng chế một sản phẩm với khả năng hoàn toàn mới lạ mà các sản phẩm cũ không thể có được, nhưng làm sao thực hiện được đây nếu không có lối mở nào để tiếp nhận và áp dụng ý tưởng của con? 

Hình ảnh đức Phật cần thay đổi

Con yêu dấu thấy đó, người ta thường xem ta là đức Phật và nhiều người trong thế gian hình dung đức Phật là một đấng tĩnh lặng đem lại sự ổn định. Cho nên con có thể ngạc nhiên khi nghe ta phát biểu về tăng trưởng và thay đổi, nhưng đó là vì đã có một truyền thống lâu đời sử dụng một hình ảnh không trọn vẹn về Phật mà đặt chồng lên Phật.

Đâu là tinh túy của giáo lý mà ta giảng dạy cách đây 2500 năm? Đó là mọi thứ đều là Phật tánh. Thế nào là Phật tánh? Phật tánh có tĩnh lặng không? Không, Phật tánh là Dòng sông của Sự sống, luôn luôn tự thăng vượt. Nếu con tạo ra một hình ảnh rằng Phật là một đấng tĩnh lặng đem lại sự ổn định và mong muốn ổn định bất biến cho xã hội, thì con đã hiểu lầm chính bản chất của Phật, là Phật tánh. Con đã phủ nhận Phật tánh của con, bởi vì khi con nhìn thấy Phật tánh trong con, đó cũng là lúc con hòa điệu với Dòng sông Sự sống. Đó thực sự là lúc con hoàn toàn chấp nhận chính con như con là, con yêu dấu. Sứ giả này cũng vừa giải thích như thế.

Con có thể lấy điều sứ giả vừa nói và tiến thêm một bước. Con hãy nhận ra là khi con bắt đầu nhìn thấy Phật tánh trong con, và con thấy là Phật tánh không tĩnh lặng, thì đó là lúc con có thể trọn vẹn chấp nhận chính con như con là. Con chấp nhận rằng ngay lúc này con là sự thể hiện của Phật tánh. nhưng tất nhiên Phật tánh sẽ tiếp tục tự thăng vượt. Đó là tại sao con trở thành hơn-nữa. Đó là tại sao con sẽ không giống như bây giờ trong một năm nữa, hay mười năm nữa, hay ngay cả chỉ một tuần hay một ngày hay một giây. 

Con yêu dấu, thấy được Phật tánh trong con và thấy được Phật tánh không phải là một trạng thái toàn hảo mà là một trạng thái luôn luôn tuôn chảy, luôn luôn biến đổi (như ta có nhắc là các Phật tử Tây Tạng, hay ít ra một số, đã thấy được điều này), đó là chìa khoá để con tự chấp nhận chính con. Chỉ khi nào con chấp nhận con là một phần của sự thay đổi không ngừng tức là Dòng sông Sự sống, thì con mới có thể chấp nhận con một cách trọn vẹn, và con cho phép con là cái mà con là, con cho phép con là cái mà con sẽ là, cho phép con trở thành cái mà con sẽ trở thành trong sát na kế tiếp. Con cho phép con xuôi chảy cùng với Dòng sông Sự sống mà không bị kẹt vào truyền thống, không bị kẹt vào lòng trung hiếu đối với tổ tiên, đối với lãnh đạo của con, đối với hệ thống chính trị và tôn giáo của con, không trung thành với những gì đã qua nhưng luôn luôn sẵn sàng trở thành hơn-nữa trong tiến trình liên tục mà thực sự là Phật tánh.       

Phật tánh là sự thăng vượt liên tục qua sự quán niệm liên tục và nhận ra rằng: “Đây là cái mà tôi là ngay bây giờ, nhưng tôi có thể là hơn-nữa, và tôi muốn cái hơn-nữa đó. Cho nên tôi chuyển cảm nhận tôi-là vào trong cái hơn-nữa, và đó là cách tôi hòa điệu với Phật, và tôi chảy xuôi theo Phật vì thực sự Phật đang liên tục trở thành hơn-nữa.”

TA LÀ đấng hằng chảy, hằng thăng vượt. Ta chưa bao giờ là một sinh thể tĩnh lặng. Thờ phượng một bức tượng bằng vàng bất biến, và cho rằng đức Phật mà nó tượng trưng cũng là bất biến, là một sự hiểu lầm căn bản những lời dạy của ta cách đây 2500 năm. Tưởng rằng Phật hôm nay cùng giống như ta cách đây 2500 năm, là một sự hiểu lầm căn bản và sự bất lực không hòa điệu được với ta hôm nay. Ta đã tự thăng vượt vô số lần trong 2500 năm qua. Ta sẽ tiếp tục tự thăng vượt vô số lần nữa trong mỗi giây, trong mỗi phân đoạn của một giây, trong mỗi phân tử của một giây mà con có thể nghĩ ra. Ta sẽ tự thăng vượt vô số lần, có nghĩa là không có một phân chia nào mà con có thể tạo ra trong thế gian hữu hạn này có thể cầm giữ được Phật, bởi vì luôn luôn TA LÀ HƠN NỮA, và đó cũng là tinh túy của Phật tánh.        

Thay đổi phương trình cho Hàn quốc

Bài giảng của chân sư thăng thiên Quan Âm ngày 1/7/2016 qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Seoul, Korea.

Ta là chân sư thăng thiên Quan Âm. Ta đã được nhiều người xem là, và gọi tên là, Thần nữ của lòng Bi mẫn, nhưng bi mẫn là gì? Lòng bi mẫn chẳng phải là điều giải thoát mọi sự sống, giải thoát cả người cho lẫn người nhận bi mẫn hay sao?

Vậy thì có phải mọi người cần nhận ra điều quan trọng là khi con tha thứ, khi con bi mẫn, chính con cũng đã tự giải phóng bản thân hay không? Vã cũng quan trọng không kém là nhận ra rằng trong rất nhiều hoàn cảnh đời sống, rất nhiều tình huống trên địa cầu, cách duy nhất để đạt được tự do cho cá nhân hay cho quốc gia mình là bày tỏ lòng bi mẫn vô điều kiện, sự tha thứ vô điều kiện hay không?

Quá khứ không thể thay đổi

Năm ngoái tại Âu châu chúng tôi, các chân sư, đã nói về nhu cầu tha thứ một cách vô điều kiện hầu giải phóng các quốc gia và các dân tộc Âu châu khỏi những vết thương và nỗi đau của Thế chiến Thứ hai. Điều này chẳng cũng áp dụng cho Hàn quốc và Á châu hay sao?

Con yêu dấu, sẽ tới một lúc khi con cần nhìn nhận là con không thể thay đổi quá khứ. Nếu tất cả các hoàng đế hoành tráng của Trung quốc hay của bất kỳ một quốc gia nào, bước ra trong tất cả quyền oai lộng lẫy của họ, liệu họ có thể thay đổi được mảy may những gì đã xảy ra trong quá khứ? Con không thể quay ngược kim đồng hồ, con không thể đi ngược lại thời gian và thay đổi quá khứ. Vậy con có thể làm gì? Con có thể thay đổi cách quá khứ tác động như thế nào lên tâm con trong hiện tại. Khi con thay đổi cách quá khứ tác động lên tâm con thì con cũng thay đổi cách quá khứ tác động lên tiến trình mà con, hay quốc gia của con, xuôi chảy trong dòng sông của sự sống.

Có chỗ nào cho đạo Phật tăng triển?

Tại phương Đông có thể tìm thấy rất nhiều giáo lý thâm sâu. Có rất nhiều giáo lý thâm sâu được tìm thấy trong các hướng phát triển khác nhau của đạo Phật. Ta không dùng từ “Phật giáo” hay “tôn giáo của Phật”, bởi vì mặc dù rất nhiều người tại phương Tây ưa xem đạo Phật là một tôn giáo, nhưng nhiều người tại phương Đông lại không xem đó là một tôn giáo như người phương Tây. Nhiều hơn vậy, đó là một hệ thống luôn luôn tuôn chảy và thăng vượt.

Tất nhiên, chúng ta phải nhận rõ là ngay cả đạo Phật cũng bị rơi vào xu hướng của con người là mong muốn đặt thành nghi thức và tổ chức mọi chuyện. Con có thể đến thăm một ngôi chùa ở đây ngay trung tâm thành phố Seoul và chiêm ngưỡng những tượng Phật vĩ đại cùng những trang trí tỉ mỉ trong chùa. Và con có thể tự hỏi: “Biết rằng đức Phật đã sống đạm bạc như thế nào, đã giảng dạy trong một đạo tràng bình dị như thế nào, thì làm sao một khởi đầu đơn giản như vậy có thể trở thành trau chuốt, sắp đặt, lễ nghi như thế này?”  

Đâu là khoảng trống để Tánh linh tuôn chảy trong một hệ thống đã trở nên nặng nề nghi thức đến độ con người khó lòng biểu hiện được điều mà Đại thiên thần Michael có đề cập, là sắc tính thiêng liêng của mỗi người? Đâu là khoảng trống cho cá thể trong một hệ thống nệ nghi thức đến như vậy? Và vì thế, đâu là khoảng trống cho sự tăng triển?

Con chỉ có thể thay đổi trong giây phút hiện tại

Tuy vậy, con có thể tìm thấy rất nhiều giáo lý thâm sâu tuôn ra từ đạo Phật. Trong số đó có một số lời dạy không được ghi lại từ các Phật tử Tây Tạng, mô tả sự sống tương tự như cách chúng tôi mô tả qua vị sứ giả này từ mấy năm nay, tức là một dòng chảy liên tục. Chúng tôi gọi đó là Dòng sông Sự sống.

Khi con hiểu Dòng sông Sự sống, con hiểu được đó là một tiến trình. Con cần ghi nhớ điểm quan trọng này vì tâm con người, đặc biệt khi đã bị tâm thức nhị nguyên ảnh hưởng, luôn mong muốn tổ chức mọi chuyện theo một đường thẳng. Chắc chắn có thể nói là xu hướng tư duy đường thẳng này phổ biến tại phương Tây nhiều hơn là phương Đông, tuy nhiên con cũng tìm thấy ở phương Đông bởi vì đây là một xu hướng chung của con người.

Con suy nghĩ trong khuôn khổ thời gian và con phân chia thời gian ra thành quá khứ, hiện tại và tương lai. Con tập trung vào quá khứ hoặc tương lai đến độ con không biết đến hiện tại. Nhưng hiện tại là lúc duy nhất mà con có thể thay đổi hướng đi.  

Nếu con không ở trong hiện tại, con không thể đổi hướng đi một cách ý thức. Và nếu con không đổi hướng được một cách ý thức thì quá khứ của con sẽ định đoạt tương lai của con. Chỉ trong hiện tại con mới có khả năng đổi hướng một cách ý thức hầu tương lai đi theo một hướng khác hơn là cái hướng cũ trước khi con trở nên ý thức và quyết định thay đổi.

Sự sống không có kết quả chung cuộc

Khi con thực sự nắm được khái niệm này về Dòng sông Sự sống, con ngộ ra là không có một kết quả chung cuộc nào mà cần phải thực hiện. Điều này vô cùng thâm sâu. Đây là một điều quan trọng cho con suy ngẫm, bởi vì con đã quá quen suy nghĩ trong khuôn khổ phải đạt được những kết quả chung cuộc, vì nếu không thì hậu quả chắc sẽ khủng khiếp lắm.  

Chúng tôi đã có dạy về tư duy cuồng đại coi cuộc sống là một cuộc đối đầu vĩ đại giữa thiện và ác, và kết quả phải đạt được là thiện phải diệt ác. Nếu thiện không thắng được ác thì dường như sự xấu ác sẽ bao trùm mọi nơi, kéo mọi linh hồn vào vùng tăm tối. Con thấy đó, con yêu dấu, chuyện này không có chút thực tế nào, thật sự không có chút thực tế nào hết. Nó chỉ hiện diện trong tâm trí những người bị tâm thức nhị nguyên cám dỗ, bị sa nhân sai bảo khiến họ phải chiến đấu cho một chính nghĩa tối thượng dường như chỉ dựa trên một tríết lý cuồng đại nào đó.   

Con chẳng thấy được sao, chủ nghĩa cộng sản là một ví dụ điển hình của một triết lý cuồng đại như thế, nó định ra một mục tiêu chung cuộc phải đạt được là sự truyền bá chủ nghĩa cộng sản khắp thế giới? Con không thấy Cơ đốc giáo cũng bị ảnh hưởng bởi tư duy cuồng đại đó hay sao? Đó là, một lần nữa, để mọi người phải cải đạo thành người Cơ đốc vì nếu không, họ sẽ bị đày xuống một địa ngục rực lửa. Nhưng địa ngục này không hề có thật vì không bao giờ được Thượng đế tạo ra.

Sự sống là một tiến trình liên tục

Con yêu dấu, Dòng sông Sự sống là một tiến trình liên tục. Nó là tiến trình liên tục vì nó được tạo ra bởi tất cả mọi sinh thể tự nhận biết hiện hữu trong bầu cõi của con. Như chúng tôi đã có giải thích, đã từng có những bầu cõi hiện hữu trước bầu cõi của các con, và các bầu cõi này đều đã thượng thăng khi cư dân ở đó đã đưa bầu cõi mình tới điểm thăng hoa bằng cách nâng cao tâm thức của mình. Nghe vậy, có thể con sẽ hỏi: “Nhưng thày Quan Âm, đó không phải là một kết quả chung cuộc hay sao?”

Con thấy không, đó không phải là một kết quả chung cuộc trong ý nghĩa cuồng đại. Thật sự đó không hề là một kết quả chung cuộc, bởi vì khi một bầu cõi thượng thăng, điều gì sẽ xảy ra? Những ai đã nâng tâm thức mình lên cao đủ để khiến cho bầu cõi của mình thăng hoa, lúc đó sẽ nâng tâm thức cao hơn nữa bằng cách đồng sáng tạo bầu cõi kế tiếp và gửi ra những phần nối dài của bản thân mình đến cư ngụ và hiện thân nơi bầu cõi mới. Cho nên sự liên tục cứ tiếp diễn mãi.

Không hề có mục đích chung cuộc. Không hề có kết cuộc vì thật sự cũng không có khởi đầu, bởi vì tất cả là một dòng chảy liên tục. Vì tâm đường thẳng của con người không có khả năng nắm bắt một dòng chảy liên tục không sinh không diệt, cho nên nó thèm khát tạo ra một cốt truyện cuồng đại với một khởi đầu và một kết cuộc.

Địa cầu không thể thay đổi vũ trụ

Một khi con nhìn nhận sự sống là một dòng chảy, con nhận ra rằng địa cầu là một hành tinh vô cùng nhỏ bé trong một vũ trụ vô cùng rộng lớn. Mặc dù hiện có 7 tỷ dòng sống đang hiện thân trên địa cầu, đây là một con số rất nhỏ so với vô số dòng sống khác hiện hữu trong bầu cõi của con. Đại đa số những dòng sống này đang nâng tâm thức lên những mức ngày càng cao hơn và điều này tạo ra Dòng sông Sự sống kéo theo mọi thứ khác trong bầu cõi lên cao hơn.

Con yêu dấu, nếu con chỉ biết địa cầu của con, nếu con chỉ tập trung vào địa cầu này, con có thể rơi vào ảo tưởng của sa nhân cho rằng địa cầu có tầm ảnh hưởng nào đó trên vũ trụ hay Thượng đế, hay hoạch định của Thượng đế. Một khi con nhận ra Luật Tự quyết cùng con số vĩ đại những dòng sống trong bầu cõi của con đã chọn nhập vào Dòng sông Sự sống, thì con sẽ thấy không có cách nào địa cầu hay các dòng sống trên địa cầu có thể ảnh hưởng được tổng thể.

Hành tinh của các con là một phần quá nhỏ của tổng thể đó, cho nên con không thể trì hoãn, không thể kéo ngược vũ trụ lại, và do đó con cần nhìn nhận là con luôn được toàn vũ trụ kéo lên phía trên. Mặc dù con có quyền tự quyết và có thể chống cự lại lực kéo hướng thượng này, việc đó sẽ chỉ ngày càng khó khăn hơn mà thôi. Đây là điều mà các chân sư cũng đã giải thích qua định luật thứ hai của nhiệt động học, theo đó nếu con biến bản thân con hay quốc gia con thành một hệ thống khép kín, càng ngày con sẽ càng phải kháng cự nhiều hơn để duy trì sự khép kín đó.   

Vì vậy sẽ tới một điểm khi con không thể còn sức cưỡng lại dòng chảy đi lên của Dòng sông Sự sống nữa, có nghĩa là những yếu tố đã giữ cho hệ thống của con khép kín sẽ bắt buộc phải tan vỡ. Luật này áp dụng chung cho một cá nhân, một quốc gia cũng như cho cả nhân loại.  

Chủ nghĩa biệt lập tại Hàn quốc

Khi nhìn vào lịch sử của Hàn quốc – cũng như những nơi khác tại châu Á – con có thể thấy xu hướng muốn tự cô lập và cách ly khỏi thế giới chung quanh. Xu hướng này ngược hẳn với Dòng sông Sự sống. Con không thể tồn tại lâu dài trong sự cô lập và cách ly.   

Điều sau đây có thể rất khó hiểu, và đối với dân tộc Hàn quốc có một nét đặc thù mà ta muốn đưa ra để con nhận rõ. Khi con xem xét người dân trong vùng rộng lớn của nước Hàn ngược trở về quá khứ, và con đặc biệt nhìn vào người dân ở đây tại Nam Hàn, con có thể thấy dân tộc của con là một dân tộc ôn hòa, yêu chuộng hòa bình. Các con muốn sống trong hòa bình.  

Vậy thì tại sao suốt lịch sử các con không có hòa bình? Vì sao ngày nay các con vẫn bị chia cắt? Bởi vì hòa bình không thể đạt được qua nỗ lực kiểm soát, qua nỗ lực kiềm chế hoàn cảnh bên ngoài, ngăn chặn dòng chảy và thiết lập một trạng thái tĩnh tại nơi con tưởng rằng mọi chuyện đều nằm dưới tầm kiểm soát và do đó con có thể duy trì hòa bình.    

Con không thể duy trì hòa bình qua sự kiểm soát. Con chỉ duy trì được hòa bình bằng cách xuôi chảy với Dòng sông Sự sống và không ngừng thích nghi với những hoàn cảnh biến đổi. Khi con tìm cách tự khép kín khỏi thế giới, con gây ra kháng cự và con phải tạo ra một lực hỗ trợ kháng cự. Điều này hoặc sẽ tạo ra xung đột nội tại, hoặc sẽ hấp dẫn một kẻ ngoại xâm đến chinh phục.       

Hiển nhiên, thật là dễ hiểu khi một dân tộc yêu hòa bình muốn kiến tạo hòa bình. Dân tộc đó muốn xây dựng một xã hội yên ổn, hài hòa. Nhưng khi hòa bình bị đẩy vào một thế mất quân bình, ngay cả hòa bình đó cũng trở thành một lý do để kiểm soát, một nguồn gốc của kháng cự và do đó một nguồn gốc của xung đột.

Dòng sông Sự sống không cần nỗ lực. Con không cần bỏ ra nỗ lực to lớn để xuôi chảy với Dòng sông Sự sống. Chỉ khi con muốn nghiêng theo cực đoan này hay cực đoan kia thì con mới cần nỗ lực. Đó là vì sao ngay cả một đặc tính tích cực như hoà bình vẫn có thể được sử dụng một cách mất cân bằng và vẫn dẫn đến một tình trạng kháng cự lại dòng chảy.

Bắc Hàn không phải là vấn đề

Đây là một điều quan trọng mà con cần nắm để hiểu được làm thế nào một dân tộc ôn hòa có thể đi đến tình trạng hôm nay sau khi đã phải chịu đựng xâm lược, chiếm đóng, thì bây giờ lại phải chịu cảnh đất nước bị phân ly giữa Bắc với Nam. Điều này cũng quan trọng để con bắt đầu nhìn ra cách duy nhất để vượt qua tình trạng phân ly đó. Điểm này tất nhiên áp dụng cả cho những quốc gia khác tại châu Á đang chứng kiến những xu hướng tương tự.   

Con đã đến tình trạng hôm nay vì con đã kháng cự lại dòng chảy của Dòng sông Sự sống. Như tâm đường thẳng vẫn thường làm khi nó bị tác động bởi tâm thức nhị nguyên và tư duy cuồng đại, con có thể nhìn vào tình thế hiện giờ và con muốn nhận diện một vấn đề nào đó, rồi con muốn tìm ra nguyên nhân vật lý đã gây ra vấn đề đó, và điều con thường làm là nhận diện một nhóm người nào đó là nguyên nhân của vấn đề.   

Cho nên con có thể nghĩ: “Nam Hàn là một quốc gia không cộng sản được hưởng rất nhiều tự do dân chủ hơn Bắc Hàn, do đó Bắc Hàn chính là vấn đề trong sự phân chia đất nước.” Rồi con nhận diện các lãnh đạo của Bắc Hàn là vấn đề, hay người dân Bắc Hàn, hay cả hai đều là vấn đề. Con có thể ngồi đó và bảo rằng họ là kẻ phải thay đổi trước khi có được hòa bình.  

Đứng trên quan điểm con người, cảm nghĩ này không có gì là vô lý. Nhưng con hãy chú ý lời ta nói: đứng trên quan điểm con người, đó không phải là một cảm nghĩ vô lý. Chắc chắn ta không đứng đây để mà bào chữa cho những gì các lãnh đạo Bắc Hàn đã gây cho các con cũng như cho người dân của họ. Ta không dung túng cách suy nghĩ và thái độ đã được lập trình vào tâm não người dân Bắc Hàn. Ta không đang nói là họ không cần thay đổi.

Dĩ nhiên là Bắc Hàn cần thay đổi vì họ mất quân bình hơn Nam Hàn rất nhiều. Đấy chính là lý do con thấy Bắc Hàn phải có những nỗ lực ngày càng to lớn để cố cầm giữ đất nước và dân tộc của họ trong gọng kềm của nhóm lãnh đạo nhỏ bé ấy. Không có nghi ngờ gì là họ đang ở trong tình trạng mất quân bình và ta không hề bao biện hay bào chữa cho những điều đang xảy ra ở đó.

Điều ta muốn nói là nếu các con, người dân và lãnh đạo tại Nam Hàn, chỉ tay Bắc Hàn như là vấn đề thì các con đang làm gì đây? Các con đang tước mất quyền hạn của chính các con. Các con đang bảo rằng các con không thể đem lại hòa bình cho Hàn quốc bởi vì hòa bình không thể đến được cho tới khi họ thay đổi.  

Làm thế nào Nam Hàn có thể đem lại thay đổi

Con yêu dấu, nhưng có bao nhiêu xác suất họ sẽ thay đổi nhanh chóng khi họ đã không thay đổi được từ quá lâu như vậy? Tất cả các con đều thấy xác suất này rất nhỏ. Và chọn lựa mà con phải đối mặt là như sau: Liệu chúng ta sẽ chờ cho đến khi họ thay đổi hay chúng ta sẽ khởi sự làm gì đó để đem lại thay đổi?

Điều chúng tôi mong muốn các con nhận ra, đặc biệt các con là những người tâm linh, rằng do cách vận hành của Luật Tự quyết, các con không bao giờ mất hết quyền hạn của mình. Các con không bao giờ khuất phục. Các con không bao giờ ở trong tình trạng bất lực, bó tay.   

Các con yêu dấu, các con là những người tâm linh đã chứng tỏ được điều đó rồi, nhưng giờ đây ta cũng cần nói chuyện với tâm thức tập thể. Điều mà những người tâm linh như các con cần làm thì tất nhiên các con đang làm đây rồi, là cất bước trên đường tu tâm linh và nâng cao tâm thức của mình, cố gắng biểu hiện tâm Ki-tô, đọc những bài thỉnh và bài chú, cũng như lên tiếng bất cứ khi nào các con có dịp lên tiếng.   

Trong cương vị dân tộc Nam Hàn (cũng như các quốc gia khác có liên hệ trong bài toán phân chia Hàn quốc) thì điều có thể thực hiện trên tầm mức tập thể là nói rõ lập trường của mình, đó là: “Chúng tôi có thể thay đổi được điều gì sẽ thay đổi phương trình bài toán?”

Con yêu dấu, con hiểu chứ, khi con có một phương trình toán học, vế trái mang những ẩn số, ở giữa là dấu bằng, và vế phải là kết quả. Con có thể có mấy ẩn số bên trái, và khi nào những ẩn số này còn chưa thay đổi thì kết quả bên phải sẽ vẫn y nguyên. Nhưng nếu con thay đổi một ẩn số bên trái, kết quả bên phải sẽ thay đổi.  

Con có khả năng thay đổi phương trình trên bán đảo Triều Tiên bằng cách thay đổi cách con tiếp cận tình trạng hôm nay.  

Albert Einstein thật là có linh hứng khi ông nói rằng người ta không thể giải quyết một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề. Ông cũng nói là nếu con cứ lặp đi lặp lại cùng một công việc mà mong đợi kết quả sẽ khác đi, thì đúng là con điên rồi. Những gì con chứng kiến trong nhiều lãnh vực cuộc sống trên hành tinh này và trong mối quan hệ giữa các quốc gia, là một hình thức điên cuồng đó. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta không cần thay đổi gì hết, chúng ta cứ tiếp tục làm mọi chuyện như cũ thì một ngày nào đó người khác sẽ thay đổi như trong phép lạ.    

Thấy được giá trị của lòng tha thứ

Nhưng tiến bộ không xảy ra như thế. Tiến bộ xảy ra khi có người nhìn vào một tình trạng nào đó rồi quyết định mình sẽ không buông xuôi. Mình sẽ giành lại quyền hành động của mình để thay đổi hiện trạng, rồi mình sẽ ra tay thực hiện điều mình cần thực hiện. Điều mà các con trong vai trò người tâm linh cần hình dung là dân tộc Nam Hàn sẽ hiểu ra được giá trị của lòng bi mẫn và sự tha thứ.

Chắc chắn có rất nhiều điều để mà tha thứ, nhưng giá trị của tha thứ là khi con tha thứ, không những con giải phóng người kia và con cũng giải phóng chính con. Cách duy nhất để giải thoát là buông bỏ, là tha thứ, là thể hiện lòng thương xót. Như ta vừa nói, con không thể quay ngược lại kim đồng hồ, trở về thời trước khi nước Hàn bị chia đôi. Con chỉ có thể nhìn vào tình trạng như nó là trong hiện tại, và con có thể chấp nhận hai điều. Một, rằng tình hình là như vậy đó. Hai, rằng chúng ta không thể đạt được gì bằng cách ôm giữ quá khứ, bằng cách tức giận hay đau buồn vì quá khứ. Đúng vậy, chúng ta sẽ không đạt được điều gì xây dựng đâu. Tất cả những gì con đạt được sẽ chỉ là ràng buộc thêm với quá khứ cùng tâm thức của quá khứ.   

Vậy cần làm gì đây để thay đổi tình hình? Quá nhiều lần người ta nhìn vào một tình trạng vật lý rồi kết luận phải thay đổi cái này, cái kia, cái nọ trong tình trạng vật lý đó. Đã bao nhiêu lần chúng tôi, các chân sư, đã nói với con là vũ trụ vật chất có bốn tầng và tầng vật lý, những điều kiện vật lý mà con nhìn thấy, chỉ là sự phản ánh của những tâm ảnh mà con giữ trong tâm thức ở ba tầng cao hơn? Điều đầu tiên con cần làm để thay đổi tình trạng vật lý là chuyển đổi tâm thức.   

Bắt buộc phải có chuyển đổi tâm thức trước khi có thay đổi vật lý. Sự chuyển đổi tâm thức này đã khởi sự bởi vì, như Đại thiên thần Michael có nói, rất, rất nhiều người đã chọn đầu thai tại cả Nam lẫn Bắc Hàn để đem lại những thay đổi đó.

Là người tâm linh, các con có thể tác động mạnh mẽ để tăng sức cho tiến trình này bằng cách nỗ lực tinh tấn tâm linh, chuyển vọt tâm thức mình, đọc bài thỉnh và bài chú. Các con có thể trở thành những người tiên phong, những người – nếu có thể nói như vậy – chỉ đạo và cầm lái con tàu. Như con yêu dấu cũng biết, một con tàu lớn có bánh lái rất lớn, cho nên chỉ cần một cái quay thật nhẹ trên bánh lái cũng đủ khiến cho con tàu chuyển hướng chút đỉnh. Trong ngắn hạn con có thể không thấy, nhưng trong dài hạn con sẽ chứng kiến thay đổi lớn lao. Đó là tại sao một số ít người vẫn có thể kích hoạt tác động to lớn lạ thường.     

Thay đổi phải bắt đầu tại Nam Hàn

Thay đổi cần xảy ra là một thay đổi trong tâm thức, và nó phải khởi sự tại Nam Hàn bởi vì các con là quốc gia tự do hơn, quốc gia ý thức hơn. Khi chúng tôi, các chân sư, nhìn vào một quốc gia, chúng tôi không nhìn trước tiên vào các biểu hiện vỏ ngoài, và chắc chắn các điều kiện vỏ ngoài của một quốc gia là một chỉ dấu cho tâm thức của người dân.   

Điều thấy được là Nam Hàn đã thực hiện được sự tiến bộ phi thường từ tình trạng tàn phá toàn diện khi chiến tranh chấm dứt. Tiến bộ này trong cõi vật lý không thể đạt được nếu đã không có sự thay đổi ở những tầng mức cao hơn của tâm thức, nhưng sự biến đổi này có thể được gia tốc hơn nữa. Điều mà chúng tôi nhìn vào không phải chỉ có các điều kiện vật lý mà trước tiên là tâm thức của người dân, tâm thức tập thể.

Tại sao thày Saint Germain tại hội nghị ở Hoà Lan lại bảo rằng: “Hàn quốc là chìa khóa của châu Á?” Đó là vì khi chúng tôi nhìn vào các nước, chúng tôi thấy được người dân Nam Hàn đã đạt được một mức cao độ trong một đặc tính mà chúng tôi gọi là khả năng tự nhận biết, là khả năng các con nhận biết được chính mình, nhận biết mình đang làm gì và đã thực hiện được điều gì cho xã hội.

Thật sẽ không cần nhiều lắm để đưa khả năng tự nhận biết này lên cao hơn nữa tới mức độ mà các con có thể nhận biết mình là những sinh thể tâm linh, nhận biết được tiềm năng tâm linh của mình. Khi sự chuyển vọt này xảy ra, người dân có thể nhìn ra (và ngay cả các nhà chính trị cũng sẽ nhìn ra cho dù họ thường là người nhìn ra chót hết) rằng muốn có thay đổi rộng lớn trong quan hệ Nam-Bắc, thì Nam Hàn cần là phía đem lại thay đổi đó. Và sự thay đổi cần đến bằng cách làm những điều khác hơn trước.   

Vượt qua ý muốn trừng phạt

Ta biết rõ là dân tộc Hàn quốc, và nhiều người trong giới lãnh đạo Hàn quốc, mong muốn thấy đất nước mình thống nhất, nhưng chắc chắn ta cũng thấy một tinh thần cởi mở, cộng tác và trao đổi lớn hơn. Sự thay đổi này có thể được gia tốc hơn nữa bằng cách con nhận ra điều ta vừa nói: Con không thể thay đổi quá khứ, và để thoát khỏi quá khứ, con phải tha thứ, buông bỏ.

Con không thể mang thái độ rằng những kẻ đã gây ra xung đột và tội ác trong quá khứ phải bị trừng phạt. Nếu con mong muốn trừng phạt, con không thể tha thứ được, con yêu dấu. Điều này không thể làm được. Cho nên con phải vượt qua ý muốn bắt ai đó phải chịu trách nhiệm.

Một lần nữa, ta không muốn nói là không có ai mang trách nhiệm. Chắc chắn là có những người mang trách nhiệm và đã từng mang trách nhiệm về những sự việc xảy ra trong quá khứ. Nhưng con yêu dấu, con hãy yên tâm rằng Hội đồng Nhân quả sẽ quy trách nhiệm về những hành vi đó và người mang trách nhiệm sẽ không tránh được nghiệp quả của họ. Vá đó là lý do tại sao con là người đang đầu thai cần nhận ra sự minh triết trong câu nói này của Thượng đế với dân Israel: “Sự báo thù là của ta, ta sẽ đáp trả.”  

Ý nghĩa câu đó là Thượng đế sẽ bảo đảm rằng tất cả mọi người sẽ gặt hái những gì mình đã gieo. Tất cả sẽ phải nhận trách nhiệm về hành vi của mình và vì vậy con, trong vai trò người đang đầu thai, không cần phải đứng ra làm người ban bố sự trừng phạt cho người khác. Nếu con làm vậy, con chỉ buộc con chặt hơn vào tâm thức nhị nguyên, qua đó con buộc tội cho người khác rồi con tự xưng làm quan toà để trừng phạt họ. Khi con làm như thế, con đang gửi điều gì vào tấm gương vũ trụ? Rằng con mong muốn tiếp tục một tình huống đấu tranh nhị nguyên nơi con giao chiến với kẻ khác.  

Làm thế nào có thống nhất cho nước Hàn? Chỉ khi nào cả Bắc lẫn Nam vượt khỏi cuộc tranh đấu nhị nguyên, và ai sẽ có khả năng làm điều này trước nhất? Chắc chắn đó là Nam Hàn. Cần phải có một nhận thức rằng chúng ta không thể tiếp cận miền Bắc như thể họ đã làm điều gì sai trái và xứng đáng bị trừng phạt.  

Cởi mở hơn với Bắc Hàn

Con cần nhìn nhận một sự kiện vô cùng giản dị, và con sẽ được gợi ý khi con nhìn vào tình trạng Trung quốc, nhìn vào cách các nước phương Tây đã đối phó với Liên Xô như thế nào vào thời chiến tranh lạnh. Thời đó đã có xung đột, đối chọi liên tục. Rốt cuộc, phải chăng sự kháng cự không ngừng này của phương Tây đã khiến cho Liên Xô sụp đổ? Không, không phải vậy. Liên Xô sụp đổ là vì sự kháng cự nội tại.   

Đối với Trung quốc, Tây phương đã có một cách tiếp cận khác, là tìm kiếm cởi mở, cộng tác, trao đổi, giao dịch kinh doanh nhiều hơn. Con yêu dấu, có thể con không muốn so sánh trực tiếp giữa chế độ Bắc Hàn với chế độ đã hiện hữu ở Trung quốc cách đây ba hay bốn thập niên, nhưng thật sự có khác lắm hay không? Nếu Tây phương có thể buôn bán với Trung quốc – làm ngơ trước những vi phạm nhân quyền, làm ngơ hệ thống cộng sản của Trung quốc mà vẫn buôn bán được – thì liệu một điều tương tự có thể thực hiện được đối với Bắc Hàn hay không?

Hệ quả của việc buôn bán với Trung quốc là gì? Trên hết, đó là sự giao lưu giữa người dân Trung quốc với người dân ở ngoài Trung quốc. Đâu là nguyên nhân khiến cho một quốc gia bị trì trệ, khép kín rồi bước vào một vòng xoáy đi xuống và tự coi mình là một nước đầy sợ hãi bị bao vây bởi kẻ thù muôn mặt mà mình luôn phải chống cự? Đó là vì không có giao lưu giữa những người ở trong nước với những người ở ngoài thế giới rộng lớn. Người ở bên trong thành trì chưa từng có một ấn tượng, một khung chuẩn về cách nhìn của người bên ngoài về cuộc sống, về thế giới và về chính mình.   

Con có thể chỉ ra nhiều sự kiện vật lý trong việc thay đổi phương trình của Trung quốc, nhưng sự kiện quan trọng nhất đã là sự trao đổi thông tin và tâm thức giữa người dân Trung quốc và người dân ngoài thế giới rộng lớn. Chính điều này đã tạo ra những thay đổi to lớn tại Trung quốc, và nó đã đưa Trung quốc tới một điểm mà lãnh đạo không thể quay ngược kim đồng hồ và tăng cường chế độ kiểm soát tập quyền như vào thời mấy thập niên trước.

Con thấy gì tại Bắc Hàn? Dân chúng đang bị cô lập khỏi thế giới chung quanh. Điều này có nghĩa là gì? Họ tin vào bất cứ những gì lãnh đạo của họ tuyên bố vì họ không có khung chuẩn nào khác, họ không có bất cứ gì để mà đối chiếu thông tin mà họ nhận được từ lãnh đạo. Làm sao họ biết được lãnh đạo của họ nói sự thật nếu họ không tiếp xúc với người ngoài? Con có thấy sự cần thiết phải thay đổi chính sách để các quốc gia bắt đầu đối xử với Bắc Hàn, thậm chí cả giới lãnh đạo Bắc Hàn, như bất kỳ một quốc gia nào khác, một quốc gia mà con có thể đàm phán, có thể kinh doanh, có thể giao dịch?  

Một lần nữa, ta không bào chữa cho những sự thể đang xảy ra tại Bắc Hàn hay cho hành vi của lãnh đạo Bắc Hàn. Ta chỉ muốn chỉ ra rằng với sự cởi mở hơn từ thế giới chung quanh, một sự trao đổi rộng lớn hơn về mặt tư tưởng và tâm thức sẽ khởi sự và điều này chắc chắn sẽ thay đổi Bắc Hàn.      

Nguy cơ chiến tranh hạt nhân

Hiển nhiên, thật không sai nếu nói rằng sự tiếp diễn chính sách cô lập hóa sẽ tăng cường lực kháng cự nội tại mà lãnh đạo Bắc Hàn cùng những người trung thành với họ đã chồng chât. Không sớm thì muộn, Bắc Hàn sẽ sụp đổ từ bên trong, nhưng cái giá phải trả sẽ là gì? Một chế độ thấy được ngày tàn của mình luôn có tiềm năng làm những chuyện tuyệt vọng để kéo dài sự sống còn.   

Trong những ngày chót của Liên Xô đã thực sự có nguy cơ là một số thành viên của ban lãnh đạo Liên Xô đã có thể nắm lấy quyền hành, tung ra một chiến dịch quân sự và sử dụng cả vũ khí quy ước lẫn hạt nhân để duy trì quyền cai trị Liên Xô. Đó là một nguy cơ có thực. Thì ngày nay, một lần nữa cũng có rủi ro này tại Bắc Hàn. Cho dù điều này không xảy ra thì sự sụp đổ nội tại toàn diện của Bắc Hàn sẽ tạo ra những đau khổ khủng khiếp cho người dân Bắc Hàn, nhiều hơn cả những gì họ đã phải chịu đựng cho tới giờ – và phải nói là họ đã chịu đựng quá nhiều rồi. Hiển nhiên con không muốn chứng kiến một sự thể như vậy. Rất nhiều người dân Bắc Hàn là thân nhân của các con, họ là anh chị em tâm linh của các con. Đó là lý do ta muốn đặt vào tâm thức tập thể về sự cần thiết phải xem xét lại chính sách, phải cởi mở hơn đối với một quốc gia đã quá khép kín đến độ tất cả mọi người liên hệ sẽ chỉ có thể hưởng lợi từ sự cởi mở lớn hơn.  

Kháng cự từ Nhật Bản, Hoa Kỳ và Trung quốc

Về vấn đề này, sẽ có sự kháng cự đặc biệt, trước hết từ Nhật Bản nhưng cũng từ Hoa Kỳ. Đó là vì Nhật Bản rất lo lắng sự cạnh tranh mà một nước Hàn thống nhất sẽ tạo ra, một đất nước hùng mạnh hơn trước về mặt kinh tế. Và cũng có những mối lo lắng về một cuộc xung đột quân sự. Ta không bảo đó là một nỗi sợ hãi có cơ sở, mà ta chỉ muốn chỉ ra sự suy nghĩ trong giới lãnh đạo và phần nào người dân Nhật Bản.

Tại Nhật có một sự nhìn nhận, phần lớn trong tiềm thức, rằng người Hàn có óc sáng tạo hơn người Nhật rất nhiều và vì thế có tiềm năng vượt qua Nhật Bản về sức mạnh kinh tế. Bởi vì Nhật Bản đã không xoay sở được để vươn ra khỏi ốc xoắn hướng hạ do thiếu sáng tạo, nên họ không muốn người Hàn vượt qua mặt mình. Có một ý muốn cầm chân Hàn quốc lại, và về điều này thì các con cần ra sức kêu gọi.    

Ngay cả tại Hoa Kỳ cũng có một sự kháng cự đối với một nước Hàn thống nhất. Đó là vì có những người vẫn còn mắc kẹt trong tư duy nhị nguyên đến độ họ muốn duy trì ảo tưởng một cuộc chiến đấu cuồng đại. Đáng tiếc thay, đây là một yếu tố mà dân tộc Mỹ chưa thoát khỏi được, và điều này con có thể thấy được nếu con theo dõi chiến dịch tranh cử tổng thống đang diễn ra và những lời tuyên bố của một trong số các ứng cử viên. Tất nhiên, con cũng thấy được yếu tố này trong số rất nhiều nhà chính trị khác tại Hoa Kỳ. Ta có thể cam đoan với con là nếu con thấy được những gì ta thấy, con cũng sẽ nhìn thấy yếu tố đó trong tầng lớp thượng lưu quyền lực ẩn mặt tại Hoa Kỳ. Họ là những người muốn giữ hoài không khí căng thẳng cùng những cơ năng thao túng mà một nước Hàn chia đôi cung cấp cho họ. Hơn nữa, họ cũng không muốn mất nguồn lợi khổng lồ mà họ nhận được từ công nghiệp vũ khí bởi vì, tất nhiên, các vũ khí này sẽ không còn cần thiết nữa một khi không còn căng thẳng.       

Tại Trung quốc tất nhiên cũng có những thế lực muốn cưỡng lại một nước Hàn thống nhất, vì họ tin rằng tầm ảnh hưởng của họ sẽ lớn hơn trên Bắc Hàn so với một nước Hàn thống nhất. Họ cũng lo lắng về sức mạnh kinh tế của nước Hàn thống nhất. Tại Nga cũng có sự chống đối nhưng ít hơn vì hiện nay lãnh đạo nước Nga đang cần dồn chú ý vào những lãnh vực khác.

Dù sao đi nữa, điều khôn ngoan mà các con nên làm là kêu gọi để tất cả những thế lực chống đối một nước Hàn thống nhất được phơi bày và tiêu hủy. Để sự chuyển đổi mà ta vừa phác họa thành hình, sẽ cần có một chuyển hướng trong dư luận quốc tế về hiện trạng Hàn quốc. Một lần nữa, các con là người tâm linh có khả năng trở thành những kẻ đi tiên phong trong cuộc thay đổi lớn lao này khi các con đánh thức và gắn kết số đông những người đã đầu thai tại Bắc Hàn lẫn Nam Hàn đặc biệt với mục đích đem vào thị hiện vật lý Khuôn mẫu Thời đại Hoàng kim cho Hàn quốc.  

Chỉ có ánh sáng mới thay đổi được Hàn quốc

Các con đã khởi sự rất tốt, con yêu dấu. Như người ta thường nói: “Khởi sự tốt là hoàn thành được một nửa,” nhưng để đem phân nửa còn lại vào thị hiện vật lý sẽ đòi hỏi thêm nhiều nỗ lực. Cho nên tất cả chúng tôi đều muốn khen ngợi các con về nỗ lực mà các con đã bỏ ra để dịch thuật những quyển sách, những trang mạng, những bài chú và bài thỉnh, cũng như nỗ lực đến với nhau, tạo ra những phương tiện để gặp gỡ, để mở rộng vòng tay, để phối hợp công việc.   

Tất nhiên chúng tôi cũng muốn khen ngợi các con đã tổ chức hội nghị này, mà trong một ý nghĩa tâm linh, là một bước ngoặt cho Hàn quốc. Đó là một bước ngoặt vì các con đã đến được với nhau, và sẽ là bước ngoặt hơn nữa nếu các con có thể nâng cao ý thức kết hợp trong những ngày sắp tới, ý thức kết hợp giữa các con với nhau cũng như với chúng tôi trên cõi thượng thăng.

Các con hãy để ý là hôm nay cũng có những người từ các nước khác ngoài Hàn quốc tham dự, vì họ có thể giúp mở ra những lối đường ánh sáng sẽ đem lại những thay đổi mà ta vừa trình bày sẽ cần phải xảy ra trong cộng đồng thế giới. Cho nên tất cả các con có thể chung sức tạo ra lực đẩy để thay đổi tâm thức tập thể tại Nam Hàn, tại Bắc Hàn lẫn tại các nước khác góp phần vào phương trình của bài toán. Như ta có nói, chỉ cần thay đổi một ẩn số thì kết quả của phương trình cũng thay đổi, nhưng khi con thay đổi được tất cả các ẩn số thì kết quả sẽ chuyển vọt gấp bội.     

Ta nói với con, phương trình Hàn quốc đã bắt đầu dời đổi duy chỉ do các con đã thị hiện được hội nghị này, nhưng nó có thể chuyển đổi nhiều hơn nữa do các con phối hợp nỗ lực, phối hợp nỗ lực với chúng tôi trong những ngày sắp tới. Trong tâm con, hãy nhìn xem liệu con có những yếu tố không tha thứ, tức giận, oán trách, muốn trừng phạt, muốn lên án, muốn đổ tội – và con hãy sẵn lòng cho nó ra đi.

Con yêu dấu, nếu con muốn đạt được tiềm năng cao nhất cho hội nghị này thì các con, đặc biệt các con người Hàn, cần phải tự giải thoát khỏi mọi yếu tố oán trách, tức giận, muốn trừng phạt đó. Con cần phải tha thứ và buông bỏ vì chỉ khi nào con đã bỏ sạch hết cho không còn những cảm xúc thấp kém đó nữa thì con mới trở thành những cánh cửa mở cho ánh sáng từ cõi thượng thăng. Như bao giờ, chỉ có ánh sáng từ cõi thăng thiên mới sẽ thực sự thay đổi được phương trình.  

Con yêu dấu, con hãy tưởng tượng phương trình của Hàn quốc. Con có một kết quả bên phải, một dấu bằng ở giữa và những ẩn số bên trái. Những ẩn số này là các quốc gia liên quan: Nam Hàn, Bắc Hàn, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung quốc, Nga và vân vân. Bây giờ con hãy thêm vào – và con đã thêm vào rồi – một ẩn số nữa, đó là những người tâm linh ở Hàn quốc và ở những nơi khác đang chung sức làm việc với các chân sư thăng thiên. Bỗng nhiên con có một ẩn số có khả năng trở nên mạnh mẽ gấp bội vì con đạt được một mức độ tỉnh giác cao hơn tất cả các ẩn số kia.   

Con yêu dấu, nếu con có thể thoát ra khỏi sự không tha thứ, sự thiếu xót thương, con sẽ đạt được một mức độ nhận biết cao hơn tất cả các lãnh đạo quốc gia liên hệ, con sẽ có mức độ nhận biết cao hơn tâm thức tập thể. Cho nên con sẽ tác động lên phương trình mạnh mẽ hơn nhiều, bởi vì kết quả được nhân lên không những do tác động của số đông người, mà do cả mức độ nhận biết, mức độ cởi mở, mức độ sẵn sàng thực sự làm cánh cửa mở cho ánh sáng xối xuống từ cõi thăng thiên.    

Khi con là cánh cửa mở qua lòng tha thứ toàn diện của con, thì chúng tôi, các chăn sư thăng thiên, cũng trở thành thêm một ẩn số trong phương trình. Và khi đó, con sẽ thấy thay đổi xảy ra gần như trong chớp mắt. Trong một tương lai không quá xa, con sẽ nhìn lại và không thể tin nổi một sự thay đổi chóng mặt như vậy có thể diễn ra quá nhanh chóng. Và người ta sẽ hỏi: “Nhưng làm thế nào chuyện đó xảy ra? Cái gì đã khiến nó xảy ra?” Họ sẽ tìm kiếm đủ mọi nguyên nhân vật lý và họ sẽ không tìm thấy, bởi vì nguyên nhân là dòng chảy hình số 8 giữa các con đang đầu thai và các chân sư thăng thiên ở bên trên, là Dòng sông Sự sống mãnh liệt hơn bất kỳ nguyên nhân vật lý nào.

Và như vậy, với tình thương vô hạn, với niềm vui vô biên, ta niêm ấn các con trong dòng chảy của Dòng sông Sự sống. Ta gửi đến các con sự sẵn lòng của ta để giúp từng người buông bỏ mọi điều không bi mẫn và nhập vào trong lòng bi mẫn vô điều kiện của Nữ thần Bi mẫn mà TA LÀ. Quan Âm TA LÀ, và ta là ở đây với các con và trong các con – nếu các con cho phép.  

Giải phóng sự sáng tạo nội tại

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 8/1/2016.

Thày là chân sư thăng thiên Serapis Bey. Bây giờ chúng ta đã đến tầng thứ bảy nơi con gặp sự phối hợp của Tia thứ Tư với Tia thứ Bảy của Tự do. Theo một nghĩa nào đó, Tia thứ Bảy của Tự do vừa dễ vừa khó nhất – dễ, theo nghĩa nó không đòi hỏi gì nơi con. Nhưng nó cũng khó, theo nghĩa là nó đòi hỏi con ngừng đặt ra những đòi hỏi trên chính con.

Khi đệ tử lần đầu tiên tiếp xúc với các chân sư thăng thiên, họ thường mang ý tưởng là các thày hạn chế tự do của họ, theo nghĩa là các thày đặt đòi hỏi lên họ. Sau đó, họ có thể nảy sinh ý tưởng là sa nhân hay các tà lực hạn chế tự do của họ. Kỳ thực, chỉ có một thứ hạn chế tự do của con mà thôi, đó là những gì con tự làm cho mình trong chính tâm con. Chính trong tâm mà con bị giam hãm, và tâm là nơi con cần biểu hiện tự do của mình.

Tuy nhiên, tự do vừa là một cái gì con biểu hiện, vừa là một cái gì mà con không thể biểu hiện, theo nghĩa mà thày đã cố giúp con nhìn ra, tức là vấn đề trên hành tinh địa cầu là các sa nhân đã xui khiến cho con người sử dụng vũ lực. Do đó, con không thể khắc phục vũ lực bằng thêm vũ lực.

Chắc chắn Tia thứ Bảy là một tia sáng mang một năng lượng đặc thù. Con có thể, và tất nhiên, con nên thỉnh cầu năng lượng của Tia thứ Bảy. Nhưng con không nên tự đặt mình vào một tâm trạng nơi con nghĩ là con phải sử dụng năng lượng của Tia thứ Bảy để đánh bại những gì đi ngược lại sự tự do của con. Tất nhiên con sẽ cần thỉnh cầu năng lượng của Tia thứ Bảy để biến hóa những tha hóa của Tia thứ Bảy. Điều giới hạn tự do của con là, ở một mức độ nào đó, năng lượng của mỗi tia trong số bảy tia đã bị tha hóa qua lòng sợ hãi. Con cần tiêu hủy những năng lượng này bằng cách thỉnh cầu năng lượng của từng tia một.

Tuy nhiên, điều thực sự giới hạn tự do của con tất nhiên là năng lượng, là những tin tưởng và những ý tưởng trong tâm con. Những cái này thì con không thể đánh bại qua Tia thứ Bảy. Con chỉ có thể nhìn ra tính không thực của chúng, và con chỉ việc bước xa khỏi chúng.

16.1. Những tấn tuồng tiêu hao cuộc sống

Khi con nhìn vào hành tinh địa cầu, con sẽ thấy tuyệt đại đa số con người bị cuốn hút – bị hoàn toàn bao phủ, hoàn toàn hao mòn – trong những tấn tuồng đủ loại. Con thấy quá nhiều nhóm người đã giao tranh với nhau suốt bao nhiêu thế hệ, có lẽ hàng ngàn năm rồi. Họ hoàn toàn tin chắc là vở tuồng đó có sự hiện thực nào đó và họ đang tranh đấu cho chính nghĩa của Thượng đế, họ tin là những kẻ mà họ chiến đấu đang chống lại sự nghiệp của Ngài. Con có thể thấy điều này tại vùng Trung đông giữa người đạo Do thái, đạo Cơ đốc và đạo Hồi. Con có thể thấy điều này ở rất nhiều nơi khác. Rõ ràng là khi con bị cuốn hút vào một tấn tuồng như vậy, con rất coi trọng bản thân mình và con cũng coi chính nghĩa của mình là vô cùng hệ trọng. Nếu con coi mọi khía cạnh của cuộc sống, mọi chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống, hệ trọng đến như vậy thì con không thể tự do. Con bị say đắm trong chính bản thân con, nếu có thể nói như vậy. Con thử suy ngẫm về câu thành ngữ quen thuộc về những kẻ mê mệt với chính họ. Họ bị mê mệt trong quá nhiều mâu thuẫn và xung đột nội tâm đến độ họ tiêu hao toàn bộ năng lực và sự chú ý. Phải, điều thày muốn chỉ ra cho con là chuyện xảy ra rất thường khi con tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên, thì con dùng giáo lý này để cố khắc phục một số cuộc đấu tranh mà con thấy trên thế giới.

Trong nhiều trường hợp, tự ngã của đệ tử khiến cho họ tạo ra một tấn tuồng mới, là khi con sử dụng đường tu tâm linh – và thường khi các tà lực hoặc ngay cả những người mà con gặp trên đường tu – để tạo ra một tấn tuồng mới. Tất nhiên, con không xem đó là một tấn tuồng. Nhưng tất cả những ai trên thế giới bị tiêu hao trong tấn tuồng đều không xem đó là một tấn tuồng; họ xem đó là thực tại. Và cũng vậy, con xem cuộc chiến của mình là thực tại khi con giao tranh với tà lực, hay khi con có bất đồng nào đó với những đệ tử khác mà con gặp trên đường tu, có thể là trong một tổ chức tâm linh.

Mánh lới của tự ngã, mánh lới của sa nhân, là khiến con nghĩ có một vấn đề chính đáng mà con cần giải quyết, cho nên con không thể tự do cho tới khi vấn đề được giải quyết. Tất nhiên, vấn đề đòi hỏi một số thay đổi phải xảy ra trên thế giới. Trong đa số trường hợp, điều này có nghĩa là những ai khác phải thay đổi để con có thể giải quyết vấn đề và được tự do.

Như thày đã nói trước đây, con sẽ không bao giờ tự do được nếu con nghĩ tự do của con tùy thuộc vào những chọn lựa tự quyết của người khác. Tuy nhiên, con có thể tự do bằng cách nhận ra là tự do của con chỉ tùy thuộc vào những chọn lựa tự quyết của chính con, và con có quyền năng, ngay bây giờ, tự giải phóng mình khỏi mọi niềm tin và cơ chế nội tại khiến mình cho rằng mình phải phản ứng lại người khác, rằng mình phải làm cái gì đó trong thế gian. Con không thể tự do nếu con coi đường tu là hệ trọng đến như vậy, nếu con hoàn toàn say đắm bước đi trên đường riêng của mình và đánh nhau với đủ mọi chuyện mà con đang đánh nhau. Thậm chí chuyện đánh nhau với tự ngã cũng có thể trở thành một tấn tuồng, và tất nhiên, con không thể vượt qua tự ngã bằng cách sử dụng tự ngã. Con sẽ không vượt qua tự ngã qua một tấn tuồng do tự ngã tạo ra, và đây là nguy cơ khi truyền rải bất kỳ loại giáo lý tâm linh nào.

16.2. Giấc mơ một trạng thái tối hậu

Như thày đã tạo linh hứng cho vị sứ giả này ngộ ra gần đây, trên thế giới có những người tuyên bố là mình giác ngộ. Nếu con bảo là con giác ngộ thì theo một nghĩa nào đó, con bảo là con đã đạt được một trạng thái tối hậu nào đó, ít ra trong tâm trí hầu hết mọi người. Con có thể tập hợp một số tín đồ không sẵn lòng nhận trách nhiệm về bản thân họ và do đó họ tìm kiếm một đạo sư với một trạng thái tâm thức tuyệt đối nào đó. Và đạo sư lẫn đệ tử có thể tạo ra một vòng xoáy ốc tự nó cứ tăng thêm sức mạnh.

Vấn đề là nếu con nghĩ là con đã đạt tới một trạng thái tối hậu trên địa cầu thì con sẽ không thể tiến xa hơn, có nghĩa là con sẽ phủ nhận khía cạnh của tự ngã mà con vẫn còn mang theo. Thày cũng biết, một số người sẽ nói là nếu con đã giác ngộ thì con không còn tự ngã. Điều này cũng đúng, tuy nhiên khi đó con sẽ không còn hiện thân trên địa cầu nữa, bởi vì con không thể tiếp tục hiện thân nếu con còn sót lại một khía cạnh nào đó của tự ngã. Khía cạnh này có thể vô cùng yếu ớt, và có thể con đã đạt một mức tâm thức rất cao. Nhưng nếu con nghĩ là không còn gì vượt khỏi trạng thái tâm thức của mình, thì con chỉ nghĩ như vậy được bằng cách phủ nhận yếu tố của tự ngã vẫn còn sót lại, và như thế con không thể buông bỏ tự ngã đó và được tự do thăng thiên.

16.3. Sáng tạo là thuốc giải độc cho kiểm soát

Thăng thiên là một tiến trình đòi hỏi con hoàn toàn tự do. Tiến trình tự điều ngự cũng là một tiến trình đòi hỏi con đạt tới một mức độ tự do rất cao – không theo cùng một cách như khi con thăng thiên, mà theo cách là con tự do biểu đạt khả năng sáng tạo của mình. Tự do là gì, sáng tạo có nghĩa là gì? Có nghĩa là con hiểu ra những gì sa nhân đã làm để đóng chặt sự sáng tạo và khiến con hạn chế sáng tạo của mình.

Con cũng hiểu chứ, con yêu dấu, là sa nhân đang cố gắng kiểm soát mọi chuyện trên địa cầu? Làm thế nào chúng kiểm soát được đây? Chúng phải đóng chặt khả năng sáng tạo, vì bản chất của sáng tạo là gì? Sáng tạo không thể đoán trước được, nó tự phát. Nó nảy ra một cái gì mới, có thể mới đến mức không một ai có thể tưởng tượng nổi.

Sa nhân cực kỳ sợ hãi sự sáng tạo của con. Chúng cũng biết là trên thế giới không có gì có thể hạn chế được sáng tạo. Toàn bộ bản chất của sáng tạo là nó thăng vượt mọi ranh giới. Không có ranh giới nào có khả năng thực sự giới hạn sáng tạo của con, trừ những ranh giới tạo ra trong chính tâm con khiến con không dám biểu lộ nó ra.

Cách thức chủ yếu mà sa nhân sử dụng để làm thui chột sáng tạo của con người là dựng lên ý tưởng bảo rằng có một chuẩn mực làm thước đo cho mọi thứ. Chuẩn mực chỉ có hai đối cực. Hoặc là tốt đẹp, hoàn chỉnh, chấp nhận được, hoặc là sai lầm, tồi tệ, không thể chấp nhận. Sự đánh giá này, sự xét đoán này, không dính dáng gì đến sáng tạo. Chúng ta có thể nói, đó chính là phản đề của sáng tạo.

Khi ban đầu con đến hành tinh này, con đến đây để biểu hiện ánh sáng của con, khả năng sáng tạo và cá thể của con. Sa nhân đã cố hết sức khiến con cảm thấy mình bị chối bỏ, rằng ánh sáng của con có gì đó không ổn. Sáng tạo của con không đủ tốt, và chính con không đủ tốt.

Điều này đã khiến cho biết bao người nhảy vào cuộc chạy đuổi mà thày đã có đề cập, là chạy đuổi theo sự toàn hảo và cố gắng thỏa mãn tiêu chuẩn, khi họ cho rằng nếu mình đủ tốt thì mình sẽ được chấp thuận. Con hiểu được, con yêu dấu, là nếu trong tâm con có một cơ chế tìm cách so sánh cách biểu đạt của con với một tiêu chuẩn vỏ ngoài trước khi con dám biểu đạt, thì ngay đó, con đã đóng chặt sáng tạo của con.

Sáng tạo là tự phát! Con đã quá quen với việc đánh giá mọi thứ với tâm đường thẳng, với tâm phân tích. Sa nhân đã dấy lên nơi hầu hết mọi người ý tưởng vô cùng tinh vi rằng tất cả mọi thứ phải được phân tích. Tất cả phải được lượng định bằng bộ óc phân tích, là bộ óc so sánh tất cả mọi thứ với một tiêu chuẩn. Hầu hết mọi người không ý thức được tiêu chuẩn mà mình đang sử dụng. Có khi họ ý thức có một tiêu chuẩn do xã hội áp đặt. Chắc chắn các hệ thống giáo dục trên thế giới đều nhắm tới việc khiến con chấp nhận là có một tiêu chuẩn, và sự sáng tạo của con cần được đối chiếu với tiêu chuẩn đó. Ngay cả các cơ sở giáo dục nhằm dạy dỗ một số hình thức biểu diễn sáng tạo, cho dù là nghệ thuật hay một bộ môn nào khác, vẫn củng cố cho ý tưởng rằng sáng tạo phải được so sánh với một tiêu chuẩn.

16.4. Sáng tạo không biết tiêu chuẩn là gì

Sáng tạo là vượt ra ngoài tiêu chuẩn. Làm thế nào tất cả mọi sự trên địa cầu tiến hóa, phát triển lên môt mức cao hơn? Chỉ bằng cách vượt ra ngoài, vượt khỏi mức hiện hành. Con chẳng thấy là có một tiến trình sáng tạo đã nằm sẵn trong tự nhiên? Đây là cái mà thày gọi là những định luật cơ bản của tự nhiên bảo đảm sự phát triển không ngừng, thăng vượt không ngừng. Sa nhân đã dựng lên các định luật phụ thuộc của tự nhiên trong nỗ lực làm thui chột sự thăng vượt này. Chúng muốn ngăn chặn phát triển, ngưng đồng hồ không được quay, giữ nguyên mọi sự ở một mức mà không thể thăng vượt lên cao hơn. Chúng muốn làm như vậy vì chúng muốn kiểm soát, bởi vì người ta không thể kiểm soát trừ khi người ta có thể tiên liệu. Con không thể tiên liệu được gì nếu cái đó cứ đi theo một xoắn ốc hướng thượng thay vì chạy vòng vòng. Sa nhân biết là chúng không thể chặn đứng được chuyển động – chúng đã hiểu ra được chuyện đó – cho nên chúng cố khiến cho chuyển động chạy vòng quanh thay vì vươn lên theo một vòng xoáy hướng thượng.

Có chuyển động và có chu kỳ. Nếu cứ quay lòng vòng thì ít ra chúng có thể tiên liệu. Chúng biết những gì sắp sửa xảy đến giống như khi con nhìn sự tuần hoàn của mùa màng, khi nào là mùa gieo và khi nào là mùa gặt, bởi vì nó luôn luôn như vậy cho dù con không thể tiên đoán được chính xác từng chi tiết.

Do tiến trình sáng tạo vốn dĩ đó cho nên sa nhân đã chưa bao giờ thành công. Trong quá khứ, chúng đã tạo dựng những nền văn minh bị khóa chặt một thời gian rất dài trong một khuôn nếp nhất định. Chúng cũng đã tạo ra một số nền văn minh bị buộc chặt trong khuôn nếp đến độ nền văn mình đi vào một vòng xoáy hướng hạ, do đó phải suy tàn hay thậm chí sụp đổ.

Đây là điều mà thày đã nói tới, là sức mạnh nằm tiềm ẩn trong Mẹ, mà đôi khi các thày gọi là định luật thứ hai của nhiệt động học. Một hệ thống khép kín bắt buộc phải tự hủy để cho tiến trình đi lên được tiếp tục trở lại. Tại sao một hệ thống lại được phép trở thành khép kín chứ? Là do quyền tự quyết, là bởi vì người ta được phép trải nghiệm tạm thời việc tạo dựng một xã hội bất biến mà người ta nghĩ là sẽ không bao giờ biến mất, sẽ sống mãi mãi hay ít ra sẽ kéo dài hàng ngàn năm như một số kẻ đã từng mơ ước.

Sa nhân muốn tạo dựng một xã hội nơi không một ai dám biểu hiện sáng tạo, sự sáng tạo đích thực. Thay vào đó, chúng nghĩ sáng tạo có nghĩa là hoạt động trong những khuôn khổ mà nhà lãnh đạo của xã hội đó – tức sa nhân – đã quy định. Điều mà các Thượng sư muốn dẫn con đi qua, tất nhiên, là một tiến trình nơi con giải phóng sự biểu đạt của mình, không phải là loại sáng tạo do thế gian quy định, mà sự sáng tạo đích thực đến từ Hiện diện TA LÀ của con.

16.5. Hiện diện TA LÀ nhìn cuộc sống như thế nào

Hiện diện TA LÀ của con nhìn cuộc sống một cách khác hẳn cách nhìn của tâm vỏ ngoài. Thày nói điều này không phải để chê trách con, vì khi con đang hiện thân thì con không có cách nào khác. Nhưng con vẫn có thể bắt đầu hé nhìn thấy được, và chắc chắn bắt đầu hiểu ra được là Hiện diện TA LÀ có cái nhìn khác hơn. Do đó, Hiện diện TA LÀ có một mục đích khác.

Hiện diện TA LÀ muốn con – khi con là một đệ tử tâm linh và con chủ tâm bước đi trên con đường hướng thượng, con đường tâm linh – nó muốn con tự thăng vượt bản thân hầu con đạt tới điểm thăng thiên càng nhanh càng tốt. Nó cũng muốn con hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con trong kiếp sống này. Điều này sẽ đòi hỏi gì? Nó sẽ không đòi hỏi con quy phục các tiêu chuẩn trong xã hội, trong gia đình hay nơi làm việc của con. Nó sẽ đòi hỏi con dám làm một cái gì đó khác biệt.

Con hãy nhìn xem bao nhiêu đệ tử tâm linh đã sống một cuộc đời không hợp lý, không thực tế hay vượt ra ngoài những gì mà cha mẹ hoặc xã hội đã muốn họ sống theo. Con nhìn xem bao nhiêu lần họ đã thay đổi việc làm, bao nhiêu lần họ đã nghỉ việc để tham dự một khóa nhập thất, đã thay đổi người phối ngẫu, đã làm chuyện này hay chuyện nọ. Chính con cũng đã từng làm những chuyện tưởng chừng như thiếu hợp lý nhưng lại là điều đang thúc bách con. Con nhận thấy là con có quá nhiều trải nghiệm phải nhét vào một kiếp và do đó con không thể làm mãi cùng một công việc, hoặc nhất thiết phải có mãi cùng một người bạn đời cho nguyên một kiếp. Con có nhu cầu di chuyển khắp chốn và nhìn đời từ nhiều góc độ khác nhau, hầu giải quyết trong tâm con những vấn đề đang ngăn trở bước đường thăng thiên hay tăng triển của con.   

Thật là không cần thiết nhìn lại đời con với một thái độ phán xét và lo lắng về những lỗi lầm mà con đã vấp phải. Con yêu dấu, nếu con mong muốn nhìn lại đời mình và đánh giá xem mình đã phạm phải những lầm lỗi nào, thì dĩ nhiên, đó là quyền của con. Nhưng khi đó, thày phải nói: “Thày là Serapis, Thượng sư của Tia thứ Tư, không thể giúp con làm việc đó.” Có nhiều đệ tử đến nhập thất của thày với mong muốn đó. Họ muốn thày ngồi xuống và kiểm điểm đời họ cùng với họ, bảo cho họ biết là họ đã lầm lỗi chỗ nào, đã làm sái chỗ nào và đáng lẽ đã phải làm gì cho tốt hơn. Thày phải nói với họ là thày không thể giúp họ. Một số nổi giận, một số thất vọng, một số bỏ đi. Thày nói với con như thế này: “Thày không thể giúp con xác định là con đã lầm lỗi chỗ nào. Điều thày có thể làm là giúp con nhìn vào đời mình và nhận ra mọi sự mình làm đều là một thử nghiệm.”

Trong thử nghiệm không có chuyện lầm lỗi, con yêu dấu. Con có thể có một mục tiêu khi con thử nghiệm, và con có thể nói: “Mục tiêu của tôi đã không thành hình.” Chẳng hạn, khi Thomas Edison muốn phát minh bóng đèn, ông đã thử nghiệm rất nhiều vật liệu mà không thành công. Đó có phải chăng là lầm lỗi? Liệu ông đã tự trách mình là ông đã sử dụng một vật liệu “lầm lỗi” hay không? Không, ông chỉ tiếp tục thử nghiệm cho tới khi ông tìm ra vật liệu thích hợp, và đây chính là cách mà thày có thể giúp con nhìn vào đời con.

Thày cũng có thể giúp con đi xa hơn nữa và nhìn ra trong nhiều trường hợp là con đã làm một việc gì đó trong đời với một ý định có ý thức là nó phải diễn ra như thế nào. Rồi khi ý định ý thức không hoàn thành, con thất vọng hay đau đớn, hay con bắt đầu tự trách thân là mình đã làm bậy, đã mắc phải lỗi lầm khủng khiếp. Điều thày có thể giúp con là lùi về một bước và nhìn ra rằng Hiện diện TA LÀ của con không nhìn vào sự kiện đó theo cách con nhìn.

16.6. Một mục đích cao hơn các ý định có ý thức

Con thấy đó, con yêu dấu, điều không thể tránh được trên một hành tinh như địa cầu là con hình thành một số ý định có ý thức không phù hợp với Sứ vụ Thiêng liêng hay tiềm năng phát triển cao nhất của con. Điều này không có nghĩa là chuyện đó sai lầm, mà có nghĩa là mục đích làm chuyện đó thật sự không nhằm thực hiện mục tiêu mà con có trong ý thức.

Từ nhãn quan của Hiện diện TA LÀ, mục đích để làm một chuyện gì đó là để con cứ làm thêm mãi cho tới khi con thấy đủ và con nhận ra: “Tôi không muốn làm thêm nữa.” Và con bắt đầu nghĩ: “Liệu vấn đề có phải là ý định của tôi, chứ không phải là chuyện đạt hay không đạt kết quả vỏ ngoài?” Điều thày có thể giúp con nhìn thấy là trong nhiều trường hợp khi con bị thất vọng về cuộc đời hay làm điều gì mà con cho là lầm lỗi, vấn đề thực sự là con cần lui về và nói: “Nhưng vì lý do gì mà tôi đã nỗ lực làm chuyện này? Tại sao tôi lại có mục tiêu đó? Tại sao tôi lại nghĩ đó là cách sống duy nhất? Tại sao tôi lại nghĩ tôi phải nhập vào cuộc chơi mà xã hội đã lập trình để tôi phải chơi?”

Có những người chỉ có thể học hỏi qua Trường đời Cay đắng. Có một số chuyện mà tất cả chúng ta chỉ có thể học được bằng cách – nếu có thể nói như vậy – dấn thân vào Trường đời Cay đắng. Cũng tốt khi nói rằng chúng ta có một vị thày tâm linh và chúng ta ở trong một môi trường bảo bọc nơi mình luôn luôn tiếp xúc với một vị thày tâm linh có thể giúp mình lượng định mọi thứ. Nhưng có một số yếu tố trong tiến trình khi đơn giản chúng ta cần đi ra ngoài và tự mình trải nghiệm. Chúng ta cần –thẳng thắn mà nói – đập đầu vào tường đá thật nhiều lần cho tới khi mình hiểu ra là việc đập đầu vào tường sẽ không phá vỡ được bức tường. Và do đó chúng ta cần tái lượng định những việc mình làm cũng như mục đích mình làm. Đây chỉ là một phần của tiến trình tăng triển trong thế giới vật chất, đặc biệt là, tất nhiên, trong điều kiện hiện hành với các định luật phụ thuộc của tự nhiên.

16.7. Tại sao các sinh thể tách biệt không thể tự do

Con yêu dấu, thày đã đề cập đến các định luật phụ thuộc của tự nhiên mà không xác định rõ là gì. Vậy hãy để thày cho con một chút ấn tượng về cách chúng vận hành. Nếu con ở trong một môi trường thuần khiết nơi các định luật phụ thuộc của tự nhiên không hiện hành, con sẽ thấy là trong một môi trường như vậy (mà các thày gọi là Vườn Eden hoặc Trường Bí giáo của Maitreya) con được tự do biểu đạt sáng tạo của con. Không có nghĩa là con sẽ luôn luôn tạo ra một kết quả y hệt như con đã dự định hoặc là điều mà con muốn sống trong một thời gian.

Trong một môi trường thuần khiết, bất cứ điều gì mà con tạo dựng đều có thể được xóa sạch tức thì. Lý do mà nó có thể như vậy là vì con nhận được sự phản hồi tức thì của bất cứ gì con tạo ra, con có sự thị hiện tức thì của điều mà con tạo ra. Nếu con gửi ra một ý định mà ngày nay con sẽ gọi là một ý định hung hãn đối với người khác, nó sẽ trở ngược lại con ngay tức khắc. Trong một môi trường như vậy, con không thể có một số trải nghiệm vì sự phản hồi sẽ tức khắc và con lập tức cảm thấy đau đớn. Con không thể đi vào tách biệt trong một môi trường như vậy và cư xử như một sinh thể riêng biệt có khả năng làm bất cứ gì mình muốn mà không đếm xỉa gì tới hậu quả cho tổng thể.

Trong một môi trường thuần khiết, con có thể làm bất cứ gì mình muốn nhưng con cũng sẽ tức khắc trải nghiệm những gì tổng thể sẽ trải nghiệm vì nó phản chiếu trở về con. Cách duy nhất để tránh né sự kiện này là một môi trường trong đó có yếu tố trì hoãn, là khi con không nhận được phản hồi tức thì của những gì con gửi ra, có nghĩa là con có thể, trong một thời gian, mang ảo tưởng trong tâm rằng mình là một sinh thể tách biệt có thể trốn tránh một số hậu quả.

Toàn bộ cái nhìn của sa nhân về cuộc sống là mong muốn trải nghiệm việc trốn tránh hậu quả. Chúng có thể tách mình ra khỏi Thượng đế, chúng có thể tạo dựng thế giới riêng biệt của chúng, chúng có thể ấn định luật lệ. Tất cả chúng ta đều có nhu cầu trải nghiệm điều này ít nhiều, chúng ta đều cần trải nghiệm sự tách biệt này trong một thời gian.

Con cũng hiểu là khi con bước vào tách biệt, con không tự do; con không thể tự do. Theo định nghĩa, không thể nào có chuyện vừa là một sinh thể tách biệt mà lại vừa tự do, bởi vì tách biệt chỉ có thể xảy ra bằng cách quy định một số hạn chế và lằn ranh, và những cái này thì sẽ giới hạn con.

Mới đầu, có thể con sẽ không kinh nghiệm thấy như vậy. Con còn có thể nghĩ là bằng cách nổi loạn chống lại Thượng đế, như sa nhân tuyên bố, con sẽ đạt được tự do. Con sẽ thấy là trên hành tinh này có một số lời dạy bảo rằng khi con tuân thủ ý muốn của Thượng đế, con sẽ mặc vào bộ áo tù bó tay bó chân, và chỉ khi nào con chống lại Ngài thì con mới giành được tự do. Đây chính là lời dạy của một số giáo lý và tư tưởng đạo Sa-tăng.

Đó là cảm giác lúc ban đầu bởi vì yếu tố trì hoãn khiến cho con không tức khắc nhận được phản hồi của những gì con gửi ra. Nhưng yếu tố trì hoãn không thể kéo dài mãi mãi, và sẽ tới một điểm khi con bắt đầu cảm thấy mất tự do.

Con hãy cho thày hỏi điều này, con yêu dấu, như một bài tập về lôgic và trí thức. Một đằng sa nhân sẽ bảo là con chỉ tự do khi con nổi loạn chống lại Thượng đế. Đằng khác, chúng lại định nghĩa Thượng đế là kẻ thù đang hạn chế con. Tại sao chúng lại cần định nghĩa Thượng đế như vậy chứ? Tại sao chúng không chỉ việc bước xa khỏi Ngài và nói: “Thượng đế không can hệ gì đến chúng ta, chúng ta cứ việc làm bất cứ gì mình muốn.” Đó là vì khi con bước vào nhị nguyên, con không thể làm bất cứ gì con muốn. Con phải có một đối thủ. Sa nhân đã biến Thượng đế thành đối thủ của chúng, hoặc chúng biến nhau thành đối thủ, hoặc những sinh thể khác, những con người khác thành đối thủ. Con phải có một cái gì đó để mà chống đối, vì nếu không thì con không thể giữ vững ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt. Sự kiện con có một cái gì đó để chống đối sẽ lấy mất tự do của con. Không thể nào khác được. Để tìm lại tự do và biểu hiện sự sáng tạo của mình, con cần gỡ bỏ những cơ chế, những niềm tin tưởng về những việc con muốn làm trong cuộc sống.

16.8. Định nghĩa các định luật phụ thuộc của tự nhiên

Trở về với các định luật phụ thuộc của tự nhiên, Luật Tự quyết cho phép con bước vào không gian tách biệt đó và định ra một số quy luật trong đó. Điều sa nhân đã làm là chúng định ra một số quy luật khiến cho vật chất trở nên dày đặc hơn. Vật chất trong vũ trụ nơi con sinh sống dày đặc hơn thuở ban đầu. Thày không bảo là khắp nơi trong vũ trụ vật chất đều dày đặc hơn, nhưng chắc chắn trên hành tinh địa cầu, vật chất dày đặc hơn hành tinh nguyên thủy do các Elohim sinh tạo.

Điều này mang một số hệ quả, trước tiên là nó che lấp sự hiện hữu của một cõi tâm linh – con không thể nhìn thấy với giác quan vật lý và tâm vỏ ngoài của con. Nó cũng che lấp sự kiện mọi sự việc đều quay trở ngược về con. Con tưởng là con có thể dựng lên một bức tường nào đó bằng vật chất sẽ bảo vệ con khỏi những sự việc quay trở ngược về, mà các thày gọi là nghiệp quả. Sa nhân đã cố làm chuyện đó, và con có thể trì hoãn nhưng con không thể trì hoãn mãi mãi.

Sẽ tới một thời điểm khi nghiệp quả quay trở ngược về con và con không làm sao khác được. Khi dựng lên các định luật phụ thuộc và khiến cho mọi vật dày đặc hơn, con cũng khiến cho mọi chuyện đều khó thay đổi hơn. Khi rõ ràng là mọi chuyện sẽ không diễn ra như con nghĩ và con không thể mãi mãi trốn tránh được nghiệp quả, thì lúc đó việc gỡ mình ra khỏi tình trạng này trở nên vô cùng khó khăn.

Điều này có tác đụng là tạo ra một môi trường học hỏi cực kỳ thử thách so với môi trường ban đầu nơi Vườn Eden với thày Maitreya. Trong môi trường thuần khiết nguyên thủy, con có thể sáng tạo một điều gì đó mà con không đặc biệt thích thú và sẽ không mấy dễ chịu khi nó quay trở ngược về con, nhưng con có khả năng gỡ bỏ nó tức khắc. Trong khi đó thì trong môi trường hiện tại, yếu tố trì hoãn khiến cho những gì con gửi đi không tức khắc quay trở ngược trở về, nhưng khi nó quay trở về với con thì việc gỡ bỏ sẽ khó khăn bội phần.

Do vật chất dày đặc hơn, con cũng gặp tình trạng là vật chất cực kỳ thiếu khoan nhượng. Con có thể tạo ra những hệ quả sẽ ập đến tức khắc và ảnh hưởng con liên tục trong một thời gian rất đài. Như con cũng biết, khi con bước ra khỏi một toà nhà thật cao, con sẽ bị rơi xuống mà không làm gì khác được. Có rất nhiều chọn lựa trong đời sống mà con có thể gây ra hậu quả vô cùng khó chịu ngay lập tức, hay con phải chịu một hệ quả sẽ kéo dài suốt phần đời còn lại do một chọn lựa duy nhất. Sự thể này không hiện hữu trong môi trường học hỏi nguyên thủy. 

Con có thấy là thế giới nơi con lớn lên đã khiến con bị điều kiện hóa, khiến con quan tâm chủ yếu đến việc tránh né những hậu quả rất khó khăn và đau đớn của tất cả mọi việc mà con làm trong đời? Con thấy được chăng là nếu trọng tâm của con là tránh phạm lỗi lầm, tránh làm điều sai trái, tránh tạo ra một hậu quả thật khó chịu, thì có phải con đang không thực sự sáng tạo? Sáng tạo không là một phản ứng đối với hay chống lại các điều kiện trên địa cầu. Sáng tạo không phải là chuyện con đối đãi và quan hệ với thế giới vật chất cùng các điều kiện hiện hữu. Sáng tạo là khi con liên hệ với Hiện diện TA LÀ của con và cho phép cá thể cùng sự sáng tạo của Hiện diện được biểu đạt xuyên qua con trong thế giới vật chất. 

Con thấy đây không phải là chuyện tìm cách tránh né một cách vô hạn định những hậu quả tiêu cực. Thật sự đây là chuyện trở nên sáng tạo để hoặc con thăng vượt, hoặc con thay đổi những điều kiện đang tạo ra hậu quả tiêu cực đó. Đây chính là cách thế giới tiến bộ.

16.9. Một định nghĩa mới về thiên tài

Có những người đã hòa điệu được với dòng chảy sáng tạo này. Con có thể thấy một số người được gọi là thiên tài vì họ đã nảy ra một sáng kiến mà không ai nghĩ tới. Nhiều người chỉ có khả năng làm được điều này đúng một lần trong đời mình hoặc một vài lần. Họ chỉ có thể làm được trong một lãnh vực nhất định, nhưng nhiều khi họ không thể chuyển được điều đó vào đời sống riêng của họ. Con sẽ thấy rất nhiều người được gọi là thiên tài đó, như Einstein chẳng hạn, cũng là người lập dị với những thành công hạn chế – nếu có thể nói như vậy – trong cuộc sống riêng tư. Có một sự phân cách giữa lãnh vực nghiên cứu mà họ đã chọn với cuộc sống hàng ngày của họ.

Con yêu dấu, các thày thà nhìn thấy các con là thiên tài trong đời sống hàng ngày, cho dù các thày cũng mong được thấy con là thiên tài trong một lãnh vực nơi con mang tiềm năng biểu đạt những điều mới lạ. Mục đích của khóa tu tự điều ngự là để con trở thành thiên tài trong đời sống hàng ngày bằng cách là người sáng tạo, là người học cách sử dụng khả năng sáng tạo tâm linh, thần thánh, mà con vốn đã có sẵn, để tạo ra đời sống cùng những trải nghiệm đời sống mà con mong muốn trong kiếp này, hầu sự tăng triển của con được dễ dàng.

Có thể mục đích của con không phải là thăng thiên trong kiếp này, nhưng chắc chắn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con có ghi việc thực hiện tiến bộ đáng kể về hướng thăng thiên. Nhiều người trong số các con có ghi vào trong Sứ vụ Thiêng liêng mục tiêu hội đủ tư cách để thăng thiên ở cuối kiếp này. Đôi khi mục tiêu này đòi hỏi con làm một số việc mà dưới nhãn quan của người đời trong môi trường của con có vẻ là rất phi lý, vô trách nhiệm và kỳ lạ.

16.10. Tự ngã là vùng đệm giữa con và thế gian

Đó chính là sự sáng tạo, theo nghĩa là nó thăng vượt những ranh giới mà con mang trong tâm thức, những giới hạn đang kềm hãm con lại. Sáng tạo là gì đối với con? Thày không thể nói được, con yêu dấu. Thày không thể nói được vì con không thể biết được sáng tạo là gì với tâm vỏ ngoài.

Con có hiểu thày đang nói gì chăng? Sa nhân đã làm gì? Chúng đã tạo ra một cơ chế trong tâm con đứng giữa con và thế giới. Tự ngã là gì chứ, con yêu dấu? Đó là một phản ứng đối với việc thế giới chối bỏ con. Cho nên con đã cố tạo ra một cơ chế để bảo vệ con khỏi thế giới vật chất cùng những điều kiện ở đây. Đó là một vùng đệm giữa con và thế giới, trong đó một phần là khi con lượng định mọi việc trước khi con hành động. Con lo ngại những hậu quả tiềm ẩn.

“Liệu chuyện này sẽ khiến tôi chết liền tức khắc? Liệu nó sẽ biến tôi thành một kẻ tàn tật phải ngồi xe lăn trọn đời?” Rồi đến những lượng định vi tế hơn như “Liệu người ta sẽ nghĩ gì về tôi, nói gì về tôi? Tiêu chuẩn của xã hội là tôi phải cư xử hay không được cư xử như thế nào?” Con đã quen đánh giá mọi chuyện trước khi con biểu lộ, nhưng đó không phải là sáng tạo. Sáng tạo là khi con nối kết – cái Ta Biết nối kết – bằng trực giác với Hiện diện TA LÀ của con. Con không lượng định bằng tâm vỏ ngoài xem Hiện diện sẽ làm gì xuyên qua con để ngăn chặn con nếu Hiện diện muốn làm điều gì mà con không đồng ý hoặc sẽ khiến con xấu hổ.

16.11. Để cho Hiện diện làm việc qua con

Qua tâm vỏ ngoài, con sẽ không biết được Hiện diện muốn làm gì. Con hiểu điểm này chứ? Ngay lúc con nối kết trực giác với Hiện diện TA LÀ rồi bước vào tâm phân tích, ngay lúc đó con đã tắt đi luồng sáng tạo. Hiện diện TA LÀ phải lui về, tôn trọng quyền tự quyết của con, và đơn giản sẽ không biểu đạt qua con.

Khi con lượng định với tâm vỏ ngoài, con tắt đi luồng sáng tạo từ Hiện diện. Cách duy nhất để biết được Hiện diện sắp làm gì xuyên qua con là trải nghiệm khi sự việc đang diễn ra. Con không thể biết trước được rồi sau đó, nếu con chấp thuận, để cho Hiện diện biểu lộ. Con cần để cho Hiện diện biểu lộ những gì nó muốn biểu lộ, và con chỉ trải nghiệm khi nó đang biểu lộ.

Nếu con không sẵn sàng làm như vậy, nếu con không sẵn sàng tự phát, thì con không thực sự sáng tạo. Không thể nào khác được. Con không thể né tránh được chuyện này. Vì thế chúng ta có thể gọi đó là một quy luật. Con không thể vừa nối kết với Hiện diện, vừa lượng định xem Hiện diện phải biểu lộ ra sao. Con không thể nối kết với Hiện diện qua tâm phân tích.

Con có thể, tất nhiên, nhận ra là Hiện diện của con sẽ không làm gì để khiến con mất mạng chẳng hạn, và nó sẽ không muốn biểu lộ xuyên qua con một điều gì sẽ khóa con chặt hơn nữa vào một trạng thái giới hạn. Hiện diện muốn giải thoát con khỏi mọi giới hạn.

Quá nhiều người sợ hãi sự sáng tạo của mình vì, cũng vậy, họ đã rơi vào niềm tin cho rằng cách duy nhất để tránh khỏi hậu quả xấu xa là kiểm soát mọi chuyện. Họ nghĩ tự ngã có lý khi nó muốn kiểm soát và biến mọi thứ thành chuyện có thể tiên đoán trước. Con sợ hãi những gì tự phát, không thể đoán trước.

Tại sao Giê-su lại dạy rằng trừ khi con trở thành một trẻ nhỏ, con không thể bước vào Nước Trời? Đó là vì Nước Trời là một trạng thái tâm thức, là tâm thức Ki-tô. Tâm thức Ki-tô là khi con nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, và Hiện diện có thể tự biểu đạt xuyên qua con. Như Giê-su cũng nói, “Ta không thể tự mình làm nổi việc gì, mà là Cha – có nghĩa là Hiện diện TA LÀ – ở trong ta”. Đây chính là tâm Ki-tô.

16.12. Sự sáng tạo phải được biểu lộ

Quả vị Ki-tô có thể ở trên tầng 96 một chút, nhưng sự tự điều ngự có nghĩa là con mở khóa sáng tạo của mình và cho phép nó tuôn chảy xuyên qua con. Điều này, con cần bắt đầu thực hiện trước khi con có thể chuyển từ khóa nhập thất của thày sang khóa nhập thất của Hilarion trên Tia thứ Năm. Thày đã nói là Tia thứ Tư là một loại tiêu điểm giữa ba tia sáng đầu và ba tia sáng chót. Ba tia sáng chót là nơi con cần khởi sự biểu đạt sáng tạo của con.

Không chỉ là chuyện học hỏi ngày càng nhiều hơn khi con kinh qua khóa tu này. Trong ba tia đầu, con đã đi qua đại loại một sự tiến triển bình thường, và thày đang ở đây để dẫn con đến điểm sẵn sàng bước vào ba tia chót. Ớ đó sẽ không là chuyện học hỏi, mà là chuyện biểu đạt. Không phải là chuyện ngồi trong tháp ngà học tập một điều gì đó về bản thân mình, mà là thực sự biểu hiện sự sáng tạo của bảy tia sáng và sử dụng sáng tạo này để thay đổi đời mình cũng như kinh nghiệm sống của mình. Làm thế nào con sẽ mở khóa khả năng sáng tạo? Ở mức cõi ê-the tại khóa nhập thất của thày, cả hai thày đều đang dạy con, như thày dạy con ngay bây giờ. Các thày gợi ý cho con, thách thức cách nhìn của con về thế gian, nhưng các thày cũng dẫn con qua một số bài tập nhằm giúp con mở khóa khả năng sáng tạo đó và cả gan bày tỏ một cách tự nhiên, tự phát. Tất nhiên, con có thể tự giúp mình rất nhiều bằng cách cũng làm vậy ở mức ý thức.

Đời sống của con sẽ không thay đổi cho tới khi con đem những gì con học được tại khóa nhập thất xuống các thể bản sắc, lý trí, cảm xúc và cuối cùng xuống thể vật lý. Thày khuyến khích con hãy tham gia vào những loại sinh hoạt tự phát, không gò bó. Thày để cho con chọn lựa vì có rất nhiều loại hoạt động như vậy – có thể là hội họa, nhảy múa, âm nhạc, hay bất cứ gì con thích.

16.13. Một chương trình mở khóa khả năng sáng tạo

Tuy nhiên, điều thày muốn gợi ý là con hãy lên khuôn một chương trình hàng ngày để học tập bài giảng này cũng như đọc bài thỉnh kèm theo. Con hãy dành ra một chút thời gian sau đó để ngồi yên lặng. Con hãy có một quyển sổ ghi và một cây bút, sau đó con dành ra một thời gian để hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của con. Khi thày nói hòa điệu, thày không muốn nói là con làm vậy với tâm phân tích. Thày không muốn nói là con ngồi đó và tạo ra một nghi thức trong tâm, và con nghĩ ngợi về cách hòa điệu với Hiện diện của con. Điều thày yêu cầu con làm là, càng nhiều càng tốt, để cho tâm yên tĩnh, im lặng, rồi con hòa điệu. Sau đó, con hãy viết xuống bất cứ gì khởi lên trong con mà không đánh giá gì hết.

Có thể những gì đến với con là điều gì đó được biểu lộ từ tâm tiềm thức. Có thể có một số điều mà con cần nhìn thấy trong tiềm thức và do đó nó khởi lên cho con chú ý. Có thể có những điều đang ngăn chặn không cho con hòa điệu với Hiện diện TA LÀ. Khi con đọc những dòng đó, con có thể lượng định. Con có thể sử dụng những điều khởi lên khi con đọc bài thỉnh cho chương này hoặc con đọc những bài thỉnh, bài chú khác nếu thích hợp. Chẳng hạn, nếu con cảm thấy một nỗi sợ nào đó, con có thể kêu gọi Đại thiên thần Michael. Nếu con có ràng buộc với một điều gì đen tối, một điều gì khó chịu, con có thể kêu gọi Elohim Astrea để thày cắt đứt dây buộc và cởi trói cho con. Cho mỗi vị chân sư, cho mỗi vấn đề mà con có thể gặp, đều có những bài thỉnh, bài chú thích hợp (Xem chansuthangthien.org).

Cũng có thể có một điều gì đó đến với con mà con chưa hề dám nghĩ tới. Có thể có một điều gì về cách thay đổi hoàn cảnh vỏ ngoài của mình mà con không dám nghĩ tới trong tâm ý thức. Vậy con cần ngồi xuống và lượng định. Liệu con sẽ thực hiện thay đổi đó hay không? Thày không đang nói là con nhất thiết phải thực hiện mọi sự thay đổi khởi lên trong con. Rất có thể là con chỉ cần nhìn thấy một điều gì đó hầu con có thể quyết định trong ý thức là mình sẽ làm cuộc thay đổi đó hay không.

Một lần nữa, con cần nhớ là con đã làm một số chuyện với mục đích để nhìn ra là mình không muốn làm những chuyện đó nữa. Một điều tương tự cũng có thể xảy ra đối với những điều đến với con từ bên trong. Có nhiều học trò tâm linh nghĩ rằng bất cứ gì đến từ bên trong đều phải đến từ Hiện diện TA LÀ hay từ chân sư thăng thiên, nhưng không phải luôn luôn như vậy. Nó có thể đến từ một khía cạnh của tự ngã, có thể nó đã khởi lên là vì con cần đạt tới điểm con nhìn thấy một cách ý thức là đó không phải là một sự chỉ đạo cao hơn đến từ một nguồn cao hơn. Do đó, bằng cách ý thức nhận ra điều này, con có thể phơi bày một khía cạnh của tự ngã, rồi con có thể gia tăng mức hòa điệu với Hiện diện TA LÀ và nhận được sự hướng dẫn đích thực từ trên. Thày vừa nói là nếu con nghĩ là con đã giác ngộ, sẽ có một số khía cạnh của tự ngã mà con phải phủ nhận, cho nên con sẽ kẹt lại ở đó. Cũng có một số học trò tâm linh bị kẹt lại vì họ tưởng mình đã nhận được sự hướng dẫn từ một nguồn thiêng liêng hay một linh hứng cao hơn nào đó, nhưng nguồn này không cao hơn theo nghĩa nó đến từ Hiện diện TA LÀ. Có thể nó đến từ một số sinh thể trong cõi trí hay cõi bản sắc. Có thể nó đến từ chính thể bản sắc hay thể lý trí của con, nhưng nó không đến từ Hiện diện và các chân sư. Cũng đôi khi có những học trò nhận được sự chỉ đạo dai dẳng mà họ cho là chính đáng, và mục đích là khiến con đạt tới điểm con nhận ra đó cũng không phải là cao nhất, mà có cái cao hơn.

16.14. Tại sao đường tu có vẻ phức tạp

Đúng vậy, con yêu dấu, chuyện này rắc rối, chuyện này phức tạp. Con có biết tại sao nó lại có vẻ phức tạp như thế? Thày đã nói gì ở đầu bài? Tự do là sự tự do khỏi các cơ chế trong chính tâm con. Đó là nơi con giành được tự do: trong chính tâm con. Con chẳng hiểu hay sao là khi con nhìn từ bên trong tâm mình, thật là khó nhìn thấy những cơ chế mà mình đã tạo dựng? Tại sao vậy? Bởi vì con đã tạo ra những cơ chế đó để cho mình ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt.

Nếu con thấy được là con thật sự không là một sinh thể tách biệt – đó chỉ là một ảo tưởng – thì nó sẽ không còn cho con cảm nhận thực tại nữa. Hẳn con đã ngồi trong một rạp hát ngắm cảnh trí trên sân khấu, rồi có thể con đã có dịp bước ra đằng sau cảnh trí và nhận ra đó là một ấn tượng chỉ có tác dụng khi con ngồi nhìn từ dưới rạp hát. Khi con bước ra đằng sau, con thấy ngay tất cả đều là giả. Đó, trong tâm con cũng xảy ra giống như vậy. Khi con ngồi trong rạp và nhìn lên sân khấu, tất cả đều có vẻ hiện thực. Nếu con ra sau sân khấu thì hiển nhiên tất cả đều là giả. Khi con ngồi trong tâm con, mọi chuyện có vẻ thật rắc rối, thật khó thấy, thật phức tạp. Và con nghĩ: “Ồ, làm thế nào tôi sẽ thoát ra được đây? Làm thế nào tôi sẽ nhìn thấu qua được đây?”

Con yêu dấu, thày hoàn toàn hiểu được cảm giác này vì chính thày cũng đã cảm thấy như vậy trước khi thăng thiên, và thày có khả năng nhớ lại chuyện đó như thế nào trước khi mình thăng thiên. Nhưng thày cũng biết là khi con tiến lên từng bước một, con sẽ làm cho tấm màn ngày càng mỏng hơn, và sẽ có những lúc khi mây mù hé mở ra và con bắt được một tia sáng từ mặt trời là Hiện diện TA LÀ của con.

16.15. Kết luận

Thày đã dẫn con đi qua bảy bước trong cuốn sách này. Nếu con đi theo một cách chuyên cần, con sẽ tinh tấn, và một ngày con sẽ sẵn sàng bước theo các khai ngộ dưới bào huynh yêu dấu của thày là Hilarion. Và Hilarion sẽ dạy con cách thực hành câu ngạn ngữ cổ xưa: “Thày thuốc, hãy chữa lành chính mình!”

Thật là một niềm vui lớn được giảng dạy cho con nơi khóa nhập thất của thày, được trao cho con những bài truyền đọc có khả năng kích thích tâm vỏ ngoài của con. Thày biết ơn đã có cơ hội đem nội dung những bài giảng này vào cõi vật lý nơi mọi người có thể đọc được và do đó có cơ hội quyết định: “Liệu tôi sẽ chỉ đọc qua mà thôi, hay là tôi sẽ làm những bài thực tập? Liệu tôi sẽ làm một cách máy móc hay tôi sẽ bắt đầu làm một cách sáng tạo? Liệu tôi sẽ làm như một bài tập vỏ ngoài hay tôi sẽ thực sự hòa điệu với Hiện diện của Serapis Bey?”

Theo một nghĩa nào đó, toàn bộ mục đích của bảy tầng khai ngộ này là để giúp con hòa điệu trong ý thức với Hiện diện mà TA LÀ. Nếu con có thể trải nghiệm Hiện diện của thày trong tâm vỏ ngoài của con, nó sẽ neo chặt bước tăng triển mà con đã kinh qua ở tầng ê-the vào cuộc sống vật lý và tâm vỏ ngoài của con, ở một mức mà con không thể tưởng tượng nổi khi con chưa trải nghiệm Hiện diện của thày.

Do đó, thày hy vọng là sẽ đến một điểm khi mây mù sẽ hé mở ra và con sẽ nhìn thấy thày như TA LÀ. Vì thày là chân sư thăng thiên Serapis Bey, Thượng sư của Tia sáng thứ Tư và:

TA LÀ tự do trong sự… thuần… khiết.

Tìm được an bình trong phụng sự

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 7/1/2016.

TA LÀ chân sư thăng thiên Serapis Bey. Giờ đây chúng ta đã đến tầng thứ sáu trong khóa nhập thất của thày, là tầng con đối diện với sự phối hợp giữa Tia thứ Tư của Thuần khiết với Tia thứ Sáu, thường được gọi là tia sáng của phụng sự và tia sáng của an bình.

Phụng sự và an bình có liên hệ như thế nào? Các thày có nói là con đã đi xuống địa cầu với một mục đích cao hơn, một mục đích vượt hẳn những gì hầu hết mọi người có thể thấy được qua tâm ý thức. Con đã đi xuống đây vì con thấy đây là một hành tinh kém cỏi với nhiều bóng tối và nhiều điều kiện cần thay đổi. Con đã đến vì con nghĩ rằng bằng cách hiện thân ở đây, đem lại ánh sáng và biểu đạt sự sáng tạo cá nhân của mình, con sẽ có thể tạo sự khác biệt và quả thực giúp nâng địa cầu lên một mức cao hơn, để địa cầu rũ bỏ một số biểu hiện đen tối mà con đang chứng kiến, chẳng hạn như chiến tranh và đủ loại hình thức vô nhân khác của con người đối với con người.

Có thể nói một phần lớn động lực của con, ý định của con để tới địa cầu là đóng góp một mức phụng sự sẽ giúp nâng địa cầu lên cao hơn. Vì vậy, ngay trong ý định sâu thẳm nhất của con đã gắn sẵn mong muốn cải thiện trái đất, đưa trái đất đi lên.

14.1. Khi phụng sự lấy mất sự anh bình

Điều thày muốn cho con thấy bây giờ là mong muốn phụng sự địa cầu có thể lấy đi cảm giác an bình của con như thế nào. Tiếc thay, đây là một vấn đề mà con có thể làm cho trầm trọng hơn khi con khám phá con đường tâm linh và bước theo một giáo lý tâm linh. Trên thế giới có nhiều loại giáo lý tâm linh bị ảnh hưởng bởi những ý tưởng tinh vi của sa nhân, đặc biệt là tư duy cuồng đại. Những giáo lý này trực tiếp cho tín đồ cảm nhận là họ có mặt ở đây để thay đổi một số điều kiện cụ thể trên trái đất. Ngay cả giáo lý của chân sư thăng thiên mà các thày truyền rải cũng có thể làm gia tăng tư duy cuồng đại và mong muốn nhìn thấy những thay đổi đặc thù trên trái đất. Hiển nhiên các thày thường hay kêu gọi các con thỉnh cầu một số thay đổi cụ thể. Chẳng hạn trong sách của Mẹ Mary về chiến tranh có cung cấp một số dụng cụ để con thỉnh gọi và giúp tiêu trừ tệ nạn chiến tranh khỏi địa cầu (Help the Ascended Masters Stop War – Giúp chân sư thăng thiên chấm dứt chiến tranh). Vậy thì làm thế nào con cân bằng được mong muốn thay đổi cụ thể với sự an bình nội tâm của mình?

Rõ ràng các thày muốn thấy thay đổi cụ thể trên trái đất. Rõ ràng các thày muốn thấy chiến tranh bị loại trừ khỏi hành tinh. Các thày muốn thấy địa cầu gia tốc lên một trạng thái cao hơn nơi chiến tranh và những dòng sống hiện thân tâm thức chiến tranh bị rũ sạch, vì chúng không thể ở lại với độ rung gia tốc của hành tinh và tâm thức tập thể.

Tuy vậy như thày có nói, các thày muốn thấy điều đó xảy ra trong bối cảnh của Định luật Tự quyết. Các thày muốn thấy một số lớn loài người trên hành tinh sử dụng quyền tự quyết của mình để năng cao tâm thức, vượt lên khỏi tâm thức của chiến tranh chẳng hạn. Làm thế nào họ sẽ làm được vậy? Họ sẽ không thể làm được bằng cách bị ép buộc.

Con yêu dấu, con chẳng thấy hay sao là các thày đâu có yêu cầu con thỉnh gọi một điều gì sẽ cưỡng ép người ta? Các thày yêu cầu con đọc những bài thỉnh sẽ nâng cao sáng ngộ, hiểu biết cùng viễn quan của mọi người để họ có thể tự nguyện thực hiện những thay đổi đó.

Đến giờ con chẳng thấy hay sao là một trong những khác biệt căn bản giữa chân sư thăng thiên và hàng ngũ giả trá là các thày hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết, trong khi hàng ngũ giả trá thì chẳng có chút lòng tôn trọng nào hết?

14.2. Sa nhân buộc con người phải phản ứng

Các sa nhân đã làm gì ngay từ khi chúng đến địa cầu? Chúng đã bắt buộc mọi người phải phản ứng đối với chúng và chống lại chúng. Con chẳng thấy hay sao đây là một trong những cơ chế đằng sau chiến tranh và đủ mọi loại bạo lực khác? Con sống trong một cơ thể vật lý, con phải sống ở đâu đó để có thể tồn tại, chu cấp cho bản thân cũng như cho gia đình. Con sống trên một mảnh đất, cho nên nếu có một nhóm người tập hợp một đội quân tiến vào mảnh đất đó để cưỡng đoạt và có thể giết hại chính con lẫn gia đình con, thì con bắt buộc phải phản ứng lại một cách nào đó.

Đây chính là cách mà sa nhân đã ép uổng con người phải rơi vào những vòng xoắn ốc phản động tự nó ngày càng mạnh mẽ hơn. Con thấy như ở vùng Trung đông, con người ở đó đã từ hàng ngàn năm qua bị kẹt cứng trong một vòng xoắn ốc tương tự. Sa nhân gần như chẳng phải làm gì để giữ cho tình trạng này kéo dài mãi mãi khi đã có con người tự ý làm như vậy. Họ không thể tự kéo mình ra khỏi vòng xoáy, và hiển nhiên con thấy rõ những vòng xoáy này là đối nghịch với hòa bình. Không thể có hòa bình giữa con người khi ai nấy vẫn mắc kẹt trong vòng xoáy như vậy, Không thể có hòa bình trong tâm con người khi ai nấy bị mắc kẹt trong vòng xoáy như vậy. Những vòng xoáy cướp đi hòa bình như thế không chỉ gây ra chiến tranh giữa quốc gia hay bộ tộc, mà có cả những vòng xoáy trong gia đình hay nơi sở làm khiến người ta, một lần nữa, bị kẹt vào những phản ứng đối với nhau và chống lại nhau. Có một số người, dù là trong hôn nhân hoặc trong cùng một gia đình với anh chị em hay cha mẹ, đã kẹt vào vòng xoáy với cùng những dòng sống đó suốt bao nhiêu kiếp sống. Và cứ thế họ lại tái đầu thai trong cùng những nhóm gia đình vì họ không thể phá vỡ thoát khỏi những vòng xoáy mà họ đã duy trì với các dòng sống trong nhóm.

Con, tất nhiên, là một học trò tâm linh, một học trò của chân sư thăng thiên. Con đã tự kéo mình ra khỏi những vòng xoáy phản động dễ thấy nhất, vì nếu không thì con đã không vươn lên được khỏi tầng tâm thức 48. Điều mà thày cố giúp con nhìn ra ở đây là còn có những vòng xoáy khác vi tế hơn.

Một trong những vòng xoáy này là sự cảm nhận cho rằng, bởi vì sa nhân đã cưỡng ép người ta vào vòng xoáy hướng hạ, thì con là người tâm linh cũng rất chính đáng khi con cưỡng ép người khác, vì lợi ích của họ, phải bước ra khỏi vòng xoáy hướng hạ đó. Đây chính là tinh túy của tư duy cuồng đại khi con nghĩ có một trận chiến hoành tráng giữa thiện và ác, và con đang đứng về phe thiện. Vì cái ác quá hung hãn, cho nên con bắt buộc phải sử dụng vũ lực để đánh bại nó, hay để giải phóng mọi người khỏi nanh vuốt của nó.

Đó là cách biện minh đằng sau đủ loại hành vi dựa trên vũ lực do những người theo tôn giáo, những người tâm linh hay nhiều loại người thiện chí khác, khi họ nghĩ là họ đang phục vụ cho một chính nghĩa tốt đẹp nhưng họ lại dùng đến vũ lực. Ở mức của con nơi tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày trong Tia thứ Tư, con đã thoát ra khỏi những vòng xoáy đó, nhưng liệu con đã hoàn toàn thoát khỏi cái tư duy tinh tế ở đằng sau?

14.3. Phụng sự và thành công

Ngay cả khi con không phản ứng trực tiếp lại người khác hay tìm cách ép buộc họ, con vẫn có thể bị tác động bởi ý thức tinh tế là con đang ở đây để cống hiến một việc ích lợi cho địa cầu, và thước đo để đánh giá xem con phụng sự có thành công hay không là thấy được những thay đổi vỏ ngoài cụ thể. Con yêu dấu, khi nào con còn nghĩ việc phụng sự của con trên hành tinh này phụ thuộc vào việc sản xuất ra một số thay đổi vỏ ngoài cụ thể gắn liền với những chọn lựa tự quyết của người khác, thì con sẽ không bao giờ đạt được an bình nội tâm.

Con có thể nói, như nhiều đệ tử cũng nói khi bàn thảo về đề tài này ở cõi ê-the: “Nhưng Serapis, có phải thày đang bảo là chúng con không ở đây để phụng sự và đem lại thay đổi cụ thể? Chúng con chẳng ở đây để giúp loại trừ cái ác khỏi địa cầu hay sao?” Trả lời cho câu hỏi đó là: “Có và không”, bởi vì nó tuỳ thuộc vào cách con nhìn vấn đề.

Các thày đã từng dùng hình ảnh một người bị kẹt trong một hang động tối tăm. Vì họ trong bóng tối cho nên họ không thể thấy mình đang ở đâu hay đang làm gì, và do đó có một số chọn lựa mà họ không thể chọn một cách ý thức. Nếu ánh sáng trong động được gia tăng lần hồi, họ sẽ từ từ thấy rõ hơn. Và khi tầm nhìn của họ rõ ràng hơn, họ sẽ – từ bên trong – bắt đầu chọn lựa một cách ý thức hơn, hiểu biết hơn. Như thày MORE đã từng nói, nếu người ta biết tốt hơn thì người ta cũng sẽ làm tốt hơn – và điều này đúng cho mọi người, trừ sa nhân. Thậm chí điều này cũng đúng cho cả sa nhân, nhưng chúng sẽ không bao giờ đạt tới điểm biết tốt hơn đó cho đến khi chúng xoay chuyển tâm thức và nuốt trọn niềm kiêu hãnh, một điều vô cùng khó khăn đối với chúng.

Đối với tất cả những dòng sống khác, nếu họ thật sự thấy được một chọn lựa tốt hơn những chọn lựa trước, thì trong đa số trường hợp, họ sẽ lấy chọn lựa đó. Như trong câu chuyện quen thuộc, nếu con nghĩ mình đang cầm một sợi dây thừng và ánh sáng lần lần tỏa rạng, và con thấy đó là một con rắn, thì con sẽ tự động buông rắn ra.

Công việc của con không phải là chế tạo một số thay đổi cụ thể bằng cách sử dụng vũ lực trên người khác. Chẳng hạn, làm thế nào con dùng vũ lực để ép buộc người khác yêu chuộng hòa bình? Chính vũ lực đã lấy đi hòa bình của họ và khiến họ giao chiến lẫn nhau. Làm thế nào dùng thêm vũ lực có thể loại bỏ vũ lực đã có mặt ở đó và đã tàn phá địa cầu? Không thể nào được!

Sa nhân đã tạo ra đủ loại ý tưởng vi tế bảo rằng không những chuyện đó có thể làm được mà đó còn là cách duy nhất. Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nhưng điều này chưa bao giờ và sẽ không bao giờ là phương cách của các chân sư thăng thiên. Các thày làm việc với quyền tự quyết, trong khuôn khổ Định luật Tự quyết. Hễ gia tăng ánh sáng thì người ta sẽ chọn lựa tốt hơn. Nếu họ không chọn lựa tốt hơn thì con hãy lui về và để yên cho họ bước vào một vòng xoắn ốc hướng hạ, cho tới khi họ chán chê trải nghiệm đó và kêu gào cầu mong được hơn như vậy. Khi những cú giáng của trường đời đủ cay đắng, họ sẽ không tránh khỏi cầu mong như thế.

Con yêu dấu, con có thấy được sự mâu thuẫn giữa động lực nguyên thủy của con, thuần khiết và dựa trên tình thương đã khiến con đến trái đất, với động lực và quan điểm mà con hiện có trong tâm ý thức và ba thể cao hơn của con? Con có thấy điều thày đang chỉ ra cho con, là khi nào còn có mâu thuẫn giữa hai cái đó thì con sẽ không thể tìm thấy an bình nội tâm trên hành tinh này?

Con không thể an bình với việc con hiện thân trên địa cầu nếu con còn nghĩ con ở đây là để đem lại những thay đổi cụ thể lệ thuộc vào sự chọn lựa tự quyết của người khác. Con phải đạt tới điểm con nhận ra là việc con phụng sự đời sống không tùy thuộc vào bất kỳ điều kiện nào hay bất kỳ người nào ngoài chính con.

Tại khóa nhập thất, khi thày trò ngồi họp nhóm thảo luận về đề tài này, các đệ tử thường phản ứng và nói: “Nhưng làm thế nào chúng con phụng sự đây? Chúng con không thấy được làm thế nào chúng con có thể phụng sự.” Các thày đã nói gì về mục đích của đường tu tự điều ngự chứ? Đó là để trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng đến từ Hiện diện TA LÀ và đoàn chưởng giáo chân sư thăng thiên ở trên con.

14.4. Sa nhân sợ ánh sáng của con

Sa nhân cực kỳ muốn con tin là con không được phép biểu hiện ánh sáng đó ở đây trên địa cầu, con không thể biểu hiện ánh sáng đó, và con không thể biểu hiện ánh sáng cho tới khi một số điều kiện được hội đủ trong hoàn cảnh vỏ ngoài của con. Chúng có rất nhiều tầng lớp lừa dối nhằm cản trở con thực hiện đúng một điều mà con đã đến đây để thực hiện – đó là làm cánh cửa mở cho ánh sáng.

Ở mức thấp nhất, chúng không muốn con biết ngay cả sự kiện con có chọn lựa đó. Cao hơn, chúng muốn con nghĩ là điều đó vi phạm quyền tự quyết của người khác, đặc biệt là chính bọn chúng, nếu con biểu hiện ánh sáng. Nếu người ta muốn sống trong bóng tối, người ta phải được phép làm vậy và con không có quyền đến đây mà tỏ lộ ánh sáng của con.

Con yêu dấu, con có thấy là con quyền đó chính vì con đã hiện thân trong cõi vật lý. Quyền tự quyết của con đã trở thành một phần của phương trình địa cầu. Thày có nói trong một bài giảng trước là quyền tự quyết cá nhân của con không thể hủy bỏ quyền tự quyết của bảy tỷ người kia trên hành tinh. Điều đó đúng, nhưng ngược lại cũng đúng. Quyền tự quyết của bảy tỷ người trên hành tinh không thể hủy bỏ quyền tự quyết cá nhân của con.

Con có quyền hiện thân. Con có quyền là con người của con và làm cánh cửa mở cho ánh sáng từ đoàn chưởng giáo bên trên con. Đây là quyền mà Thượng đế đã ban cho con. Sa nhân có quyền phủ nhận ánh sáng trong bản thân chúng và phủ nhận ánh sáng trong con. Nhưng chúng không có quyền đòi hỏi con phải tắt ánh sáng con đi. Đúng hơn, chúng có quyền đòi hỏi nhưng con không có bổn phận phải làm theo đòi hỏi của chúng.

Ở một tầng lớp lừa dối cao hơn nữa, chúng muốn con nghĩ là con không thể biểu hiện ánh sáng cho tới khi một số điều kiện nào đó hội đủ – như người khác cần phải sẵn sàng tiếp nhận, hay con phải có đủ một số hoàn cảnh vỏ ngoài, có đủ tài chánh, có một nơi để ở, có một môi trường yên tĩnh, điều kiện này hay điều kiện nọ.

Trong các bài giảng trước, thày đã dẫn con qua một tiến trình nơi con nhìn ra là không có một điều kiện bên ngoài nào có thể ngăn cản con tự thăng vượt và do đó biểu hiện ngày càng nhiều ánh sáng hơn. Sa nhân cũng muốn con nghĩ là con không thể biểu hiện ánh sáng của mình do một số điều kiện nội tâm.

14.5. Chủ nghĩa toàn hảo là một phát minh của sa nhân

Các thày có đề cập đến sự kiện khi con đến địa cầu lúc ban đầu, con đã trải nghiệm một chấn thương nhập đời khi sa nhân – một cách hung bạo – đã gạt bỏ con, gạt bỏ cá thể và ánh sáng của con. Chúng đã khiến con cảm nhận theo nhiều cách là con không được biểu hiện ánh sáng đó, rằng con bị chối bỏ, rằng con không đủ tiêu chuẩn và phải toàn hảo thì mới biểu hiện được ánh sáng.

Chủ nghĩa toàn hảo là một phát minh của sa nhân. Chúng đã lấy tâm đường thẳng và làm một chuyện với tâm đường thẳng mà con phải vô cùng thận trọng. Con thấy đó, tâm đường thẳng gọi là đường thẳng vì nó luôn luôn vận hành theo cấp số. Một ví dụ điển hình là những con số mà con đếm từ 1, 2, 3, 4, vân vân. Luôn luôn có một tiến trình cấp số, luôn luôn có một cái thang, và tâm đường thẳng muốn nhét, muốn sắp xếp mọi thứ trên một cái thang như vậy. Có những khi con có thể đưa tâm đường thẳng tới cùng cực hầu làm lộ ra những hạn chế của nó. Điều mà sa nhân đã làm là đưa tâm đường thẳng tới cùng cực và bảo rằng Thượng đế phải là sinh thể cao nhất có thể tưởng tượng được, có nghĩa là Thượng đế ở trong một trạng thái mà chúng gọi là sự toàn hảo, một trạng thái nơi không có gì thay đổi.

Tất nhiên, tâm đường thẳng luôn luôn nhìn vào sự thay đổi. Luôn luôn có một tiến trình cấp số, không chỉ trong số lượng mà cả trong thời gian. Thời gian là con đẻ của tâm đường thẳng khi nó luôn luôn tiến hành từ thời điểm này đến thời điểm sau. Con đưa tiến trình cấp số này tới sự cùng cực tối hậu của nó và con nói: “À, chắc chắn phải có cái không bao giờ thay đổi, và khi một cái gì thay đổi từ ít sang nhiều, thì điều đó chứng tỏ cái ít là bất toàn. Do đó, phải tới một điểm khi người ta đạt trạng thái tối hậu của cái nhiều nơi mọi thứ đều toàn hảo.”

Điều này, tất nhiên, là một lời dối. Thượng đế không toàn hảo theo nghĩa Thượng đế không thay đổi, bởi vì Đấng Sáng tạo không ngừng tăng triển. Đó chính là lý do tại sao Đấng Sáng tạo đã tạo ra con, tạo ra thày và tất cả chúng ta. Không hề có một trạng thái không thay đổi nào trong bất kỳ thế giới nào có hình tướng. Nếu con muốn cái không thay đổi, con sẽ cần vượt khỏi mọi thế giới hình tướng, và điều này thì sa nhân không thể hiểu nổi. Vì vậy chúng đã tạo dựng ý tưởng toàn hảo để mà thay thế.

Khi con đến đây và biểu hiện ánh sáng của con, và khi chúng cảm thấy bị đe dọa, chúng nói: “Ở đây trên trái đất, chúng tôi đã quy định một tiêu chuẩn cho cách bạn phải cư xử. Cách bạn biểu hiện ánh sáng không hội đủ tiêu chuẩn của chúng tôi, cho nên bạn không được biểu hiện ánh sáng của bạn ở đây.” Tất nhiên, chúng không nói ánh sáng của con có vấn đề gì mà chính con mới là vấn đề. Chính con đã không hội đủ một tiêu chuẩn nào đó. Điều này đã khiến cho nhiều người tâm linh và người sùng đạo tự đặt mình trên một đường tu tập mà họ nghĩ sẽ dẫn họ tới trạng thái toàn hảo nói trên. Nhiều người tâm linh đã sử dụng giáo lý tâm linh cùng dụng cụ tâm linh đế nỗ lực trở thành toàn hảo – để biến ngã vỏ ngoài của mình thành toàn hảo hầu thỏa mãn tiêu chuẩn của thế gian. Thế là ý tưởng đã được nhét vào tâm con rằng khi nào con trở thành “toàn hảo”, thì chúng sẽ chấp nhận ánh sáng của con.

Có hai lời gian dối ở đây – thật ra có nhiều hơn – nhưng hai lời gian dối chủ yếu là thứ nhất, con sẽ không bao giờ toàn hảo được vì không hề có trạng thái toàn hảo. Và thứ hai, sa nhân sẽ không bao giờ chấp nhận ánh sáng cho dù ánh sáng được biểu hiện cách nào. Và thêm vào đó, tất nhiên, còn có lời gian dối rằng ánh sáng của con cần được chấp nhận để nó có thể thực hiện công việc của nó.

14.6. Ánh sáng luôn luôn làm công việc của nó

Con yếu dấu, con có thấy điều thày vừa nói về nguyên nhân của thay đổi? Đó là khi ánh sáng gia tăng khiến người ta thấy được nhiều hơn. Một lần nữa, con thử hình dung một hang động tối tăm. Đây có thể là một cái động với trần cao, và trên sàn có nhiều buồng riêng biệt khác nhau, gần giống như quang cảnh văn phòng ngăn ra thành nhiều buồng vuông nhỏ để người ta ngồi trong đó làm việc trước máy tính. Con biết là trong một văn phòng như vậy, nếu con gia tăng ánh sáng bằng cách đặt một chiếc đèn trong một buồng thì mọi người không thể thấy được chiếc đèn đó, nhưng độ ánh sáng trong nguyên văn phòng vẫn gia tăng và ai nấy nhìn thấy được nhiều hơn trước.

Điều thày muốn nói ở đây là như sau: Để việc phụng sự của con thành công, người ta không cần thấy được là con đang biểu hiện ánh sáng, họ không cần chấp nhận bản thân con hay ánh sáng của con, họ không cần nhìn nhận và công nhận chuyện đó. Con chỉ cần biểu hiện ánh sáng của con và để yên cho ánh sáng làm công việc của nó.

Thày đang tìm cách dẫn con đến mức nhận ra trong tâm ý thức một điều mà thày cố trao cho con trong khóa nhập thất này, đó là sự thành công của việc phụng sự không tùy thuộc vào phản ứng của người khác. Khi nào con còn nghĩ là nó tùy thuộc vào phản ứng của người khác, con sẽ không thể bình an. Và sau đây mới là vấn đề khó xử, tiến thoái lưỡng nan.

Nếu con không bình an với việc mình hiện thân trên địa cầu, con sẽ không thể là cánh cửa mở cho Ánh sáng trong khi con hiện thân trên địa cầu. Chuyện đó không thể!

Con phải bình an để phụng sự. Và để bình an, con phải tách rời ý tưởng phụng sự khỏi mong muốn tạo ra những kết quả cụ thể hay được người khác nhìn nhận, công nhận và chứng nhận. Điều này dẫn thày đến một đề tài khá tinh tế.

14.7. Cuộc tìm kiếm vô vọng một lòng tự tin dựa trên sợ hãi

Con cũng biết, nếu con để ý các điều kiện trên địa cầu, là trong những thập niên gần đây, nhiều nhóm người đã được công chúng biết đến và công nhận nhiều hơn. Con biết đến nhiều nhóm thiểu số trước kia vẫn từng bị xã hội coi như ruồng bỏ. Giờ đây họ đã đứng dậy và đòi hỏi quyền lợi của mình, họ đã nhận được nhiều sự chú ý đến độ họ được công nhận và đón nhận rộng rãi hơn trước.

Nếu con nhìn vào tâm lý những người như vậy, con cũng biết là khi con cảm thấy mình là một nhóm thiểu số, một thiểu số bị chà đạp và ruồng bỏ, con có thể mang một lòng tự tin yếu kém, một cảm nhận thấp về giá tri bản thân. Khi ban đầu con đến hành tinh này, con đã đến với một cảm nhận lành mạnh, dựa trên tình thương, về giá trị của mình. Rồi khi con bị sa nhân gạt bỏ tàn nhẫn, con đã đánh mất niềm tự trọng đó, ít ra là một phần. Lần hồi con cảm thấy mình là người bị ruồng bỏ, một người không được chấp nhận và không thể được chấp nhận.

Con bị đặt vào một tình trạng tiến thoái lưỡng nan, một trong những ốc xoáy hướng hạ tự tăng cường mà sa nhân tạo ra rất thiện nghệ. Khi con đánh mất lòng tự tin và tự trọng, con cảm thấy như mình thiếu sót. Con bước vào một tâm trạng dựa trên sợ hãi. Bản chất của tâm trạng dựa trên sợ hãi là con cảm thấy thiếu hụt, cho nên con nẩy sinh một mong muốn bù đắp, lấp đầy sự thiếu hụt. Nhưng không có cách gì để lấp đầy sự thiếu hụt của một tâm trạng sợ hãi. Đó là một cái lỗ đen không bao giờ có thể lấp đầy.

Cảm giác thiếu hụt cũng cho con lòng khao khát muốn tìm lại cảm nhận trước kia về giá trị bản thân. Tiếc thay, giờ đây con cũng đã tin vào lời dối của sa nhân bảo rằng con phải thực hiện chuyện đó bằng cách tranh thủ sự công nhận và chấp nhận trong thế gian – hay đúng hơn, sự công nhận và chấp nhận của chúng. Con có thấy chuyện bất khả thi ở đây hay chăng? Chính sa nhân đã phá hoại phẩm giá của con khi chúng gạt bỏ con, thì bây giờ con lại bị mắc kẹt trong vòng xoáy phải tìm cầu sự chấp nhận của chúng. Chính chúng đã tạo ra sự thiếu hụt phẩm giá trong con. Xác suất sẽ là bao nhiêu để chúng lấp đầy sự thiếu hụt đó?

Như con vẫn biết, chúng sẽ chỉ tiếp tục nuôi lớn vòng xoáy đó bằng cách dời cột mốc ngày càng xa hơn để con không bao giờ chạm tới được. Đó chính là toàn bộ mục đích của ý tưởng toàn hảo. Ai có thể định nghĩa được toàn hảo chứ? Phải, ngay bây giờ con có thể định nghĩa toàn hảo một cách nào đó, nhưng một khi con đạt đến mức đó, con sẽ nhận thấy lòng tự trọng của con vẫn chưa phục hồi. Kết luận là gì? Là với tâm đường thẳng, con luôn luôn có thể định nghĩa một mức cao hơn. Con có thể đếm nhiều tới đâu? Nguyên chuỗi số đó có ngừng lại ở một số nào chăng? Đúng vậy, các nhà khoa học cũng không biết nữa.

Đến bao giờ con mới có thể toàn hảo dưới mắt sa nhân? Không bao giờ, con yêu dấu. Bao lâu nữa con sẽ muốn đuổi bắt cái củ cà-rốt này, được treo lủng lẳng trước mũi con lừa đang kéo chiếc xe với bọn sa nhân ngồi cười hả hê trên xe? Con hãy ngừng làm con lừa kéo xe cho sa nhân, và thay vào đó, con hãy là cánh cửa mở cho ánh sáng của các chân sư thăng thiên!

14.8. Bước trên đường tu với động lực xuất phát từ tự ngã

Đâu là sự xoay đổi mà con cần làm? Đó là nhận ra là khi con tìm thấy con đường tâm linh, con không tức thì loại bỏ được tự ngã. Sẽ có một giai đoạn trên đường tu khi một phần động lực của con, một phần ý định của con để bước trên đường tu là do tự ngã cung cấp. Tự ngã muốn một cái gì đó.

Lý tưởng nhất cho tự ngã là nó muốn chặn đứng không cho con bước chân trên con đường tự điều ngự. Khi nó không thành công – vì thật sự nó không thể ngăn cản con khi con đang đọc quyển sách này – thì nó sẽ muốn có được cái gì đó từ việc con bước trên đường tu. Khi con nhìn rất nhiều người tâm linh, nhìn nhiều phong trào và đạo sư tâm linh một cách trung thực, con sẽ thấy một xu hướng rõ rệt.

Như thày đã nói, đa số những người tâm linh ngày nay đều đã đến địa cầu với một mục đích tích cực muốn đem lại ánh sáng của mình và đóng góp đáng kể. Khi họ bị chối bỏ một cách tàn bạo, họ đánh mất cảm nhận về giá trị bản thân và dần dần cảm thấy mình bị ruồng bỏ. Khi họ tìm ra một phong trào tâm linh, họ cảm thấy đây là một cơ hội để tìm lại lòng tự trọng của mình.

Nhiều người tâm linh – ngày nay là thành viên của các phong trào tâm linh, kể cả các phong trào của chân sư thăng thiên – đã cảm thấy như mình bị ruồng bỏ khi mình lớn lên trong một xã hội thường khi là phản tâm linh. Rồi khi con khám phá ra một vị đạo sư hay giáo lý tâm linh, bỗng nhiên tự ngã của con được dịp sử dụng sự kiện này để tạo dựng cảm nhận là cho dù con khác hẳn mọi người khác, điều đó không có nghĩa là con thấp kém hơn họ. Thật ra, sự kiện con khác họ có nghĩa là con cao hơn họ vì con có nhận thức tâm linh cao hơn. Đó là tại sao con đã nhận diện được giáo lý này trong khi hầu hết người khác đều không nhận ra.

Thày không đang bảo là con không có mức nhận thức cao hơn đa số người khác trên địa cầu. Nhưng con chẳng thấy hay sao, thật là không xây dựng nếu con cho phép tự ngã thúc đẩy con sử dụng giáo lý tâm linh để củng cố cho khát vọng của tự ngã trở thành đặc biệt, tốt đẹp hơn người khác? Như các thày có nhắc nhở nhiều lần, tự ngã là một khả năng tương đối, có nghĩa là nó so sánh mọi thứ với những thứ khác. Tất nhiên, nó chỉ có thể so sánh với những gì nó có thể nhìn thấy, và tự ngã chỉ nhìn thấy được những gì nằm trong nhị nguyên. Nhị nguyên dựa trên xét đoán giá trị: cái này tốt hơn cái kia tồi hơn. Tự ngã sẽ luôn luôn tìm cách chèn vào niềm tin rằng những người đặc biệt – họ đặc biệt vì họ là thành viên của tổ chức tâm linh này và nhận diện được giáo lý của vị đạo sư giác ngộ đặc biệt nọ – tốt đẹp hơn người khác trên địa cầu.

Con yêu dấu, một lần nữa, thày không chê trách con gì hết. Thật con không thể lớn lên trên hành tinh địa cầu như hiện nay mà không bị ảnh hưởng bởi khuôn nếp này. Gần như không có đệ tử nào đến dự khóa nhập thất của thày mà không có khuôn nếp này trong ba thể cao của mình và thường khi trong cả tâm ý thức nữa. Thày không ở đây để trách móc con, thày không ở đây để khiến con xấu hổ. Thày ở đây để giúp con thăng vượt chính cái khuôn nếp đang lấy mất sự bình an của con.

Nhưng con nhìn nhận một cách ý thức, phải không con, rằng con muốn an bình và con muốn thành công trong nỗ lực phụng sự trên hành tinh này? Con muốn phụng sự trong an bình, và con muốn sự an bình đến từ cái biết là mình phụng sự thành công. Một khi con nhìn nhận đây là điều con muốn, thì con không cần cưỡng lại việc thày phơi bày ra khuôn nếp trong tâm đang ngăn cản con có được điều con muốn. Mong muốn sử dụng giáo lý tâm linh để tự đặt mình cao hơn người khác sẽ lấy mất sự an bình nội tâm của con.

Thày cũng biết đối với một số người, điều này sẽ cho họ một cảm giác an bình bề mặt. Nếu con nhìn nhiều phong trào tâm linh trên trái đất, con sẽ thấy họ đi theo cùng một khuôn nếp như vậy. Họ có một giáo lý tâm linh, họ có một vị đạo sư tâm linh, dù là còn sinh hoạt hay đã khuất. Họ xem vị đó như thần tượng và biến vị đó thành một vị có vẻ vô cùng đặc biệt. Đạo sư càng đặc biệt bao nhiêu thì chính họ cũng trở nên đặc biệt bấy nhiêu do họ đi theo vị ấy. Vì dù sao, tuyệt đại đa số con người trên hành tinh đã không nhận ra đạo sư đó, y như con người đã không nhận ra Giê-su hay đức Phật khi hai thày còn ở trong thế gian. Sự kiện con nhận diện được đạo sư phải có nghĩa là chính con cũng rất đặc biệt. Và những người đặc biệt như con càng hiếm hoi thì con sẽ càng đặc biệt hơn nữa so với những ai không nhận ra đạo sư của con.   

Có những người ngồi quanh quẩn, và họ tạo ra một vòng xoáy tự tăng cường khi họ chứng thực lẫn nhau rằng mình là những người thật đặc biệt. Thậm chí họ còn đạt tới một cảm giác an bình bề nổi do mình quá đặc biệt, do mình đã hành xử đúng y như mình cần hành xử bằng cách tự cô lập trong tháp ngà này. Đấy, nếu con đã bị hoàn toàn mắc kẹt trong một vòng xoáy như thế thì con đã không đang đọc bài giảng này. Sự kiện con đang đọc có nghĩa là con đã bắt đầu thoát khỏi nó. Để con thoát ra khỏi hoàn toàn, việc còn lại là con hãy nhìn ra cơ chế đó trong ý thức, và ý thức để cho nó ra đi.

14.9. Con đặc biệt và độc đáo

Con yêu dấu, bây giờ thày nói chuyện riêng với mỗi con đây. Con đặc biệt, con độc đáo. Nhưng sự độc đáo của con không neo trụ nơi bốn thể phàm của con. Sự độc đáo của con được neo trụ nơi Hiện diện TA LÀ và căn thể của con, và nơi cái Ta Biết là phần nối dài của Hiện diện.

Điều con đã cố làm ở dưới này trên địa cầu là xây đắp một cái ngã vỏ ngoài đặc biệt so với người khác. Chuyện này sẽ không bao giở lấp đầy khát vọng tìm lại giá trị bản thân. Con sẽ không bao giờ cảm thấy bình an khi nào con còn tự so sánh với bất cứ gì trong cõi phàm, trong bầu cõi chưa thăng thiên. Cách duy nhất để con tìm lại cảm nhận giá trị bản thân – để con cảm thấy an bình với con người của con, an bình với cách mình biểu hiện con người của mình trên địa cầu – là nối kết lại với sự kiện là sự đặc biệt của con do cá thể mà Thượng đế đã ban cho con, chứ không do cá tính mà con đã xây đắp qua phản ứng đối với các điều kiện do sa nhân tạo ra.

Tại sao con cần tranh thủ sự công nhận của sa nhân hay của người khác khi con đã có sự công nhận của Đấng Sáng tạo ra con cũng như của các chân sư thăng thiên? Con có thể nói như nhiều đệ tử khác tại nhập thất của thày: “Nhưng đó là vì con có thể cảm thấy trong tâm ý thức sự công nhận của người khác, nhưng con không thể cảm thấy sự công nhận từ các thày và từ Thượng đế.” Điều đó cũng đúng, nhưng chỉ đúng vì con chưa làm cuộc xoay chuyển trong tâm ý thức để cho phép con cảm được sự công nhận của các thày. Sự công nhận và chứng thực của các thày về con, tình thương của các thày cho con, không bao giờ ngừng xối xuống như nước mưa từ trời.

Làm thế nào con trở thành một chân sư thăng thiên? Bằng cách trở thành cánh cửa mở cho tình thương chảy xuyên qua con từ một mức cao hơn nữa xuống mức thấp hơn. TA LÀ Thượng sư của Tia thứ Tư. Thày không chế tạo ra ánh sáng của Tia thứ Tư, mà thày nối kết với nguồn cội của ánh sáng đó ngược trở lên cho tới Đấng Sáng tạo. Thày đứng trong dòng chảy đó, thày là cánh cửa mở cho dòng chảy đó. Thày có thể dẫn hướng, nhưng niềm vui của thày là để cho nó chảy xuyên qua thày. Thày không ngừng để ánh sáng chảy xuyên qua thày hầu trải nghiệm niềm vui tột cùng.

Tại sao thày lại muốn hạn chế niềm vui của thày bằng cách kềm giữ ánh sáng khỏi con? Thày không là kẻ đang hạn chế ánh sáng chảy xuống con. Con mới là kẻ không nhận ra ánh sáng vì con mang một số giới hạn trong tâm khiến con nghĩ con không xứng đáng với ánh sáng hay con không có khả năng nhận được ánh sáng. Đó mới chính là điều mà thày muốn giúp con thay đổi ở tầng thứ sáu trong khóa nhập thất của thày.

Mục đích của thày là giúp con biết được ở mức bản sắc thể là con độc đáo. Con không độc đáo so với người khác, vì nơi cõi thăng thiên mọi so sánh đều vô nghĩa, đều không không hiện thực. Con độc đáo một cách không thể so sánh. Mối quan tâm là con tốt hơn hay tệ hơn bất cứ ai khác hoàn toàn lỗi thời và không can hệ. Khi con biết được điều này trong thể bản sắc, con sẽ có thể lần hồi đem nó xuống trí thể và cảm thể, rồi xuống đến tâm ý thức của con. Nếu con muốn, con có thể xoay chuyển và, trong một giây, trải nghiệm được tình thương của thày.

Sau khi con đọc xong bài thỉnh kèm theo chương này, có lẽ con hãy ngồi im lặng một lúc, con chỉ hòa điệu với Hiện diện của thày và mở ra để nhận lấy tình thương của thày. Nếu con có thể trải nghiệm điều này một cách ý thức, nó có thể đem lại một sự xoay chuyển. Con sẽ có khả năng chấp nhận là mình độc đáo, là mình đặc biệt. Con đã xứng đáng trong cách mà Thượng đế đã tạo ra con. Con không cần phải độc đáo, đặc biệt hay xứng đáng so với bất cứ gì trên địa cầu, bất cứ tiêu chuẩn nào của địa cầu. Con không cần tốt đẹp hơn người khác và do đó con không cần hạ thấp người khác.

Con chẳng thấy hay sao, con yêu dấu, là trong những cộng đồng mà thày đang nói tới (nơi họ ngồi quanh và xác nhận lẫn nhau là mình thật đặc biệt), thật ra họ có một thái độ cực kỳ phán xét. Bất cứ ai không hội đủ những điều kiện được quy định trong cộng đồng của họ sẽ tự động bị đánh giá và ruồng bỏ. Con không thể thuộc vào công đồng đó trừ khi con sẵn sàng xác chứng cho mọi thành viên khác là họ đặc biệt. Nếu con chất vấn, con sẽ bị loại trừ và tống ra ngoài. Đó là một thái độ dựa trên sợ hãi, và thày mong muốn thấy con tìm được một niềm tự trọng dựa trên tình thương, và niềm tự trọng này đã nằm sẵn ở đó rồi. Không phải là chuyện phát triển, trau dồi hay thu hoạch, mà là chuyện mở tâm con ra để trải nghiệm và chấp nhận nó. Con chấp nhận đó chính là con người mà con là. Và con có giá trị.

Làm thế nào con có thể an bình trên địa cầu nếu con không biết là mình có giá trị, và giá trị này đến từ một nguồn vượt trên tất cả mọi thứ trên địa cầu? Thày không muốn con sống phần đời còn lại trong một trạng thái thiếu an bình, rồi ngay trước khi con rời khỏi tấm màn đời này, con có một giây phút minh mẫn và ngộ ra là mình chỉ cần làm một cuộc xoay chuyển đơn giản thì mình đã có thể sống trọn đời trong an bình. Thày không mong muốn con làm cuộc xoay chuyển đó vào giờ phút cuối đời.

Thày mong muốn con xoay chuyển ngay bây giờ hầu con sống phần đời còn lại trong an bình, biết rõ rằng mình đang làm công việc phụng sự cao đẹp nhất mà con có thể bằng cách con là chính mình, con là cánh cửa mở cho ánh sáng mà con là.

TA LÀ một cánh cửa mở cho Ánh sáng mà TA LÀ. Con có cảm được ánh sáng của thày? Đó là cùng ánh sáng đang ngụ trong con.

Serapis Bey TA LÀ.

Nhìn ra cơ hội tự thăng vượt 

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 6/1/2016.

Thày là chân sư thăng thiên Serapis Bey. Giờ đây chúng ta đã vượt qua một khúc ngoặt quan trọng trong đường hướng quyển sách này cũng như khóa tu mà con đang theo học với thày là Thượng sư của Tia sáng thứ Tư. Như thày đã nói trong bài giảng trước, con đã đạt tới điểm chấp nhận thày nhiều hơn như là một vị hỗ trợ cho con. Con đang sử dụng động lực nội tâm riêng của con để bước chân trên đường tu. Thày không cần đưa ra điều gì để con đáp ứng hay phản ứng lại. Các thày cần theo động lực của con, và thày chỉ đơn giản tạo điều kiện cho con tự mình khám phá những gì sẽ nâng con lên cao hơn trên đường tu.

Bây giờ chúng ta đã đến tầng mức nơi con đối mặt với sự phối hợp giữa Tia thứ Tư của Thuần khiết với Tia thứ Năm, thường được gọi là tia của viễn quan hay tia chữa lành. Lẽ tự nhiên, hai cách gọi này có liên hệ với nhau. Tại sao con cần được chữa lành? Vì con không toàn vẹn. Tại sao con không toàn vẹn? Phải, vì con có một viễn quan méo mó hay hạn chế, con không có một viễn quan toàn vẹn. Hiển nhiên, việc làm sạch viễn quan là chìa khóa để chữa lành vì đó là chìa khóa để tăng triển. Tia thứ Năm, tất nhiên, cũng là tia của sự thị hiện, sự biến hóa thành vật chất, khi con sử dụng viễn quan của mình để tạo ra thay đổi trong thế giới vật chất.

Khi con đến được mức này và con mong muốn làm sạch viễn quan, thày sẽ dẫn con đi qua một loạt bước cụ thể trong các thể thanh cao hơn của con. Điều thày sẽ làm trong bài giảng này là đưa con qua một loạt bước trong tâm ý thức để giúp con hòa điệu vào bên trong, và con cũng vượt qua khai ngộ tại khóa nhập thất của thày. Như vậy con có thể vượt qua khai ngộ một cách ý thức và neo chặt bài học trong tâm ý thức cũng như trong ba thể cao hơn.

12.1. Sa nhân bóp méo viễn quan như thế nào

Điều đầu tiên thày muốn trình bày cho con là khái niệm về cách sa nhân đã và đang sử dụng viễn kiến. Dĩ nhiên, con sẽ thấy là trong thế giới có một số ý tưởng nhắm vào việc giới hạn viễn quan của con người, bóp méo hay hướng dẫn viễn quan đó theo một đường rày nhất định, vào một ngõ cụt như chúng ta có thể nói. Thày đã có giảng là có những ý tưởng được gài sẵn một cái móc năng lượng, nhưng thường khi những ý tưởng này hình thành một phin lọc. Nếu con muốn một minh họa, con có thể hình dung trước mắt con một dụng cụ giống như cái kính vạn hoa.

Con biết là kính vạn hoa có nhiều mảnh kính bên trong với những hạt thủy tinh. Ánh sáng rọi vào sẽ khoác màu sắc của thủy tinh, và khi hạt thủy tinh thay đổi vị trí, nhiều mẫu hình khác nhau được hình thành. Những ý tưởng do sa nhân tạo ra cũng tương tự như những mảnh kính trong kính vạn hoa bóp méo cái nhìn của con.  

Con cũng biết là bình thường con không thể nhìn xuyên qua kính vạn hoa, con không thể nhìn thấy bất cứ gì ở đầu bên kia. Điều thày mong muốn con nhận ra ở đây là ba thể cao hơn của con – bản sắc thể, trí thể, cảm thể – hình thành một loại kính vạn hoa.

Kính vạn hoa khác biệt thế nào so với ống nhòm? Nếu kính vạn hoa hoàn toàn không còn mẫu hình nào do kính màu tạo ra, thì con sẽ thấy rõ thế giới vật chất ra sao. Nhưng vì con có một số mẫu hình đủ màu trong ba thể cao, tầm nhìn của con bị hạn chế và bóp méo – nó bị tô màu bởi những ý tưởng mà con cầm giữ. Sa nhân vô cùng năng nổ và hung hãn khi chúng đề xướng các ý tưởng này; chúng không ngừng tìm đủ mọi cách để khiến cho mọi người tin vào đó. Điều thày muốn lưu ý con ở đây là công việc của sa nhân dễ dàng hơn con tưởng rất nhiều.

Nếu sa nhân có thể đưa con đi quá một cái gò nhất định thì chúng sẽ không phải lo lắng gì về con nữa. Khi đó, tâm con sẽ biến thành một vòng tròn khép kín, một xoắn ốc gây giới hạn cứ tự nó lớn mãi, một vòng xoáy hướng hạ. Sa nhân sẽ không cần giới hạn viễn kiến của con nữa, vì một khi chúng đã đưa con quá cái gò đó thì chính con sẽ tự hạn chế viễn kiến của con.

12.2. Mục đích việc mở rộng ý niệm bản ngã 

Chuyện đó xảy ra như thế nào? Để thày giải thích cho con một khía cạnh trong cách vận hành của vũ trụ vật chất. Con hiểu con là một đốm lửa tánh linh, là một sinh thể tâm linh. Các thày có giảng là cái đi xuống thể xác vật lý như phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, là cái Ta Biết. Các thày cũng có nói đó là sự nhận biết thuần khiết, nghĩa là tự thân nó không chứa đựng bất kỳ giới hạn cố hữu nào. Con có thể khoác lấy bất kỳ vai trò nào mà con muốn trong vũ trụ vật chất, nhưng con cũng có thể thoát ra khỏi vai trò đó vì cái Ta Biết không bị vai trò biến đổi. Điều này được minh họa qua hình ảnh kính vạn hoa-ống nhòm. Cái Ta Biết không bị những tấm kính màu trong kính vạn hóa biến đổi. Cái nhìn của nó thay đổi nhưng cái Ta Biết thì tự nó không thay đổi. Do đó, con có thể gỡ mấy tấm kính đó ra và khiến cho cái nhìn của con được rõ ràng, tinh khiết bất cứ lúc nào.

Mục đích của vũ trụ vật chất là Tánh linh – mà con có thể gọi là Thượng đế hay Đấng Sáng tạo nếu con thích, hay con cũng có thể gọi là một sinh thể thăng thiên nơi cõi thăng thiên – nhìn vào bầu cõi chưa thăng thiên này và gửi xuống đó một phần nối dài của mình. Mục đích là để cho phần nối dài đó khởi sự với một ý niệm bản ngã vô cùng hạn hẹp, vô cùng cục bộ. Rồi qua tương tác với thế giới vật chất, phần nối dài đó sẽ mở rộng ý niệm bản ngã cho đến khi nó đạt tới điểm nó có thể thăng lên khỏi bầu cõi chưa thăng thiên và trở thành một chân sư thăng thiên.

Từ điểm đó, con có thể tiếp tục vươn lên những mức tâm thức cao hơn nữa, xuyên qua các bầu cõi thăng thiên trước đây để lên tới tận tâm thức của Đấng Sáng tạo. Khi con đạt đến tâm thức Đấng Sáng tạo, bấy giờ con sẽ có cùng khả năng nhận biết như Đấng Sáng tạo của con, ở cùng mức nhận biết và sáng tạo. Vì con đã không được sinh tạo ở mức này mà đã kinh qua toàn bộ tiến trình tăng trưởng tuần tự đó, con đem theo một kinh nghiệm lớn hơn hẳn, một nhận biết lớn hơn hẳn về cách biểu đạt sự sáng tạo của mình. Điều này có nghĩa là con được trang bị đầy đủ hơn rất nhiều để tạo dựng thế giới của con so với khi con chưa kinh qua tiến trình đó.

Nếu con đã được sinh tạo như một tờ giấy trắng, thì con đã phải thử nghiệm các khả năng sáng tạo của mình và đã có thể lầm lỗi. Điều minh triết ở đây là vì con đã khởi sự với khả năng sáng tạo hạn hẹp hơn hẳn so với Đấng Sáng tạo, cho nên các lỗi lầm của con cũng giới hạn và dễ khắc phục hơn. Khi thày nói “lỗi lầm”, tất nhiên thày đang dùng một từ mà con quen thuộc. Nhìn từ tâm thức thăng thiên, các thày không xem đó là lỗi lầm mà chỉ là những thử nghiệm đã không biểu đạt được trọn vẹn sinh thể mà con là. Điều này tất nhiên cũng áp dụng cho con trong thế giới vật chất. Đó là tại sao các thày không lên án con, và ý niệm xấu hổ và kết tội là do sa nhân đẻ ra.

12.3. Căn bản cho một tầm nhìn giới hạn

Khi con lần đầu tiên đi xuống như một sinh thể tân lập trong một bầu cõi chưa thăng thiên, con có một ý niệm bản ngã vô cùng cục bộ. Ở điểm này, như câu thành ngữ quen thuộc, con chỉ có một hướng đi mà thôi: “Con đường duy nhất là đi lên”. Khi con có được thêm kinh nghiệm trong bầu cõi chưa thăng thiên, con lần hồi mở rộng ý niệm bản ngã. Như thày Maitreya có giải thích trong sách, sẽ tới một điểm khi con không còn cần đi theo vị thày đang trợ giúp con mở rộng ý niệm bản ngã. Sẽ tới điểm con cần trở thành tự lực, nghĩa là con cần tự mình thử nghiệm thay vì chỉ làm những gì vị thày bảo con làm.

Hiển nhiên, chính ở điểm này con phải đối diện với cuộc khai ngộ được tượng trưng bởi tâm thức nhị nguyên. Đây là khai ngộ nơi thay vì con xem mình là phần nối dài của đoàn chưởng giáo bên trên con như thày đã có trình bày trong những bài giảng trước, giờ đây con xem mình là một sinh thể cá nhân, riêng rẽ, tách biệt. Con nghĩ con đang tạo dựng quyền lực riêng của mình, trải nghiệm riêng của minh. Ai ai cũng phải đối phó với trạng thái tâm thức này ở một mức độ nào đó.

Điều này không có nghĩa là con phải bước vào đó rồi ở lại và bị lạc lối trong đó. Nhưng tất nhiên có thể một số người sẽ chọn làm như vậy. Điều này tự nó không có gì sai trái, vì đó chỉ là thêm một trải nghiệm mà thôi. Điều có thể xảy ra ở điểm này là con hình thành một ý muốn bước vào một trạng thái quên mất mình là ai, để mà từ đó lại tăng triển trở lại và nhận biết cao hơn mình là ai. Một lần nữa, chuyện này không sai trái mà chỉ là thêm một trải nghiệm mà con có thể có trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Đây là điểm nơi con có thể đánh mất mối liên lạc ý thức với vị thày tâm linh của con, và như vậy con cũng đánh mất sự nhận biết ý thức, ý niệm bản sắc, rằng mình là một sinh thể nối kết, một thành phần của một cái gì lớn hơn bản thân mình.

Làm thế nào con có trải nghiệm đó? Như thày đã nói, con khởi đầu với một ý niệm nhận biết, một ý niệm bản ngã rất hạn hẹp, cục bộ. Con nhận biết con là thành phần của một cái gì lớn hơn, con nối kết với một cái gì đó. Con khởi sự sáng tạo trong một bầu cõi bảo bọc nơi con thường xuyên tiếp xúc với một vị thày tâm linh, có nghĩa là trong giai đoạn khởi đầu của sự tăng trưởng khả năng tự nhận biết, con mở rộng ý niệm bản ngã của con. Do đó con đạt được một ý niệm bản ngã lớn hơn là khi con bắt đầu. Con cũng có một ý niệm bản ngã lớn hơn những gì có thể được nhét vào trải nghiệm của một sinh thể tách biệt.

Làm thế nào cái Ta Biết có thể bước vào cái mà hầu hết con người trên địa cầu cảm nhận là ý niệm bản ngã bình thường để trải nghiệm nó từ bên trong – và đồng thời lại hoàn toàn tin chắc cái đó là thực? Làm thế nào con có được cảm giác thực tại đó, là cảm giác con là một sinh thể tách biệt sinh sống trong một thế giới tách biệt nơi không có kết nối trực tiếp nào với Thượng đế, hay có lẽ không có cả Thượng đế? Làm thế nào cái đó trở nên hiện thực đối với con?

Nó chỉ có thể trở thành hiện thực khi tầm nhìn của con bị giới hạn. Như thày nói, con khởi đầu với một chiếc ống nhòm, xong con đút vào trong đó một số mảnh kính đủ màu sẽ giới hạn và bóp méo cái nhìn của con. Một lần nữa, không có gì sai trái với chuyện đó. Thật ra, đó không phải là một sự sa ngã, mà chỉ đơn giản là một cách khả dĩ mở rộng khả năng tự nhận biết của con.

Điều con làm như một người đồng sáng tạo là con cố tình tự đặt mình vào một trạng thái giới hạn hầu tăng triển từ đó. Con muốn nếm mùi trải nghiệm bước vào một bầu cõi không thăng thiên, mặc vào thể xác và tâm trí của một con người trên địa cầu và, lúc đầu, bị hoàn toàn chìm đắm trong trạng thái đó. Một lần nữa, khi con làm vậy thì theo một nghĩa nào đó, con ở trong cùng tình trạng như khi con được sinh tạo lần đầu: Con đường duy nhất là đi lên. Làm người trên địa cầu là một trạng thái tâm thức hạn hẹp đến độ thật sự con chỉ có thể đi lên trong ý niệm bản ngã – ít ra là trong trạng thái nguyên thủy.

Ý định mà con có lúc ban đầu là con sẽ đi vào bản sắc của một con người, và con sẽ lần hồi khuếch trương nó ra cho tới khi con sẵn sàng thăng lên khỏi bầu cõi chưa thăng thiên. Điều thày muốn nói là trong thiết kế nguyên thủy, trong ý định ban đầu của con, con sẽ tuần tự tăng triển khả năng tự nhận biết. Con sẽ liên tục đi lên cao hơn trong tự nhận biết. Con cất bước với một tầm nhìn giới hạn nhưng con sẽ lần hồi làm sạch tầm nhìn cho tới khi con lại tự thấy mình là một phần của đoàn chưởng giáo tâm linh ở trên con.

Điều mà các sa nhân đã thêm vào kịch bản nói trên và cũng là điều chúng đã thêm vào tình trạng trên địa cầu sau khi chúng được phép đầu thai ở đây, là con có thể bị mắc kẹt vào vai trò, con mắc kẹt trong tầm nhìn hạn hẹp đó. Thay vì vươn lên một viễn quan ngày càng tinh khiết hơn một cách liên tục và tuần tự, hoặc là con bị kẹt lại ở một tầng cấp nào đó, hoặc là thậm chí con bắt đầu rơi xuống một tầm nhìn ngày càng hạn hẹp hơn nữa.

12.4. Các điều kiện hiện thời giới hạn tầm nhìn như thế nào

Khi trái đất được các Elohim sinh tạo thuở ban đầu, có rất nhiều điều kiện mà con hiện chứng kiến ở đây không thể xảy ra. Đó là vì những người đầu thai trên địa cầu vào thời đó có một tầm viễn quan cao hơn, một ý niệm bản ngã cao hơn bây giờ.

Thuở đó, không thể xảy ra chuyện con người có thể rơi xuống một ý niệm bản ngã khiến họ sẵn lòng giết người, gây chiến và sát hại hàng triệu người. Hiển nhiên chuyện này con chứng kiến ngày nay, và nó cho con thấy sa nhân đã có khả năng tạo ra cái vòng xoắn ốc hướng hạ nói trên. Điều chúng làm là phối hợp hai loại tin tưởng khác nhau.

Trước hết là ý tưởng – một ý tưởng rất tinh tế và không được tỏ lộ công khai trong hầu hết các hệ thống tín ngưỡng trên địa cầu – rằng con là một sản phẩm của thế giới vật chất, hay con bất toàn theo nhiều cách. Do đó trong bản chất, con là một sinh thể giới hạn. Con sẽ nhận thấy là khi con quyết định đi xuống bầu cõi chưa thăng thiên này lúc ban đầu, mặc dù con khoác vào một tầm nhìn vô cùng hạn hẹp về bản thân, con vẫn biết là con không bị giới hạn trong ý niệm bản ngã đó. Con vẫn biết là con có tiềm năng mở rộng nó ra. Nhưng điều con chứng kiến ngày nay trên trái đất là biết bao người tin vào ý tưởng vi tế của sa nhân là con người bị quy định bởi giới hạn này hay giới hạn nọ. Họ không thể vượt lên cao hơn, họ không đang bước chân trên một con đường sẽ nâng cao ý niệm bản ngã và thanh lọc viễn quan của họ một cách hệ thống. Hoặc họ là một kẻ tội lỗi phải trông chờ một vị cứu thế từ ngoài đến giải cứu, hoặc họ là một con thú đã tiến hóa. Quá nhiều người tin mình tự thân là giới hạn.

Lớp lừa dối thứ nhì của sa nhân là có những điều kiện trên địa cầu mà con không có cách gì thay đổi, và tự thân con bị chúng giới hạn. Điều này bây giờ có nghĩa là con người bị đặt vào một tình trạng thật lạ lùng về mặt viễn quan. Trước tiên, con tin là con không có khả năng, hay không xứng đáng nâng cao viễn quan một cách ý thức. Xong thêm vào đó, con cũng cho rằng các điều kiện hiện tại trên địa cầu không do con tạo ra, cho nên con không có cách chi thay đổi được.

Con không thể nhìn xa hơn các điều kiện hiện tại. Con không thể nhìn thấy những điều kiện cao hơn có thể là một khả năng thực tế. Viễn kiến của con trở thành một vòng xoắn ốc hướng hạ tự nó trở nên hiện thực, tự nó nuôi dưỡng cho lớn mãi. Con không thể nâng cao viễn kiến về thế gian và về chính con. Và điều này phải có nghĩa – theo lực của Mẹ, tức lực co lại – là con sẽ hạn chế con nhiều hơn nữa. Một khi con đi quá cái gò đó, con sẽ không còn mẫn cảm, không còn cởi mở đối với sự hướng dẫn trực tiếp của các chân sư thăng thiên nữa. Con trở thành mẫn cảm với Trường đời Cay đắng, và bây giờ chỉ còn vấn đề là các điều kiện của con sẽ cần bị hạn chế tới mức nào, viễn kiến của con cần bị giới hạn tới mức nào, đau khổ của con cần to lớn tới mức nào, trước khi con quyết định là chuyện này thật không ổn và do đó con cần phải thay đổi cách tiếp cận của mình.

Là một học trò tâm linh, tất nhiên con không hoàn toàn bị kẹt trong vòng xoắn ốc hướng hạ đó, vì nếu con bị kẹt như vậy thì con đã không thể theo học khóa tu này – con đã ở mức thấp hơn hẳn tầng tâm thức 48 và con đã không có hy vọng nâng mình lên cao hơn. Một lần nữa, thày hoàn toàn không chê trách con về viễn quan giới hạn hiện thời của con. Như thày có nói, vai trò của thày là giúp con, và thày không đòi hỏi con đứng ở mức cao kia – nơi con không cần thày giúp – trước khi thày trao cho con sự trợ giúp là tình thương và niềm vui của thày.

12.5. Những ý tưởng vi tế hạn chế viễn quan

Điều thày đang chỉ ra cho con là con vẫn cần phải làm sạch viễn quan cho không còn những ý tưởng rất, rất vi tế mà con đã quen chấp nhận. Điều thày hy vọng con đang bắt đầu hiểu ra, dựa trên những gì thày đã giảng cho tới giờ, là một số những ý tưởng đó vô cùng tinh tế. Có biết bao điều kiện trên địa cầu mà tuyệt đại đa số loài người không thể tưởng tượng là họ có thể đặt lại vấn đề. Con có thấy hầu hết mọi người bị giới hạn tới chừng nào hay không?

Con đã bắt đầu chất vấn ý tưởng mình là một kẻ tội lỗi hoặc một con thú tiến hóa. Con đã nhận ra là mình không phải là hai thứ đó mà là một sinh thể tâm linh. Con có tiềm năng nâng cao tâm thức, nâng cao ý niệm bản ngã của mình. Liệu con có bắt đầu cảm nhận được là chỉ vì con đã lớn lên trong một thế giới hạn chế như địa cầu, con đã dần dần chấp nhận rất nhiều điều kiện và giới hạn mà con cho là không thể chất vấn? Bây giờ con đang ở mức mà bước kế tiếp tự nhiên cho con là bắt đầu chất vấn một số thứ đó.

Ở điểm này, thày cần con bước lên một bước và nhận ra là con đã khởi sự xây dựng một ốc xoáy hướng thượng rồi. Thày có nói là hầu hết mọi người đều bị mắc kẹt trong một ốc xoáy hướng hạ giới hạn tầm nhìn và cứ tự nó lớn mãi. Sự kiện con đã bước vào con đường tâm linh và theo học khóa tu này có nghĩa là con đang xây dựng một ốc xoáy hướng thượng. Cho tới giờ, có thể con chưa vượt qua khúc rẽ khi vòng xoáy hướng thượng này trở nên hoàn toàn tự lực.

Thày không bảo là ở mức này con cần đạt tới điểm không cần đến một vị thày nữa. Hiển nhiên chúng ta đang ở ngay giữa khóa tu tự điều ngự này, và ở trên thày còn có ba vị Thượng sư nữa sẽ dẩn con đến tầng tâm thức 96. Điều thày muốn nói là có thể sẽ tới một điểm khi con nhận ra trong ý thức là con cần mở rộng viễn quan, con muốn mở rộng viễn quan, và điều này có nghĩa là con cần tra vấn những thứ mà con xem là bình thường, là đương nhiên. Con cần tra vấn ngay cả những thứ mà con không nghĩ tới tra vấn và hầu hết mọi người cũng không nghĩ tới tra vấn. Sẽ dễ hơn cho con rất nhiều nếu con nhận diện trong ý thức đây là điều con thật sự muốn làm ở điểm này.

Như thày có nói, kể từ điểm này ở khóa nhập thất của thày, thày sẽ là một vị hỗ trợ. Thày không ép con, thày không đối chất con hay tạo bất kỳ áp lực nào trên con. Thày hỗ trợ, và con phải cung cấp sức mạnh đi tới, cung cấp động cơ và ý muốn. Sẽ thật hữu ích cho con nếu trong tâm ý thức con xoay chuyển nhận thức để thấy rằng mình thật sự muốn giải thoát khỏi một viễn quan giới hạn, và con chỉ làm được điều này nếu con tra vấn trong ý thức những gì mà hầu hết mọi người đều không tra vấn.

12.6. Quyền tự quyết giới hạn thế nào những gì con có thể thay đổi

Ở điểm này, thày cần con nhận ra một điều về cách vận hành của quyền tự quyết. Con đang sống trên một hành tinh với hơn bảy tỷ người khác. Mỗi người đều có một cái Ta Biết với quyền tự quyết. Qua một quá trình rất dài và phức tạp, mỗi sinh thể đang hiện thân trên địa cầu đã đạt đến ý niệm bản ngã hiện thời của họ, viễn quan hiện thời của họ. Nếu con nhìn trở ngược lịch sử, con sẽ thấy còn nhiều dòng sống hơn nữa đã đầu thai trên địa cầu suốt thời gian đó. Suốt một thời gian rất dài, như Maitreya đã giải thích, loài người đã đồng sáng tạo ra các điều kiện hiện thời trên trái đất, và trong phần lớn thời gian đó, con người đã bị sa nhân ảnh hưởng.

Như thày đã giải thích, điều này đã dẫn đến một số định luật phụ thuộc của thiên nhiên được tạo dựng. Từ mức bản sắc mà đa số loài người đều mang, từ trạng thái tâm thức dựa trên sợ hãi, con không có cách chi vượt qua hay tránh né các định luật phụ thuộc này. Điều này đúng như vậy: Từ mức tâm thức đó, quả thực là không có cách chi con có thể tránh né được, vì một lý do rất giản dị.

Thày đã nói là con không thể khắc phục lòng sợ hãi nếu động lực của con dựa trên sợ hãi. Cũng vậy, con không thể khắc phục sự thiếu vắng viễn quan bằng chính ý niệm viễn quan mà con hiện có – một viễn quan dựa trên những điều kiện mà con đang chứng kiến trong thế giới vật chất. Nguyên cái đó hình thành một vòng tròn khép kín.

Hẳn con từng nghe câu thành ngữ quen thuộc là con không thể tự nhấc mình lên bằng cách kéo sợi dây giày. Liệu con đã suy nghĩ về ý nghĩa câu này một cách ý thức hay chưa? Con thử tưởng tượng con đang đi một đôi giày bốt có dây buộc bên cạnh. Con đứng trên mặt đất, đưa tay xuống nắm lấy dây giày và cố hết sức kéo nó lên. Chắc chắn con nhận thấy là để tạo lực nhấc mình lên khỏi mặt đất, thân con phải tạo ra một lực mạnh tương đương đẩy xuống đất. Đây chính là cơ học của vũ trụ vật chất: tác dụng và phản tác dụng. Cho mỗi tác dụng sẽ có một phản tác dụng mạnh tương đương trong hướng ngược lại. Khi con mang viễn kiến xem mình là một con người và các định luật phụ thuộc của thiên nhiên là không thể khắc phục, thì tất nhiên, con không thể vượt qua các định luật phụ thuộc đó. Tại sao con không thể vượt qua? Bởi vì trong tâm con không thể nhìn thấy chuyện vượt qua là khả dĩ. Và tại sao con không thấy được chứ? Bởi vì con đang nhìn qua cái kính vạn hoa của ba thể phàm cao hơn – và tâm ý thức của con thì nằm ở dưới đáy chiếc kính đó.   

Các thày có nói cái Ta Biết có khả năng bước vào bất kỳ vai trò nào mà nó muốn khoác lấy, rồi trải nghiệm từ bên trong và kinh nghiệm vai trò đó là hoàn toàn hiện thực. Đối với hầu hết mọi người, cái Ta Biết đặt tâm điểm nơi cơ thể vật lý. Khi con nhìn thế gian, con nhìn qua nội dung của ba thể cao nhưng con không biết là con đang nhìn qua chúng.

Cũng giống như con đeo cặp kính màu mà không hay biết là mình đang đeo kính màu. Từ nhãn quan đó, con không thể tra vấn nội dung của ba thể cao của con, con không thể chất vấn những gì con thấy và nhận ra là nó đã bị biến dạng. Đó là tại sao con không thể thay đổi bất cứ gì. Con không thể thay đổi những điều kiện mà con cho là đã được các định luật phụ thuộc của thiên nhiên tạo ra và con không có quyền hành gì trên chúng.

Và đây là điểm khá tế nhị mà con cần phải suy ngẫm thật cẩn thận bằng tâm ý thức. Trên địa cầu có bảy tỷ người đang đầu thai. Hầu hết mọi người đều có một viễn quan rất giới hạn, một ý niệm bản ngã rất giới hạn. Họ chấp nhận các định luật phụ thuộc của thiên nhiên là không thể vượt qua. Họ chấp nhận các điều kiện hiện hữu phần lớn không thể thay đổi. Đây là trải nghiệm mà họ đang muốn có ngay bây giờ. Hầu hết đều chưa sẵn sàng đi xa hơn trải nghiệm đó, họ vẫn chưa chán chê trải nghiệm đó.

Là một sinh thể tâm linh, con có quyền tự quyết cá nhân, nhưng con không thể đi ngược lại quyền tự quyết của bảy tỷ người. Trên trái đất có những điều kiện mà cá nhân con không thể thay đổi. Ngay cả nếu con có quyền năng làm chuyện đó thì nó cũng vi phạm quyền tự quyết của bảy tỷ người kia. Vậy làm thế nào con có thể bước chân trên đường tu tâm linh? Có thể chứ, như thày đã nói rồi, nếu con nhận ra là không có điều kiện nào trên địa cầu có thể ngăn con nâng cao tâm thức của con. Điều thày mong muốn con làm bây giờ là bước lên một bước và nhận ra là không những các điều kiện hiện thời không thể ngăn con tăng triển, mà chúng còn có thể hỗ trợ cho con tăng triển.

12.7. Các giới hạn giúp con tăng triển như thế nào

Con có thấy chăng, con yêu dấu, là ngay cả khi con là một đệ tử tâm linh – hay có lẽ, đặc biệt khi con là một đệ tử tâm linh – con đã trở nên nhẹ dạ đối với cái mà các thày gọi là tư duy cuồng đại của sa nhân? Nếu con nhìn loài người khắp thế giới, con sẽ thấy rất nhiều người sống trong một trạng thái tâm thức chấp nhận mọi điều kiện trên địa cầu y như vậy. Họ không nghĩ các điều kiện này có gì sai trái, thiếu sót. Họ không nghĩ là đang có một cuộc chiến hoành tráng giữa Thượng đế và ác quỷ, và các điều kiện hiện hành là do ác quỷ gây ra. Họ chỉ vui lòng sống cuộc đời của họ trong thế giới vật chất.

Thày không bảo đó là điều con nên cố đạt được, mà thày muốn chỉ cho con thấy là họ không hề có ý niệm có chuyện gì sai trái, cần thay đổi. Nhưng hiển nhiên con cũng thấy có nhiều người sùng đạo, hay ngay cả những người không theo tôn giáo nào và đặc biệt nhiều người tâm linh, mang tư duy là có điều gì thật sai trái trên địa cầu, có điều gì thiếu sót, không lý tưởng và cần phải thay đổi.

Một lần nữa, các điều kiện hiện thời không phải là lý tưởng. Đó không phải là những điều kiện do các Elohim thiết lập. Chúng gây ra rất nhiều đau khổ và tất nhiên, muc đích của các chân sư thăng thiên là thay đổi chúng đi. Tuy nhiên, muc đích của các thày là thay đổi chúng trong khuôn khổ Định luật Tự quyết, và vì vậy các thày tìm cách giúp đỡ và tạo linh hứng cho loài người nâng cao viễn kiến. Không phải các thày ra tay thay đổi mà là nhân loại qua viễn kiến cao hơn của mình. Điều con cần làm để vươn lên mức cao hơn, để vượt qua mức khai ngộ thứ năm tại khóa nhập thất của thày, là bắt đầu tra vấn toàn bộ tư duy cuồng đại. Tất nhiên, phần nào con đã làm công việc đó rồi, nhưng thày đặc biệt cần con chất vấn ý tưởng cho rằng cac điều kiện hiện thời là phản tâm linh và chúng có thể ngăn cản sự tăng triển tâm linh của con.

Sa nhân có nhiều tầng lớp khác nhau trong chiến lược giữ chặt nhân loại trong vòng tròn khép kín, trong ốc xoáy hướng hạ tự tăng cường nói trên. Một tầng, dĩ nhiên, là giữ cho con người tập trung vào thế gian và các thú vui vật chất. Đây là những người mà thày vừa nói là họ vui sướng trong thế giới vật chất, vui lòng chấp nhận các điều kiện hiện tại (hay có lẽ họ không vui sướng nhưng vẫn chấp nhận các điều kiện hiện tại), và họ bị mắc kẹt ở mức này. Ho nghĩ là không có gì có thể làm được để mà thay đổi.

Xong có một tầng lớp cao hơn là những người đã bắt đầu nhận ra có gì không ổn, không đầy đủ. Sa nhân cũng đã thành công đánh bẫy những người này vào ý tưởng một cuộc chiến cuồng đại giữa Thượng đế và ác quỷ nơi họ không chắc là ai sẽ chiến thắng.

Như các thày đã giải thích trước đây, không hề có một cuộc chiến cuồng đại nào giữa Thượng đế và ác quỷ, bởi vì Thượng đế, Đấng Sáng tạo, hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi bất cứ gì xảy ra trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Đó là tại sao mới có một bầu cõi chưa thăng thiên tương tự như một bãi chơi cát, nơi tất cả mọi thứ đều có thể được dựng lên rồi dễ dàng được xóa bỏ và không có gì là vĩnh viễn. Sa nhân không thể tạo ra cái gì vĩnh viễn có khả năng chống lại Thượng đế. Chúng muốn con tin là chúng đã làm được vậy, và vì thế chúng muốn con hoặc bị kẹt vào giao tranh với chúng, hoặc bị kẹt vào nỗi khổ não hay lo sợ không biết thế giới sẽ có được cứu vãn hay không.

12.8. Con luôn luôn có khả năng thăng vượt

Đó chính là điều mà thày cần con bước ra khỏi, hầu con nhận ra là cho dù điều kiện hiện thời có là gì, thì sa chân và những điều kiện mà chúng tạo ra không thể ngăn con tự thăng vượt. Tự thăng vượt nghĩa là gì? Trong bản chất, đó là khi con thăng vượt điều kiện mà con đang đối mặt ngay lúc này. Cho dù điều kiện đó có thấp kém đến đâu đi nữa, con vẫn có khả năng thăng vượt. Đây là lời dối trá mà sa nhân đã quảng bá dưới nhiều hình thức khác nhau khi chúng bảo có những điều kiện thấp kém đến độ con không thể sử dụng để tự thăng vượt.

Con có thấy điều thày nói trước đó? Khi ban đầu con bước xuống tâm thức tự xem mình là một sinh thể tách biệt, con vốn mang sẵn nhận biết là mình có khả năng thăng vượt ý niệm bản ngã hiện hữu để vươn lên cao hơn. Hầu hết mọi người trên địa cầu đều đã tin vào lời dối của sa nhân rằng điều đó không thể làm được. Nhưng con tất nhiên, con cảm nhận là mình có thể, vì nếu không thì con đã không cất bước trên đường tu.

Nhưng con vẫn còn nơi ba thể cao rất nhiều niềm tin vi tế là một số điều kiện không tâm linh sẽ không hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của mình. Đây là một vấn đề viễn quan. Khi con nhìn thế giới qua các niềm tin gây giới hạn trong ba thể cao, toàn bộ tầm nhìn của con khiến con tưởng là có rất nhiều điều kiện không tâm linh sẽ ngăn chặn bước tiến tâm linh của con. Nếu con nhìn trở ngược đời mình, nhìn vào các tin tưởng hiện tại của mình, nếu con nhìn vào một số giáo lý tâm linh mà con đã tìm hiểu và thực hành, con sẽ thấy ý tưởng đó hình thành một bối cảnh vô cùng vi tế cho mọi tin tưởng và cách nhìn đời của hầu hết mọi người. Nó rất, rất vi tế. Ở mức thấp nhất, nó bảo con là trên địa cầu có những điều kiện không thể thay đổi mà con không thể thăng vượt. Ở mức cao hơn một chút khi con ý thức được đường tu tâm linh, con sẽ vẫn cảm nhận là một số điều kiện xảy ra không thể hỗ trợ cho sự tăng triển tâm linh của con. Và do đó con bị kẹt trong ý tưởng là hoặc con phải thay đổi các điều kiện này đi, hoặc con phải tránh né chúng và trốn chạy khỏi chúng.

Điều thày muốn chỉ ra cho con thật giản dị: Khi con nhìn vào đời mình ngay bây giờ, thày chắc chắn sẽ có một số điều kiện mà con nghĩ con không thể thay đổi. Có thể con không thay đổi được là vì viễn quan của con quá giới hạn. Cũng có thể con không thay đổi được, như thày vừa giải thích, là vì muốn thay đổi thì con sẽ phải vi phạm quyền tự quyết của bảy tỷ người kia, hoặc quyền tự quyết của một số người trong gia đình hay trong xã hội. Con là thành phần của một đơn vị tập thể và những thành viên của đơn vị tập thể đó có một viễn kiến nào đó. Con không nhất thiết có khả năng thay đổi những điều kiện này.

12.9. Lời dối vi tế rằng con không thể thăng vượt

Điều con có thể làm được là thay đổi cách con nhìn những điều kiện đó để con xoay chuyển. Thay vì coi đó là những chướng ngại cản trở sự tự thăng vượt, con xem chúng là những cơ hội, là những hỗ trợ cho tự thăng vượt. Thay vì nhìn vào một điều kiện, sợ hãi nó, cảm thấy ân hận và đau khổ vì nó, nghĩ rằng: “Ồ, tôi phải thay đổi nó đi, tôi phải lánh xa để làm người tâm linh,” thì giờ đây con có thể nhìn vào điều kiện đó và nói: “À, thật là một cơ hội quá tốt để tôi tự vượt thăng.” Đây là một sự xoay chuyển vĩ đại trong khả năng tự nhận biết. Nhiều người đã bước chân trên đường tu hàng 30, 40 năm mà không thực hiện được cuộc xoay chuyển này. Thày nói với con là con đang ở mức trong khóa tu tự điều ngự này nơi con có khả năng xoay chuyển được như thế, và thày đang ở đây để giúp con. Thày sẽ làm tất cả trong khả năng mình khi con tham dự khóa nhập thất của thày trong các thể thanh cao. Điều chính con có thể làm là suy ngẫm những ý tưởng vừa kể trong tâm ý thức của con.

Con cũng có thể biểu đạt – hay đúng hơn, nhận biết – sự kiện con đã có một ý định dựa trên tình thương để thực hiện cuộc xoay chuyển đó. Thày đã nói là thày không muốn con sống phần đời còn lại trong nỗi sợ chết và chỉ khắc phục được trên giường hấp hối. Thày không muốn con sống phần đời còn lại mà vẫn xem các điều kiện trên địa cầu là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của mình, trong khi thật ra, con có thể xoay chuyển để xem chúng là cơ hội.

Con yêu dấu, con chẳng thấy là lời dối của sa nhân vô cùng giản dị hay sao? Trước tiên là niềm tin là các điều kiện hiện hữu trên địa cầu không đạt tiêu chuẩn và phải tốt đẹp hơn. Sau đó là niềm tin, vì con là người tâm linh cho nên con đang phấn đấu để trở thành tốt hơn, con phấn đấu để bước vào một thế giới tốt đẹp hơn nơi các điều kiện sẽ cao hơn bây giờ. Con biết là để bước vào thế giới cao hơn đó, con phải tự thăng vượt. Lời gian dối mà sa nhân quảng bá là bảo rằng trong thế gian có những điều kiện tồi tệ đến độ con không thể sử dụng để tự thăng vượt. Con phải hoặc giao chiến với chúng và thay đổi chúng, hoặc con phải xa lánh khỏi chúng.

Con chẳng thấy chúng đang cố bảo gì hay sao? Tự thăng vượt nghĩa là gì chứ? Đó là khi con nhận ra điều kiện hiện hữu là kém cỏi, con nhận ra khả năng mình có thể là hơn vậy, rồi con chuyển đổi ý niệm bản ngã, rời bỏ cái kém để là cái hơn. Con chẳng thấy tinh túy của sự tự thăng vượt là đi từ cái kém sang cái hơn hay sao? Dù cái kém có thấp kém tới đâu, thật chẳng có gì quan trọng vì con luôn luôn có thể chuyển sang cái hơn. Sa nhân cố khiến con tìn là có một số điều kiện kém cỏi đến độ con không thể chuyển từ cái kém sang cái hơn.

Con chẳng nhìn ra sự lừa dối ở đây hay sao? Cho dù điều kiện đó có thấp kém tới đâu, con cũng luôn luôn có khả năng đi từ cái kém lên cái hơn. Thật ra, nếu nó càng thấp kém thì việc đi lên sẽ càng dễ dàng hơn, bởi vì sự tương phản sẽ càng rõ ràng hơn giữa điều kiện mà con nhìn thấy với tâm vỏ ngoài, so với thực tại – thực tại cao hơn – mà con cảm nhận được trong tim.

12.10. Con đã dư biết lời dối là một lừa dối

Con chẳng thấy những xoay chuyển khó khăn nhất trên đường tâm linh là những xoay chuyển vô cùng vi tế hay sao? Đó là khi con chỉ thấy được một sự khác biệt nhỏ nhoi giữa viễn kiến mà con có trong tâm ý thức – qua kính vạn hoa của ba thể cao của tâm phàm – và viễn quan cao, viễn quan trực giác. Con chẳng thấy điều thúc đẩy con bước đi trên đường tâm linh là vì con có phần nào viễn quan nội tâm hay sao? Hẳn là con đã có một viễn quan trực giác cao hơn đến từ Hiện diện TA LÀ của con cũng như từ các chân sư thăng thiên.

Đây là điều cho con cảm nhận về một cái gì hơn nữa. Đồng thời, tất nhiên là trong cuộc sống hàng ngày con vẫn nhìn qua kính vạn hoa của bốn thể phàm và con vẫn nhìn thấy một viễn kiến thấp hơn hẳn. Cho tới giờ, con đã cho rằng cái con thấy trong viễn quan trực giác là một thực tại cao hơn đang hiện hữu nơi một cõi cao hơn. Điều này không sai, nhưng cho tới giờ con cũng cho rằng cái con thấy qua kính vạn hoa của bốn thể phàm cũng là một thực tại đang hiện hữu trong thế giới vật chất.

Sự xoay chuyển mà thày yêu cầu con thực hiện là nhận ra những gì con thấy qua kính vạn hoa của bốn thể phàm không phải là thực tại; đó chì là một nhận thức. Các chân sư khác cũng đã đề cập đến điều tương tự. Đức Phật Gautama đã nói về nhận thức, thày Maitreya đã nói về nhận thức trong sách của thày, và đức Mẹ Mary cũng nói về nhận thức trong “Khóa học về sự dồi dào”.

Không phải là không có một thực tại vỏ ngoài dưới hình dạng một số điều kiện trong thế giới vật chất. Chúng có mặt ở đó, chúng đã được loài người đồng sáng tạo, nhưng con không đang thấy những điều kiện đó. Con đang thấy một hình ảnh mà thôi, và hình ảnh này là do bốn thể phàm của con tạo dựng.

Để tăng triển trên đường tâm linh và nâng cao ý niệm bản ngã, con không phải thay đổi các điều kiện vỏ ngoài, mà con chỉ phải thay đổi viễn quan nội tâm. Con không phải thay đổi bất cứ gì bên ngoài chính con, mà con chỉ phải thanh tẩy viễn quan của con. Khi con thanh tẩy viễn quan, thanh tẩy nội dung của bốn thể phàm, con sẽ bắt đầu nhìn thấy các điều kiện trong thế giới vật chất y như thày nhìn thấy. Thày không nhìn chúng như là mối đe dọa hay chướng ngại trên đường tự điều ngự.

Thày đã có nói về một Trường đời Cay đắng, và những cú giáng của trường đời phải cay đắng tới chừng nào thì người ta mới bắt đầu thức tỉnh rồi mong muốn hơn nữa. Con chẳng thấy là theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói là các sa nhân đang làm ơn cho các thày khi chúng kéo mọi chuyện xuống ngày càng thấp hơn hay sao? Vì khi các điều kiện trở nên càng dày đặc và sơ khai, thì sự tương phản sẽ càng lớn hơn giữa những gì con thấy được qua tâm phàm và những gì con nhận biết ở bên trong. Chỉ là vấn đề thời gian khi khoảng cách trở nên to lớn đến độ con người sẽ nhận ra là phải có một cách tiếp cận nào khác đối với cuộc sống.

Thày biết đây không phải là một sự thể lý tưởng. Thày không đang tìm cách bào chữa cho sa nhân hay bảo rằng chúng chỉ đang làm những chuyện mà chúng nên làm. Thày không biện minh cho sự tàn ác mà con chứng kiến trên trái đất. Thày chỉ đang chỉ ra cho con thấy là ở mức khai ngộ hiện thời của con, việc xoay chuyển tâm con là chuyện khả thi, khi con nhận ra là không có một điều kiện nào mà con đối mặt là một trở ngại cho việc tự thăng vượt. Đó chính là một sự hỗ trợ cho con tự thăng vượt.

12.11. Định luật Tự thăng vượt

Con hãy thử lấy một điều kiện con phải đối diện trong đời ngay lúc này mà con cho là – hay đã từng cho là – phản tâm linh, một kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của con. Điều thày muốn chỉ ra cho con là con có thể xoay chuyển để nhận ra điều kiện đó chỉ có vẻ là một chướng ngại cho con nếu con nhìn nó xuyên qua một ý niệm bản ngã nhất định. Bản ngã này được tạo thành từ các điều kiện trong bốn thể phàm của con. Nếu con nghĩ một cái gì đó là phản tâm linh, thì điều này cho thấy con có một ý niệm bản ngã giới hạn dựa trên một viễn quan không thuần khiết.

Chính điều mà con đang nghĩ là một chướng ngại cho sự phát triển tâm linh thật ra là cơ hội lớn nhất để con nhìn ra viễn quan giới hạn của mình và khởi sự thay đổi nó. Có một định luật hiện hành trên địa cầu, và có thể nói định luật này quy định điều kiện cho tự thăng vượt. Định luật này nói rằng con sẽ không thoát ra khỏi bất kỳ điều kiện nào trên địa cầu cho tới khi con hoàn toàn chấp nhận nó như nó hiện là, và chấp nhận là nó không hạn chế được mình như một sinh thể tâm linh.

Vậy con có thấy tư duy cuồng đại đã làm gì cho rất nhiều người tâm linh? Ngay cả giáo lý của chân sư thăng thiên cũng đã, ở một mức độ nào đó, củng cố cho xu hướng này khi họ lần đầu tiên tiếp xúc với giáo lý của các thày. Họ nghĩ là họ cần phải cưỡng chống lại một số điều kiện và không được chấp nhận chúng. Điều thày muốn nói là như sau: Một khi con thực sự hiểu được những gì thày đã nói với con, con sẽ hiểu là các điều kiện hiện thời là do những người sử dụng quyền tự quyết tạo ra. Thượng đế đã ban cho họ quyền làm như vậy.

Có người khác đã tạo ra một số điều kiện nào đó và chúng đang ảnh hưởng đến con, nhưng họ đã tạo ra những điều kiện này qua một ý niệm bản ngã giới hạn. Tại sao chúng lại ảnh hưởng đến con? Bởi vì con mang ít nhất một số yếu tố của ý niệm bản ngã giới hạn đó trong bốn thể phàm của con. Nếu không thì con đã không bị chúng ảnh hưởng gì hết, con sẽ không phản ứng lại chúng, con sẽ không cưỡng chống lại chúng, con sẽ không bị phiền hà hay bị hạn chế, hay cảm thấy chúng sẽ kềm hãm sự phát triển tâm linh của mình. Thậm chí con sẽ không có cả ý muốn thay đổi chúng. Các điều kiện đó sẽ hoàn toàn không quan trọng, không liên quan gì tới con.

Con chẳng nhận ra là trên địa cầu có rất nhiều điều kiện mà con không quan tâm hay sao? Con có thể đã lớn lên trong một môi trường nơi nước uống sạch là chuyện tự nhiên, nhưng một tỷ lệ đáng kể dân số trên thế giới không thể lấy nước sạch từ vòi nước, thậm chí nhiều người còn không có cả vòi nước. Vì lý do gì con nên quan tâm đến vấn đề này khi con đã lớn lên trong một xã hội không có vấn đề đó?

Điều thày muốn nói là những điều kiện mà con quan tâm, trên thực tế không giới hạn con nhiều hơn là những điều kiện mà con xem là không can hệ. Điều quan trọng là con xoay chuyển, qua đó con nhận ra là nếu con thăng vượt ý niệm bản ngã mà cho tới giờ con đã sử dụng để nhìn vào điều kiện, thì điều kiện đó sẽ không còn xáo trộn con nữa.

12.12. Thay đổi tâm có thể thay đổi ngoại cảnh

Điều đó không có nghĩa là điều kiện sẽ được thay đổi, bởi vì nó vẫn được cầm giữ trong tâm thức tập thể của người khác. Mà điều đó có nghĩa là điều kiện sẽ không còn giới hạn con nữa. Trong nhiều trường hợp, một khi con đạt tới điểm con thăng vượt được một điều kiện nào đó bằng cách chấp nhận là nó có mặt nhưng không ảnh hưởng được con, thì có thể con sẽ nhận thấy hoàn cảnh vỏ ngoài của con sẽ thay đổi, và con sẽ thoát xa khỏi điều kiện đó.

Như thày đã nói, sứ giả này đã quyết định là ông muốn thăng vượt ý niệm bản ngã đã hấp dẫn một số người về phía ông, và ông đã không còn hấp dẫn những loại người đó nữa. Nhiều người đã có cùng một trải nghiệm, và một điều tương tự cũng xảy ra cho các điều kiện vật lý ngoại cảnh. Thay đổi có thể xảy đến trong đời con một cách thật lạ lùng một khi con khắc phục được ý niệm bản ngã đã khiến con cho rằng con không thể là người tâm linh nếu một số điều kiện có mặt.

Con có khả năng là người tâm linh cho dù con phải đối diện với hoàn cảnh thế nào đi nữa. Rất nhiều người đã chứng tỏ điều này suốt các thế kỷ và suốt các thời đại. Con đang ở đây để chứng tỏ điều này trong thời đại hôm nay. Đó chính là lý do tại sao con đã tình nguyện đi vào hiện thân vào thời buổi này. Thày không đang nói với con điều gì mà con chưa biết trong nội tâm. Thày chỉ nhắc nhở con, hầu con có thể xoay chuyển trong nhận biết ý thức và khởi sự nhìn đời mình cũng như hoàn cảnh vỏ ngoài của mình với tinh thần chấp nhận mới mẻ rằng đây chính là một cơ hội vĩ đại để con tự thăng vượt.

Serapis Bey TA LÀ, và mỗi giây trong mỗi phút trong mỗi giờ mỗi ngày, thày đang tự thăng vượt. Thày ở đây là đề giúp con làm tương tự. Con hãy nắm lấy tay mà thày đang dang ra cho con và chúng ta sẽ cùng nhau bước lên cao hơn trên con đường tự thăng vượt huy hoàng mà Đấng Sáng tạo của chúng ta đã cống hiến cho chúng ta.

Phát triển ý định tự lực

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapia Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/1/2016.

TA LÀ chân sư thăng thiên Serapis Bey. Mục đích của thày trong bài giảng này là cho con một số gợi ý có ý thức sẽ giúp con vượt qua các khai ngộ trên tầng thứ tư ở khóa nhập thất của thày. Và tất nhiên, đây là tầng mà con nhận được một liều tinh khiết gấp đôi.

Để bắt đầu, thày mong muốn con nhận ra là bây giờ con đã đạt tới điểm trên đường tu tâm linh – con đường tự điều ngự – nơi con cần biểu hiện động lực tự lực mà con đã vốn có, đã mang sẵn, để bước trên đường tu. Các Thượng sư biết rõ là các thày phải khởi sự thật dịu dàng với mọi người. Ở ba tầng đầu, các thày đã cho con một số giáo lý, một số kỹ thuật mà con có thể ứng đáp. Khi làm vậy, như thày đã trình bày trong bài giảng trước, các thày nhìn nhận là đối với hầu hết mọi người, cuộc sống từ quá lâu đã là một trận đấu quần vợt nơi con quen có một ai đó đánh banh lại cho con, và do đó con luôn luôn có một điều gì đó để mà phản ứng lại. Các thày cần con đạt tới điểm mà động lực để bước chân trên đường tu không còn là một sự phản ứng đối với, hay đối lại, bất cứ gì trong thế giới vật chất.

Các thày hiểu rất rõ đây có thể là một khai ngộ khó khăn vì nhiều người trong các con – cho dù con có nhận thức được trong ý thức hay trong trực giác – cũng biết từ lâu là có một lực chống lại tiến bộ tâm linh của con. Con có thể gọi đó là thế lực bóng tối, là thế lực của cái ác, là sa nhân hay bất cứ tên gọi nào khác. Sau khi con đã biết chuyện này từ lâu, lẽ tự nhiên con nảy ra ý tưởng là động lực tu tập của con phần nào là để lánh xa, để thoát ra, để tránh né hay để vươn lên khỏi các thế lực bóng tối đó. Con hiểu điều thày đang nói, phải không con? Thật là dễ rơi vào một cơ chế nơi động lực để bước trên đường tu liên quan đến – và do đó phần nào được quy định bởi – sa nhân. Thày đã nói về hàng ngũ giả trá, và chúng đã rất thiện nghệ cài đặt nhiều ý tưởng nhằm bóp méo cách nhìn của con về đường tu đến độ nó kềm hãm tiến bộ của con, hay thậm chí đưa con vào một ngõ cụt sẽ tốn nhiều kiếp để thoát ra.                 

10.1. Ý định tự lực

Điều thày cần con làm ở mức này ở khóa nhập thất là nhìn vào những ý định của con một cách trung thực. Các thày đã nói trước đây là ngay cả nỗi sợ hàng ngũ tà đạo cũng mở tâm con ra cho hàng ngũ tà đạo – không phải theo nghĩa là chúng sẽ xâm nhập trực tiếp vào tâm con và ảnh hưởng con qua cách đó, nhưng chúng có khả năng ảnh hưởng con gián tiếp bằng cách khiến con trốn chạy những gì con sợ, hay con không sẵn lòng nhìn vào một điều gì mà con sợ. Sự kiện này khiến nhiều đệ tử tâm linh mang trong tâm thức một số yếu tố mà mình không muốn xem xét. Chẳng hạn, nếu con rất lo sợ đi theo hàng ngũ tà đạo, có thể con sẽ không sẵn lòng nhìn vào một số ý tưởng mà chúng đã cài đặt vào tiềm thức con trong kiếp này hay những kiếp trước.

Con sẽ cảm thấy thật xấu hổ, thật tủi nhục, thật khiếp sợ nếu con phải nhìn nhận là mình đã mang một số yếu tố tâm thức sa ngã trong tiềm thức mình. Thậm chí con có thể sợ là thày, Serapis Bey, sẽ chối từ con nếu có ai phát hiện là con có những yếu tố đó, và điều này đương nhiên sẽ không giúp con hưởng lợi từ sự giúp đỡ mà thày dành cho con.

Như thày có nói, con không thể giấu gì với thày. Gần như không có ai đến khóa nhập thất của thày trên đường tự điều ngự mà không có những yếu tố tâm thức sa ngã, hay những tin tưởng do sa nhân và hàng ngũ giả trá tạo ra trong tiềm thức mình. Làm sao con có thể sống sót một vài kiếp trên hành tinh này mà không bị tác động bởi từng nấy ảo tưởng và dối trá khắp mọi nơi? Đối với thày, không có gì bất thường, không có gì tiêu cực, không có gì mà thày cần xét đoán xem con có những yếu tố đó hay không. Thày không ở đây để phán xét con, bắt lỗi con hay làm con xấu hổ. Thày ở đây để giúp con thăng vượt tất cả những gì đang giới hạn con trên đường tu. Một điều sẽ giới hạn con là nếu con có những yếu tố do sa nhân hay tà lực cài đặt. Cho dù con không mang những thứ bị cài đặt trực tiếp, vẫn có thể con mang lòng sợ hãi – mà theo một cách nào đó cũng là một cài đặt – và khi con tránh nhìn một điều gì thì, tất nhiên, nó sẽ kềm chân con trên đường tu. Không thể nào khác được.   

Thày cần con đạt tới mức con nhận ra là động lực thật sự của con khi bước trên đường tu không dính dáng gì đến tà lực hay hàng ngũ giả trá. Động lực thật sự của con phải đến từ bên trong và liên hệ, trong ngắn hạn, với Sứ vụ Thiêng liêng của con cho kiếp này, và trong dài hạn với mục đích nguyên thủy của con khi đến địa cầu. Thày đề nghị là con suy ngẫm điểm này thật cẩn thận trong tâm ý thức. Một lần nữa, có thể sẽ hữu ích nếu con lập ra một danh sách những ý định và động lực mà con thấy xuất phát từ một phản ứng nào đó đối với tà lực. Có điều gì mà con cố tránh né, trốn chạy hay vượt khỏi hay không?

Thày cần con suy ngẫm trong ý thức điều gì con thực sự yêu thương về tâm linh và đời sống. Nhiều khi các thày thấy đệ tử đến khóa nhập thất của thày với quá nhiều giới hạn đã được lập trình trong tâm, đến độ họ không dám nghĩ tới cả những gì mình thực sự mong muốn. Thày yêu cầu con làm một bài tập là con hãy lấy một tờ giấy, đọc bài thỉnh kèm với bài giảng này, sau đó con ghi xuống bất cứ gì đến với con liên quan tới những điều con thực sự muốn làm trong đời. Thày cần con ý thức sự kiện là con cần bỏ sang một bên mọi hạn chế mà con đang có. Thày yêu cầu con, lúc đầu, hãy xem việc này như một bài tập lý thuyết, nghĩa là– trên lý thuyết – nếu con không có tất cả những hạn chế mà con phải đối diện trong hoàn cảnh hiện thời hay trong tâm lý con, thì con thực sự muốn làm gì?

Thày không yêu cầu con suy đoán xem thày muốn con làm gì, hay các chân sư thăng thiên khác muốn con làm gì, hay Thượng đế muốn con làm gì. Thày không yêu cầu con suy đoán xem các sa nhân không muốn con làm gì. Thày cũng không yêu cầu con nghĩ xem người khác muốn hay không muốn con làm gì. Mà thày yêu cầu con suy nghĩ xem – nếu con không có bất kỳ giới hạn nào – con muốn thực sự làm gì trong đời?

10.2. Những loại ý định khác nhau

Con sẽ nhận thấy câu trả lời cho câu hỏi trên có thể thuộc hai loại. Có thể có những việc liên quan đến những mong muốn và ước mơ chưa thỏa nguyện, một cái gì đó mà con chưa bao giờ làm được nhưng lại luôn luôn muốn thực hiện. Không có gì sai trái với điều đó. Đó có thể là những trải nghiệm mà con muốn có.

Thày yêu cầu con nhìn xa hơn thế và xem xét là còn có một loại khác nữa, là những chuyện con muốn làm không vì muc đích cá nhân mà vượt cá nhân. Con có thể xem đó là một điều gì phụng sự sự sống, hay một mong muốn thay đổi chuyện gì đó, đem lại một thay đổi tích cực nào đó trên hành tinh này. Như các thày đã nói nhiều lần, đa số các con là người tâm linh đã tình nguyện đến hành tinh này để đem lại sự thay đổi tích cực qua chính ánh sáng, qua những sáng ngộ, động lượng và kinh nghiệm của con. Sẽ có một tỷ lệ nào đó trong số những việc con muốn làm trong đời liên quan đến mục đích này, là mong muốn thay đổi gì đó trên địa cầu.

Bây giờ thày cần con xem xét kỹ lưỡng hơn. Có lẽ con có thể đọc bài thỉnh thêm một lần hay đọc bài chú của thày thêm mấy lần nữa. Có lẽ con có thể ngồi yên trong im lặng, nhắm mắt lại và thiền quán về điều này. Điều thày mong muốn con làm là nhìn xa hơn tất cả những thứ mà con muốn làm, mà con cảm thấy con bó buộc phải làm, hay con cảm thấy con nên làm hầu thay đổi địa cầu. Thày cần con nhìn thấy là ngoài những hoạt động đó, sẽ có một số động lực, một số ý định không liên quan gì đến ý muốn làm gì ở ngoài con, mà thay vào đó, liên quan đến những gì đem lại cho con nhiều niềm vui nhất trong bản thân con.

Có thể con không thể thấy rõ lúc đầu. Có thể con sẽ thấy khó biểu đạt thành lời. Điều thày cố giúp con khám phá ở đây là sự kiện động lực nguyên thủy khiến con đến địa cầu có một khía cạnh Alpha và một khía cạnh Omega. Khía cạnh Omega là con muốn đem lại một số thay đổi vì con thấy trên địa cầu có những điều kiện cần bỏ lại đằng sau. Khía cạnh Alpha là con muốn chia sẻ ánh sáng của con, Hiện diện TA LÀ của con, ngọn lửa Thượng đế của con, khuôn đúc cá biệt độc đáo của con. Con muốn biểu hiện cá thể của mình một cách sáng tạo. Thày đã đề cập đến sự kiện đường tu tâm linh không phải là một chiếc áo tù bó tay bó chân. Nó vẫn cho con đủ khoảng trống cho sự sáng tạo cá nhân. Sự sáng tạo cá nhân này, trong dạng thuần khiết của nó, không nhằm sản xuất ra một số thay đổi nhất định để phản ứng lại những điều kiện hiện thời trên trái đất. Trong dạng thuần khiết, sáng tạo liên quan đến việc biểu hiện con người mà con là, cá thể thiêng liêng của con. Sự biểu hiện thuần khiết của sáng tạo không phải là chuyện tạo ra những kết quả vỏ ngoài, thay đổi vỏ ngoài, đặc biệt là những thay đổi tùy thuộc vào những chọn lựa của các sinh thể khác có quyền tự quyết, dù họ đang đầu thai vật lý hay là sinh thể sa ngã trong các cõi khác.

Trong tinh túy, sự sáng tạo liên quan đến việc biểu hiện con người của con vì niềm vui tinh khiết mà con nhận được khi con cảm nhận ánh sáng mà Thượng đế cho con chảy xuyên qua lăng kính của cá thể mà ngài đã cho con. Thày hiểu là lúc này có thể con chưa hòa điệu được với cảm nhận đó trong ý thức. Nhưng bằng cách suy ngẫm và thỉnh cầu, lần hồi con sẽ bắt đầu cảm nhận được. Điều vô cùng quan trọng là con cảm được điều đã cho con niềm vui tinh khiết đó không liên quan gì tới bất cứ gì bên ngoài con, vì đây là ý định thuần khiết nhất để con có mặt trên địa cầu. Đây cũng là một ý định mà con có thể bày tỏ cho dù hoàn cảnh vỏ ngoài hay các giới hạn con phải đối mặt có là gì đi nữa.

10.3. Động lực cao nhất của con

Thày đã cho con làm bài tập: “Nếu con không có giới hạn nào, con sẽ biểu hiện điều gì?” Bây giờ thày yêu cầu con đưa bài tập này lên một mức cao hơn, là con nhận ra rằng bất kể các giới hạn con đang đương đầu trong hoàn cảnh vỏ ngoài, không có gì trong các giới hạn đó có thể ngăn con làm cánh cửa mở cho ánh sáng và cá thể của Hiện diện TA LÀ tuôn chảy xuyên qua con. Điều này con có thể thực hiện trong bất cứ hoàn cảnh nào, và đây là điều thày cần con quán chiếu. Đây là cách duy nhất để con phát triển một động lực phát xuất hoàn toàn từ bên trong, và do đó nó không thể bị tác động, bị tiêu diệt hay bị kềm hãm bởi bất cứ gì bên ngoài con.

Trên đường tự điều ngự, phải tới một điểm khi động lực để con bước chân trên đường tu chỉ còn liên quan đến mong muốn ý thức của con, viễn quan ý thức của con, muốn biểu đạt con người thật của con trong thế giới vật chất. Đây là động cơ cao nhất để bước chân trên đường tu, mà đó là điều con cần hầu vượt qua các khai ngộ dưới các Thượng sư của Tia sáng thứ Năm, thứ Sáu và thứ Bảy. Đó là tại sao thày là người chuẩn bị con cho các tia sáng đó vì con đang đứng ở ngay lỗ kim, ở ngay tiêu điểm.

Khi con bắt đầu cảm nhận được bản thể nội tâm của con cùng những gì đem lại cho con niềm vui, con cũng có thể bắt đầu nhìn ra hoàn canh bên ngoài. Thày có bao đệ tử đến với thày, và khi ngồi họp mặt nơi khóa nhập thất và nhìn vào hoàn cảnh vỏ ngoài của họ, họ thường hỏi: “Nhưng Serapis, thày chẳng thấy là con đang phải đối mặt với những hạn chế này trong hoàn cảnh vỏ ngoài hay sao? Làm thế nào con có thể thực sự tâm linh, làm thế nào con có thể biểu đạt sáng tạo khi con phải đương đầu với tất cả những tình huống đó mỗi ngày trong đời con? Làm sao con có thể bỏ việc làm, bỏ con cái, bỏ gia đình để làm một việc hoàn toàn sáng tạo hay tâm linh?”  

Các Thượng sư không đang yêu cầu con làm chuyện đó. Có một động lực giả hiệu mà sa nhân và hàng ngũ giả trá đã tạo ra suốt nhiều thế kỷ. Trong các thế kỷ trước, động lực đó thường được thể hiện, chẳng hạn trong văn hóa Cơ đốc, qua toàn bộ ý tưởng về đời sống tu hành ẩn dật. Có một sự tin tưởng là nếu con là một người thực sự sùng đạo, con sẽ dành trọn đời mình cho Thượng đế bằng cách đi tu trong một tu viện. 

Con sẽ rút hẳn khỏi đời sống con người bình thường, bị xem là đi ngược lại lòng sùng bái tâm linh và thờ phượng Thượng đế đích thực. Người ta cho rằng Thượng đế rất coi trọng những ai rút khỏi cuộc đời tầm thường và sống cách ly trong một môi trường thật là thoải mái nơi họ không phải đương đầu với rất nhiều khía cạnh của tự ngã, và do đó họ cũng không có tiến bộ tâm linh – hay họ không tiến bộ nhiều lắm.

Các chân sư thăng thiên không xem chuyện đó là lý tưởng. Đã có một thời khi việc rút lui khỏi đời sống để tích tụ động lượng tu tập là một việc ích lợi cho một số người, nhưng cũng không có nghĩa là tất cả những ai sống trong tu viện đều tinh tấn. Trong thế giới ngày nay của Thởi đại Bảo bình, như các thày đã nói nhiều lần, thật là không còn cần thiết hay ngay cả xây dựng để có quá nhiều người rút lui khỏi xã hội. Điều quan trọng hơn gấp bội là con là người tâm linh và con tìm được cách thể hiện tính chất tâm linh của con trong đời sống hàng ngày. Điều quan trọng là con không cách ly khỏi xã hội mà lại chứng tỏ thế nào là sống tâm linh ngay trong một xã hội phản tâm linh.     

Điều quan trọng cho sự tăng triển của con là con không tự cô lập trong những cộng đồng tâm linh nơi các thành viên đều có thể xác nhận, chứng thực lẫn nhau. Họ có thể sống vô cùng thoải mái mà không phải quấy rầy đến tự ngã để mà tự buộc mình phải nhìn thấy tự ngã. Quá nhiều cộng đồng tâm linh hoạt động theo kiểu đó. Nếu mọi người ở đó đều tin chắc mình là người tâm linh và ai ai cũng đều xác nhận tự ngã cho nhau, thì họ sẽ không giúp nhau nhìn ra tự ngã và do đó chẳng ai sẽ khắc phục được tự ngã.    

10.4. Xem Serapis không là vị thày mà là vị hỗ trợ

Thày cần con nhận ra là đối với tuyệt đại số người tâm linh trong thời đại này, điều cần thiết, xây dựng và phù hợp với Sứ vụ Thiêng liêng của con là tìm được cách biểu hiện tính chất tâm linh và sáng tạo của mình bất kể hoàn cảnh vỏ ngoài có là gì. Để làm được thành công, con cần xoay chuyển tâm thức của con. 

Chuyển đổi đầu tiên mà con cần thực hiện là con không nhìn thày như là một vị thày truyền thống. Cho tới giờ, thày cùng ba vị Thượng sư mà con đã gặp đã hành xử phần nào như những vị thày mà con có thể tìm thấy trên địa cầu. Các thày đã nắm phần chủ động trong khóa nhập thất. Các thày đã trình bày một số bài giảng, bài tập, đưa ra một số thử thách cho con và con đã hồi đáp. Tất nhiên, có thể con đã có một động lực để gia nhập khóa tu và bước chân trên đường tự điều ngự. Một khi con ở trong khóa tu, nhiều khi động lực hàng đầu trong tâm ý thức của con dồn vào các thày, dồn vào việc tuân theo khai ngộ, vượt khai ngộ, tránh làm các thày thất vọng hay bất kỳ cảm nhận nào khác. Thày cần con xoay chuyển động cơ của con khi tham dự khóa nhập thất và tương tác với thày không dựa trên mong muốn chiều lòng thày, đi theo thày, hay cũng quan trọng không kém, chống  đối thày. Thày cần con xoay chuyển và nhận ra con ở trong khóa này là vì con muốn khắc phục tất cả mọi chướng ngại đang ngăn cản con làm cánh cửa mở cho sự biểu hiện sáng tạo của ánh sáng, cũng như của cá thể mà con thật là, tức cá thể neo trụ nơi Hiện diện TA LÀ của con.    

Thày cần con xoay chuyển sang một động lực tham gia khóa này dựa trên tình thương. Thày có thể cảm nhận khá dễ dàng khi đệ tử có một phản ứng với thày. Hoặc họ mong muốn chiều lòng thày, hoặc họ có một điểm tắc nghẽn nào đó trong tâm thức khiến họ miễn cưỡng làm theo chỉ dẫn của thày. Đây là điều mà con cần khắc phục ở tầng thứ tư của khóa nhập thất này. Thày cần con đạt tới điểm, cho dù con đã nhìn thày và các chân sư khác như thế nào trong quá khứ, thì giờ đây con có khả năng liên hệ với thày một cách hoàn toàn cởi mở và trung lập. Thày không phải là người kỷ luật con, thày không nhìn con từ trên cao, thày không phơi trần hay hạ nhục con. Thày không là người đặt đòi hỏi lên con.   

Thày ở đây để tạo điều kiện cho con phát triển nhưng thày không là cái động lực. Con cần tự cung cấp động lực đó hoàn toàn từ bên trong chính con. Thật ra tại tầng thứ tư, có một thời điểm khi thày quy tụ các đệ tử đã sẵn sàng vào một căn phòng. Trước khi mọi người bước vào phòng, thày nói với họ mục đích là để họ nhận được động cơ chủ chốt khiến họ bước chân trên đường tu từ điểm này trở đi. Tất nhiên, thày nói cách nào đó để họ tin là chính thày sẽ trao cho họ động cơ đó. Và khi mọi người bước vào phòng và ngồi xuống, thày sẽ chỉ ngồi đó, đưa mắt nhìn từ người này đến người kia. Đối với các đệ tử sẵn sàng nhìn vào mắt thày thì thày cũng nhìn vào mắt họ, nhưng thày không nói gì.       

Phải mất một lúc thì các đệ tử mới bắt đầu nhìn thày với một dấu hỏi to tướng trong mắt họ. Rồi phải mất thêm nhiều thời gian hơn trước khi một số bắt đầu hỏi: “Serapis, đến bao giờ thày mới tiết lộ cho chúng con động cơ của chúng con?” Thày vẫn cứ ngồi như vậy, nhìn họ và mỉm cười, và rồi thường thường sẽ có một hai người trong nhóm nhìn mọi người và nói: “Có lẽ thày đang muốn nói là chúng ta cần tìm bên trong chính chúng ta chăng?” Thế là, thông thường, ánh sáng bỗng bật lên trong mắt hầu hết mọi đệ tử.    

Có thể có một số không sẵn lòng làm chuyện này. Trong một số trường hợp, có đệ tử đã phải rời khóa tu, quay trở ngược và theo học những khai ngộ khác. Trong đa số trường hợp, các đệ tử trở nên rất háo hức, họ nhắm mắt lại và đi vào bên trong. Điều mà thày có thể giúp đệ tử ở điểm này là, đương nhiên, vì họ đang ở trong hào quang của thày, thày có thể che chắn họ khỏi mọi động lực ô uế bình thường sẽ tới lôi kéo tâm họ. Trong Hiện diện của thày, họ có nhiều cơ hội hơn để khám phá ra điều mà thày vừa đề cập, tức là những gì đem lại cho họ niềm vui lớn nhất.   

10.5. Là người ngang hàng với Serapis

Sau khi các đệ tử khám phá ít nhất một số động lực nội tâm của mình, thì một sự chuyển đổi xảy ra. Bỗng nhiên, không còn ý muốn chiều lòng thày, hay sự miễn cưỡng hay yếu tố giả tạo nào khác trong thái độ và quan hệ của họ với thày. Giờ đây cả trò lẫn thày bắt đầu tương tác với nhau một cách hoàn toàn khác. Đệ tử không còn chờ thày làm gì đó và giữ chủ động, mà thay vào đó, họ nắm lấy vai trò chủ động, và họ đến hỏi thày: “Serapis, con muốn thấy điều này, con muốn hiểu điều kia, con muốn phát triển khả năng nọ, vậy thày nghĩ sao?” Đột nhhiên, mọi người không còn hành xử như thày với trò, mà hành xử bình đẳng.

Thày không đứng trên đệ tử, thày không đứng trên các con. Thày chỉ có nhiều kinh nghiệm hơn và có lẽ nhiều viễn quan hơn. Thay vì là vị thày cao cả dũng mãnh đứng đầu lớp học và nhìn xuống học sinh, giờ đây thày là kẻ mà thày luôn luôn muốn là: một vị hỗ trợ. Ở điểm này, mọi người kinh qua một số bài tập khác nhau, nhưng thày nói điều này cho con vì điều quan trọng cho sự tăng triển của con ở mức này là con cũng kinh qua một số bài tập đó trong tâm ý thức của con.

Điều thày cần con nhận ra ở mức này là sự tăng trưởng của con có hai yếu tố, Alpha và Omega. Yếu tố Alpha tất nhiên là con đạt tới điểm con biểu hiện được sự sáng tạo của con từ bên trong, từ Hiện diện TA LÀ của con. Yếu tố Omega là hầu đạt tới điểm đó, con cần nhìn ra một số chuyện trong chính tâm thức con. Và để nhìn ra, thường khi con sẽ cần trải nghiệm một số tình huống trong thế giới vật chất.  

10.6. Tin rằng có những thứ không tâm linh

Điều này có nghĩa là con có thể thực hiện thêm một sự xoay chuyển rất quan trọng trong thái độ của con đối với thế giới vật chất, đối với cõi của Mẹ, trong cách con nhìn thế giới. Có một cái móc vô cùng tinh vi mà hàng ngũ giả trá đã tạo ra suốt một thời gian rất dài là ý tưởng rằng trên thế giới có một số thứ không tâm linh, không tinh khiết, một số thứ sẽ không giúp con tăng triển tâm linh.

Các thày đã từng nói là tất cả những gì sa nhân cần làm để làm rối tung mọi thứ trên trái đất là tạo ra ý tưởng rằng:
– Có một chuẩn mực.
– Tất cả mọi thứ đều phải được phán xét theo chuẩn mực.

Sa nhân đã tạo ra chuẩn mực bảo rằng những thứ này là tâm linh và những thứ kia không tâm linh. Sau đó chúng phóng chiếu ý tưởng là nếu con là người tâm linh hay người sùng đạo, con cần phải đánh giá mọi thứ theo chuẩn mực đó. Thế là con có rất nhiều người tâm linh bỏ ra biết bao năng lực và chú ý để đánh giá mọi công việc mình làm, mọi chuyện mình gặp trong thế giới vật chất. Họ không làm vậy một cách trung hòa mà họ lại dựa trên sự phán xét giá trị xem cái gì là tâm linh, cái gì không. Và tất nhiên, niềm tin nền tảng, hay sự giả định nền tảng của họ là bất cứ gì mang nhãn hiệu không tâm linh sẽ cản bước tăng trưởng của họ. Đây chính là điều mà hàng ngũ giả trá muốn con tin.   

Con hiểu là con không còn ở dưới tầng tâm thức 48 nữa, phải không con? Bởi vì nếu không, con đã không ở tầng thứ tư của khóa nhập thất của thày. Có những người ở dưới tầng 48 cần lượng định xem điều gì là không tâm linh. Chắc chắn là họ không thể tinh tấn tâm linh được nếu họ cứ tiếp tục giết người, ăn cắp hay làm chuyện tội phạm. Có những người cần đến một chuẩn mực bảo rằng: “Chuyện này là không tâm linh, nó sẽ chặn không cho tôi lên thiên đàng, ngăn chặn tôi tiến bước trên đường tâm linh.” Nhưng thày không đang nói về những người đó.       

Thày đang nói về con, là người đã đạt đến tầng thứ tư của Tia thứ Tư trên con đường tự điều ngự. Thày cần con, ngay bây giờ, nhìn lại các chuẩn mực của con về cái gì là tâm linh hay không tâm linh. Mục đích của thày là đưa con tới điểm con nhận ra là cho dù hoàn cảnh con phải đối diện ngay bây giờ có là gì, con vẫn có thể là người tâm linh, và con vẫn có thể biểu hiện sự sáng tạo và cá thể mà Thượng đế đã ban cho con.  

Thày cần con thăng vượt một cái móc tinh vi khác của hàng ngũ giả trá, bảo rằng khi nào một số điều kiện vỏ ngoài được hội đủ, thì khi đó con mới có thể thực sự tâm linh. Đây là ảo tưởng mà con cần khắc phục, và con khắc phục bằng cách nhận ra là cách đánh giá, xét đoán một điều kiện hay một hoạt động là tâm linh hay không tâm linh, không phải lả cách nhìn cao nhất về sự vật.

Con sẽ không tiến xa hơn điểm này nếu con nghĩ là có một số hoạt động không tâm linh mà con phải tránh né, và có những hoạt động khác tâm linh mà con phải tìm cầu.  Điều thày cần con nhận ra là, ngay bây giờ, bước tiến của con trên đường tu tùy thuộc vào việc con nhìn ra một số điều kiện, một số khuôn nếp, một số khuôn đúc trong bốn thể phàm của con đang hạn chế con biểu hiện sự sáng tạo cũng như quyền năng sáng tạo của con.

Để nhìn thấy chúng, con cần có một số trải nghiệm trong thế giới vật chất. Những điều kiện mà con đối mặt ngay trong lúc này không phải là kẻ thù của sự phát triển tâm linh của con. Con không cần phải nhìn chúng theo cách đánh giá sơ sài, cách đánh giá trắng đen, cách đánh giá nhị nguyên là chúng có tâm linh hay phản tâm linh. Con cần xem xét chúng và nhận ra các điều kiện đó chỉ là sự biểu hiện của một trạng thái tâm thức nào đó. Chúng cho con một cơ hội để con nhìn thấy một điều gì đó về chính con dựa trên cách con phản ứng lại các điều kiện đó.

Con có thể đang đối mặt với một hoàn cảnh, mà từ một sự đánh giá trắng đen bề ngoài, con sẽ cho là có những thứ không được tâm linh, không được trong sạch. Cho đến giờ, có thể con đã cố tránh né chúng, bác bỏ chúng, chối từ chúng, chạy trốn khỏi chúng. Điều thày cần con làm là xoay chuyển và nói: “Những điều kiện này thật ra đang có ý dạy tôi điều gì? Tôi đang phản ứng lại chúng như thế nào? Phản ứng của tôi nói lên điều gì về những tin tưởng, những cảm nhận của tôi, về cách tôi nhìn chính mình trong quan hệ với thế giới vật chất?”

10.7. Khía cạnh Alpha và Omega của bản sắc

Những gì con mang trong thể bản sắc có một khía cạnh Alpha và một khía cạnh Omega. Khía cạnh Alpha nằm trong phần cao của thể bản sắc, là cái nhìn từ ngay bên dưới cá thể trong Hiện diện TA LÀ của con. Nhiều người không thể nhìn thấy nó một cách ý thức vì nó bị che khuất bởi khía cạnh Omega của bản sắc. Cái Omega này là ý niệm bản sắc mà con đã xây đắp suốt nhiều kiếp đầu thai trên địa cầu.

Ý niệm bản sắc này là cách con nhìn bản thân con trong quan hệ với thế giới vật chất, với cõi của Mẹ. Đây là bản sắc mà con cần phát hiện, phơi bày, tra vấn, nhìn thấy là nó không thực, và dần dần thăng vượt nó. Đây là cái bản sắc khiến con tin rằng bởi vì con ở trong một cơ thể vật lý, bởi vì con ở trong hoàn cảnh này kia nọ, con không thể bày tỏ cá thể đích thực và sự sáng tạo đích thực của con. Chắc chắn là con có một số khuôn ếp trong cảm thể, một số tin tưởng trong trí thể, cũng chặn nghẽn sự sáng tạo của con. Chúng ở một mức thấp hơn ý niệm bản sắc bảo con có thể làm gì và không thể làm gì, cái gì con được phép hay không được phép làm trong thế gian này. Thày cần con suy ngẫm điều này với tâm  ý thức, để qua đó con có thể tận dụng những bài học mà con nhận được ban đêm ở khóa nhập thất của thày.  

Người ta nói rằng dưới mắt người trong sáng thì mọi chuyện đều trong sáng, và hẳn câu nói này chứa đựng nhiều sự thật. Nhưng thày sẽ đi một bước xa hơn và nói rằng đối với một người có tâm thức trong sạch, ngay cả sự lượng định trong sạch hay không trong sạch cũng tan biến mất. Con không nhìn vào đời mình, vào các điều kiện, rồi bảo: “Ồ, cái này ô uế, tôi muốn tránh.” Thay vào đó, con nói: “Nhất định phải có lý do khiến điều kiện này thị hiện trong đời mình, nhất định phải có điều gì đó mà đúng lý tôi phải học hỏi từ đó.”

Điều này không có nghĩa là con ôm lấy điều kiện đó, mà con ôm lấy bài học. Thay vì chạy trốn khỏi điều kiện và như vậy cũng chạy trốn khỏi bài học, con ôm lấy bài học. Có nhiều người tâm linh, hầu khắc phục một giới hạn trong tâm lý mình, cần phải đi một số bước, cần kinh qua một số trải nghiệm có vẻ phản tâm linh hay ô trược trong nhãn quan trắng đen. Nhiều người trong số các con sẽ có thể nhìn vào đời mình và nhận thấy là con đã trải qua một số tình huống tỏ ra hoặc ô trược, không tâm linh và đau đớn, hoặc khiến cho bây giờ con phải vô cùng xấu hổ.

10.8. Nguyên nhân của cảm nhận nhục nhã 

Con đã cảm thấy nhục nhã bởi những điều kiện đó nhưng nếu con sẵn lòng xoay chuyển như thày vừa nói, con có thể khắc phục những cảm giác đó và hiểu ra là con đã phải kinh qua chúng hầu khắc phục một điều gì đó bên trong con. Có thể có một bài học mà con đã phải học về một niềm tin là con có thể hay không thể làm điều gì trong thế gian này. Cũng có thể con cần bị nhục nhã để khắc phục một niềm tự hào.  

Nhiều người tâm linh được hưởng trớn rất lớn khi họ thành công trong thế giới vật chất. Chẳng hạn có nhiều người trong một tiền kiếp đã được ưu đãi, đã thuộc một tầng lớp ưu tú ưu đãi. Con đã giàu có, đã sinh ra trong một gia đình danh giá quyền lực, hay con đã từng giữ chức vụ và điạ vị trong xã hội khiến con không phải nếm mùi một số điều kiện mà những người gọi là tầm thường phải trải qua.

Do đó, có thể con đã cảm thấy thật nhục nhã phải trải qua các điều kiện đó, nhưng tại sao con lại cảm thấy như vậy? Là vì con đã tạo dựng một niềm tự hào cho rằng mình phần nào tốt hơn mọi người khác do vị thế ưu đãi của mình. Thày không đang bảo là đa số người tâm linh đều là sa nhân, nhưng sự thật là nhiều người trưởng thành tâm linh đã đầu thai trong những gia đình có sa nhân trong đó, và lý do là để cho người tâm linh có thể học hỏi cũng như để cho sa nhân có cơ hội chứng kiến một cách nhìn khác về cuôc đời. Thật là quá dễ khoác vào niềm tin vi tế của sa nhân cho rằng bởi vì con có địa vị ưu đãi trong xã hội, thì con cũng là một người tốt hơn người khác, và do đó có những chuyện xấu xa mà con không phải tiếp xúc.

Nếu con tiếp xúc với những điều kiện đó, con sẽ cảm thấy nhục nhã. Và nếu đó là trường hợp của con, thày yêu cầu con xét xem liệu đó chẳng phải là toàn bộ mục đích để con có cơ hội khắc phục niềm tự kiêu của mình và bỏ nó lại đằng sau hay sao? Có một lý do khác cũng có thể xảy ra khi con trải nghiệm những điều kiện nhục nhã hay hạn chế mình. Có thể là con phải nhìn ra một khuôn nếp trong tâm lý mình, có thể con phải vượt qua lòng tự kiêu, hay cũng có thể là con muốn đạt tới điểm con biểu hiện được sức mạnh ý chí mà con đã không thể biểu hiện trong những kiếp trước.   

10.9. Biểu hiện một sức mạnh ý chí cao hơn

Khi thày nói là con phải có một số trải nghiệm cho đến khi con chán chê, thì câu này có những khía cạnh khác nhau. Có những trải nghiệm liên quan đến cơ thể đem lại cho con một cảm giác thích thú. Hầu hết mọi người sẽ thấy là suốt mấy kiếp sống, một khi họ đã nếm đủ những trải nghiệm đó thì họ sẽ bắt đầu chán ứ, không còn dính mắc những loại ham muốn thể xác đó như trước. Có một mức cao hơn cho sự kiện trên, là có một số điều kiện mà con trải nghiệm với mục đích đưa con tới mức con có được quyết định ý thức là: “Thế này là đủ rồi, tôi không muốn trải nghiệm chuyện này thêm nữa.”

Chính vị sứ giả này đã có trải nghiệm trong những năm gần đây là nhận ra ông đã tin tưởng sai lầm là vai trò của ông nhằm giúp đỡ tất cả những ai tự nhận mình quan tâm đến đường tu tâm linh, thậm chí cả những người đã từng là sa nhân, hay đã có một cái nhìn vô cùng tiêu cực về cuộc sống cũng như về chính họ. Rồi ông đã nhận ra lý do ông đã thu hút những loại người như vậy là vì ông cần biểu hiện sức mạnh ý chí để nói rằng: “Thôi đủ rồi, tôi không muốn những loại người đó trong đời tôi nữa.” Có thể con cũng đối mặt với một khai ngộ tương tự dưới một ngụy trang và y phục bên ngoài khác hơn. Điều quan trọng là con suy ngẫm xem trong đời mình có thể có chăng một số điều kiện mà con thu hút hết lần này tới lần khác, chỉ vì một nguyên do duy nhất là con chưa lấy quyết định chắc chắn là con không muốn đối phó với điều kiện đó nữa.    

Dĩ nhiên, điều có thể cần thiết là sau đó con nhìn vào bản thân và nói: “Đâu là niềm tin đang thu hút điều kiện này tới tôi, khiến tôi cảm thấy như mình bị bắt buộc, như mình phải làm, hay phải phản hồi?” Trong trường hợp vị sứ giả này, ông đã nhận ra là ông tưởng ông phải có khả năng giúp đỡ mọi người. Trong một nghĩa nào đó, đây cũng là một hình thức kiêu ngạo, bởi vì không ai trong chúng ta có thể giúp đỡ mọi người. Không một vị thày tâm linh nào – từ xưa tới giờ và trong tương lai – có thể giúp đỡ mọi người đang đầu thai. Cho dù con là ai đi nữa, sẽ có một số người mà con không thể chạm được. Sứ giả này tưởng là nếu có ai ông không thể giúp được, đó là vì nơi ông có cái gì đó không ổn. Ông không đủ giỏi, không đủ hiểu biết, đã không đủ phát triển một số khả năng. Ông không ngừng nghĩ là chính ông phải thay đổi bản thân để chiều lòng người khác.  

10.10. Thay đổi bản thân để chiều lòng người khác

Đây lại là thêm một cái móc của sa nhân mà chúng cài đặt vào tâm trí hầu hết mọi người dưới những ngụy trang khác nhau. Chúng khiến con nghĩ là bởi vì con đi trên đường tâm linh và con sẵn sàng tự cải sửa bản thân, đây là thêm một điều kiện mà con cần tự thay đổi để mà giải quyết. Con cần phải cong lưng ra để chiều lòng thêm những loại người đó, phải có khả năng giúp đỡ họ hay thực hiện một việc gì đó trong thế giới vật chất.     

Trong nhiều trường hợp, cuộc khai ngộ ở đây là con phải đạt tới điểm con có thể nói: “Tôi không muốn làm chuyện này. Chuyện này không phù hợp với mong muốn cao hơn về những gì tôi muốn biểu đạt trên địa cầu. Tôi không muốn xử lý những loại người này. Tôi không muốn thay đổi bản thân để chiều lòng những người không sẵn lòng bước chân trên đường tu, không sẵn lòng xem xét chính mình. Họ tìm cách thay đổi tôi để tránh không phải thay đổi chính họ, và tôi không chấp nhận nữa. Tôi không sẵn lòng tự thay đổi để chiều lòng những người không sẵn lòng tự thay đổi. Tôi sẽ tự thay đổi, và tôi tự thay đổi ngay bây giờ bằng cách quyết định trong ý thức là tôi không muốn những người này trong đời tôi. Tôi thay thế tin tưởng rằng tôi phải tự thay đổi để chiều lòng họ bằng nhận thức là tôi có quyền là con người mà tôi là, và biểu hiện cá thể mà Thượng đế đã ban cho tôi, cho dù những người đó có nghĩ gì đi nữa.”

Sự thật muôn đời là các đệ tử tâm linh có thể chia đại khái làm hai loại. Có những đệ tử rất chắc chắn nơi mình, họ thường có một niềm tự hào và một cảm nhận nào đó rằng mình biết hơn thày là thày phải dạy họ như thế nào. Những đệ tử như thế rất khó cho vị thày tâm linh giúp đỡ.

Xong có loại đệ tử kia thì vô cùng khiêm tốn, cởi mở đón nhận sự hướng dẫn của vị thày, cởi mở với nhu cầu cải sửa bản thân. Họ rất “khả huấn” nhưng chỉ tới một mức mà thôi, vì sẽ tới một điểm khi họ không thể tiến bộ được bằng cách đi theo thày. Con phải bắt đầu tự lấy quyết định, con phải quyết định là con muốn gì và không muốn gì trong đời mình. 

10.11. Tất cả đều tâm linh

Có thể sẽ rất ích lợi nếu con nhìn vào đời con, nhìn vào cách con lượng định điều gì là tâm linh hay không tâm linh, và nhận ra là khi mục đích thực sự là tăng triển, thì chẳng có gì trên địa cầu mà ô trược hay không tâm linh. Nếu con cần một trải nghiệm nào đó để nhìn ra điều gì đó về bản thân, thì việc trải nghiệm đó không phản tâm linh.

Thày cũng cần con nhìn vào chuẩn mực đó về tâm linh và nhận ra là hàng ngũ giả trá đã dùng nó để khiến nhiều người chú tâm vào việc tránh né một cái gì. Hãy lấy một ví dụ điển hình: tình dục. Biết bao người tâm linh có đủ loại tin tưởng rằng tình dục không tâm linh, rằng một số dạng tình dục không tâm linh, hay một số sinh hoạt tình dục không tâm linh.

Các con đã có nền văn hóa tu viện cổ xưa, qua đó người tu hành phải hoàn toàn tránh quan hệ tình dục, như ngay cả Giáo hội Công giáo cũng cấm đoán linh mục kết hôn. Thày không quan tâm con có quan hệ tình dục hay không, mà thày quan tâm là liệu con có để cho quan hệ tình dục chiếm quá nhiều chú ý của con mà con có thể sử dụng để tinh tấn tâm linh. Con có thấy điều thày muốn nói?  

Nếu con nghĩ tình dục là chuyện ô uế và con buộc mình phải tránh quan hệ tình dục, con đang tạo ra một sự căng thẳng trong tâm sẽ khiến con sao lãng việc tăng trưởng tâm linh. Nếu con nghĩ tình dục là ô uế hay một số dạng tình dục là ô uế, và con không ngừng đánh giá tình dục trong khi vẫn có quan hệ, thì một lần nữa sự chú ý của con lại bị bận rộn.   

Điều thày cần con ngộ ra là cho dù đó là tình dục hay một hoạt động thể xác nào khác, tự thân hoạt động đó không có gì ô uế. Điều con cần làm là đạt tới điểm con đơn giản lấy một quyết định. Thày không có vấn đề gì khi đệ tử nói: “Con mong muốn trải nghiệm tình dục” rồi sau đó con trải nghiệm một cách có trách nhiệm mà không làm tổn hại đến bản thân hay người khác. Như vậy con không để cho nó chiếm giữ sự chú ý của con.

Đó chỉ là một việc mà con làm nhưng nó không lôi cuốn sự chú tâm của con. Nó không khiến con ở trong tình trạng xáo trộn tình cảm không ngừng, hay không ngừng tranh luận với chính mình là chuyện đó có chấp nhận được hay không. Nó không khiến con tự hỏi: “Ồ, không biết mình có là người tâm linh hay không khi mình lại làm chuyện này, hay là mình không nên làm?” Thày cần con đạt tới điểm con không còn căng thẳng nào nứa liên quan đến các hoạt động thể xác mà con tham gia. Con cứ việc tham gia, con thưởng thức và con vui hưởng kinh nghiệm, và sau đó con lại tập trung phần lớn sự chú ý của mình vào những công việc khác.     

Thày vừa cho con một bài giảng thật dài, đó là vì tầng thứ tư ở khóa nhập thất của thày lại là một tầng nữa mà con thật sự không thể tiến bước cho tới khi con có sự đột phá. Thày biết là các thày khuyên con học từng bài hay đọc từng bài thỉnh mỗi ngày một lần và liên tục trong chín ngày. Điều sẽ vô cùng xây dựng nếu con có thể đọc bài thỉnh cho tầng thứ tư này nhiều hơn chín ngày, đọc đi đọc lại bài giảng này, suy ngẫm những gì thày đã nói, lập ra các danh sách hay it nhất thiền quán về các điều kiện và gợi ý mà thày đã trao cho con.

Thày muốn con không đặt ra giới hạn trong thời gian con sẽ học tập bài này. Con hãy tiếp tục cho đến khi con có thể cảm thấy một cách trung thực: “Bây giờ tôi đã sẵn sàng bước tiếp.” Thày không nói cho con biết con cần làm bao lâu. Có thể là chỉ một ngày, có thể là chín, hay cũng có thể là nhiều hơn. Thày chỉ yêu cầu con hòa điệu với thời điểm khi con cảm thấy trong nội tâm là con đã sẵn sàng.  Thày không yêu cầu con quyết định với tâm vỏ ngoài. Thật ra, thày yêu cầu con ý thức là tâm vỏ ngoài của con có thể muốn con hoàn tất bài học nhanh chóng do niềm kiêu ngạo, hay là nó có thể muốn kéo dài bài học ra do kiêu ngạo giả dối, khiêm tốn giả dối. Con hãy học tập bài này cho tới khi con biết rõ từ bên trong: “Giờ đây tôi đã sẵn sàng.”, xong con hãy bước tới tầng khai ngộ thứ năm.

Serapis Bey TA LÀ.   

Từ ý định dựa trên sợ hãi sang ý định dựa trên tình thương

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapia Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 4/1/2016.

TA LÀ chân sư thăng thiên Serapis Bey. Con có thể chờ đợi những gì khi con đến tầng thứ ba tại khóa nhập thất của thày, là tầng nơi con gặp sự phối hợp của Tia thứ Tư của Tinh khiết với Tia thứ Ba của Tình thương? Dĩ nhiên, con có thể chờ đợi gặp được tình thương của thày.

Điều này phần nào đặt ra một vấn đề cho một số đệ tử của các chân sư đã nhìn Tia thứ Tư từ một nhãn quan nào đó, và cũng nhìn thày như một vị thày kỷ luật nghiêm khắc. Như thày đã có nói, thày không nghiêm khắc và thày cũng không kỷ luật bất cứ ai. Ở tầng thứ ba, những học trò nào mà chưa buông bỏ hình ảnh này về thày, cần làm điều đó trước khi các con có thể thực sự bắt đầu các khai ngộ ở tầng này. Tất nhiên, thày sẽ giúp con làm điều đó, một phần bằng cách nói chuyện với con, phần khác chứng tỏ là thày cũng là một vị thày của tình thương giống như mọi Thượng sư khác.

8.1. Tại sao con không cần sợ các chân sư

Như các thày đã nói nhiều lần, con không thể trở thành một chân sư thăng thiên khi con còn bất kỳ loại sợ hãi nào trong bản thể mình. Con trở thành một chân sư thăng hiên bằng cách vươn lên tới mức tâm thức nơi con là cánh cửa mở cho dòng tình thương chảy xuống từ cõi thăng thiên. Không thể có sợ hãi trong tâm một chân sư thăng thiên.

Hiển nhiên có nhiều người trên địa cầu sợ gặp một chân sư thăng thiên hay một thiên thần. Con có thể thấy trong Kinh thánh có nhiều đoạn khi thiên thần hiện ra trước một người, thiên thần sẽ nói “Đừng sợ”, vì người đó mang lòng sợ hãi đối với mọi chuyện dị thường. Nhiều học trò của chân sư có thể mang lòng sợ hãi là họ không thể giấu giếm bất cứ gì khỏi mắt thày. Như thày đã nói, khi con ở khóa nhập thất của thày, tất nhiên là con không thể giấu gì với thày. Nhưng một lần nữa, nếu con ở khóa tu của thày với ý định cất bước trên đường khai ngộ mà thày cống hiến, tại sao con lại muốn che giấu bất cứ gì khỏi thày?

Điều mà thày muốn chứng tỏ cho con là cho dù thày có thấy gì trong tâm thức của con, thày vẫn thương yêu con, vẫn giúp con khắc phục và vượt khỏi điều kiện đó hoàn toàn. Như thày có giảng, mức thứ tư là cái lỗ kim, và Tia thứ Tư tượng trưng cho điểm trong khóa tự điều ngự mà con không thể bước xa hơn cho đến khi con thanh tẩy ý định của mình. Khi nói “thanh tẩy ý định của mình”, dĩ nhiên các thày muốn nói đến một vài điều. Nhu cầu thanh tẩy nền tảng là con cần thanh tẩy ý định của mình cho không còn ý định nào xuất phát từ lòng sợ hãi, và vươn tới mức con chỉ còn lại những ý định xuất phát từ tình thương.

Để làm được điều này, tất nhiên con phải sẵn lòng xem xét những ý định dựa trên sợ hãi mà con đang có. Nếu con sợ là thày sẽ lên án con nếu thày nhìn thấy ý định loại đó nơi con, thì hiển nhiên con không thể xem xét chúng. Con sẽ tìm cách che giấu chúng khỏi chính con, tưởng rằng nếu con có thể che giấu khỏi chính mình thì con cũng sẽ che giấu được với thày. Hiển nhiên là không phải vậy. Con có thể giấu một số chuyện với chính con, nhưng con không thể giấu được với thày, vì lý do giản dị là thày không có lòng sợ hãi nơi thày, và do đó không có gì mà một điều gì đó có thể lẩn trốn đằng sau.

8.2. Lòng sợ hãi che giấu như thế nào

Con thấy chăng là chỉ có sợ hãi mới dựng lên một bức tường để con giấu cái gì đó đằng sau? Làm thế nào sợ hãi lại tạo ra một bức tường che giấu? Thật ra, sợ hãi không hình thành một bức tường, sợ hãi không có thực chất gì mà có thể che chắn. Nhưng sợ hãi khiến cho con không sẵn lòng nhìn vào một điều gì đó. Và tất nhiên khi con không sẵn lòng nhìn vào thì điều đó sẽ nằm ẩn giấu khỏi tâm ý thức của con, có phải không? Không có một chất nào có thể che chắn được mắt con nếu con thực sự sẵn lòng nhìn vào.

Đó cũng là tại sao con không có gì phải sợ khi con nhìn vào một điều gì đó trong tâm lý mình. Con sẽ khắc phục nỗi sợ bằng cách nhìn vào nó. Thật ra cách duy nhất để khắc phục sợ hãi là nhìn vào nó, là nhìn xa hơn cái mà con sợ để thấy nó không đến nỗi tồi tệ như con tưởng, và nó không thể ngăn con tiến bước trên đường tu.

Điều mà các sa nhân đã làm là truyền cho con nỗi sợ là nếu con xem xét một số chuyện trong tâm thức và tìm thấy một số khía cạnh của tâm thức sa ngã trong tiềm thức mình, thì chân sư sẽ chối từ con và con không thể tiến xa hơn trên đường tu. Không có gì là xa hơn sự thật. Nào các thày có bao giờ bảo con phải thanh lọc mọi ô uế khỏi tâm thức mình trước khi con có thể trở thành học trò của chân sư thăng thiên đâu?

Con thử nghĩ đi. Thày là Thượng sư của Tia sáng thứ Tư của Tinh khiết. Vai trò của thày là gì? Là giúp học trò áp dụng Tia thứ Tư để tiêu trừ bợn nhơ của mình. Nếu con không có bợn nhơ thì tại sao con lại cần thày giúp? Toàn bộ công việc của thày trong vai trò Thượng sư chỉ hướng tới việc giúp mọi người khắc phục bợn nhơ. Làm sao thày có thể được việc nếu thày cứ liên tục phán xét và kích bác học trò về tội họ mang những bợn nhơ mà thày đang cố giúp họ khắc phục? Thật chẳng nghĩa lý gì khi con suy nghĩ một chút, nhưng đương nhiên sa nhân sẽ tìm cách ngăn cản không cho con suy nghĩ, để con trốn đằng sau nỗi sợ hay con giấu bợn nhơ đằng sau nỗi sợ.        

Thật ra con có thể che giấu bợn nhơ của con khỏi các thày giả trong hàng ngũ giả trá. Lý do là thày giả cũng có sợ hãi nơi họ. Cho nên những gì mà con không nhìn thấy, thì trong một số trường hợp, họ cũng không nhìn thấy nếu họ đã không sẵn lòng xem xét nơi bản thân họ. Thày hy vọng con sẽ nhận ra là tất cả mọi sa nhân và mọi thày giả đều có lòng sợ hãi trong sinh thể họ.

Một sinh thể càng có vẻ có nhiều quyền lực và khả năng kiểm soát thì sẽ càng mang nhiều sợ hãi trong sinh thể của y. Tại sao con lại cần kiểm soát chứ? Để con có thể sống với nỗi sợ hãi của con! Nỗi sợ càng lớn thì con càng cần phải kiểm soát để sống được với nó. Con cần suy ngẫm điều này với tâm ý thức. Con cần quan sát thế giới và nhìn xem các nhà lãnh đạo suốt lịch sử và ngay cả bây giờ, đã cai trị người dân với bàn tay sắt đá như thế nào – nếu có thể nói như vậy – và đã cố tình gieo rắc sợ hãi như thế nào trong lòng những ai theo họ. Họ làm vậy vì chính họ sợ hãi.

Con yêu dấu, con đang đi trên đường tu tự điều ngự, con không thể cho phép mình sợ hãi một ai trong thế giới vật lý hay ngay cả trong ba tầng cõi kia. Nếu con tha thiết đi theo chân sư thăng thiên, con không thể cho phép mình cũng đi theo một người thày dựa trên sợ hãi. Như thày đã từng nói, thật không có gì sai trái nếu con quyết định hay nhận ra là mình muốn có trải nghiệm đi theo một người thày sợ hãi mà con có thể che giấu một số khía cạnh trong tiềm thức mình. Nếu con cần trải nghiệm đó, thày sẽ tôn trọng quyền tự quyết của con, nhưng tất nhiên, khi đó thì thày sẽ không thể giúp con, và cũng không ích lợi gì mà con ở lại với khóa nhập thất của thày. Nhưng thày sẽ không lên án con, thày sẽ không giận con. Thày sẽ chỉ đơn giản đón nhận con lại khi nào con chán ngấy trải nghiệm đó và mong muốn một vị thày dựa trên tình thương. Các chân sư thăng thiên là những vị thày hoàn toàn dựa trên tình thương. Các thày không có nhu cầu kiểm soát con vì các thày không sợ hãi con hay bất cứ gì khác.

8.3. Phát hiện những ý định dựa trên sợ hãi

Con hãy suy nghĩ thật kỹ về điều này, vì công việc mà thày cần con làm một cách ý thức – đồng thời với việc con bước theo, ban đêm trong các thể thanh cao của con, các khai ngộ ở tầng thứ ba tại khóa của thày – chính là con nhìn vào đời mình, nhìn vào thế giới, và xét xem những ý định nào của con xuất phát từ sợ hãi. Nếu con nhìn thế giới ngày nay, con sẽ thấy tuyệt đại đa số mọi người đều có toàn bộ ý định của họ dựa trên sợ hãi.

Các sa nhân thật thiện nghệ trong việc sử dụng lòng sợ hãi nơi bản thân chúng để kiểm soát người khác. Có thể nói đó chính là một định nghĩa về sa nhân. Thày có nói là nhiều sa nhân đã bị sa ngã trong một bầu cõi trước, và theo một nghĩa nào đó, kinh nghiệm này đã dạy cho chúng cách sử dụng lòng sợ hãi, sử dụng chính những nỗi sợ của chúng, để kiểm soát người khác mà không phải khắc phục những nỗi sợ này. Chúng vẫn mang sợ hãi nhưng chúng đã học được cách sử dụng sợ hãi để điều khiển người khác. Tất nhiên là chúng đang làm điều mà thày đã có giảng, là sử dụng một khả năng tự điều ngự nào đó để tự chủ. Bề ngoài chúng có vẻ làm chủ được bản thân, nhưng đó không phải là tự điều ngự đích thực.

Sa nhân giỏi làm cho con cảm nhận là con đang sống trong một thế giới mà con phải sợ hãi. Nỗi sợ này khoác vô số những hình dạng khác nhau. Và tất nhiên, có thể nói là cơ sở của nỗi sợ này là những điều kiện mà con chứng kiến trong cõi vật chất trên địa cầu. Như thày có nói trong bài giảng trước, sa nhân đã định ra một số định luật phụ thuộc của thiên nhiên, vì nơi đây là một bầu cõi chưa thăng thiên. Cho nên chúng đã định ra một số định luật, một số điều kiện mà dưới mắt hầu hết mọi người sẽ gây ra một nỗi khó khăn, một thử thách, một chướng ngại, một đối nghịch, một đe dọa. Thày không đang bảo là, chẳng hạn, bệnh tật không phải là một thực tế, dù là tạm thời, trên hành tinh này. Thày cũng không bảo là nguy cơ chiến tranh xung đột không có thật hay không hiện hữu.

Điều thày muốn nói là các sa nhân đã thành công trong việc khiến cho nhân loại đồng sáng tạo ra những điều kiện mà con chứng kiến trong vũ trụ vật chất. Rồi sa nhân đã sử dụng những điều kiện đó để gieo rắc lòng sợ hãi trong quần chúng, khiến hầu hết mọi người bỏ cả đời mình ra để hành sự dựa trên những ý định xuất phát từ sợ hãi. Đa số bỏ ra toàn bộ sức lực của mình để tìm cách bù đắp phần nào những nỗi sợ này, tìm cách khuây khỏa những nỗi sợ này để họ có thể sống chung với chúng. Như câu thành ngữ quen thụôc, tất nhiên đây không phải là một cách để sống, ít ra là dưới nhãn quan của chân sư thăng thiên.

Tuy nhiên, đó là một cách để sống cho những ai đã không nhận lãnh trách nhiệm về bản thân cũng như về trạng thái tâm mình. Họ đã sẵn có cái cớ ngay trong các điều kiện của vũ trụ vật chất để cảm thấy là mình không cần nhìn vào những nỗi sợ của mình. Họ không cần nhận lãnh trách nhiệm, họ không cần chấp nhận là họ có quyền năng vươn lên cao hơn, không những nỗi sợ mà cả những điều kiện mà họ sợ. Nếu con không muốn nhận trách nhiệm về bản thân, con cần một cái cớ để làm vậy. Và sa nhân đã cung cấp gần như vô số những cái cớ như vậy qua lòng sợ hãi các điều kiện trong thế giới vật chất.

Khi con kinh qua các khai ngộ trên tầng thứ ba với khóa nhập thất của thày, và trong khi con đọc bài thỉnh mỗi ngày, thày cần con nhìn một cách ý thức vào các ý định của mình. Thày cần con xem xét đã có bao nhiêu chuyện mà con đã và đang làm trong đời mình, nhằm hoặc bảo vệ bản thân khỏi một số điều kiện mà con sợ và bù đắp cho chúng, hoặc làm dịu bớt lòng sợ hãi đối với chúng hầu con có thể sống chung với chúng.

Thày cần con, nếu có thể, lập ra một danh sách. Đó có thể là một danh sách trong đầu hay một danh sách viết ra – thày để con tùy ý. Con cần lập ra một loại danh sách ghi lại những ý định dựa trên sợ hãi mà con đã từng hành sự trong đời con cũng như con đang hành sự ngày hôm nay. Xong thày cần con lập một danh sách khác là những ý định mà con đang có hay muốn có nếu con không có sợ hãi.

8.4. Nguyên nhân gây ra sợ hãi là những điều kiện nội tâm

Con hiểu là con không thể đạt được tự điều ngự nếu toàn bộ đời con bị nuốt trọn trong nỗ lực nhằm bảo vệ bản thân khỏi các điều kiện trong vũ trụ vật chất hay bù đắp cho chúng. Con không thể tự điều ngự nếu toàn bộ đời con nhằm bù đắp hoặc làm dịu bớt những nỗi sợ mà con có. Tự điều ngự chỉ có thể đạt được bằng cách thăng vượt những nỗi sợ mà con có.

Con yêu dấu, thày biết là ở mức này, rất nhiều đệ tử của thày phải đối mặt với một vấn đề cụ thể do sa nhân tạo ra ở một mức độ nào đó, hay ít ra do chúng quy định. Nhiều đệ tử đến với thày khi họp nhóm tại khóa tu của thày ở tầng thứ ba, và họ nói: “Nhưng Serapis Bey, chúng con vẫn còn đang hiện thân trong cõi vật lý. Chúng con hiểu là thày như một chân sư thăng thiên không sợ các điều kiện trên địa cầu như chiến tranh, bệnh tật hay nghèo đói. Chúng con hiểu chuyện đó, nhưng liệu thày chẳng thấy được là chúng con vẫn đang đầu thai và chúng con có nguy cơ trải qua những điều kiện đó hay sao? Chúng con tưởng là khi mình đạt được tự điều ngự, mình cũng sẽ đạt được điều ngự của tâm trên vật chất hầu tránh được những điều kiện đó trong cõi vật lý, nhưng bây giờ chúng con hiểu ra – và thày cũng đang bảo vậy – là chúng con chưa có được khả năng tự điều ngự này, và rất có thể chúng con cũng sẽ không có được khi hoàn tất khóa tu. Vậy thì làm sao chúng con khắc phục sợ hãi khi không thể thay đổi điều kiện vật lý?”

Con yêu dấu, thày hiểu hoàn toàn tại sao con phải đối mặt với tình thế có vẻ khó xử này. Chính thày cũng đã phải đối mặt với nó khi còn hiện thân, y như mọi chân sư thăng thiên khác. Thế nhưng thày đã thăng thiên khỏi địa cầu cũng như các chân sư khác. Làm thế nào thày đã thăng thiên? Vì thày nhận ra chìa khóa để khắc phục sợ hãi không phải là loại bỏ các điều kiện bên ngoài mà là làm việc trực tiếp trên nỗi sợ bên trong.

Sợ hãi không do điều kiện bên ngoài gây ra. Sợ hãi là do một điều kiện bên trong, một quyết định nào đó trong tâm con. Khi con bước vào tâm thức nhị nguyên, con cũng bước vào cõi giới của sợ hãi. Sợ hãi là người bạn đồng hành không thể tránh khỏi của tâm thức nhị nguyên và tách biệt. Tại sao như thế? Bởi vì bản chất của nhị nguyên chính là sự kiện con có một cái gì đó phản ứng với con mà sau đó con phản ứng lại.

8.5. Cuộc đời như một trận quần vợt

Như thày đã cho sứ giả này thấy, cuộc sống trong thế gian vật lý có thể ví như một trận đấu quần vợt. Nếu con đứng trên sân quần vợt với một chiếc vợt và một bộ banh, con có thể đánh banh sang bên kia sân, nhưng con có thể đánh như vậy được bao nhiêu lần nếu trái banh không trở lại? Con có thể học được gì về môn quần vợt nếu không có đấu thủ nào bên kia sân đánh banh lại cho con? Tất nhiên con có thể chọn không bước lên sân quần vợt, nhưng thật là không có gì sai trái nếu con bước lên sân và bảo: “Tôi mong muốn trải nghiệm trò chơi quần vợt, thậm chí trở thành một cao thủ đạt tới mức điêu luyện, một mức điều ngự nào đó.” Chuyện bước vào nhị nguyên cũng không có gì quan trọng hơn một trận đấu quần vợt như vậy, cho dù sa nhân có muốn bao trùm tất cả trong tư duy cuồng đại của chúng dựa trên sợ hãi.

Từ một nhãn quan không sợ hãi, nhị nguyên chỉ là một trò chơi. Nó mang lại cho con một trải nghiệm nào đó, và con có thể đạt được một mức độ thành thạo nào đó khi con chơi trò này. Nhưng tất nhiên từ nhãn quan không sợ hãi đó, mục đích chơi trò nhị nguyên không nhằm đạt đến điêu luyện, mà đạt đến điểm khi nó cho con một khả năng điều ngự cái ta để con có thể nói: “Thôi, tôi đã quá đủ trải nghiệm này rồi. Nó đã dạy tôi nhiều hơn về con người mà tôi là hay không là, và giờ đây tôi sẵn sàng bỏ lại trò chơi đằng sau.”

Con cần bắt đầu suy ngẫm một cách ý thức về những ý tưởng vừa rồi, bởi vì chắc chắn một trong những nỗi sợ vi tế nhất do sa nhân xui khiến là cái mà các thày gọi là tư duy cuồng đại. Tư duy này bảo rằng chuyện đấu tranh giữa hai thế lực của ánh sáng và bóng tối là một công cuộc trọng đại hàng đầu, và những gì con làm khi con chơi trò này – hay đúng hơn, khi con tham gia vào thực tế biểu kiến này – hệ trọng không thể tưởng tượng nổi.

Con cần đạt tới điểm nhận ra là không có gì xảy ra trên địa cầu có tầm quan trọng như sa nhân quả quyết. Nếu con không nhận ra điều này, con sẽ không thể buông bỏ rất nhiều những ý định vi tế đã được sa nhân tạo dựng dựa trên cuộc chiến cuồng đại giữa thiện và ác. Thày đã nói điểm này rồi và thày nói lại một lần nữa. Mục đích của các chân sư thăng thiên không phải là để đệ tử giao chiến với sa nhân. Mục đích của sự tự điều ngự không phải là để con có khả năng đánh bại sa nhân, đánh bại các thế lực của bóng tối đang gây ra đủ loại tệ nạn tàn ác trên trái đất. Khi nào con còn nghĩ đó là mục đích của mình, khi nào con còn có ý định đạt được loại quyền năng đó để đánh bại thế lực bóng tối, thì ý định của con vẫn dựa trên sợ hãi.

Con không cần đánh bại thế lực bóng tối mà con cần đem lại ánh sáng. Con không thể là cánh cửa mở cho ánh sáng khi con còn có lòng sợ hãi trong con và chưa sẵn sàng nhìn vào những điều kiện trong chính tâm con. Làm thế nào để cuối cùng con khắc phục được nỗi sợ những điều kiện trên trái đất? Con sẽ không khắc phục được bằng cách thay đổi chúng, bằng các tiêu diệt, xóa bỏ chúng hay bằng cách bảo vệ bản thân mình khỏi chúng. Bất kỳ sự bảo vệ nào mà con tìm kiếm trên địa cầu, bất cứ sự bảo vệ vật chất nào, cũng sẽ trở thành nhà tù giam con lại. (Ở đây thày đang nói đến bảo vệ vật lý, vì bảo vệ tâm linh thì khác).

Những nhà quyền quý thời Trung cổ ngồi trong lâu đài kiên cố đã bị giam cầm trong lâu đài của họ. Những ai mặc bộ áo giáp tuy được bảo vệ nhưng cũng bị giam trong cái hộp sắt, và thày có thể cam đoan với con đó không phải là một cảm giác dễ chịu. Con không khắc phục sợ hãi bằng cách loại bỏ điều kiện mà con sợ. Con chỉ khắc phục sợ hãi bằng cách đi vào nỗi sợ, nhìn ra là nó không có thực thể, nhìn ra quyết định mà con đã lấy khiến con tin nó có thực thể, và con tháo gỡ điều kiện đó đi.

8.6. Ý định dựa trên sợ hãi không thể khắc phục sợ hãi

Con yêu dấu, tới đây là sự ngộ ra một điều cốt yếu: Khắc phục sợ hãi không thể xảy đến qua một ý định dựa trên sợ hãi. Nếu ý định của con dựa trên sợ hãi, con không thể khắc phục sợ hãi, Cho nên một lần nữa, con lại phải đối mặt với một tình thế có vẻ khó xử, một tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nhưng tất nhiên, nó chỉ khó xử vì con nhìn nó từ một tâm trạng sợ hãi.

Đó là tại sao các khai ngộ mà con đối mặt ở tầng thứ ba tại nhập thất của thày nhằm giúp con phát huy một ý định dựa trên tình thương. Con có thể tự giúp mình bằng cách suy ngẫm điều này trong tâm ý thức. Ở tầng này, các thày làm rất nhiều việc nhằm giúp con khắc phục lòng sợ hãi nơi bản sắc thể, trí thể và cảm thể của con. Con chỉ có thể hoàn tất công việc bằng cách con cũng nhìn vào nỗi sợ với tâm ý thức của mình.

Con cần nhận ra điều thày vừa nói, rằng mục đích là khắc phục sợ hãi, nhưng con không thể làm được nếu ý định của con dựa trên sợ hãi. Con phải nẩy nở một ý định có ý thức dựa trên tình thương. Con làm điều này bằng cách suy ngẫm xem những gì đã thực sự dẫn con đến khóa nhập thất của thày, đã thực sự dẫn con vào con đường tâm linh và khóa tu này. Khi con lập danh sách những ý định xuất phát từ sợ hãi, con có thể thấy có một số ý định đã đưa con đến đường tu tâm linh. Hầu hết đệ tử đều có một số ý định dựa trên sợ hãi khiến họ bước trên đường tu. Họ tìm cách thoát khỏi một cái gì đó. Con tìm cách bù đắp cho những lỗi lầm mà chính mình đã phạm vào trong quá khứ hoặc những thiếu sót và bất toàn mà mình nhận thức nơi mình. Con tìm cách trở nên toàn hảo đến độ Thượng đế sẽ phải nhận con vào Nước Trời cho dù con chưa thực sự chuyển đổi trạng thái tâm thức của con, ý niệm về cái ta của con.

Khi con lập danh sách những ý định đó và thấy được là chúng dựa trên sợ hãi, trong con sẽ hừng sáng. Con sẽ nhận ra là mặc dù những ý định đó có ảnh hưởng đường tu của con, chúng không hoàn toàn giải thích được tại sao con lại đang bước đi trên đường tâm linh và tại sao con lại tới được điểm này khi con đang học cuốn sách này. Con không thể nào bước qua các khai ngộ của ba tia sáng đầu và đến được khai ngộ của Tia thứ Tư nếu ý định của con hoàn toàn xuất phát từ sợ hãi. Thật là không thể.

Lòng sợ hãi đã phải khiến con bác bỏ khóa tu này từ lâu rồi hay đã phải khiến con nói: “Tôi sẽ nghỉ chân chút xíu để sẽ tiếp tục sau đó” – cái “sau đó” không bao giờ tới. Khi con suy ngẫm điều này, con sẽ khám phá là có một cái gì đó mà con thương yêu về đường tu tâm linh, về các chân sư thăng thiên, về cõi thăng thiên, về ý tưởng tự thăng vượt, về ý tưởng mình bước đi trên đường đạo. Có cái gì đó mà con yêu thương và cái đó trở thành điểm cố định để con khắc phục những nỗi sợ của mình.

8.7. Tình thương là điểm cố định của con

Hẳn con đã nghe câu nói này của vị cha đẻ của khoa hình học, nhà hiền triết Hy lạp cổ Archimedes: “Hãy cho ta một điểm cố định và một đòn bẩy thì ta sẽ chuyển dời cả vũ trụ.” Cũng vậy, trong một cõi chưa thăng thiên vẫn bị sợ hãi chi phối, chỉ có một điểm cố định mà thôi, đó là tình thương. Khi con có tình thương, con sẽ dời chuyển được vũ trụ. Đồng ý, thày cũng biết là ở mức hiện tại của con, có thể con chưa có đủ tình thương ở một cường độ và hàm lượng để mà chuyển dời vũ trụ. Thày không yêu cầu con chuyển dời vũ trụ mà chỉ yêu cầu con chuyển dời nỗi sợ kế tiếp mà con sắp sửa đối mặt ngay bây giờ. Sau đó tất nhiên, thày sẽ yêu cầu con chuyển dời nỗi sợ tiếp theo, nhưng thày sẽ chỉ yêu cầu con chuyển dời những gì con có khả năng làm được ở mức hiện thời của con mà thôi.

Đây là việc thày làm khi con gia nhập khóa tu của thày trong các thể thanh cao của con. Nếu con hòa điệu được với điều đó trong tâm ý thức, hầu hết các con sẽ có khả năng nhận ra trong ý thức nỗi sợ nào con đang cải sửa. Sau đó con có thể xem xét nó, con có thể bước vào nó – với thày nắm tay con nếu con muốn – và con có thể thấy được tính không thực ở đằng sau nó.

Một lần nữa con hãy lưu ý, trên địa cầu có những điều kiện có thể hiện thực theo nghĩa tạm thời. Thày không yêu cầu con nhìn thấy tính không thực của điều kiện đó, mà nhìn thấy tính không thực của nỗi sợ của con đối với điều kiện đó. Thày biết rất rõ trên địa cầu có nhiều điều kiện có vẻ vô cùng hăm dọa. Có thể con gặp cảnh chinh chiến và phải bỏ mạng. Có thể con bị mắc chứng bệnh ngặt nghèo và qua đời. Cơ thể con sẽ ngày càng già đi và cuối cùng nó sẽ tắt thở. Hiển nhiên con không thể thay đổi những điều kiện đó, nhưng điều mà thày yêu cầu con làm là nhận ra là con không cần thay đổi chúng.

Sự thăng thiên và phát triển tâm linh của con không tùy thuộc vào việc con thay đổi bất cứ điều kiện nào bên ngoài con. Nó chỉ tuỳ thuộc vào một điều duy nhất, đó là con nhận ra không có một điều kiện nào trong vũ trụ vật chất có khả năng định đoạt con là gì khi con là một sinh thể tâm linh.

Đây là một trong những tác động tinh vi nhất của sa nhân. Biết bao người trên trái đất tin rằng chính các điều kiện vật chất mới định đoạt được họ, định đoạt họ là loại sinh thể gì, họ có thể làm gì và đặc biệt là họ không được làm gì. Cho nên khi con bị bệnh tật, phải bỏ mạng trên chiến trường hay chết già, con tưởng cái đó định đoạt được con, cái đó ngăn cản con tiến bước trên đường tâm linh.

8.8. Khắc phục nỗi sợ chết

Nhiều người đã sống cả đời lo sợ một điều kiện nào đó, chẳng hạn sợ chết. Thế rồi trên giường hấp hối, họ bỗng ngộ ra là chết không có gì đáng sợ, bởi vì chết không phải là hết, và họ sẽ tiếp tục hiện hữu. Thày nghĩ con cũng nhận ra là con sẽ tiếp tục sống mãi sau cái chết và con đã chết nhiều lần rồi trong bao nhiêu kiếp trước. Liệu con có hoàn toàn nhận ra trong tâm ý thức là cái chết sẽ không ngăn cản sự phát triển tâm linh hay thăng thiên của con?

Nếu con tin là Giê-su đã thăng thiên và cũng đã chết trên thập tự giá, thì con thấy đó, ngay đó, cái chết, cái chết vật lý, không ngăn cản con thăng thiên. Do đó mà con biết cái chết cũng không ngăn con học hỏi một số bài học và tăng trưởng. Cho dù con phải đối đầu với điều kiện nào trên địa cầu này đi nữa, cho dù nó có khủng khiếp tới đâu và khiến con đau khổ và đau đớn tới đâu, nó vẫn không thể quy định được con, không thể ngăn cản được con tăng trưởng hay thăng thiên.

Nhiều người đã phải đối mặt với một điều kiện nào đó hầu khắc phục nỗi sợ của mình đối với điều kiện đó. Mục đích của khóa học này và mục đích của các Thượng sư hiển nhiên là để giúp con tới được điểm khi con có thể khắc phục lòng sợ hãi các điều kiện vật lý mà không phải đối mặt và trải nghiệm những điều kiện đó. Các thày không muốn con sống những ngày còn lại của kiếp này trong nỗi sợ chết và chỉ khắc phục được nỗi sợ chết trên giường hấp hối. Các thày muốn con khắc phục nó ngay bây giờ để con có thể sống phần đời còn lại mà không sợ chết, không sợ bệnh tật, không sợ chiến tranh hay bất kỳ điều kiện nào khác mà con có thể sợ.

8.9. Lật bỏ định luật thiên nhiên

Đó là điều thày cố đạt được ở tầng thứ ba tại khóa nhập thất của thày. Tại sao lại quan trọng như vậy? Bởi vì như thày đã có giải thích, mục đích của khóa tự điều ngự này là để giúp con điều ngự các định luật cơ bản của thiên nhiên do các Elohim quy định. Những định luật này có khả năng lật bỏ các định luật phụ thuộc của thiên nhiên do sa nhân ấn định.

Con đã thấy Giê-su thực hiện những việc được gọi là phép lạ, nhưng đó không là phép lạ. Giê-su hiện thân trong một xã hội và ở một thời điểm khi mọi người đều bị giam hãm trong lòng sợ hãi đến độ tâm trí lẫn thân xác họ trở thành lệ thuộc vào các định luật phụ thuộc của thiên nhiên. Đối với họ, các định luật này là những chướng ngại tưởng chừng không sao vượt qua nổi. Và Giê-su chứng tỏ là khi con đạt được tâm thức Ki-tô, con có thể bắt đầu sử dụng các định luật cơ bản của thiên nhiên để lật bỏ, gạt sang một bên, vô hiệu hóa các định luật phụ thuộc.

Mục đích của các thày là giúp con điều ngự các định luật cơ bản và thực sự khắc phục không những lòng sợ hãi các định luật phụ thuộc, mà ngay cả mong muốn điều khiển các định luật này. Như thày có nói, con có thể đạt được một khả năng điều khiển nào đó đối với các định luật phụ thuộc, và đó là chuyện mà các thày giả sẽ dạy con. Thày không dạy chuyện đó, và các Thượng sư khác cũng vậy.

Điều này cũng có nghĩa là con không sử dụng bừa bãi các định luật cơ bản của thiên nhiên để lật bỏ các định luật phụ thuộc. Con sẽ thấy là Giê-su đã không chữa lành cho mọi người bệnh tật mà thày gặp. Thày đã không phục sinh cho mọi người lìa đời chung quanh thày. Thày đã không biến mọi bình nước thành bình rượu. Thày đã không đi bộ trên mặt nước mỗi ngày. Thày chỉ làm những việc đó để cho con thấy những gì có thể được thực hiện khi con xoay tâm mình từ một tâm trạng dựa trên sợ hãi sang một trạng thái tâm dựa trên tình thương. Qua đó, con đạt được khả năng thăng vượt, và con không còn bị ràng buộc trong các định luật phụ thuộc của thiên nhiên, mà thay vào đó, con trở thành một cánh cửa mở để các định luật cơ bản của thiên nhiên vận hành xuyên qua con.

8.10. Trở nên trung hòa

Con cũng vậy. Các thày không thể giúp con hoàn tất khóa tu này nếu con hình thành ý định muốn điều ngự các định luật cơ bản để khoa trương với người khác hay để chứng tỏ bất cứ điều gì với ai. Con hiểu là khi Giê-su thực hiện tất cả những cái gọi là phép lạ đó, thày đã không quyết định bằng tâm vỏ ngoài: “Tôi sẽ chữa lành vị này.” Giê-su hoàn toàn trung hòa.

Thày là cánh cửa mở để đoàn chưởng giáo ở trên thày có thể hành động qua thày và quyết định xem người đó có nên được chữa lành hay không. Dĩ nhiên Giê-su đã nói: “Kẻ nào tin ta cũng sẽ làm được những việc mà ta làm.” Các thày có ý định đưa con tới điểm khi con có thể làm được những việc mà Giê-su đã làm, nhưng điều này không có nghĩa là Tánh linh sẽ làm cùng những việc xuyên qua con y như Tánh linh đã làm xuyên qua Giê-su. Đó là quyết định của Tánh linh, dựa theo một lượng định riêng rẽ mỗi hoàn cảnh thực tế.

Do đó, con không thể trở thành một cánh cửa mở nếu con có một ý định nào đó về những gì Tánh linh phải làm hay không được làm. Thày biết rõ ở mức này con chưa thể hoàn toàn khắc phục được ý định này. Nhưng thày muốn con có sự nhận thức để con ghi lại đâu đó trong tâm con. Có thể sẽ đến một thời điểm trên đường tu khi đây chính là cái ý định mà con cần phải khắc phục hầu tiến bước xa hơn.

Một lần nữa, các thày không có mục đích chế tạo ra một kết quả vỏ ngoài cụ thể nào trên địa cầu. Đúng vậy, Saint Germain có một kế hoạch thị hiện một thời hoàng kim trên trái đất, nhưng đó không phải là một kế hoạch được vạch ra trong từng chi tiết. Có rất nhiều khoảng trống để cho Tánh linh hoạt động cũng như cho quyền tự quyết trải bày ra. Chỉ có một ý định chung chung, và đó chính là cách vận hành của ý định dựa trên tình thương. Ý định dựa trên tình thương không phải là một cái áo tù bó tay bó chân. Thày có nói là con cần tự đặt mình cho thẳng hàng với đoàn chưởng giáo bên trên con, nhưng điều này không có nghĩa là con đánh mất quyền tự quyết và khả năng sáng tạo cá nhân của mình.

Khi con đứng thẳng hàng với Tánh linh, có những điều mà con sẽ không bao giờ nghĩ tới là con sẽ làm hay mong muốn làm. Trong khuôn khổ tổng quát của Sứ vụ Thiêng liêng của con và nhu cầu ngay lúc đó, con vẫn có khoảng không gian để sử dụng khả năng sáng tạo và tự lấy quyết định. Đây là cách hiểu mà con cần phải đạt được, bởi vì nếu con sợ là con sẽ phải từ bỏ quyền tự do, quyền tự quyết cũng như sự sáng tạo của mình khi con bước trên đường tu và hoàn tất khóa này, thì đó sẽ lại là một ý định dựa trên sợ hãi sẽ kìm hãm bước chân con.

Đây không phải là vấn đề con mất ý chí tự do của mình, mà thật ra ý chí của con sẽ tìm được tự do vì con không còn ý định dựa trên sợ hãi do sa nhân lập trình nơi tiềm thức, qua đó chúng có thể điều khiển con, điều khiển những chọn lựa của con, thậm chí cả những chọn lựa mà con có thể thấy được.

8.11. Sáng tạo không bù đắp cho thiếu sót

Làm thế nào sa nhân kiểm soát được con người? Bằng cách giới hạn những chọn lựa mà con người có thể thấy được, bằng cách khiến con nghĩ là có những chuyện không thể hay không được phép, hoặc con nghĩ là con không thể hay không được phép thị hiện và biểu đạt tâm Ki-tô của con, hoặc con nghĩ là con không muốn chuyện đó vì nó sẽ giam con lại trong một chiếc áo tù bó tay bó chân.

“Ý định… ý định… ý định.” Ý định dựa trên tình thương sẽ giải thoát con khỏi mọi sợ hãi. Nó cũng sẽ giải thoát sự sáng tạo trong con để con có thể thực sự sáng tạo khi con nhìn ra và hiển thị viễn quan cao hơn, thay vì cố bù đắp cho các điều kiện, bù đắp cho những thiếu thốn và thiếu sót con đang chứng kiến trên địa cầu. Thày đồng ý với con là trên địa cầu có rất nhiều điều không lý tưởng, và lý tưởng nhất thì cần phải thay đổi chúng đi. Con có thể đã tới đây để đem lại một số thay đổi cho địa cầu, nhưng sự thay đổi mà con tới đây để cống hiến không phải là một sự phản ứng trước các điều kiện bất toàn hiện hữu. Sự thay đổi đích thực, sự sáng tạo đich thực, là đem lại một cái gì mới mẻ đến độ nó thay thế hẳn những điều kiện hiện thời.  

Thày có đề cập tới trận đấu quần vợt nơi con có một đối thủ đánh banh lại cho con. À, đó chính là một chức năng của sa nhân. Chúng hình thành một loại đối thủ cho tất cả những ai không đến nỗi hung hãn như chúng. Tất nhiên, chính con cũng hình thành một đối thủ cho chúng để tạo cho chúng một cơ hội chán ngán cuộc chơi.

Chúng sẽ là đối thủ của con cho tới khi con còn chơi trong trận đấu và bị kẹt lại trong nhị nguyên, cho tới khi con còn nghĩ là trong vai trò một đệ tử tâm linh, ý định của mình phải nhằm cải sửa, thay đổi, loại trừ những hạn chế hiện thời trên trái đất và diệt bỏ cái ác khỏi trái đất. Đó không phải là mục đích thật của con. Ý định đích thực dựa trên tình thương của con là chứng tỏ có một sự chọn lựa khác ngoài trạng thái tâm thức nhị nguyên.

Tại sao nền công nghệ hiện đại không thể giải quyết được mọi vấn đề? Tại sao cách tiếp cận ngành y khoa hiện thời không thể chữa lành được mọi bệnh tật? Đó là vì nó dựa trên sợ hãi, nó nhằm mục đích thay đổi các điều kiện khởi lên từ nhị nguyên thay vì đem lại một cách tiếp cận mới, một cách nhìn vấn đế dựa trên tình thương để cống hiến một giải pháp không nhằm bù đắp cho các giới hạn mà thăng vượt chúng hoàn toàn.

Thày đã cho con rất nhiều điều để suy ngẫm trong bài giảng này, nhưng thày không cho con nhiều hơn khả năng hấp thụ của con ở tầng khai ngộ này. Nếu con đang học “cấp tốc” theo chương trình chín ngày cho mỗi bài học, có thể con sẽ muốn đi xa hơn một chút về khai ngộ tình thương. Có thể con sẽ muốn dành thêm chút thì giờ xem xét ý định của mình, vì nó sẽ giúp con vượt qua dễ dàng hơn cuộc khai ngộ ở tầng thứ tư kế tiếp khi con sẽ nhận được một liều tinh khiết gấp đôi. Sẽ khó đương đầu với một liều tinh khiết gấp đôi nếu con không có một ý định hoàn toàn dựa trên tình thương.

Serapis Bey TA LÀ.

Ý định thuần khiết khi tìm Minh triết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapia Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/1/2016.

TA LÀ chân sư thăng thiên Serapis Bey. Mục đích bài giảng này là để cho con một số gợi ý qua nhận biết vỏ ngoài hầu giúp con hòa điệu và vượt qua các khai ngộ ở tầng thứ hai tại khóa nhập thất của thày ở Luxor. Tất nhiên đây là mức của Tia sáng thứ Hai, tia của minh triết. Chúng ta hẳn đã kinh qua những sáng ngộ và khai ngộ quan trọng dưới thày Lanto, nhưng thày muốn đưa con đi xa hơn một chút bằng cách nối liền minh triết với ý định của con – sự thuần khiết trong ý định của con khi con tìm minh triết.

Thày muốn con nhìn xem thế gian nhìn minh triết như thế nào. Đã có một thời, nhiều thế kỷ và ngay cả hàng thiên niên kỷ về trước, người ta nhìn minh triết khác với ngày nay. Khi lớn lên trong thế giới hiện đại, con khó lòng tưởng tượng được con người thời cổ đại nhìn minh triết như thế nào. Thày không bảo là cách tiếp cận minh triết của họ nhất thiết cao hơn những gì ngày nay đạt được, mà thày muốn nói là chắc chắn cách hiểu minh triết của họ tinh tế, và theo một nghĩa nào đó, cũng sâu sắc hơn những gì có thể tìm thấy nơi hầu hết các cơ sở giáo dục trong thế giới hiện đại.

6.1. Kiến thức phàm phu có giới hạn

Thuở đó, con người nhận ra là kiến thức phàm phu có giới hạn. Hiển nhiên, chuyện này dễ hơn cho họ vì kiến thức con người thời đó giới hạn hơn ngày hôm nay. Con đã lớn lên trong một thế giới chứng kiến sự bùng nổ của thông tin. Chưa bao giờ có nhiều kiến thức đến như vậy được cống hiến cho mọi người trên địa cầu. Thật ra khi thày bảo “chưa bao giờ”, thày muốn nói là chưa bao giờ trong lịch sử được ghi lại, bởi vì chắc chắn trong những thời đại trước đã có những nền văn minh cống hiến nhiều kiến thức hơn bây giờ nữa. Trong cái mà con gọi là lịch sử, con sống trong một xã hội với nhiều trí tuệ, nhiều kiến thức đến độ con không thể hiểu hết được. Không một ai có khả năng biết hết được.   

Vào thuở khi kiến thức ít hơn, người ta nhận ra là cách duy nhất để thực sự thành công trong đời không phải là qua kiến thức vỏ ngoài mà qua minh triết bên trong. Đó là một dạng minh triết cao hơn, một hình thức mà ngày nay con sẽ gọi là trực giác, nhưng thời đó người ta gọi bằng những tên khác bây giờ. Họ xem đó là sự hướng dẫn từ Trên. Một số nền văn hóa xem đó là những vị thày tâm linh, những vị hướng dẫn từ tánh linh, và một số khác coi đó là phần cao hơn của chính bản thể của mình. Họ nhận ra sự hiện hữu của một dạng hiểu biết hay trí tuệ cao hơn những gì tâm trí phàm phu có khả năng sản xuất ra.

Cũng có những nền văn hóa khác và những thời kỳ khác khi sự hiểu biết mà chúng ta có thể gọi là minh triết của Mẹ, minh triết nữ tính, hiện diện. Đây là kiến thức về cách vận hành của thế gian, cách vận hành của vũ trụ. Có nhiều người đã đạt được một hiểu biết trực giác về cách vận hành của thế giới lớn hơn cả các nhà khoa học thời nay. Thày không bảo đó là một dạng minh triết nhất thiết cao trội hơn, mặc dù trong một số trường hợp, đã có những người trực nhận được cách vận hành của thế giới vượt khỏi ngay cả tầm hiểu biết của những nhà khoa học tài ba nhất thời nay. Chẳng hạn, có những người có hiểu biết trực giác cao hơn về cơ thể con người, và họ có thể thực hiện một số kỹ thuật chữa bệnh vượt xa khả năng của các bác sĩ tài giỏi nhất hiện nay. Điều mà họ không làm được thời đó là giải thích cách trị liệu của họ vận hành như thế nào và tại sao nó lại hiệu quả, và tất nhiên, đây là một sự khác biệt và một lãnh vực mà ngày nay con người đã có tiến bộ. Ý của thày ở đây không phải là bảo rằng sự bùng nổ tri thức vĩ đại do khoa học tạo ra trong vài thế kỷ vừa qua là thô sơ hay sai lầm.

6.2. Tự điều ngự và hiểu biết từ bên trong

Nhưng mục đích của thày là giúp con, trong vai trò một học trò của chân sư thăng thiên đang bước vào đường tu tự điều ngự, thấy được là con sẽ không đạt được tự điều ngự qua kiến thức đến với con từ ngoài. Nếu con nhìn vào xã hội ngày nay và cách nhìn của xã hội về minh triết hay kiến thức, con sẽ nhận thấy một xu hướng rõ rệt cho rằng sự hiểu biết đáng tin cậy chỉ có thể đến từ một nhà chuyên môn, một khuôn mặt thẩm quyền nào đó.

Hiện vẫn còn một số xã hội trông vào các vị chức sắc có thẩm quyền tôn giáo bảo họ phải tin những gì về một số khía cạnh của cuộc sống. Người ta tin là những chức sắc tôn giáo này có được thẩm quyền đó dựa trên hiểu biết kinh điển, hay trong một số trường hợp, một khải huyền nào đó từ cõi Thiêng liêng. Và có những lãnh vực khác trong xã hội nơi người ta trông vào các nhà khoa học để cung cấp kiến thức đáng tin cậy.   

Một lần nữa, khoa học đã có những tiến bộ rất lớn để giải thích nhiều điều về cách vận hành của vũ trụ vật chất. Tuy nhiên, là một học trò tâm linh, con cần nhận ra là cách tiếp cận của khoa học hiện đại vô cùng giới hạn. Nó giới hạn chính vì ngay từ những bước đầu, khoa học đã trở thành công cụ cho một số sa nhân âm mưu sử dụng. Trước tiên, chúng đã sử dụng để cố giành quyền lực trong xã hội mà một số sa nhân khác đã chiếm hữu qua tôn giáo. Và do đó, cuộc chiến giữa khoa học và tôn giáo một phần lớn đã là một cuộc tranh giành giữa hai nhóm sa nhân.

Sau khi chúng đoạt được một phần quyền lực khỏi tay tôn giáo, giờ đây các sa nhân đó đang bắt đầu sử dụng khoa học làm phương thức kiểm soát con người. Con có thể nghĩ sa nhân có nhiều lý do để muốn kiểm soát con người, và đúng vậy, có nhiều tầng cấp sa nhân với nhiều loại động lực khác nhau muốn kiểm soát con người. Nhưng đằng sau những lý do đó là một mong muốn bao trùm lên tất cả – nhắm vào mọi người đang đầu thai trên điạ cầu – là đảm bảo là con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô cá nhân của con.

Quả vị Ki-tô cá nhân, tất nhiên, là trạng thái khi con biết rõ từ bên trong hiểu biết nào là chính đáng và hiểu biết nào là không chính đáng. Con tự đủ, con độc lập; không một khuôn mặt thẩm quyền nào, không có một chuyên gia nào có thể bảo con điều gì đi ngược lại với những gì con biết từ bên trong. Quả vị Ki-tô là sự phối hợp giữa khả năng tiếp nhận hiểu biết từ một nguồn cao hơn – tức là Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên – với khả năng hòa điệu với vũ trụ vật chất cùng minh triết của Mẹ.

6.3. Niềm đam mê kiến thức trí thức

Khi con đến với tầng khai ngộ thứ hai tại nhập thất của thày, thày cần bỏ ra rất nhiều công sức để giúp đệ tử khắc phục nỗi ám ảnh, niềm đam mê mà con có đối với kiến thức khoa học, trí thức, vỏ ngoài. Thày có nhiều cách làm điều này, nhưng chủ yếu thày đưa đệ tử vào một căn phòng được xây đặc biệt cho mục đích đó. Đây là một căn phòng thày đã xây dựng với sự giúp đỡ của thày Lanto. Trong căn phòng này, như Lanto đã có mô tả trong khóa học của mình, các thày có thể làm hiển lộ năng lượng của minh triết, năng lượng của hiểu biết. Các thày có thể cho thấy các hình dạng kỷ hà đằng sau những gì con gọi là kiến thức vỏ ngoài, nghĩa là kiến thức có thể biểu đạt bằng ngôn từ.

Cho nên các thày có thể cho thấy năng lượng ở đằng sau kiến thức phàm phu. Thậm chí các thày còn có thể cho con thấy một số ý tưởng, một số loại kiến thức, không trung lập như thế nào. Con hẳn cũng biết “chén thánh” của chủ nghĩa khoa học duy vật, từ khoảng hai thế kỷ nay, là tính khách quan. Tâm của nhà khoa học được coi như không có ảnh hưởng gì đến các quan sát, và người ta tin rằng những kết luận đạt được qua quan sát như vậy sẽ không bị tâm của nhà khoa học ảnh hưởng.

Và do đó người ta cũng tin rằng kiến thức của khoa học hoàn toàn trung lập. Nó chỉ có mục đích cung cấp sự thật cho con, nó hoàn toàn không có chủ đích gì khác hoặc tác dụng nào khác. Tuy nhiên, các thày có thể cho con thấy ở mức độ năng lượng là có một số lý thuyết trên thế giới, thậm chí một số thuyết mà gần như mọi người đều tin vào, có mang một số cái móc năng lượng được gài sẵn bên trong.

Thày biết chuyện này hơi khó hình dung, nhưng sẽ không khó lắm nếu con so sánh với thế giới điện toán. Con hẳn biết rõ là một chương trình máy tính có mã nhất định. Mã được viết trong ngôn ngữ mà máy tính đó sử dụng. Chương trình máy tính có thể chứa đựng một số thông tin mà nó có thể cung cấp cho con, nhưng thông tin này được mã hóa. Con cũng biết là người ta có thể chèn vào giữa mã hoặc bên trong mã, những mã ẩn gọi là vi-rút. Đây là những cái mã đi vào trong máy tính để thực hiện một số công việc không liên quan gì đến chương trình vỏ ngoài mà chúng bám vào. Thế là con có tình trạng màn ảnh của máy tính hiển thị một chuyện, nhưng đồng thời con vi-rút ẩn giấu đang làm một chuyện khác mà con không hề hay biết. Đó, một điều tương tự cũng xảy ra với những ý tưởng và lý thuyết mà sa nhân đã tạo ra. Đó đều là những kiến thức vỏ ngoài mà chúng bảo là có mục tiêu, có lý thuyết, có ý định nhằm giải thích thực tại vận hành như thế nào. Nhưng ẩn giấu trong đó là một số ý tưởng đã được mã hóa, ngay cả một số tín hiệu năng lượng, mà tâm ý thức không thấy được nhưng lại xâm nhập vào tiềm thức và hoạt động như một con vi-rút điện toán.

Tất cả các con được nuôi dạy trong thế giới hiện đại, đã bị lập trình với một số ý tưởng mà bề ngoài chủ trương cho con kiến thức – một kiến thức trung lập, khách quan, chính đáng – nhưng kỳ thực lại đang lập trình tâm con theo những cách vận hành đi ngược lại sự phát triển tâm linh cùng việc biểu hiện quả vị Ki-tô của con. Có nhiều ví dụ về sự thể này. Ở đây thày không có ý định thuyết giảng dài dòng vì đây là công việc mà nhiều chân sư thăng thiên sẽ thực hiện một lúc khác. Nhưng thày có thể cho con thấy một ví dụ về những điều con sẽ học hỏi tại nhập thất của thày.

6.4. Vấn đề với thuyết tiến hóa

Một trong những ý tưởng phổ biến nhất trên thế giới hiện nay, tất nhiên, là ý tưởng về sự tiến hóa. Khoa học duy vật trình bày thuyết tiến hóa hiện thời, do Charles Darwin khởi đầu, như là một cái nhìn khách quan về cách thức sự sống đã bắt đầu và đạt đến trình độ hiện tại. Hiển nhiên, đây là một lý thuyết hoàn toàn duy vật. Nó đã là vũ khí chủ yếu được sử dụng để tấn công tôn giáo, và nó đã khiến cho nhiều người bỏ rơi mọi niềm tin vào tôn giáo và tâm linh, để chấp nhận con người là một sinh thể hoàn toàn vật chất.

Tất nhiên, đó không phải là một ý tưởng mà con có thể dùng để đạt đến quả vị Ki-tô. Con không thể tin mình không là gì hơn một con thú đã tiến hóa mà đồng thời lại cất bước trên đường tu tâm linh hầu đạt được một trạng thái của tâm vượt xa tất cả những gì mà con người hay bất kỳ thú vật tiến hóa nào sẽ bao giờ đạt được. Thuyết tiến hóa trong dạng hiện thời quảng bá một cái nhìn về bản thân đối nghịch trực tiếp với sự phát triển Ki-tô của con. Các thày có thể cho con thấy trên màn ảnh làm thế nào những tin tưởng mà thuyết tiến hóa đã chèn vào trong trí thể của con đang thực sự ngăn con tiếp xúc với thể bản sắc.

Con cũng hiểu, con yêu dấu, là để phát triển quả vị Ki-tô, con cần làm việc với toàn bộ bốn thể phàm của mình. Con phải thanh tẩy cơ thể vật lý cho không còn một số độc chất và từ bỏ một số thói quen. Con không thể đạt được quả vị Ki-tô nếu con hút thuốc, dùng bất kỳ loại ma túy tiêu khiển nào hay uống rượu. Con không thể làm được vì cơ thể vật lý sẽ chặn đứng không để con tiếp xúc với ba thể kia cao hơn.

Đồng thời con cũng phải làm việc trên cảm thể để thanh tẩy một số năng lượng cảm xúc. Con không thể phát triển quả vị Ki-tô nếu con sợ hãi quá đáng bất cứ gì trong thế gian, nếu con tưởng mình đang sống trong một vũ trụ chỉ muốn hại mình, hay thậm chí nếu con sợ hãi lớp thượng lưu quyền lực, sợ hãi những thuyết âm mưu rộng lớn đang tìm cách hãm hại mình. Con không thể phát triển quả vị Ki-tô nếu con tràn ngập giận dữ hay oán hận đối với người khác và chỉ mong muốn trả thù, vì khi đó, cảm thể sẽ chặn đứng sự tiếp xúc ý thức của con với trí thể.

Cũng vậy, có những tin tưởng trong trí thể sẽ chặn đứng không cho con liên lạc với thể bản sắc của con. Và nếu con không thể thay đổi bản sắc mình một cách ý thức thì làm thế nào con sẽ phát triển được quả vị Ki-tô đây? Quả ví Ki-tô chính là sự xoay chuyển ý niệm bản sắc của mình, hầu con xem mình là một đứa con của Thượng đế, là sự nối dài của đoàn chưởng giáo thăng thiên ở trên con, và là sự nối dài của Hiện diện TA LÀ của con.

Giê-su đã nói gì? “Tự ta không làm được gì, mà là Cha ta ở trong ta làm mọi việc.” Cho nên nếu con không thể thanh lọc thể bản sắc của con cho không còn ý niệm mình là một con người phàm phu, thì làm sao con có thể để cho Cha trong con làm việc xuyên qua con? Không thể nào được.

6.5. Những ý tưởng ngăn chặn Ki-tô

Hầu hết mọi người đã bị lập trình với một số ý tưởng trực tiếp đối chọi lại sự phát triển tâm linh của mình. Tất nhiên, thày cần thách đố một số những ý tưởng đó, nhưng ở mức khai ngộ trong khoá học của thày, thày không có vai trò thách đố mọi ý tưởng. Tuy nhiên, điều mà thày sẽ làm là thách đố động cơ của con khi con tìm minh triết. Và dĩ nhiên, khi thày bảo là một số ý tưởng đã bị cài sẵn một con vi-rút trong đó, chúng ta có thể nói là tất cả mọi hiểu biết đến từ nền khoa học duy vật đã chứa sẵn vi-rút, vì khoa học duy vật tự phô diễn là nó nắm độc quyền về sự thật, độc quyền về kiến thức đáng tin cậy.

Chỉ những gì đã được khoa học duy vật minh chứng hay đo đạc mới được xem là hiểu biết chính đáng. Điều này, hiển nhiên là con không thể tin, không thể chấp nhận nếu con muốn xây dựng một động lực thuần khiết trong việc tìm minh triết. Vậy chủ nghĩa duy vật lập trình con làm gì? Nó lập trình con đi tìm một kiến thức cụ thể nào đó – không những một kiến thức duy vật, mà ngay trong bản chất, đó là kiến thức không thể vượt qua một mức độ nào đó. Đó không phải là minh triết hằng sống. Qua “minh triết hằng sống”, thày muốn nói đến sự hiểu biết dựa trên việc ngộ ra cách vận hành đích thực của thế gian.

Kiến thức duy vật bảo rằng vũ trụ vật chất là một đơn vị trọn vẹn, tự đủ. Hoàn toàn không có gì ngoài vũ trụ vật chất. Do đó, không có một nguồn năng lượng nào gửi năng lượng vào vũ trụ vật chất. Điều này, dĩ nhiên, ngược hẳn với thực tại về cách vận hành của vũ trụ. Vũ trụ được nâng giữ một cách liên tục, và cũng tăng trưởng một cách liên tục, vì có một dòng năng lượng tuôn ra từ cõi thăng thiên chảy xuống bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất. Nếu dòng chảy này ngừng lại ngày hôm nay, vũ trụ vật chất mà con quen thuộc sẽ bắt đầu tan rã nhanh chóng.  

Là một học trò tâm linh, con tuyệt đối cần phải vượt qua tin tưởng đó. Con có thể nói: “Nhưng Serapis Bey, làm sao con đã có thể hoàn tất được cuốn đầu trong bộ sách này nếu con không tin là có những chân sư thăng thiên cư ngụ nơi một cõi giới khác và các thày có khả năng gửi năng lượng cho chúng con?”  Đúng vậy, con yêu dậu, dĩ nhiên là con tin điều đó với tâm vỏ ngoài của con. Khi con đến với tầng khai ngộ thứ nhì ở nhập thất của thày, đã đến lúc thày cho con thấy là cho dù con có tin gì đi nữa trong tâm vỏ ngoài, vẫn còn một số tin tưởng, một số vi-rút, được gài sẵn trong cảm thể, trí thể và bản sắc thể của con. Chính những tin tưởng này sẽ ngăn chặn, hay bóp méo, động lực của con khi tìm kiếm minh triết.

6.6. Giấc mơ có hiểu biết bí mật

Biết bao đệ tử gia nhập khóa học về tự điều ngự của các thày với động lực tìm kiếm minh triết không thuần khiết và không xây dựng. Thày đã đề cập đến những kẻ tìm cách áp đảo người khác. Có rất, rất nhiều đệ tử, như Lanto có đế cập, tìm cầu hiểu biết để tranh đua với người khác và chứng tỏ mình cao trội hơn. Đó không phải là quan tâm lớn nhất của thày vì những ai đã thành tựu khai ngộ dưới Lanto đã vượt qua được khúc ngoặt này. Mối quan tâm của thày là có nhiều đệ tử vẫn tin rằng mình có thể tìm thấy một hiểu biết bí mật, một minh triết bí mật, một công thức bí mật nào đó sẽ cho mình khả năng kiểm soát vật chất, kiểm soát hoàn cảnh hay ngay cả kiểm soát người khác một cách máy móc.  

Con yêu dấu, trên thế giới có những người cởi mở với cái nhìn tâm linh về cuộc sống nhưng lại tìm cầu những câu thần chú, bùa chú để khiến cho người ta phải lòng mình. Thật sự, làm sao có người lại tin được là chuyện phù phép để bắt ép người khác yêu mình có thể là tình yêu chân thật, và đó không phải là chuyện thày muốn bàn ở đây, nhưng con có thấy ý thày không? Có rất, rất nhiều người vẫn tin rằng mục đích cất bước trên đường tâm linh là để lần lần nhận được một số kiến thức hay công thức bí mật nào đó sẽ cho mình một quyền kiểm soát tự động, máy móc. Thật không phải là vậy.

Đồng ý, con yêu dấu, có một số kiến thức, một số công thức mà các sa nhân đã phát triển suốt một thời gian rất dài. Việc đạt được những kiến thức và công thức đó là chuyện khả dĩ, và việc dùng tâm để phần nào điều khiển được vật chất cũng là chuyện khả dĩ. Nhưng đó không phải là con đường của chân sư thăng thiên; đó là con đường của hàng ngũ tà đạo.

6.7. Địa cầu khác như thế nào so với nguyên bản

Có lẽ con đã bắt đầu nhận ra là trong sách này, thày sẽ đề cập đến sự tương phản giữa các chân sư thăng thiên và hàng ngũ tà đạo, bởi vì chính trên Tia sáng thứ Tư mà con cần tự gia tốc để thoát hẳn khỏi tầm tay của hàng ngũ giả trá. Thày xin con hãy chăm chú lắng nghe và đọc đi đọc lại những đoạn này cho tới khi tâm ý thức của con bắt đầu nắm được điều thày muốn nói.

Con đang sống trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Một bầu cõi chưa thăng thiên không vận hành giống như cõi thăng thiên. Như con cũng biết nếu con đã tìm hiểu rộng rãi các giáo lý của các thày, một bầu cõi chưa thăng thiên là một cõi giới nơi các sinh thể có thể sử dụng quyền tự quyết của mình với một mức độ tùy ý rộng lớn. Các cư dân trên một hành tinh như địa cầu đã được phép phát triển và thị hiện nhiều loại điều kiện khác xa, rất xa, so với những gì hiện hữu nơi cõi thăng thiên. Thày chắc chắn con thấy được là chiến tranh không phải là một điều kiện đượt tìm thấy nơi cõi thăng thiên. Chiến tranh là gì nếu không phải là một ví dụ cùng cực cho thấy có những sinh thể sẵn sàng đi tới cùng để đoạt quyền lực và quyền kiểm soát trên con người? Nếu con đọc cuốn sách của Mẹ Mary về chiến tranh (Help the Ascended Masters Stop War – Hãy giúp các chân sư thăng thiên ngăn chặn chiến tranh), con sẽ thấy rõ sa nhân sẵn lòng làm những chuyện khủng khiếp tới mức nào.

Điều thày muốn chỉ ra cho con ở đây là những điều kiện có mặt trên trái đất hiện đang ở một tầm mức rất thấp so với cõi thăng thiên. Điều này có nghĩa là có một số định luật thiên nhiên, mà chúng ta có thể gọi là “phụ thuộc” đang hiện hành trên địa cầu. Chắc chắn con có các định luật thiên nhiên “gốc”, hay cơ bản, đang hiệu lực dựa theo viễn quan của các Elohim. Con hiểu là khi các Elohim tạo ra trái đất, hay nói rộng hơn toàn bộ vũ trụ vật chất, các thày đã ấn định ra một số quy luật thiên nhiên để – nếu có thể nói như vậy – gắn kết vũ trụ lại, gắn kết vật chất lại, hầu cho phép các cấu trúc vật chất được tồn tại, như các hành tinh hay thể xác vật lý của con. Đây là những định luật thiên nhiên mà thày gọi là cơ bản.

Vì cư dân địa cầu có quyền tự quyết, cho nên họ có khả năng tạo dựng một số điều kiện – không trực tiếp đối nghịch với các định luật cơ bản của thiên nhiên – mà tồn tại trong một vùng xám, nếu có thể gọi như vậy. Những điều kiện này được phép hiện hữu trong một trạng thái bất toàn bởi vì địa cầu là một dụng cụ giáo dục cho những ai không chịu lắng nghe sự hiểu biết trực tiếp từ chân sư thăng thiên. Trên địa cầu, họ có thể thị hiện một số điều kiện là cách biểu đạt của chính tâm thức họ. Và muc đích, dĩ nhiên, là để tạo cơ hội cho họ trải nghiệm cho đến khi họ chán ngán và mong mỏi một cái gì cao hơn.

Điều này khiến cho các cư dân nguyên thủy tạo dựng một số điều kiện gây giới hạn trên địa cầu, làm xuất hiện một vòng xoáy ốc hướng hạ khi họ không tự thăng vượt. Và như các thày đã có giải thích, đây là nguyên do khiến cho những đấng trông coi tiến trình tiến hóa của địa cầu cho phép một số sinh thể sa ngã đầu thai ở đây. Một số sa nhân này đã từng sa ngã ở một bầu cõi trước rồi, và do đó chúng đã có một thời gian rất dài để phát triển một khả năng điều khiển vật chất nào đó. Khi chúng đến địa cầu, chúng đã đem theo khả năng này và củng cố thêm vòng xoáy hướng hạ mà cư dân nguyên thủy đã tạo ra. Có thể nói, chúng đã bành trướng hay gia tốc cho vòng xoáy đó đi xuống thêm.

6.8. Các định luật phụ thuộc của thiên nhiên

Sự thể trên đã khiến cho tất cả mọi người sống trên trái đất chung sức tạo ra một số điều kiện nhất định. Chẳng hạn, vật chất ngày nay dày đặc hơn khi địa cầu mới được các Elohim sinh tạo. Điều này cũng có nghĩa là thân xác vật lý của các con ngày nay dày đặc hơn thân xác nguyên thủy của các cư dân đầu tiên trên hành tinh. Loài Homo sapiens – loài Người Tinh khôn – không phải là sự sáng tạo thuần túy của các Elohim, nhưng là một phiên bản sửa đổi của thân xác thuần khiết nguyên thủy do các Elohim. Thân xác các con dày đặc hơn, và đó là tại sao các con có thể mắc một số chứng bệnh.

Vật chất dày đặc hơn cho nên các con phải làm lụng mệt nhọc hơn để thị hiện những thứ con cần cho thân xác sống còn. Xác thân dày đặc hơn cũng cần nhận được nhiều chất dinh dưỡng dày đặc hơn chỉ có được từ một dạng dày đặc hơn của vật chất. Vật chất càng dày đặc thì càng phải làm lụng nhiều hơn để biến đổi vật chất. Đó là tại sao biết bao người đã đánh mất khả năng biến đổi vật chất bằng tâm trí, cho nên họ phải biến đổi vật chất qua thể xác vật lý, vì thể xác có cùng độ dày đặc như vật chất.

Hiện nay trên hành tinh địa cầu có một số định luật phụ thuộc của thiên nhiên không phải là định luật nguyên thủy do các Elohim ấn định. Những định luật này là do tâm thức tập thể của nhân loại định ra – dĩ nhiên là dưới sự hướng dẫn giấu giếm của sa nhân. Có những định luật phụ thuộc của thiên nhiên mà con có thể dùng để tạo ra một loại minh triết hay một công thức nào đó, hay một hình thức mà các thày gọi là tà thuật sẽ cho con một khả năng điều khiển nào đó trên vật chất một cách gần như máy móc. Thày nói ‘gần như máy móc” vì nó không hoàn toàn máy móc. Thật sự là không có một cách máy móc nào để kiểm soát vật chất trừ phi qua những phương tiện vật lý.

Mục đích của nền công nghệ hiện đại, nền công nghệ vật chất, là cho con khả năng máy móc để kiểm soát vật chất, kiểm soát thiên nhiên. Điều này chỉ có thể làm được ở mức độ vật lý, nhưng ở mức độ của tâm thì không thể làm được một cách hoàn toàn máy móc. Con không thể nghĩ ra một công thức mà tâm con có thể sử dụng, hay con có thể đọc lên như một câu bùa chú, một lời nguyền, hay một thành ngữ phù phép, hoàn toàn máy móc. Nhưng con có thể tạo ra một số công thức cho phép một số người điều khiển được vật chất phần nào, nhưng vẫn không hoàn toàn máy móc. Nó vẫn đòi hỏi một dòng năng lượng từ cõi tâm linh.

6.9. Tại sao sa nhân không kiểm soát được hoàn toàn

Điều trên có nghĩa là sa nhân không thể kiểm soát một cách hoàn toàn máy móc qua các định luật phụ thuộc của thiên nhiên và qua những công thức của chúng nhằm sử dụng các định luật này. Tại sao chúng không thể? Bởi vì một sa nhân đã sa ngã trong một bầu cõi trước, hay đã sa ngã xuống thấp hơn một mức tâm thức nào đó, không thể tiếp cận dòng chảy năng lượng chảy xuống từ cõi tâm linh. Vậy chúng phải làm gì đây? Chúng phải đoạt năng lượng đó bằng cách đánh cắp từ người khác, là những người vẫn còn dòng năng lượng chảy xuyên qua họ.

Vì thế mà con thấy cái khuôn mẫu vô cùng xưa cũ của một phù thuỷ nhận học trò tập sự. Tưởng chừng như phù thuỷ đang dạy cho học trò mọi thủ thuật của mình, nhưng song song y cũng đang đánh cắp năng lượng của học trò để thực hiện phù phép. Một số sa nhân có thể dùng nhiều người để đánh cắp năng lượng và thực hiện những ngón ngoạn mục. Có rất nhiều cách để sa nhân làm những chuyện đó, rất nhiều thủ thuật mà chúng đã khai thác. Vấn đề ở đây là như sau: con có thể, như một đệ tử tâm linh, tìm được một kiến thức, một “minh triết” nào đó – trong dấu ngoặc kép – một công thức hay lời bùa chú nào đó có thể cho con một khả năng nào đó để điều khiển vật chất.

Và trên thế giới ngày nay có những người tự xưng là đạo sư hay thày tâm linh cũng tuyên bố là họ có thể cho con quyền năng điều khiển vật chất. Một số còn tuyên bố là họ có thể làm nhanh hơn cả chân sư thăng thiên, và họ có một con đường tắt. Con sẽ rất sốc khi biết là họ nói không sai. Quả thật là họ có một con đường tắt! Có những chuyện con có thể làm để phát triển một khả năng điều ngự nào đó trên vật chất mà không cần bước chân trên con đường tự điều ngự.

6.10. Các chân sư thăng thiên không dạy phép

Như thày đã nói trong bài giảng trước, nếu đó là trải nghiệm mà con muốn thì con cứ việc. Con có tự do rời khỏi khóa nhập thất của thày bất cứ lúc nào, nhưng con cần biết chắc chắn tuyệt đối là thày, Serapis Bey, sẽ không cho con trải nghiệm đó. Thày sẽ không cho con đường tắt. Thày sẽ không cho con công thức bí mật.

Điều mà thày sẽ làm là giúp con bước đi trên đường tự điều ngự nơi con gia tốc tâm mình vượt lên trên các định luật phụ thuộc của thiên nhiên, tới mức con có thể khởi sự sử dụng các định luật cơ bản do các Elohim thiết lập. Đây là mục đích của khóa tự điều ngự này, chứ không phải là con đường tắt qua phép thuật đen mà sa nhân đã khai thác.

Nói về phép thuật đen, trên thế giới hiển nhiên còn có một khái niệm tự xưng là “phép thuật trắng”. Họ cũng bảo là họ có đường tắt, cũng có những công thức hay minh triết nào đó có khả năng cho con quyền điều khiển vật chất, nhưng họ quả quyết là cách của họ hoàn toàn tốt lành.

Con yêu dấu – một lần nữa: Nếu đây là trải nghiệm mà con muốn, con sẽ cần rời khỏi khóa nhập thất của thày để mà có được. Các chân sư thăng thiên không dính dáng gì đến phép đen hay phép trắng, hay bất kỳ hình thức phép thuật nào. Saint Germian đã có nói tới “phép của con mắt”, nhưng hẳn là thày nói đùa, bởi vi thực sự chẳng có phép nào hết.

Các thày không dạy con một loại phép thần thông vận động một cách huyền bí, hay cho con một quyền năng kiểm soát máy móc. Các thày dạy con tự điều ngự. Thày đã nói gì trong bài giảng đầu chứ? Rằng con không thể vượt qua tầng khai ngộ thứ nhất ở khóa nhập thất của thày nếu trọng tâm của con là thay đổi người khác hay những điều kiện bên ngoài thay vì thay đổi chính con.

Ở tầng khai ngộ thứ hai, trọng tâm của con cần đặt vào việc tìm kiếm sự hiểu biết với mục đích thay đổi chính mình, chứ không với mục đích thay đổi người khác hay ngoại cảnh. Hiểu biết mà con cần tìm kiếm để vượt qua các khai ngộ tại khóa của thày cũng như khai ngộ trên ba tia sáng cao hơn, đó là biết chính mình.

6.11. Tại sao con cần tự hiểu biết

Đây không phải là sự tự hiểu biết vỏ ngoài nơi con, một lần nữa, tạo ra một loại đường tắt hay là con tự chủ, mà là việc thanh tẩy tâm con cho không còn mọi hình thức hiểu biết bất toàn về chính mình. Đâu là hiểu biết, đâu là minh triết mà con cần tìm kiếm ở mức này? Không phải là hiểu biết về cách thức làm gì đó bên ngoài cái ta. Cũng không phải là hiểu biết về cách thức làm gì đó bên trong cái ta. Mà đó là hiểu biết cho phép con nhìn thấy các bợn nhơ trong cái ta hầu con có thể ý thức buông bỏ chúng, để cho chúng ra đi, thay thế chúng với một quyết định cao hơn, một dạng cao hơn của minh triết và sáng ngộ. Đây không phải là vấn đề tự phân tích bản thân, không là vấn đề trí thức hóa hay lập ra một danh sách thật dài những tin tưởng của mình, mà là vấn đề hòa điệu với một nguồn minh triết cao hơn.

Nói cho cùng thì nguồn cội đó là Hiện diện TA LÀ của con, nhưng vì con đang ở khóa nhập thất của thày cho nên ở mức khai ngộ này, thày chính là nguồn cội đó. Thày không có ý trao cho con khôn ngoan vỏ ngoài. Thày không có những lớp học ở tầng thứ hai này nơi thày đứng trên bục cao trước tấm bảng đen và giảng dạy hiểu biết này cho con. Thày chỉ dạy bằng một cách mà thôi: thày ngồi.

Một số các con sẽ khó hình dung Serapis Bey đang ngồi đó, nhưng hiển nhiển thày có khả năng làm điều này. Thày ngồi trước mặt các đệ tử, hay đúng hơn, thày ngồi ở vị trí và các đệ tử ngồi thành vòng tròn xung quanh thày. Sau đó thày cho đệ tử làm bài thực tập, là tìm cách để tâm mình không còn bất cứ gì ngoại trừ Hiện diện của thày. Như câu trong bài chú của thày: “Rằng con chỉ còn mình thày trong tâm.”

Tất nhiên lúc đầu, các đệ tử không thể làm được. Tâm họ luôn luôn bị kéo hút về chỗ này chỗ nọ, thường khi là do những hiểu biết, do “minh triết” mà họ đã hấp thụ. Họ bắt đầu suy nghĩ, chạy xéo qua chuyện khác. Nhưng lần lần một khi các đệ tử làm việc với thày cùng các vị hướng dẫn khác trong khóa học, họ bắt đầu tẩy sạch tâm mình khỏi tất cả “minh triết” thế gian đó, những ý tưởng sai lầm đó, những ý định không tinh khiết đó khi tìm minh triết.

6.12. Đi tìm minh triết không hữu dụng

Sau đó họ đối mặt với một mức khai ngộ thứ nhì, bởi vì điều gì cần thiết để hòa điệu với Hiện diện của thày chứ? Điều cần thiết là con không có ý định đạt được bất kỳ dạng hiểu biết nào mà con xem là hữu dụng hay quý giá. Nếu con suy ngẫm về điểm này, con sẽ thấy là hầu hết mọi người đều cho rằng minh triết phải hữu dụng. Minh triết phải là cái gì đó mà con có thể dùng để thực hiện một cái gì, hay ít ra để biết một điều gì đó mà trước đây con không biết. Đó không phải là điều mà thày đang yêu cầu con làm. Thày đang yêu cầu con hòa điệu với Hiện diện của thày mà không có ý định thu hoạch một hiểu biết hữu dụng hay quý giá nào, không có ý định đạt được một hiểu biết mà con có thể đặt lên một cái thang nhiều hơn hay ít hơn.

Ý định của con phải là hòa điệu với Hiện diện của thày và trải nghiệm Hiện diện của thày – không có bất cứ gì khác. Con có thể nói: “Nhưng chúng con đang ở một khóa nhập thất trên cõi ê-the.” Con đang tự do khỏi mọi hạn chế của xác thân vật lý, nhưng con không tự do khỏi những ràng buộc của cảm thể, trí thể và bản sắc thể của con. Cho đến khi con đạt được một độ tinh khiết nào đó trong ý định nơi ba thể này, thì con sẽ không thể thực sự hoà điệu.

Làm cách nào các thày có thể xác định đệ tử nào trong nhóm hòa điệu được với Hiện diện của thày? Thật là giản dị. Mọi người đi vào một căn phòng được che chắn khỏi mọi ảnh hưởng từ ngoài, cho nên không có gì từ bên ngoài làm xáo trộn các đệ tử. Thày ngồi, các đệ tử ngồi vòng quanh. Thày yêu cầu họ nhắm mắt trong ý nghĩa của cõi ê-the, tức là họ tập trung vào nội tâm, xong họ hòa điệu với Hiện diện của thày, rất gần với họ. Sau một lúc, sẽ có ai đó mở ra một cánh cửa – vẫn trong cõi ê-the – và gọi nhẹ các đệ tử đi ra ngoài. Những ai đã không hòa điệu với Hiện diện của thày sẽ đứng dậy bước ra. Còn những đệ tử nào đã hòa điệu với Hiện diện của thày sẽ không nghe thấy cả tiếng gọi họ đi ra.

Ban đầu, tất cả các đệ tử sẽ nghe thấy tiếng gọi và bước ra. Với thời gian, một số sẽ nghe thấy tiếng gọi nhưng vẫn không đứng dậy vì họ muốn ở lại và hòa điệu với Hiện diện của thày. Sau nhiều thời gian hơn nữa, một số sẽ không nghe thấy cả tiếng gọi, và giờ đây các thày biết là họ đã đạt đến mức không còn tìm kiếm minh triết để sử dụng cho một điều gì đó trong thế gian. Họ chỉ tìm minh triết vì một mục đích mà thôi, đó là vì họ đã ngộ ra là sự tự điều ngự đích thực có nghĩa là đi vào hợp nhất với đoàn chưởng giáo tâm linh mà họ là một thành phần. Bước đầu tiên để con là một vị đồng sáng tạo và sử dụng khả năng điều ngự vật chất là hòa điệu với Hiện diện của vị chân sư ở ngay trên con trong hàng ngũ tâm linh. Chính từ đó mà năng lượng vận động nỗ lực sáng tạo của con chảy xuống.

Đây là dạng minh triết gia tốc mà con cần hòa nhập vào ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày. Con có thể làm điều đó ngay cả khi trong trạng thái thức tỉnh. Con có thể làm điều đó bằng cách quán chiếu tất cả những động lực khác nhau đã kéo con ra khỏi sự hòa nhập đơn thuần. Con có thể làm điều đó bằng cách đọc bài chú của thày hay bài thỉnh kèm với bài học này, xong dành ra chút thời gian để ngồi yên lặng với không một mục đích nào khác hơn là hòa điệu với Hiện diện của thày. Có thể con sẽ không thành công trải nghiệm Hiện diện của thày xuyên qua xác thân vật lý dày đặc, nhưng con đừng chán nản, vì nỗ lực của con tự nó đã bõ rồi.

Cho dù con không nhận thức Hiện diện của thày một cách ý thức, ý định và nỗ lực của con sẽ có tác dụng giúp con vượt qua cuộc khai ngộ ở tầng ê-the, ở mức khóa học của thày. Bên ngoài luôn đi đôi với bên trong, cho nên thày khuyến khích con hãy đọc bài thỉnh kèm theo bài giảng này, rồi sau đó con hãy dành thời gian để hòa điệu với Hiện diện của thày. Con hãy làm như vậy sau mỗi bài thỉnh mà con đọc cho tới hết quyển sách này, và có thể con sẽ ngạc nhiên khi thấy kết quả.

TA LÀ Serapis Bey. Hiện diện của thày ở đây chỉ dành cho con, nếu con chỉ hòa điệu với nó mà không có một ý định nào khác hơn là trải nghiệm Hiện diện mà TA LÀ.

Thuần khiết và Uy lực của Ý định

Bài giảng của chân sư thăng thiên Serapia Bey qua trung gian Kim Michaels, ngày 2/1/2016.

TA LÀ chân sư thăng thiên Serapis Bey. Thày là Thượng sư của Tia sáng thứ Tư. Như con biết, tia này thường được gọi là tia của thuần khiết, nhưng thày cũng gọi là tia của gia tốc. Tất nhiên, đó là sự phối hợp của cả hai, bởi vì làm sao con có thể thanh lọc được mà không gia tốc?

Điều thày muốn chỉ ra trong bài giảng này là nội dung của khóa học cũng như mục đích ở tầng khai ngộ thứ nhất tại khóa nhập thất của thày. Các thày đã đặt tên cho khóa học này là: Một Khóa học về Tự Điều ngự. Con hãy suy ngẫm chữ “tự điều ngự”. Con đang điều ngự cái Ta, chứ con không điều ngự thế gian hay người khác. Con đang điều ngự cái Ta. Qua sự điều ngự cái Ta, quả là con có khả năng ảnh hưởng môi trường của con, cuộc sống chung quanh con và hoàn cảnh cá nhân của con, nhưng con sẽ không có khả năng ảnh hưởng đến người khác theo nghĩa là bắt buộc người khác phải chiều theo ý muốn của con.

4.1. Tâm điều khiển vật chất có mục đích gì

Các thày cũng có nói rằng mục đích của khóa học này là để nâng tâm thức con từ tầng tâm thức 48 lên tầng 96. Các thày có nói là khi con đến gần hơn với tầng 96, con sẽ điều ngự được khả năng của tâm điều khiển vật chất. Thày muốn giảng thêm về điểm này vì nó thường bị đủ loại học trò tâm linh, kể cả học trò của chân sư thăng thiên, hiểu lầm. 

Con có thể tìm thấy khắp thế giới những cuốn sách chỉ dạy quyền năng thị hiện, thị hiện bất cứ gì mình muốn, thường là của cải hay vàng bạc chẳng hạn. Khóa học của các thày không nhắm đến việc giúp con thị hiện của cải hay bất cứ vật gì khác mà con muốn, theo nghĩa là làm cho nó lộ diện ra “từ hư không”, nếu có thể nói như vậy.

Sự điều ngự của tâm trên vật chất mà các thày muốn trao cho con không phải là chuyện trình diễn một trò thủ thuật để gây ấn tượng với người khác hay chuyện làm giàu cho bản thân mình. Các thày không có ý muốn dạy con một loại ma thuật hầu con có thể điều khiển vật chất hay điều khiển thế giới bên ngoài trong khi mình vẫn còn nhiều tự ngã đến độ mình làm chuyện đó từ một góc độ vị kỷ.

Tất nhiên khả năng của tâm điều ngự vật chất là một điều mà các thày mong muốn thấy con phát triển, nhưng nó phải được phát triển hoàn toàn đồng bộ với sự điều ngự cái ta. Các thày đã chứng kiến quá nhiều lần trên thế giới những người mong muốn đạt được một khả năng điều ngự nào đó trên vật chất, chẳng hạn qua việc thị hiện đồ vật, nhưng lại không sẵn lòng theo học khóa điều ngự cái ta. Điều này, tất nhiên, các chân sư thăng thiên không dạy cho đệ tử chân chính.

4.2. Tự điều ngự không phải là một kỹ năng máy móc

Thày muốn chỉ ra cho con một điều mà rất nhiều học trò của chân sư thăng thiên không hiểu. Tự điều ngự không phải là một công việc mà con có thể học cùng một cách như con học lái xe ô tô, ví dụ. Rất nhiều kỹ năng cần thiết để thành công trong thế gian đều có tính cách phần nào máy móc. Gần như bất cứ ai sẵn sàng bỏ sức ra tập tành kỹ năng đó đều có thể trở nên thành thạo tới một mức nào đó. Một số sẽ không bao giờ biết lái xe quá trình độ xoàng xĩnh, nhưng rất nhiều người sẽ có khả năng học lái xe tới một trình độ khá cao, thậm chí chuyên nghiệp, nếu họ bỏ ra thời gian và công sức.

Suốt các thời đại đã có rất, rất nhiều học trò tâm linh cũng có cách tiếp cận như vậy với tự điều ngự. Họ nghĩ đó là một con đường máy móc mà họ có thể đi theo. Nếu họ thực hiện tất cả mọi bước được ấn định thì họ sẽ tự động đạt được khả năng tự điều ngự đã hứa hẹn. Con sẽ thấy là có nhiều tổ chức hay ngay cả nhiều vị thày tuyên bố là họ có thể dẫn con qua một khóa học khai ngộ, một con đường khai ngộ sẽ cho con một số khả năng đặc biệt.

Đây không phải là cách dạy của chân sư thăng thiên. Các thày không quan tâm đến chuyện con đạt được một số khả năng cụ thể nào đó, cho dù đó là khả năng thần thông hay thị hiện đồ vật. Đó hoàn toàn không là quan tâm của các thày. Quan tâm của các thày là nâng cao tâm thức của con, và điều này, con đạt được qua tự điều ngự. Hoặc con cũng có thể nói, khả năng điều ngự bản thân được thực hiện qua việc nâng cao tâm thức – tùy con thích nói thế nào cũng được.

Việc nâng cao tâm thức không phải là một con đường máy móc. Đi trở lại dòng lịch sử xa thăm thẳm, luôn luôn đã từng có những trường học, tổ chức hay đạo sư tuyên bố là họ có thể dẫn học trò đi theo một con đường máy móc. Chẳng hạn con cũng biết tổ chức Freemasons (Hội Tam điểm) có 33 mức khai ngộ, và khi con đi qua mỗi bước khai ngộ, con được ban cho một tước vị. Nhiều trường đạo và đạo sư khác cũng vận hành giống như thế. Nếu con đi qua các khai ngộ vỏ ngoài và không bị rớt thê thảm, thì con sẽ tự động nhận được tước vị.

Hiển nhiên con cũng thấy một cách thức tương tự nơi các cơ sở giáo dục trên thế giới. Nếu con học tập, nghiên cứu một bộ môn đủ lâu và nếu con thỏa mãn mọi đòi hỏi vỏ ngoài, thì con sẽ được cấp một mảnh bằng. Con nhận được một bằng tốt nghiệp xem con là một chuyên gia trong bộ môn đó. Nếu chẳng hạn con có bằng tâm lý học thì liệu bằng đó có chứng nhận là con trực nhận được môn tâm lý học, kể cả tâm lý của con và cách tâm lý vận hành trong bản thân con? Như nhiều người đã chứng tỏ, bằng cấp không có nghĩa là như vậy, và con đường khai ngộ của chân sư thăng thiên cũng tương tự như vậy.

4.3. Con đường giả hiệu của sa nhân

Khi con bước trên con đường dẫn đến tự điều ngự. luôn luôn có nguy cơ khi các thày đưa ra một bộ sách mô tả những khai ngộ mà con đi qua nơi bảy khóa nhập thất của các Thượng sư. Bất cứ ai cũng có thể mua sách, học các bài giảng trong đó, rồi đọc cái bài thỉnh, và như thế họ bước đi những bước vỏ ngoài.

Tất nhiên là các thày có lý do khi khởi sự với Tia thứ Nhất rồi lần lượt xây đắp thêm từ đó. Các Thượng sự phối hợp nỗ lực để hoạch định cũng được phối hợp. Rõ ràng cách hợp lý duy nhất lả một học trò cần bắt đầu với Tia thứ Nhất, đi qua Tia thứ Hai, rồi Tia thứ Ba và giờ đây đến với Tia thứ Tư mà thày là đại diện. Khi con có một cuốn sách chứa đựng giáo lý và khai ngộ, rất có thể một ai đó sẽ mua cuốn sách này mà chưa đi qua ba cuốn trước. Khi trọn bộ sách được hoàn tất, rất có thể một ai đó sẽ mua toàn bộ, đi từ cuốn thứ nhất cho tới cuốn thứ bảy, đọc tất cả cái bài học, thực hành tất cả các bài thỉnh, rồi sẽ tưởng là mình đã học xong toàn bộ khóa học. Con đường khai ngộ chân chính không vận hành theo cách đó.

Quả thật các sa nhân, mà đôi khi các thày cũng gọi là hàng ngũ giả trá, đã cố gắng tạo ra một con đường khai ngộ máy móc. Giấc mơ của chúng là nếu con đi qua một số bước vỏ ngoài và thỏa mãn một số đòi hỏi vỏ ngoài, thì con sẽ tự động đạt được một danh hiệu hoặc thậm chí một số quyền năng.

Ít nhất là đối với một số người, họ có thể đạt được một khả năng điều ngự nào đó trên vật chất mà chưa thanh lọc cái ta của họ, và như vậy họ chưa đạt được sự tự điều ngự. Hiển nhiên đây chính là giấc mơ của sa nhân. Chúng không muốn thanh lọc cái ta, chúng không muốn tự điều ngự. Thật sự, chúng không muốn tự điều ngự mà chỉ muốn điều ngự khả năng kiểm soát người khác hay thậm chí điều ngự vật chất vật lý.

4.4. Tự điều ngự không phải là kiểm soát cái ta

Con yêu dấu, con thấy đó, có những người nghĩ rằng tự điều ngự có nghĩa là khả năng kiểm soát cái ta. Có cả những học trò của chân sư đã theo học giáo lý của chân sư hàng chục năm trời mà vẫn tin là thày, Serapis Bey, là một vị thày nghiêm ngặt xem kỷ luật là trên hết. Họ nghĩ là thày ban bố một loạt quy tắc kỷ luật để họ phải theo. Nếu họ tuân theo quy tắc và chịu được kỷ luật của thày thì họ nghĩ là họ sẽ có khả năng kiểm soát cái ta. Nhiều, rất nhiều học trò đã cố gắng kiểm soát cái ta.

Tại sao thày lại nói chuyện này ngay bài học đầu tiên? Đó là vì tất nhiên, bài học đầu tiên là sự phối hợp của Tia thứ Nhất của Uy lực với Tia thứ Tư của Thuần khiết. Kiểm soát là gì? Đó là đạng tha hóa cơ bản của Tia thứ Nhất, như vị đồng môn yêu dấu của thày, chân sư MORE, đã giải thích trong sách. Trong khóa học này, các thày không nhắm vào việc giúp con kiểm soát cái ta bằng cách ép buộc thân xác cùng tâm vỏ ngoài của con phải gượng sống theo một số quy luật và chuẩn mực vỏ ngoài. Hãy để thày nói điều này thật rõ ràng cho con, nói một cách rõ ràng hết mức, dựa trên trạng thái tâm thức của những người có xác suất đọc cuốn sách này.

4.5. Con không thể giấu bất cứ gì khỏi Serapis

Trong bài chú cho thày, có câu: “Serapis Bey, biết bao uy lực, đằng sau đôi mắt thanh tẩy của thày.” Phải, mắt của thày thanh tẩy vì mắt thày cũng nhìn xuyên thấu. Mắt thày nhìn xuyên thấu mọi bợn nhơ cùng những lớp hỏa mù mà bợn nhơ này gây ra. Bợn nhơ làm gì chứ? Khi nước có bợn nhơ, thường nước sẽ bị đục và con không nhìn xuyên qua được.

Cho nên những ai còn bị mắc kẹt trong trạng thái tâm thức thấp hơn thường có nhiều bợn nhơ trong tâm đến nỗi họ không thể thấy rõ ý định của mình. Khi thày nói “họ”, thày muốn nói đến mọi người nói chung. Nhiều học trò đến đây với ý định có vẻ trong lành nơi tâm ý thức, nhưng không mấy trong lành nơi tâm tiềm thức. Có điều là họ không thấy rõ được vì bợn nhơ che khuất tiềm thức.

Mắt thày thanh tẩy vì nhìn xuyên thấu tất cả những lớp màn hỏa mù đó. Con có thể nói: “Nhưng vậy thì thày có đang vi phạm quyền riêng tư của người khác hay không?” Con yêu dấu, thày không đi lòng vòng khắp nơi mà nhìn chăm chăm mỗi người với cặp mắt soi rọi. Khi con đọc quyển sách này, con đã có trong tâm ý thức một ý định quy thuận những khai ngộ của thày là Thượng sư của Tia thứ Tư. Làm sao con có thể quy thuận khai ngộ của thày nếu con không sẵn lòng để thày nhìn vào con?

Thày không cố ép buộc con dù bằng cách nào đi nữa. Thày chỉ đang cố giúp con nhìn ra là thật không có nghĩa lý gì khi con muốn đi theo khai ngộ của Tia thứ Tư dưới Serapis Bey mà lại cũng muốn giấu giếm điều gì đó khỏi mắt thày.

Con thấy đó, con yêu dấu, thày không phải là loại thày nghiêm khắc mà nhiều người tưởng tượng dựa theo kinh nghiệm thế gian của họ. Thày không phải là ông trung sĩ trong khóa huấn luyện quân đội, thích thú moi móc mọi lỗi lầm của con, và nếu được dịp, ông ta sẽ không thương tiếc mà lôi nó ra cho mọi người trông thấy. Thày không ở đây để mắng nhiếc con. Thày không ở đây để khiến con xấu hổ. Thày không ở đây để hạ thấp con dù là như thế nào. Thày không là vị thày với kỷ luật nghiêm khắc mà nhiều người tưởng. Thày là chân sư Tia thứ Tư của Thuần khiết. Thày không thể đem lại thuần khiết nếu thày không nhìn thấy bợn nhơ. Điều đó không thể làm được, con yêu dấu. Tại sao biết bao người lại nghĩ có thể làm được? Bởi vì họ đã bị tâm thức sa ngã ảnh hưởng.

Một trong những yếu tố cơ bản của tâm thức sa ngã, tất nhiên, là các sa nhân không muốn đối diện với Thượng đế. Chúng không muốn đối diện với vị thày tâm linh từ cõi thăng thiên. Để vào được cõi thăng thiên thật không khó; con chỉ cần thanh lọc tâm thức mình cho không còn điều gì có từ lực kéo con xuống cõi vật chất, là cõi không thăng thiên. Sa nhân không sẵn sàng làm chuyện đó, thậm chí nhiều sa nhân còn không hiểu là chúng cần làm chuyện đó. Chúng vẫn cho rằng chúng có thể dùng vũ lực xông vào thiên đường bằng cách giấu giếm điều gì đó khỏi các chân sư thăng thiên.

Có nhiều học viên đến khóa nhập thất của thày mà vẫn nghĩ mình có thể vượt qua cả bảy tầng khai ngộ ở khóa tu này trong khi giấu giếm ý định thật sự của mình khỏi mắt thày. Con yêu dấu, chuyện này không nghĩa lý gì hết. Con không thấy được sao? Không có chuyện gian lận trên con đường khai ngộ dưới các chân sư thăng thiên. Các thày đã có nói là Tia thứ Tư hình thành tiêu điểm nối kết trong dòng chảy hình số 8 giữa các khai ngộ của ba tia đầu và khai ngộ của ba tia sau. Cũng có thể nói đó là “con mắt của cái kim”, tức là lỗ kim. Hẳn con biết trong Thánh kinh có câu nói rằng một con lạc đà chui qua lỗ kim dễ hơn là một ông nhà giàu bước vào thiên đàng. Thế nào là ông nhà giàu? Đó là một người cho rằng mình sở hữu một vật gì đó trên thế gian và muốn đem theo qua lỗ kim. Những ai đến đây và cho rằng mình sở hữu một điều gì đó – và muốn mang nó theo với mình lên trạng thái thăng thiên, mang nó theo vào khóa nhập thất của thày, và cũng mang nó xuyên  qua khóa của thày lên các tia sáng cao hơn – thì họ gíống như ông nhà giàu kia.

Đâu là mục đích của thanh lọc? Chẳng phải đó là buông bỏ những thứ giữ chân con lại hay không? Làm sao con có thể buông được điều gì nếu con không nhìn vào nó? Không có chuyện từ bỏ một cách vô thức, không có chuyện buông ra một cách vô thức; chuyện đó chỉ có thể ý thức. Thật không nghĩa lý gì nếu con nghĩ mình có thể vượt qua các khai ngộ ở khóa nhập thất của thày mà vẫn giấu với thày. Con yêu dấu, sẽ càng không nghĩa lý gì nếu con nghĩ mình có thể vượt qua khai ngộ ở khóa nhập thất của thày mà vẫn giấu gì đó khỏi chính con.

4.6. Tự điều ngự và giấu giếm khỏi chính mình

Khóa học này là khóa học về tự điều ngự. Làm sao con có thể điều ngự cái ta nếu có những khía cạnh của cái ta – những khu vực trong cái ta – mà con không sẵn sàng nhìn vào? Không thể được. Nhiều người cho rằng tự điều ngự có nghĩa là mình kiểm soát cái ta bằng cách kềm chế những yếu tố không thể chấp nhận của cái ta theo một chuẩn vỏ ngoài. Đây không phải là cách học tại khóa tu của thày. Ở đây không có chuẩn vỏ ngoài. Thày không dùng kỷ luật để áp đặt một chuẩn vỏ ngoài lên con khi con đến đây. Có nghĩa chăng là con không phải theo chuẩn mực nào? Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là có một cái chuẩn, nhưng chuẩn này là do chính con quy định! Nó được quy định bởi những bợn nhơ mà con mang theo khi con bước qua cổng trường.

Con thấy đó, con yêu dấu, có một cánh cổng mở lối cho con vào nhập thất của thày. Bất cứ lúc nào con cũng có thể quyết định là con đã chán các khai ngộ tại khóa này và con có thể rời khóa nhập thất qua cùng cánh cổng mà con đã bước vào. Mục đích khi con vượt qua cả bảy khai ngộ là để con tới được cánh cổng ở bên kia, là cánh cổng dẫn đến mức khai ngộ kế tiếp của vị Thượng sư kế tiếp.

Con thấy không, con yêu dấu, không cách chi con sẽ lên được khóa học đó mà vẫn mang theo những bợn nhơ mà con đem vào khóa của thày. Con không thể bước khỏi khóa của thày qua cánh cổng cao hơn kia mà vẫn đem theo hành trang con đã mang qua cổng vào. Các bợn nhơ phải được biến hóa, năng lượng phải được biến hóa.

Đằng sau năng lượng là một tin tưởng mà con có về bản thân và về thế giới. Tin tưởng này đã được nhập vào, được chấp nhận vào trong tâm con, qua một quyết định mà con đã lấy. Trừ khi con phơi bày quyết định này ra, nhìn thấy những giới hạn ở đằng sau, và thay thế nó trong ý thức với một quyết định cao hơn, thì con sẽ không sạch được bợn nhơ. Nếu con không sạch bợn nhơ, làm sao con có thể vươn lên mức khai ngộ kế tiếp? Có một cửa vào, có một cửa ra, nhưng ở giữa cũng có những cánh cửa khác. Cho mỗi bước đi lên, có một cánh cửa mà con phải đi qua. Con không thể đi qua cánh cửa thứ nhì nếu con còn mang bợn nhơ đáng lý con đã phải bỏ lại ở tầng khai ngộ thứ nhất.

Không có chuyện ăn gian ở đây, con yêu dấu. Không có chuyện giấu giếm bất cứ gì. Con có thể gia nhập khóa nhập thất của thày ở tầng thứ nhất mà vẫn còn giấu gì đó khỏi chính con – điều này con được phép. Nhưng con sẽ không đi quá được tầng đầu tiên nếu con vẫn còn giấu gì đó khỏi chính con. Điều này không thể xảy ra, con yêu dấu. Thày biết là tự ngã của con sẽ nghĩ ra đủ loại lý do tại sao điều đó có thể làm được, nhưng nó không thể xảy ra. Thày là Thượng sư và thày đã chứng kiến hàng triệu học trò đến nhập thất, trong số đó có nhiều người đã bỏ đi vì không chịu nhìn vào những gì mà họ cần nhìn hầu vươn lên mức khai ngộ kế tiếp. Thày không lên án, nhưng thày không thể giúp con nếu con không sẵn sàng nhìn vào chính mình.

4.7. Xung đột nhóm

Hẳn con đã nghe nói hoặc đã đọc là khi các học viên lần đầu tiên đến nhập thất của thày, họ được xếp vào cùng nhóm với những dòng sống có cá tính đối chọi với họ, hoặc có đặc điểm đối chọi về chiêm tinh học, nghiệp quả hay gì nữa. Người ta nói là con sẽ không tiến lên cao hơn được cho tới khi con nhận ra sự hài hòa là quan trọng hơn tất cả những mâu thuẫn đó. Nhưng thật ra chúng ta có thể nhìn khai ngộ này theo nhiều cách khác.

Khi đầu tiên học viên được xếp chung vào những nhóm với nhiều cơ hội đụng độ nhất, cuộc khai ngộ thật sự là làm sao đạt tới điểm khi con vượt qua chướng ngại chủ yếu trên đường tâm linh. Thày cũng biết con có thể nói là mỗi tầng tâm thức đều có một chướng ngại chủ yếu. Có một chướng ngại rất lớn từ tầng tâm thức 48 lên 49. Nhưng trên đường tâm linh – con đường tự điều ngự – chướng ngại chủ yếu là đạt tới điểm con không còn tìm cách thay đổi người khác hay thay đổi thế giới vật chất nữa.   

Ở ba tầng khai ngộ đầu tiên, có nhiều học viên muốn khai ngộ là vì họ có một ý định ẩn giấu, hay có lẽ một ý định không mấy ẩn giấu là đạt được quyền năng kiểm soát người khác và môi trường của mình. Họ muốn làm chủ hoàn cảnh của mình để họ có chính xác những điều kiện mà họ cho là cần thiết hầu đạt những gì họ muốn – có thể là sự hài hòa bên trong, có thể là tâm an bình, có lẽ một số điều kiện và trải nghiệm vỏ ngoài.

Con sẽ ngạc nhiên về số học viên đến nhập thất của thày mà vẫn còn mong muốn dùng quyền lực để kiểm soát, mong muốn đạt quyền năng để điều khiển hoàn cảnh của mình. Khi họ tìm cách kiểm soát người khác hay môi trường của họ thì họ đang cố làm gì? Họ đang cố sản xuất ra một trạng thái trong tâm. Mọi chuyện xảy ra trong cõi vật chất được trải nghiệm qua tâm. Chính tâm con, nội dung của tâm con, cấu trúc, khuôn đúc trong tâm con, sẽ định đoạt cách con trải nghiệm một hoàn cảnh vỏ ngoài nào đó. Như các thày đã giải thích nhiều lần, hai người có thể có cùng hoàn cảnh vỏ ngoài mà lại có trải nghiệm nội tâm rất khác nhau. Các học viên này đang cố thay đổi hoàn cảnh nội tâm của họ bằng cách kiểm soát hoàn cảnh vỏ ngoài.

Trước hết, điều này không thể làm được quá một mức nào đó. Trong một mức nào đó thì có thể làm được, như một số người trên thế giới đã chứng tỏ. Như con có thể thấy, một số kẻ vô cùng giàu có và quyền lực đã đạt được một mức độ kiểm soát nào đó trên môi trường sống của họ. Trong số đó, nhiều người là những sa nhân cấp cao đã đạt được khả năng kiểm soát này nhờ họ đã luyện tập một thời gian rất, rất dài, thường kéo dài suốt tiến trình sa ngã của họ qua mấy bầu cõi.

Chắc chắn những kẻ như thế, qua luyện tập và kinh nghiệm suốt thời gian dài đó, có thể đoạt được một khả năng điều ngự nào đó trên cõi vật chất và trên người khác. Liệu đó có thật là điều con đang cố đạt được như một học trò của chân sư thăng thiên? Nếu con chưa đạt được khả năng đó thì liệu con có nghĩ là con sẽ đạt được trong kiếp này hay không? Nếu con không đạt được trong kiếp này, con sẽ phải tái đầu thai suốt hàng thiên niên kỷ nữa cho tới khi con đạt được sự điều ngự đó – hay nói đúng hơn, khả năng kiểm soát vật chất đó. Có thật con muốn như vậy?

4.8. Thanh lọc ý định của con

Con thấy đó, con yêu dấu, tầng khai ngộ thứ nhất tại nhập thất của thày là sự phối hợp giữa uy lực và thuần khiết, nhưng con cần điều gì để có thể sử dụng uy lực? Con cần một ý định, con cần một động lực. Tầng đầu tiên ở khóa nhập thất của thày là để giúp con thanh lọc ý định, động lực của con.

Tại sao thày lại xếp mọi người vào nhóm nơi họ có nhiều xác suất đụng độ nhất? Bởi vì đó là một cách hiệu quả nhất để làm hiển lộ những ý định ẩn giấu, những động lực ẩn giấu. Con thấy rất nhiều lần các học viên cố gắng kiểm soát lẫn nhau. Điều thường xảy ra trong một nhóm là có hai người nổi bật là người mạnh nhất, là người với mong muốn mạnh mẽ nhất để làm chủ tình hình. Hai học viên này, như thành ngữ quen thuộc, sẽ “khóa sừng” với nhau và tìm cách chế ngự lẫn nhau cũng như cả nhóm. Con nhìn kìa, chắc hẳn hai vị kia chưa sẵn sàng lắm để bước lên mức kế tiếp trong khóa của thày, phải không con? Họ có thể nghĩ là họ rất sẵn sàng rồi vì họ quyền uy quá đỗi, nhưng đó là họ nghĩ vậy thôi, chứ quyền lực có ích gì khi con không có ý định?

Con có thấy chăng là trên thế giới, các sa nhân đã làm hết sức để có được quyền lực vật lý mà không có ý định thuần khiết? Adolph Hitler có quyền lực vật lý để bắt bớ sáu triệu người, nhốt họ vào trại tập trung rồi giết hại một số lớn. Joseph Stalin có quyền lực vật lý để bắt bớ nhiều triệu người hơn nữa, nhốt họ vào trại tập trung rồi hành quyết họ. Chủ tịch Mao vĩ đại có quyền lực còn lớn hơn cả Stalin nữa. Cả ba đều có quyền lực vật lý nhưng liệu ý định của họ có thuần khiết hay không? Chắc chắn là không, vì họ lấy đi mạng sống – thày tin con sẽ đồng ý.

Quyền lực vật lý không liên quan gì đến ý định thuần khiết. Những ai có ý định thuần khiết sẽ vô cùng miễn cưỡng sử dụng hay chứng tỏ quyền lực vật lý. Các thày có rất đông học trò đến với nhập thất của thày sau khi đã học hỏi và thực hành giáo lý của chân sư thăng thiên trong thời gian dài. Họ thường mang giấc mơ là một ngày họ sẽ đạt được một loại quyền năng đặc biệt, một loại quyền năng của Tánh linh, thậm chí cả Thiên khiếu của Thánh linh mà nhiều nhóm thường đem ra bàn luận. Nhiều khi các học viên này mong muốn như vậy vì họ nghĩ, trong tâm ý thức, là nếu họ đạt được những khả năng đó, họ sẽ có thể chứng tỏ và chứng minh cho mọi người thấy là đường tu tâm linh có hiệu quả. Họ cho là họ có thể cải đạo hàng triệu người theo học giáo lý của chân sư thăng thiên.

Tại sao các chân sư không chỉ xuất hiện trên trời, hay xuất hiện giữa quần chúng và chứng minh là mình có thật? Con yêu dấu, đó là vì các thày tôn trọng Luật Tự quyết, và các thày tôn trọng tiến trình khai ngộ mà địa cầu này được hoạch định để cống hiến. Có ích gì mà lôi kéo hàng triệu người đi theo giáo lý của chân sư khi họ chưa ở mức có được ý định thuần khiết để học điều thày dạy? Các thày không chủ trương hấp dẫn số đông. Tại sao các thày lại muốn làm chuyện đó? Các thày không ham có hàng tỷ tín đồ chưa sẵn sàng cất bước trên con đường khai ngộ mà các thày cống hiến. Cho nên các thày không ham có đệ tử đặt trọng tâm phát triển những khả năng đặc biệt với một ý định ô trược không phù hợp với ý định của các thày. Con không thấy hay sao? Tầng khai ngộ thứ nhất tại nhập thất của thày trên con đường tự điều ngự hoàn toàn nhằm mục đích giúp con thanh lọc ý định của con. Trước hết, con phải ở trong một nhóm nhiều người, và con phải đạt tới mức chứng tỏ là con không có ý định thay đổi người khác để mình có cảm giác nào đó. Con không có ý định chế ngự hay kiểm soát người khác; con không có ý định chế ngự hay kiểm soát vật chất để tạo cho mình cảm giác nào đó. Ý định của con là điều ngự cái ta, không phải bằng cách kiểm soát cái ta nhưng điều ngự cái ta.

4.9. Các yếu tố của sự tự điều ngự

Thế nào là tự điều ngự? Yếu tố đầu tiên của tự điều ngự là thanh lọc chính mình, thanh lọc bốn thể phàm cho không còn tất cả những bợn nhơ mà con đã góp nhặt trong nhiều kiếp sống trên địa cầu và những hành tinh khác. Chính những bợn nhơ này kéo con vào một số khuôn nếp. Đó có thể là khuôn nếp hành xử, khuôn nếp cảm xúc, khuôn nếp suy nghĩ hay một số khuôn nếp bản sắc. Con liên tục bị kéo vào những khuôn nếp đó và tất nhiên, đây không phải là tự điều ngự.

Bước đầu tiên của con là làm sạch tâm con không còn những khuôn nếp đó nữa. Không phải là vấn đề kiểm soát và kềm chế khuôn nếp, hay thay thế chúng với những khuôn nếp mạnh mẽ hơn. Đó không là tự điều ngự. Đó có thể là tự chủ, nhưng không là điều mà các thày muốn nhìn thấy nơi đệ tử của mình. Đó là điều mà thày sa ngã, hàng ngũ giả trá, muốn tìm nơi học trò của họ, nhưng các thày thì muốn tìm sự tự điều ngự. Con đạt được tự điều ngự bằng cách xem xét tất cả mọi bợn nhơ trong tâm thức mình và, một cách ý thức, để cho chúng ra đi và quyết định có một ý định cao hơn.

Ở một số tầng tâm thức cao trước khi con thăng thiên, con có thể đạt được một khả năng điều ngự nào đó trên vật chất, như Giê-su đã chứng tỏ. Có thể là con cũng sẽ đạt tới trình độ điều ngự này, và có thể là con sẽ chứng tỏ khả năng đó, nhưng cũng có thể con sẽ không biểu lộ chút nào, như nhiều người đã làm (hay không làm) suốt chiều dài lịch sử. Nhiều người đã đạt được một khả năng điều ngự nào đó trên vật chất mà không bao giờ chứng tỏ cho người khác thấy vì họ hiểu đó không phải là ý định cao nhất.

Mục đích của khóa học này – đưa con từ tầng tâm thức 48 lên 96 – không phải là để khiến con trình diễn một số thủ thuật gây ấn tượng, mà là đạt được sự tự điều ngự, có nghĩa trước hết là con thanh tẩy tâm con cho không còn những gì có thể kéo con vào những khuôn nếp thấp kém. Cũng có nghĩa là con thanh tẩy các động lực của mình, ý định của mình, hầu con tự đặt mình thẳng hàng với ý định của chân sư thăng thiên.

Con thấy đó, con yêu dấu, bước đi trên đường tu tâm linh không có nghĩa là con mặc vào một chiếc áo tù bó tay bó chân. Thày không bảo là khi con tiến gần hơn đến tầng tâm thức 144, con bị bó tay không thể làm gì được vì con luôn luôn phải tuân theo ý định của đoàn chưởng giáo ở trên con. Mà thày bảo là khi con tiến gần hơn tầng 144, càng ngày con sẽ càng đồng điệu hơn với đoàn chưởng giáo ở trên con. 

4.10. Thanh tẩy và quyền tự quyết

Phải, không có nghĩa là con không có quyền tự quyết, mà con sẽ sử dụng quyền tự quyết của mình một cách khác hoàn toàn những gì con có thể mường tượng ở mức tâm thức hiện thời của con, đến độ thày không có cách chi mô tả cho con qua ngôn từ. Ở mức hiện thời của con, thật chẳng hữu ích gì mà thày cố mô tả những gì con sẽ đạt được ở những mức cao hơn quá sức, vì các thày không muốn đặt ra cho con một lý tưởng bất khả thi. Điều thày cố trao con ở đây là ý niệm rằng trên đường tự điều ngự, sẽ có một giai đọan khi con không cần buông hết mọi ý định thấp hơn, mà trên thực tế, con sẽ hòa điệu với ý định của vị Thượng sư mà con đang phụng sự – chẳng hạn như chính thày trên Tia thứ Tư, hay Hilarion trên Tia thứ Năm, và vân vân.

Khi con đang tham gia một khóa nhập thất, con thanh tẩy ý định của con bằng cách hòa điệu với ý định của Thượng sư trông coi khóa đó, và con tự đưa mình vào đồng bộ với ý định đó. Có nghĩa là con sẽ buông bỏ những ý định của con xuất phát từ tự ngã, và dĩ nhiên, tự ngã sẽ cảm nhận điều này như một hạn chế. Nó sẽ cố khiến con tin là quyền tự quyết của con đang bị hạn chế, giống như mình phải mặc vào một bộ áo tù bó tay bó chân vậy. Kỳ thực là con đang cởi áo tù ra, là áo tù của tự ngã mà con đang mặc, nhưng thày đồng ý  là trong một thời gian con sẽ khó lòng thấy được điều đó. Cho nên thày cảnh báo trước là đến một thời điểm, sẽ có một cuộc khai ngộ ở tầng thứ nhất tại khóa nhập thất của thày khi con phải sử dụng sức mạnh ý chí ý thức để con tự đem mình ra khỏi ý định dùng quyền lực của tự ngã.

Tự ngã sẽ nghĩ ra đủ loại lý do tại sao con nên sử dụng quyền năng, chẳng hạn để tạo ấn tượng đối với người khác, thu hút hoc trò cho chân sư thăng thiên, hay làm một số công việc tốt lành nào khác trên thế giới. Con cần sử dụng sức mạnh ý chí ý thức của mình để tự gia tốc và vượt lên trên, không tìm cách áp chế nó, mà nhìn vào ý định và so sánh với ý định mà thày sẽ chứng tỏ cho con.

Khi con kinh qua khai ngộ thứ nhất tại nhập thất của thày, con sẽ chiêm nghiệm được ở mức nội tâm ý định của thày, ý định của những vị đang làm việc trên Tia thứ Tư. Con sẽ chiêm nghiệm được sự khác biệt, sự tương phản. Như thày đã nói, các thày không có ý định kiểm soát con người hay xâm phạm quyền tự quyết, hay ép buộc ai đó phải khai ngộ khi họ chưa sẵn sàng. Con cũng phải đạt đến mức đó bằng cách buông bỏ mọi ham muốn lãng mạng mình sẽ hoàn thành những chuyện tuyệt vời trong thế gian, hay kiểm soát môi trường nơi mình đang sống.

4.11. Điều ngự vật chất đích thực 

Đúng là khi con tiến gần đến tầng 96, con sẽ đạt được một khả năng điều ngự nào đó của tâm trên vật chất, nhưng đó không phải là những chuyện lãng mạn như bỗng dưng làm thị hiện một vật nào đó từ hư không. Kỳ thực, con sẽ chứng tỏ một cách sống cao hơn, nghĩa là con sống trong thế giới vật chất nhưng cuộc đời con là sự thể hiện của cái ta cao hơn, của Hiện diện TA LÀ của con. Con không sống cuộc đời theo tiêu chuẩn của thế gian, và chắc chắn không theo tiêu chuẩn của sa nhân. Con sống theo một viễn quan cao hơn, một ý định cao hơn khác hẳn hầu hết mọi người trên thế giới. Không còn vấn đề chứng tỏ một khả năng điều ngự nào đó bằng cách trở nên giàu có, quyền lực hay đẹp đẽ hơn người, mà là chứng tỏ con đang đi theo một viễn quan cao hơn, một viễn quan không nhị nguyên nhằm nâng bản thân lên cao trội hơn người hay thậm chí hạ người khác xuống thấp. Con đang cố nâng cao Tất Cả, nhưng trước tiên, con đang cố tự thanh tẩy và tự điều ngự.

Đây là loại điều ngự mà các thày muốn trao cho con trong khóa học này. Nếu con thèm khát một loại điều ngự nào khác, hay nếu cho tới giờ con vẫn nghĩ là khóa học này sẽ cho con loại điều ngự khác đó, thì ở tầng khai ngộ thứ nhất tại nhập thất của thày, đây là lúc để con xét lại. Nếu con không thể từ bỏ những ham muốn đó, đây là thời điểm rất tốt để con rời khóa học này, rời con đường này, và đi tìm một loại đạo sư sẽ hứa hẹn cho con điều ngự vỏ ngoài đó qua sự kiểm soát. Thày tôn trọng quyền tự quyết của con. Thày không đang cố giữ con lại khóa nhập thất của thày nếu con chưa sẵn sàng nhận những khai ngộ mà thày cống hiến. Đối với rất nhiều học viên đến khóa của thày – thường với ý định mà họ cho là tốt đẹp nhất nhưng thật sự không phải là cao nhất – điều này có thể sẽ gây sốc cho họ ở tầng đầu tiên này. Cũng giống như một giai đoạn sàng lọc vậy. Các thày “tách vỏ trấu khỏi hạt lúa” như người ta thường nói. Không theo nghĩa là chính các thày làm việ đó mà các thày giúp mỗi học viên nhìn thấy rõ hơn ý định của mình.

Cũng không phải là thày lên án bất cứ ai có ý định muốn trải nghiệm một điều ngự nào đó qua sự kiểm soát. Như các thày có nói, tất cả mọi chuyện xảy ra trên trái đất chỉ có thể xảy ra vì có những người đang đầu thai muốn một loại trải nghiệm nào đó. Nếu con mong muốn trải nghiệm khả năng kiểm soát người khác hay kiểm soát vật chất – mà không xem xét chính mình – thì giản dị là thày không thể giúp con. Thày không lên án con, nhưng thày khuyên con nên đi nơi khác tìm kiếm trải nghiệm đó rồi trở lại đây một khi con đã sẵn sàng nhận những gì thày cống hiến.

4.12. Một số người muốn một con đường khác

Thày không nghiêm khắc theo định nghĩa của thế gian. Nhưng mặt khác, con không thể đánh lừa thày, con không thể ăn gian với thày, con không thể giấu giếm khỏi thày. Nếu ý định của con không đồng điệu với mục đích của khóa học này về tự điều ngự, con sẽ không thể bước qua cánh cổng dẫn từ tầng khai ngộ thứ nhất lên tầng khai ngộ thứ hai tại nhập thất của thày. Con tùy ý ở lại tầng thứ nhất bao lâu cũng được. Con có thể ở lại trong nhóm có nhiều người khác cũng gặp cùng vấn đề như con là không buông bỏ ý định của mình.  

Con có thể ở lại đó gần như bao lâu cũng được, hoặc con có thể bước ra qua cùng cánh cửa mà con đã bước vào. Đây là chọn lựa của con. Thày không nghiêm ngặt độc tài. Chính con đang áp dụng kỷ luật bằng cách phóng chiếu một hình ảnh lên thày. Nhiều học viên bỏ ra đi thường ra đi bằng cách phóng chiếu một hình ảnh lên thày, bảo là thày đã không đáp ứng được mong đợi của họ, hay đã không làm chuyện này chuyện nọ.  

Điều đó chỉ chứng tỏ là họ vẫn chưa chán chê chuyện dùng người khác hay hoàn cảnh vỏ ngoài làm lý cớ để khỏi phải xem xét bản thân. Nếu họ cần dùng thày để viện cớ thì thày chỉ có thể cho phép họ làm. Nếu họ ở trong tâm trạng phóng chiếu một hình ảnh lên thày để viện cớ, thường thường không có gì mà thày có thể nói để giúp họ nhìn ra họ đang làm gì. Hiển nhiên như một vị thày đích thực, nếu thày không thể giúp học viên, thày sẽ không cưỡng ép người đó. Điều mà thày sẽ làm trong một số trường hợp là gia tăng ánh sáng thuần khiết đến mức những ai không buông bỏ ý định ô trược của mình sẽ không thể chịu nổi đứng lại ở đây.

Các thày sắp xếp các học viên thành nhiều nhóm. Trong một số trường hợp hiếm hoi, có nhóm sẽ ngồi lì ở đó. Trong đa số trường hợp, các nhóm sẽ từ từ đạt tới điểm ai nấy đều chán ngán chuyện tranh cãi và giao chiến. Họ bắt đầu tự hỏi và họ hỏi lẫn nhau: “Hàng ngàn năm rồi chúng ta đã thấy người ta tranh cãi và giao chiến khắp thế giới mà vẫn chẳng đi đến đâu, không lẽ chúng ta cũng ngồi đây làm y như vậy trong khóa nhập thất này hay sao? Đó có thật là lý do chúng ta ở đây? Không phải là chúng ta đến đây để lắng nghe Serapis Bey trình bày hay sao? Tại sao chúng ta lại ngồi đây tranh cãi vậy?” Khi họ tới được điểm đó, họ đã sẵn sàng tương tác trực tiếp hơn với thày hầu thày có thể giúp họ vượt qua khai ngộ của tầng thứ nhất và bước sang tầng thứ hai.

Trong một số trường hợp hiếm hoi, có nhóm sẽ không tới được điểm đó. Họ sẽ cứ đứng yên một chỗ. Vì họ đang ở trong khóa tu của thày cho nên thày có quyền gia tăng ánh sáng, gia tăng cường độ. Thày không thể làm điều này ngoài thế gian nói chung, nhưng thày có thể làm với những ai đã tự nguyện nhập khóa tu của thày. Thày gia tăng ánh sáng, có nghĩa là giờ đây các học viên không thể phớt lờ bợn nhơ trong tâm thức họ. Hoặc họ sẽ phải nhìn vào những bợn nhơ đó và cải sửa, hoặc họ phải nỗ lực nhiều hơn để phớt lờ và dùng lý lẽ để xua đuổi chúng đi.

Nếu học viên cứ tiếp tục làm vậy, sẽ đến lúc thày gia tăng ánh sáng đến độ họ không thể ở lại nhập thất được lâu hơn và phải tìm cớ rút lui. Cũng có những người tới mức nhìn ra là họ muốn bỏ đi vì họ muốn có một loại trải nghiệm khác. Tất nhiên, điều này cũng tốt thôi. Đối với những học viên đó, thày có thể nói lời chia tay và cả hai đều đồng ý, nghĩa là nhận ra đây là tốt nhất cho học viên.

Còn đối với những học viên không chịu nhìn nhận là họ bỏ đi do chọn lựa và đã viện cớ này nọ với thày, thì thày không thể có màn chia tay ngắn ngủi đó với họ. Họ thường bỏ đi trong cơn giận dữ, thường không thèm nhìn lại, và đôi khi còn nguyền rủa thày khi họ bước ra khỏi cửa. Những học viên đó, thày không thể giúp họ được cho tới khi Trường đời Cay đắng giáng cho họ nhiều vố cay đắng đến độ họ lại sẵn sàng gõ cửa tu viện của thày một lần nữa. Và hiển nhiên thày sẽ nhận họ trở lại, nhưng thày cũng sẽ toàn quyền nói với họ ngay lập tức: “Liệu giờ đây con đã học được bài học mà con không chịu học lần trước con đến đây?”

Và như vậy, thày sẽ kết thúc bài giảng tương đối ảm đạm này và xin nói với tất cả các học trò đang nghĩ đến chuyện gia nhập khóa nhập thất của thày: “Liệu con đã xem xét những gì chờ đón con khi con bước qua ngưỡng cửa này hay chưa? Liệu con đã xem xét mục đích cuộc khai ngộ mà con nói con đã sẵn sàng dấn thân vào? Liệu con đã sẵn sàng cho những gì thày cống hiến? Nếu vậy thì thày chào đón con với cánh tay rộng mở, một con tim rộng mở, và một cặp mắt cũng rất rộng mở. Nếu con sẵn sàng mở to mắt mình ra, thày là vị Thượng sư sẽ giúp con làm chuyện đó.”

Serapis Bey TA LÀ.