Về sự tương tác giữa cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ

Hỏi: Mẹ Mary xin Mẹ cho chúng con một cảm nhận về Hiện diện TA LÀ trải nghiệm các diễn biến đương thời như thế nào.


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua Kim Michaels. Câu trả lời này được trao truyền tại Hội nghị Kazakhstan 2023. Đăng ngày 6/11/2023.

Ấy, con phải cẩn thận ở đây. Các thày đã nói, và đây là điều một số các con chưa thực nhận ra hay chưa hoàn toàn nhìn nhận, là Hiện diện TA LÀ không phải là một sinh thể thăng thiên. Thày biết rất rõ nếu nói điều này cho các đệ tử của các đợt truyền giáo trước của chân sư thăng thiên, họ sẽ phản đối, vì trong các đợt truyền giáo đó, họ có quan điểm rằng Hiện diện TA LÀ ở trên cõi tâm linh, do đó Hiện diện TA LÀ toàn hảo, và họ thực sự không có cái nhìn rõ ràng về thăng thiên nghĩa là gì, một phần là vì họ chưa có khái niệm về cái Ta Biết mà các thày đã trao truyền.

Đôi khi họ có khuynh hướng nhìn Hiện diện TA LÀ như một chân sư thăng thiên, nhưng Hiện diện TA LÀ đặc thù của con là một sinh thể chưa thăng thiên cho tới ngày con thăng thiên, và điều này nghĩa là Hiện diện TA LÀ không có cùng tầm nhìn của một chân sư thăng thiên. Một chân sư thăng thiên đã thăng thiên khi khắc phục mọi dính mắc với một số điều kiện trên trái đất, nhưng Hiện diện TA LÀ của con chưa thăng thiên, nó không có cùng tầm nhìn của một chân sư thăng thiên và quả thực nó có thể có một dính mắc nào đó với điều kiện trên trái đất mà cái Ta Biết sẽ giúp Hiện diện TA LÀ khắc phục khi cái Ta Biết tiến gần hơn tầng 144. Hiện diện TA LÀ của con vẫn có thể có một thành kiến nào đó, một hình tư tưởng nào đó về trái đất phải như thế nào. Và một phần lý do Hiện diện gửi cái Ta Biết xuống hiện thân là để nâng cao nhận biết của nó và khắc phục những thành kiến như thế. Ví dụ, các thày có nói là một số avatar tới trái đất vì họ chưa nắm bắt hoàn toàn quyền tự quyết và họ muốn nắm bắt quy luật này.

Đây là Hiện diện TA LÀ muốn trải nghiệm đời sống trên một hành tinh phi tự nhiên để có thể nắm bắt trọn vẹn ý nghĩa của quyền tự quyết. Lẽ tất nhiên còn có nhiều ví dụ khác. Hiện diện TA LÀ của con không nhất thiết nhìn tình hình thế sự hiện nay với cùng tầm nhìn trung hòa của một chân sư thăng thiên. Các thày là chân sư thăng thiên và đã thăng vượt mọi thành kiến trên trái đất. Đây là một trong những khó khăn lớn nhất cho các đệ tử chân sư thăng thiên. Nếu con có thể thấy vấn đề này với đợt truyền giáo đương thời, nhưng vấn đề còn hiện rõ hơn nhiều nơi các đợt truyền giáo trước. Để thày đơn cử một ví dụ, con thấy là Phong trào TA LÀ và Ngọn Hải đăng trên Đỉnh núi được bắt đầu ở Hòa kỳ và khi con đọc các bài truyền đọc, con có thể thấy rõ là các bài truyền đọc đặt trọng tâm nhiều hơn vào Hoa kỳ và tầm quan trọng của Hoa kỳ. Và điều này có nghĩa là nhiều đệ tử phóng chiếu lên các chân sư thăng thiên là các thày nghĩ Hoa kỳ là quốc gia quan trọng nhất trên thế giới. Nhưng như các thày đã giải thích qua vị sứ giả này, các thày thực sự không có cái nhìn đó.

Lẽ tất nhiên, các thày xem Hoa kỳ là một quốc gia quan trọng, nhưng khái niệm quốc gia quan trọng “nhất” hoàn toàn vô nghĩa ở tầng thăng thiên. Các thày luôn luôn nhìn xem các thày có thể dùng ai trong các quốc gia khác nhau để giúp nâng cao tâm thức đại chúng và đưa ra ý tưởng mới và phát minh mới. Điều quan trọng không phải là nâng một quốc gia lên cao để nó trở thành cứu tinh cho thế giới. Các thày không nhìn sự việc theo cách đó.

Điều thày muốn nói ở đây là các đệ tử ở Hoa kỳ trong các đợt truyền giáo trước có một thành kiến quốc gia mà họ phóng chiếu lên các chân sư thăng thiên. Và một số thậm chí còn chỉ trích vị sứ giả này vì ông không có cùng thành kiến giống họ và do đó họ cảm thấy ông không kết nối với các chân sư thực vì các chân sư thực hiển nhiên coi Hoa kỳ là quốc gia quan trọng nhất. Thậm chí có những đệ tử ở Nga nhìn người sứ giả này và xem xét một số điều mà các thày đã nói qua người sứ giả và các đệ tử Nga nói một chân sư thăng thiên sẽ không bao giờ nói như vậy về nước Nga vì họ phóng chiếu lên các chân sư thăng thiên rằng các thày nghĩ nước Nga quan trọng giống như các đệ tử này nghĩ. Đây là một trong những thách đố cho người đệ tử chân sư thăng thiên khi con đạt tới các tầng cao hơn và con cần nhìn vào các thành kiến cá nhân của mình và đừng phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên.

Liên quan tới câu hỏi về Hiện diện TA LÀ, Hiện diện TA LÀ vẫn có thể có một số thành kiến. Hiện diện TA LÀ của một số người có thành kiến quốc gia về Hoa kỳ, về nước Nga hay các quốc gia khác vì cái Ta Biết đã đầu thai nhiều kiếp trong một quốc gia nào đó và sự việc này có thể ảnh hưởng tầm nhìn của Hiện diện TA LÀ. Khi con vươn lên cao, khi cái Ta Biết vươn lên về hướng tầng 144, trong tiến trình đó con nhận biết rõ hơn các thành kiến này và con bắt đầu chất vấn chúng. Con sẽ không thăng thiên như một người Hoa kỳ hay một người Nga. Nhiều năm trước đây, khi trang mạng Hỏi Giê-su Thật còn mới mẻ, thày Giê-su đã trả lời một câu hỏi về đồng tính luyến ái và thày trả lời là trên thiên đàng không có người đồng tính luyến ái và con cũng có thể nói là không có người Hoa kỳ trên thiên đàng, không có người Nga trên thiên đàng, không có người Cơ đốc giáo trên thiên đàng, không có người Phật tử trên thiên đàng.

Bởi vì để có thể thăng thiên con phải thăng vượt mọi nhãn hiệu, những thành kiến mà con tìm thấy trên trái đất. Con phải nhìn nhận con là một sinh thể tâm linh hoàn vũ. Con hãy xem bài truyền đọc của Giê-su về tâm thức Ki-tô. Điều chính yếu thày nói là tâm thức Ki-tô có tính hoàn vũ và không thể ép uổng nó vào bất cứ thành kiến nào. Rõ ràng là để có thể thăng thiên, con phải hợp nhất với tâm thức Ki-tô và con chỉ làm được điều này bằng cách trở nên hoàn vũ, không có thành kiến, trung hòa. Đó là lý do tại sao các thày thường xuyên nhấn mạnh nhu cầu vươn tới trạng thái tâm trung hòa.

Giờ đây các thày cũng có thể nói thêm là có một khuynh hướng trong các đệ tử chân sư thăng thiên nói rằng: “Hiện diện TA LÀ biết hết mọi chuyện, Hiện diện TA LÀ ở trên cõi tâm linh và tôi chỉ là một nối dài của nó và tôi quả thực không giúp gì cho Hiện diện TA LÀ.” Ngay cả trong đợt truyền giáo này khi các con có được khái niệm về cái Ta Biết, nhiều người nghĩ cái Ta Biết quả thực không giúp Hiện diện TA LÀ vì Hiện diện đã biết mọi thứ mà nó cần biết.

Nhưng không đúng thế. Nếu Hiện diện TA LÀ biết hết mọi chuyện thì nó không cần gửi cái Ta Biết xuống hiện thân. Có một sự tương tác giữa Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết. Có một dòng chảy hình số tám và trước đây các thày có nói là các trải nghiệm của con được gửi lên căn thể của con. Nhưng chuyện gì xảy ra trước khi nó đi lên căn thể? Đó là Hiện diện TA LÀ nhìn vào trải nghiệm của cái Ta Biết và Hiện diện học hỏi từ trải nghiệm này và qua đó nó mở rộng ý niệm bản ngã của nó, nâng cao nhận biết của nó. Điều này có nghĩa là cái Ta Biết có thể giúp Hiện diện TA LÀ nhìn thấy một số điều mà Hiện diện không thể thấy dễ dàng ở tầng thăng thiên nhưng cái Ta Biết có thể thấy vì nó đang ở dưới này đối phó với các điều kiện đó. Có sự tương tác giữa cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ – và cái Ta Biết, đặc biệt là khi con đi vào trạng thái tâm trung hòa, có thể giúp Hiện diện TA LÀ thấy một số điều, học hỏi từ một số trải nghiệm và nhờ đó nâng cao tâm thức của Hiện diện.

Thay đổi tâm thức xảy ra như thế nào?

Hỏi: Nếu chúng ta đọc các tài liệu về trải nghiệm cận tử (near-death experience), những ai có trải nghiệm cận tử thường kể lại: “Khi tôi rời xác thân của tôi, tầm nhìn của tôi được mở rộng ra tứ phía, tôi có thể đi tới bất cứ nơi đâu tôi muốn và quan sát bất cứ chuyện gì mà tôi tò mò muốn biết. Hơn nữa, tôi có thể nhận được mọi kiến thức về bất cứ vấn đề nào, qua thần giao cách cảm, ngay cả về các vấn đề vũ trụ hay nguyên lý sự sống.” Và chúng ta có thể thấy được là sau một trải nghiệm cận tử, những người đó thường thay đổi cái nhìn cuả họ về cuộc sống và họ nâng cao tâm thức.

Tương tự như vậy, sau khi chết, chúng ta cũng học hỏi được nhiều chuyện mà không bị giới hạn trong cơ thể của mình cho đến khi mình tái đầu thai. Đặc biệt trong thời gian này, chúng ta có thể nhận ra là rất nhiều điều mình làm đều dựa trên ảo tưởng. Thế nhưng khi tái đầu thai trong kiếp mới, chúng ta lại lặp lại y những khuôn mẫu cũ rất nhiều lần. Tại sao sự hiểu biết học được trước khi tái đầu thai không được giữ lại trong cỗ xe linh hồn hầu chúng ta sử dụng trong kiếp kế tiếp?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Là Cánh cửa Mở cho Địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Trước hết, con cần thận trọng một chút trong cách con đánh giá các trải nghiệm cận tử. Hiện tượng trải nghiệm cận tử là một hiện tượng vô cùng sáng giá đã giúp cho nhiều người đạt được một cái nhìn và một thái độ tâm linh hơn về cuộc sống. Nhưng con cũng cần nhận ra là không phải tất cả những gì được trải nghiệm trong trải nghiệm cận tử đều áp dụng cho mọi người.

Rất, rất nhiều người biết đến trải nghiệm cận tử rồi thắc mắc tại sao mình lại cũng không trải nghiệm như vậy trong lúc thực hành tu tập tâm linh. Có những người đã từng có trải nghiệm cận tử mà lại không có những chiêm nghiệm tâm linh sâu xa như vậy, thì họ cũng tự hỏi tại sao. Con cần nhận ra rằng trong số những người có những trải nghiệm cận tử vô cùng sâu sắc, một số đã đạt đến một mức tâm thức khá cao rồi. Có thể họ không luôn luôn ý thức được chuyện đó, nhưng họ đã chứng đạt được mức này trong tiền kiếp của họ.

Điều này có nghĩa là họ không còn gắn bó nhiều với cơ thể vật lý nữa. Đó là tại sao họ đã rời được thân xác một cách dễ dàng mà vẫn giữ nguyên ý thức. Nhưng nhiều người khác sẽ cảm thấy việc rời thân xác khó khăn hơn gấp bội, dù là họ đang trong tình trạng bị đánh mê, hay trong khi ngủ, hay khi cơ thể đã thực sự chết. Đối với nhiều người, việc rời xác thân sẽ mất nhiều thời giờ hơn. Và đối với nhiều người, ngay cả sau khi họ rời thân xác, họ cũng sẽ chỉ đến được một cảnh giới phù hợp với trình độ tâm thức của họ mà thôi. Chỉ có một số ít có khả năng rời xa hẳn xác thân đến độ họ có được những trải nghiệm sâu xa nói trên.

Bây giờ, về câu hỏi là con học được gì khi con ở ngoài xác thân vật lý giữa hai kiếp đầu thai. Trước hết, khi con ở ngoài xác thân giữa hai kiếp đầu thai, con không ở ngoài bốn thể phàm của con. Con không còn trong xác thân vật lý nữa, nhưng con vẫn còn trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Đúng là có thể có những giai đoạn con có khả năng tách ra khỏi cả những thể đó, du hành tới cảnh giới khác và chiêm nghiệm ở đó. Nhưng khi con phải trở về chuẩn bị cho cuộc đầu thai tới của con và thảo ra sứ vụ thiêng liêng cho môi trường mới này, thì con sẽ phần lớn ở trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc, bởi vì kiếp đầu thai tới được hoạch định chính là để con khắc phục những vết thương, những ngã tách biệt, những chấn thương mà con mang trong các thể này.

Công việc khắc phục này không thể làm được, ít ra là không phải toàn bộ, trong thời gian con ở giữa hai kiếp đầu thai. Có những việc mà con phải làm, mà con phải khắc phục, khi con hiện thân trong cõi vật lý. Con đang học hỏi một số bài học cao hơn mức tâm thức của mình, nhưng không quá cao so với các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Khi con tái đầu thai, con quên mất những gì con học được khi con ở ngoài thân xác chính là vì việc khám phá những điều đó là một phần trong tiến trình học hỏi của con.

Trong số nhiều người tâm linh, có một sự hiểu lầm rất phổ biến trong cộng đồng Thời Mới. Nhiều người hiểu lầm rằng mục đích của phát triển tâm linh là để đạt được một mức tâm thức tối hậu nào đó. Con muốn gọi đó là sự giác ngộ hay là bất kỳ tên nào khác thì điều này không quan trọng lắm. Có một mục đích cần đạt được, và những người này cho rằng chỉ có vấn đề làm thế nào đạt được mục đích đó càng nhanh càng tốt. Và họ nghĩ: “Vậy tại sao các chân sư không chỉ giúp tôi khắc phục mọi vấn đề của tôi hầu tôi không phải trở lại đầu thai lần nữa?” Nhưng nghĩ vậy không đúng. Mục đích không phải là đạt được trạng thái thượng thăng càng nhanh càng tốt. Như các chân sư đã có giải thích, mục đích cuộc sống không phải là để đến đây đầu thai, tạo ra nghiệp, cân bằng nghiệp, rồi đi nơi khác. Muc đích là biến đổi tâm thức.     

Điều khiến cho nhiều người bị bối rối là sự biến đổi tâm thức xảy ra ở mức của Hiện diện TA LÀ, và nó cho Hiện diện cuả con những kinh nghiệm được cất giữ trong căn thể. Nhưng những kinh nghiệm này dựa trên những gì cái Ta Biết trải nghiệm được khi con đang đầu thai. Vấn đề ở đây không đơn giản là chuyện khắc phục một số vấn đề càng nhanh càng tốt, mà là con đi qua tiến trình gỡ bỏ một cách ý thức những chọn lựa mà con đã làm trong quá khứ. Và chỉ khi nào cái Ta Biết gỡ bỏ một chọn lựa mà cái Ta Biết đã làm trong quá khứ – khi nó còn ở một mức tâm thức thấp hơn – thì kinh nghiệm của Hiện diện TA LÀ mới đem đến sự tăng trưởng ở mức đó.

Thật là sẽ chẳng ích lợi gì nếu con được các chân sư thăng thiên giúp cho con đạt tới giải thoát trong vòng 5 phút. Con đã bỏ ra cả một thời gian, qua những chọn lựa tự quyết của con, để bước vào cung mê của chiếc máy giả thực tại này. Điều này hoàn toàn tốt thôi, vì đây là một phần của giai đọan trầm mình đã được con trù định từ trước. Nhưng khi tới giai đoạn thức tỉnh thì con phải đi trở ngược lại và giải hóa những chọn lựa đó. Và bằng cách làm điều này từng bước một, mỗi bước giải quyết một chuyện, thì con mới tăng trưởng được. Mà mục đích của Hiện diện TA LÀ của con khi nó gửi cái Ta Biết xuống thế gian là gì? Chính là để tăng trưởng. Nó không chỉ đơn giản xuống đây rồi bỏ đi cho thật lẹ. Mục đích của nó là để có càng nhiều kinh nghiệm càng tốt, càng nhiều tăng trưởng càng tốt, qua việc sinh sống trong một bầu cõi chưa thăng thiên hay một hành tinh phi tự nhiên.   

Quyết định với tâm vỏ ngoài hay được nhắc bởi trực giác

Hỏi: Con mong muốn phụng sự các chân sư thăng thiên. Hiện nay con đang giúp một nhóm người không nói tiếng Anh theo học giáo lý của các chân sư. Chúng con đến từ nhiều quốc gia và gặp nhau trực tuyến. Các thày có nghĩ là con nên mở rộng dịch vụ và gia nhập, hoặc gặp tận mặt, những nhóm học bằng Anh ngữ trong thành phố của con, hay một nhóm trực tuyến bằng Anh ngũ gồm người từ nhiều thành phố tại nước con? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 20/6/2021.

Nói chung, chúng tôi không bình luận về loại câu hỏi này vì chúng tôi không muốn nói riêng cho cá nhân con những gì con cần làm. Điều này phải đến từ bên trong và con có khả năng đạt được câu trả lời từ bên trong. Cho tới khi nào con cảm thấy sự thúc đẩy mạnh mẽ từ nội tâm thì con hãy cứ tiếp tục những gì mình đang làm. Rồi con sử dụng trực giác để nhìn thấy đường đi. Đừng bước vào tâm vỏ ngoài và dùng tâm vỏ ngoài để tự ép mình mà bảo rằng đây là điều mình nên làm.     

Một điều chúng tôi thường thấy là có những học trò tìm được giáo lý, vô cùng tha thiết làm điều gì đó ích lợi cho địa cầu. Mong muốn này đặc biệt mạnh mẽ nơi các avatar, nhưng ngay cả một số dân cư nguyên thủy của địa cầu cũng có mong muốn đó. Các con tìm được giáo lý xong các con như thể bị choáng ngợp trong sự nhiệt tình, và các con dùng tâm vỏ ngoài để quyết định là tôi phải làm điều này, tôi phải làm điều kia.

Nhưng điều chúng tôi luôn khuyên nhủ là các con hãy sử dụng giáo lý để nhìn vào tâm lý mình, làm việc trên tâm lý mình, phát hiện những cái ngã đang chặn đường mình. Rồi con hãy sử dụng trực giác để quyết định – đúng hơn, không quyết định – mà chỉ đơn giản xuôi theo bất cứ gì đến với con từ bên trong, hầu con không có định kiến là con phải làm gì và con không tự ép mình làm như thế. Con hãy bỏ ra thời gian, dù là hàng năm trời, để bước vào bên trong nội tâm hầu tăng cường trực giác, giải quyết tâm lý của mình. Rồi khi mọi chuyện đến với con từ bên trong một cách tự nhiên, không cố gắng, con hãy theo đó mà hành động.   

Con muốn thị hiện những gì trong kiếp này?

Hỏi: Kinh sách dạy rằng: “Hãy hỏi thì sẽ nhận được.” Con đã theo dõi một số đạo sư Thời mới và họ cũng dạy cách thị hiện bất cứ gì con muốn. Con xin hỏi làm thế nào con có thể thị hiện những gì con muốn? Làm thế nào con buông bỏ các ham muốn vị kỷ để thị hiện những gì con muốn? Làm thế nào con biết được ham muốn của con có phù hợp với quy luật thiêng liêng hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 29/5/2021.

Ta biết rõ ở ngoài kia có nguyên một ngành công nghệ với những vị đạo sư tuyên bố là họ dạy cho học trò cách làm thế nào thị hiện bất cứ điều gì mình muốn trong đời. Ta không nói là việc thị hiện như vậy không thể hiệu quả ở một cấp độ nào đó cho một số người, bởi vì tất nhiên con có thể dùng quyền năng tâm linh để thị hiện một số điều kiện vật lý.

Nhưng vì con là người cởi mở với giáo lý của chân sư thăng thiên, câu hỏi thật sự cho con không phải là liệu con có thể thị hiện bất cứ gì con muốn, mà là thị hiện một điều gì đồng hành với các mục tiêu tâm linh của con. Nếu mục tiêu của con là thăng thiên sau kiếp này thì chuyện thị hiện một mục tiêu vật chất sẽ quan trọng như thế nào? Con có thể xem việc trải nghiệm một số điều kiện là quan trọng, chẳng hạn như một căn nhà đẹp đẽ để con có thể thăng vượt ham muốn nhà đẹp, và chuyện này cũng ổn thôi. Nó có thể thẳng hàng với sự tăng triển tâm linh của con.

Nhưng cách thực sự để giải quyết vấn đề này, tất nhiên, là nhận ra rằng bất kỳ ham muốn thấp kém nào, bất kỳ ham muốn không chính đáng nào – nếu có thể gọi như vậy – hay bất kỳ ham muốn phản tâm linh nào cũng đều xuất phát từ một ngã tách biệt. Bằng cách dùng các dụng cụ của các thày để làm việc trên ngã tách biệt này, con sẽ có thể dần dần từ bỏ các ham muốn thấp kém đó.

Khi con là một người tâm linh muốn tiến bộ tối đa, đặc biệt nếu đây là kiếp đầu thai chót của con, con phải nhận ra là con có thể có nhiều ham muốn thấp kém mà con dư sức hoàn thành trong kiếp này, nhưng chúng sẽ khiến con bị xao lãng. Chúng sẽ tốn thời giờ, tốn năng lượng, tốn tài nguyên, và chúng khiến con đi chệch khỏi mục tiêu chủ yếu là việc tăng triển tâm linh.

Một phần của đường tu của con là kinh qua tiến trình xem xét ham muốn của mình, nhìn xem ham muốn có đến từ một ngã tách biệt, xong thay vì nghĩ rằng mình phải thực hiện mong muốn đó – một điều có thể mất rất nhiều thời gian – thì con để cho ngã đó chết đi. Việc này không nhất thiết sẽ tốn nhiều thời gian và con sẽ tiết kiệm rất nhiều thời gian trên đường tu của con.

Đối phó với nỗi bất mãn sâu sắc về cuộc sống

Hỏi: Kim, cảm ơn ông đã đem lại giáo lý trong tư cách là sứ giả, nó đã giúp tôi rất nhiều. Tôi đã tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên hơn 20 năm về trước. Tôi đã nỗ lực khám phá mục đích thực của mình là gì, sứ vụ thiêng liêng của mình là gì. Tôi đã thiết lập sự nối kết với cái ta cao hơn của mình, học cách nhận biết những thông điệp của cuộc sống, học cách tha thứ và yêu vô điều kiện. Nhờ quá trình này mà đời tôi đã thay đổi hoàn toàn. Nhưng thỉnh thoảng tôi lại cảm thấy bất mãn, tôi đánh mất ý nghĩa của cuộc sống, tôi cảm thấy như mình không đang sống cuộc đời của mình. Và tôi phải mất một thời gian để tìm lại động lực giúp mình bước tới. Tôi muốn hiểu gốc rễ của nỗi bất mãn sâu xa này. Làm thế nào chữa lành những chấn thương tình cảm và lý trí đó? Làm thế nào giữ cho sự nối kết với cái ta cao hơn của tôi được thường trực và ổn định, hầu tôi có thể thị hiện một cách ý thức vương quốc của Thượng đế trên địa cầu và hoàn thành một cách ý thức sứ vụ thiêng liêng của mình?


Trả lời của ông Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 26/5/2021.

Dựa trên kinh nghiệm bản thân, tôi xin nói là trong số những người tâm linh có một loại giấc mơ – chính tôi cũng đã mang giấc mơ này khi còn trẻ, và tôi đã thấy rất, rất nhiều người mang cùng giấc mơ đó như thế này: Nếu chúng ta tìm được giáo lý tâm linh đúng đắn, và nếu chúng ta tu học thật hăng say, thì nhất định chúng ta sẽ đạt tới điểm đột phá. Và khi chúng ta đột phá thì chúng ta sẽ giác ngộ – hay bất kỳ khái niệm nào khác mà người ta có về giác ngộ – và giờ đây mọi chuyện sẽ tuyệt vời.

Bản thân tôi đã mang giấc mơ này trong nhiều năm trời. Tôi còn nhớ vào thập niên 1990, tôi hay nghĩ: “Trời, mình đã giải quyết được quá nhiều thứ trong tâm lý mình rồi, không hiểu bây giờ còn bao nhiêu nữa?” Thế rồi sau khi nhận được tất cả các lời dạy về chấn thương nhập đời, về việc đi xuống từ một hành tinh tự nhiên đến trái đất, phải hứng chịu chấn thương nhập đời và sinh sống một thời gian rất dài trên địa cầu, cái nhìn của tôi đã đổi khác, vì tôi ngộ ra là trên một hành tinh như trái đất không hề có một trạng thái nào là vĩnh viễn, vì đây là một hành tinh phi tự nhiên.

Chừng nào còn đầu thai thì chúng ta sẽ còn kinh qua nhiều chuyện trong tâm lý mình, hoặc là tâm lý của riêng cá nhân mình, hoặc một điều gì đó mình đã lấy vào từ tâm thức tập thể và đang cố xử lý. Cho nên chúng ta đang  luôn luôn đối phó với một điều gì đó.

Tôi nghĩ bước đầu tiên – ít ra là điều mà tôi đã làm – là tôi đã từ bỏ ý tưởng mình sẽ đạt được một loại đột phá nào đó và thế là mình ở trong trạng thái tâm thức tối thượng, mình đã giác ngộ. Tôi nhận ra là luôn luôn sẽ có những chuyện khởi lên trong tâm lý mình.

Một điều nữa mà tôi thấy được khi tôi nhìn lại quá trình hơn 40 năm bước chân trên đường tâm linh, là có một số chu kỳ, một số giai đọan nhất định. Có những giai đọan mà chắc chắn chúng ta tăng triển.

Thông thường khi bạn tìm thấy một giáo lý mới, bạn rất hào hứng với nó, bạn cố gắng thực hành, nhưng bạn làm vậy với một viễn quan nhất định về những việc cần làm. Chẳng hạn khi tôi khám phá ra phong trào Summit Lighthouse thì tôi đang ở một mức tâm thức nào đó và tôi nhìn con đường tâm linh theo một cách nào đó, và vì vậy tôi tiếp cận nó theo cách đó. Nhưng tôi cũng có thể thấy là một vài lần tôi đã bước đến một bước ngoặt. Nơi đó là điểm mà đúng lý tôi cần bước lên một mức cao hơn trên đường tu, nhưng tôi lại mang một thái độ, một cách nhìn, một phin lọc nhận thức nào đó ngăn cản tôi bước tới. Như thể tôi bị dính mắc vào một cách nhìn nhất định về đường tu.

Đó là những giai đọan mà tôi có thể nhìn lại và thấy là mình không còn hào hứng nữa, có lẽ mình bất mãn, hay có lẽ như bạn vừa nói, tôi đã đánh mất ý nghĩa của cuộc sống vì nó không hẳn có ý nghĩa như trước nữa. Nó không khiến tôi phấn chấn. Tôi không cảm thấy có chuyện gì đang xảy ra vì tôi không đang tăng trưởng. Khi bạn không tăng trưởng thì bạn trở nên bất mãn.

Không chỉ là vấn đề những chấn thương cần chữa lành. Đó có thể là một chấn thương mà chúng ta cần đương đầu, tuy nhiên cũng có thể là chúng ta cần xoay chuyển thái độ của mình – như tôi vừa trình bày, chúng ta cần từ bỏ ý tưởng về một sự đột phá tối hậu. Như chẳng hạn, từ bỏ ý nghĩ là mình phải tinh tấn hơn hiện thời. Ý tôi muốn nói là tôi có thể nhìn lại và thấy rất nhiều người trong giáo lý của chân sư thăng thiên nghĩ rằng: “Tôi đã học các giáo lý này từ 10, 20 năm qua, tôi phải tiến hơn thế này chứ. Tôi phải an bình, tôi phải thế này, tôi phải thế kia, tôi phải nối kết được một cách thường trực với cái ta cao hơn của tôi. Tôi phải có khả năng thị hiện bất kỳ đời sống nào mà tôi muốn.”

Tôi nghĩ sẽ tới một điểm bạn cần xoay chuyển và bước ra khỏi tư duy đó, bạn cần buông các ý nghĩ đó và nhận diện đường tu là thực sự một tiến trình không ngừng, luôn luôn xem xét chính mình, luôn luôn nhìn vào tâm lý của mình để nhận ra một giới hạn nào đó, một cái ngã nào đó, rồi để cho nó ra đi.

Khi bạn từ bỏ mong muốn đạt được một sự đột phá tối hậu nào đó, thì tâm bạn sẽ an bình, vì bạn không còn luôn luôn cảm thấy mình phải tốt hơn, hay mình phải đạt tới một điểm nào khác, hay mình phải tinh tấn hơn nhiều. Bạn biết là bạn đang tăng triển mỗi ngày, đơn giản là bạn an bình là con người mà bạn là, ở nơi bạn đang đứng trên đường tu cho dù bạn chưa toàn hảo.

Tôi không lo lắng mình đang ở mức tâm thức nào. Bạn có thể bảo chuyện này dễ quá vì tôi biết mình ở mức cao hơn tầng 96, nhưng dù sao thì tôi không quan tâm đến chuyện đó. Tôi chỉ tiếp tục tìm kiếm điều kế tiếp mà tôi cần xử lý trong tâm lý của mình, và tôi xử lý nó. Tôi không mang cảm nhận là tôi phải ở một nơi nào khác. Tôi không còn cảm nhận này nữa. Thuở trước, tôi cứ cho rằng: “Ồ, tôi phải là một sứ giả toàn hảo, tôi không được lầm lỗi hay cái này cái nọ.”

Bây giờ nếu tôi làm lỗi, tôi sẽ học hỏi từ lỗi lầm xong tôi lại tiến tới. Nếu có điều gì khởi lên trong tâm lý, tôi sẽ xem xét nó xong tôi giải quyết nó. Tôi không kháng cự lại việc xem xét một vấn đề nào như nhiều năm về trước khi tôi cưỡng lại vì tôi không thể chịu nổi trong tâm lý mình có một loại vấn đề nào đó.

Tôi nghĩ đây chỉ là chuyện xoay chuyển, là nhận ra đường tu là một tiến trình không ngừng tiếp diễn. Chúng ta sẽ lần hồi tự cải thiện, rồi khi nào chúng ta đạt đến một trạng thái tâm thức tối thượng thì đó sẽ là lúc chúng ta không còn bám giữ cái thân xác vật lý này nữa. Chúng ta sẽ thăng thiên. Đó là cách nhìn của tôi, mong là nó đã hữu ích.

Sứ vụ thiêng liêng, hay tạo kết quả trong thế gian?

Hỏi: Có phải việc hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của mình trong kiếp này không là những việc mà mình phải hoàn thành trong thế gian? Nói cách khác, có sự khác biệt nào giữa việc muốn thực hiện một số thành quả trên địa cầu so với việc muốn làm tròn sứ vụ thiêng liêng của mình?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2020 – Tăng trưởng Phân biện Ki-tô của Bạn. Đăng ngày 13/1/2021.

Khi con hiểu một sứ vụ thiêng liêng là gì, con sẽ nhận ra rằng sứ vụ thiêng liêng quy định con sẽ thực hiện một số công việc và tạo ra một số thành quả trên địa cầu. Và đó là những điều mà con có khả năng thị hiện. Nếu không thì con đã không quy định những điều đó trong sứ vụ thiêng liêng của con, bởi vì không ai định ra mục tiêu thiếu thực tế cho mình trong kiếp sống này.

Nhưng ngoài điều đó ra, cũng có thể là sau khi con đầu thai, con quyết định bằng cái tâm vỏ ngoài là con muốn thực hiện một số kết quả vỏ ngoài nào đó. Và nếu điều này không nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con, nó sẽ trở thành một trở ngại cho việc hoàn thành sứ vụ, một trở ngại cho sự phát triển tâm thức của con, vá nó có thể trở thành một sao lãng dẫn con vào ngõ cụt. Sứ vụ thiêng liêng của con không đề ra những mục tiêu mà con không thể thực hiện được trong kiếp này. 

Sứ vụ thiêng liêng dành cho một kiếp sống nhất định. Trong đó cũng có thể có một số mục tiêu dài hạn, nhưng nó quy định mục tiêu cho một kiếp sống nhất định. Nó khả dĩ và thực tế. Nếu con quy định trong sứ vụ là con sẽ tự thăng vượt thì con sẽ muốn tự thăng vượt trong kiếp này.

Mặc cảm cứu tinh của các avatar

Hỏi: Trong quyển sách “Những kiếp của tôi” (My Lives), nhân vật chính kể rằng khi ông ta tham khảo các cố vấn tâm linh của ông về quyết định sẽ đến hành tinh địa cầu, sự suy nghĩ của ông phần nào không minh mẫn và điều này đã ảnh hưởng đến tiến trình quyết định. Phần nào ông đã hình thành một mặc cảm rằng mình là cứu tinh. Con chỉ thắc mắc không biết tiến trình của Giê-su là thế nào khi thày tham khảo các cố vấn của thày để lấy quyết định tới địa cầu? Lúc đó thày có minh mẫn hơn nhân vật trong sách hay không, hay là thày cũng bị bối rối khi phải cân nhắc việc đầu thai lần đầu tiên trên địa cầu? Ngoài ra, liệu Giê-su có tính viết một cuốn sách kể lại hành trình cư ngụ trên trái đất cùng những biến cố chính trong suốt các kiếp sống mà thày đã sống qua kể từ khi thày hiện thân lần đầu tiên cho tới khi thày thăng thiên?      


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong một hội nghị tại Hòa Lan năm 2018. Đăng ngày 11/9/2019.

Điều ta muốn con rút tỉa từ cuốn sách “Những kiếp của tôi” và cũng là điều ta muốn nói ở đây, đó là: Hành tinh địa cầu là một phương tiện giáo dục. Có nghĩa là tất cả mọi người đã hiện thân vào cõi vật lý đã có nhu cầu học hỏi một điều gì đó qua sự kiện họ đến đây. Những chuyện kể về nhân vật chính trong sách không chỉ là câu chuyện về một dòng sống, mà là một tập hợp những suy nghĩ trăn trở của nhiều avatar về những động lực đã thúc đẩy họ đến địa cầu. Con cũng hiểu là một avatar không bắt buộc phải đến địa cầu bởi bất kỳ một nguyên do nghiệp chướng nào, mà đã chọn lựa đến đầu thai ở đây. Tất cả chúng ta, kể cả chính ta, là avatar đến đây đã mang một động lực mà chúng ta coi là hoàn toàn nhân từ, mà thật vậy trong một nghĩa nào đó, động lực đó hoàn toàn nhân từ.  

Tuy nhiên chúng ta cũng có một cái nhìn có phần thiếu cân bằng, chúng ta có một số khía cạnh của mặc cảm cứu tinh. Đây là điều mà mỗi chúng ta cần phải học hỏi như nhân vật trong sách mô tả, là ông ta nhận ra rằng ông phải buông bỏ mặc cảm đó và hiểu rằng ông không đến đây để thay đổi một ai. Tất cả chúng ta phải kinh qua tiến trình này để rốt cuộc nhìn trái đất với tất cả những khuyết điểm, tất cả những khổ đau của nó để ngộ ra là mình sẽ hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết. Con nhận ra là con không ở đây để thay đổi bất cứ ai, con chỉ ở đây để thay đổi chính con mà thôi. Tất nhiên, con cũng nhận ra là khi con ở đây và làm tất cả những chuyện này, khi con thay đổi chính mình, thì con cũng làm gương cho người khác noi theo nếu họ muốn.

Con phải đạt tới một điểm khi mà để thăng thiên, con phải làm hòa với quyền tự quyết, với khái niệm tự quyết, với cách quyền tự quyết được phép tương tác và diễn ra trên một hành tinh như địa cầu. Con có khả năng nhìn thẳng vào tất cả sự đau khổ mà không bước vào một phản ứng động cảm, và con nhìn xa hơn những nỗi đau khổ để thấy rằng đó là cách duy nhất mà quyền tự quyết có thể diễn ra. Vì khi con người xuống thấp hơn một mức tâm thức nào đó, họ sẽ phải trình diễn tâm thức đó cho tới khi họ chán ngấy. Không những chỉ chán ngấy sự đau khổ (điều này nhiều người chán ngấy rất nhanh) mà họ chán ngấy cả cái tâm thức đã đem lại đau khổ.

Vậy con đạt đến một điểm khi con thực sự làm hòa với địa cầu như địa cầu đang là, và con thực sự cảm nhận được cho dù con đã đến địa cầu để đem lại thay đổi tích cực, bây giờ con có thể rời địa cầu cho dù con chưa đem lại được thay đổi đó.

Đây là một tiến trình mà tất cả chúng ta đều phải kinh qua. Trong một nghĩa nào đó, con có thể nói rằng tất cả chúng ta đều có một phiên bản riêng về mặc cảm cứu tinh, bởi vì nếu không thì chúng ta đã không tình nguyện đầu thai ở đây. Cho nên tất cả chúng ta phải học cách vượt qua, và nhìn thấy điều gì đã thúc đẩy mỗi chúng ta đi đến phán đoán là trên địa cầu có những điều không ổn cần thay đổi.  

Một lần nữa, đây là một vấn đề tế nhị vì hiển nhiên trên địa cầu có rất nhiều khổ đau. Đương nhiên nhiều người bị cuốn trôi vào trong đó và đã không chọn lựa bước vào đó một cách ý thức – họ đã chọn lựa một cách vô thức. Dù sao thì quyền tự quyết vẫn là quyền tự quyết. Cho nên mặc dù chúng ta có thể đến đây và thắp lên một ngọn đèn trong bóng tối, nhưng chúng ta không thể thao túng người khác để họ phải chấp nhận ngọn đèn của chúng ta vì lợi ích của họ.      

Về việc viết một cuốn sách kể ra chi tiết mọi kiếp đầu thai của ta, ta không có ý định này ngay bây giờ, một phần là vì tất nhiên ta đã sống qua rất nhiều kiếp và kể lại hết sẽ rất khó khăn, thậm chí không thể làm được trong một cuốn sách. Phần khác là vì ta không muốn đặt quá nhiều trọng tâm vào bản thân mình ngoài những điều đã làm. Thật sự mục đích của cuốn sách “Những kiếp của tôi” là để làm xẹp bớt sự sùng bái thần tượng chung quanh con người của ta mà các giáo hội Cơ đốc giáo và ngay cả nhiều người trong các cộng đồng Thời mới vẫn có. Chúng tôi muốn đưa ra cho mọi người một lời dạy để giúp họ ngưng sùng bái chứ không sùng bái nhiều hơn.   

Làm sao biết được mình là avatar

Hỏi: Làm sao một người có thể tìm ra mình là một avatar, hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu, hay một loại gì khác nữa?


Trả lời của ông Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 9/9/2019.

Không hiểu bạn có đọc quyển sách mới hay chưa? Tôi xin trả lời câu hỏi này, và quyển sách mới đó là “My Lives with Lucifer Satan Hitler and Jesus”. Từ “avatar” đã được sử dụng trong một số giáo lý trước đây – một số là của các chân sư thăng thiên và một số giáo lý tâm linh khác nữa. Tôi không chắc chắn 100% nhưng tôi nghĩ từ này có thể đã được bà Blavatsky và giáo lý Thông thiên học đề xướng. Không hiểu trong số các bạn có ai biết rõ hơn không?

Và tất nhiên, từ này được dùng trong phim Avatar. Trong các trò chơi máy tính cũng có khái niệm avatar. Nhưng trong nhiều giáo lý của các chân sư thăng thiên, một avatar được xem là một sinh thể vô cùng tiến hóa đã đến trái đất. Cũng có một số giáo lý nói rằng, chẳng hạn, Giê-su là một avatar, và đó là lý do thày đặc biệt đến như vậy.

Điều này trớ trêu, vì như tôi vừa nói chuyện với một vị hồi nãy, giáo lý của các chân sư dạy rằng Giê-su không phải là đứa con duy nhất của Thượng đế, rằng thày đã từng có nhiều kiếp đầu thai, và trong một số kiếp này, thày không nhất thiết là đã luôn luôn làm điều phải. Cho nên có một phần giáo lý kéo Giê-su xuống khỏi bệ, nhưng có một phần giáo lý khác lại vẫn duy trì quan điểm thờ thần tượng và bảo rằng khi thày xuống thế gian, thày đã rất đặc biệt rồi. Sự thể này tất nhiên là phản tác dụng.

Cho nên cuốn sách này (My Lives with Lucifer, Hitler and Jesus) cố gắng vượt quá việc huyền thoại hóa và thần tượng hóa tất cả các khái niệm đó, kể cả về Giê-su. Nó cố gắng đưa ra quan niệm một avatar là một người không là dân cư nguyên thủy của địa cầu, không là một sa nhân, và cũng không là một người đã phải đến đây do nghiệp quả.

Có những người, những dòng sống đã đầu thai ở đây từ những hành tinh khác và đã tạo nghiệp nơi những hành tinh đó, chẳng hạn khi hành tinh đó được thăng lên thì họ đã không đủ nâng tâm thức, nên đã phải chuyển tới địa cầu nơi mức tâm thức thấp hơn. Nhưng một avatar không đến đây đầu thai vì lý do đó, mà đã lựa chọn đến đây với một mục đích trong tâm là, trên cơ bản, tham gia vào một sứ mạng cứu nguy và nâng cao địa cầu lên một tầng tâm thức cao hơn.

Trong cuốn sách mới này có nói rằng, trên cơ bản, hầu hết những người rất tâm linh và cởi mở đối với các giáo lý tâm linh – kể cả giáo lý của chân sư thăng thiên nhưng không chỉ của chân sư thăng thiên – đều là avatar. Giả thuyết hợp lý là nếu bạn là một người rất tâm linh từ rất lâu và cũng rất cởi mở, thì rất có thể bạn đã tới đây như một avatar.

Trong sách nói rằng Giê-su đã từng là một avatar, nhưng có rất nhiều vị khác nữa, hay đúng hơn, có hàng triệu người là avatar đã đến địa cầu. Điều mà các chân sư mong muốn chúng ta làm là xóa bỏ khoảng cách mà chúng ta thường đã dựng lên giữa chúng ta và các chân sư, là khi chúng ta đặt chân sư lên một cái bệ không thể nào với tới. Các chân sư mong muốn chúng ta nhận ra là rất nhiều người đã đến địa cầu với một mục đích giúp cho điạ cầu thức tỉnh, và để đánh thức địa cầu thì chúng ta phải đánh thức chính mình. Đấy là không muốn nói tới một số cư dân nguyên thủy của trái đất cũng là người tâm linh.

Làm thế nào bạn có thể tìm ra nguồn gốc của mình là thế này hay thế kia? Bạn chỉ có thể biết được trong nội tâm qua trực giác. Nhưng như một giả định chung chung, tôi sẽ nói rằng bạn là avatar nếu bạn có tâm cởi mở đối với những giáo lý này, trừ khi bạn có trực nhận mạnh mẽ bạn là thế khác. Cuốn sách này là một cuốn tiểu thuyết, và nó được viết ở ngôi thứ nhất, tức là “tôi đã trải nghiệm điều này”, “tôi đã làm công việc kia”. Tất nhiên, tên tôi được in ngay trên bìa sách, nhưng không có nghĩa cuốn sách là một tự truyện. Tôi không xem là mình đã trải qua tất cả mọi điều mô tả trong sách, nhưng tôi cảm thấy tôi đã trải qua một số, và quyển sách là một bản trích yếu tất cả những trải nghiệm của nhiều avatar khi họ đến đây.

Trong sách có mô tả một số hành tinh nơi không hề có chiến tranh, bạo động hay đủ loại thị hiện khác, cho nên chúng có tên là hành tinh “tự nhiên”. Một avatar là một sinh thể đến từ một hành tinh tự nhiên như thế, trực tiếp xuống một hành tinh như địa cầu. Cho nên như tôi vừa nói, có một số người khác từ một số hành tinh không phải là hành tinh tự nhiên cũng đã đầu thai ở đây. Nói cách khác, nếu hành tinh đó ở một mức thấp hơn hành tinh tự nhiên, và khi hành tinh đó thăng lên, người đó đã được chuyển sang địa cầu vì đã không nhảy vọt lên theo, thì những người như vậy không phải là avatar. Họ đến từ hành tinh khác nhưng không phải là avatar.

Một avatar là một sinh thể đến từ một hành tinh tự nhiên nơi không có chiến tranh, bạo lực, sát hại hay hỗn loạn. Điểm này vô cùng quan trọng, vì như các chân sư đã giảng qua những bài truyền đọc và bây giờ qua sách, bạn không thể nhảy thẳng từ một hành tinh tự nhiên xuống một hành tinh như địa cầu mà không trải nghiệm khủng hoảng và chấn thương. Cho nên để chữa lành, nhiệm vụ của mỗi avatar bây giờ là: thứ nhất, hoàn thành sứ mạng mà bạn đã đến đây để thực hiện, và thứ hai, rời khỏi nơi đây.

Chúng ta phải nhìn nhận là chấn thương có đó, rồi chúng ta phải chữa lành. Bởi vì nếu không, chúng ta sẽ bị kẹt mãi trong khuôn nếp đó. Như được mô tả trong cuốn sách, nhân vật chính phải chạm trán với sa nhân, bị sa nhân đối xử tệ hại, và rồi anh ta đã bắt đầu phản ứng lại sa nhân, rơi vào chu kỳ phản ứng khi anh giao chiến với sa nhân, và với ý định cao thượng nhất, anh đã cố gắng ngăn cản chúng giết hại và gây đau khổ cho người khác. Anh ta tưởng rằng cách duy nhất để ngăn chặn chúng là phải tiêu diệt chúng.

Nhưng ngay cả khi chúng ta không chiến đấu trực diện với sa nhân, thì cũng có một số khuôn nếp phản ứng khác mà chúng ta có thể mắc phải. Chẳng hạn như khi chúng ta nghĩ mình không thể thách đố chúng, rằng mình phải quy phục chúng, hay đứng ngoài và im miệng không thốt lên lời nào có thể khiến chúng nổi giận. Và còn có nhiều khuôn nếp phản ứng khác nữa, và khi nào chúng ta còn khuôn nếp phản ứng lại sa nhân thì chúng ta sẽ không thể thăng thiên. Và bởi chúng ta đến từ mức đó cho nên chúng ta phải ý thức được khuôn nếp, phải giải quyết và thăng vượt khuôn nếp.

Làm thế nào nhớ lại Sứ vụ Thiêng liêng của mình

Hỏi: Maitreya có đề cập trong cuốn sách của thày, “Chìa khoá chỉ đạo cho tự do tâm linh” (Master keys to spiritual freedom), rằng chúng con bị chứng mất trí nhớ khiến chúng con quên mất Sứ vụ Thiêng liêng của mình khi đầu thai. Chúng con có thể làm gì để khắc phục bệnh này và nhớ lại Sứ vụ Thiêng liêng của mình?


Trả lời của chân sư thăng thiên Maitreya qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga, năm 2017. Đăng ngày 5/9/2019.

Con hãy đọc hết cuốn sách đi. Hiển nhiên các thày đã trao cho các con rất, rất nhiều dụng cụ tu tập, và có nhiều việc các con cần làm để nhớ lại Sứ vụ Thiêng liêng của mình, trong đó tất nhiên có việc cầu thỉnh nhằm biến hóa năng lượng nơi bốn thể phàm của con đang ngăn chặn sự liên lạc thông suốt với Hiện diện TA LÀ của con, việc học hỏi các giáo lý hầu con ngày càng lãnh hội sâu sắc hơn, việc tăng triển khả năng trực giác của con, vân vân… Nhưng điều vô cùng quan trọng mà con cần nhận ra là trong khi con còn hiện thân, sẽ không bao giờ có một điểm con bỗng nhiên đứng đó và thấy rõ Sứ vụ Thiêng liêng của mình hiện ra toàn bộ trước mắt. Đó chính là mục đích mà con phải hiện thân.

Sứ vụ Thiêng liêng không hề được khắc trên đá, nó không định ra từng bước bất di bất dịch mà con phải đi qua trong kiếp đầu thai. Trong Sứ vụ Thiêng liêng có rất, rất nhiều hoàn cảnh mà con cần phải lấy quyết định lựa chọn bởi vì chỉ như vậy con mới tăng trưởng được. Vì vậy đó không phải là một bản hoạch định đường thẳng vạch ra từng bước mà con phải đi, hết bước này rồi tới bước sau.

Sứ vụ Thiêng liêng của con dẫn con tới một tình huống nào đó nơi con có một loạt những chọn lựa mở ra cho con. Con chọn một trong số chọn lựa đó – và nó dẫn con tới một tình huống mới nơi Sứ vụ Thiêng liêng lại đưa ra một loạt chọn lựa trong tình thế mới. Điều này có nghĩa là khi con có những chọn lựa trong đời, Sứ vụ Thiêng liêng của con sẽ lần hồi chuyển mình, để khi con có chọn lựa cao thì đường con đi sẽ cao hơn, và nếu con có chọn lựa thấp thì đường con đi sẽ không thể cao được như vậy.

Cho nên Sứ vụ Thiêng liêng không được khắc trên đá mà có thể nói đó là một loại kế hoạch tác động qua lại, tương tự như khi con chơi một trò chơi trên máy tính, những quyết định của con ở một tầng dưới sẽ định đoạt con sẽ được chơi tiếp ở tầng nào sau đó. Sứ vụ Thiêng liêng của con không ngừng chuyển đổi, và tất nhiên, nếu con biết trước đâu là chọn lựa cao nhất trong một hoàn cảnh nào đó thì con sẽ không thể học hỏi bằng cách đi theo Sứ vụ Thiêng liêng.   

Con sẽ tăng trưởng khi con chọn lựa dựa theo tình thế trước mặt, dựa theo những gì con có thể nhìn thấy rồi con học hỏi từ đó và con nâng cao tâm thức của con. Nếu con cứ nhắm mắt đi theo một kế hoạch sẵn có, con sẽ không tăng trưởng và con sẽ trải qua nguyên một kiếp sống mà không tăng trưởng. Đây là điều xảy ra cho nhiều người mà các chân sư khác có nói đến và ta cũng đã có đề cập trước đó. Những người này rơi vào một trạng thái hôn mê tâm linh khi họ không phát triển trong nguyên một kiếp đầu thai. Lý do là vì họ không dám chọn lựa dựa trên sự hiểu biết hạn hẹp mà họ đang có.

Thậm chí còn có những hành giả tâm linh, ngay cả các học trò của chân sư thăng thiên, cũng đã sử dụng giáo lý của các thày để lý giải tại sao họ phải đi theo một chương trình vỏ ngoài nào đó mà không cần lấy những chọn lựa sẽ giúp họ tăng trưởng tâm Ki-tô. Và điều này, tất nhiên, không phải là điều các thày mong muốn chứng kiến. Các thày mong muốn học trò của mình ngày càng sẵn sàng chọn lựa – không xem sự chọn lựa như một tiến trình phải chọn giữa đen và trắng, mà đơn giản học hỏi từ mỗi chọn lựa, và mỗi lần như vậy, bước lên cao hơn trong tâm thức.

Nguyên nhân tâm linh của bệnh trầm cảm và cách chữa trị

Hỏi: Con tưởng con đã chiến thắng được chứng trầm cảm nhưng hình như con vẫn chưa làm được. Không phải là con muốn tự vận hay con thèm hút thuốc, dùng ma tuý hay uống rượu đâu. Đơn giản là con chỉ mệt mỏi. Con đã chán ngấy tất cả mọi thứ. Con chán chường thế gian này. Nhiều khi con không muốn gì khác hơn là nổ tung ra để nhập vào cái Tất cả. Nếu Thượng đế là đại dương và con là giọt nước thì con muốn trở về trong đó. Con biết là con còn một phần vụ mà con phải hoàn tất trước khi con được phép VỀ NHÀ nghỉ ngơi, nhưng đơn giản là con chán ghét chuyện phải quay trở về nơi đây. Cho nên con tự hỏi, không hiểu thày có thể nói cho con biết chuyện gì đang xảy ra? Liệu thày có biết tại sao con phải phấn đấu như thế này? Con không muốn ai thông cảm hay thương xót con mà con chỉ muốn hiểu những căng thẳng đang giằng xé con. Con luôn cảm thấy niềm thôi thúc muốn bỏ đi đâu thật xa, và y như thày đã từng đi vào vùng hoang vắng, con cũng bị thu hút đi vào rừng rậm.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Đệ yêu dấu, con chỉ đang mô tả tiến trình mà hầu hết mọi dòng sống đều đi qua khi họ đạt đến những mức cao của đường tu tâm linh. Tới một lúc dòng sống bắt đầu nhận ra là y khao khát một cái gì cao hơn các thú vui của cuộc sống. Dòng sống bắt đầu nhận chân được thực tại nằm sau những câu sau đây trong Kinh thánh:

  • Phù phiếm của mọi phù phiếm – vị thày nói như thế – hư ảo của mọi hư ảo, tất cả đều là hư ảo. (Ecclesiastes 1:2)
  • Ta đã thấy mọi sự xảy ra dưới mặt trời, và kìa, tất cả đều là hư ảo, là sự tha hóa của tánh linh. (Ecclesiastes 1:14)
  • Ta nhủ trong lòng rằng: Hãy đến, ta sẽ vui mừng thử xem có hưởng được thú vui, và kìa, cái đó cũng hư ảo. (Ecclesiastes 2:1)
  • Xong ta nhìn tất cả mọi việc mà tay mình đã làm cùng mọi lao khổ mà mình đã bỏ ra để hoàn thành, và kìa, tất cả đều là hư ảo và sự tha hóa của tánh linh, chẳng có ích lợi gì dưới mặt trời. (Ecclesiastes 2:11)
  • Xong ta nhủ trong lòng rằng: Như chuyện xảy đến cho người vô minh, chuyện này cũng xảy đến cho ta, và làm sao ta lại khôn ngoan hơn được? Xong ta nhủ trong lòng rằng: Cái đó cũng là hư ảo. (Ecclesiastes 2:15)
  • Cho nên ta chán ghét đời sống, vì mọi sự dưới mặt trời đều nhức nhối cho ta, vì tất cả đều là hư ảo và sự tha hóa của tánh linh. (Ecclesiastes 2:17)

Đây là trạng thái tâm thức mà ta đã từng mô tả như sau: “Nếu có ai theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và ngay chính đời sống của mình, thì người đó không thể là môn đồ của ta.” (Luke 14:26)

Khi con leo đường tu tâm linh, không thể tránh được là con sẽ đạt tới điểm không có đường quay trở lại, khi con nhận ra là con không thể tiếp tục sống như một người bình thường cứ đắm chìm trong các nỗi vui buồn của thế gian. Con muốn bỏ thế gian lại đằng sau, nhưng động lực nằm bên dưới cảm nhận này là con muốn bỏ lại cái tâm thức thấp kém của tâm nhị nguyên. Đó chính là tâm thức khiến cho mọi sự trong thế gian này hiện ra là hư ảo. Và thật vậy, chừng nào một người còn bị kẹt trong tâm nhị nguyên thì mọi sự sẽ đều là hư ảo. 

Cho nên sẽ tới một điểm trên đường tu tâm linh khi dòng sống bắt đầu “ghét” tất cả những phần của đời sống dựa trên tâm nhị nguyên, và chính ở điểm này y mới có thể thực sự vươn lên tâm thức Ki-tô. Như ta đã giảng, dòng sống không thể nào phục vụ hai vị chủ, cho nên khi nào y chưa quyết định bỏ lại tâm nhị nguyên thì y sẽ không thể là một đệ tử đích thực của tâm thức Ki-tô.

Từ rất lâu, trạng thái tâm thức này rất phổ biến trong số những dòng sống đã đầu thai trên địa cầu. Tuy họ tham gia vào đủ loại sinh hoạt mà địa cầu cống hiến, nhưng trong thâm tâm họ có phản ứng: “Tôi đã bước chân tới đây rồi, tôi đã làm chuyện này rồi.” Họ cảm thấy không còn gì thêm trên hành tinh này mà họ muốn thực hiện, và họ muốn bước đi tiếp, muốn bước ra khỏi những giới hạn bắt buộc của thế gian.

Ta có thể hiểu được lý do tại sao nhiều người lại cảm thấy như vậy vì chính ta cũng đã trải qua tiến trình này 2000 năm trước đây. Hẳn con cũng biết giữa thời điểm ta xuất hiện tại Nhà thờ vào tuổi 12 và thời điểm ta xuất hiện ở tiệc cưới tại Cana, kinh Tân ước đã không ghi lại bất cứ gì về những nơi ta đã đến cũng như những việc ta đã làm. Suốt 17 năm “biệt tăm” này, quả là ta đã trải qua một giai đoạn trầm cảm sâu sắc, và ta đã phải đương đầu với chính cái tâm thức mà con vừa mô tả.

Điều đã giúp ta thoát ra khỏi tình trạng trầm cảm đó của dòng sống – và cũng là điều đã giúp cho tất cả mọi dòng sống khác đã từng đối mặt với vấn đề này – là rốt cuộc ta đạt tới điểm nhận ra là mặc dù không còn công việc nào mình muốn làm cho cá nhân mình trên hành tinh này, nhưng vẫn còn nhiều công việc mà ta có thể làm cho tha nhân. Ta cũng có thể giúp Thượng đế đem lại vương quốc của ngài trên địa cầu.

Bạn yêu dấu, con thấy đó, như ta có mô tả trong một bài giảng khác, sẽ tới một điểm khi một dòng sống không thể tiếp tục học hỏi nếu y không bắt đầu chỉ dạy cho người khác. Và như Mẹ Mary giải thích trong bài giảng tuyệt vời của thày, một dòng sống có thể đạt tới điểm khi cách duy nhất để y tiến xa hơn là trở thành người đày tớ cho mọi người.

Khi một dòng sống lần đầu tiên bước xuống địa cầu, công việc của y là đặt trọng tâm vào bản thân mình. Đó là công việc thu thập nhiều trải nghiệm, xây dựng một ý niệm bản sắc mạnh mẽ, vững vàng. Nói cách khác, dòng sống cần tập trung vào chính mình hầu trau dồi một ý niệm bản sắc vững vàng. Quả vậy, có nhiều dòng sống trên địa cầu đang hoàn toàn chú tâm vào công việc này, và mặc dù họ có vẻ vị kỷ hay chỉ biết lo cho mình, nhưng họ đang làm đúng điều mà họ cần làm trong giai đoạn phát triển tâm linh hiện thời của họ.

Tuy nhiên khi dòng sống tiếp tục tăng triển, sẽ tới một điểm khi y đã tạo dựng được một nền tảng vững chắc, một ý niệm bản sắc vững mạnh – có thể nói là y đã lấp đầy cái khuôn đúc của cỗ xe bốn tầng, đã neo chặt vào ý niệm bản sắc của mình – thì ở điểm đó, dòng sống thật sự không có cách nào tăng triển được nếu y cứ mãi tập trung vào chính mình. Cho nên có hai chọn lựa mà y có thể đi theo:

  • Nếu dòng sống tiếp tục chú tâm vào bản thân, y sẽ không tránh khỏi chìm vào một sự vô vọng, tuyệt vọng, một cảm giác mất hết mục đích hay ý nghĩa, và điều này chắc chắn sẽ dẫn đến trầm cảm. Nhiều người, đặc biệt trong các giới Thời mới, đã đạt tới điểm này rồi, và họ bước vào một vòng xoắn ốc dường như bất tận luôn luôn tìm kiếm cho bản thân mình một trải nghiệm tâm linh tối hậu, khiến họ không ngừng đi theo các lớp tu học hay tìm cách trị liệu tâm lý. Nhưng cho dù họ có cố gắng đến đâu, họ vẫn không làm sao trải nghiệm được niềm thỏa nguyện cá nhân đó. Lý do là vì họ tìm kiếm cái đó trong một tinh thần vị kỷ thay vì vượt ra ngoài phàm ngã con người để vươn tới cái ta thần thánh – tức là cái ta hợp nhất với mọi sự sống và do đó cũng tìm được sự thỏa nguyện trong việc giúp đỡ tha nhân. 
  • Chọn lựa kia là dòng sống có thể thăng vượt ý niệm bản ngã hạn hẹp của mình và nhận ra là không một dòng sống nào là một hòn đảo. Một khi con đã xây dựng được một ý niệm bản sắc mạnh mẽ – tức là con biết rõ mình là ai như một dòng sống cá biệt – thì bước kế tiếp lô-gíc là con sẽ tiếp tục bồi đắp cái nền tảng đó, phát triển một ý niệm mạnh mẽ rằng con là ai trong sự nối kết với Thượng đế, cũng như trong sự nối kết với thế giới nơi con đang sống. Đó là điểm mà con có thể với tới tâm thức Ki-tô, và cuối cùng nó sẽ giúp con thấy được Thượng đế trong tất cả mọi vật đã từng được sinh tạo. Nó sẽ đem lại cho con một cảm nhận nối kết mạnh mẽ với mọi người cũng như với Mẹ địa cầu. 

Chính cảm nhận từ bi ngày càng sâu đậm này đã giúp cá nhân ta thoát ra khỏi tình trạng trầm cảm, sống không mục đích. Chính lòng từ bi đã khiến ta trở về đất Israel và nhận lấy vai trò thể hiện Ki-tô Hằng sống trên trái đất. Chính lòng từ bi đã khiến ta sẵn lòng đi muốt con đường và dâng hiến cả mạng sống của mình cho công cuộc đánh thức loài người về sự thực của tâm thức Ki-tô.

Bạn yêu dấu, con – cũng như nhiều dòng sống khác giống như con – đã bước đến một ngã ba trên con đường tiến hóa của dòng sống của con. Con có thể tiếp tục sống trong trạng thái hiện thời của mình là chỉ chú tâm vào bản thân mình rồi trở nên vô vọng, hay con có thể tìm kiếm chính con một cách nghiêm túc để khám phá ra cái điểm trong nội tâm nơi con đã lấy quyết định ngăn cản bước tiến của con. Một khi con phát hiện được quyết định đó, con sẽ có thể thay thế nó với một quyết định khác là tìm cầu tâm thức Ki-tô, vượt ra khỏi ý niệm bản ngã hạn hẹp, ý niệm bản sắc giới hạn của mình, để con thấy mình là thành phần của một tổng thể rộng lớn hơn.

Nếu con thực tâm bước vào tiến trình này, con sẽ có thể nhanh chóng trải nghiệm một sự quay đầu toàn diện trong đời con, và con sẽ chứng được một lòng từ bi cũng như một mục đích sống vô cùng mạnh mẽ. Khi đó, con có thể trở thành một trong số những sinh thể Ki-tô mà ta luôn nói tới trên trang mạng này. Con có thể đóng góp phần mình để đem lại vương quốc Thượng đế trên địa cầu, nâng nhân loại lên một tầng tâm thức cao hơn. Bạn yêu dấu, đó chẳng phải là một mục đích đáng theo đuổi hay sao?

Con hãy nhìn quanh trên hành tinh này có bao nhiêu người bị nghèo đói tâm linh, bao nhiêu người cần có người hướng dẫn mà không cưỡng ép họ gia nhập một tôn giáo vỏ ngoài nào đó. Nếu điều này không động viên tinh thần của con thì con hãy nhìn xem có bao nhiêu vấn đề vật lý đang chờ người đứng ra giải quyết. Thật không thiếu gì những việc lành mà con có thể tham gia để giúp người khác, và ta có thể cam đoan với con rằng làm việc lành và giúp tha nhân là cách nhanh nhất – và nhiều khi là cách duy nhất – để chữa trị chứng trầm cảm.

Con hãy bỏ công ra tìm kiếm cái điểm bên trong dòng sống của con nơi con yêu thương mục đích của Thượng đế thật tha thiết. Xong con hãy cho phép tình thương đó tiêu hủy mọi cảm nhận cuộc đời này là vô nghĩa. Hãy cho phép tình thương đó đánh thức con người thực của con và lý do con đã chọn đến địa cầu này ở thời điểm mấu chốt hiện nay. Hãy cho phép tình thương đó đốt sạch mọi bợn nhơ của lòng vị kỷ và trầm cảm đã ngăn cản con là con người mà con thực là.

Ta cần đến con và những người như con – những người cảm thấy mình đã làm mọi chuyện có thể làm trên hành tinh này, những người sẵn lòng gạt sang một bên các thú vui của thế gian để phục vụ cho một mục đích cao hơn. Ta cần đến con. Thượng đế cần đến con. Hành tinh cần đến con. Mọi người khác cần đến con. Và chính con cũng cần khắc phục sự chú tâm vào bản thân, con cần tự giúp mình tiến lên để giúp đỡ người khác. Bạn yêu dấu, liệu con sẽ cần nhiều khích lệ hơn thế hay sao? Vậy thì chúng ta hãy chú tâm vào công việc của Cha chúng ta!

Ngày nay, con cần hội nhập tâm linh với cuộc sống thực tiễn

Hỏi: Giê-su yêu dấu, thuở xưa thày có dạy chúng con phải buông bỏ tất cả ngoại trừ thày. Điều quan trọng là phải luôn luôn ý thức thày và ý thức Hiện diện TA LÀ. Thế nhưng công việc kinh doanh và các vấn đề thế gian luôn lôi kéo chúng con. Liệu con có an toàn nếu con tiếp tục công việc kinh doanh, hay là con từ bỏ kinh doanh và làm việc như một sinh thể tâm linh?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Một lần nữa, những lời dạy của ta 2000 năm trước đây phải thích ứng với tình trạng tâm thức của nhân loại thời đó. Thuở đó, con người bị kẹt nhiều hơn trong cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế. Khi họ bị mắc trong trạng thái tâm thức như vậy, quả thật họ cần phải lánh xa các công việc thế gian trong một thời gian trước khi họ có khả năng thể hiện tính buông bỏ sẽ giúp họ phụng sự Thượng đế nội tâm thay vì phục vụ thế gian.

Đó là tại sao suốt 2000 năm qua đã có truyền thống những tu viện nơi người tầm đạo tâm linh có thể lui về đó, rút hẳn khỏi thế giới bên ngoài và hoàn toàn tách mình khỏi mọi quan tâm trần thế. Tuy nhiên trong thế giới ngày nay, đó không phải là mục tiêu cao nhất. Ta không nói là con không thể, hoặc không nên, xuất thế trong một thời gian nếu con cảm thấy cần phải làm như vậy. Nhưng lý tưởng trong Thời đại Bảo bình, là thay vì con rút lui khỏi xã hội để tìm kiếm tâm linh, con đi vào nội tâm của con để tìm tâm linh rồi con đem nó trở ra bên ngoài để biểu hiện trong sinh hoạt đời sống. Điều này áp dụng cho gia đình, học vấn, kinh doanh hay bất kỳ sinh hoạt nào khác.   

Cho nên câu hòi đặt ra thật sự là như sau: con có không dính mắc, con có buông bỏ hay không? Liệu con có thể làm kinh doanh trong tình thương? Và nếu con thấy việc kinh doanh làm xáo trộn sự an bình nội tâm của con, khiến con bị vướng mắc hay nó lôi kéo con vào những tình huống nơi con không thể cảm thấy tình thương, thì con có một sự chọn lựa. Và con có thể bắt đầu xét xem liệu con có khả năng khám phá cái gì đó trong tâm lý của con khiến con bị vướng mắc như thế, rồi con có thể chữa lành vết thương đó hầu con thoát ra khỏi.

Tuy nhiên trong một số trường hợp, cũng có thể con phải nhìn nhận rằng hình thức kinh doanh của con không thuận lợi cho một lối sống tâm linh, hoặc là vì bản chất của doanh nghiệp, hoặc vì nó đòi hỏi quá nhiều thì giờ và chú ý, và do đó con không có được sự quân bình đúng mức giữa các sinh hoạt tâm linh hướng nội và các sinh hoạt đời sống hướng ngoại. Một lần nữa, đây sẽ là điểm cân bằng cá nhân mà mỗi người phải tìm ra.

Chìa khóa là sự buông bỏ. Nếu con không dính mắc, con sẽ cảm nhận tình thương của Thượng đế tuôn tràn xuyên qua con, và khi đó con sẽ có thể, và con phải, tương tác với thế giới bằng nhiều cách hầu nuôi sống chính con và gia đình của con – và quan trọng hơn nữa, hầu con có thể biểu thị Ngọn lửa Thượng đế của con cho những người mà con gặp trong kinh doanh. Nhưng nếu con nhận thấy doanh nghiệp của con kéo con đi quá xa, thì việc rời bỏ doanh nghiệp rất có thể là một quyết định đúng đắn. Và đối với một số người khác, có thể con nên rời bỏ công việc đời sống để, thay vào đó, đặt trọng tâm vào công việc tâm linh. Điều này, một lần nữa, là một chọn lựa rất cá nhân.  

Quả là trong thời đại này có nhiều người tầm đạo tâm linh đầu thai trong thế gian với một sứ vụ thiêng liêng rất đặc thù là giúp đánh thức nhân loại. Nhiều người trong số đó là những linh hồn rất có năng lực và thông minh. Và nhiều người cũng dư khả năng điều hành một doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc điều khiển một doanh nghiệp thành công có thể không nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con, và nếu vậy thì con phải đi vào bên trong, bắt liên lạc với cái Ta Ki-tô của con, với Hiện diện TA LÀ của con và với sứ vụ thiêng liêng của con, hầu con có thể chọn lựa đích đáng thời điểm nào tốt nhất để con rời bỏ doanh nghiệp hoặc con đi theo một con đường nào khác, với mục đích là con sẽ dành ra được thì giờ và sự chú ý để thực hiện công việc thật của con – tức là công việc của Thượng đế mà con phải làm vì nó đem lại cho con hạnh phúc và thoả mãn đích thực.    

Nếu con là một dòng sống tâm linh, không có thành công thế gian nào, không có tiền bạc hay danh giá nào sẽ thực sự thỏa mãn được cảm giác thâm sâu là con có mặt ở đây vì một mục đích. Chỉ khi nào con khám phá ra sứ vụ thiêng liêng của con và con hoàn thành sứ vụ này, thì con mới biết là con đang ở đúng nơi chỗ của con – là nơi chỗ thích đáng trong tâm thức. Và như vậy, nếu điều này đúng với con, rất có thể là con sẽ cần – và một lần nữa đây là một vấn đề hoàn toàn cá nhân – rất có thể con sẽ cần bỏ lại lưới chài và bước theo đấng Ki-tô nội tâm cho đến khi con leo được lên đỉnh núi của Thượng đế nơi con sẽ nhìn thấy rõ ràng con đường mà con cần bước đi trong đời.

Một số người có thể bị lôi cuốn vào những vấn đề thế gian của mình đến độ họ không còn sót lại thời gian hay chú ý nào để thấy rõ sứ vụ thiêng liêng của mình. Và vì vậy trong một số trường hợp, con sẽ cần bỏ lại lưới chài và bước vào vùng xa lạ trước khi con biết được con đường đích thực của con là gì. Và trong một số trường hợp khác nữa, con sẽ có thể trải qua nguyên một cuộc đời để nuôi nấng gia đình, kinh doanh, đi làm hay có sự nghiệp.

Con hãy luôn ghi nhớ là con không thể phục vụ hai người chủ, con không thể phục vụ Thượng đế lẫn thế gian. Cho nên nếu con cảm thấy con quá gắn bó với thế gian, con cần dành ra chút thì giờ và nhận ra rằng cái Ta Biết là một Sinh thể tâm linh, và con cần ngừng đồng hóa với thế gian để con hòa điệu với con người thực của con.

Tránh sử dụng một giáo lý tâm linh chân truyền để ngăn chặn sứ vụ thiêng liêng của mình

Hỏi: Thày yêu dấu, con là một hành giả chuyên cần, như người ta gọi như vậy, trên đường tu tập nội tâm. Con thành tâm đối với thày là Chân sư con cùng hai vị chân sư nữa mà con có liên hệ chặt chẽ hơn bình thường. Con đã phục vụ các chân sư một cách trực tiếp với tư cách là nhân viên của một vị sứ giả của các chân sư khi vị ấy còn họat động. Và con cũng đã nhiệt thành tu tập Ngọn lửa Linh thiêng cùng các giáo lý liên hệ. Ngay lúc này, con cảm thấy bối rối vì con biết trong nội tâm, con cần mở rộng việc phụng sự của con ra thế giới qua ngành phim ảnh. Là một diễn viên, con mong muốn thể hiện Chân ngã của con qua cách đó, cũng như người anh em họ của con cũng sẽ làm tương tự trong vai trò đạo diễn. Nhiều năm trước đây, một đồng sự của thày là thày Saint Germain dũng mãnh, có gọi dự án bộ phim này là “nhằm cách mạng hóa các khuôn nếp tư duy trên thế giới” và chỉ đạo chúng con liên lạc trước tiên với một số người có ảnh hưởng và quyền thế để chúng con có đường vào, rồi sau đó mới tiếp xúc với quần chúng. Chúng con đã phấn đấu và kiên trì hết sức mình, thế nhưng giờ đây chúng con có vẻ đã tiến xa hơn nhưng vẫn thiếu phần tài trợ, thậm chỉ thiếu cả tiền chờ sống qua ngày.

Vậy con xin hỏi, con có phạm luật lệ gì không nếu con sử dụng quyền năng ánh sáng mà con đã học hỏi như một đứa con của Thượng đế, và chuyển nó sang một thế giới đang cần đến điện ảnh và xử sự một cách mà một người Lãnh đạo Đọc bài chú bị cấm không được làm? Con tin rằng có một bài học nào đó cho mọi người qua kinh nghiệm mà con đã phải bỏ qua, khiến con giờ đây lại bị suy sụp, nhiều khi không còn biết nhờ ai và làm gì, nhưng cũng có những lúc khác con lại nhìn thấy thiên đàng ngay trước cửa.

Con cần sự hướng dẫn thưa thày, và dù có tu tập mỗi ngày, con vẫn chưa phát triển được khả năng nghe được thày rõ ràng trực tiếp trong tim con.


Trả lời của chân sư Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đệ yêu dấu, ta vô cùng thương xót con cũng như rất nhiều dòng sống chân thật khác đã luôn trung thành với các giáo lý của chân sư thông qua một số tổ chức mà các chân sư đã cộng tác trong thế kỷ qua và lâu hơn thế nữa. Con có lý khi nói rằng kinh nghiệm bản thân của con mang một bài học quý giá cho mọi hành giả tìm đạo tâm linh, đặc biệt là các học trò của các chân sư thăng thiên.

Nhiều dòng sống đã được trao cho viễn kiến về mục đích sống cao hơn của họ trong đời, là sứ vụ thiêng liêng của họ, nhưng khi phải đem viễn kiến này vào thực tế vật lý, họ thường tự cảm thấy thiếu sót, hoặc họ cảm thấy thế gian đáp ứng thiếu sót đối với họ. Điều này khiến một số bị nản lòng hay trở nên bối rối. Ta có thể bảo đảm với con rằng con không phải là người duy nhất trong số các học trò của chân sư lâm vào tình trạng khó khăn như thế. Trên thực tế, có quá nhiều người đang gặp bế tắc, và thực sự ta ước gì có thể giúp họ tiến tới.

Thật không may, một số đã không sẵn sàng lắng nghe những gì ta đã nói qua sứ giả này, và ta khen con đã sẵn lòng hỏi ta câu hỏi trên. Thật sự ta có thể cam đoan rằng một số các chân sư khác mà trong quá khứ đã đỡ đầu một số tổ chức khác nhau, rất mong muốn tiếp cận với các thành viên của các tổ chức này để trao cho họ những tiết lộ tuần tự ở mức kế tiếp. Vậy hãy để ta nói với con, cùng mọi người khác có tai để mà nghe, một số ý tưởng để con suy ngẫm.

Ý thứ nhất

Ý tưởng chủ yếu mà con cần suy ngẫm là: Hãy bước tiếp tới. Khi con thấy mình bị kẹt cứng trong chán nản hay bối rối – hoặc trong bất kỳ loại giới hạn nào khác của con người – thường chỉ có một lối thoát duy nhất, đó là thăng vượt trạng thái tâm thức hiện thời để đạt tới một sự hiểu biết cao hơn và một cái nhìn quân bình về tâm Ki-tô. Điều giản dị là khi con đã làm cùng một chuyện trong một thời gian mà vẫn chưa đạt được mục tiêu, thì đã đến lúc con nên thử một phương cách khác. Sự bướng bỉnh và thiếu mềm dẻo sẽ không đưa con lên thiên đàng, nhưng sự linh động uyển chuyển của tâm Ki-tô – là sự linh động không làm sự thật tổn thương – sẽ giúp con đạt được mục tiêu thực sự của mình.

Vấn đề là trước khi con có thể có được tầm nhìn quân bình, con phải sẵn sàng buông bỏ những tin tưởng và kỳ vọng hiện thời của con về cách cuộc sống hoặc đường tu tâm linh phải trải ra làm sao. Và đây chính là điểm mà nhiều hành giả chân thành bị mắc kẹt trong một thời gian, có khi kéo dài cả mấy kiếp sống. Và tiếc thay, họ thường hay sử dụng chính những lời dạy của chân sư để khiến mình kẹt cứng không biết đến bao giờ.

Như ta cố giải thích suốt trang mạng này, mọi giáo lý tâm linh đều có thể trở thành một cái bẫy cho tâm con. Cho nên ngay cả một giáo lý chân truyền cũng có thể được dùng để xây một cái hộp tư duy ngăn chặn con thăng lên mức kế tiếp của đường tu cá nhân của con. Có thể nói, cốt lõi của đường tâm linh là làm sao thăng vượt cái hình tư tưởng mà con có về con người mà con là, về Thượng đế là gì, và về cách vận hành của thế gian. Tất cả mọi hành giả đều khởi đầu với một cái nhìn và hiểu biết giới hạn. Nhiều người lớn lên và được dạy dỗ một thế giới quan vô cùng hạn hẹp, chẳng hạn như thế giới quan do đạo Cơ đốc chính thống và khoa học duy vật đưa ra.

Nhiều hành giả tìm thấy một giáo lý hay một tổ chức tâm linh có khả năng mở rộng thế giới quan của mình, giúp họ tự phát triển cao hơn rất nhiều. Và bởi vì các giáo lý đó giúp họ tăng trưởng đến như thế, họ nghĩ rằng đó là chân lý tuyệt đối, hoặc là giáo lý tối thượng trên địa cầu, và bởi thế họ sẽ không bao giờ cần bất cứ điều gì khác. Thế là họ dựng lên một hình tư tưởng, một sự chờ đợi, một kỳ vọng rằng nếu họ cứ tiếp tục trên con đường này như họ đã được chỉ dẫn, thì họ sẽ tự động chứng đạt tâm thức Ki-tô.      

Thế nhưng như ta giảng giải suốt trang mạng của ta, không một tổ chức công truyền nào có thể bảo đảm con sẽ đạt được tâm thức Ki-tô bằng cách tuân thủ giáo lý hay tu tập. Lý do là vì tâm thức Ki-tô chỉ có thể thực hiện qua một tiến trình nội tâm, tâm truyền. Dĩ nhiên, một giáo lý công truyền sẽ giúp con rất nhiều, nhưng không một giáo lý hay một sự tu tập công truyền nào có thể tự động sản xuất ra tâm thức Ki-tô. Buồn thay, một giáo lý công truyền còn có thể ngăn cản con đạt được tâm thức Ki-tô, thậm chí một giáo lý chân truyền, kể cả giáo lý được đăng tải công khai trên trang mạng này, cũng có thể bị lạm dụng để tạo ra một hộp tư duy sẽ trói con lại ở một trình độ nào đó trên đường tu của con.  

Ý thứ 2

Ở một mức nào đó trên đường tu, việc đi theo một giáo lý công truyền cũng có ích lợi, nhưng con phải luôn luôn cảnh giác để không rơi vào cạm bẫy tinh vi biến giáo lý công truyền đó thành một cái hộp đóng kín. Chẳng hạn, ở những giai đoạn đầu của đường tu, con phải đương đầu với nhiều sự chống đối từ các tà lực, cho nên con cần phải kiên định, thậm chí còn phải như là cứng ngắc. Nhưng một khi lên những mức cao hơn, chính cái đức tính đã giúp con tới được mức này sẽ mau chóng trở thành một trở ngại.

Các tà lực hoàn toàn hiểu được là bất kỳ giáo lý nào cũng có thể khiến con lạc lối nếu con sử dụng một cách cực đoan. Chúng nhìn thấy một hành giả tu tập rất chăm chỉ, và chúng thì thầm vào tai anh ta, đây là tất cả những gì anh ta cần làm cho đến cuối đời. Và như vậy, hành giả cứ cắm đầu làm đúng một điều đó lâu hơn là anh cần làm, và điều này bắt buộc khiến anh cứng ngắc. Rồi một khi anh đi quá một điểm nào đó, anh sẽ không thể tiến cao hơn bằng sự cứng ngắc được nữa, và sự phát triển của anh ngừng lại. Thế nhưng anh quá tin tưởng anh đi đúng đường nên anh tưởng anh vẫn đang tinh tấn. Chuyện này cứ thế tiếp diễn cho tới khi anh bắt đầu tự hỏi tại sao – nếu anh vẫn làm tất cả mọi điều đúng đắn – tại sao sứ vụ thiêng liêng của anh lại không đang trên đà hoàn thành.

Con cần biết rằng ở những giai đoạn đầu của đường tu, con cần phải kiên trì ra sức vượt qua các tà lực chống đối. Nhưng khi chúng thấy chúng không thể giữ con lại bằng mãnh lực, chúng sẽ thay đổi chiến lược, và bây giờ chúng sẽ dụ dỗ con với những ý tưởng rất tinh tế. Ở những mức cao hơn của đường tu, con cần phải linh động để khôn ngoan hơn các lực chống đối. Trên cơ bản, con cần tiến nhanh đến nỗi các tà lực hay chính tự ngã của con không thể nắm được con. Để làm điều này, con cần sẵn sàng làm theo chỉ thị của cái ta Ki-tô của con từng phút một. Đơn giản, con không thể cho phép tà lực tiên đoán được bước tới của con. Một hành giả quá dễ đoán sẽ là một mục tiêu quá dễ cho tà lực. Nói cách khác, ở những mức cao của đường tu, không có gì sẽ hiệu nghiệm mãi mãi, và vì thế con không thể bám chặt vào bất kỳ quy tắc công truyền nào.  

Nếu một lời dạy công truyền có giá trị, nó sẽ giúp con tăng trưởng, và mục đích thực sự của một giáo lý công truyền là giúp con tinh tấn tới một mức con có thể nhận được sự hướng dẫn trực tiếp từ cái ta Ki-tô và các vị thày tâm linh của con. Vấn đề là những chờ đợi, định kiến cùng hình tư tưởng của con đã tạo thành một bức tường ngăn cản con nghe được sự hướng dẫn từ chân sư, hoặc nó khiến con không tin tưởng những gì con nghe thấy bên trong.

Hộp tư duy của con càng đóng chặt – và nếu tình cảm con càng bám mắc vào giáo lý cùng tổ chức công truyền – thì cái hộp sẽ càng trở nên kín mít đối với sự chỉ dẫn của chân sư. Thực tế đáng buồn là các thày không thể giao tiếp với nhiều học trò của mình, cho dù nhiều người đã theo học giáo lý công truyền của chân sư từ nhiều thập niên. Những người này đã sử dụng giáo lý của chân sư để bịt lỗ tai lại, không nghe sự hướng dẫn tâm truyền, tương tự như các thày thông giáo và người Pha-ri-si thuở xưa đã dùng kinh Torah để bịt tai không nghe những lời dạy cập nhật mới mẻ của ta.

Khi con thấy mình bị bế tắc, không thấy được phải đi đường nào, thì con phải coi như con đang bị ngăn chặn bởi các kỳ vọng và hình tư tưởng mà ngoại tâm con (ngoại tâm gồm cả tự ngã) đang cầm giữ. Cho nên nếu con thực sự muốn tinh tấn, con cần phải lùi lại và có một nỗ lực ý thức để nhìn ra ngoài hộp tư duy của con. Để làm điều này, con phải sẵn sàng tra vấn hay buông bỏ bất kỳ – và tất cả – tin tưởng hiện thời của mình. Ta không bảo con phải bỏ mọi tin tưởng – ít ra là không phải tất cả cùng một lúc – mà ta bảo con phải sẵn sàng từ bỏ chúng. Nếu con không sẵn sàng từ bỏ thì con đang bám mắc, và sự bám mắc là nguyên nhân của mọi khổ đau, như đức Phật đã chỉ ra hàng ngàn năm trước.  

Ý thứ 3

Ở các cấp thấp trên đường tâm linh, hành giả bắt buộc bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Vì vậy, cho dù hành giả tìm được và đi theo một giáo lý tâm linh chân truyền, người đó sẽ tạo dựng một hình tư tưởng của giáo lý cũng như cách đúng đắn để tuân thủ giáo lý. Nhưng hình tư tưởng này bắt buộc sẽ, ít nhất một phần, dựa trên tâm thức nhị nguyên. Khi con phát triển tâm Ki-tô, con sẽ đến một điểm mà con không thể tiến xa hơn cho tới khi con sẵn sàng bỏ lại hộp tư duy của con. Con phải giải thoát cái nhìn của con về đường tâm linh khỏi các yếu tố nhị nguyên.

Một đặc điểm của trạng thái tâm nhị nguyên là nó giam giữ con trong cái nhìn đen trắng về đường đạo. Nói cách khác, con sẽ nghĩ rằng cái này hoàn toàn đúng và cái kia hoàn toàn sai, và nếu con cứ tiếp tục làm những gì được xác định là đúng thì con sẽ tự động được cứu rỗi. Cho nên cái khung tư duy nhị nguyên thật là xơ cứng, bởi thế cho nên cách duy nhất để phát triển quá một mức nào đó trên đường tu là phải buông bỏ tư duy nhị nguyên bằng cách trở nên linh động. Nhưng sự linh động này không được xây trên bãi cát luôn di động của tâm thức phàm phu, mà phải dựa trên tảng đá của Ki-tô, vì Ki-tô biết rõ làm sao uyển chuyển từng lúc mà không nguy hại đến các nguyên lý vượt thời gian.

Để tiến xa hơn một mức nào đó, con phải sẵn sàng đánh mất đời sống của mình – tức là ý niệm cuộc sống phải như thế nào – để giành được cách sống cao hơn của quả vị Ki-tô cá nhân của mình. Đây là một cuộc điểm đạo rất tinh tế mà mọi hành giả cao cấp sẽ phải đối mặt, và con sẽ không ngừng đối mặt với sự khai ngộ này khi nào con vẫn còn đầu thai làm người. Và như ta từng nói, ai tìm cách cứu đời sống mình – tức là cái hộp tư duy hiện thời của mình – sẽ đánh mất nó, tức là sẽ đánh mất sự sống trong hướng phát triển liên tục. Điều khôn ngoan là nên suy ngẫm về sự kiện một hành giả có thể thất bại ở bất cứ một trình độ nào trên đường tu. Thất bại trên đường tâm linh có nghĩa là con trở nên bám mắc đối với trình độ tinh tấn hiện thời của con và từ chối vượt thăng nó, từ chối vượt thăng cái hình ảnh mà con có về con người con là.     

Có một sự cám dỗ tinh tế khi nghĩ rằng nếu mình càng bước lâu trên đường tu, nếu mình càng thực hiện được nhiều công việc vỏ ngoài trên đường tu, thì mình sẽ càng ít rủi ro thất bại. Nhưng nhiều hành giả cao cấp vẫn thất bại vì họ nghĩ họ không thể thất bại, và do đó họ nghĩ họ không còn cần phải thăng vượt. Tuy nhiên, ta nói với con là trên con đường cá nhân của con, có những điểm mấu chốt mà con phải sẵn sàng chết trên thập tự giá, nghĩa là con sẵn sàng  buông bỏ mọi mong đợi và định kiến về đời mình, hay đường tu của mình phải trải ra như thế nào. Nếu con không chịu để cho tiêu đi ý niệm phàm phu này về đời sống, con sẽ không thể tái sinh trong ý thức sống cao hơn của tâm thức Ki-tô. Lý do là vì con cố bám giữ một cái nhìn nhị nguyên do ngoại tâm tạo ra, và con từ chối đứng thẳng hàng với cái nhìn cao hơn cũng như ý chí của dòng sống của con và Hiện diện TA LÀ.  

Con có thấy điều ta muốn nói không? Có bao nhiêu hành giả tìm được một giáo lý hay tổ chức tâm linh, nhờ đó mà họ nhảy một bước khổng lồ trên đường tu. Nhưng một cách vô ý thức, họ lại dùng cùng những giáo lý đó để tạo ra một hộp tư duy, và khi đến lúc phải để cho con bê vàng chết đi thì họ lại không thể buông nó ra. Một số thì quá sợ hãi để cho nó ra đi, một số khác thì quá tự kiêu, còn một số thì quá lười biếng. Ta sẽ nói lại một lần nữa.

Một số người tìm thấy đường tu và họ dùng một giáo lý hay tổ chức công truyền để nặn ra một cái khuôn mà mọi hành giả chính trực phải rập theo. Họ tự hào họ hội đủ mọi tiêu chuẩn vỏ ngoài, và họ sẽ nhất định sẽ cứ như thế mãi mãi. Họ thường dùng quan điểm của mình để phán xét những ai không thể làm đúng theo các chuẩn mực cao cả của họ, và như thế họ dựng lên một ý niệm vi tế là họ thuộc về một giai cấp các đệ tử cao minh nhất.

Nhưng khi tới lúc phải bước lên những cấp độ cao hơn trên đường tu, cách nhìn của họ trở thành một cái bẫy. Những hành giả này cảm thấy nếu họ thay đổi cách tu tập thì họ sẽ chểnh mảng, và niềm tự hào của họ bị sứt mẻ. Và nếu họ không chịu bỏ niềm tự hào đó thì họ không có lựa chọn nào khác hơn là phải tiếp tục làm y như vậy hoài hoài. Đáng buồn thay, họ sẽ bị kẹt lại ở mức này, hoặc họ tuột xuống hố thẳm của sự mù quáng tâm linh là hậu quả đương nhiên của tự hào. Họ có thể hoàn toàn tin chắc là họ cao hơn mọi người khác, thế nhưng họ không có khả năng nhận ra đấng Ki-tô Hằng sống, y như các thày thông giáo và người Pha-ri-si thuở trước. Đó là lý do ta từng gọi là đạo đức giả.  

Một số người tìm ra một giáo lý và cảm thấy giáo lý đó là một ốc đảo an toàn giữa một thế gian đầy bất an. Khi theo giáo lý công truyền, họ tin rằng mình sẽ được cứu rỗi, và vì vậy họ sẽ lánh xa loài ma quỷ của sợ hãi đã từng ám ảnh họ. Việc tuân theo một giáo lý chân truyền cũng là một thành trì chống lại sợ hãi. Vấn đề là con không thể vào được nước Trời bằng cách tự cách ly khỏi những nỗi sợ hãi của con. Con chỉ vào được nước Trời bằng cách chinh phục sợ hãi, và để chinh phục, con phải sẵn sàng đối mặt với chúng.

Mục đích của một giáo lý chân truyền không bao giờ là để mãi mãi cách ly con khỏi sợ hãi. Mục đích là cho con một bờ bến an toàn để con có thể bồi sức hầu đối mặt với sợ hãi. Nhưng nếu con không hiểu được điều này, hoặc nếu con không chịu đối diện với sợ hãi, thì con sẽ bám víu vào sự yên trí của giáo lý công truyền rồi dùng đó để biện minh cho sự từ chối đối mặt. Tiếc thay, tuy rằng chiến lược này có giá trị trong các giai đoạn đầu, nó sẽ không bao giờ đưa con xa hơn những bước đầu này. Vấn đề là các hành giả này sợ làm lỗi đến nỗi họ không dám thử một cái gì mới. Nhưng nếu không thử thì con không thể tiến bước. Nếu con không chịu nhận rủi ro lầm lỗi thì con không thể thành công.  

Một số người tìm thấy một giáo lý công truyền xong nhận thấy mình theo nó quá dễ dàng thay vì mình phải cố gắng tự suy nghĩ một mình. Họ sẵn lòng để cho một đạo sư hay một tổ chức bên ngoài suy nghĩ dùm họ, và lần hồi họ nghiện ngập cái cảm giác an toàn đó, y hệt như người nghiện ma túy vậy.  

Nhưng một lần nữa, một giáo lý chân truyền nhằm cho con một thời gian nghỉ ngơi để con có thể bồi dưỡng sức lực cũng như khả năng phân biện sự thật bên trong mình. Khi con đạt tới một mức nào đó trên đường tu, con sẽ không thể tiến thêm cho đến khi con sẵn sàng bắt tay vào công việc khó khăn là phân biện sự thật trong nội tâm, thay vì trông chờ một giáo huấn hay một vị thày bên ngoài.

Thông thường đối với các hành giả này, họ muốn bám vào ý tưởng là họ có thể tiếp tục tin, hoặc làm, cùng những chuyện đó suốt đời. Đại khái, họ nói với cái ta Ki-tô của họ cũng như với các chân sư: “Đừng làm phiền tôi với sự hướng dẫn tâm truyền. Tôi đã có giáo lý và tổ chức vỏ ngoài này rồi, nó cho tôi tất cả mọi thứ tôi cần”. Và cứ thế, họ tiếp tục nhảy múa chung quanh con bê vàng thay vì để cho những kỳ vọng phàm phu của họ bị tiêu hủy trong ngọn lửa của Thượng đế – là ngọn lửa thiêu rụi mọi thứ không phải là chính nó.

Thực tế đơn giản – một thực tế mà nhiều hành giả không thấy – là ngay cả một giáo lý chân truyền cũng có thể bị lạm dụng để tạo ra một cái hộp đóng kín. Cho nên nhiều học trò chân thành của chân sư đã dùng giáo lý chân sư để đi theo con đường tuy “đúng đắn với con người nhưng lại là con đường chết”. Thật là một điều đáng buồn khi nhiều người cầu tìm tâm linh đã dùng một giáo lý chính đáng để tự đóng hộp mình, để rồi cuối cùng họ bắt đầu đi theo con đường tay trái. Đây là sự phản bội hoàn toàn đối với lòng tin của các chân sư đã đỡ đầu công bố một giáo lý nào đó. Nếu con nghĩ rằng ta cùng các chân sư khác hài lòng về sự thể này thì rõ ràng con không biết chân sư mà chỉ tưởng là mình biết.

Sự thật mà con không thể tránh khỏi là thực chất của đường tâm linh là sự tự thăng vượt. Bất cứ khi nào con dùng một giáo lý vỏ ngoài để tự biện minh rằng mình không cần thăng vượt thì ngay lúc đó con đang theo tà đạo. Như thế con không còn là một đệ tử thực sự của chân sư. Con đã trở thành một người phản-đệ tử, và con sẽ bắt buộc cất bước đi theo một người phản-thày. Ta có thể chắc chắn với con là ta không nói quá đáng hay ta ra vẻ cường điệu đâu. Thực tế trần truồng là nhiều đệ tử lâu năm đang đi sai đường, nhưng họ lại dùng giáo lý vỏ ngoài để ru ngủ cho mình là những hành giả có trình độ cao nhất trên địa cầu. Và các chân sư thì hầu như không có cách nào đánh thức họ về sự điên rồ của họ.  

Cách duy nhất để phá vỡ khuôn nếp này là phải sẵn sàng biết khiêm tốn mà tra vấn những tin tưởng lâu đời của mình về đường tâm linh. Ta không bảo con phải bỏ một lời dạy cố hữu và đi theo lời dạy mới như trang mạng này. Ta bảo con phải bỏ những tin tưởng đang làm nghẽn sự tiếp xúc của con với cái ta Ki-tô của con hầu con nhận được sự hướng dẫn từ bên trong.

Và ta có thể bảo đảm với con là nếu con đã đi theo và tu tập một giáo lý tâm linh chân truyền trong một thời gian dài mà vẫn không có sự liên lạc rõ ràng với cái ta Ki-tô của mình, thì chỉ có một lý do mà thôi. Con có một số tin tưởng và chờ đợi đang chặn nghẽn sự hướng dẫn nội tâm. Cho nên con hãy cần sẵn sàng để cho những giới hạn này ra đi; hãy vui lòng để chúng chết đi hầu con có thể sống đời đời trong ánh sáng của Sự thật Ki-tô.  

Ý thứ 4

Sự khác biệt vi tế mà nhiều hành giả thường bỏ qua là một giáo lý vỏ ngoài quả là có khả năng giúp họ tiến bước. Nhưng điều này chỉ hiệu nghiệm một thời gian và sau đó thì nó sẽ cản trở bước tiến. Cách duy nhất thoát khỏi ngõ cụt này – cũng là cách duy nhất để không trượt lùi trên đường đạo – là mình thăng vượt hình tư tưởng của mình. Và để làm điều này, con phải sẵn sàng để cho mọi thành phần của hình tư tưởng đó chết đi khi con nhận được sự thúc giục của hướng dẫn nội tâm. Và như ta đã nói, con càng bám giữ hình tư tưởng thì con sẽ càng khiến cho sự hướng dẫn nội tâm bị tắc nghẽn – và nó tạo ra một tình trạng tiến thoái lưỡng nan.   

Cho nên ta đề nghị một điều giản dị. Ở cuối quyển sách “The Christ is born in you” (Ki-tô ra đời trong con), ta có đưa ra một bài tập mà qua đó ta giúp hành giả không còn bị ràng buộc bởi bất kỳ ý niệm nghĩa vụ, bất kỳ cảm nhận nào là mình phải làm điều gì, hay phải làm theo một cách nào đó. Đây là một bài tập hữu ích bởi vì chỉ bằng cách buông bỏ định kiến mà con mới làm cho ngoại tâm tĩnh lặng hầu nghe được cái ta Ki-tô của con. Vì vậy con hãy sẵn sàng từ bỏ mọi ý tưởng rằng con phải làm điều gì đó cho chân sư, và hoàn toàn sẵn lòng từ bỏ luôn mọi ý tưởng về cách thực hiện điều đó.  

Ta có thể nói với con là một trong những vấn đề phổ biến nhất mà ta thấy là một hành giả nhận được viễn kiến đúng đắn về những việc mà người đó phải làm trong kiếp này, nhưng lại dùng một giáo lý công truyền – hay đúng hơn, một cách hiểu nhị nguyên về giáo lý đó – để dựng lên một kỳ vọng không thực tế về cách thực hiện. Và như thế con rơi vào tình trạng “một ngôi nhà bị chia rẽ chống lại mình”. Dòng sống của con biết viễn kiến đó là gì và cũng biết mình phải thực hiện làm sao, nhưng ngoại tâm thì lại dựng lên một viễn kiến khác bởi vì nó đã dùng một giáo lý vỏ ngoài – hay một số quy tắc cứng ngắc do giáo lý này vạch ra – để xác định cách thực hiện mục tiêu.     

Điều này chắc chắn sẽ làm tắt đi khả năng sáng tạo thực sự của dòng sống, và vì vậy dòng sống sẽ từ chối làm theo. Con thấy không, sứ vụ thiêng liêng của con chỉ có thể được hoàn thành khi con thể hiện sắc tính thiêng liêng của mình – được neo giữ nơi Hiện diện TA LÀ của con – qua công việc mình làm. Nếu con dùng một giáo lý công truyền để thiết lập những luật lệ hay chờ đợi cứng ngắc về cách thực hiện mục tiêu mình, thì con sẽ tước mất cơ hội cho sắc thái con được thể hiện qua công việc của con.

Cho nên ngoại tâm sẽ đánh nhau với cái Ta Biết của con – con sẽ đánh nhau để bóp nghẹt khả năng sáng tạo là chìa khóa cho con hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của mình – và như thế mục tiêu sẽ không đạt được. Hành giả nỗ lực đạt tới một mục tiêu rất đáng làm, nhưng lại cố gắng làm với một cách thức mà cả cái ta Ki-tô lẫn cái Ta Biết của con không thể chấp nhận, và do đó nó phá hoại chính những nỗ lực vỏ ngoài của nó. Cái ta Ki-tô biết rõ hành giả sẽ không bao giờ đạt tới mục tiêu qua khả năng của ngoại tâm, cho nên cái ta Ki-tô thực sự đang tìm cách gửi một thông điệp đến ngoại tâm.  

Lối thoát duy nhất khỏi bế tắc này là vượt qua sự chia rẽ trong ngã bằng cách buông bỏ hình tư tưởng được giữ trong ngoại tâm. Và điều này thường đòi hỏi hành giả buông bỏ một số – hay có lẽ tất cả – những kỳ vọng đã được xây đắp khi mình dấn thân vào giáo lý hay tổ chức công truyền. Ít nhất, hành giả phải sẵn sàng buông bỏ mọi kỳ vọng. Chìa khóa là cái Ta Biết chứng thực được mình là sự tỉnh giác thuần khiết.

Ý thứ 5

Con hỏi: “Con có phạm luật lệ gì không nếu con sử dụng quyền năng ánh sáng mà con đã học hỏi như một đứa con của Thượng đế, và chuyển nó sang một thế giới đang cần đến điện ảnh và xử sự một cách mà một người Lãnh đạo Đọc bài chú chú bị cấm không được làm?”

Trước hết, việc sử dụng thành tựu của mình để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng luôn luôn hợp luật – đó chính là chức năng của thành tựu tâm linh. Thế nhưng con phải bảo đảm rằng ngoại tâm con nằm thẳng hàng với viễn kiến về mục tiêu mà cái Ta Biết và cái ta Ki-tô cất giữ.

Có hợp luật không khi con theo đuổi mục tiêu bằng cách đi ngược lại các luật lệ vỏ ngoài của một cộng đồng tâm linh? Chắc chắn là có – với điều kiện cái ta Ki-tô của con bảo con làm vậy và con chắc chắn không phải tự ngã đang dụ dỗ con. Thế nhưng trong hầu hết trường hợp, chính ngoại tâm con bảo con mù quáng tuân thủ luật lệ công truyền mà không lắng nghe cái ta Ki-tô. Con cần suy ngẫm lời dạy của ta về ngày sa-bát và câu ta từng nói, “Sa-bát được tạo ra cho con người, chứ con người không được tạo ra cho sa-bát.” Câu này cũng áp dụng cho mọi luật lệ do bất kỳ tôn giáo nào đặt ra. Để biểu lộ và thể hiện quả vị Ki-tô của con, con phải sẵn sàng thăng vượt mọi giới hạn do con người đặt ra. Con phải sẵn lòng để cho chúng chết đi hầu giải thoát dòng sống của con khỏi gông cùm của chúng và vượt lên trên. Dòng sống của con, trong nghĩa đen, đang bị đóng đinh trên thập tự giá của những mong muốn phàm phu, nhị nguyên, mà ngoại tâm con đã chấp nhận. Cho nên ngoại tâm con và các thế lực của thế gian này đã đóng đinh dòng sống của con vào cây thập tự.

Điều này bao gồm cả những hạn chế nội tâm được tạo ra bởi ngoại tâm và tự ngã của con. Và nó cũng bao gồm những hạn chế vỏ ngoài tạo ra bởi thế gian, kể cả bởi một cộng đồng tôn giáo nào đó. Tất nhiên, con cần tìm thấy một sự quân bình, và ở các mức thấp của đường tu, con có thể cảm thấy luật lệ vỏ ngoài rất hữu ích. Nhưng sẽ tới lúc con không thể phát triển thêm cho đến khi con vượt qua cuộc điểm đạo và con sẵn sàng bước theo hướng dẫn của nội tâm thay vì luật lệ, quy tắc vỏ ngoài.

Ý thứ 6

Việc hoàn thành sứ vụ thiêng liêng không thể đo được bằng các chuẩn mực thành công của thế gian. Nhìn từ thế gian, sứ mạng của ta thời ta hiện thân là một thất bại, nhưng nhìn từ góc độ tâm linh, đó là một sự thành công. Vì vậy con không nên rơi vào cạm bẫy nghĩ rằng thành công cá nhân của con có thể đo bằng chuẩn của thế gian – đăc biệt là chuẩn của các giới làm phim điện ảnh.

Một khía cạnh khác nữa của vấn đề này là con không được để cho mình cảm thấy sự tiến triển của sứ mạng mình có thể bị thế gian giới hạn. Để biểu lộ quả vị Ki-tô, con phải đạt tới mức con quyết định rằng con sẽ KHÔNG để cho bất cứ gì – ở trong cũng như ở ngoài – ngăn cản mình bước đi bước kế tiếp của mình trên đường tu. Nói cách khác, nếu con có một viễn kiến thì con cứ việc đi tới mục tiêu với bất kỳ phương tiện hợp pháp nào mà con có. Con không để cho sự thiếu hụt tài chánh ngăn con làm những gì con có thể làm – và luôn luôn có những điều con có thể làm – kể cả là con có thể tự tu sửa.

Con hãy nhớ câu phương châm này của một vị đồng sự quý mến của ta, “Hãy làm đúng (chánh nghiệp) mà không vướng mắc thành quả việc làm”.

Ý thứ 7

Ta xin nhắc lại lần nữa, mỗi khi con thấy bế tắc thì đó là vì có một điều gì đó con chưa buông bỏ, một điều gì đó con chưa hàng phục. Và lý do con chưa buông bỏ là một hình tư tưởng về đường tu phải như thế nào – một hình ảnh mà cho tới giờ con chưa chịu chất vấn, hay con nghĩ nó không cần chất vấn. Như ta nói với con, khi con tiến tới tâm Ki-tô, con phải sẵn sàng chất vấn và nhìn xa hơn bất kỳ, và mọi, tin tưởng, quan điểm, chờ mong của mình. Bất cứ điều gì mà con không sẵn sàng nhìn xa hơn sẽ tự động trở thành cái hộp tư duy giam cầm tâm con.

Cho nên con hãy lùi lại, buông bỏ sự cảm nhận về những điều con cần làm cũng như cách làm.  Hãy buông ý niệm rằng con phải cứu nguy thế giới, rằng số phận thế giới tùy thuộc vào hành động của con, hay đại nghĩa của các chân sư nằm trên vai con. Hãy suy ngẫm về sự kiện Thượng đế đã cho mọi người quyền tự quyết. Vì thế con không trách nhiệm về sự cứu rỗi của người khác. Nhưng ngược lại, chỉ có con mới trách nhiệm về sự cứu rỗi của con.

Xin con hiểu rằng có sự phân biệt vi tế ở đây. Các chân sư không đang đầu thai trong thế gian, cho nên để địa cầu thay đổi, chỉ những ai đang đầu thai mới có thể đem lại thay đổi. Nhưng sự thay đổi cần thiết không thể do ngoại tâm đem lại. Khi con vướng mắc vào một hình tư tưởng nào đó, con bắt đầu nghĩ rằng con là người hành động, người hoàn thành. Và chính những người tưởng mình phải cứu nguy thế giới mới khiến cho người ta có câu, “Con đường dẫn đến địa ngục được lát bằng những ý muốn tốt”. Kỳ thực, con đường dẫn đến địa ngục được lát bằng ý muốn của con người, những ý muốn nhị nguyên.

Chìa khóa là con cần bỏ lại mọi kỳ vọng phàm phu và khiến cho ngoại tâm đứng đồng điệu với dòng sống và cái ta Ki-tô của con. Khi đó, con sẽ có thể nói, “Ta và Cha ta – nghĩa là Hiện diện TA LÀ – là một” và “Cha ta làm việc cho đến bây giờ, ta cũng làm việc như vậy”. Đây là cách duy nhất để đem lại thay đổi thực sự cho địa cầu. Nếu con muốn đem giáo lý của chân sư vào thế giới, bước đầu tiên là con phải thể nhập với giáo lý và bước đi trên đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Con không thể dạy về quả vị Ki-tô cho tới khi con đạt được một mức độ nào đó của quả vị Ki-tô. Con chỉ có thể dạy về quả vị Ki-tô qua sự làm gương.

Ý thứ 8

Đối với các chân sư thăng thiên, việc cứu vớt địa cầu không quan trọng bằng việc cứu vớt dòng sống của con. Và cách duy nhất để cứu dòng sống của con là giúp con đạt được tâm Ki-tô. Cho nên mục đích chủ yếu của con là đạt được tâm thức Ki-tô – thậm chí sự hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con hay cứu nguy thế giới cũng chỉ là thứ yếu so với mục đích đó. Ở những mức cao trên đường tu, con phải đặt ưu tiên cho thật rõ ràng. Con phải trước hết sẵn sàng tìm nước Trời, tức là tâm thức Ki-tô. Và tất nhiên, một khi con đặt việc tìm nước Trời lên hàng đầu thì mọi thứ khác, tức là sứ vụ thiêng liêng của con và cứu nguy thế giới, sẽ được bồi thêm vào cho con.

Con có thấy được sự khác biệt vi tế? Ngay cả mục đích rất đáng làm là bước đi trên đường tâm linh, hoàn thành sứ vụ thiêng liêng hay cứu nguy thế giới cũng có thể trở thành cái bẫy nếu con đặt những thứ đó lên trên việc chứng đạt tâm thức Ki-tô. Khi nào con còn điều gì quan trọng hơn tâm thức Ki-tô thì con không thể đạt tâm thức Ki-tô. Và khi nào con chưa đạt tâm thức Ki-tô thì con không thể hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con và cứu nguy thế giới. Cho nên con phải để cho mọi mục tiêu khác chết đi – con phải sẵn sàng mất ý niệm sống của mình – để đạt được sự sống vĩnh hằng của tâm thức Ki-tô. Đây là tiến trình mà Kim Michaels đã đi qua trước khi đủ tư cách để làm sứ giả cho ta.

Một khi con chứng đạt quả vị Ki-tô cá nhân của con, con sẽ không bị ràng buộc bởi bất cứ luật lệ hay mong chờ nào nữa. Con sẽ để cho sắc thái thiêng liêng của con biểu hiện qua con, bởi vì con sẽ biết rằng, “Đứa Con chẳng tự mình làm được việc gì, chỉ làm điều chi mà Con thấy Cha làm; vì mọi điều Cha làm, Con cũng làm y như vậy” (John 5:19). Đứa con ở đây là dòng sống đứng thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ của nó.

Ý thứ 9

Con không thể đem các mong muốn, quan điểm hay hình tư tưởng phàm phu của con lên thiên đàng. Cho nên con không thể vào được thiên đàng cho đến khi con bỏ chúng lại. Bám giữ chúng sẽ khiến con không vào được thiên đàng. Con không thể tìm thấy chìa khóa vào thiên đàng nếu con bám giữ những gì con có. Con chỉ tìm thấy chìa khóa nếu con buông bỏ mọi điều giả. Và trước khi con có đủ phân biện để biết chân giả khác nhau thế nào, con nên khôn ngoan đặt thành mục tiêu là không bao giờ tạo ra một cái hộp tư duy đóng kín.

Để tránh tạo ra hộp đóng kín chung quanh tâm mình – một chiếc hộp mà cái ta Ki-tô của con không thể thâm nhập vào – con phải sẵn sàng luôn luôn vươn tới hiểu biết cao hơn, nghĩa là con không bao giờ cho phép mình tưởng rằng sự tin tưởng của mình có thể là tuyệt đối, tức là không thể mở rộng ra qua sự hướng dẫn nội tâm. Nói cách khác, đừng bao giờ để cho một giáo lý, một vị thày hay một tổ chức công truyền đứng chắn ngang giữa con và vị thày nội tâm của cái ta Ki-tô.

Ta thực sự mong ước những học trò lâu năm của các chân sư suy ngẫm những ý tưởng này, cho nên ta hy vọng mọi người sẽ cảm thấy thoải mái khi chia sẻ với người khác. Ta xin xác nhận với con là các chân sư thăng thiên vô cùng quan tâm khi thấy quá nhiều học trò lâu năm của mình đã sử dụng giáo lý của chân sư – được ban cho các con một cách vô giới hạn – để tạo ra những hộp tư duy đóng kín. Điều này không những sẽ ngăn họ hoàn tất sứ vụ thiêng liêng, mà còn ngăn họ đạt được quả vị Ki-tô. Chỉ vì lý do này thôi mà các giáo lý được truyền đạt suốt thế kỷ qua đã không tác động được hành tinh này như mong muốn.  

Tình trạng này có thể chỉnh sửa, và có thể chỉnh sửa nhanh chóng. Nhưng nó sẽ chỉ xảy ra khi các học trò lâu năm của các chân sư sẵn sàng để cho các kỳ vọng trước đây chết đi rồi sống lại trong ngọn lửa của Sự thật Hằng sống – là phép báp-têm bằng lửa – mà họ chỉ có thể nhận được từ chính cái ta Ki-tô của họ.

Ý thứ 10

Ta mong các học trò lâu năm sẽ suy ngẫm những lời giảng của ta về nguồn gốc của cái ta Ki-tô và thiền quán về ý nghĩa sâu thẳm của lời giảng đó. Nó chứa đựng một lời dạy chưa từng được ban truyền trong quá khứ, và đây là một ví dụ điển hình tại sao giáo lý chân sư cần được tiết lộ một cách tuần tự theo nhịp tiến của nhân loại.

Rõ ràng, bài giảng vừa rồi của ta nhân dịp Giáng sinh nhắm đến người đạo Cơ đốc, vì vậy ta chỉ có thể đưa ra những lời dạy cơ bản. Tuy nhiên đối với các học trò lâu năm, các con cần hiểu rõ là nhiều vị chân sư thăng thiên đã “bẻ thành từng mảnh” Tánh linh của mình để hình thành những cái ta Ki-tô của các anh em chưa thăng thiên. Vì vậy không phải mọi hành giả đều có cái ta Ki-tô là thành phần của Tánh linh của ta. Điều quan trọng là hành giả cần hòa điệu tâm thức mình với vị chân sư đã ban cho mình món quà sự sống dưới hình thức cái ta Ki-tô.

Cho nên nếu con là một học trò lâu năm của các chân sư, con nên xét xem con sẽ trung thành với một giáo lý vỏ ngoài hay là với nguồn gốc của giáo lý đó. Ta không bảo rằng con cần phải rời bỏ một tổ chức con đã tham gia. Nhưng ta nói rằng con cần sẵn sàng rời bỏ tổ chức đó nếu con nhận được chỉ thị từ bên trong. Và nếu con đã sử dụng các giáo lý cũ để xây dựng một hộp tư duy đóng kín, thì làm sao con sẽ nghe được sự hướng dẫn nội tâm này đây?

Ta cũng muốn nói rằng tất cả mọi học trò lâu năm của chân sư có thể hưởng lợi rất nhiều khi sử dụng các bài chú và bài thỉnh để bổ sung cho những kỹ thuật mà họ đã từng dùng trong những tổ chức trước. Tại sao con lại đi máy bay cánh quạt khi máy bay phản lực đã được đem vào thế gian? Với tình hình nghiêm trọng trên địa cầu hiện nay, các chân sư cần tất cả mọi học trò của mình sử dụng các kỹ thuật mạnh mẽ nhất hiện có.

Thành thật mà nói, ta còn rất nhiều điều muốn nói với các học trò lâu năm, nhưng nếu những gì ta vừa nói ở đây không mở tai họ để họ nghe được ta là ai, thì ta ngờ rằng sẽ chẳng có gì khác làm được chuyện đó. Một lời nói thôi cũng đủ cho người trí tuệ – hoặc những ai coi mình là trí tuệ.

Giáo lý nền tảng về sứ vụ thiêng liêng và quan hệ nghiệp tạo

Hỏi: Giê-su thân kính, con đang cố tìm hiểu xem sứ vụ thiêng liêng nghĩa là gì, chứa đựng những chi tiết gì và liên quan thế nào với quyền tự quyết. Con được hiểu rằng tất cả chúng con đều đã thảo ra một sứ vụ cá nhân trước khi hiện thân trên địa cầu. Vậy liệu chúng con sẽ phải tuân thủ sứ vụ này từng điểm y như là con rô-bót, hay là còn chỗ cho chúng con tùy cơ ứng biến và sử dụng quyền tự quyết của mình?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Con vừa đặt một câu hỏi từng làm bối rối rất nhiều người tầm đạo khi lần đầu tiên họ nghe nói về sự kiện là họ có một sứ vụ thiêng liêng hoặc một mục tiêu cao cả hơn. Câu hỏi của con đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi cái nhìn của các tôn giáo truyền thống – kể cả đạo Cơ đốc – mô tả Thượng đế như là một sinh thể nóng giận ở trên trời đang áp đặt ý muốn của ngài lên trên con và phán xét con một cách nghiêm khắc nếu con không tuân theo lời ngài như một con rô-bót.   

Để giải quyết bí ẩn, con cần suy ngẫm sự kiện Thượng đế đích thực không hề là một sinh thể nóng giận trên trời. Tuy nhiên, con cũng nên soi gương và nhận ra rằng hầu hết mọi người đều mang một sự mâu thuẫn nội tâm về sứ vụ thiêng liêng của mình. Chẳng hạn, con hãy đọc lại chính câu hỏi của con:

“Con được hiểu rằng tất cả chúng con đều đã thảo ra một sứ vụ cá nhân trước khi hiện thân trên địa cầu. Vậy liệu chúng con sẽ phải tuân thủ sứ vụ này từng điểm y như là rô-bót, hay là còn chỗ cho chúng con tùy cơ ứng biến bằng cách sử dụng quyền tự quyết?” 

Con thấy chăng là có nhị nguyên được ngụ ý trong đó, tức là có một tin tưởng vi tế rằng nếu con tuân thủ sứ vụ thiêng liêng của con thì nó sẽ tước mất quyền tự quyết của con và biến con thành rô-bót? Nhưng ai đã thảo ra sứ vụ thiêng liêng chứ? Tất nhiên là con đó! Làm thế nào con thảo ra sứ vụ thiêng liêng của con? Bằng cách con chọn lựa với toàn quyền tự quyết của con!

Đồng ý là con có nhận được sự trợ giúp của các vị thày tâm linh của con, nhưng thày tâm linh đích thực không bao giờ ép buộc con chọn lựa như thế nào. Các thày chỉ trình bày cho con một số sáng ngộ có thể giúp con chọn lựa tốt nhất mà thôi. Cho nên sứ vụ thiêng liêng của con hoàn toàn thể hiện quyền tự quyết của con, vậy thì làm sao việc tuân theo có thể biến con thành người máy rô-bót được đây? Nhưng điều mà câu hỏi của con bộc lộ ra một cách trung thực là, cũng như đối với rất nhiều người khác, có một sự mâu thuẫn giữa ý muốn cao xa và ý muốn trước mắt của con. Vì vậy, câu hỏi thực sự mà con cần suy ngẫm là liệu cái ý muốn mà con có ngay bây giờ – ý muốn ý thức của con – có thật tự do, có thật tự quyết hay không?

Đối với hầu hết mọi người khi đi xuống hiện thân, họ quên hết tất cả cuộc sống của họ trước đó, kể cả về sứ vụ thiêng liêng. Khi lớn lên, họ chịu ảnh hưởng của gia đình và xã hội khiến họ xây dựng một số kỳ vọng về cuộc đời, và những kỳ vọng này có thể đi ngược lại sứ vụ thiêng liêng của họ. Chẳng hạn, đa số phải chịu áp lực từ bên ngoài khi có người chung quanh, kể cả chính gia đình họ cũng như một số cơ chế trong xã hội, muốn kiểm soát và kềm giữ họ trong những khuôn khổ nhất định. Ta có thể bảo đảm với con rằng sứ vụ thiêng liêng của con không hề định ra là mục đích tối thượng trong kiếp này của con là trở thành một kẻ tiêu thụ gương mẫu, luôn luôn muốn có nhiều sở hữu hơn, nhiều thoả mãn tình dục hơn, nhiều danh giá hơn từ một xã hội vốn ưa chuộng sự hời hợt. Và sứ vụ thiêng liêng của con cũng không hề bảo con phải ở lại trong nhà tù mà giai cấp thượng lưu cai trị đã định ra cho con – hay ngay cả giai cấp cai trị của tôn giáo bảo con là một kẻ tội lỗi khốn nạn sẽ không bao giờ thực hiện được những việc mà Giê-su đã làm.

Trái lại, đa số người tâm linh đều có một sứ vụ thiêng liêng nói rằng mình sẽ thách thức hiện trạng của mình bằng cách chứng tỏ là mình có thể sống tâm linh hơn ngay cả trong một xã hội hiện đại, khoa học, duy vật và hoài nghi. Vậy thì cái gì thực sự thúc đẩy con chạy theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài như rô-bót chứ? Phải chăng đó là sứ vụ thiêng liêng hay là tiêu chuẩn của xã hội, tiêu chuẩn của thế gian – mà ta từng gọi là “Ma-môn”? Hẳn con có nhớ, ta từng nói rõ là con không thể phục vụ hai chủ, con không thể cùng một lúc phục vụ Thượng đế – như là biểu tượng của sứ vụ thiêng liêng – lẫn Ma-môn – như là biểu tượng cho các tiêu chuẩn mà thế gian áp đặt lên con. Có thể nói, sứ vụ thiêng liêng của con không phải là một tiêu chuẩn vỏ ngoài mà là một chuẩn mực nội tâm, trong khi tiêu chuẩn của xã hội thì rõ ràng đến từ ngoài.

Hầu hết mọi người đều từng trải nghiệm một số tình huống khi họ bị cảm xúc choáng ngợp đến độ họ không thể suy nghĩ tỉnh táo, rồi họ lấy những quyết định mà sau này họ hiểu ra là không tối ưu. Lý do là vì sự dính líu, sự dính mắc của con đối với tình huống đó đã dựng lên một bức màn che phủ tâm con và ngăn cản con suy nghĩ tỉnh táo. Y như thế, việc bước vào xác thân vật lý cũng giống như con bước ra đằng sau một bức màn vậy, khiến con không thể nhìn cuộc sống một cách khách quan và tỉnh táo như khi con còn ở ngoài thân xác. Điều ta muốn nói là vào lúc con thảo ra sứ vụ thiêng liêng của con, con không bị bức màn hiện thời của con che chắn.    

Chắc chắn việc sử dụng quyền tự quyết phải dựa trên nền tảng một viễn kiến tối ưu về mọi chọn lựa và mọi hậu quả có thể có. Vì vậy khi con thảo ra sứ vụ thiêng liêng, con đã chọn lựa một cách tự do hơn so với ngay bây giờ, bởi vì giờ đây con bị che chắn phần nào bởi bức màn mà con đã dựng lên trong kiếp này. Khi nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng, con như có trong tay cái kim chỉ nam sẽ giúp con nhìn xa hơn những dính mắc tình cảm cùng kỳ vọng ngắn hạn, hầu con quyết định tốt hơn trong một viễn quan tổng thể rộng lớn. Ngược lại, nếu con chỉ hành xử theo ý thích nhất thời mà không suy xét đến hậu quả dài hạn, thì thật sự con không đang sử dụng quyền tự quyết của con, bởi vì nếu viễn kiến của con bị che lấp, làm sao con có thể thực sự tự quyết?

Nói vậy rồi thì ta cũng phải nói rõ rằng sứ vụ thiêng liêng KHÔNG PHẢI là cái áo tù bó chặt tay chân con. Đi theo sứ vụ thiêng liêng không có nghĩa là toàn bộ đời con được vạch sẵn trong từng chi tiết nhỏ nhặt. Trái lại, mọi sự việc trong đời con đều xoay quanh quyền tự quyết của con, cho nên sứ vụ không được thảo ra để bảo con phải làm gì. Con chỉ có thể phát triển qua những quyết định mà con lấy, và toàn bộ mục đích của sứ vụ là đưa con vào một số tình huống sẽ giúp con lấy những quyết định tốt nhất, tức là những quyết định sẽ cho con quyền năng khắc phục những tin tưởng gây giới hạn của con để tự do biểu đạt tiềm năng vô biên của con trong một thế giới đầy hạn chế.    

Ở trung tâm sứ vụ thiêng liêng là những bài học mà con cần học trong kiếp này, là những bài học thích ứng với cả sứ mạng dài hạn khi con bước vào vũ trụ vật chất, lẫn sứ mạng ngắn hạn khi con vươn lên trên những hạn chế nhị nguyên mà con đã chấp nhận cho con. Mục đích tổng thể là giúp con đạt được tự do biểu đạt cá thể và tiềm năng thiêng liêng của con. Tuy nhiên để thực hiện điều này, con phải vượt qua các hạn chế hiện thời của con, và con sẽ chỉ làm được chuyện này khi con nhìn ra một cách ý thức rằng các hạn chế đó đều không thực, và con quyết định buông bỏ chúng.

Bất cứ hành giả tâm linh trung thực nào cũng biết là có một thế lực trong tâm lý mình luôn kháng cự lại tăng trưởng, kháng cự lại thay đổi – mà người ta thường gọi là tự ngã. Thế lực này sẽ tìm cách khiến con né tránh mọi công việc khó khăn, nó sẽ muốn con đi theo con đường trơn tuột, dễ dãi nhất. Con đường này ta từng gọi là con đường rộng dẫn đến hủy diệt, và đó không là con đường hẹp dẫn đến phát triển tâm linh. Cho nên khi thảo ra sứ vụ thiêng liêng, con đã dự tính xu hướng này, kể cả những lần trong tiền kiếp con từng rơi vào bẫy của nó. Vì thế nhiều người thiết lập sứ vụ thiêng liêng của mình với ý định tự buộc mình phải kinh qua một số tình cảnh – và phải kinh đi kinh lại nhiều lần – hầu ép mình phải đối mặt với những bài học mà mình cần học.

Hiển nhiên những điều này sẽ không dễ chịu chút nào một khi con đầu thai trong thân xác và quên mất là chính mình đã mong muốn những hoàn cảnh khó khăn đó. Con sẽ thường tự hỏi tại sao con cứ thu hút cùng những vấn đề hoài hoài, và con sẽ có xu hướng tin theo tự ngã bảo rằng các vấn đề đó không phải là lỗi con, và con phải trốn né thay vì đương đầu và học bài học. Cho nên đúng là trong sứ vụ thiêng liêng của nhiều người có một yếu tố bó buộc, bởi vì khi con đứng cao hơn tấm màn của thế gian, con thừa biết rằng chuyện trốn chạy thật quá dễ dàng khi mình bị tấm màn che mắt. Tuy nhiên, một khi con đã hiểu được cốt lõi vấn đề, liệu con còn nói được là sứ vụ thiêng liêng đi ngược lại quyền tự quyết của con không? Hay là sứ vụ thiêng liêng thật ra đang cố ngăn con bị khuất phục bởi ý muốn nhất thời, nhị nguyên và ích kỷ của tự ngã?   

Vậy sứ vụ thiêng liêng gồm chứa những chi tiết gì? Đây là một chuyện rất cá nhân, nhưng đối với hầu hết mọi người, phần lớn sứ vụ là nhằm quân bình những nghiệp quả mà con mang với một số người. Cho nên sứ vụ nêu rõ con sẽ đầu thai với những ai trong gia đình, những ai làm phối ngẫu và những ai mà con sẽ gặp trong kiếp này. Nhưng con cần lưu ý, mục đích chủ yếu ở đây là cân bằng nghiệp quả, tức là trên hết con cần tha thứ hoàn toàn cho những người đó và thiết lập một mối quan hệ yêu thương. Nói cách khác, mục đích thực sự là bằng cách giải thoát người khác, chính con cũng sẽ tự giải thoát khỏi mọi ràng buộc nghiệp tạo với họ.

Cho nên mục đích khi con gặp một người nào đó là để học hỏi một bài học và quân bình nghiệp quả với họ. Sứ vụ thiêng liêng không nhất thiết sẽ nói rõ con phải quân bình thế nào, phải có loại quan hệ nào với họ, hay liệu quan hệ đó có phải kéo dài suốt đời hay không. Chẳng hạn, điều rất thường xảy ra là khi hai người gặp nhau, sự ràng buộc nghiệp tạo mà họ có với nhau sẽ khiến họ bị thu hút mạnh mẽ – và điều này chỉ cho thấy cả hai đều mong muốn giải quyết nghiệp quả và được tự do. Nhưng nếu hai người đó khác giới tính – hay cùng giới tính trong thời buổi này –họ thường cho rằng lực hấp dẫn đó có nghĩa là họ phải có quan hệ tình dục với nhau.

Trong chiều dài lịch sử, chuyện này đã gây ra không biết bao nhiêu khổ đau khi nó tạo ra những mối quan hệ nơi cả hai người đều cảm thấy mình bị kẹt cứng. Nó cũng đã khiến cho vô số quan hệ bền vững bị đổ bể chỉ vì một bên cảm thấy mình phải chạy theo đối tượng cám dỗ nghiệp tạo mới nhất. Con có thấy chuyện gì xảy ra khi con người bị đui mù bởi tấm màn của hiện thân vật lý rồi cứ thế chạy theo những kỳ vọng phàm phu của mình và khởi sự những quan hệ mới trong khi mình có thể cân bằng nghiệp quả của mình một cách khác? Con có thấy là một số người cứ nhảy từ quan hệ này sang quan hệ kia mà không thực sự học được bài học mà đáng lý họ phải học? Trong mỗi quan hệ mới, họ cắm đầu đuổi theo giấc mộng quan hệ lý tưởng, nhưng thực tế là họ sẽ không bao giờ có được quan hệ lý tưởng khi nào họ chưa học được bài học mà họ cần học.  

Điều ta muốn nói ở đây là sứ vụ thiêng liêng của con có thể định rõ con sẽ gặp và quan hệ với ai đó để cân bằng nghiệp quả, nhưng sứ vụ có thể không nói rõ là con phải có quan hệ vật lý, tình dục với họ. Ngược lại là đằng khác, quan hệ tình dục nhiều khi lại khiến con gây thêm nghiệp quả, bởi vì ngay sau khi tuần trăng mật chấm dứt, nghiệp quả cũ sẽ khiến cho cả hai người khó lòng thuận hòa với nhau trong một quan hệ truyền thống. Rất có thể cả hai sẽ cảm thấy mình bị kẹt cứng rồi đổ lỗi cho nhau, và điều này đi ngược lại đòi hỏi là phải tha thứ và giải phóng cho nhau. Và như vậy, một quan hệ được dự định là sẽ giải phóng cả hai bỗng nhiên trở thành một sợi dây buộc cả hai lại chặt hơn nữa.

Đương nhiên là giữa con người với nhau có rất nhiều hình thức quan hệ khác nhau, và có khi con sẽ cần kết hôn với một ai đó để cân bằng nghiệp quả với họ – bởi vì trong một mối quan hệ cam kết với nhau, con sẽ khó lòng hơn trốn chạy bài học của con. Tuy nhiên, ta muốn đưa ra hai điểm này cho con suy ngẫm:

  • Trong sứ vụ thiêng liêng luôn luôn có chỗ để con chọn lựa. Con có thể mang nghiệp với một người nào đó nhưng thường con sẽ có nhiều cách để cân bằng nghiệp quả với họ. Thật sự là nếu ngay khi gặp họ mà con tha thứ một cách toàn diện, thì rất có thể con sẽ không cần tiếp tục quan hệ với họ nữa.
  • Bằng cách bước ra khỏi các kỳ vọng thế phàm của con – là tấm màn đang che mắt con – và kết nối lại với sứ vụ thiêng liêng, con sẽ có được một tầm nhìn sáng rõ hơn sẽ giúp con tránh được rất nhiều lỗi lầm trong thế giới vật lý. Con có thể tránh một số hành vi mang nặng hậu quả vật lý, và thay vào đó, con học bài học và cân bằng nghiệp quả trước khi nghiệp chướng thị hiện qua hình thức một tình huống vật lý mà con sẽ khó lật ngược hơn nếu nó đã lỡ thị hiện. Và con sẽ tránh được chuyện phải kinh đi kinh lại cùng một vấn đề hoài hoài.    

Một cách thiết thực để tránh lao vào những tình huống mà người khôn ngoan sẽ tránh như đỉa, là học được thói quen lùi lại một bước trước khi lấy những quyết định quan trọng. Con hãy xem xét những dính mắc của con đối với một tình thế nào đó – liệu con có cảm thấy mình bị thôi thúc giống như mình bị bó buộc phải làm một điều gì, như mình không có chọn lựa nào khác? Thường là sau khi phạm lỗi lầm to lớn, người ta hay thốt lên: “Nhưng tôi không có chọn lựa nào khác!” Sự thật là con LUÔN LUÔN có nhiều hơn là một chọn lựa, nhưng vì con đã cho phép tình thế choáng ngợp con, con chỉ thấy được một chọn lựa mà thôi.

Bằng cách lùi lại một bước trước tình huống trong ý thức và nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng, con sẽ tránh được hình thức mù quáng tâm linh đó. Chỉ khi nào con thấy rõ là con có nhiều hơn một chọn lựa thì con mới có thể chọn lựa tự do. Con KHÔNG THỂ chọn lựa tự do nếu con nghĩ con chỉ có một chọn lựa duy nhất.

Thật ra nếu con khôn ngoan, con sẽ không bao giờ bước vào một mối quan hệ mật thiết mà không thỉnh cầu trước tiên cho mọi nghiệp chướng được cân bằng và hết sức cố gắng vượt qua mọi dính mắc ràng buộc mà con cảm nhận được. Nếu con cảm thấy không sẵn lòng từ bỏ một mối quan hệ, thì đây là dấu hiệu chắc chắn cho thấy còn có điều gì đó chưa được giải quyết, và nếu con cứ bước tới mà không giải quyết nó thì rất có thể nó sẽ phá hỏng mối quan hệ của con. Người nào tìm cách cứu lấy đời mình sẽ đánh mất nó, nhưng người nào sẵn lòng từ bỏ đời mình để đổi lấy sự tăng trưởng sẽ tìm được một sự sống cao hơn.

Thật ra, chuyện xảy ra rất thường là một mối quan hệ nghiệp tạo có thể ngăn con gặp được người mà con có thể có quan hệ sâu xa hơn. Nhiều người đã chiêm nghiệm chuyện này: khi họ từ bỏ một quan hệ nghiệp tạo – bằng cách hoàn toàn tha thứ cho người kia – thì cơ hội sẽ mở ra để họ tìm được một mối quan hệ tâm linh hơn, sâu sắc hơn. Tất nhiên, điều này không chỉ áp dụng cho các mối quan hệ, bởi vì khi con sẵn sàng buông bỏ bất cứ dính mắc nào với một loại hoàn cảnh nào đó, thì rất thường khi con sẽ mở cửa cho một tình huống tốt đẹp hơn thị hiện. 

Sứ vụ thiêng liêng của con gồm có hai yếu tố chính. Một là những công việc cần phải thực hiện, cụ thể là cân bằng nghiệp quả từ những kiếp trước, và hai là phần hứng thú của sứ vụ thiêng liêng, tức là phần vụ thần thánh, là những việc làm, là món quà mà con muốn dâng hiến cho thế gian này. Nhiều người tâm linh cố tình đương đầu với các thử thách nghiệp quả của mình thật sớm trong đời mình, rồi họ cố trả cho xong để được tự do bắt tay vào phần vụ thần thánh của mình, là phần việc sẽ chỉ được mở khóa khi nghiệp quả được cân bằng.  

Vấn đề, dĩ nhiên, là rất nhiều người bị kẹt lại trong phần quan hệ nghiệp tạo – nghĩa là họ gây thêm nghiệp thay vì cân bằng nghiệp – và vì vậy họ không bao giờ tới được giai đọan đóng góp thần thánh. Con có khả năng gia tốc rất mạnh tiến trình trả quả của con bằng cách áp dụng điều ta dạy ở đây, đặc biệt là sự tha thứ đối với tất cả những ai mà con cảm thấy có dây buộc nghiệp quả, tức là tất cả những ai mà con có mối quan hệ không mấy hài hòa. Con hãy tiếp cận mỗi mối quan hệ với thái độ là nó chỉ nhằm giúp con – lẫn người kia – được giải phóng khỏi dây nghiệp hầu cả hai có thể bước tới trong cuộc đời. Và con hãy đừng bao giờ quan tâm nếu người kia không đáp ứng tương tự đối với con. Bởi vì nếu con đã thực sự tha thứ cho họ – nếu con thực sự chìa má kia cho họ – thì con sẽ được giải thoát khỏi quan hệ nghiệp tạo cho dù người kia vẫn khăng khăng bám lấy.  

Con có thể nhanh chóng học cách nhận diện những tình huống gò bó, thiếu tự do khi con muốn đi theo sứ vụ thiêng liêng, và dấu hiệu rõ nhất là khi con cảm thấy căng thẳng và dính mắc. Và mặc dù những dính mắc này luôn luôn đến từ tự ngã, nếu con tự xét trung thực thì con sẽ nhận ra là dính mắc chỉ có quyền năng trên con bởi vì cái Ta Biết của con đã không sẵn sàng nhận trách nhiệm trọn vẹn về đời con. Con cần nhận ra là một mục đích chủ yếu của sứ vụ thiêng liêng là giải phóng con khỏi sự kiểm soát của tự ngã cũng như các thế lực của thế gian. Cho nên tất nhiên, tự ngã sẽ không muốn con phát hiện sứ vụ thiêng liêng của con, và nó tìm đủ mọi cách khôn khéo để cố tránh né chuyện đó. Và đây là những mánh lới thông thường nhất mà nó dùng:

  • Tự ngã cố khiến con bị dính chặt vào các kỳ vọng đời sống mà con đã dựng lên trong kiếp này, hầu con để cho kỳ vọng đó phản lệnh sứ vụ thiêng liêng của con. Có vô số cách để nó ngụy trang mánh này, chẳng hạn khi nó bảo con phải sống đời con theo tiêu chuẩn của gia đình và xã hội.
  • Tự ngã cố khiến con chấp nhận một loạt những hạn chế về những gì mà con người có thể làm, mà qua đó con phủ nhận con là một sinh thể tâm linh. Con phủ nhận con có tiềm năng vươn lên khỏi nghiệp quả cùng các vấn đề tâm lý hầu thể hiện tiềm năng Ki-tô của con.
  • Tự ngã cố khiến con bị vướng mắc vào quan hệ nghiệp tạo đến độ con không thể tha thứ cho người khác hầu con được tự do bước tới và khởi sự phần vụ thần thánh của con.
  • Tự ngã cố khiến con tin rằng các quan hệ khó khăn của con đều do lỗi của người khác, hầu nó có thể ngăn con học được bài học mà CON cần học.
  • Tự ngã cố đánh lạc hướng sự chú ý của con để con đeo đuổi những chuyện của thế gian và không còn thì giờ và chú ý để ngó tới sứ vụ thiêng liêng của con.

Bây giờ chúng ta đã thấy được hai điểm chính đang ngăn chặn con khám phá và đi theo sứ vụ thiêng liêng:

  • Nghiệp quả từ tiền kiếp,
  • Các vấn đề tâm lý chưa giải quyết khiến con cảm thấy dính mắc.

Điều đó có khả năng biến cuộc đời của con – cũng như nhiều kiếp sống sắp tới – thành một cái máy chạy bộ trên đó con sẽ chạy hoài mà không tới đích, và con sẽ không bao giờ khởi sự thực hiện sứ vụ thiêng liêng của con. Để phá vỡ chu kỳ này, con hãy làm như sau:  

  • Hãy nhìn trung thực vào đời con và xem xét những vấn đề mà con cứ gặp đi gặp lại hoài hoài. Hãy sẵn sàng nhìn nhận là các vấn đề này đang che giấu một bài học mà con chưa học. Xong hãy quyết tâm học bài học đó.
  • Học một bài học thường có nghĩa là phát hiện một vấn đề tâm lý đang kềm giữ con lại. Vấn đề đó chưa giải quyết vì cho tới giờ con không sẵn lòng xem xét nó. Cho nên hãy xem xét nó ngay bây giờ và làm mọi điều cần thiết để vượt qua, kể cả những hình thức trị liệu thích hợp.
  • Hãy xem xét các niềm hy vọng và giấc mơ cao nhất của con, rồi lượng định xem những giới hạn đang gò bó con trong kiếp này đã khiến con bác bỏ những giấc mơ đó như thế nào, có khi trước cả khi con dám nghĩ tới chúng. Con hãy cả gan vượt qua các giới hạn đó và kết nối với giấc mơ cao nhất của con.
  • Hãy quyết tâm sử dụng ngọn lửa tím cùng các bài thỉnh và bài nguyện tràng hạt để thiêu hủy mọi nghiệp quả liên quan đến những tình cảnh cụ thể hay đời con nói chung.
  • Lùi lại và tìm kiếm tầm nhìn cao hơn vượt lên trên mọi dính mắc. Hãy sẵn sàng nhìn vào những gì tự ngã con không muốn con nhìn và những gì chính con cũng không sẵn sàng nhìn. Hãy sẵn sàng nhìn thấy một điều gì đó cho dù nó đòi hỏi con phải thay đổi đáng kể trong lối sống hay cách nhìn của con về cuộc đời. Con có thể sử dụng kỹ thật hoà điệu của ta để có được viễn kiến sáng rõ hơn.

Có thể nói, đời con có hai giai đoạn riêng biệt. Một giai đoạn là cân bằng nghiệp quả, và điều này đòi hỏi con phải sống một cách nào đó – một cách sống chịu ảnh hưởng nặng nề của những tiêu chuẩn trong gia đình lẫn xã hội bởi vì con đã đầu thai trong hoàn cảnh đó do nghiệp quả của con. Một khi con đã đi muốt phần nghiệp chướng nói trên, con mới có thể khởi sự giai đoạn hứng thú hơn của sứ vụ thiêng liêng, tức là phần vụ thần thánh. Tuy nhiên, để thực hiện điều này, con thường phải kinh qua một sự chuyển vọt ngoạn mục trong cách nhìn cuộc sống cũng như lối sống vật lý. Và nếu con còn dính mắc bất kỳ điều kiện nào của giai đoạn trước, thì con sẽ đơn giản không sẵn lòng thay đổi, và như thế tâm ý thức của con sẽ ngăn chặn sứ vụ thiêng liêng khỏi tầm nhìn của con.

Để tránh cái bẫy này, con cần đánh giá lại cuộc đời con và nỗ lực nhìn xa hơn mọi dính mắc. Một khi con lùi lại một bước để mở rộng tầm nhìn, con sẽ thấy tầm nhìn của con về đời sống cũng như về một hoàn cảnh nào đó thay đổi như trong phép lạ. Đám mây mù bỗng nhiên chẻ đôi ra và con nhìn thấy rõ hơn. Thường khi, cái mà trước kia con tưởng là chọn lựa duy nhất bây giờ hiện ra là chọn lựa dở nhất trong hoàn cảnh đó. Và những chọn lựa mới mà bây giờ con thấy được đều dẫn đến kết quả tốt đẹp hơn. Hoặc nữa, con thấy cái mà con tưởng là cách sống duy nhất thật ra không thể đem lại cho con sự tràn đầy mà con thực sự mong muốn. Bây giờ con thấy được nhiều cách khác để đạt sự tràn đầy đó, và do đó con sẵn lòng thay đổi lối sống trong chiều hướng đó.      

Nếu con muốn có những chọn lựa tốt nhất cho đời con, con hãy luôn luôn tìm cách nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng của con. Hãy chắc chắn rằng con không bị kẹt lại trong giai đoạn “công việc” của sứ vụ thiêng liêng để rồi không bao giờ vào được giai đoạn hứng thú nhất. Sứ vụ thiêng liêng quả thực là người bạn tốt nhất của con, là kim chỉ nam tốt nhất để con tận dụng tối đa kiếp đầu thai này. Và khi nào con còn coi sứ vụ thiêng liêng là một chuyện ép buộc từ một thế lực ở ngoài thì con vẫn chưa thực sự kết nối với nó. Cho nên con hãy lùi lại một bước và nhìn lại một lần nữa – con hãy gõ cửa mà không dính mắc thì cánh cửa sẽ mở ra cho con.

Ghi chú: Sách của Mẹ Mary và quyển sách về sứ vụ thiêng liêng (Fulfilling your Divine Plan) chứa đựng rất nhiều lời dạy về sứ vụ thiêng liêng. Con cũng có thể thực hiện tuần cầu nguyện chín ngày với Đại Chỉ đạo Thiêng liêng để có viễn kiến rõ hơn về sứ vụ thiêng liêng của mình.