Phật (tánh) dưới dạng thực vật hay động vật

Hỏi: Theo kinh văn đạo Phật, đức Phật có nói rằng trong một số tiền kiếp, ngài từng là cỏ cây hay thú vật. Điều này có thật và chính xác hay không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Tiến tới Quan hệ Thời Hoàng kim. Đăng ngày 14/10/2021.

Một lần nữa, đây là ví dụ một câu hỏi không thể trả lời “có” hay “không”, bởi vì tất cả tùy thuộc vào cách con nhìn những khái niệm này. Con cần nhìn rời ra – một điều mà hầu hết mọi người không làm được. Con cần phân biện giữa Phật như một hiện thân vật lý, một con người vật lý, với Phật như một tâm thức rộng lớn hơn. Đây là cùng vấn đề mà nhiều tín đồ đạo Cơ đốc gặp phải với khái niệm Ki-tô – một đằng con có con người cá nhân của Giê-su đã hiện thân như là Ki-tô, và đằng khác con có tâm thức Ki-tô ở mức sâu xa hơn.      

Khi con nhìn vào khái niệm Phật, con sẽ thấy được điều mà ta đã từng dạy, rằng Phật tánh ở trong tất cả mọi vật, rằng mọi vật đều mang Phật tánh nơi chính mình. Khi con nói về Phật tánh thì con có thể bảo rằng Phật tánh ở trong sỏi đá, trong cây cỏ, trong thú vật.

Nhưng giáo lý chúng tôi các chân sư giảng dạy ngày hôm nay là về cái Ta Biết. Cốt lõi con người của con là cái Ta Biết, là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và cái Ta Biết này không đi xuống vào trong sỏi đá, cây cỏ hay thú vật. Điều này có nghĩa, con trong tư cách là một dòng sống cá biệt, đã không từng là thực vật hay động vật trong tiền kiếp để rồi dần dần tiến hóa thành một con người. Lần đầu tiên con đã đi xuống hiện thân là trong một thân xác con người, và nếu con hiện thân trên một hành tinh khác thì ít nhất con đã đi xuống trong một thân xác giông giống như con người.

Ta như là Phật Gautama hiện thân cách đây 2500 năm đã không từng là sỏi đá hay cây cỏ trong tiền kiếp. Đây không phải là một điều mà ta đã nói, nhưng là sự diễn giải của người đời sau đó, vì người thời đó có một cái nhìn về thế giới không giống như ngày nay. Ngày nay ở phương Tây, cái nhìn của các con rất khác với cái nhìn của con người cách đây 2500 năm tại địa phương nơi ta hiện thân.   

Họ đã diễn giải theo cách đó, và họ cho rằng nếu mọi thứ đều xuất phát từ một nguồn gốc duy nhất, thì trong cách suy nghĩ vô cùng đường thẳng – chẳng qua cũng tương tự như các thuyết tiến hóa mà các con có ngày nay – sự sinh tạo đã khởi đầu một cách lần hồi. Nghĩa là trước tiên sẽ có những dạng sống thô sơ hơn, sỏi đá và khoáng vật, rồi đến cỏ cây và thực vật, rồi đến động vật, rồi mới đến con người. Và nếu như vậy thì sự hiện thân phải khởi sự dưới các dạng thô sơ đó. 

Như ta vừa nói, nếu con nhìn tiến trình này dưới nhãn quan của tâm thức thì cái nhìn như vậy không nhất thiết là sai. Nhưng khi con nhìn vào một sinh thể cá biệt thì câu chuyện sẽ khác hẳn. Sự thật là các Elohim đã đem lại những biểu hiện vật lý trên địa cầu qua một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Đầu tiên là sự biểu hiện vật lý của sỏi đá cùng khoáng vật, rồi đến cây cỏ, rồi đến thú vật, rồi đến biểu hiện cơ thể vật lý con người. Chỉ khi đó – khi mà cơ thể con người đã được tạo dựng với bộ não và hệ thần kinh phức tạp – thì các sinh thể tâm linh mới đi xuống cõi vật lý.

Con đường rộng và con đường hẹp

Hỏi: Trong bài Thuyết pháp trên Núi, Giê-su nói: “Hãy vào cửa hẹp. Vì cửa rộng và đường rộng dẫn đến hủy hoại, và những kẻ vào đó cũng nhiều. Còn cửa hẹp và đường hẹp dẫn đến sự sống, và những kẻ tìm được thì ít.” Xin các chân sư thăng thiên vui lòng cho chúng con, những đệ tử của chân sư thăng thiên, một lời dạy hiện đại về điểm này? Liệu có những pháp tu hoặc yêu cầu đặc thù nào sẽ giúp chúng con ở lại bên trong và băng qua cánh cửa hẹp mà Giê-su nói đến khi còn tại thế?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Chấm dứt thời đại ý thức hệ. Đăng ngày 15/6/2021.

Các thày đã cho con nhiều lời dạy về điều này. Đơn giản là có một sự khác biệt giữa con đường vỏ ngoài và con đường nội tâm, con đường công truyền và con đường tâm truyền. Con đường rộng, cánh cửa rộng, là cái mà hầu hết mọi người trên địa cầu đều đi theo qua các tôn giáo chính mạch, với lời hứa là khi con tuân thủ một vài quy luật vỏ ngoài, làm đúng một vài pháp tu vỏ ngoài, vâng lời giới tu sĩ vỏ ngoài, thì con sẽ được cứu rỗi sau kiếp này. Ta sẽ đến và cứu con dùm con, ta sẽ làm mọi công việc cho con.

Đó là con đường rộng dẫn đến hủy hoại, bởi vì cánh cửa hẹp dẫn đến thăng thiên là con đường nội tâm biến đổi tâm thức của mình, thanh lọc tâm mình cho không còn khuôn nếp phản ứng nào, không còn tin tưởng sai lầm nào, không còn ngã tách biệt nào, không còn tự ngã nào. Hầu hết mọi người không biết đến sự hiện hữu của con đường này, hầu hết mọi người chưa sẵn sàng cho con đường này. Tất nhiên, các tôn giáo chính mạch đã bị sa nhân chiếm đoạt đến độ hiểu biết này không được phổ biến rộng rãi.

Như con có thể thấy qua số người quan tâm đến các giáo lý tâm linh không chính mạch, càng ngày càng có nhiều người thức tỉnh, tuy nhiên vẫn còn một khoảng cách rất lớn giữa những gì nhiều người đã sẵn sàng tiếp nhận và những gì được các tôn giáo chính mạch giảng dạy. Nói chung, cách đi theo con đường hẹp là con đi theo con đường tâm linh như các chân sư thăng thiên đã phác họa. Điều này không có nghĩa đây là con đường duy nhất. Chủ yếu đây là việc nhìn ra một điều gì đó trong bản thân mình và, một cách ý thức, quyết định vươn lên cao hơn. Và tất nhiên các thày đã ban truyền rất nhiều lời dạy về điều này. Ta khuyên những ai quan tâm hãy theo học khóa Con đường Tự điều ngự. Hãy khởi sự với bộ sách này, từ tầng 48 vượt lên đến tầng 96, rồi sau đó sử dụng những quyển sách khác mà các thày đã khuyên con dùng tiếp theo sau.

Mười Điều răn và các tầng tâm thức trên địa cầu

Hỏi: Con được biết qua các bài truyền đọc mới đây rằng các điều răn mà Thượng đế ban cho Môi-sê là từ một đợt truyền pháp xưa cũ và không còn áp dụng được trên địa cầu. Nhưng điều này có vẻ không thực tế từ quan điểm của phân biện Ki-tô. Xin một trong các thày làm rõ điểm này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2021 cho nước Nga – Vượt qua tâm thức hơn người và cảm nhận bất toàn, đau đớn và chú tâm ra ngoài bản thân. Đăng ngày 28/5/2021.

Cái nhìn đúng đắn về vấn đề này là Mười Điều răn đã được ban cho một mức độ tâm thức nào đó. Và ngày nay vẫn còn khá nhiều người trên địa cầu đang ở mức tâm thức này. Cho nên đối với những người này, Mười Điều răn vẫn còn xác đáng vì nó tương ứng với mức tâm thức của họ. Họ cần phải có những điều răn thật nghiêm nghị như thế – phải làm điều này hay phải làm điều kia – bởi vì đó là tất cả những gì họ có khả năng nắm bắt.

Nhưng đối với rất, rất nhiều người khác trên địa cầu, đặc biệt tại các nước mà chúng ta gọi là tiền tiến, những điều này không còn áp dụng được nữa vì họ đã thăng vượt mức tâm thức đó rồi. Họ không cần điều răn mà cần hiểu tại sao họ không được làm chuyện này mà cần làm chuyện kia. Đây là kết quả của sự tăng trưởng tâm thức. Và tất nhiên, có những mức cao hơn nữa khi con người nhận biết những điều đó qua trực giác, họ biết điều gì cần làm và điều gì không nên làm.

Cho nên như con thấy, có tầng mức của những điều răn. Có tầng mức của một số nguyên tắc đạo đức hay đạo lý hướng dẫn con người, mà trên hết là nguyên tắc không được làm cho người khác những gì mình không muốn người khác làm cho mình. Và có tầng mức cao hơn khi cá nhân mỗi người hòa điệu vào bên trong và cảm nhận đâu là cách cư xử đúng đắn nhất cho mình. Luôn luôn sẽ có nhiều cấp độ tâm thức như vậy, tuy rằng trong tương lai nhân loại sẽ tới mức không ai còn ở lại tâm thức Kinh Cựu ước nữa, và do đó không còn cần đến Mười Điều răn.

Đưa má bên kia

Hỏi: Đưa má bên kia? Làm thế nào con đưa má bên kia ra trong một tình huống con bị người ta tấn công bằng lời nói hay đối xử vô lễ? Có phải đó là giữ im lặng trong hoàn cảnh đó và rút lui nếu có thể, và cứ để yên như vậy? Khi con không đáp trả lại thì con không tự bênh vực mình được chút nào.



Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Khi còn nhìn ngược dòng lịch sử, có lẽ ít lời dạy nào của ta đã bị hiểu lầm và bị diễn giải lầm như câu nói về “đưa má bên kia”. Câu hỏi đã được đặt ra bởi những người đã cố làm theo lẫn những người bất đồng cho là họ không nên làm theo, và trong cả hai bên cuộc tranh luận, hầu hết ai ai cũng cho rằng việc đưa má bên kia có nghĩa là mình không làm gì cả, là mình thụ động, hay mình rút lui khỏi tình thế. Ở một mức tâm thức nào đó thì cách diễn giải này quả là hữu lý.

Hãy thử nhìn như thế này, con đang bị người ta tấn công qua lời nói và người kia phóng về phía con rất nhiều năng lượng tiêu cực. Giả thử con ở một mức tâm thức với đủ loại ngã tách biệt trong con, nghĩa là cách đáp ứng duy nhất của con đối với tình thế là gửi trả ngược về người kia những gì họ phóng tới con. Nói cách khác, con sẽ leo thang cuộc tranh cãi, con sẽ gây thêm tranh cãi thậm chí có thể dẫn đến xô xát tay chân. Cho nên đứng từ góc cạnh không muốn tạo nghiệp quả tiêu cực, sẽ tốt hơn nếu con rút lui khỏi tình thế thay vì leo thang. Ở một mức tâm thức nào đó, cách cư xử như vậy có thể là một cách diễn giải hữu lý – tốt hơn là con nên rút lui thay vì leo thang một tình huống chỉ có thể dẫn đến một phương trình với càng ngày càng nhiều năng lượng và nghiệp quả tiêu cực.

Tuy nhiên, cách nhìn cao hơn trong một tình huống như vậy tất nhiên là con hãy tự xem xét mình, xem xét cách phản ứng của mình, và nếu con thấy là mình đang có một phản ứng không bình an, thì con nhận ra là nó đến từ một ngã tách biệt, cho nên con rút lui khỏi tình huống để làm việc trên ngã tách biệt đó. Nhưng sau khi con đã làm việc trên ngã tách biệt và để cho nó chết đi, con sẽ đạt tới một điểm là tuy con bị người ta tấn công qua lời nói và bị xỉ vả, con vẫn không có phản ứng nào trong con, và ở điểm đó con sẽ không nên giữ im lặng, con không nên rút lui, mà con nên lên tiếng. Nhưng con lên tiếng từ sự bình an nội tâm của con, cho nên thay vì phản ứng lại người kia, con sẽ chỉ đơn giản nói lên từ một nhãn quan trung hòa, và chính điều này sẽ cho phép con lên tiếng một cách khác hoàn toàn.

Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là người kia sẽ thay đổi vì con đã không phản hồi lại theo cách mà họ chờ đợi. Con sẽ thấy là trong nhiều trường hợp, khi người ta tấn công ai đó dù bằng lời nói hay bằng cách nào khác, người ta thường chờ đợi một cách phản ứng nào đó. Và điều xảy ra – và con có thể thấy được điều này điễn ra trong lịch sử thế giới, như tại vùng Trung đông chẳng hạn – là một phe tấn công phe kia, rồi phe kia tấn công lại, thế là giờ đây phe đầu tiên cảm thấy là mình đã rất chính đáng: “Việc chúng tôi tấn công họ là chuyện chính đáng bởi vì phản ứng của họ cho thấy họ là những kẻ bạo lực hung hãn, và do đó họ xứng đáng bị chúng tôi tấn công”. Đây là cách người ta thường phản ứng.

Do đó, khi có ai xỉ vả con, họ chờ đợi là con sẽ phản bác lại, con sẽ tự bênh vực, con sẽ buộc tội ngược trở lại, và nếu con không làm vậy mà lại lên tiếng từ một góc độ trung hòa, thì người kia có thể được biến đổi và họ thay đổi cách cư xử của họ.

Trong một số trường hợp khác, cư xử của con sẽ không ảnh hưởng được họ, và họ tiếp tục hung hãn. Trong trường hợp này, con trở thành công cụ cho sự phán xử của Ki-tô, và bây giờ họ sẽ nhận được sự phán xử của Ki-tô về hành vi hung hãn của họ.

Có thể nói là nếu người kia không được biến đổi do con đã lên tiếng từ một nội tâm an bình và một nhãn quan trung hòa, thì con không cần phải tiếp tục cho phép họ miệt thị hay tấn công con nữa. Khi đó con có thể rút lui, nhưng trước tiên con nên nói cho thật rõ và thật bình tĩnh những gì con nghĩ về cách cư xử của họ, rằng con không chấp nhận cách cư xử đó, rằng con sẽ không chịu đựng chuyện đó, và vì vậy con sẽ rút về nếu họ cứ tiếp tục như vậy. Đó là ý nghĩa của việc đưa má bên kia.

Và ý nghĩa đích thực là thay vì đáp trả lại trong tâm thức phàm phu qua ngã tách biệt, con hành động trong tâm thức Ki-tô từ nhãn quan Ki-tô. Cho dù con có thể rút lui khỏi tình thế hay con trở nên thụ động và người ta tiếp tục công hãm con, điều này vẫn có thể đem lại sự phán xử của Ki-tô, và do con trụ vững trong tâm an bình, con đem lại sự phán xử đó ở một mức cao hơn hẳn.

Về việc chìa má bên kia

Hỏi: Chìa má bên kia? Làm thế nào con chìa được má bên kia khi con bị người ta tấn công bằng lời nói hay bị làm nhục? Có phải là con nên giữ im lặng và rút ra khỏi tình huống nếu có thể, và để mặc cho nó như vậy? Con sẽ không tự vệ chút nào bằng cách không đáp trả?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Nếu con nhìn trong lịch sử, có lẽ có ít lời phát biểu nào của ta mà lại bị hiểu lầm, bị diễn giải sai lạc như câu nói về việc chìa má bên kia. Vấn đề đã được đặt ra bởi cả những người chọn làm theo lẫn những người cãi lại không nên làm theo, và trong cả hai phe, hầu hết đều cho rằng chìa má bên kia có nghĩa là con không làm gì hết, con thụ động, hay con rút lui khỏi tình huống. Ở một mức tâm thức nào đó, đây quả là một cách diễn giải hợp lý.

Hãy thử nói thế này. Con bị người ta tấn công bằng lời nói và người kia đang phóng tới con rất nhiều năng lượng tiêu cực. Con ở một tầng tâm thức nào đó và con mang nhiều cái ngã tách biệt khác nhau. Có nghĩa là cách trả lời duy nhất mà con có thể đối với tình huống là gửi trả lại những gì người ta gửi cho con. Nói cách khác, con sẽ leo thang cuộc đối đáp, con sẽ phóng ra một lập luận có thể dẫn đến cả chuyện xô xát bằng tay chân. Cho nên từ một góc cạnh không muốn tạo nghiệp tiêu cực, tốt hơn là con nên rút lui khỏi tình huống thay vì leo thang. Ở tầng mức tâm thức này, đó có thể là một cách diễn giải hợp lý: Thà rút lui còn hơn là leo thang một tình thế chỉ có thể dẫn đến một phương trình mang nhiều năng lượng tiêu cực và nhiều nghiệp hơn.

Tuy nhiên, cách nhìn cao hơn tất nhiên là trong tình thế đó, con nhìn vào bản thân mình, con nhìn vào các phản ứng của mình, và nếu con tìm thấy một phản ứng không an bình thì con nhận ra là nó đến từ một ngã tách biệt, xong con rút lui khỏi tình huống để làm việc với ngã tách biệt này. Nhưng một khi con đã làm việc với các ngã tách biệt và để chúng chết đi, con sẽ đạt tới điểm con có khả năng bị người khác tấn công bằng lời nói, bị họ hiếp đáp, mà vẫn không có phản ứng nào bên trong con. Tới điểm đó, con không nên giữ im lặng, con không nên rút lui, mà con nên lên tiếng, nhưng con lên tiếng từ sự an bình, cho nên thay vì phản ứng lại người kia, con chỉ đơn giản lên tiếng từ nhãn quan trung hòa đó, và chính điều này cho phép con lên tiếng một cách hoàn toán khác lạ.   

Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là người kia sẽ thay đổi vì con đã không đáp trả theo cách họ chờ đợi con đáp trả. Con sẽ thấy là trong nhiều trường hợp, người ta thường tấn công người khác bằng lời nói hay bằng bất kỳ cách nào khác, và người ta chờ đời sẽ nhận được một phản ứng ngược lại. Điều này luôn luôn xảy ra, và con có thể thấy chuyện này trong lịch sử thế giới, chẳng hạn tại vùng Trung Đông khi một bên tấn công bên kia thì bên kia phản công lại, thế là bên đã khởi đánh cảm thấy mình thật có lý: “Thật là hữu lý chúng ta tấn công bọn chúng, vì sự phản công của chúng cho thấy chúng là loại người tàn bạo, cho nên chúng xứng đáng bị tấn công.” Đây là cách người đời đáp trả.

Cho nên khi có ai đó tấn công con bằng lời nói, họ chờ đợi là con sẽ cãi lại, con sẽ tự vệ, con sẽ tấn công ngược lại, và nếu con không làm vậy mà lại nói chuyện từ một nhãn quan trung hòa, thì đôi khi họ không biết phải làm gì. Trong một số trường hợp, có những người sẽ được biến đổi bởi cách cư xử của con và họ thay đổi cách cư xử của họ. Trong một số trường hợp khác, sẽ không có tác dụng gì trên họ và họ sẽ tiếp tục hung hãn. Nhưng trong trường hợp này, con trở thành dụng cụ cho sự phán xử của Ki-tô, tức là người kia bây giờ sẽ nhận được phán xử Ki-tô do cách hành xử hung hãn của họ.

Chúng ta có thể nói là nếu người kia không thay đổi khi con đã lên tiếng từ trạng thái an bình và nhãn quan trung hòa, thì con không cần tiếp tục cho phép họ tấn công hay hiếp đáp con nữa. Sau đó con có thể rút lui, nhưng trước tiên con nên phát biểu một cách thật rõ ràng và bình tĩnh cái nhìn của con về cách hành xử của họ, rằng con không chấp nhận cách hành xử đó, con sẽ không cho phép mình phải chịu đựng nó, và do đó con sẽ rút lui nếu họ cứ tiếp tục. Đây chính là ý nghĩa của việc chìa má bên kia.

Nó có nghĩa là thay vì phản ứng lại với tâm thức phàm phu, với ngã tách biệt, con hành động với tâm thức Ki-tô từ tầm nhìn của Ki-tô. Cho dù con có rút lui khỏi một tình thế hay trở nên thụ động trong tình thế đó và người ta tiếp tục tấn công con – và điều này cũng có thể đem lại phán xử Ki-tô – nhưng con đem lại phán xử này từ một tầng cao hơn vì con đến từ trạng thái an bình.

Thực tại nằm trong tâm người đọc

Hỏi: Một trong những quyển sách thất lạc của Kinh thánh, quyển kinh Jasher, có thuật lại là Abraham, vì không tôn thờ các thần giả vào thời của ông, đã bị ném vào lò lửa và thoát thân bình an vô sự, trong khi người anh em của ông thì bị thiêu cháy. Đó có phải là một câu chuyện thật, và liệu quyển kinh của Jasher có chính xác hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Có và không! Theo nghĩa là, con yêu dấu, có nhiều câu chuyện trong kinh Cựu ước, và thậm chí cả kinh Tân ước, không có cùng một loại thực tại mà con có thể quan niệm ngày nay khi con nghe về khái niệm thực tại. 

Con thấy đó, con yêu dấu, tâm thức nhân loại đã thay đổi lớn lao trong vòng mấy ngàn năm qua theo những cách mà con người hiện đại không sao hiểu được. Và do đó khi con nhìn lại một số lời dạy trong Kinh thánh – và ngay cả trong các kinh điển khác của thế giới như kinh Veda hay kinh Phật giáo – thì một người với một tâm thức hiện đại, do đã quen lối suy nghĩ duy vật và đường thẳng, sẽ đặt lên câu hỏi: “Ủa, chuyện này có thật không?” Và khi họ hỏi như vậy thì họ cũng nhìn vào đó theo cách họ quan niệm thực tại.  

Trong khi đó thì một người sống vào thời buổi đó sẽ có một quan niệm khác hơn về thực tại, nghĩa là họ không đến nỗi đường thẳng, không đến nỗi quá tập trung vào khía cạnh vật chất, và do đó họ không nhất thiết sẽ nhìn mọi chuyện một cách đen trắng, đường thẳng. Cho nên ở một mức độ nào đó, họ hiểu rằng các lời kinh dạy mang một tính chất biểu tượng, và cái lò lửa kia không nhất thiết là một lò lửa vật lý, mà nó biểu tượng cho cuộc thử lửa mà mỗi việc làm của mọi người đều được thử thách, cho dù là có thật hay không thật.    

Cho nên, con yêu dấu, đó là cái đã tạo ra vấn đề – và qua đó phong trào cực chính thống (fundamentalist) hiện đại đang bị ảnh hưởng bởi cách suy nghĩ hiện đại, cách tư duy đường thẳng duy vật hiện đại, nhưng họ lại không biết. Và khi họ nhìn vào Kinh thánh, nhìn vào một số lời dạy và câu văn trong đó, thì họ bảo: “À, đây nhất định phải là chuyện đã thực sự xảy ra trong thế giới vật lý, đúng y như cách CHÚNG TA hiểu bản văn Kinh thánh.” Và họ không nhận ra là con người thuở xưa không nhất thiết đã hiểu theo cùng cách như vậy.

Vì thế chẳng hạn, khi con nhìn vào trận đại hồng thủy thời Noah, con có thể nói, đúng là có một thực tế nào đó theo nghĩa là có một trận lụt đã phát sinh ra câu chuyện về con tàu của Noah. Nhưng đó không phải là loại lụt mà con quan niệm thời nay. Bởi vì, con yêu dấu, vào thuở con người nhận được lời dạy và trải nghiệm tai biến đó, thì người ta chưa có quan niệm về trái đất mà con hiện có. Họ không thấy trái đất rộng lớn như con thấy bây giờ, họ không thấy trái đất tròn, họ không biết là trên trái đất có những rặng núi cao hơn gấp bội những ngọn núi như núi Ararat mà họ quen thuộc.

Cho nên, con yêu dấu, khi con – với một tư duy hiện đại – nhìn vào trận lụt của Noah, con nói: “Chà, nếu Kinh thánh phải được hiểu theo nghĩa đen thì nhất định có nghĩa là một trận đại hồng thủy toàn cầu đã trải rộng khắp trái đất và nước lụt đã lấp cả đỉnh Everest.” Và đó là lúc con rơi vào cái khía cạnh kia của tư duy hiện đại là tư duy khoa học hoài nghi, bảo rằng: “Ái chà, làm sao chuyện này có thể xảy ra được? Khối nước khổng lồ đó từ đâu mà có?”

Con yêu dấu, con có thấy điều ta muốn nói ở đây không? Có một sự kiện vật lý đã khởi đầu cho câu chuyện nói trên, nhưng đó không phải là cùng loại biến cố mà con mường tượng với tư duy hiện đại. Nói cách khác, một huyền thoại đã được dựng lên khiến cho biến cố đó trong tư duy hiện đại trở nên to lớn hơn hẳn sự kiện thực tế.

Và đây là chuyện xảy ra với rất nhiều điều của quá khứ, con yêu dấu. Đó là tại sao ngay câu đầu, ta đã nói là quyển sách đó vừa chính xác vừa không chính xác. Bởi vì điều này thực sự tùy thuộc vào tư duy của con khi con đọc một bản văn cổ, tức là cái phin lọc mà con nhìn xuyên qua để mà diễn giải.  

Con yêu dấu, quả thực là Đại thượng sư [khi thày hiện thân là Homer] đã đưa ra các lời dạy trong hai bộ sách Odyssey và Iliad. Nhưng liệu điều này có nhất thiết có nghĩa là nhân vật chính trong quyển Odyssey đã chạm trán với tất cả những sinh vật được mô tả trong sách hay không? Hay đó là một biểu tượng cho những gì anh ta đã đối mặt trong chính tâm thức của anh? Cho nên liệu con có phải khoác vào cái tư duy cho rằng nếu ngày nay con không tin những loại sinh vật như vậy có thể hiện hữu, thì bắt buộc quyển Odyssey cũng hoàn toàn hư cấu và do đó không có chút giá trị nào cho loài người hiện đại hay sao?

Và tất nhiên – một lần nữa với Kinh thánh – câu hỏi đặt ra là liệu các biến cố được kể lại trong Kinh thành có nên được diễn giải từng chữ trong nghĩa đen bởi tư duy hiện đại hay không? À, sự kiện chúng mang một ý nghĩa biểu tượng thâm sâu hơn đã không khiến chúng trở thành lỗi thời đâu con. Cho nên một lần nữa, con đừng bám mắc vào những cách diễn giải đó, bởi vì như chúng tôi đã bày tỏ qua các lời dạy hiện đại, có rất nhiều điều hơn nữa cần được con người thấu hiểu. Và như con sẽ thấy qua cuốn sách của thày Maitreya [Master keys to spiritual freedon – Bí quyết của tự do tâm linh], có một cách hiểu về kinh Sáng thế sâu xa hơn hẳn cách diễn giải thông thường theo nghĩa đen.

Như vậy ta cũng muốn tạo ấn tượng trong con là các giáo lý tâm linh có nhiều cách diễn giải. Điều này không có nghĩa là có một cách đúng và mọi cách khác bắt buộc phải sai. Đây lại là một hệ quả khác của tư duy hiện đại, qua đó dựa trên cách suy nghĩ khoa học, con tin rằng mỗi câu hỏi đặt ra chỉ có một câu trả lời duy nhất, hay mỗi sự đo đạc khoa học chỉ có một kết quả đúng đắn duy nhất. Ấy nhưng ta nói vói con, có một tầng mức tâm thức chỉ biết đến số lượng, và đó chính là tầng tâm thức mà khoa học thời nay đang bị kẹt vào. Đó là lý do tại sao người ta muốn đo đạc và định lượng mọi chuyện.    

Nhưng vượt trên tầng mức của thực tại có thể được đo lường, còn có một tầng mức thâm sâu hơn nơi con không thể định lượng bằng cách đo đạc, bằng cách chia ra thành từng đơn vị nhỏ, bởi vì thực tại không hề đường thẳng. Cho nên để hiểu và tiếp cận với tầng mức thực tại thâm sâu đó, con phải sẵn lòng vượt quá cái tư duy trí thức, phân tích, cứ muốn đo lường mọi chuyện rồi dán nhãn lên mọi chuyện.

Điều thực sự quan trọng không phải là liệu một bản văn tâm linh có chính xác hay có diễn ra đúng như mô tả hay không. Điều thực sự quan trọng là con sử dụng câu chuyện đó để kích hoạt một trải nghiệm nội tâm sẽ giúp con thăng vượt một mức tâm thức nào đó. Kinh sách và văn bản tâm linh không được thảo ra để cống hiến một số thông tin trí thức, đường thẳng, hay một số dữ kiện nào đó. Chúng được viết ra để giúp con người thăng vượt một mức tâm thức. Không một ai trong thế giới hiện đại đã hoàn toàn thoát khỏi trạng thái tâm thức thần thoại, cho nên mọi người đều có thể tìm thấy lợi ích trong việc đọc các bản văn cổ và sử dụng bản văn để làm bàn đạp cho những khám phá trực giác.

Cho nên, con yêu dấu, ta cũng biết là ta đã không trả lời câu hỏi của con một cách đường thẳng, nhưng ta tin tưởng trả lời như vậy cũng là đủ rồi.

Mật mã trong Kinh thánh

Câu hỏi 1: Liệu các mật mã Kinh thánh trong quyển kinh Torah là thật hay không?

Câu hỏi 2: Hình như mọi người đều đang bàn tán sôi nổi về một đoạn mã được tìm thấy trong ấn bản gốc tiếng Do thái của Kinh Cựu ước, hay Torah. Liệu mật mã này có thật hay không? Nó có tiên đoán một số biến cố thực trên địa cầu? Liệu nó chỉ chứa đựng một hậu quả duy nhất hay mấy hậu quả khác nhau có thể xảy đến? Có phải Thượng đế hay người ngoài hành tinh đã đặt nó vào trong đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Con hãy tự đặt một vài câu hỏi. Tại sao Thượng đế lại đi giấu mật mã trong một lời dạy tâm linh được trao truyền ban đầu như một lời tiết lộ trực tiếp và sau đó được truyền khẩu cho đến ngày nay? Tại sao lại cài vào trong đó một đoạn mã mà không ai có thể giải thích được cho tới 2000 năm sau, khi máy tính được phát minh?

Để tin vào một mật mã như vậy, con phải tin rằng mặc dù Thượng đế đã trao cho nhân loại Kinh thánh trong một sự tiết lộ trực tiếp, tự dưng ngài đã đánh mất khả năng tiết lộ trực tiếp đó sau khi ban ra Kinh thánh. Nói cách khác, ngài đã phải biết trước là ngài chỉ có đúng một dịp duy nhất để ban tiết lộ thiêng liêng cho loài người, và do đó ngài đã phải cài vào một đoạn mã để sau này người ta có thể diễn giải khi người ta có máy tính nhưng không còn nhận được tiết lộ nữa.

Khi con suy nghĩ một chút, con sẽ thấy chuyện này hoàn toàn vô lý. Thượng đế là đấng toàn năng, cho nên ngài không thể đánh mất khả năng giao tiếp với loài người. Vậy tại sao ngài lại cài đặt mật mã vào một lời được ban ra cách đây hàng ngàn năm để truyền đạt một thông điệp mà ngày nay ngài có thể dễ dàng truyền đạt qua sự tiết lộ trực tiếp? Một khi con nắm vững thực tế của tiến trình tiết lộ tuần tự – một tiến trình đã tiếp diễn từ trước khi lịch sử được ghi chép và sẽ còn tiếp diễn một cách vô hạn định trong tương lai – thì hiển nhiên không hề có nhu cầu giấu mã trong Kinh thánh.     

Điều hoàn toàn đúng là bất kỳ lời dạy tâm linh chân chính nào cũng có thể được diễn giải ở nhiều tầng cấp khác nhau. Điều này được diễn tả qua câu: “Giê-su chẳng hề giảng cho quần chúng mà không sử dụng ngụ ngôn, nhưng khi ở riêng, thày cắt nghĩa tất cả mọi điều cho môn đồ của mình.” (Mark 4:34)

Cho nên giáo lý của ta có những tầng cấp thông hiểu khác nhau tương ứng với trình độ tâm linh của người nhận trưởng thành tới đâu. Dù sao thì ý nghĩa “ẩn giấu” như vậy không mang hình thức mật mã chỉ được giải trình bởi một chiếc máy tính, mà nó được ban ra dưới dạng một lời dạy mà tâm nhị nguyên không có khả năng hiểu được. Ý nghĩa thực của nó có thể được mở khóa khi người tầm đạo nâng cao tâm thức của mình vượt lên khỏi tư duy nhị nguyên và bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của mình.   

Tại sao bỗng nhiên nhiều người lại quan tâm và phát hiện ra những cái gọi là mật mã Thánh kinh chứ? Một phần là vì tâm thức loài người đang được nâng lên, và điều này khiến cho con người dễ dàng nhận diện hơn các mô thức “ẩn giấu”.

Tuy nhiên còn một phần giải thích khác nữa, đó là kể từ biến cố Sa ngã, một số người đã tìm cầu một cách thức máy móc để đạt cứu rỗi. Những người như vậy ham chuộng máy tính, và ngược lại với một ý tưởng thịnh hành, máy tính là một thiết bị hoàn toàn máy móc sẽ không bao giờ đạt được khả năng thông minh thật sự. Một chiếc máy tính chỉ có thể nhận dạng những mô thức máy móc, nhưng quả vị Ki-tô thì không thể chứng được một cách cơ học máy móc – cho dù nhiều thày giả muốn con tin là chuyện này có thể làm được. Đây chính là “con đường có vẻ đúng cho con người, nhưng cuối cùng lại là con đường của sự chết” (Châm ngôn 14:12).    

Thực tế đơn giản là máy tính không có khả năng rút tỉa thông tin thực. Nó chỉ có thể phân tích một tác phẩm văn chương và so sánh với những con số đã được người dùng máy lập trình vào trong máy. Cho nên những loại mã mà người ta có thể tìm thấy trong Kinh thánh đã được định sẵn bởi những gì người dùng máy muốn tìm. Điều này rất giống như khám phá của ngành vật lý lượng tử, cụ thể là tâm thức của người quan sát sẽ nhất định ảnh hưởng đến kết quả được quan sát.

Sự thật đằng sau việc “khám phá mật mã” này là: Chừng nào con người còn bị mắc kẹt trong tâm nhị nguyên thì họ sẽ còn xu hướng nhìn thấy những gì họ muốn nhìn thấy. Chỉ khi nào con vươn lên cao hơn nhị nguyên và chứng được tầm nhìn đích thực của tâm Ki-tô thì con mới thấy được cái thực.  

Trên thực tế, con có thể lấy hầu như bất kỳ tác phẩm văn chương nào đủ dài và đủ phức tạp và tìm thấy trong đó một loại mã hay mô thức nào đó. Tuy nhiên, như nhà vật lý lượng tử sẽ hỏi: “Liệu thế giới thật sự có ở đó hay chăng khi không có ai đứng nhìn?” thì cũng vậy, con có thể hỏi: “Liệu mật mã Thánh kinh thật sự có ở đó hay chăng khi không có ai tìm nó?”  

Cũng có một vài tác phẩm văn chương mà tác giả đã cố tình cài vào một mật mã. Người ta làm chuyện này trong những xã hội bị nhà nước hay giáo hội đàn áp và tác giả gặp nguy hiểm khi tiết lộ một loại thông tin nhất định nào đó. Cho nên thông tin được bảo mật dưới một dạng mã mà chỉ những ai nắm được chìa khóa mới có thể đọc được. Có một số ví dụ như vậy là các tác phẩm của Francis Bacon và Shakespeare. Tuy nhiên như ta vừa giải thích ở trên, Thượng đế không hề có nhu cầu sử dụng những loại mã như thế. Thượng đế cùng các chân sư thăng thiên có khả năng, bất cứ lúc nào, sử dụng sự tiết lộ trực tiếp để truyền đạt thông điệp của mình.