Điều gì sẽ quyết định kiếp sống tới?

Hỏi: Phật giáo Tây Tạng dạy rằng ý nghĩ cuối cùng trước khi qua đời sẽ quyết định kiếp đầu thai sắp tới của mình. Điều này có vẻ hơi không thỏa đáng đối với con. Chẳng hạn, nếu một người đã tu tập trên con đường tâm linh nhiều năm trời nhưng trước khi rời thân xác họ lại cảm thấy một nỗi sợ chết mãnh liệt, thì điều này sẽ ảnh hưởng kiếp đầu thai tới của họ như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 về Ukraine. Đăng ngày 5/12/2022.

Phật giáo Tây Tạng mang mốt số yếu tố điển hình của cái mà các thày đã gọi là con đường vỏ ngoài, con đường máy móc. Con có thể nhìn vào sự kiện họ có những chiếc bánh xe cầu nguyện có ghi những lời cầu nguyện. Thay vì trì tụng lời kinh trên bánh xe, họ lại quay bánh xe và cho rằng làm như vậy sẽ cân bằng nghiệp quả của họ. Họ cũng tạo nên ý tưởng là họ cần bỏ ra cả đời chuẩn bị tâm trí cho giây phút lâm chung vật lý, để họ có thể có những ý nghĩ sẽ đảm bảo một kiếp hiện thân tối hảo cho kiếp sau.

Tất nhiên con nói đúng hoàn toàn khi con bảo rằng điều sẽ quyết định kiếp sống tới của con không phải là ý nghĩ cuối cùng trước khi xác thân qua đời, mà là tổng thể trạng thái tâm thức của con. Tất cả những tiến bộ mà con đã đạt được trong kiếp này là điều sẽ định đoạt nơi con sẽ đi đến bằng từ trường sau khi con rời xác thân, và những tiến bộ con đạt được giữa hai kiếp hiện thân sẽ định đoạt hoàn cảnh mà con sẽ sinh trưởng trong kiếp sống tới – nếu có.

Như các thày đã giải thích rất nhiều lần, vấn đề chủ yếu là con giải quyết tâm lý của con. Trong Phật giáo Tây Tạng không đề cập nhiều đến việc giải quyết tâm lý – và cũng tương tự như vậy trong đạo Cơ đốc chính mạch cùng hầu hết các tôn giáo chính mạch khác. Đây là một chỉ dấu cho thấy là Phật giáo Tây Tạng, mặc dù những lời khẳng định được đưa ra, hoàn toàn xa rời giáo lý nguyên thủy của ta trên nhiều mặt, cũng như xa rời các giáo lý mà các chân sư thăng thiên trao truyền ngày hôm nay.

Những nguyên nhân của vô sinh

Hỏi: Xin thày giúp chúng con có tầm hiểu cao hơn về vô sinh (không có khả năng sinh sản) ở cả nam lẫn nữ? Xin thày chia sẻ một số lời khuyên thiết thực để đem lại quân bình cho bốn thể phàm, và làm cách nào hỗ trợ việc đồng sáng tạo một đứa bé cho cả nam lẫn nữ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary, nhân Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Hồi phục nền Dân chủ. Đăng ngày 14/11/2022.

Vô sinh có những nguyên nhân vật lý cũng như những nguyên nhân phi vật lý. Tất nhiên là có thể có những yếu tố di truyền gây ra vô sinh, có thể có những sự mất quân bình hóa học trong cơ thể, có thể có điều mà con gọi là bệnh tật trong cơ thể có thể gây ra vô sinh.

Ở mức sâu xa hơn, có thể có những lý do tâm linh mà chúng ta có thể gọi là lý do tâm lý cho vô sinh. Trong một vài trường hợp, lý do chỉ giản dị là vì việc có con không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của người muốn làm cha mẹ. Họ bị ngăn chặn trong việc thụ thai một đứa bé trong thể vật lý. Trong một số trường hợp – rất ít – họ có thể mong muốn có con trong tâm ý thức nhưng bị tâm tiềm thức ngăn chặn. Nhưng có rất nhiều trường hợp vô sinh đi ngược trở về những kiếp trước và một tâm lý chưa giải quyết.

Có những gia đình đã từng tái đầu thai cùng với nhau rất nhiều lần – cùng những linh hồn, cùng những dòng sống – nhưng họ lại không tăng trưởng khi đầu thai với nhau. Cho nên có thể có trường hợp càng ngày càng có tình trạng vô sinh trong các thế hệ mới để khiến họ không thể tiếp tục đầu thai trong cùng gia đình.

Cũng có trường hợp những người đã từng xâm hại trẻ em trong kiếp trước, và vì vậy họ bị nghiệp lực ngăn chặn không cho có con. Có những trường hợp cha mẹ không muốn có con vì đủ loại lý do khác nhau, cho nên ở tầng tiềm thức có một điểm nghẽn ảnh hưởng đến cơ thể vật lý cùng khả năng thụ thai.

Nếu con là một người tâm linh, tất nhiên con có thể sử dụng các dụng cụ của chân sư thăng thiên để chữa lành bất kỳ ngã tách biệt nào, bất kỳ tâm lý nào chưa được giải quyết từ tiền kiếp, và điều này sẽ hiệu quả trong một số trường hợp – nhưng không phải trong mọi trường hợp. Bởi vì như ta vừa nói, nếu việc có con không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì con thật sự không thể làm được gì nhiều để tạo ra khả năng sinh sản vật lý.

Còn đối với những ai không tâm linh, họ không thể làm được gì nhiều, và ta cũng không thể khuyên nhủ được gì nhiều vì họ không cởi mở với một giải pháp tâm linh.

Trung thành với lãnh đạo và vấn đề nghiệp quả

Hỏi: Nếu con là một người ái quốc và hỗ trợ người lãnh đạo nước con nhưng lãnh đạo đó là một sa nhân, thì liệu con có sẽ chịu chung cùng nghiệp với ông ấy hay không? Con có trao năng lượng của con cho ông ấy hay không? Và khi con là đệ tử của chân sư thăng thiên và con nâng cao tâm thức của mình, con có góp phần vào việc gia tốc hành tinh hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô. Đăng ngày 19/6/2022.

Chúng ta hãy bắt đầu với câu hỏi đầu tiên. Nếu con là một người yêu nước và con trung thành với người lãnh đạo của nước con, thì dù người đó có là sa nhân hay không là sa nhân, con vẫn sẽ gánh chịu một phần của nghiệp chướng do người đó tạo ra. Đây chính là cách thức mà hết lần này đến lần nọ, các sa nhân đã khiến cho mọi người phải chia sẻ phần nào nghiệp chướng do chúng gây ra. Nếu con là đệ tử của chân sư thăng thiên, con sẽ không muốn đặt mình vào một vị thế như vậy.

Chúng tôi đã từng nói, và nếu con đọc các bài truyền đọc trong cuộc hội thảo trực tuyến về nước Nga, thì con cần phân biệt giữa nước con và nhà lãnh đạo của nước con. Đặc biệt con cần phân biệt giữa nước con và người dân nước con. Con có thể cảm nhận một tình đồng bào với người dân nước con, nhưng con không thể cho phép mình ủng hộ hay đi theo nhà lãnh đạo mà không suy xét.

Liệu con có trao năng lượng của con cho lãnh đạo nước con nếu con trung thành với họ? Con yêu dấu, nếu con là đệ tử của chân sư thăng thiên và con đã để ý tới những gì chúng tôi giảng dạy, thì con phải biết câu trả lời là gì. Tất nhiên là con sẽ trao năng lượng cho họ. Làm thế nào mà không được? Một lần nữa như chúng tôi có nói, con không thể tự xem mình trước tiên là một người Nga hay người Mỹ hay người gì đi nữa, rồi thứ đến con mới xem mình là một đệ tử của chân sư thăng thiên. Con cần xem mình là một sinh thể tâm linh trước hết, rồi sau đó mọi thứ khác đều ít quan trọng hơn. Và nếu con là một sinh thể tâm linh thì con sẽ không thực là một “nhà yêu nước” như người ta thường gọi. Những ai trung thành với Donald Trump và tin vào những lời gian dối của ông về cuộc bầu cử, đang chia sẻ một phần nghiệp quả mà ông gây ra – họ đang trao năng lượng của họ cho ông ấy.

Về câu hỏi chót của con, liệu con có thể giúp nâng cao tâm thức tập thể khi con là đệ tử của chân sư thăng thiên hay không? Có chứ, miễn là con cũng nâng cao tâm thức của con. Nhưng nếu con trung thành với một lãnh đạo là sa nhân, thì mức độ nâng cao tâm thức cá nhân của con sẽ bị hạn chế, và điều này cũng sẽ hạn chế những gì con có thể đóng góp cho việc nâng cao tâm thức tập thể.

Con thấy đó, con yêu dấu, con cần nhìn nhận một điều khi con là đệ tử của chân sư: Luật nghiệp quả sẽ vẫn áp dụng cho con dù con đã tu tập giáo lý của chân sư. Con cần nhìn xem giáo lý của chúng tôi nói gì và rút tỉa những kết luận hiển nhiên. Và con cần ngừng trao năng lượng của con cho sa nhân, ngừng trung thành với sa nhân cùng các lý tưởng và ý thức hệ của sa nhân. Nếu không, con sẽ tạo nghiệp.

Có cần thay đổi quá khứ hay không?

Hỏi: Con biết là vũ trụ là một vũ trụ đa chiều kích nơi quá khứ, hiện tại và tương lai trải bày ra cùng một lúc. Nếu vậy thì con có thể nào đi ngược trở về cõi quá khứ và thay đổi nghiệp quả bằng cách tiếp cận với dải tần số trong vũ trụ đa chiều kích, hầu sửa chữa những sự việc trong quá khứ ảnh hưởng đến con trong hiện tại?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Làm cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Trước hết, con cần nhìn nhận ở đây là con người thời đại hôm nay có một lối suy nghĩ đặc thù. Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã gọi tư duy này là tâm phân tích, đường thẳng. Con người có xu hướng nhìn mỗi ý tưởng xuyên qua tư duy này, rồi diễn giải nó theo một cách mà tâm có thể nắm bắt. Và điều này đã khiến cho một số người – dựa trên các giáo lý tâm linh, dựa trên các trải nghiệm cận tử hay bất cứ gì khác mà họ đã sống qua – nảy sinh ra ý tưởng là họ đang sống trong một vũ trụ đa chiều kích nơi quá khứ, hiện tại và tương lai trải bày ra cùng một lúc. Nếu con xem xét ý tưởng này chặt chẽ một chút, nó thật sự có nghĩa là gì?

Nó có nghĩa là quá khứ, hiện tại và tương lai diễn ra cùng một lượt. Nhưng khái niệm thời gian chẳng phải là để chia trải nghiệm ra thành ba giai đoạn riêng rẽ hay sao: quá khứ, hiện tại, tương lai? Làm thế nào thời gian có thể trải ra cùng một lúc nếu thời gian là một tiến trình đường thẳng? Con có hiểu ta đang cố làm gì ở đây chăng? Ta đang cố vô hiệu hóa cái tâm đường thẳng đó.

Đúng vậy, có nhiều điều có thể được nắm bắt trong vũ trụ hơn là những gì tâm đường thẳng có thể nắm bắt. Nhưng vấn đề xảy ra cho nhiều người đang bước trên đường tu tâm linh là họ cố dùng tâm đường thẳng để vượt ra ngoài tâm đường thẳng. Họ đang cố diễn đạt bằng ngôn từ những gì không thể diễn đạt bằng ngôn từ mà chỉ có thể được trải nghiệm. Một số người đã có những trải nghiệm tâm linh. Một số người đã có trải nghiệm cận tử. Và khi họ trở về, họ mong muốn mãnh liệt chia sẻ những trải nghiệm đó với người khác. Và làm thế nào chia sẻ được đây? Bằng ngôn từ. Và ngôn từ được sử dụng thế nào trong thế giới hiện đại? Qua tâm đường thẳng. Thế là họ cố sức đem vào trong bối cảnh đường thẳng một cái gì vượt ra khỏi tâm đường thẳng, một trải nghiệm vượt ra khỏi tâm đường thẳng.

Để trả lời câu hỏi của con một cách cụ thể hơn là con có thể nào đi ngược trở về quá khứ để sửa chữa lỗi lầm của mình hay không. Chúng tôi đã từng bình luận trước đây về giả thuyết con có một cỗ máy thời gian và con có khả năng du hành ngược trở lại trong xác thân để sửa lỗi lầm trong quá khứ. Nhưng một lần nữa, đây là một khái niệm vô nghĩa. Quá khứ hoàn toàn không quan trọng. Những gì đã xảy ra trong quá khứ không có gì quan trọng đối với hiện tại. Điều quan trọng ngay bây giờ là những gì con đã mang theo con từ quá khứ. Và một phần, đó là năng lượng tha hóa mà người ta thường gọi là nghiệp chướng, và phần khác là một số niềm tin, một số ngã tách biệt trong bốn thể phàm của con.

Con không cần trở về quá khứ để thay đổi, biến hóa cái nghiệp đó của con. Con chỉ cần hành động trong hiện tại. Con cũng không cần trở về quá khứ để giải quyết tâm lý của mình. Con chỉ cần xem xét nó bây giờ, sử dụng các dụng cụ mà chúng tôi đã trao cho con, giải quyết nó và để cho những cái ngã tách biệt đó chết đi. Tại sao con lại cần trở về quá khứ chứ? Thật là không cần thiết.

Con có thể làm một điều xây dựng hơn, là con nói: “Ngay bây giờ, tôi đang mang quá khứ của tôi trong tôi, theo nghĩa là tôi đang mang cái nghiệp đó và những ngã tách biệt đó cùng những chấn thương và ảo tưởng mà trong quá khứ tôi đã cho phép đi vào ba thể cao của tôi. Và nếu tôi không thay đổi những gì đang nằm ở ngay đây, những gì tôi đang mang theo tôi từ quá khứ, thì không những nó sẽ tác động hiện tại của tôi mà nó cũng sẽ tác động tương lai của tôi.” Bởi vì ngay lúc này, con có thể nhìn vào những khuynh hướng mà con đã có trong quá khứ và từ đó con có thể phóng chiếu ra những gì sẽ diễn ra trong tương lai, bởi vì con sẽ lặp đi lặp lại hoài hoài cùng các khuôn nếp đó cho tới khi con khắc phục được ngã tách biệt. Và về điểm này, con có thể nói là con đang mang theo quá khứ của con với con, và nếu con không thay đổi nó thì con sẽ mang nó theo con vào tương lai. Và nó sẽ tác động con y như nó đang tác động con bây giờ.      

Ta cũng biết, nhiều người sẽ khó lòng nắm bắt được những khái niệm này. Nhưng như ta vừa trình bày, đó là vì họ cố dùng tâm đường thẳng để làm một chuyện mà tâm đường thẳng không thể làm. Và có lẽ đây chính là điểm bế tắc to lớn nhất tại các quốc gia tân tiến. Có quá nhiều người tập trung vào tầng mức của lý trí; họ đã sẵn sàng để bước lên và tập trung vào tầng mức của bản sắc, nhưng họ không thể nào bước lên cao hơn vì họ bị kẹt cứng, họ quá dính mắc vào tâm đường thẳng, vào tâm phân tích. Họ muốn tạo ra, và họ luôn luôn tạo ra một con đường thẳng tắp cho tất cả mọi chuyện, xong họ muốn đặt tất cả mọi thứ trên cái đường thẳng đó, và mọi thứ phải diễn ra ngăn nắp toàn hảo, hết cái này dẫn đến cái kia rồi đến cái nọ, để cuối cùng họ đạt được một kết quả ngon lành như trong một phương trình toán học.

Nhưng mặc dù trong đời sống cũng có một chút toán học và những con số, nhưng con đường tâm linh không phải là một tiến trình toán học. Đó là một tiến trình sáng tạo. Không có công thức nào cả. Không có công thức nào hết. Có những công thức sẽ giới hạn con người, như con có thể nói là nghiệp của con và tâm lý của con từ tiền kiếp hình thành những công thức. Và nếu con không thay đổi bất cứ gì trong phương trình đó, thì lời giải cho phương trình sẽ nằm sẵn ở một thời điểm trong quá khứ.

Ở bất cứ thời điểm nào trong quá khứ, con có thể nhìn vào điểm đó và nói là nếu con không thay đồi gì hết từ giờ trở đi, thì đó là kết quả mà con sẽ nhận được trong mười năm nữa. Nhưng con luôn luôn có một chọn lựa, đó là con thay đổi phương trình một cách sáng tạo, và điều này sẽ thay đổi kết quả đạt được. Đây là cách duy nhất mà bất cứ gì có thể được thay đổi, bởi vì nếu không, vũ trụ này sẽ chỉ là một cỗ máy – là cỗ máy mà các nhà vật lý đã mường tượng trong các thế kỷ trước, nơi điều kiện tiên khởi của cỗ máy hoàn toàn định đoạt kết quả chung cuộc của nó.

Tạo nghiệp khi bình luận trên internet

Hỏi: Khi con bình luận trên internet, liệu điều đó có tạo nghiệp hay không? Và có cần thiết phải viết bình luận trên internet để tạo ảnh hưởng ích lợi cho người khác hay không? Hay là con chỉ cần nỗ lực nâng cao tâm thức mình để thăng thiên và thỉnh cầu các chân sư thăng thiên qua các bài thỉnh và như vậy là đủ rồi?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Con yêu dấu, đây là một câu hỏi quan trọng. Bởi vì tuy rằng chuyện này khá hiển nhiên, nhưng có nhiều người và ngay cả những học trò của chân sư thăng thiên, vẫn có vẻ tin rằng việc viết bình luận trên internet không tạo ra nghiệp quả. Nhưng làm sao không tạo nghiệp được khi mọi việc con làm đều tạo nghiệp? Nếu con viết bình luận trên internet ảnh hưởng đến người khác thì hiển nhiên con sẽ tạo nghiệp. Nếu con bình luận về người khác và những bình luận này có tác động khiến người ta bị hạn chế, con sẽ tạo nghiệp.

Con nhìn xem ngày nay một câu bình luận trên Facebook có thể được rất, rất nhiều người chia sẻ. Nếu con lên Facebook và nhìn xem một số bài đăng có hàng triệu lượt “thích” hay hàng triệu lượt “chia sẻ”, thì trong một số trường hợp, người khởi đầu câu viết đó đã tạo ra nghiệp quả khủng khiếp, bởi vì họ đã ảnh hưởng đến vô số người. Con lan truyền một số bình luận không đúng sự thật, không gắn liền với thực tế, cho dù là về đề tài này hay đề tài nọ, điều đó không quan trọng, vì tất nhiên là con đang tạo nghiệp khi con làm vậy. Làm sao mà không tạo được? Con đang ảnh hưởng đến người khác.

Về câu hỏi là có cần thiết viết bình luận trên mạng hay không, đây là một vấn đề cá nhân. Chắc chắn con có thể, ít ra là một thời gian, tập trung vào việc học hỏi giáo lý của chân sư thăng thiên, dùng sách của chân sư, rồi có thể con sẽ lần hồi nhận được một sự nhắc nhở từ trực giác bảo con nên bình luận một điều gì đó trên internet. Con không muốn tứ ép buộc mình phải bình luận bằng tâm vỏ ngoài, và con cũng không muốn để cho tâm vỏ ngoài ép buộc con không được bình luận. Tất nhiên khi ta nói là con tạo nghiệp, đó có thể là cái mà người ta thường gọi là nghiệp quả tốt hay nghiệp quả xấu. Nói cách khác, có nghiệp quả sẽ giới hạn con bằng cách giới hạn người khác, và có nghiệp quả sẽ giúp con tăng trưởng bằng cách giúp đỡ người khác.

Con cần phải tương đối chắc chắn là những thông tin mà con chia sẻ là chính đáng. Vì bằng không, con có thể tạo ra một lượng nghiệp quả khá lớn chỉ qua một câu bình luận trên Facebook được nhiều người chia sẻ, hay qua chính con chia sẻ một lời bình luận được người khác chia sẻ tiếp, và câu nói đó cứ lan ra như những vòng tròn lan rộng trên mặt hồ. Con thử nghĩ xem trước thời kỷ internet, con chỉ tương tác với một số người nào đó thôi qua một số phương cách vật lý, như con chỉ có thể tương tác qua gặp mặt trực tiếp, gọi điện thoại hay viết thư vân vân, cho nên nghiệp quả mà con có thể tạo ra cũng có giới hạn. Nhưng với internet, một câu viết trên Facebook có thể được rất nhiều người chia sẻ, thì bỗng nhiên nghiệp quả cũng tăng nhanh gấp bội hơn trước.

Phật (tánh) dưới dạng thực vật hay động vật

Hỏi: Theo kinh văn đạo Phật, đức Phật có nói rằng trong một số tiền kiếp, ngài từng là cỏ cây hay thú vật. Điều này có thật và chính xác hay không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Tiến tới Quan hệ Thời Hoàng kim. Đăng ngày 14/10/2021.

Một lần nữa, đây là ví dụ một câu hỏi không thể trả lời “có” hay “không”, bởi vì tất cả tùy thuộc vào cách con nhìn những khái niệm này. Con cần nhìn rời ra – một điều mà hầu hết mọi người không làm được. Con cần phân biện giữa Phật như một hiện thân vật lý, một con người vật lý, với Phật như một tâm thức rộng lớn hơn. Đây là cùng vấn đề mà nhiều tín đồ đạo Cơ đốc gặp phải với khái niệm Ki-tô – một đằng con có con người cá nhân của Giê-su đã hiện thân như là Ki-tô, và đằng khác con có tâm thức Ki-tô ở mức sâu xa hơn.      

Khi con nhìn vào khái niệm Phật, con sẽ thấy được điều mà ta đã từng dạy, rằng Phật tánh ở trong tất cả mọi vật, rằng mọi vật đều mang Phật tánh nơi chính mình. Khi con nói về Phật tánh thì con có thể bảo rằng Phật tánh ở trong sỏi đá, trong cây cỏ, trong thú vật.

Nhưng giáo lý chúng tôi các chân sư giảng dạy ngày hôm nay là về cái Ta Biết. Cốt lõi con người của con là cái Ta Biết, là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và cái Ta Biết này không đi xuống vào trong sỏi đá, cây cỏ hay thú vật. Điều này có nghĩa, con trong tư cách là một dòng sống cá biệt, đã không từng là thực vật hay động vật trong tiền kiếp để rồi dần dần tiến hóa thành một con người. Lần đầu tiên con đã đi xuống hiện thân là trong một thân xác con người, và nếu con hiện thân trên một hành tinh khác thì ít nhất con đã đi xuống trong một thân xác giông giống như con người.

Ta như là Phật Gautama hiện thân cách đây 2500 năm đã không từng là sỏi đá hay cây cỏ trong tiền kiếp. Đây không phải là một điều mà ta đã nói, nhưng là sự diễn giải của người đời sau đó, vì người thời đó có một cái nhìn về thế giới không giống như ngày nay. Ngày nay ở phương Tây, cái nhìn của các con rất khác với cái nhìn của con người cách đây 2500 năm tại địa phương nơi ta hiện thân.   

Họ đã diễn giải theo cách đó, và họ cho rằng nếu mọi thứ đều xuất phát từ một nguồn gốc duy nhất, thì trong cách suy nghĩ vô cùng đường thẳng – chẳng qua cũng tương tự như các thuyết tiến hóa mà các con có ngày nay – sự sinh tạo đã khởi đầu một cách lần hồi. Nghĩa là trước tiên sẽ có những dạng sống thô sơ hơn, sỏi đá và khoáng vật, rồi đến cỏ cây và thực vật, rồi đến động vật, rồi mới đến con người. Và nếu như vậy thì sự hiện thân phải khởi sự dưới các dạng thô sơ đó. 

Như ta vừa nói, nếu con nhìn tiến trình này dưới nhãn quan của tâm thức thì cái nhìn như vậy không nhất thiết là sai. Nhưng khi con nhìn vào một sinh thể cá biệt thì câu chuyện sẽ khác hẳn. Sự thật là các Elohim đã đem lại những biểu hiện vật lý trên địa cầu qua một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Đầu tiên là sự biểu hiện vật lý của sỏi đá cùng khoáng vật, rồi đến cây cỏ, rồi đến thú vật, rồi đến biểu hiện cơ thể vật lý con người. Chỉ khi đó – khi mà cơ thể con người đã được tạo dựng với bộ não và hệ thần kinh phức tạp – thì các sinh thể tâm linh mới đi xuống cõi vật lý.

Nghiệp được lưu trữ ở đâu?

Hỏi: Con có một câu hỏi về nơi nghiệp quả được lưu trữ. Nghiệp có được tích tụ nơi một luân xa đặc trưng hay một khu vực của hào quang, hay ngay cả trong cơ thể vật lý, chẳng hạn trong các bộ phận của cơ thể? Hay điều này có tùy thuộc vào loại nghiệp mà chúng con mang, và tia sáng nào đã bị tha hóa khi chúng con tạo nghiệp?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Bước tới các quan hệ Thời đại Hoàng kim. Đăng ngày 13/10/2021.

Một lần nữa, nghiệp là một trong những từ đã được sử dụng quá nhiều cách khác nhau bởi nhiều giáo lý tâm linh cùng tôn giáo khác nhau. Và các chân sư thăng thiên đã cố gắng cho con một cái nhìn đa diện, tinh tế hơn về nghiệp quả. Thực tế là nghiệp có nhiều dạng khác nhau. Để trình bày cho đơn giản, chúng ta có thể nói là có nghiệp vật lý, nghiệp ở mức cảm xúc, nghiệp ở mức lý trí và nghiệp ở mức bản sắc. Hiển nhiên, nghiệp vật lý được lưu trữ trong cơ thể vật lý, nghiệp cảm xúc trong thể cảm xúc, vân vân.

Cũng có loại nghiệp được tạo ra do sự tha hóa của các năng lượng đặc trưng trong một trong bảy tia sáng. Nghiệp này được cất giữ trong luân xa tương ứng với tia sáng đó. Con có thể đơn giản lấy các lời dạy về luân xa và nhìn xem luân xa nào tương ứng với tia sáng nào.

Tuy nhiên, con hãy thận trọng đừng quá “đường thẳng” về vấn đề nghiệp quả, như các thày đã bày tỏ mấy lần. Điều ta muốn nói ở đây là ngoài vấn đề năng lượng bị tha hóa, như các chân sư có trình bày, nghiệp còn có một thành phần tâm lý, và đây là những tin tưởng, những tư duy, những cái ngã tách biệt. Những thứ này không hẳn là được lưu trữ, mặc dù chúng hiện diện nơi ba thể phàm cao hơn của con – một số ngã trong thể tình cảm, một số ngã trong thể lý trí, một số ngã trong thể bản sắc.

Thật sự khi nói đến phần nghiệp tâm lý như chúng ta có thể gọi như vậy, điều quan trọng là con không nên chú mục vào nơi nó được lưu trữ. Điều duy nhất mà con cần làm là đem nó ra tầm nhận biết ý thức của con hầu con có thể, một cách ý thức, giải thể cái quyết định đã tạo ra ngã đó, và như vậy để cho nó chết đi.

Chuẩn bị cho kiếp đầu thai tới

Hỏi: Trước khi đầu thai hay tái đầu thai, liệu một linh hồn có ý niệm gì chăng về ngoại hình vật lý của mình, về các hạn chế tâm lý hay tình trạng bệnh tật của thân xác sẽ được sử dụng? Có phải Hội đồng Nghiệp quả cung cấp các thông tin này hay chính linh hồn có trực giác về điều đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 30/5/2021.

Rõ ràng là khi con lập ra Sứ vụ Thiêng liêng của con và chuẩn bị đầu thai trong kiếp sau đó, con được các chân sư thăng thiên đang làm việc với con đưa ra lời khuyên nhủ. Thật ra trong hầu hết các trường hợp, các vị ấy không phải là Hội đồng Nghiệp quả mà là các chân sư thăng thiên đang làm việc chặt chẽ nhất với địa cầu.

Trong nhiều trường hợp, con có sự chọn lựa giữa nhiều hơn là một xác thân. Trong một số trường hợp, con chỉ có một xác thân để chọn. Nhưng khi con chuẩn bị đầu thai và con đã chọn con muốn đầu thai trong hoàn cảnh nào, thì tất nhiên con sẽ tìm hiểu lịch sử gia đình đó là gì, thân xác của gia đình đó trông như thế nào hay có thể mang những bệnh tật nào, những tình trạng tâm lý nào được truyền lại trong gia đình, trong nền văn hóa, trong dân tộc đó, vân vân.

Đúng, con có một nhận thức nào đó về tiến trình này. Mức độ nhận thức của con tùy thuộc vào trình độ tâm thức, vào mức độ trưởng thành tâm linh của con. Rõ ràng là có những người ở mức tâm thức thấp, và ngay cả khi họ ở ngoài xác thân thì họ cũng không có khả năng cộng tác với các chân sư thăng thiên. Một số thì hoàn toàn không thể làm việc với các chân sư, và đối với một số khác nữa, cách chúng tôi có thể giúp đỡ họ bị giới hạn trong một vài chọn lựa ít ỏi. Những người như vậy không nhận thức nhiều lắm về những gì sắp sửa xảy ra. Nhưng tâm thức của con càng cao thì sự nhận biết của con về tiến trình này sẽ càng nhiều. Và con càng có thể chuẩn bị nhiều hơn, để con có thể ứng phó với hoàn cảnh của con một cách tối ưu và tiến bộ nhiều nhất trong hoàn cảnh nơi con sẽ đầu thai.  

Tình bạn và gia đình

Hỏi: Mẹ Mary yêu dấu, tại sao chuyện xảy ra rất thường là có những người đầu thai trong cùng gia đình với chúng ta nhưng trên thực tế họ lại xa lạ với chúng ta, và họ không có điểm chung nào với chúng ta? Chẳng hạn, một người có thể có nhiều anh chị em nhưng lại không thể thiết lập mối quan hệ thân thiện nào. Mối thân thiện chỉ kéo dài một thời gian khi còn nhỏ nhưng khi lớn lên thì nó biến mất. Hoặc anh chị em chênh lệch tuổi tác tới 14 tuổi, vậy mà cha mẹ lại muốn con cái mình hòa thuận với nhau. Nhưng sự hòa thuận không xảy ra và mỗi đứa lớn lên cô độc một mình. Làm thế nào người ta có thể kết bạn được ở tuổi trưởng thành nếu người ta không thể kết bạn với chính những kẻ ruột thịt với mình?     


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga – Khắc phục tâm thức xem mình là vượt trội cùng cảm nhận không trọn vẹn, bị chấn thương và chú tâm bên ngoài. Đăng ngày 29/5/2021.

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã có ban ra nhiều lời dạy là trong nhiều gia đình, có những người cứ đầu thai hết kiếp này tới kiếp khác trong cùng một gia đình với nhau. Lý do là vì họ có một số khuôn nếp nghiệp quả với nhau, nghĩa là trong quá khứ họ đã tạo ra những vòng xoáy xung đột với nhau, và cách duy nhất để họ có cơ hội giải quyết xung đột là đầu thai cùng với nhau hết kiếp này tới kiếp khác.

Hiển nhiên, vấn đề ở đây là tâm lý của họ đã không thay đổi từ kiếp này sang kiếp sau. Thậm chí, có thể họ tạo dựng một động lượng thù địch ngày càng mạnh mẽ hơn nữa, khiến cho họ rất khó lòng giao tiếp hay kết bạn với nhau. Tuy nhiên, đối với rất nhiều người còn chìm đắm trong Trường đời Cay đắng, đó vẫn là cách duy nhất để họ có hy vọng tiến triển, vì họ cần đạt tới điểm họ hoàn toàn chán ngán chuyện đó và mong muốn một cái gì khác hơn.

Trong một số gia đình, con có thể nhận thấy một số thành viên bị kẹt trong một khuôn nếp nhất định, nhưng trong số mấy đứa con lại có một đứa đứng ra được bên ngoài, từ chối rơi vào khuôn nếp đó, và nó rời bỏ gia đình ngay khi nó có cơ hội. Điều này có nghĩa là trong nhiều trường hợp, sẽ có người thoát ra được nhóm gia đình đó khi họ tái đầu thai trong kiếp sau. Và điều này có thể mang lại sự tiến bộ.

Tất nhiên, con nói rất đúng khi con bảo là nếu con không thể kết bạn với chính gia đình mình vào tuổi thơ ấu thì việc kết bạn sẽ càng khó khăn hơn vào tuổi trưởng thành. Nhưng chuyện này tùy thuộc vào chính con có chuyển đổi được thái độ của mình hay không. Con có cơ hội tìm kiếm những người mà con cảm thấy có cùng độ rung với con. Khi con đầu thai trong một gia đình thì con không thể rời xa các thành viên trong gia đình, nhưng khi con chọn bạn ở tuổi trưởng thành, con có khả năng tìm đến những người mà con có những điểm chung.

Chìa khóa thực sự để con thoát khỏi những khuôn nếp nghiệp quả đó là nỗ lực làm việc trên tâm lý của con chứ con không có ý muốn thay đổi các thành viên khác trong gia đình. Con tập trung vào việc thay đổi chính con, xong con tự hỏi: “Tại sao tôi lại đầu thai trong gia đình này? Nó cho tôi thấy điều gì trong tâm lý mình cần phải giải quyết?” Điều minh triết nhất mà con có thể làm trong một gia đình thiếu hài hòa, mất cân bằng và mang những khuôn nếp độc hại, là con lấy quyết định một cách ý thức là con sẽ không tập trung vào chuyện thay đổi các thành viên kia. Thay vào đó, con đặt trọng tâm thay đổi chính mình để con không còn phản ứng lại các thành viên kia. Trong tâm lý con, con đã giải thoát khỏi họ.

Tai nạn và nghiệp quả

Hỏi: Khi máy bay bị rớt thì đó là một tai nạn hay chỉ là một điều tất yếu? Các tai nạn có tùy thuộc vào trạng thái nội tâm của phi hành đoàn hoặc người chỉ huy máy bay ở một giây phút nhất định hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga – Khắc phục tâm thức thượng tôn và cảm nhận bất toàn, thương tổn, tập trung ra bên ngoài. Đăng ngày 26/5/2021.

Ta sẽ nói về đủ các loại tai nạn. Ta cũng biết một tai nạn hàng không luôn luôn gây ấn tượng rất mạnh vì nó thường gây thiệt mạng cho mọi người trên chiếc máy bay. Nó cũng là một sự cố rất đột ngột. Nhưng hiển nhiên, con cũng thấy là số người bị thiệt mạng trong tai nạn xe cộ nhiều hơn gấp bội tai nạn hàng không.  

Vậy đâu là nguyên do xảy ra tai nạn? Trong nhiều trường hợp, vấn đề khá phức tạp. Nếu con nói đến một chiếc xe có một người hay ngay cả một vài người bị thương tích hay tử vong, thường thường đó là do nghiệp chướng của những người đó. Và tất nhiên cũng do trạng thái tâm thức của họ.

Trong nhiều trường hợp, sự khác biệt giữa một tai nạn xảy ra hay một tai nạn được tránh khỏi, có thể rất nhỏ. Có thể chỉ là một giây phút lơ đãng dẫn đến tai nạn, và điều này có thể tránh khỏi cho dù nghiệp chướng là gì.

Khi con nói đến trường hợp một chiếc máy bay với hàng trăm hành khách thì ở một mức độ nào đó, đây là nghiệp chướng không nhất thiết của mọi người mà của đa số. Tất nhiên là có phi hành đoàn, các kiểm soát viên không lưu, có thể cả các toán bảo trì, toán sửa chữa, liệu họ đã bảo trì máy bay đầy đủ hay không. Vấn đề có thể nằm ở tầng cao hơn trong công ty hàng không, liệu chủ trương bảo trì của công ty là gì, hay họ có xu hướng chấp nhận rủi ro khi phi cơ không được bảo trì nghiêm ngặt theo đúng quy chuẩn. Cho nên nhiều vấn đề phức tạp có thể góp phần vào tai nạn, và khi càng có nhiều người dính dấp vào thì vấn đề sẽ càng phức tạp hơn.

Phật Gautama đã có giảng về lý duyên khởi. Vậy con có thể nhìn vào một tai nạn hàng không và bảo rằng có một bộ phận của chiếc máy bay bị mỏi mệt khiến cho động cơ ngừng chạy và máy bay rớt xuống. Nhưng đó không phải là nguyên nhân duy nhất.

Có nguyên một loạt những yếu tố khác mà ta vừa mô tả sẽ góp phần vào kịch bản. Và như ta vừa trình bày, càng có nhiều người liên lụy vào thì bức tranh sẽ càng phức tạp hơn. Nếu con có khả năng nhìn từ nhãn quan thăng thiên, con sẽ thấy, chẳng hạn, đây là một chiếc phi cơ đang bay cao trên bầu trời với 300 hành khách trên đó. Con có thể nhận thấy những sợi dây năng lượng, những sợi chỉ năng lượng đang nối liền hào quang những người đó với quê hương của họ, với gia đình, với công việc làm ăn của họ.

Các sợi dây này kéo dài vào tận tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Và con có thể nhìn ra một mạng lưới vô cùng phức tạp những mối ràng buộc năng lượng. Đó có thể là sự ràng buộc vào nơi họ đang bay tới, ràng buộc vào nơi họ vừa rời khỏi, thậm chí cả ràng buộc vào những vùng họ đang bay qua. Đây là một mạng nhện vô cùng phức tạp với những tuyến đường năng lượng chằng chịt, và không những thế, là một mạng nhện năng động thay đổi không ngừng.

Trong một số trường hợp, con có thể thấy là ngay thời điểm chiếc phi cơ cất cánh, tai nạn đã được quyết định rồi. Nhưng có những lần khác, đó có thể là một khuôn đúc vẫn đang trong tiến trình chuyển đổi dẫn đến tai nạn, nhưng đôi khi một cách thật sát nút, tai nạn lại có thể được ngăn chặn. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng, và việc bảo rằng chỉ có một nguyên nhân cụ thể duy nhất thật là vô nghĩa.

Điều con có thể làm khi con lấy máy bay là, tất nhiên, thỉnh cầu cho chức năng kỹ thuật và cơ học của chiếc máy bay được bảo đảm, sự an toàn của phi hành đoàn, của mọi người trên máy bay, cùng những điều kiện bao quanh máy bay chẳng hạn như thời tiết, các chuyến bay khác và sự an toàn của chuyến bay của con.

Con cũng có thể thỉnh gọi cái Ta Ki-tô và Hiện diện TA LÀ chỉ đạo con không nên đáp một chuyến bay nếu chuyến này có tiềm năng tai nạn và nếu tai nạn này không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cho nên con có thể có một vài biện pháp cá nhân để sự an toàn được tối đa khi con du lịch.

144 tầng tâm thức và đầu thai

Hỏi: Khi xác thân vật lý của một dòng sống qua đời và vị đó tái đầu thai trong một xác thân mới và một đời sống mới, liệu vị đó sẽ bắt đầu ở cùng mức tâm thức trong số 144 mức như đạt được trong kiếp trước đó hay không? Lý do con hỏi là vì con nghĩ một dòng sống phải đi qua 144 tầng tâm thức nhiều lần chứ không phải một lần duy nhất.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Gia tăng phân biện Ki-tô. Đăng ngày 13/1/2021.

Trong đa số trường hợp khi một sinh thể tái đầu thai, người đó sẽ trở lại ở cùng một tầng tâm thức như trong kiếp trước đó. Cũng có một số sinh thể bị suy kém đi trong khi họ ở ngoài xác thân vì họ bị kẹt lại nơi cõi trung giới và họ bị kéo xuống một tầng tâm thức thấp hơn.

Nhưng ngược lại cũng có một số lớn những sinh thể là học trò tâm linh – dù là học trò của chân sư thăng thiên hay là hành giả tu tập theo những giáo lý tâm linh khác – đạt được tinh tấn giữa hai kiếp đầu thai. Họ giải quyết tâm lý của họ, nhận được sự trợ giúp của các chân sư, và họ vươn lên một mức tâm thức cao hơn. Kết quả là trong kiếp đầu thai mới, họ khởi sự ở một mức cao hơn kiếp trước có thể tới mấy bậc.

Ý tưởng rằng con phải kinh qua tất cả mọi tầng tâm thức nhiều lần như trên đường thẳng, không chính xác. Tất nhiên là sẽ có những người đạt đươc một mức nào đó rồi đứng yên ở đó một thời gian, hay họ bị tụt xuống trở lại. Đây không phải là một tiến trình đường thẳng mà qua đó một khi con đã đạt được một mức nào rồi thì con không thể đi xuống thấp hơn.

Có những người sẽ đi lên đi xuống nhiều lần, và vì vậy có những mức mà họ sẽ kinh qua nhiều lần. Tuy nhiên rất, rất hiếm khi những người đã đạt tới những tầng cao của quả vị Ki-tô mà đi ngược trở xuống.

Chuyển nghiệp cho con cái

Hỏi: Với tư cách là một người mẹ, con có thể nào dùng ngọn lửa tím để làm tiêu nghiệp cho một đứa con đã trưởng thành hay không? Hay đó là vi phạm quyền tự quyết của nó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 9/9/2020.

Nghiệp có hai khía cạnh. Một khía cạnh chỉ đơn thuần giống như một cơ chế máy móc: Năng lượng tha hóa có thể đã tích tụ lại trong ba thể cao của một người và đang là một gánh nặng cho người đó. Con có thể dùng các bài thỉnh gọi để tiêu hủy khía cạnh này cho người khác.

Nhưng cũng có một phần của nghiệp đòi hỏi chính người đó phải thấy được một điều gì đó và thăng vượt một trạng thái tâm thức nào đó. Điều này, hiển nhiên, con không thể làm thế cho người khác. Không phải là chuyện vi phạm quyền tự quyết của họ, mà đơn giản là con không thể làm được chuyện đó. Con không thể khiến cho họ nhìn ra một điều gì mà họ không sẵn lòng nhìn thấy.

Cho nên một lần nữa, việc thình gọi cho người khác có thể có tác dụng tích cực, vì bằng cách chuyển hóa năng lượng, họ sẽ dễ dàng hơn thấy được những gì họ cần thấy. Nhưng không có bao đảm là họ sẽ thấy được điều đó vì sự thể tùy thuộc vào ý chí tự quyết của họ.

Làm thế nào sống mà không tạo nghiệp

Hỏi: Định luật toàn vũ của nghiệp quả là người bạn đồng hành tự nhiên của quyền tự quyết. Chúng ta chịu trách nhiệm về ánh sáng mà mình nhận được. Do đó nếu chúng ta làm tha hóa ánh sáng thì chúng ta phải phục hồi lại phẩm chất của ánh sáng. Đối với đa số chúng ta bị vướng mắc trong tâm thức nhị nguyên, chúng ta thường cho rằng toàn bộ nghiệp chướng của mình đều đến từ những quyết định sai lầm mà mình đã có qua tâm thức nhị nguyên, qua tâm phản Ki-tô. Nhưng chuyện gì xảy ra khi chúng ta chuyển vọt tâm thức và đồng hóa với cái Ta Biết và lần hồi hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, phần lớn được tự do khỏi cấu trúc của tự ngã? Vì chúng ta vẫn tiếp tục có quyền tự quyết, chúng ta không thể nói là mình không còn tạo nghiệp nữa. Vậy thì điều gì có thể gây ra nghiệp quả đối với một sinh thể ở những giai đọan cao của quả vị Ki-tô, và điều gì có thể gây ra nghiệp quả đối với một sinh thể thăng thiên?     


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 6/9/2020.

Trước hết, các chân sư đã có dạy là một chân sư thăng thiên không tạo nghiệp giống như con tạo nghiệp trên địa cầu. Là chân sư thăng thiên, chúng tôi có thể bộc lộ một số điều kiện, hoặc khiến mình gắn bó với một hành tinh nào đó, hoặc khiến mình cần chuyển khỏi một hành tinh để không bị gắn bó, tuy nhiên đó không phải là nghiệp.

Khi người ta bảo là mình đang tạo nghiệp, người ta thường muốn nói đến một việc gì đó mà mình làm trong trạng thái tâm thức nhị nguyên, từ một cái ngã tách biệt. Cái đó tạo ra nghiệp và làm tha hóa năng lượng. Nhưng con cần thận trọng và nhận ra quan niệm trong Ấn giáo bảo rằng nghiệp gắn liền với hành động, không phải là lời giải thích đầy đủ. Hành vi nhị nguyên dẫn đến nghiệp. Hành vi bất nhị không dẫn đến nghiệp. Thậm chí hành vi bất nhị cũng không dẫn đến cả nghiệp tốt. Kỳ thực trong cách hiểu cao hơn về nghiệp quả, con có thể nói là sự khác biệt giữa nghiệp tốt và nghiệp xấu hoàn toàn vô nghĩa, bởi vì bất kỳ nghiệp chướng nào cho dù được tạo ra bởi hành vi nào đi nữa, cũng sẽ buộc con lại với địa cầu và do đó sẽ ngăn cản không cho con thăng thiên.

Điều xảy ra là khi con bắt đầu đi đến quả vị Ki-tô, con có thể có những hành động sẽ không tạo nghiệp như trước kia con đã tạo nghiệp xuyên qua một cái ngã nhị nguyên. Con có thể vẫn còn một số ngã nhị nguyên, và nếu con hành động xuyên qua chúng thì con sẽ vẫn tạo nghiệp. Nhưng khi con không hành động qua một cái ngã nhị nguyên thì con không đang tạo nghiệp.

Con đang hành động, nhưng con không khiến cho năng lượng bị tha hóa bởi lòng sợ hãi. Khi con hành động không sợ hãi, và nếu con nhìn kết quả hành động mà không sợ hãi, thì con không làm tha hóa năng lượng với một rung động thấp kém. Con hoàn toàn có thể hiện thân trên địa cầu mà đã giải thoát khỏi tâm nhị nguyên, đến độ con không còn hành động qua sợ hãi nữa, và con không lượng định hành động của mình trong sợ hãi. Cho nên con không gán cho năng lượng một phẩm chất đến từ rung động thấp kém. Mà ngược lại, con ban cho năng lượng một rung động xuất phát từ tình thương, và như các chân sư đã có đề cập, điều này khiến cho năng lượng được nâng cao trong dòng chảy hình số 8 giữa Hiện diện TA LÀ và phàm nhân của con, và khi nó vươn lên cao, nó sẽ được nhân lên gấp bội rồi gửi trả xuống cho con để con nhận nhiều năng lượng sáng tạo hơn.

Đây là một lời dạy vô cùng tinh tế mà nhiều người sẽ khó lòng hiểu được, và ta có thể thấy trước là nhiều người sẽ diễn giải sai lạc lời dạy này từ quan điểm tâm đường thẳng. Nhưng sự thật là con có khả năng đạt đến một điểm khi những hành động mà con làm sẽ thực sự giúp con trở nên tự do hơn, sáng tạo hơn. Điều này không có nghĩa là những hành động đó nhất thiết phải cao nhất, hay phải là lý tưởng theo một chuẩn mực tâm linh hay một lượng định tâm linh nào đó.

Con có thể có một hành vi đôi khi có vẻ là vị kỷ, nhưng vì con không hành động trong tâm nhị nguyên, vì con không hành động trong sợ hãi, con không làm tha hóa năng lượng. Chẳng hạn, con có thể hành động với mục đích tạo cho mình một trải nghiệm mà mình muốn có trên trái đất. Có vẻ như con đang vị kỷ, nhưng nếu con làm với mục đích thỏa nguyện một mong muốn hầu con có thể buông bỏ mong muốn đó một khi nó được thỏa nguyện, thì có thể nó nằm trong hành trình tăng trưởng tâm linh của con, thậm chí trong sứ vụ thiêng liêng của con.

Ví dụ, việc có con có thể là một mong muốn tâm linh chính đáng. Không cứ là con sẽ tạo nghiệp khi con có con, cho dù là đôi khi con có thể bị cáu kỉnh hay choáng ngợp bởi nhiệm vụ làm cha mẹ. Con cũng có thể muốn theo đuổi một sự nghiệp, một việc làm nào đó. Ngay cả con cũng có thể theo đuổi một số mục tiêu vật chất, vì mong muốn trải nghiệm là một việc chính đáng, để sau đó con có thể cảm thấy chán ngấy và buông bỏ nó.

Con cũng nên biết là các chân sư đã có giảng dạy về một cõi giới nơi một số linh hồn đi đến sau khi thân xác vật lý chết đi, gọi là Devachan, là cõi hoàn thành ước nguyện. Nơi đây, con có cơ hội kinh qua một số mong muốn cho đến khi con chán ngán, và khi đó, con có thể buông nó ra và không còn nhu cầu phải tái đầu thai trong một kiếp sống bị ham muốn đó chi phối. Như con có thể thấy trong cuốn sách của Yogananda, ông có đưa ra ví dụ một kinh nghiệm mà ông trải qua khi thày của ông đã thị hiện một cung điện cho ông vì ông ham muốn cung điện đó. Bằng cách khiến cho cung điện thị hiện – không trong cõi vật lý, nhưng dù sao cũng đủ hiện thực để ông có thể chiêm nghiệm được – ông đã có thể buông được ham muốn đó mà không phải kinh qua trải nghiệm vật lý, một điều đã có thể ngăn ông trở thành bậc thày tâm linh trong kiếp đó.

Người với tâm thức thấp quyết định kiếp đầu thai tới như thế nào

Hỏi: Các chân sư dạy rằng một số người bước vào một trạng thái giống như hôn mê khi họ ở giữa hai kiếp đầu thai. Vậy làm thế nào họ có thể có quyết định về kiếp đầu thai kế tiếp của họ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 cho Giải phóng Phụ nữ. Đăng ngày 8/7/2020.

Có rất nhiều người với một trạng thái tâm thức thấp sẽ đơn giản không có khả năng nối kết với các chân sư thăng thiên để nhận được sự hướng dẫn giữa hai kiếp đầu thai. Như con nói, có một số đi vào một trạng thái giống như hôn mê, nhưng có những người đi vào các tầng thấp nhất của cõi trung giới và những người này thì thật sự họ không lấy quyết định, họ không lấy bất cứ quyết định nào về kiếp sống tới của họ. Họ bị ném – nếu có thể nói như vậy – vào kiếp kế tiếp bởi các hoàn cảnh nghiệp tạo của họ. Con hiểu ở đây là các thày đã có cho con giáo lý là nghiệp quả có những tầng cấp khác nhau.

Khi con bước chân trên đường tu tâm linh này và nếu con sẵn lòng chuyển đổi tâm thức, không nhất thiết là nghiệp của con từ tiền kiếp sẽ thị hiện trong cõi vật lý vì khi xung lực nghiệp quả quay trở về con, con không có bất cứ gì trong ba thể cao để nhân xung lực đó lên. Và tất nhiên trước khi con bước vào kiếp đầu thai kế tiếp, các chân sư thăng thiên sẽ khuyên con cố đạt được điều này.

Nhưng nếu con không thể tiếp nhận sự hướng dẫn này, và nếu con không cởi mở ngay cả với việc thăng vượt mức tâm thức của con, thì nghiệp của con sẽ đi xuống cõi vật lý, và như vậy nghiệp sẽ định đoạt kiếp tới của con là gì. Nghiệp sẽ đơn giản quyết định giùm con vì con không có khả năng hay ý muốn tự quyết định lấy.

Làm thế nào xử lý những lỗi lầm ảnh hưởng đến người khác

Hỏi: Đây là kinh nghiệm cá nhân của con nhưng có lẽ nhiều người sẽ thấy nó quen thuộc. Con trải qua kinh nghiệm này khi con phạm một lỗi lầm liên quan đến một người. Làm xong, con nhận thấy có điều gì không phải, và con quyết định là mình sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Con bỏ chuyện đó lại đằng sau. Khi cuốn sách “Các cuộc đời của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Jesus” được xuất bản, con mới thực sự nhận ra sự việc mình đã gây ra, và trong một giây phút con đã nghĩ: “Trời, tôi vừa nhận ra là tôi đã làm một chuyện sai trái mà tôi không muốn”, cho nên phần nào con bằng lòng là mình đã nhận ra lỗi lầm và mình đã có thể điều chỉnh lại cách hành xử của mình.

Tuy con biết là sự kiện con đã học xong bài học sẽ hóa giải được nghiệp quả – nghĩa là sự việc đã xong và mình không còn mang vấn đề đó trong tâm nữa – nhưng đối với người kia thì sao? Điều này sẽ ảnh hưởng thế nào đối với người kia, dòng sống kia, mà con đã có tương tác? Theo một nghĩa nào đó, con không muốn họ phải trải qua bất cứ điều gì tiêu cực hay bất kỳ hậu quả nào quay ngược trở lại, đặc biệt là vì người đó còn trẻ tuổi.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque (Hoa Kỳ) năm 2018. Đăng ngày 1/10/2019.

Đây là một tình huống mà tất cả các con đều đã và đang đối mặt rất, rất nhiều lần khi con sống trên địa cầu này. Và nói thật, tình huống này là một trong những vũ khí lợi hại nhất của sa nhân để khiến con bị mắc vào những dây nhợ nghiệp chướng hay những khuôn nếp phản ứng rất khó lòng thoát ra khỏi.

Con sống trong một môi trường vô cùng khó khăn trên hành tinh này, trong một nền văn hóa cũng vô cùng khó khăn, cho nên khi con làm điều gì tác động lên người khác thì con rơi vào một khuôn nếp phản ứng do hành động đó gây ra. Hoặc con sẽ phủ nhận nó, hoặc con sẽ tìm cách đền bù, hay con cảm thấy là mình thật đáng trách về chuyện này hay chuyện nọ. Cho nên đây là lời đề nghị của ta.

Có những hoàn cảnh mà con có thể làm điều gì đó ở mức vật lý để bù đắp cho những gì con đã gây ra cho người khác qua cách hành xử hay quyết định của mình. Con nên hòa điệu trong tim, cố gắng bước vào một trạng thái tâm trung hòa và nhận sự hướng dẫn từ nội tâm để xét xem điều này có áp dụng cho con hay không, xem xét con có thể làm được gì ở mức vật lý. Rồi nếu con cảm thấy nó đến từ bên trong, con có thể hành động theo đó ở mức vật lý. Con không nên lấy quyết định này với tâm vỏ ngoài dựa trên mặc cảm tội lỗi mà con đang có.

Rồi sau đó tất nhiên, con có thể bước vào công việc tu sửa tâm linh, con có thể thỉnh cầu cho nghiệp quả được hóa giải, thỉnh cầu cho người kia được tự do khỏi các hậu quả trong cõi bản sắc, lý trí lẫn tình cảm, và con có thể tu sửa chính tâm lý mình để nhìn xem cái ngã nào đã khiến con hành xử như thế, xong con giải quyết nó và để cho nó chết.

Ở điểm này, con đã làm tất cả những gì con có thể làm được cho người kia. Và cũng ở điểm này, con cần dùng các lời dạy mà chúng tôi đã ban ra về quyền tự quyết và nhìn nhận rằng con đang sống trên một hành tinh thấp kém về trạng thái tâm thức. Con không đang sống trên một hành tinh tự nhiên. Không thể tránh được chuyện ai ai cũng sẽ phạm phải lỗi lầm vì đủ loại lý do khác nhau. Thật sự con không cần phân tích quá đáng mà con chỉ cần công nhận là mình đã lỗi lầm. Con đã dùng quyền tự quyết của con để nhìn nhận lỗi lầm, để cố gắng vươn lên cao hơn tâm thức đó và tìm cách đền bù cho những hậu quả của việc làm.

Đây là điểm mà con cần nhìn nhận là người kia cũng có quyền tự quyết của họ, và con cần cho phép họ tự do quyết định cách phản ứng của họ trước tình thế, bất kể cách họ muốn phản ứng thế nào. Nếu họ giận dữ với con, con hãy cho phép họ chọn lựa như vậy, nhưng khi đó, con cần làm một việc khó khăn bậc nhất đối với hầu hết mọi người tâm linh: đó là con cũng tôn trọng quyền tự quyết của con. Vì khi con nhìn nhận là mình đã làm tất cả những gì mình có thể làm ở mức vật lý, đã làm tất cả những gì mình có thể làm ở mức tâm linh, thì con cũng cần nhìn nhận một điều: Nếu người kia giận con hay trách móc con thì con không cần phải phản ứng lại. Con không cần phải phản ứng lại. Con không cần phải tự trách mình, con không cần cảm thấy mình có tội, con không cần cảm thấy là mình phải tiếp tục cố gắng đền bù cho tới khi người kia hết giận. Con cần nhận ra là con đang sống trên một hành tinh phi tự nhiên, và trên một hành tinh phi tự nhiên thì không có gì lý tưởng.

Cho nên con không thể chờ đợi mọi chuyện sẽ lý tưởng, mà con cần nhìn nhận là con có quyền sống trên hành tinh này, con có quyền có trạng thái tâm thức hiện thời của con, con có quyền lấy quyết định và hành xử dựa trên trạng thái tâm thức hiện thời đó, bởi vì con không thể làm bất cứ gì khác.

Sẽ có những tình huống khiến con làm một điều gì đó sẽ tác động lên người khác, và người kia có quyền bị người khác tác động y như con cũng có quyền bị người khác tác động. Nói cách khác, người đó không có quyền nói: “Đáng lẽ bạn không bao giờ được hành xử như vậy. Đáng lẽ bạn không được có trạng thái tâm thức đó. Đáng lẽ bạn không được sống trên hành tinh này.” Con có quyền sống ở đây trong trạng thái tâm thức hiện thời của con, và con có quyền làm những điều sẽ ảnh hưởng đến người khác – khi con lầm lỗi một cách trung thực và không hành xử với ác ý. Chính người kia cũng đang ở trong một trạng thái tâm thức nào đó, họ có quyền ở trong tâm thức đó, và con cần nhìn nhận là cách phản ứng của họ đối với con là kết quả của tâm thức đó. Con không cần can thiệp vào chuyện này, nhưng mặt khác, con cũng không cần cho phép nó can thiệp vào đường tu của con – một khi con đã làm tất cả những gì có thể làm để nâng cao tâm thức của con.

Đây là một điều rất, rất khó khăn cho nhiều người tâm linh, và đó là lý do tại sao ta vừa nói đó là một vũ khí hữu hiệu của sa nhân để chúng cầm giữ con trong các mối dây nhợ đó. Tác động tổn hại nhất của sự thể này là khi con sống gần một số sa nhân trong cõi vật lý và con đã làm điều gì đó mà họ xem là sai trái, họ có thể trở nên rất hung hãn, rất cố chấp, và họ sẽ đổ lỗi cho con.

Nhiều người trong số các con đã có tương tác với sa nhân trong tiền kiếp, và một số các con đã tương tác trong kiếp này. Họ đã tỏ ra vô cùng tiêu cực đối với con và con đã quyết định: “Ồ, tôi phải giải quyết cho chuyện này tốt đẹp trở lại.” Nói cách khác, con quyết định: “Tôi cần thay đổi những sa nhân đó để họ không còn tâm trạng tiêu cực đó nữa.” Con yêu dấu, đây là công thức dẫn đến thảm họa, vì trong vũ trụ ít điều gì khó khăn hơn là khiến cho sa nhân đổi ý hầu họ nhìn con với con mắt tích cực, tha thứ cho con và bỏ qua. Cho nên con cần nhìn nhận điều này, liệu người kia có phải là một sa nhân hay không. Thật ra con cũng không cần đánh giá như vậy, mà con chỉ cần nhận rõ trong tâm là nếu họ không để cho quá khứ là quá khứ, nếu họ không buông ra, nếu họ không bỏ qua, thì điều này sẽ không có nghĩa là con không có quyền buông ra, bởi vì chính con có quyền buông ra.

Con có quyền cảm thấy ở bên trong là mình đã làm những gì mình có thể làm cho người đó, và bây giờ mình sẽ bỏ họ lại đằng sau để tiếp tục sống đời mình. Con không chạy trốn bất cứ gì bởi vì con đã giải quyết vấn đề tâm lý nội tâm, con đã làm những gì con có thể làm, và sau đó thì con có quyền bước đi tiếp.

Điều này áp dụng cho mọi người trong đời con, con yêu dấu: cho cha mẹ, cho con cái, cho thân nhân, cho bất cứ ai, tuyệt đối bất cứ ai. Con tôn trọng quyền tự quyết của họ nhưng con cũng tôn trọng quyền tự quyết của con. Họ có quyền phản ứng lại với con bất cứ cách nào họ muốn, nhưng con cũng có quyền không bị phản ứng đó của họ tác động lên mình, vì tâm lý của con thì chính con phải giải quyết lấy. Con không phải giải quyết tâm lý của người khác vì đó là trách nhiệm của họ.

Động vật có thể tái sinh làm người?

Hỏi: Liệu con người có thể đầu thai làm động vật do nghiệp quả? Động vật có thể nào tiến hóa và sinh ra làm người?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc, năm 2016. Đăng ngày 26/4/2017.

Không, con yêu dấu, một người không thể đầu thai làm động vật. Giáo lý này không đúng, đó là hiểu lầm đường đạo. Con người không giống động vật ở chỗ động vật là một sinh thể tiến hóa qua một tiến trình lần hồi. 

Thày Maitreya có giải thích điều này sâu xa hơn trong sách của thày (Master Keys to Spiritual Freedom) nhưng sự thật là trên địa cầu có hai đường tiến hóa song song. Trong thiên nhiên có một tiến trình tiến hóa, một tiến trình tuần tự lần hồi được hướng dẫn bởi những sinh thể có tâm thức nhưng chính tiến trình đó thì lại phần nào vô thức. Điều này Charles Darwin đã quan sát chính xác, cụ thể là trong thiên nhiên có một tiến trình tiến hóa vô thức nào đó. Điều mà ông không nhìn ra, và cho tới nay vẫn chưa được người ta nhìn nhận, là điểm này không áp dụng cho con người.

Một con người phát xuất từ một cõi cao hơn và đi xuống từ đó. Nhiều người sẽ gọi đó là linh hồn đi xuống, nhưng chúng tôi, các chân sư, nay đã đưa ra những giáo lý đặc thù để phân biệt giữa linh hồn – tức là bốn thể phàm của con người – với cái Ta Biết. Dù sao thì đúng là có một cái gì đó đã đi xuống từ trên, và đây là lý do con không thể đầu thai với tư cách con người ở mức của động vật.  

Là một con người, con có thể tiến hóa ngược – nếu có thể gọi như vậy – và lùi xuống một tâm thức thấp kém đến nỗi con không thể hiện thân trên địa cầu được nữa. Nếu vậy con sẽ đi vào cõi trung giới, và con có thể đi xuống thấp hơn và thấp hơn trong cõi trung giới cho đến khi con không thể tiếp tục ở lại địa cầu được nữa. Con sẽ phải đi tới một nơi với tâm thức thấp hơn cả địa cầu, cho dù càng ngày sẽ càng có ít nơi như vậy trong vũ trụ.

Liệu một động vật có thể tiến hóa đến mức con người hay chăng? Đây là một câu hỏi phức tạp do cách con người nhìn động vật. Loài người có xu hướng nhìn một con thú vật như là một cá thể riêng lẻ nhưng điều này không đúng. Ta biết nhiều người nuôi thú vật trong nhà, đặc biệt là chó, mèo và đôi khi cả ngựa, mà họ có mối quan hệ rất thân thiết, và họ cảm thấy con thú của họ có sự nhận biết, có một cá tính. Thậm chí có thể con đã từng nuôi mấy con thú mà con có cảm giác là cùng một sinh thể, cùng một tâm thức mà con có thể nhận ra.

Con yêu dấu, cảm giác này của con không sai ở chỗ có một cái gì đó mà con cỏ thể liên hệ và cảm nhận, nhưng con cần hiểu là cái đó không phải là con thú trong hình tướng vỏ ngoài của nó, mà cái đó là tinh linh (elemental) đã tạo ra hình tướng. Các sinh thể tinh linh có khả năng tiến hóa về mặt tâm thức cho tới mức chúng có khả năng nhận được một ngọn lửa ba nhánh và khi đó hiện thân làm người. Trong nhân loại hiện đang đầu thai, có một số người đã khởi sự là tinh linh như thế.

Sẽ quá đơn giản nếu con có thể nói rằng, à đây là một người hiện thân lần đầu tiên làm người, vậy thì trước khi đầu thai làm người, sinh thể này đã là một con mèo hay một con chó. Chó với mèo đã được tinh linh phóng chiếu ra thành hình tướng chó mèo, chứ không phải cái sinh thể chó mèo đó đã tiến hóa thành hình tướng con người. Chính tinh linh đã đạt được một trình độ nhận biết khiến nó không còn hoàn toàn đồng hoá với một con mèo hay một con chó bởi vì nó đã mang một số phẩm chất giống người qua sự tương tác với con người. Do đó, một tinh linh muốn đầu thai làm người cần thăng vượt hình tướng động vật và bỏ nó lại đằng sau.     

Nhớ lại tiền kiếp

Hỏi: Việc nhớ lại tiền kiếp có quan trọng không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary, ngày 18/7/2015, qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Los Angeles.

Đối với nhiều người, không có sự cần thiết phải nhớ lại mình là ai trong một tiền kiếp hay mình đã làm gì. Điều quan trọng hơn là hòa điệu với những cảm giác và những tin tưởng trong tiền kiếp để mà giải quyết và không nhất thiết nhớ lại từng chi tiết. Con thấy đó, khả năng quên lãng thực sự là một cơ năng quan trọng trên một hành tinh dày đặc và bạo lực như địa cầu. Đối với tuyệt đại đa số con người, kể cả những người tâm linh, việc nhớ lại tiền kiếp của mình sẽ vô cùng khuấy động vì con cũng sẽ nhớ lại bao nhiêu lần con từng bị tổn thương, bị giết hại hay bị tra tấn. Đóng lại bức màn của ký ức giữa các kiếp sống quả sẽ giúp cho hầu hết mọi người dễ dàng khởi sự lại từ đầu với tâm hồn trẻ thơ. Điều này quan trọng cho tất cả mọi người.  

Điều cũng quan trọng là không nên quá háo hức muốn nhớ lại tiền kiếp, đồng thời cũng không bác bỏ sự hiểu biết nếu con cần hiểu biết. Nhưng có nhiều người trở nên quá phấn khích muốn nhớ lại tiền kiếp đến độ họ sẽ tìm cách “đoạt thiên đường bằng vũ lực”, và điều này trong nhiều trường hợp sẽ không cho con những ký ức chính xác về kiếp trước. Có rất, rất nhiều người có ấn tượng mình là một người nào đó trong một tiền kiếp nhưng thật là không chính xác. Lý do có thể đơn giản là họ đã bị lừa gạt bởi một con quỷ hay một thày giả ở những cõi cao hơn – cõi cảm xúc hay cõi lý trí – hoặc họ đã bắt được làn sóng của một khuôn mẫu tâm lý do một người trong quá khứ phóng chiếu ra.

Con biết rõ, con có thể vào thăm một viện tâm thần và tìm thấy ít nhất một người tin rằng mình đã từng là Napoleon chẳng hạn. Nhưng đó là vì Napoleon, trong một cách nhìn nào đó, là một nguyên mẫu phóng chiếu ra một khuôn nếp tâm lý mà nhiều người có thể tự nhận mình trong đó.    

Đối với một số người, có thể họ cần tin rằng họ từng là người đó để họ bắt đầu xem xét khuôn nếp của họ. Một số khác thì tin rằng họ là người đó rồi bị mắc kẹt trong khuôn nếp và không bao giờ làm gì hơn. Nhưng đối với con là người tâm linh, điều quan trọng là con không bị mê hoặc mà cố nhớ lại tiền kiếp, hoặc nếu con có nhớ lại thì con cũng không nhất thiết phải tin rằng con thực sự là người đó. 

Điều quan trọng là con nhìn vào tâm lý của người đó, nhìn vào cái khuôn nếp của nguyên mẫu, và xét xem nó áp dụng với con như thế nào và làm thế nào con có thể thăng vượt được tâm lý đó. Con không nhất thiết cần tin rằng con là người đó và vì vậy con không bị vướng mắc.  

Một số các con hiển nhiên đã từng là những khuôn mật công chúng trong tiền kiếp. Biết được điều này có thể quan trọng đối với con. Nhưng ta vẫn đề nghị là bằng cách nhìn vào khuôn nếp tâm lý, tu tập sự không dính mắc và giải quyết khuôn nếp cũ, con sẽ ở trong tâm trạng thích hợp hơn để có một ấn tượng chính xác về con người con đã từng là trong tiền kiếp cũng như tầm quan trọng của hiểu biết này.  

Có cách cân bằng nghiệp quả khác hơn là cách “đường thẳng”

Hỏi: Con có một câu hỏi về cái Chết Thứ nhì. Khi một dòng sống trải qua tiến trình cái Chết Thứ nhì, trong trường hợp người đó không còn cơ hội đầu thai trên hành tinh này nữa do nghiệp quả quá nặng nề và phải đầu thai ở tầng tâm thức thấp nhất, thì làm thế nào người đó chuyển hóa nghiệp quả của mình?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 28/8/2014.

Ta sẽ bắt đầu với một vài nhận xét về những dòng sống không còn cơ hội đầu thai trên địa cầu. Điều xảy ra là những dòng sống đó sẽ di đến một số hệ hành tinh khác còn có tâm thức tập thể thấp hơn cả địa cầu hiện thời nữa. So với tổng số hành tinh trong vũ trụ vật chất nơi sự sống trí năng hiện diện, thì số hành tinh này không nhiều lắm. Tuy nhiên vẫn có một số mà họ có thể di tới. Rất có thể là một dòng sống, sau khi không còn đủ điều kiện để hiện thân trên địa cầu, sẽ di tới đầu thai trên những hành tinh này, nơi tất nhiên họ sẽ nhận được thêm một cơ hội để giải quyết nghiệp quả của mình.  

Điều con cần hiểu là tất cả mọi chuyện đều phải tuân theo luật tự quyết. Đôi khi có xu hướng, nhất là nơi những người rành rẽ về các giáo lý phương Đông, cho rằng nghiệp quả là một cái gì chắc nịch như đã khắc vào đá, là sự tiền định đã được sắp sẵn cho nguyên một kiếp sống, và một người có rất ít khả năng thay đổi hay khắc phục được.

Điều này, tất nhiên, không phải như vậy. Nhiều lần ta đã từng giảng dạy là nếu con thật sự chuyển vọt tâm thức mình, nếu con sẵn sàng học được bài học và nhận ra tâm thức con hạn chế con như thế nào, và nếu con sẵn lòng thực sự bước ra ngoài yếu tố này của tâm thức nhị nguyên, thì con có khả năng quân bình nghiệp quả của mình rất nhanh chóng. Điều này có nghĩa là những dòng sống nào phải đầu thai trong những cõi thấp kém vẫn có cơ hội quân bình nghiệp quả của mình, quân bình khá nhanh chóng.    

Nghiệp quả không phải là một hình phạt. Không phải là Hội đồng Nhân quả sẽ xem xét nghiệp quả của một dòng sống, ghi lại thành một hồ sơ “đường thẳng”, rồi bảo rằng bởi vì người đó đã gây ra nghiệp quả như thế này thì họ sẽ phải bỏ ra một thời gian như thế kia trước khi họ có thể trả hết nghiệp. Nói cách khác, công việc của Hội đồng Nhân quả không giống như một quan tòa trên địa cầu đưa ra bản án nhất định là bao nhiêu năm tù cho một tội trạng nhất định nào đó. 

Hội đồng Nhân quả chỉ có một quan tâm duy nhất, đó là giải phóng các dòng sống để họ có thể tiến bước trong tiến trình tự thăng vượt bản thân. Điều này có nghĩa là nếu họ đã thực sự thăng vượt một mức tâm thức nào đó thì họ sẽ nhận được sự trợ giúp để quân bình nghiệp quả rất mau chóng. Trong một vài trường hợp, thậm chí một chân sư thăng thiên có thể gánh vác và quân bình dùm nghiệp quả cho người đó, hay nói cách khác, vô hiệu hóa những xung lực năng lượng cấu tạo nên nghiệp chướng.

Hiển nhiên, một điều tương tự cũng áp dụng cho những dòng sống không thể hiện thân trên hành tinh vật lý mà sẽ đi vào cõi trung giới, tức là cõi của tình cảm. Có những dòng sống gắn bó với địa cầu, và cũng có những dòng sống gắn bó với những hành tinh khác bị kẹt trong cõi tình cảm này. Và ngay cả những người này vẫn có cơ hội chuyển vọt tâm thức mình một cách ngoạn mục.

Sự chuyển đổi tâm thức này chỉ có thể xảy ra một cách duy nhất mà thôi. Đây là những dòng sống đang học tập trong Trường đời Cay đắng, và những điều cay đắng sẽ ngày càng đắng cay hơn, bởi vì cõi tâm thức của họ là nơi tất cả mọi dòng sống khác có tâm thức thấp như họ cũng đang sinh sống, và mọi người bắt buộc sẽ va chạm, đụng độ với nhau. Vấn đề chỉ được giải quyết khi dòng sống đạt tới một điểm khi họ nói: “Thôi thế là đủ rồi, tôi không muốn cứ tiếp tục hoài như thế này nữa. Hãy cứu giúp tôi!” Khi cầu khẩn sự cứu giúp, dòng sống sẽ luôn luôn nhận được cứu giúp. Nếu họ sẵn sàng xem xét tâm thức mình và chuyển đổi tâm thức đó, thì một lần nữa, họ sẽ có thể vươn lên tương đối nhanh chóng, và thậm chí còn có thể quân bình một số rất lớn nghiệp chướng trong một thời gian ngắn hơn là nếu họ ở lại tâm thức thấp cũ.   

Con hiểu điều ta vừa nói chứ? Có nhiều người biết rõ là mình đang mang nghiệp quả và tìm cách quân bình nghiệp quả đó qua một số hành động vỏ ngoài. Chẳng hạn, nếu con là một tín đồ Cơ đốc giáo ngoan đạo hay một Phật tử thành tâm, luôn cư xử theo đúng các quy luật vỏ ngoài của tôn giáo mình, con sẽ không tạo thêm nhiều nghiệp quả mới như nếu con sống một cuộc đời ích kỷ, hiếu thắng. Nếu con tuân thủ một số quy tắc tu tập, như cầu nguyện hay tụng niệm, con có thể quân bình một số nghiệp quả. Tuy nhiên con sẽ không quân bình nhanh chóng như nếu con thực sự chuyển vọt tâm thức của con.

Điều ta muốn nói là con có hai cách đề quân bình nghiệp quả của con. Cách đầu là cách đường thẳng, con quân bình một cách lần hồi. Còn cách kia cách mạng hơn khi con thực hiện một cuộc cách mạng trong tâm thức mình, và như thế con có thể quân bình nhanh hơn vì con đã nâng tâm thức lên cao hơn hẳn cái tâm thức đã tạo nghiệp.

Ngay cả một dòng sống đang đi qua tiến trình có thể dẫn tới cái Chết Thứ nhì, tức là đang trình diện trước Tòa án Lửa thiêng, cũng sẽ được chỉ dẫn để làm sao chuyển vọt tâm thức mình đáng kể. Bất kỳ một dòng sống nào, dù cho tới giây phút chót, cũng có khả năng chuyển vọt tâm thức, quay đầu lại, nâng cao tâm thức mình và lấy quyết định mình sẽ thực sự mong muốn cải sửa. Không có gì là không thể tránh được, ngay cả trong tiến trình hay những giai đoạn chót của tiến trình dẫn tới cái Chết Thứ nhì.

Nhưng nếu dòng sống không lấy quyết định tự cải đổi và do đó sẽ bị xóa bỏ trong cái Chết Thứ nhì, thì nghiệp quả của dòng sống đó cũng sẽ được các chân sư thăng thiên xóa bỏ nhờ các thày có sẵn động lượng hướng thượng. Nói cách khác, nơi cõi thượng thăng có rất nhiều những đấng với động lượng hướng thượng mạnh mẽ khiến cho việc xóa bỏ nghiệp quả của một dòng sống đi vào cái Chết Thứ nhì không là một vấn đề quá lớn. Con có thể thấy một dòng sống, như Hitler chẳng hạn, đã tạo ra nghiệp quả khủng khiếp trong kiếp hiện thân chót của ông ta, nhưng thật sự địa cầu là một hành tinh khá nhỏ, và ngay cả lượng nghiệp quả to lớn nhất mà người ta có thể tạo ra cũng chỉ rất nhỏ so với động lượng hướng tượng vĩ đại của số đông các đấng thượng thăng.  

Động đất ở Trung quốc có là quả báo cho việc chiếm đóng Tây Tạng?

Hỏi: Thưa thày Giê-su, nữ diễn viên người Mỹ Sharon Stone đã đưa ra nhận xét trong liên hoan điện ảnh Cannes rằng trận động đất xảy ra gần đây ở Trung quốc [năm 2010] có thể là quả báo cho cách đối xử của chính quyền Trung quốc đối với dân tộc Tây Tạng. Xin thày cho biết quan điểm của thày về việc này. Ngoài ra, tại sao lời tuyên bố của cô Sharon Stone lại gây ra quá nhiều tức giận và chế nhạo đến vậy?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Trước tiên, hãy để ta nói cho thật rõ: Để có thể có một sự xoay chuyển trong tâm thức tập thể thì điều tuyệt đối cần thiết là những ai ở một địa vị được công chúng lắng nghe phải có can đảm lên tiếng, phải can đảm đưa ra những nhận xét tạo xốc hầu mọi người có thể suy nghĩ vượt ra khỏi hộp tư duy hiện thời. Trong nhãn quan này, thật không mấy quan trọng nếu các lời tuyên bố có thể được xem là chính đáng và thận trọng hay không – cho dù chúng có thể xác thực theo một nghĩa tối hậu nào đó. Bởi vì mục đích của lời tuyên bố là để lay chuyển mọi người, lay chuyển những ai có tâm chưa hoàn toàn khép kín để họ suy nghĩ một cách mới mẻ về một vấn đề.

Cho nên ta phải khen ngợi Sharon Stone và một số diễn viên danh tiếng khác như Richard Gere và Harrison Ford, đã có can đảm hỗ trợ đức Đạt lai Lạt ma cùng chính nghĩa của người Tây Tạng, đến độ họ phải chịu thiệt hại trong sự nghiệp cùng thu nhập của họ. Thật là một thực tế đáng buồn trên hành tinh này khi những ai có điều gì quan trọng để nói lên thường khó lòng được giới truyền thông lắng nghe, trong khi một số nhân vật nổi tiếng khác lại được báo chí đăng tải rầm rộ những lời nói nông cạn nhất. Vì vậy thật vô cùng cần thiết và đáng khen khi có những người đã đạt được tư thế nổi danh lên tiếng về một chính nghĩa có thể đem lại sự thay đổi.

Bây giờ hãy để ta trả lời câu hỏi, liệu trận động đất gần đây có phải là quả báo cho cách chính quyền Trung quốc đối xử với người Tây Tạng hay không. Trước hết, Sharon Stone đã can đảm bày tỏ công khai ý tưởng rằng một thảm họa thiên nhiên quả thực có thể là hậu quả của hành vi con người – một ý tưởng rất dễ đoán trước là cô ta sẽ bị người ta chế nhạo tại phương Tây. Bởi vì như Mẹ Mary có giảng, nhân loại rất cần thức tỉnh nhìn ra sự thật là có một mối liên hệ giữa trạng thái tâm thức loài người và các tai họa “tự nhiên”.

Tất nhiên một quốc gia có thể phải nếm mùi thiên tai do hành vi của kẻ lãnh đạo quốc gia đó, như được thấy qua ví dụ trận bão Katrina ở Hoa Kỳ [năm 2005]. Tuy nhiên trong trường hợp cụ thể này, thật không chính xác khi bảo rằng trận động đất này là quả báo cho cách hành xử của Trung quốc chống lại Tây Tạng. Đây là một trường hợp mà cô Sharon Stone, mặc dù ý định của cô rất tốt, đã quá chú mục nhìn thế giới từ góc cạnh của cô và đặt dân tộc Tây Tạng ở ngay trung tâm cái nhìn đó.

Sự thật là trận động đất gần đây ở Trung quốc không phải là quả báo cho cách hành xử của chính quyền đối với dân tộc Tây Tạng mà đối với một tập thể khác – một tập thể thường bị phương Tây lãng quên khi nhìn vào Trung quốc. Và nếu con bị khó khăn không nhận diện ra tập thể này, thì điều đó càng chứng minh điểm ta muốn nói. 

Sự thật là trận động đất vừa rồi là nghiệp báo cho cách đối xử của chính quyền Trung quốc đối với chính dân tộc Trung quốc!

Hiển nhiên chính quyền Trung quốc đã đàn áp người dân Tây Tạng, nhưng chẳng phải là họ cũng đã đàn áp chính nhân dân họ ở cùng một mức độ hay sao? Liệu người dân Trung quốc không xứng đáng được thương xót và giúp đỡ một cách bình đẳng để họ tự do hay sao?

Nếu điều này đã rõ thì ta sẽ nhận xét thêm về câu hỏi, liệu có bất công hay không khi người dân Trung quốc phải hứng chịu hậu quả những hành vi của chính quyền họ – khi chính quyền này áp bức họ. Thực tế là ở mọi quốc gia, chính quyền là sự thể hiện của tâm thức quần chúng. Cho nên một nước không thể có chính quyền áp bức trừ khi trong tâm thức quần chúng cũng có một xu hướng phục tùng, không chịu lãnh trách nhiệm về cuộc sống của mình lẫn về đất nước của mình.

Do đó ngay cả ở các quốc gia độc tài nhất vẫn có một mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa kẻ cai trị áp bức và quần chúng chấp nhận áp bức. Chỉ khi nào có một túc số tới hạn những con người quyết định nhận lãnh trách nhiệm về vận mạng của mình – và họ vươn lên cao hơn cái tâm thức đã khiến cho kẻ áp bức nắm được chính quyền – thì mới có một sự xoay chuyển quyết định trong hình thức chính quyền.

Và chót hết, ta sẽ nhận xét thêm về lý do tại sao lời tuyên bố của Sharon Stone lại gây ra nhiều tức giận tại Trung quốc và nhiều chế nhạo tại phương Tây đến như vậy. Lý do thật giản dị là vì ở cả hai vùng này của thế giới, có một tỷ lệ rất cao đã được nuôi dạy trong triết lý duy vật, một triết lý phản tâm linh. Theo đó, con người có thể tránh né hậu quả việc làm của mình, hoặc hành động của một người không có hậu quả gì hết ngoại trừ những gì thấy được ngay lập tức.

Như thày Maitreya có giải thích trong sách của thày [Master Keys to Spiritual Freedom], việc phủ nhận hậu quả như vậy là sự biến thái tha hóa cùng cực của quyền tự quyết. Thượng đế đã cho phép địa cầu – do độ dày đặc của vật chất ở đây – trở thành một hành tinh nơi con người có thể phủ nhận sự hiện hữu của ngài, và qua đó cũng phủ nhận các định luật của ngài. Điều này là để cho phép những dòng sống nào muốn tách biệt khỏi Thượng đế có cơ hội làm như vậy, với hy vọng là rốt cuộc họ sẽ chán chê chuyện đó và quay trở về với thực tại.

Thế nhưng một số những người đó đã tự thuyết phục mình – và cũng đang nỗ lực thuyết phục mọi người khác trên địa cầu – rằng thật ra không có Thượng đế, cho nên họ mới có cái mà họ tưởng là tự do tối hậu, tức là tự do làm bất cứ gì họ muốn mà không phải gánh chịu bất kỳ hậu quả nào. Tuy nhiên như thày Maitreya giải thích, nếu không có hậu quả thì cũng không có quyền tự quyết, bởi vì nếu chọn lựa của con không mang lại hậu quả thì kỳ thực con đã không chọn lựa gì hết.

Vì vậy thực tế trên địa cầu là sẽ có một thành phần trong quần chúng bác bỏ kịch liệt sự kiện hành vi của con người có thể đem lại hậu quả cho thân thể của hành tinh, hoặc hành tinh có thể đáp trả lại hành vi của con người qua các thiên tai. Những người đó sẽ chế nhạo một cách ác độc bất cứ ai lên tiếng phản đối thế giới quan ích kỷ và tương đối của họ, và họ càng ích kỷ bao nhiêu thì sự chế nhạo sẽ càng cuồng nhiệt bấy nhiêu. Bởi vì CHỈ CÓ lòng ích kỷ mới có thể khiến cho con người từ chối xét xem hành động hay trạng thái tâm thức của mình có thể đem lại hậu quả tác động đến những thành phần khác của sự sống. Tất nhiên, chỉ có lòng ích kỷ đã khiến cho các dòng sống đó muốn tách rời khỏi Thượng đế cùng Thân thể của ngài.

Nhưng những ai đã bắt đầu khắc phục được lòng ích kỷ của mình cũng đã bắt đầu nhìn ra là mọi người trên trái đất đều là một phần của cùng một tổng thể rộng lớn, cho nên họ đang vượt ra khỏi tâm thức của Cain để nhìn nhận rằng quả thực họ là người canh giữ cho anh em mình. Và do đó, thật là chính đáng để có một phong trào “Tây Tạng tự do”, nhưng cũng chính đáng không kém là có một phong trào “Trung quốc tự do”. Bởi vì nếu con có thể giải phóng dân tộc Trung quốc khỏi cái tâm thức áp bức-phục tùng kia, thì con có nghĩ là vấn đề Tây Tạng cũng sẽ được giải quyết cùng một lượt hay không?

Về khía cạnh này, điều vô cùng quan trọng là người tâm linh cần nâng cao cách hiểu của mình về nghiệp quả để vượt ra khỏi truyền thống xem nghiệp quả là sự trừng phạt. Nếu con có một quả bóng và cứ thổi thêm hơi vào quả bóng thì cuối cùng nó sẽ nổ tung, nhưng liệu quả bóng nổ có phải là sự trừng phạt của một Thượng đế tức giận hay không? Không. Kỳ thực nhân loại đang không ngừng đổ thêm năng lượng ở tần số thấp vào trường năng lượng của thân thể hành tinh, và một khi áp suất trở nên quá lớn thì một cái gì đó phải nổ tung để giải áp. Vì nếu áp suất không được giảm bớt một cách lần hồi qua các pháp tu tâm linh – ví dụ như các bài chú hay bài thỉnh của Mẹ Mary – thì nó sẽ bùng nổ dữ dội và nhiều người sẽ bị thiệt hại.

Và mặc dù người ta có chiều hướng chú tâm vào những thiệt hại cho con người, đây vẫn không phải là một sự trừng phạt. Đây chỉ là kết quả không thể tránh khỏi của hành vi con người. Và vì vậy nghiệp quả luôn luôn là một vị thày – nghiệp quả chỉ duy nhất là một vị thày. Nghiệp quả là một nỗ lực nhằm dạy dỗ con người rằng mọi hành động, kể cả những “hành động” tâm lý, đều mang hậu quả. Cho nên luôn luôn có sự mong mỏi là một khi con người nếm mùi hậu quả thì họ sẽ thức tỉnh, sẽ nhận lãnh trách nhiệm về bản thân mình và quyết định thay đổi.

Tất nhiên trong nhiều trường hợp, chính cái tâm thức đã khiến cho con người tạo nghiệp sẽ ngăn cản họ thấy được nghiệp báo như một bài học. Khi nào con người còn bịt tai không muốn nghe các vị thày tâm linh của mình, thì không còn cách nào khác để dạy cho họ ngoài việc cho phép họ gặt hái nghiệp báo – hết lần này tới lần khác cho đến khi họ bắt đầu tự hỏi: “Không hiểu có cách nào khác hay hơn chăng? Có phải chính tôi là người phải thay đổi? Đâu là cái xà trong mắt tôi mà tôi chưa nhìn thấy?”

AIDS có phải là hình phạt của Thượng đế không?

Hỏi: AIDS có phải là hình phạt của Thượng đế đối với người đồng tính hay không, như một số nhà truyền đạo cực chính thống tuyên bố? Con không nghĩ đó có thể là hình phạt, nhưng phải chăng Hội đồng Nhân quả đã quyết định để cho AIDS thị hiện hầu dạy cho con người một bài học về tình dục?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Con nói đúng khi con bảo AIDS không phải là hình phạt của Thượng đế. Hình ảnh một Thượng đế nóng giận và trừng phạt là một thần tượng đã được phóng chiếu vào Thượng đế vào thời Kinh Cựu ước, như ta đã giải thích ở một nơi khác. Đó là một hình ảnh giả dối, và do đó nó cũng vi phạm điều răn thứ nhì. Thượng đế chân thực là một Thượng đế của tình thương vô điều kiện. Ta đã đến địa cầu một phần là để trao cho loài người một hình ảnh mới về ngài, tức là hình ảnh một người Cha nhân từ mà mọi người đều có khả năng tiếp xúc trực tiếp.

Khi ta nói mọi người “Hãy yêu thương Chúa, Thượng đế của con, với trọn con tim, trọn tâm hồn và trọn tâm trí” (Matthew 22:37), trong cốt yếu ta muốn bảo mọi người hãy bỏ lại đằng sau hình ảnh cũ về một Thượng đế nóng giận. Làm sao con có thể yêu được một Thượng đế nóng giận sẵn sàng trừng phạt con vì một lỗi lầm dù nhỏ nhặt nhất?

Chẳng phải nói, ta buồn vì có quá nhiều tín hữu đạo Cơ đốc ngày nay vẫn còn bám giữ một hình ảnh về Thượng đế đã lỗi thời từ 2000 năm qua, lại còn đối nghịch trực tiếp với hình ảnh mà ta giảng dạy. Ta càng buồn hơn khi thấy quá nhiều tín hữu Cơ đốc sử dụng hình ảnh giả dối này để phán xét và lên án đồng loại của mình. Và ta buồn hơn nữa vì ta biết Luật của Thượng đế không thể bị nhạo báng, cho nên các tín hữu đó sẽ không tránh khỏi bị phán xét theo cùng tiêu chuẩn mà họ đã phán xét người khác.

Như ta đã giải thích suốt trang mạng này, Thượng đế đã tạo ra một quy luật cơ học sẽ gửi trả lại cho con mọi năng lượng mà con gửi vào vũ trụ. Điều này được ghi rõ trong Kinh thánh: “Con đừng bị dối gạt; Thượng đế sẽ không bị nhạo báng, vì người ta gieo gì thì sẽ gặt nấy” (Galatians 6:7). Có thể nói vũ trụ vận hành như một tấm gương phản chiếu lại cho con bất cứ điều gì con làm cho người khác. Đó chính là lý do ta đã dạy con: Hãy làm cho người khác những gì con muốn vũ trụ làm cho con.

Do đó, AIDS là một sản phẩm của nghiệp quả loài người, kết quả của việc họ không ngừng tha hóa năng lượng của Thượng đế. Trong trường hợp ở đây, sự tha hóa năng lượng xảy ra qua tình dục, và đó là tại sao nó được phản chiếu lại dưới hình thức một chứng bệnh lây truyền qua đường tình dục. Đặc biệt, việc tha hóa năng lượng dẫn tới bệnh AIDS đã xảy ra qua sự chung chạ bừa bãi, qua đó ta muốn nói đến quan hệ tình dục hoàn toàn với mục đích thỏa mãn các loại cảm xúc thấp kém (vị kỷ) mà không dựa trên cảm xúc sâu xa hơn là tình thương (vị tha).

Thật ra, dạng sinh hoạt tình dục này xuất phát từ lòng khinh rẻ đối với thánh đường xác thân, không xem đó là món quà của Thượng đế, một cỗ xe để giúp dòng sống giải thoát khỏi vũ trụ vật chất. Nó sẽ chỉ buộc chặt dòng sống hơn vào vũ trụ vật chất. Kỳ thực, nhiều người tham gia vào sinh hoạt tình dục thiếu tình thương như vậy mang một nỗi oán giận đối với xác thân mà thường thường họ không nhận ra. Và bởi vì xác thân con người được tạo bằng năng lượng của Mẹ – Ánh sáng Mẫu-Vật – cho nên đó cũng là nỗi oán giận đối với Mẹ. Đây là cùng nỗi oán giận đã khởi đầu với sự sa ngã của Lucifer, như Mẹ Mary đã giải thích trong bài giảng của thày.

Khi thật nhiều người không ngừng tham gia vào một sinh hoạt tha hóa năng lượng, sự căng thẳng sẽ ngày càng chồng chất. Con có thể so sánh với nước dâng lên đằng sau con đập. Nước tạo áp lực trên đập và cuối cùng đập sẽ vỡ ở điểm yếu nhất của nó. Đây chỉ đơn giản là một tiến trình cơ học, và nếu con biết rõ áp suất cùng các nhược điểm trên đập, con có thể tính trước khi nào và ở điểm nào nước sẽ xối vào.

Sức căng thẳng của nghiệp quả cũng giống như vậy, nó gia tăng và chồng chất khi có nhiều người sống chung chạ. Hiển nhiên chuyện này đã tiếp diễn ra từ rất lâu, cho nên có một lượng nghiệp quả to lớn đã tới hạn xuất hiện vào cuối Thời đại Song ngư. Nghiệp quả phải được cân bằng trước khi nhân loại có thể nhảy vọt vào tâm thức của Thời đại Bảo bình, và đó là tại sao bệnh AIDS đã xuất hiện vào thời điểm đó. Trong mấy chục năm qua và bắt đầu từ thập niên 1960, đã có một sự gia tăng trong tình dục chung chạ cùng nhiều hình thức đồi bại tình dục, như hình ảnh khiêu dâm, nô lệ tình dục, xâm hại tình dục trẻ em, v. v…

Tất cả những thứ đó đã tạo sự căng thẳng, bắt đầu trong cõi cảm xúc ở ngay trên cõi vật lý về độ rung. Ta đã giải thích điều này chi tiết hơn ở một nơi khác. Khi căng thẳng đạt đến mức tới hạn, nó bắt đầu đột nhập vào cõi vật chất, và đó là khi con chứng kiến một số sự kiện vật lý, như trong trường hợp này là các đợt bùng phát đầu tiên của virus AIDS. Đương nhiên, cũng giống như đập nước, đợt bùng phát đầu tiên xảy ra nơi những điểm yếu nhất, và trong trường hợp này, đó là những khu vực nơi năng lượng tình dục đang bị lạm dụng.

Ta chắc chắn hầu hết những ai không thiên vị đều biết là lối sống chung chạ khá phổ biến trong cộng đồng người đồng tính nam cũng như tại nhiều vùng châu Phi, Sự thật là Thượng đế không hề có ý định trừng phạt một nhóm người nào, và cũng không hề có sự phán xử dựa trên chủng tộc hay xu hướng tình dục. Đơn giản chỉ có một tác động máy móc khi căng thẳng nghiệp quả đạt tới một cường độ nào đó thì nó sẽ xuất hiện trong đời sống những ai dễ bị tổn thương nhất bởi dạng quả báo này. Trong trường hợp ở đây, nguyên nhân gây ra tiềm năng tổn thương là sự từ chối hạn chế các sinh hoạt tình dục chung chạ. Tại châu Phi lẫn trong cộng đồng người đồng tính nam, có những tin tưởng văn hóa cho rằng tình dục chung chạ không mang hậu quả tiêu cực nào. Người ta bịt tai không chịu lắng nghe nhiều lời cảnh báo từ cả khoa học lẫn tôn giáo cho thấy mọi hành động đều mang hậu quả.

Con có đề cập đến Hội đồng Nhân quả. Đây là nhóm các sinh thể thăng thiên trông coi sự phát triển tâm linh của nhân loại với nhiệm vụ giúp cho con người giải thoát khỏi lực kéo hướng hạ do nghiệp quả của họ. Con nên cẩn thận đừng ghép hình ảnh Thượng đế nóng giận cho Hội đồng Nhân quả. Kỳ thực, các thành viên của Hội đồng không định đọat ai sẽ là người nhận nghiệp quả nào và vào thời điểm nào. Điều đó do một định luật hoàn toàn cơ học quy định.

Điều Hội đồng Nhân quả có thể làm là gác lại một phần nghiệp của một cá nhân hay một nhóm người để tạo cơ hội cho họ phát triển tâm linh. Nói cách khác, nếu có ai đó tỏ ra thật sự sẵn lòng cải hóa trong chiều hướng tích cực nhưng lại có nghiệp báo sắp sửa cản trở bước tiến của họ, thì Hội đồng Nhân quả có khả năng gác lại nghiệp đó cho tới mùa sau. Điều này sẽ cho phép người đó tích tụ nghiệp tốt – là điều mà ta gọi là “cất giữ của cải trên trời” (Matthew 6:19-20) – để giúp họ trả quả dễ dàng hơn. 

Thế nhưng Hội đồng Nhân quả không quyết định điều này một cách tùy tiện. Tất cả được định đoạt dựa trên khả năng của dòng sống có sử dụng được cơ hội đó hay không. Nói cách khác, Hội đồng Nhân quả lượng định xem đâu là tiềm năng lớn nhất để trợ giúp sự phát triển tâm linh của dòng sống. Nếu họ sẵn sàng thay đổi thì việc gác lại một phần nghiệp chướng thường là cách tốt nhất để giúp họ. Nhưng nếu họ không sẵn lòng thay đổi, việc cho phép họ trải nghiệm hậu quả của nghiệp chướng thường là giải pháp duy nhất để đánh thức cho họ mở mắt ra với thực tại cuộc sống, tức là để họ hiểu ra là họ sẽ gặt hái những gì họ gieo.

Trong trường hợp bệnh AIDS, chuyện đơn giản xảy ra là đã không có đủ túc số những người sẵn lòng thay đổi thái độ của mình để dẫn đến quyết định gác lại nghiệp quả. Sự thể này cũng tương tự như khi Sodom và Gomorra bị hủy diệt (Sáng thế 18). Câu chuyện này trong Kinh thánh kể lại sự kiện có dân tộc kia gây ra một nghiệp chướng rất nặng nề do lạm dụng năng lượng tình dục – năng lượng này chính là lực sống, cho nên nó tạo nghiệp to lớn khi bị lạm dụng. Nghiệp mãnh liệt đến độ nó chực tràn vào cõi vật chất.

Abraham được Hội đồng Nhân quả giao trách nhiêm làm sứ giả. Ông khẩn khoản Hội đồng hãy gác lại nghiệp quả cho thành phố nếu ông tìm được đủ số người công chính. Như con có thể đoán được từ câu chuyện, Hội đồng Nhân quả đã có thể “tha thứ” cho thành phố đó nếu có đủ túc số người công chính. Nhưng khi không tìm ra số người đó thì Hội đồng không có lý do gì đình chỉ nghiệp báo. Định luật nghiệp quả – định luật của hành động và phản ứng – đòi hỏi năng lượng phải được phép chảy theo dòng tự nhiên của nó, và các thành phố đó đã bị thiên tai tiêu diệt tan tành. Ta không nói là mọi khía cạnh của câu chuyện trên đều chính xác trong nghĩa đen, nhưng nó chứa đựng một sự thật tiềm ẩn về cách nghiệp quả phản hồi như thế nào.    

Thời nay, một lần nữa lại có nghiệp quả được phản hồi do việc lạm dụng năng lượng tình dục. Tuy nhiên nó không tập trung tại một hai thành phố mà là một vấn nạn toàn cầu. Cho nên lực nghiệp phản hồi đã khoác vào hình dạng một chứng bệnh lan truyền qua đường tình dục – và tất nhiên, nó chỉ có thể lây truyền bởi những ai chung chạ tình dục.

Ta cũng muốn nói thêm rằng virus thật ra không phải là một tạo vật của Thượng đế. Thượng đế không bao giờ tạo ra bất kỳ loại virus nào. Mọi virus đều được tạo ra một cách “nhân tạo” trong các phòng thí nghiệm của tà lực ngụ nơi cõi cảm xúc hay cõi trung giới. Rồi virus có thể được chuyển vào cõi vật chất tại những khu vực nơi độ rung đã xuống thấp đến nỗi cả khu vực rung động ở cùng tần số với cõi trung giới – và đó là một số vùng ở châu Phi cùng một số thành phố lớn nơi năng lượng tình dục bị lạm dụng trầm trọng. Một khi virus đã xâm nhập vào cõi vật chất, nó có thể lây lan qua các phương tiện vật chất, mặc dù chỉ những ai mang nghiệp lực tiềm tàng mới mắc bệnh.

Tuy nhiên trong trường hợp AIDS, ta phải nói với con là virus đã băng qua lằn ranh vật lý trước tiên tại một số phòng thí nghiệm bí mật, sau đó nó đã lây lan phần nào do một cuộc thử nghiệm không kiểm soát. Hiển nhiên, những người làm chuyện này bị đui mù bởi nghiệp chướng và lòng kiêu hãnh cho nên họ dễ rơi vào vòng khuynh đảo của tà lực. Nguyên vụ này sẽ không xảy ra nếu nhân loại đã không tạo ra nhược điểm nghiệp quả, nghĩa là không có lý do gì để đổ lỗi cho những ai đã trở thành công cụ cho virus AIDS vượt hàng rào. Họ chỉ là điểm hội tụ của nghiệp chung, và con virus đã có thể băng qua bất kể. Kỳ thực, virus đã băng qua và xâm nhập vào cõi vật chất ở nhiều địa điểm khác nhau, có nghĩa là toàn bộ dịch bệnh này không khởi phát từ một nguồn gốc vật lý duy nhất.      

Vậy làm thế nào để tự bảo vệ khỏi virus này? Rõ ràng, thay đổi cách hành xử của mình là cách bảo vệ tốt nhất. Chấm dứt mọi quan hệ tình dục chung chạ, sau đó vươn lên và thay đổi thái độ của mình đối với tình dục, tìm cách chữa lành tâm lý cho không còn bất kỳ nỗi oán giận vô thức nào đối với ánh sáng của Mẹ. Như ta vừa nói, virus lây lan là một tiến trình cơ học khi lực căng thẳng nghiệp chướng điều khiển cơ chế virus tìm ra điểm yếu nhất trong xã hội. Cho nên con cần chắc chắn con không là một trong số các điểm yếu đó qua cách hành xử và thái độ tình dục của mình.

Tất nhiên, con cũng có thể dùng bài nguyện tràng hạt cho Đại thiên thần Michael để tự niêm mình lại khỏi các năng lượng tình dục tha hóa, và bài nguyện tràng hạt cho Mẹ Mary để tẩy sạch trường năng lượng của con và biến hóa các nghiệp chướng cũ. Tuy nhiên, những biện pháp đó chỉ hiệu quả tối đa nếu con thực lòng muốn cải sửa cách hành xử và thái độ của con. Nói cách khác, con hãy cho Hội đồng Nhân quả lý do tốt nhất để Hội đồng gác lại bất kỳ nghiệp quả nào có thể khiến con mắc bệnh AIDS. Các biện pháp nói trên cũng có thể giúp cho những ai đã nhiễm HIV tránh không biểu hiện các triệu chứng của căn bệnh, và nó cũng có thể giảm bớt các triệu chứng đã mắc phải. Điều ta muốn nói là – như mọi chứng bệnh khác – quả là có một cách trị liệu tâm linh cho bệnh AIDS.

Thuyết luân hồi có thể giúp các tín hữu đạo Cơ đốc như thế nào

Hỏi: Tại sao việc suy nghiệm thuyết luân hồi quan trọng đối với người đạo Thiên Chúa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Ta sẽ đề cập đến quan niệm luân hồi vì ta muốn tất cả các tín hữu của ta suy nghiệm về đề tài này. Hãy cho phép ta đưa ra những lý do tại sao ta xem đề tài này là quan trọng.

Thuyết luân hồi có khả năng giải thích rất nhiều những câu hỏi mà người tín đồ  Cơ đốc cho đến nay đã không tìm được câu trả lời. Nếu con suy ngẫm về khái niệm này và nghiệm xem nó áp dụng thế nào cho những vấn đề mà con đang đặt ra về cuộc sống và về Thượng đế, con sẽ tìm ra rất nhiều trả lời trong tim con.

Khi ta nhìn đạo Cơ Đốc ngày nay, ta nhìn thấy bao nhiêu người mộ đạo đã  thành tâm nỗ lực thực hành những lời dạy của ta qua trung gian các kinh sách và những giáo hội công truyền, vỏ ngoài. Tuy nhiên, vì kinh sách công truyền không chứa đựng chìa khóa cho giáo lý tâm truyền của ta, họ đã đặt ra rất nhiều câu hỏi không mang lời giải đáp. Vì những câu hỏi không có giải đáp này mà nhiều người cảm thấy một nỗi oán giận, phẫn uất rất sâu xa, mà nhiều khi chính họ cũng không nhận ra, đối với ta và đối với Thượng đế.  

Nhiều tín đồ Cơ đốc cảm thấy sứ mạng của Giê-su Ki-tô thuở xưa giống như một cái tát vào mặt nhân loại. Lý do là vì đạo Cơ đốc chính thống đưa ra một mục tiêu cho mọi người nhưng lại không có con đường rõ ràng nào để đạt được mục tiêu đó. Đạo Cơ đốc chính thống đưa ra mục tiêu là sự sống vĩnh cửu, nhưng lại không đưa ra con đường hợp lý nào để thực hiện sự sống vĩnh cửu. Ta hy vọng là nay con có thể nhận ra lý do chủ yếu khiến đạo Cơ đốc chính thống không đưa ra được một con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu là vì các lời dạy về quả vị Ki-tô cá nhân đã bị cắt bỏ. Chìa khóa duy nhất cho sự sống vĩnh hằng là quả vị Ki-tô nơi mỗi cá nhân.  

Để trở về với ý tưởng luân hồi, ta muốn nói là ý tưởng này có thể giúp con trả lời nhiều câu hỏi mà con chưa có giải đáp. Chẳng hạn, nhiều người đều biết là có những đứa trẻ sinh ra đã mang sẵn tật nguyền trầm trọng, dù là một khuyết tật vật lý, tình cảm hay tâm thần.

Nếu con không tin vào luân hồi, con chỉ có một chọn lựa là suy luận rằng Thượng đế đã muốn cho dòng sống đó sinh ra như vậy. Và con không khỏi phân vân tại sao Thượng đế lại muốn cho một dòng sống bước vào đời – mà dường như là cuộc đời duy nhất mà đứa bé đó sẽ trải nghiệm – với tật nguyền khắc nghiệt như thế. Khi con thêm vào đó ý niệm trừng phạt mà giáo hội chính thống chủ trương thì con chỉ còn cách suy diễn là có lẽ Thượng đế đã muốn trừng phạt dòng sống đó hay chăng. Thế nhưng làm thế nào một Thượng đế công bình bác ái lại có thể trừng phạt một dòng sống chưa có cơ hội nào để phạm tội?   

Khi con chấp nhận quan niệm luân hồi, con thấy được một lời giải thích. Mỗi con người đều đã từng có những kiếp sống trước đây. Cho nên những điều kiện mà con phải trải nghiệm trong đời này là kết quả của những nguyên nhân mà chính cá nhân con đã khởi động trong những kiếp trước. Hiểu đúng nghĩa của nó, trong luân hồi không hề có quan niệm trừng phạt. Hãy để ta giải thích chi tiết hơn cho con.

Khi Thượng đế tạo ra thế gian, ngài phán: “Hãy có ánh sáng”. Ánh sáng chỉ đơn giản là năng lượng. Mọi thứ trong toàn thể vũ trụ hình tướng được tạo bằng năng lượng của Thượng đế. Cho nên mọi việc con làm, con đều làm với năng lượng của ngài.

Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết, và con có thể quyết định mình muốn làm gì với năng lượng của ngài. Tuy nhiên, thật không công bình chút nào nếu ngài tạo ra một vũ trụ trong đó mọi người đều có quyền tự quyết, tự do làm bất cứ gì mình muốn bất chấp hậu quả cho người khác. Vì vậy Thượng đế cũng đã tạo ra luật nhân quả. Luật này này quy định rằng năng lượng mà con gửi ra vũ trụ sẽ bắt buộc gửi trở lại cho con.

Luật nhân quả là một định luật hoàn toàn khách quan. Nó cũng khách quan y như luật hấp dẫn, hay trọng lực. Nếu con nhảy ra khỏi chiếc máy bay mà không đeo dù, trọng lực sẽ khiến con rơi xuống mặt đất và toi mạng. Cái chết của con không phải là sự trừng phạt của một Thượng đế nóng giận đâu. Cái chết của con là hậu quả khách quan của một định luật thiên nhiên khiến cho mọi vật đều rơi xuống mặt đất. Luật nhân quả – hay luật nghiệp quả như nó mang tên ở phương Đông – không được Thượng đế đặt ra để mong trừng phạt con người. Nó được tạo ra như một cơ chế an toàn để ngăn chặn việc lạm dụng quyền tự quyết.

Kỳ thực, luật nhân quả là một vị thày thế chân, tạm thay thế cho vị thày chính. Vườn Địa đàng (vườn Eden) xưa kia là một lớp học được thiết lập để chuẩn bị cho dòng sống của con trước khi con bước vào đời sống trong vũ trụ vật chất. “Thượng đế” được nói đến trong Vườn Địa đàng không phải là Thượng đế trong ý nghĩa tối hậu, mà là một vị đại diện của Thượng đế, chính xác là một sinh thể tâm linh đã tình nguyện nhận lãnh vai trò làm thày giáo cho lớp học. Nhưng một số dòng sống, sau khi ăn trái cấm, đã rủ nhau lẩn trốn vị thày của mình.

Khi Thượng đế sinh tạo vũ trụ, ngài mong muốn tất cả mọi dòng sống luôn luôn là một phần của hệ thống thứ bậc trải dài từ cao đến thấp trong quan hệ thày-trò, sư phụ-đệ tử. Nói cách khác, không một dòng sống nào có thể bị bỏ rơi phải tồn tại một mình, mà ngược lại mọi dòng sống đều nhận được sự hướng dẫn thương yêu của một vị thày tâm linh. Tuy nhiên Thượng đế cũng ban cho mọi dòng sống quyền tự quyết, và ngài thừa biết một số dòng sống có thể sẽ sử dùng quyền tự do này để quay lưng lại thày mình, vì vậy mà phải có một cơ chế nào đó giống như một người thày thế chân để có thể tiếp tục giáo huấn.

Nếu một dòng sống chối bỏ vị thày tâm linh thì làm thế nào nó có thể học hỏi? Thật vậy, nó có thể học hỏi qua luật nhân quả. Luật này quy định rằng vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là một tấm gương, phản chiếu lại cho con tất cả những gì con gửi ra vũ trụ.

Nếu con gửi hận thù ra vũ trụ, năng lượng hận thù sẽ được gửi trả về ngay cửa nhà của con. Nếu con gửi tình thương ra vũ trụ, vũ trụ sẽ gửi lại tình thương cho con. Nếu Vườn Địa đàng là mái trường của giáo huấn yêu thương và tâm linh, thì luật nhân quả là mái trường giáo huấn của trường đời cay đắng. Đó là tại sao kinh Cựu ước đòi hỏi phải trả một con mắt bằng một con mắt, một cái răng bằng một cái răng. Quy luật này được ban ra cho những ai có tâm thức thấp kém đến độ họ không thể hiểu được một quy luật nào cao hơn.

Luật nhân quả được thiết lập hầu dạy con cách cư xử trong thế gian bằng cách khiến con phải trải nghiệm hậu quả của chính hành vi của con. Khi con có hành vi nào đó, hành vi của con sẽ kích hoạt một phản ứng dây truyền. Hành vi của con gửi một xung lực năng lượng ra vũ trụ, và năng lượng này sẽ nhất định gửi trả lại cho con. Tuy nhiên, vì cách vận hành của vũ trụ vật chất – mà một ngày nào đó khoa học sẽ giải thích được – năng lượng phải mất thời gian để gửi trả về cho con. Giả tỷ con giết người nhưng không ai tìm ra con là thủ phạm thì con sẽ không bị trừng phạt ngay trong cõi thế gian này. Rồi con sẽ qua đời do tuổi già mà không phải chịu bất cứ hậu quả nào của việc con làm. Nếu con chỉ sống đúng một kiếp thôi thì, quả nhiên, con đã thoát được tội giết người.  

Nói cách khác, nếu mọi người chỉ có một kiếp sống trên địa cầu thì Thượng đế đã cung cấp một lợi thế bất công cho những ai sẵn lòng nói dối và lừa đảo. Nếu con là kẻ gian dối, con có thể thoát khỏi hình phạt của tội lỗi ghê hồn nhất nếu không có ai phát hiện con là thủ phạm. Qua luật nhân quả, Thượng đế đã chỉnh sửa lại tiềm năng bất công này. Ngài đã đảm bảo không một ai có thể thoát được hậu quả việc làm của mình. Chỉ có điều là trong hầu hết các trường hợp, con sẽ không phải nếm mùi những hậu quả đó cho đến khi con tái đầu thai trong những kiếp sau.

Nhưng người ta có thể lập luận là việc trì hoãn hậu quả như vậy sẽ khiến cho con người khó học được bài học nhân quả hơn. Nếu vũ trụ có thể, chẳng hạn, giáng xuống một tia sét nẩy lửa mỗi lần có ai phạm tội thì có phải tốt hơn không? Nhưng cách lập luận này chỉ có thể áp dụng nếu con không hiểu biết gì về luật nhân quả. Và sự thiếu hiểu biết này không bao giờ là ý định của Thượng đế.

Thượng đế mong muốn con người hiểu rằng con người không bao giờ thoát khỏi hậu quả hành vi của mình. Hơn nữa, nếu con chỉ có một kiếp sống trên địa cầu và nếu mỗi lần con làm một điều gì khiến vũ trụ phải giết con chết, thì có phải là vũ trụ đã tước mất cơ hội học hỏi của con không? Và đó là lý do Thượng đế đã tạo ra một phản ứng chậm trễ, và kỳ thực, ngài làm vậy do lòng từ bi. Con thấy không, sự kiện nghiệp quả của con phải mất thời gian để bay ngược về con là một phương cách để Thượng đế, trong lòng từ bi và hồng ân của ngài, mở ra cho con cơ hội để con không phải hứng chịu hậu quả hành vi của mình.

Để hiểu trọn điểm này, con cần bỏ lại cái ý tưởng phàm phu muôn thuở cho rằng Thượng đế là một Thượng đế nóng giận có ý muốn trừng phạt con mỗi lần con vi phạm quy luật của ngài. Trên thực tế, ngài là một Thượng đế yêu thương muốn thấy con phát triển tâm Ki-tô của con. Ngài chỉ có một mong muốn mà thôi, là nhìn thấy con học được bài học của đời sống. Khi ngài trì hoãn hậu quả việc làm của con, ngài mở ra cho con khả năng là con sẽ thực sự học được bài học, từ bỏ cái trạng thái tâm thức đã khiến con làm điều sai trái, rồi nhờ đó con không phải gánh chịu hậu quả hành vi đó.

Ngay khoảnh khắc con làm việc gì sai trái, con gửi một xung lực năng lượng ra vũ trụ. Tuy nhiên, nếu con hoàn toàn hiểu ra là hành vi của mình là sai trái, và vì thế con vươn lên một mức tâm thức cao hơn khiến con không thể tái phạm, thì tuyệt đối không có ích lợi gì mà con phải hứng chịu hậu quả của hành vi. Thượng đế không muốn con bị trừng phạt mà chỉ muốn con học hỏi.

Nếu con đã học được bài học rồi thì chẳng còn lý do gì giữ con lại, ngăn cản sự phát triển của con bằng cách bắt con phải gánh chịu một hậu quả đau khổ. Nói cách khác, nếu con học được bài học của con trước khi vũ trụ phản hồi xung lực năng lượng về con, thì Thượng đế qua hồng ân và lòng từ bi, có thể tiêu hủy xung lực đó trước khi nó đập vào con trong một kiếp sau. Trong nhiều trường hợp, ngài có thể cho phép một trong những người anh, người chị tâm linh của con gánh vác nghiệp quả đó giùm con.  

Tuy nhiên nếu con chưa học được bài học thì Thượng đế sẽ để yên cho vũ trụ đáp trả lại xung lực năng lượng của con, và như vậy con lại nhận được thêm một cơ hội nữa để học hỏi qua trường đời cay đắng.

Ta biết nhiều người sẽ bảo: “Nhưng làm sao người ta có thể học được từ một tai họa nếu hoàn toàn không biết đó là hậu quả của việc mình làm?” Đây là một quan tâm chính đáng, nhưng thật không liên quan gì đến Thượng đế cũng như cách ngài thiết kế vũ trụ. Ngài thiết lập luật nhân quả nhưng đồng thời ngài cũng ban ra rất nhiều tôn giáo để dạy dỗ con người về luật nhân quả. Nếu có những người không chịu nghe lời dạy của ngài về luật nhân quả thì đây không phải là trách nhiệm của ngài. Đó chỉ là hậu quả không thể tránh khỏi khi họ cứ tiếp tục lạm dụng quyền tự quyết của họ như vậy.

Điều Thượng đế mong muốn là mọi người được hưởng sự hướng dẫn trìu mến của một vị thày tâm linh. Khi có những người quay lưng lại vị thày tâm linh và đi xuống vũ trụ vật chất, ngài đã không bỏ rơi họ một mình. Ngài đã ban cho họ những lời dạy tâm linh để giảng giải những điều kiện mà họ phải đương đầu trong thế gian. Nếu họ quyết định bỏ qua các lời dạy này thì ngài không còn cách nào khác hơn là để yên cho luật nhân quả giữ vai thày giáo.

Ngài chỉ có thể hy vọng là con người sẽ một ngày tự hỏi tại sao bao nhiêu sự việc như thế lại xảy ra cho mình. Có thể một ngày nào đó, họ sẽ suy xét và nhận ra là chính hành vi của mình đã dẫn đến các điều kiện mình đang nếm trải. Có thể một ngày, con người sẽ hiểu ra là khi họ tự hủy hoại như vậy thì chính họ cũng nắm vận mạng của họ trong tay, rằng chính họ có khả năng chuyển đổi vòng xoắn ốc đang kéo họ đi xuống. Thượng đế không thể làm gì để thay đổi tình thế mà không vi phạm quyền tự quyết của mỗi người, và quyền tự quyết thì ngài sẽ luôn luôn tôn trọng.

Một lý do khác nữa khiến cho luật nhân quả là một vị thày hữu hiệu là một khi con người đánh mất liên lạc với vị thày tâm linh, họ chỉ có thể học hỏi qua kinh nghiệm bản thân mà thôi. Chẳng hạn, con hãy tưởng tượng một người sinh ra làm vua của một quốc gia ở Âu châu thời trung cổ. Nhà vua lạm dụng quyền thế và đối xử thật tệ bạc với thần dân. Ông sống trong xa hoa lộng lẫy trong khi người dân phải chịu cảnh nghèo đói khốn cùng. Ông sống trong cung điện hoành tráng và hoàn toàn không biết tới những nỗi đau khổ của dân chúng. Trong trường hợp này, dòng sống ông vua đó sẽ chẳng học hỏi được gì về hậu quả việc làm của mình.

Tuy nhiên, như luật nhân quả quy định, dòng sống ông vua kia sẽ phải trải nghiệm hoàn cảnh này từ thế đối diện trong một kiếp tương lai. Nói cách khác, ông ta sẽ phải sinh ra làm thần dân của một ông vua bạo ngược khác. Do phải sống và trải nghiệm trực tiếp hậu quả việc làm trước đây của mình, dòng sống nay có cơ hội học hỏi, và có thể nó sẽ quyết định từ bỏ trạng thái tâm thức kia đã khiến nó hành động ích kỷ.

Tất nhiên, một số dòng sống sẽ cực kỳ khó khăn học được bài học giản dị này. Vì vậy, họ sẽ tiếp tục đầu thai trong cùng những điều kiện bên ngoài, hết kiếp này rồi tới kiếp khác, cho tới khi họ rút tỉa được bài học và chuyển sang những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, nếu dòng sống sẵn sàng quay về một giáo lý hay một vị thày tâm linh, họ sẽ nhanh chóng học được là sự ích kỷ không bao giờ giúp mình phát triển. Thậm chí, dòng sông có thể học cả bài học cuối cùng là phải buông bỏ toàn bộ tâm thức nhị nguyên mà đón nhận tâm thức Ki-tô.

Ta là Giê-su Ki-tô, và ta đã hiến mạng sống của ta để đem lại các giáo lý về tâm thức Ki-tô. Các vị thày tâm linh là những người anh, người chị của ta cũng đã nỗ lực đem lại cùng những giáo lý đó trong nhiều bối cảnh khác nhau. Trên thực tế, không một người nào đã từng sống trên hành tinh này mà không tiếp cận được giáo lý tâm linh dưới một hình thức nào đó.

Ta phải nhìn nhận là do sự hiện diện của một tầng lớp thượng tôn quyền lực và tính cách tương đối của tâm nhị nguyên, nhiều người đã không tiếp cận được một giáo lý tâm linh thuần khiết. Tuy nhiên, mỗi dòng sống luôn luôn có một điều gì đó mà mình có thể sử dụng để làm bàn đạp hầu đạt đến một hiểu biết cao hơn về cuộc sống. Nếu người đó sẵn sàng sử dụng những gì đã được ban ra, rồi nhìn vượt ra ngoài những giáo lý công truyền, thì quả thật đã có thể nhận được giáo lý cao hơn từ nội tâm.

Thông điệp chủ yếu mà ta muốn gửi cho con là Thượng đế đã làm tất cả để con dễ dàng học được bài học độc nhất mà con cần học trong đời này. Tuy nhiên, sự tương đối của tâm nhị nguyên thật là bất tận. Nó có thể nghĩ ra vô số lý do để bào chữa tại sao nó đã không chấp nhận hay không đi theo giáo lý tâm linh chân truyền.

Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Quyết định hoàn toàn nằm với con là con sẽ bước theo con đường chân chính phát xuất từ Đại đoàn chưởng giáo của Ánh sáng, hay là con sẽ bước theo con đường giả trá, con đường có vẻ đúng đắn đối với tâm nhị nguyên.

Trước khi ta rời chủ đề luân hồi, hãy để ta nói thêm về một lý do nữa tại sao ta muốn các tín hữu của ta mở tâm ra với quan niệm luân hồi. Ta muốn các con mở tâm ra với luân hồi vì luân hồi là thực tế. Khi ta hiện thân trên địa cầu, ta đã biết luật của Cha ta, và ta đã giảng dạy luật này cho những ai theo ta. Ta không bao giờ muốn các giáo hội Cơ đốc tước mất chìa khoá của hiểu biết.

Cho nên ta nói với giới chức sắc trong các giáo hội chính thống đã tước mất quan niệm về luân hồi: “Khốn cho các người là các thày thông giáo, vì các người đã tước đi chìa khóa của hiểu biết. Chính các người đã không bước vào mà lại còn ngăn cản những ai muốn bước vào. Cho nên ta không biết các người.”

Nghiệp quả không là tiền định vì luôn luôn có chỗ cho lựa chọn cá nhân

Hỏi: Giê-su yêu dấu, hôm nay đứa con gái 17 tuổi của con hỏi con về vụ tấn công khủng bố ở Madrid, và làm thế nào có một số người lại được Số mệnh cứu vớt khi họ bị lỡ chuyến tàu, vân vân. Nó hỏi con phải chăng đó là một hành động của Số mệnh và con trả lời là đúng vậy.

Nếu thế thì những người đi trên chuyến tàu đó và bị thương tích tật nguyền suốt đời, hay là phải chết, cũng là một hành động của Số mệnh hay chăng? Con trả lời, có lẽ vậy. Rồi nó kết luận là vụ khủng bố cũng là việc làm của Số mệnh, và có lẽ chúng ta không thể đổ tội cho những kẻ khủng bố là đã góp tay vào Số mệnh. Con thấy khó lòng đồng ý với kết luận đó nhưng lý lẽ của nó không thiếu lô-gíc. Con giải thích cho nó về các tà lực và hậu quả của quyền tự quyết, nhưng con đã không thuyết phục được nó. Xin chân sư chiếu rọi một chút Ánh sáng trên vấn đề này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Đây là một câu hỏi vô cùng quan trọng mà ước gì ta có thể thảo luận trong một bối cảnh an bình hơn. Lý luận của con gái con có một lô-gíc nào đó, và cô ấy cảm thấy như vậy là điều dễ hiểu mà thôi. Trên thực tế suốt bao nhiêu thời đại, rất nhiều người cũng đã chấp nhận cách lý luận như vậy. Nhưng ta phải nói, đó không phải là cách hiểu cao nhất về vấn đề này.

Đầu tiên chúng ta cần xác định xem chúng ta muốn nói gì khi dùng từ “số mệnh”. Ý nghĩa bình thường của từ này là trong vũ trụ có một lực nào đó định trước được một số sự việc.

Đời sống tâm linh của nhân loại vốn có một chiều hướng đi lên. Chúng tôi là các chân sư thăng thiên thường rải truyền một số năng lượng tâm linh để nhẹ nhàng thúc ép mọi người đi lên cao hơn trong tâm thức. Do đó có thể nói là có một sức mạnh của số mệnh đang tìm cách giúp nhân loại vươn lên một mức tâm thức cao hơn. Trong tiến trình phát triển này, một số khuôn nếp và tin tưởng cũ sẽ phải bị phá vỡ. Tuy nhiên, sức mạnh này của số mệnh nhắm vào việc thay đổi xã hội trên bình diện quy mô rộng lớn. Nó hoàn toàn không định đoạt cách xử sự của từng người, hoặc cách họ phản ứng lại những tình huống mà họ gặp trong đời sống. Nói cách khác, trong bức tranh toàn cảnh của hình thức số mệnh này, có rất nhiều khoảng trống để mỗi cá nhân có thể tự quyết lựa chọn.  

Như ta giải thích trên trang mạng này, mọi khía cạnh đời sống trên hành tinh này đều bị ảnh hưởng bởi sự chọn lựa của con người, và do đó trong một ý nghĩa nào đó, có thể nói là không có gì được định trước. Tuy nhiên, chọn lựa của con người có thể bị nhiều yếu tố ảnh hưởng. Con không thể hiểu được đúng đắn ý niệm tiền định nếu không xem xét đến thực tế của nghiệp quả và luân hồi, như ta có giải thích ở một nơi khác. Khi con hiểu rõ nghiệp quả, con sẽ nhận ra là rất nhiều tình huống xảy ra trong đời là kết quả của những chọn lựa mà con đã có trong tiền kiếp. Những chọn lựa này tạo ra một xung lực năng lượng được phóng ra vũ trụ, và khi xung lực này quay trở lại con trong một kiếp sống tương lai, nó có thể gây ra nhiều loại tai họa khác nhau.

Thật không có nghi ngờ gì là trong một tình huống như vụ đánh bom khủng bố, nghiệp quả là một yếu tố rất quan trọng. Có một số người đã thoát khỏi vụ đánh bom vì họ không mang nghiệp bị mất mạng hay bị thương tích. Một số người khác đã không thoát khỏi bởi vì họ mang nghiệp chướng từ những kiếp trước là họ phải trải nghiệm những điều mà họ vừa trải nghiệm trong biến cố này. Và cũng đúng là nghiệp quả đã là một ảnh hưởng to lớn trên những kẻ khủng bố khi họ lấy quyết định ra tay làm việc này. Họ đã bị điều kiện hóa bởi nghiệp quả mà họ đã tạo ra trong tiền kiếp. Tuy nhiên, điều vô cùng quan trọng mà con cần hiểu là nghiệp quả không định trước được mọi chuyện.  

Một trong những lý do nghiệp quả và luân hồi đã bị nhiều người ở Tây phương bác bỏ là vì đa số người Tây phương nhận xét, không sai, là không phải điều gì trong cuộc sống cũng được định trước. Tại Đông phương thì khác, hầu hết mọi người đều tin vào nghiệp quả và luân hồi nhưng nhiều người lại đẩy lời dạy này tới một cực đoan thật đáng tiếc. Thật vậy, nhiều người ở phương Đông tin rằng bất cứ điều gì xảy ra cho mình cũng đã được ấn định bởi nghiệp quả từ những kiếp trước.

Hệ quả đáng tiếc của sự thể này là họ rất dễ rơi vào cái nhìn định mệnh về cuộc đời. Đâu có ích gì mà mình phải cố gắng cải thiện đời sống nếu mọi chuyện đã được nghiệp quả an bày sẵn rồi? Và đây chính là thái độ mà nhiều người Tây phương không thể nào chấp nhận, bởi vì họ tin rất sâu xa là con người có khả năng cải thiện đời sống và thay đổi số mệnh của mình. Người Đông phương cảm thấy dù mình có làm gì trong đời cũng chẳng mấy quan trọng. Cảm nhận này đúng đắn nhưng rất tiếc nó khiến cho nhiều người Tây phương vơ đũa cả nắm và bác bỏ toàn bộ ý niệm nghiệp quả lẫn luân hồi.  

Sự thật là nghiệp quả sẽ không bao giờ đứng trên, hay lật ngược lại, quyền tự quyết của một người. Nghiệp quả của con từ nhiều tiền kiếp sẽ tạo ra một số điều kiện khiến con thiên về một số chọn lựa nhất định. Chẳng hạn, những kẻ khủng bố tổ chức vụ đánh bom vừa rồi đã suốt nhiều kiếp bị bao trùm trong tâm thức cho rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện. Tâm thức này rất có thể đã khiến họ bị thu hút vào một lý tưởng cực đoan trong kiếp này, và họ sẽ sử dụng lý tưởng đó làm cái cớ để tiếp tục những khuôn nếp và lực dư mà họ đã ôm lấy suốt bao nhiêu kiếp sống. Tuy nhiên, không có gì bảo đảm là một người sẽ muốn tiếp tục mãi trên cái đà cũ như vậy, mà trái lại người đó luôn luôn có khả năng chọn lựa cách khác, phá vỡ khuôn nếp cũ để đưa đời mình về một hướng mới. Chính quyết tâm phá bỏ các khuôn nếp cũ là lý do chúng ta có thể hy vọng đời sống mỗi người cũng như đời sống của xã hội có thể cải thiện.   

Như ta có giải thích suốt trang mạng này, mọi điều trong thế gian đều xoay quanh quyền tự quyết của con người. Thượng đế đã trao quyền tự quyết cho con người và do đó ngài đã từ bỏ việc kiểm soát mọi chi tiết vi mô xảy ra trên địa cầu. Nói cách khác, Thượng đế không có chút kiểm soát nào trên tình thế đã dẫn tới vụ đánh bom khủng bố ở Madrid. Ngài không muốn sự việc đó xảy ra, và một vụ tấn công như vậy không có chức năng gì trong kế hoạch toàn thể của ngài.  

Biến cố xảy ra là sự biểu hiện của nghiệp quả từ tiền kiếp phối hợp với những chọn lựa tự quyết của mỗi người trong kiếp này. Như ta đã nói, nghiệp quả từ tiền kiếp có thể tạo ra một thiên hướng nơi con, đẩy con về một số chọn lựa. Thế nhưng những chọn lựa này không được định trước. Con luôn luôn có sự chọn lựa, và do đó luôn luôn có khả năng phá vỡ những động lượng cũ và đưa đời mình về một hướng mới tích cực hơn. Con luôn luôn có khả năng chọn con đường cao ráo thay vì con đường thấp hèn. Tuy nhiên, nếu con không phá vỡ được động lượng cũ thì các tình huống của nghiệp quả sẽ không tránh khỏi phải trải ra, và đó là những gì con chứng kiến tại Madrid.      

Hiển nhiên, tình thế này là do những chọn lựa của kẻ khủng bố đun đẩy. Tuy nhiên, con không được bỏ qua sự kiện là người dân Tây Ban Nha cũng đã có một số lựa chọn dẫn đến tình thế đó. Một chọn lựa của họ là họ đã chấp nhận cái tâm thức khiến họ cảm thấy không cần phải thay đổi cách sống của mình hầu xây dựng một địa cầu công bằng hơn cho mọi người. Đây cũng chính là tâm thức đã dẫn đến vụ khủng bố ngày 11/9/2001 tại Hoa Kỳ, như ta đã nhận xét ở một nơi khác.   

Về tình hình tại Tây Ban Nha, thật vậy, nghiệp quả của quốc gia này đã góp phần vào tình thế và đã khiến cho nước này có những nhược điểm, dễ bị tổn thương. Nghiệp quả đó đã chồng chất trong nhiều thế kỷ, qua một số sự kiện như Tòa án Dị giáo, cách đối xử với người Hồi giáo tại Tây Ban Nha, cuộc chinh phục châu Mỹ cùng một số biến cố đẫm máu khác. Tuy nhiên, vụ tấn công khủng bố này đã không hoàn toàn xoá bỏ hết nghiệp quả của cả nước. Còn nhiều biến cố nữa sẽ xảy ra, và vì vậy điều cực kỳ quan trọng là những người tâm linh tại Tây Ban Nha phải nỗ lực giảm thiểu tác động của các nghiệp chướng chưa thể hiện trên quốc gia mình. Những dụng cụ hữu hiệu nhất mà họ có thể sử dụg để làm công việc này là Ngọn lửa Tím và các bài cầu nguyện tràng hạt của Mẹ Mary.

Mặc dù nghiệp quả có thể rất chính xác cho đến từng chi tiết nhỏ nhặt, điều quan trọng cần nhớ là nghiệp quả không định trước được mọi chuyện. Trong mỗi tình huống trong đời, luôn luôn có khả năng thay đổi kết quả của sự kiện. Chẳng hạn, con người luôn luôn có sự chọn lựa nâng cao tâm thức và hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình. Hẳn là đã có những người tại Madrid đã nhận được lời cảnh báo nội tâm khiến họ lỡ chuyến tàu. Nhưng cũng có những người chọn cách sống mộng du, đi qua cuộc đời như người ngủ say, không có nỗ lực hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình. Những người này đã không nhận được cảnh báo rồi phải mất mạng hay bị thương tích trong vụ đánh bom. Nhưng chính vì họ đã không chọn hòa điệu với cái ta Ki-tô mà họ không thể được cảnh báo. Nói cách khác, sự kiện họ bị thiệt mạng trong vụ tấn công không phải là kết quả những chọn lựa trong tiền kiếp, mà là kết quả những chọn lựa trong kiếp này.

Ta muốn giúp con hiểu là không có gì được khắc sẵn trên đá, không có gì được định trước. Có một lực trong vũ trụ luôn tìm cách giúp con người phát triển. Lực này lập ra một số mẫu số chung cho các diễn biến trên địa cầu. Song song cũng có lực của nghiệp quả, lập ra những mẫu số chi tiết hơn cho những gì có khả năng xảy ra trong đời sống một người. Nhưng ngay cả luật nghiệp quả cũng không định sẵn được mọi khía cạnh của đời sống người đó. Còn rất nhiều khoảng trống cho những quyết định tự do có thể thay đổi hướng đi cuộc đời và do đó giảm thiểu hay tránh hẳn một số nghiệp duyên nhất định. Nói cách khác, những chọn lựa của một người có khả năng giảm nhẹ tai họa hoặc ngược lại lôi kéo tai họa về mình.

Nếu tất cả mọi chuyện đều được định trước bởi nghiệp từ tiền kiếp, thì sẽ không còn chỗ nào để tạo nghiệp mới hay giảm nhẹ nghiệp cũ, và nếu thế thì làm cách nào một người có thể thoát được bánh xe luân hồi đây? Điều cực kỳ quan trọng là mọi người đừng rơi vào tư duy định mệnh. Không nên lý luận sai lầm là không có gì thực sự quan trọng trong đời bởi vì tất cả đã được định trước, cho nên chẳng ích gì mà cố thay đổi cuộc sống hay thay đổi xã hội.

Mọi chuyện đều tùy thuộc vào sự tự quyết của con người, và vì thế tất cả mọi chuyện đều quan trọng. Mọi lựa chọn mà con có, hoặc sẽ cải thiện cuộc sống của con, hoặc sẽ khiến nó tồi tệ hơn. Nếu con không làm gì thì khả năng là đời con sẽ tồi tệ hơn.

Ta có thể cam đoan với con là con người có khả năng thoát được những tai họa mà nghiệp quả ra lệnh. Thượng đế không có ý muốn trừng phạt con người. Cho nên nếu con người chịu học hỏi bài học và nâng cao tâm thức mình, nhiều khi các chân sư thăng thiên sẽ kìm hãm lại một số điều kiện nghiệp chướng đã có thể gây ra tai họa.

Trên thực tế, nếu chúng tôi, các chân sư, đã không làm vậy thì từ lâu nhân loại đã tự hủy diệt qua việc sử dụng vũ khí nguyên tử. Cho nên nếu các con còn sống sót tới ngày hôm nay, đó chính là bằng chứng là chúng tôi rất sẵn lòng xóa bỏ nghiệp quả của con người – miễn là con người cũng sẵn lòng nâng cao tâm thức mình. Và đây chính là một trong những thông điệp quan trọng nhất mà ta muốn truyền đạt qua trang mạng này. Có thể nói, số mệnh là một mãnh lực không làm sao cản được, nó đun đẩy cuộc sống cứ bước mãi về phía trước. Tuy nhiên, những chọn lựa của mỗi người có khả năng quyết định hướng đi của lực định mệnh, cả trên bình diện cá nhân lẫn toàn cầu.

Vì vậy con có thể giải thích cho con gái con rằng quả là có một năng lực nghiệp quả đã sắp đặt tình huống dẫn đến vụ đánh bom khủng bố. Tuy nhiên nếu người dân Tây Ban Nha đã có những chọn lựa tốt hơn thì vụ đánh bom đã có thể tránh được. Cho nên, cách phản ứng tồi tệ nhất đối với tình thế này là trở thành một người thụ động, hay là đi theo chủ nghĩa hòa hoãn, và không làm bất cứ gì để ngăn chặn những thảm họa tương tự xảy ra trong tương lai. Muốn cho cái ác chiến thắng, chỉ cần những con người tốt thiện ngồi yên không làm gì.

Một cách phản ứng đáng tiếc khác là trở thành một kẻ hiếu chiến, cố chữa lửa bằng cách bồi thêm lửa vào ngọn lửa. Cách đáp ứng hay nhất là trở thành một chiến binh trong ý nghĩa tâm linh, sử dụng ngọn lửa tâm linh để thiêu đốt những điều kiện nghiệp quả khiến cho quốc gia mình cứ thu hút các tiềm năng tai họa trong tương lai. Một phương cách quan trọng khác là khai sáng mọi người về nhu cầu thay đổi đường hướng và trở thành một dân tộc tâm linh hơn. Và trong số những công việc cần làm đó là cần bỏ lại đằng sau quá khứ Công giáo của dân tộc Tây Ban Nha.  

Phải chăng nghiệp quả là một lời dạy sai lầm?

Hỏi: Một số giáo lý bảo rằng nghiệp quả chỉ là một ảo tưởng, bởi vì chúng ta sáng tạo trong HIỆN TẠI. Chúng ta luôn luôn tự do sáng tạo bất cứ gì mình muốn trong hiện tại mà không bị giới hạn bởi những gì mình đã làm trong tiền kiếp. Đó là lý do tại sao chúng ta không nhớ lại được tiền kiếp một cách ý thức. Một số người còn bảo rằng các lời dạy về nghiệp quả và cái chết thứ nhì là dựa trên lòng sợ hãi, và do đó không đến từ Thượng đế đích thực, một Thượng đế yêu thương vô điều kiện. Họ bảo rằng bất kỳ lời dạy nào nói đến việc chấm dứt cơ hội là một lời dạy sai lầm.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Đây là một sự hiểu lầm về các khía cạnh cơ học của vũ trụ vật chất. Cái con tạo ra trong hiện tại là ý niệm bản sắc của con, và cái đó con sẽ tái tạo trong mỗi khoảnh khắc thức. Cho nên con có thể – trên lý thuyết – chọn lựa thay đổi ý niệm bản sắc của mình bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, ngay cả chuyện đó cũng có thể khó khăn bởi vì các chọn lựa trong quá khứ đã tạo ra những vết thương tâm lý trong cỗ xe bốn lớp của con, hay linh hồn. Các vết thương này được gây ra bởi những quyết định mà con đã lấy, và cho tới khi con gỡ bỏ các quyết định đó một cách ý thức và thay thế chúng bằng những quyết định tốt hơn, con sẽ không thoát ra khỏi các chọn lựa đó. Và do đó, con sẽ không thể thay đổi cái ý niệm bản sắc phát xuất từ các chọn lựa đó.

Định luật nhân quả chỉ đơn giản mô tả các khía cạnh cơ học trong cách vận hành của vũ trụ vật chất. Dòng sống của con chỉ có thể sống sót vì nó nhận được một dòng năng lượng tâm linh từ Hiện diện TA LÀ của con. Nếu con phú cho năng lượng đó một rung động cao hơn một tần số nào đó, cao hơn một cái mốc nào đó, năng lượng sẽ biến thành kho báu của con cất giữ trên thiên đàng. Nó sẽ được gửi trả xuống cho con và lại được nhân lên gấp bội, như ta đã có giải thích qua truyện ngụ ngôn về các ta-lăng.

Nếu con tha hóa năng lượng xuống bên dưới mốc then chốt đó, con sẽ “bị đánh rớt” và con sẽ phạm vào điều mà các tín hữu Cơ đốc thường gọi là tội lỗi. Năng lượng tha hóa sẽ tích tụ lại trong trường năng lượng cá nhân của con cũng như trong trường năng lượng của hành tinh địa cầu. Cho nên khi con trở lại đầu thai trong kiếp sau, con sẽ bị năng lượng này tác động. Con không thể thăng thiên vĩnh viễn vào cõi tâm linh cho tới khi con hồi phục tất cả những năng lượng mà con đã tha hóa khi hiện thân trên địa cầu. Cũng vậy, con tạo ra một cái ngã tách biệt khi con chấp nhận các ảo tưởng nhị nguyên, và những ảo tưởng này sẽ tiếp tục ảnh hưởng ý niệm bản ngã của con cho tới khi con thăng vượt chúng một cách ý thức. Cho nên thật là không đúng khi bảo rằng con có thể, bất cứ lúc nào, chọn lựa bước ra khỏi nghiệp quả của mình hay bất kỳ khía cạnh nào khác của quá khứ của con.

Các lựa chọn mà con lấy trong quá khứ đã thiết lập cái sân khấu cho con người mà con đang là – cho ý niệm bản ngã mà con đang có. Con không thể đơn giản chọn làm một người khác mà không quay trở về thay thế các quyết định gây giới hạn mà con đã có trong quá khứ. Và điều con không thể tránh khỏi là các quyết định hiện tại của con sẽ dựa trên ý niệm bản ngã của con.

Ta thật không hiểu làm thế nào người ta có thể chấp nhận thực tế của tiền kiếp mà đồng thời phủ nhận mọi ảnh hưởng của tiền kiếp trên kiếp sống hiện tại. Ta nghĩ là nếu con nhìn vào hậu quả lô-gíc của cách nhìn luân hồi như vậy, con sẽ thấy là nó không nhất quán.

Thật ra, rất có thể con sẽ khám phá là nó khởi lên chủ yếu từ thái độ không chịu nhận trách nhiệm về cuộc sống của mình và công nhận rằng con chỉ có thể cải thiện hoàn cảnh hiện tại và tương lai của mình bằng cách tháo gỡ các lựa chọn bất toàn mà con đã làm trong quá khứ. Đa số những ai không sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về đời mình đều chọn thái độ phủ nhận thẳng cánh thực tế của luân hồi. Nhưng lại có một số người dựng lên cho mình một phiên bản mới về luân hồi, qua đó họ nhìn nhận là họ có tiền kiếp nhưng đồng thời họ cũng phủ nhận tiền kiếp có bất kỳ ảnh hưởng nào trên hiện tại. Ta thật không thể theo kịp cái lô-gíc tin vào luân hồi mà không có nghiệp quả. Làm sao con có thể ăn hết cái bánh mà vẫn còn nguyên bánh? Làm sao con có thể thay đổi một chọn lựa đã qua trừ khi con công nhận chính con đã làm chọn lựa đó?

Ta biết nhiều người bị dính mắc vào mong muốn tránh né trách nhiệm cá nhân của mình, và điều này có thể khiến họ phủ nhận nghiệp quả. Sẽ ích lợi biết mấy nếu họ có thể xét xem tại sao họ lại có dính mắc tình cảm đó, và ta nghĩ họ sẽ nhìn ra nguyên nhân là có một thành phần trong con người họ không muốn công nhận thực tế của cuộc sống, cụ thể là con không có một thời gian vô hạn định để thăng vượt ý niệm bản sắc hiện thời của mình. Đây chính là tự ngã, nó không muốn con nhận ra là hành động của con mang hậu quả, và bởi vậy, cơ hội sẽ có lúc phải chấm dứt. Tự ngã không muốn nhìn nhận bất kỳ sự chấm dứt nào vì điều này có nghĩa là nó sẽ chết. Tự ngã muốn con tin rằng con có thể cứ tiếp tục mãi mãi như vậy, rằng không có điều gì con làm sẽ mang lại hậu quả tiêu cực, và con có thể tiếp tục trì hoãn ngày con phải chọn lựa vị chủ mà con sẽ phục vụ. Nếu con có thể nhận diện tự ngã, kẻ thù bên trong đó, và nhìn ra nó không phải là một phần của dòng sống của con, thì con sẽ có thể tinh tấn vượt bực.

Khi đó con sẽ tìm thấy cả một thế giới mới với những vận hội tăng triển mở ra, và con sẽ khám phá ý nghĩa thực sự của tình thương vô điều kiện. Quan niệm tình thương mà một số giáo lý đưa ra bảo rằng không có gì thật sự quan trọng bởi vì cuối cùng mọi chuyện sẽ đều ổn thỏa. Sự thật về tình thương vô điều kiện là mọi sự đều quan trọng, bởi vì mỗi hoàn cảnh đều là một cơ hội tăng triển – có nghĩa là con cho phép tình thương xuôi chảy – hay ngược lại nó là một cơ hội để con đóng lại dòng chảy tình thương xuyên qua con. Đúng thật là nhiều người sùng đạo, kể cả nhiều tín hữu Cơ đốc, đã dùng lòng sợ hãi như một cái cớ để đóng lại dòng chảy tình thương xuyên qua mình. Nhưng nhiều người cũng đã dùng niềm tin vào định mệnh hay số mạng để đặt mình vào trạng thái thờ ơ tâm linh, và điều này cũng dập tắt dòng chảy của tình thương.

Tình yêu thiêng liêng thì vô điều kiện, và điều này không có nghĩa là tình yêu đó sẽ chấp nhận bất cứ gì, dù thiện hay ác, là chính đáng như nhau. Khi một người để cho dòng tình yêu vô điều kiện chảy xuyên qua mình, người đó có sự phân biện để thấy rõ cái gì thuộc về Thượng đế, cái gì không. Người đó dùng phân biện này để không bao giờ chấp nhận một ý niệm bản sắc giới hạn, và cũng không bao giờ để cho bất kỳ điều kiện nào của thế gian biến thành cái cớ để đóng chặt dòng chảy tình thương. Con biểu hiện tình thương bất kể điều kiện con phải đối mặt, nhưng con không bao giờ tuyên bố một điều kiện nào của thế gian là vĩnh hằng hay có thực. Cho nên tình thương của con sẽ dễ dàng là loại tình yêu cứng cỏi sẽ thách đố người ta bước lên cao hơn – như con thấy ta từng thách đố các thày thông giáo và người Pharisi.

Chọn lựa đúng đắn duy nhất là đáp ứng mọi hoàn cảnh với tình thương – như ta từng dạy mọi người 2000 năm về trước. Bất cứ chọn lựa nào không phát xuất từ tình thương là cái mà các tín hữu Cơ đốc gọi là tội lỗi. Nhưng tiếc thay, hầu hết mọi người trên địa cầu đã chọn làm ngược lại, và do vậy họ bị mắc kẹt vào trạng thái tâm thức khiến họ khó lòng đáp ứng sự sống bằng tình thương.

Thực tế phũ phàng là một số đáng kể những người đang bị mắc kẹt vào vòng ốc xoáy hướng hạ sẽ chỉ đưa họ ngày càng xa hơn tình thương. Đơn giản là các dòng sống đó không thể được xoay chuyển bởi một lời dạy về tình thương. Trong nhiều trường hợp, họ chỉ có thể được xoay chuyển bởi một thông điệp chỉ rõ ra hậu quả nếu họ cứ tiếp tục hành xử theo cùng chiều hướng. Và đối với nhiều dòng sống trên hành tinh này, cơ hội để họ xoay chuyển đang nhanh chóng đóng cửa lại. Nếu họ không xoay chuyển và khởi sự một vòng xoắn ốc hướng thượng, họ sẽ phải kinh qua cái chết thứ hai. Nếu họ xoay chuyển và cất bước trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô, họ sẽ được gia hạn quá thời hạn ban đầu. Thượng đế có lòng thương xót rất lớn đối với những dòng sống chân thành muốn trở về nhà.

Một trong những điều khó xử mà chúng tôi phải đối mặt trong tư thế làm thày tâm linh là chúng tôi không thể tiếp cận nhiều dòng sống trên địa cầu qua một thông điệp tâm linh dựa trên tình thương. Họ bị kẹt cứng trong tâm trạng sợ hãi đến độ họ chỉ có thể được tiếp cận qua một thông điệp đánh động đến các nỗi sợ hãi của họ. Thật là một điều đáng buồn khi quan niệm Địa ngục trở nên cần thiết để xoay chuyển các dòng sống đó. Họ chỉ đáp ứng khi lòng sợ hãi Địa ngục của họ to lớn hơn những lợi lạc mà họ nhận được khi cứ tiếp tục sống như cũ.

May mắn thay, ngày nay chúng ta đang bước vào một thời đại khi càng ngày càng có nhiều người đáp ứng các lời dạy tâm linh dựa trên tình thương, và nói chung, đây là điều con chứng kiến trên trang mạng này. Tuy vậy, vẫn có nhu cầu nhìn nhận là nhiều người đã bị tác động sâu xa bởi các loại thông điệp dựa trên sợ hãi. Và bởi vì một trong các mục tiêu của trang mạng của ta là để giúp mọi người thoát khỏi các giáo điều sợ hãi do đạo Cơ đốc truyền thống đưa ra, cho nên ta sẽ vui lòng bình luận về các tin tưởng đó khi có người đặt câu hỏi.

Xưng tội không đảm bảo con sẽ thoát khỏi tội lỗi hay nghiệp quả

Hỏi: Xin thày bình luận về bản chất và tầm quan trọng của việc xưng tội?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Có nhiều nhầm lẫn liên quan đến nghi thức xưng tội. Trước hết, ta xin nói thật rõ là ý tưởng cho rằng một giáo hội vỏ ngoài có khả năng loại bỏ tội lỗi của một người là một ý tưởng khuyến khích sự lạm dụng. Nếu con nhìn vào lịch sử của Giáo hội chính thống, con sẽ tìm thấy rất nhiều ví dụ lạm dụng như vậy – và các lá thư ân xá chỉ là một trong nhiều ví dụ đó.

Đúng thực là ta đã ban cho một số môn đệ của ta quyền năng chuộc lỗi cho tội lỗi con người qua trung gian Thánh linh. Tuy nhiên Thánh linh thổi nơi nào nó muốn, và con người hay các tổ chức không thể nào điều khiển được Thánh linh. Ta không bao giờ nói rằng bất cứ ai xưng tội mình cho một đại diện của giáo hội sẽ tự động nhận được sự tha thứ cho các tội đó.

Như ta đã giải thích ở một nơi khác, sự giá chuộc [vicarious atonement, tức việc được cứu rỗi nhờ Ki-tô dùng cái chết của mình thay cho người phạm tội] không loại bỏ tội lỗi hay nghiệp quả của con người. Khi con có một hành động vi phạm quy luật của Thượng đế, con tự động tạo nghiệp. Việc xưng tội không tiêu trừ nghiệp của con. Con vẫn phải quân bình nghiệp chướng đó. Tuy nhiên, việc xưng tội có thể, nếu con tiếp cận đúng đắn, đem lại những tác dụng tâm lý hữu ích.

Các thày là chân sư thăng thiên không mong muốn nhìn thấy bất cứ ai phải mang gánh nặng mặc cảm tội lỗi hay cảm nhận mình là người có tội. Các thày muốn mọi người buông bỏ mọi lầm lạc đã qua và tập trung mọi năng lực cùng sự chú ý của mình vào việc leo lên con đường tâm linh. Và để leo lên thành công trên đường tu, con phải vượt qua mặc cảm tội lỗi đã khiến cho nhiều người cảm thấy mình không xứng đáng để đến gần Thượng đế. 

Tinh túy của đường tu tâm linh là con đến gần hơn với Thượng đế. Nếu con cảm thấy mình không xứng đáng đến gần Thượng đế thì con không thể bước chân trên con đường này. Đối với nhiều người, việc xưng tội có khả năng đem lại tác dụng tâm lý tích cực sẽ giúp họ bỏ lại tội lỗi sau lưng. Nhưng tiếc thay, việc xưng tội cũng có thể có tác dụng tiêu cực. Một số người chăm chỉ đi xưng tội mỗi chủ nhật, họ thú nhận tội lỗi của mình, họ cảm thấy mình đã hết tội, thế là họ lại vui vẻ phạm cùng những tội đó trong tuần lễ kế tiếp. Lòng thương xót của Thượng đế vô biên và sự tha thứ của Thượng đế xảy ra tức thì, tuy nhiên sự tha thứ của Thượng đế sẽ không xảy ra cho đến khi con từ bỏ chính trạng thái tâm thức đã khiến con phạm tội. 

Nếu con xem lại bài Giảng trên Núi của ta, con sẽ thấy là ta đã khuyên mọi người hãy vượt lên trên cái tâm thức đã khiến họ làm những hành động tội lỗi. Trong thời đại hôm nay, con người cần phải tiến thêm một bước nữa. Con người cần phải vươn lên cao hơn toàn bộ tâm thức nhị nguyên cùng toàn bộ tính chất tương đối và nhị nguyên của nó. Điều ta muốn nói ở đây là một tội lỗi sẽ được tha thứ ngay vào lúc con từ bỏ cái tâm thức đã khiến con vi phạm quy luật Thượng đế – mặc dù sự tha thứ này sẽ không xóa bỏ nghiệp chướng của con. Tuy nhiên, nếu con xưng tội mà không từ bỏ tâm thức đó thì thật là ngây thơ nếu con tin rằng tội của con đã được tha thứ.

Giá trị của nghi thức xưng tội đi đôi – trong tỷ lệ thuận – với thái độ của con khi con tiếp cận nghi thức. Nếu việc nhìn nhận một hành động tội lỗi có thể giúp con khắc phục tâm thức đã khiến con phạm tội, thì bằng bất cứ cách nào con hãy đi xưng tội. Tuy nhiên, để khắc phục hoàn toàn tâm thức thấp kém kia, thường thường con sẽ phải kinh qua một tiến trình chữa lành các vết thương tâm lý đã khiến con dính mắc, ràng buộc, với trạng thái tâm thức này. Qua việc chữa lành tâm lý, con có thể tới điểm nhìn nhận một cách ý thức lý do tại sao trạng thái tâm thức đó là sai lạc. Và qua sự nhìn nhận này, con có thể quyết định ý thức là mình sẽ buông bỏ trạng thái tâm thức này.

Nhưng đối với nhiều người, việc xưng tội sẽ không đem lại sự chữa lành tâm lý nào. Nếu họ nghĩ tất cả những gì họ cần làm là chỉ việc xưng tội, thì kỳ thực nghi thức xưng tội có thể cản trở sự tăng triển tâm linh của họ. Hiển nhiên, ta không muốn thấy chuyện này xảy ra cho bất cứ ai. Cho nên ta khuyến khích mọi người hãy chân thành nỗ lực đạt được quả vị Ki-tô cá nhân thay vì tưởng rằng nghi thức xưng tội sẽ đưa mình lên thiên đàng.

Cho nên điều sẽ hữu hiệu hơn nhiều là con sử dụng các dụng cụ tâm linh mà các thày đã trao truyền để con khắc phục quá khứ của con.