Con đường rộng và con đường hẹp

Hỏi: Trong bài Thuyết pháp trên Núi, Giê-su nói: “Hãy vào cửa hẹp. Vì cửa rộng và đường rộng dẫn đến hủy hoại, và những kẻ vào đó cũng nhiều. Còn cửa hẹp và đường hẹp dẫn đến sự sống, và những kẻ tìm được thì ít.” Xin các chân sư thăng thiên vui lòng cho chúng con, những đệ tử của chân sư thăng thiên, một lời dạy hiện đại về điểm này? Liệu có những pháp tu hoặc yêu cầu đặc thù nào sẽ giúp chúng con ở lại bên trong và băng qua cánh cửa hẹp mà Giê-su nói đến khi còn tại thế?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Chấm dứt thời đại ý thức hệ. Đăng ngày 15/6/2021.

Các thày đã cho con nhiều lời dạy về điều này. Đơn giản là có một sự khác biệt giữa con đường vỏ ngoài và con đường nội tâm, con đường công truyền và con đường tâm truyền. Con đường rộng, cánh cửa rộng, là cái mà hầu hết mọi người trên địa cầu đều đi theo qua các tôn giáo chính mạch, với lời hứa là khi con tuân thủ một vài quy luật vỏ ngoài, làm đúng một vài pháp tu vỏ ngoài, vâng lời giới tu sĩ vỏ ngoài, thì con sẽ được cứu rỗi sau kiếp này. Ta sẽ đến và cứu con dùm con, ta sẽ làm mọi công việc cho con.

Đó là con đường rộng dẫn đến hủy hoại, bởi vì cánh cửa hẹp dẫn đến thăng thiên là con đường nội tâm biến đổi tâm thức của mình, thanh lọc tâm mình cho không còn khuôn nếp phản ứng nào, không còn tin tưởng sai lầm nào, không còn ngã tách biệt nào, không còn tự ngã nào. Hầu hết mọi người không biết đến sự hiện hữu của con đường này, hầu hết mọi người chưa sẵn sàng cho con đường này. Tất nhiên, các tôn giáo chính mạch đã bị sa nhân chiếm đoạt đến độ hiểu biết này không được phổ biến rộng rãi.

Như con có thể thấy qua số người quan tâm đến các giáo lý tâm linh không chính mạch, càng ngày càng có nhiều người thức tỉnh, tuy nhiên vẫn còn một khoảng cách rất lớn giữa những gì nhiều người đã sẵn sàng tiếp nhận và những gì được các tôn giáo chính mạch giảng dạy. Nói chung, cách đi theo con đường hẹp là con đi theo con đường tâm linh như các chân sư thăng thiên đã phác họa. Điều này không có nghĩa đây là con đường duy nhất. Chủ yếu đây là việc nhìn ra một điều gì đó trong bản thân mình và, một cách ý thức, quyết định vươn lên cao hơn. Và tất nhiên các thày đã ban truyền rất nhiều lời dạy về điều này. Ta khuyên những ai quan tâm hãy theo học khóa Con đường Tự điều ngự. Hãy khởi sự với bộ sách này, từ tầng 48 vượt lên đến tầng 96, rồi sau đó sử dụng những quyển sách khác mà các thày đã khuyên con dùng tiếp theo sau.

Truyền thống thần bí trong Giáo hội Chính thống và Giáo hội Công giáo

Hỏi: Cơ đốc giáo Chính thống (Giáo hội phương Đông) có khác biệt cơ bản với Công giáo (Giáo hội phương Tây hay Giáo hội La mã) là pháp tu thần bí gọi là Hesychasm (gốc chữ Hy lạp Hesychia có nghĩa là im lặng, là một pháp tu thần bí dựa trên một số kỹ thuật thiền định trong truyền thống Giáo hội phương Đông).

Khác với Công giáo đã đi theo con đường thiết lập thần học, Cơ đốc giáo Chính thống đã chọn con đường thần bí để trải nghiệm sự hợp nhất với Ki-tô qua kinh nghiệm tâm linh trực tiếp – là con đường tự thăng vượt của con người trong Ki-tô. Thày có nhận xét gì về góc nhìn so sánh giữa hai tôn giáo này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Ukraine năm 2019. Đăng ngày 2/11/2019.

Trong truyền thống Công giáo cũng có những khía cạnh thần bí. Ngay cả trong một số hội thánh Cơ đốc Tin lành, con cũng tìm thấy một số khía cạnh thần bí. Và dĩ nhiên, con có những nhà thần bí Cơ đốc trong truyền thống Công giáo đã đạt đến những mức tâm thức rất cao. Thần bí có thể được tìm thấy trong mọi tôn giáo nhưng không là chính mạch ở đâu cả.

Một điều con cần nhìn nhận ở đây là mặc dù có những điểm khác biệt giữa hai giáo hội Chính thông và Công giáo, Giáo hội Chính thống cũng vẫn bị tác động bởi cùng một tư duy đã lập ra Giáo hội Công giáo. Và con sẽ thấy là đã có một thời cả hai giáo hội đã phát triển song song với nhau theo cùng một cách thức trước khi phân ra làm hai.

Có rất nhiều khía cạnh tương đồng, hay cách suy nghĩ tương đồng, đã che khuất con đường thần bí đối với quần chúng nói chung. Luôn luôn đã có những người có khả năng nhìn vượt khỏi các giáo điều và các nghi lễ vỏ ngoài để tìm thấy con đường thần bí, tuy nhiên đối với quần chúng thì tất cả các giáo hội Cơ đốc đã che lấp thực tại mà ta giảng dạy cũng như thực tại của đường tu. Con có thể nói là các giáo hội thường thường đã được thiết lập để ngăn cản không cho quần chúng rộng lớn tìm thấy và bước đi trên con đường đích thực dẫn đến quả vị Ki-tô.

Đó chính là cách mà sa nhân đã định nghĩa các giáo hội đó. Nhưng sa nhân cũng biết là sẽ có một số người không xem đó là đủ, và họ sẽ tìm kiếm con đường thần bí. Cho nên điều mà sa nhân đã cố làm là cho phép những người như vậy bước đi trên con đường thần bí, nhưng họ vẫn phải nằm trong phạm vi của giáo hội vỏ ngoài, cho dù là Chính thống hay Công giáo. Đó là lý do con có khái niệm gọi là những nhà thần bí Cơ đốc.

Kỳ thực, nếu con đã là thần bí thì con là một sinh thể phổ quát. Con có khả năng bước vào truyền thống Cơ đốc hay truyền thống Ấn giáo hay truyền thống Phật giáo hay truyền thống Hồi giáo, mà vẫn thăng vượt được truyền thống đó. Con dựa vào nền tảng truyền thống đó mà vẫn bước đi trên con đường thần bí, nhưng con không thật sự là một nhà thần bí Cơ đốc hay thần bí Ấn giáo hay thần bí Phật giáo nữa. Bởi vì khi con càng bước xa hơn trên đường tâm linh, thì việc nhìn thấy tính phổ quát đằng sau mọi tôn giáo vỏ ngoài càng trở nên quan trọng hơn.

Một điều mà Giáo hội Công giáo, chẳng hạn, đã làm với một số những nhà thần bí đó là tâng họ lên thành bực thánh, qua đó giáo hội giành lấy quyền sở hữu họ và không để cho tính phổ quát của họ được tỏa sáng. Và trong nhiều trường hợp, các nhà thần bí không thể biểu hiện tính phổ quát này và cẫn coi mình là nhà thần bí Cơ đốc. Đây là điều mà chúng ta cần thăng vượt trong thời đại hôm nay. Chúng ta cần góp chung lại tất cả các nhà thần bí từ mọi nguồn gốc, và nhìn nhận rằng đằng sau tất cả những truyền thống vỏ ngoài đó, có một con đường phổ quát mà không một truyền thống nào có thể đóng khung hay sở hữu.

Chuyện này thật là giản dị. Ki-tô không hề cấp bằng sáng chế cho bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào trong thế gới con người.

Giáo lý trên trang mạng này có là giáo lý huyền bí?

Hỏi: Kính thưa thày Giê-su, con đã nói chuyện với nhiều người và cho họ thông tin về những cuốn sách cùng trang mạng này. Con đã rất cởi mở và trung thực với họ nhưng hầu hết đều nói với con là con đang đọc bài vở liên quan đến huyền bí. Trong hầu hết các giáo phái đạo Cơ đốc, huyền bí bị xem là thuộc về Sa-tăng và nên tránh xa.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Cảm ơn con đã nêu ra câu hỏi rất quan trọng này. Ta xin khởi đầu bằng một số định nghĩa thông dụng của từ “huyền bí” (occult) trong từ điển:

Huyền bí:

  • Liên quan đến, hoặc giao tiếp với, các ảnh hưởng hay hiện tượng siêu nhiên.
  • Vượt ra ngoài lãnh vực nhận thức hay lãnh hội của con người.
  • Chỉ những người đã nhập môn mới có thể truy cập.
  • Che khuất khỏi tầm nhìn bình thường, ẩn giấu, bí mật.

Nếu con đọc Tân Ước với định nghĩa trên, con sẽ thấy mọi khía cạnh của giáo lý ta như được ghi lại trong Kinh thánh, đều liên quan đến siêu nhiên. Phần lớn những lời của ta vượt ra ngoài phạm vi hiểu biết của con người và không thể được lãnh hội bằng lý trí nhị nguyên tương đối, là trạng thái tâm thức bình thường của hầu hết mọi người. Con cũng thấy được là ta đã trao cho các môn đệ của ta một số giáo lý cao cấp mà ta không tiết lộ cho đại chúng [Mark 4:34].  

Cho nên, người ta rất có thể nói rằng tất cả mọi điều đã được ghi lại về ta trong kinh điển chính thức đều có thể được sử dụng để gọi ta là một vị thày huyền bí. Đây chính là nhãn hiệu mà những người đạo Do Thái chính thống đã gán cho ta khi họ đưa ta ra xét xử và đóng đinh ta trên thập tự giá. Tất nhiên là họ dùng những từ khác, nhưng cốt lõi của lập luận của họ là ta đã vượt ra ngoài các giáo lý chính thống và do đó ta không thuộc về sự thật, không thuộc về ánh sáng, không thuộc về Thiên Chúa. Kết quả là họ buộc tội ta là thuộc về quỷ.

Ta có thể cam đoan với con là nếu thuật ngữ này đã có vào thời đó, thì những người đạo Do Thái chính thống đã gọi ta, Giê-su Ki-tô, là tên cầm đầu một môn phái Thời Mới (New Age) vô cùng nguy hiểm. Họ sẽ tìm thấy rất nhiều “chứng cớ” trong những lời ta đã nói để kết tội ta. Như khi ta bảo tín hữu phải rời bỏ công việc và gia đình để đặt ta trên hết và trước hết. Như khi ta bảo tín hữu phải sẵn sàng bỏ đời sống vì ta. Con có thấy không, hẳn các phong trào chống đối các môn phái sùng tín (anti-cult movements) thời nay sẽ quá đỗi vui mừng mà chụp lấy những lời tuyên bố đó của ta? Và con có thấy họ sẽ tố cáo ta và gán ghép cho ta tội làm bạn với ma quỷ như thế nào không?

Con cũng thấy đó, ngay cả những chức sắc của đạo Cơ đốc chính thống hay chính mạch, là những người tự nhận là đại diện của ta trên trái đất, đã sử dụng tư duy sợ hãi để dựng lên ý tưởng rằng bất cứ gì đi ra ngoài giáo lý đạo Cơ đốc chính thống đều là huyền bí, và tất cả mọi điều huyền bí đều thuộc về quỷ. Thật là sai lầm khi bảo rằng mọi điều huyền bí thuộc về quỷ. Huyền bí chỉ đơn giản là điều gì đó vượt khỏi khả năng hiểu biết bình thường của con người, và điều này cũng áp dụng cho Thượng đế. Con có cho rằng Thượng đế thuộc về quỷ hay không?

Kỳ thực, đạo Cơ đốc đã bị biến thành cùng một loại tôn giáo phát xuất từ sợ hãi y như đạo Do Thái chính trống khi trước đã đóng đinh ta trên cây thập tự. Cái nhìn sợ hãi này được đẩy xa đến độ nếu ngày hôm nay ta hiện ra trong một xác thân vật lý và giảng dạy giáo lý tâm truyền chân thực của ta, thì nhất định ta sẽ bị những người đạo Cơ đốc chính thống trù dập. Họ sẽ gán tội cho ta là của quỷ hay bôi nhọ ta là một tên cầm đầu môn phái sùng tín. Và thật vậy, đây là cách mà một số người trong số họ đã gọi những lời dạy của ta đưa lên trang mạng này.

Như ta có trình bày trong quyển sách “Cái đến thầm kín của Ki-tô” (The Secret Coming of Christ), những ai có cái nhìn sợ hãi về tôn giáo sẽ bác bỏ bất cứ điều gì vượt ra ngoài giáo lý chính thống. Họ làm vậy bằng cách tạo ra một nhãn hiệu giả tạo, rồi tuyên bố bất cứ gì đi ra ngoài giáo lý đều mang nhãn hiệu đó, và do đó ta thuộc về quỷ.   

Đây là một cách nhìn thật thiếu chín chắn về tôn giáo, và nó bắt nguồn từ sợ hãi. Nó cũng bắt nguồn từ sự từ chối trách nhiệm để trở thành một người với tâm Ki-tô, hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình, hầu phân biện được thế nào là của Thượng đế và thế nào không của Thượng đế. Thật đáng buồn khi nhiều vị lãnh đạo Cơ đốc chính thống cho rằng họ đại diện ta trên trái đất, rằng họ đang bước chân theo ta, nhưng họ lại từ chối khoác vào tâm Ki-tô và phân biện giáo lý tâm truyền chân thực cùa Giê-su Ki-tô với những tín điều công truyền trông chằng khác gì những nấm mồ được tô trắng nhưng chứa đầy xương người chết.   

Khi con khoác vào tâm Ki-tô, con sẽ dễ dàng phân biện được cái gì là của ánh sáng và cái gì là của bóng tối. Điều này sẽ cho phép con nhìn xuyên thấu các giáo điều nhân tạo nông cạn. Người tìm kiếm tâm linh chân thành cần phải nhận ra là ác quỷ có một mục tiêu rõ ràng. Nó tìm cách đánh lừa những kẻ phụng sự tốt nhất của ta trên trái đất. Nó không quan tâm gì đến những người hoàn toàn bị bao trùm trong tâm nhị nguyên bởi vì những người này đã nằm trọn trong tay nó rồi. Quan tâm chủ yếu của ác quỷ là đánh lừa những ai đã hé thấy được chân lý nhưng chưa thể hiện được tính phân biện Ki-tô sẽ giúp họ nhìn thấu qua những dối gian vi tế của ác quỷ.    

Đây chính là loại người mà con gặp trong đạo Cơ đốc chính thống. Họ đã thấy được sự thực trong giáo lý của ta và họ có tiềm năng vươn lên một tầm mức cao hơn. Nhưng vì họ không sẵn sàng đối mặt với nỗi sợ hãi của mình, họ vẫn bị tê liệt bởi nỗi sợ hãi đó. Điều này tất nhiên là cái mà ác quỷ mong muốn. Cách duy nhất để con người tìm được tự do là sẵn sàng trải qua một giai đoạn khó khăn tìm cách thiết lập sự hòa điệu nội tâm trực tiếp với ta và cái ta Ki-tô của họ. Và hiển nhiên, toàn bộ mục đích của trang mạng này là giúp họ thực hiện được điều này.

Thực tế đáng buồn là nhiều người đạo Cơ đốc từ chối sử dụng khả năng phân biện của mình, từ chối đoái nhìn tới bất cứ gì đi ra ngoài giáo lý chính thống. Điều này có thể là khôn ngoan đối với một số người, vì nếu họ chưa sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về đường tâm linh của họ và dồn hết sức đào sâu sự hoà điệu với cái ta Ki-tô, thì họ chưa có khả năng nhìn thấu dối gạt của ác quỷ, và vì vậy họ có thể sẽ an toàn hơn nếu họ tạm thời ở lại với tôn giáo truyền thống. Nếu con xem bài giàng của ta về các cấp độ tinh tấn, con sẽ hiểu rằng một số dòng sống bị bối rối và tổn thương đến mức họ cần đến sự ổn định bên ngoài của một hệ thống tín ngưỡng truyền thống hầu được chữa lành.

Tuy nhiên, thời nay cũng có nhiều dòng sống nếu muốn tiến bước xa hơn sẽ cần phải nâng tâm thức mình lên cao hơn. Những người này cần bước vào giai đọan làm người tầm đạo tâm linh, mở tâm mình ra những ý tưởng vượt ngoài học thuyết chính thống. Nếu họ không thực hiện bước này, họ sẽ ngừng lại và sẽ trở thành tù nhân của ác quỷ mà chính họ đã tìm cách trốn tránh bằng cách trú ẩn trong một giáo hội Cơ đốc. Nói cách khác, sẽ tới một điểm khi dòng sống không thể tiến lên khi họ ở lại với một tôn giáo bị bao phủ bởi sợ hãi. Nếu muốn tiến bước, họ sẽ phải nhận lấy rủi ro và mở tâm ra những tư tưởng mới. Tất nhiên là có nguy cơ mở tâm ra với những ý tưởng sai lầm, thế nhưng thực tế cốt yếu của cuộc sống là nếu con sợ té ngã thì con sẽ không bao giờ biết đi. Trong một bài giảng vô cùng quan trọng, ta có giải thích là mọi tôn giáo có thể trở thành một cái bẫy ngăn chận con tìm được cứu rỗi.  

Dĩ nhiên ta hiểu rõ nhiều dòng sống đang phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan mà con thấy nơi những người bạn đạo của con. Họ cần phải tiến về phía trước và mở tâm mình ra để hiểu biết cao hơn về khía cạnh tâm linh của cuộc sống, nhưng họ không thể hoàn toàn ngừng bám vào cái nhìn đầy sợ hãi của tôn giáo. Đó là tại sao họ phải níu lấy đạo Cơ đốc chính thống dường như đang cho họ một nơi trú ẩn an toàn. Đó là tại sao ta đã phát hành trang web này cùng các cuốn sách. Mục đích của ta là cung cấp cho những tín đồ Cơ đốc đó một lối thoát hầu họ có thể mở tâm ra đón nhận ý tưởng mới mà không phải tiếp xúc với những ý tưởng giả trá. Dĩ nhiên là các chân sư thăng thiên cũng đang dùng một số phương pháp khác để đem vào thế giới nhiều loại giáo lý tâm linh chân thực cho thời đại này.  

Tiếc thay, trong vũ trụ vật chất này không thể có gì bảo đảm được kết quả. Tình thế khó xử của ta rất dễ hiểu. Để giúp cho mọi người nâng cao tâm thức, ta phải cho họ những giáo lý đi xa hơn giáo điều chính thống. Nhưng chính vì trang mạng này và các cuốn sách của ta chứa đựng những ý tưởng đi xa hơn giáo điều chính thống mà ta có thể đoán trước được một số tín đồ Cơ đốc sẽ gọi giáo lý này là huyền bí, thậm chí còn thuộc về quỷ. Ngay cả ta cũng không có giải đáp cho bài toán này. Ta chỉ có thể cúi mình tôn trọng quyền tự quyết của mỗi người và chờ cho đến khi họ có được một quyết định sáng suốt hơn.   

Nếu con cảm thấy có sự thúc giục nội tâm muốn tìm cách giúp những người bạn của con mở tâm ra với sự hiểu biết cao hơn, kể cả đưa cho họ xem lời dạy mà ta vừa cho con, thì chắc chắn ta sẽ biết ơn sự giúp đỡ của con trong vấn đề này. Chỉ có một điều là con phải chắc chắn là con không bị vướng mắc vào kết quả của việc làm của con, như ta đã giải thích trong phần chót của quyền “Ki-tô sinh ra trong con” (The Christ is born in you). Con hãy trình bày sự thật trong khả năng của con, xong hãy để họ tự do chọn lựa hướng đi của họ. Là một người đại diện cho Ki-tô, con không bao giờ được tìm cách ảnh hưởng sự chọn lựa của người khác. Đó là cách làm của ác quỷ và nó đã làm vậy từ khi nó nổi loạn chống lại Thượng đế, nhưng đó chưa bao giờ là cách của Ki-tô.

Con có thấy chăng là ác quỷ có thể chiến thắng bằng hai cách? Một là đánh lừa con đi theo con đường tay trái tà đạo. Và cách kia là khiến con sợ ác quỷ đến nỗi con không dám mở tâm ra cho bất cứ gì mới. Nếu con sợ huyền bí đến độ không dám nhìn ra ngoài giáo điều chính thống thì con đã cho phép ác quỷ kiểm soát con qua sự sợ hãi. Nếu các đệ tử của ta thời đó cũng có cái nhìn sợ hãi như nhiều tín đồ Cơ đốc thời nay thì làm thế nào đạo Cơ đốc đã ra đời? Những người đạo Do Thái chính thống đã có thể giết nó ngay khi họ giết ta!  

Nhận xét của Giê-su về phim của Mel Gibson “Cuộc Khổ nạn của Chúa Giê-su”

Hỏi: Thưa thày Giê-su, thày có thể cho con sáng ngộ gì về bộ phim mới của Mel Gibson được phát hành năm 2004 “Cuộc Khổ nạn của Chúa Giê-su”? Liệu thày có xem phim này là một cản trở cho thông điệp của thày vì thày sẽ trở thành thần tượng cho hàng triệu người? Hay liệu phim này cần thiết để tăng cường cho thông điệp của thày? Đây có phải là một mô tả chính xác về sự Đóng đinh của thày hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Nếu ta được yêu cầu làm cố vấn cho một bộ phim về đời ta, điều đầu tiên ta sẽ làm là đổi tiêu đề từ “Khổ nạn” thành “Phục sinh”. Chắc chắn ta không hài lòng là đạo Cơ đốc chính thống đã đặt chú ý và trọng tâm quá đáng như vậy vào sự kiện ta bị đóng đinh, và do đó đã bỏ qua sự kiện quan trọng hơn rất nhiều là ta đã phục sinh.

Phải, ta đã bị đóng đinh và hành quyết. Tuy nhiên, hàng ngàn người khác cũng đã bị hành quyết tương tự như vậy mà hầu như chẳng có ai chú ý. Lý do là vì, tất nhiên, việc một người bị đóng đinh chẳng quan trọng gì trong lịch sử thế giới. Vậy tại sao lại xem trọng sự kiện ta bị đóng đinh? Nó thật chẳng quan trọng gì hơn việc đóng đinh một người nào khác bị hành quyết theo lối ác độc này. “Hễ các người đã làm chuyện này cho một kẻ hèn mọn này là anh em của ta, thì các người cũng đã làm cho chính ta” (Matthew 25:40). Cho nên khi con bỏ qua sự hành quyết ác độc đối với từng nấy người, thì con cũng bỏ qua nỗi khổ của họ, là chính nỗi khổ của ta.

Điều ta cố giúp mọi người nhìn ra ở đây là việc ta bị đóng đinh không quan trọng hơn, hay kém quan trọng hơn, hàng ngàn người khác bị đóng đinh. Trải nghiệm của ta chỉ khác hơn ở chỗ là ta đã được phục sinh sau khi bị đóng đinh và ta đã hiện ra trước mặt các tông đồ trong một cơ thể phục sinh. Điều này quan trọng vì khi được hiểu chính xác, nó chứng minh là mọi người đều có thể bước trên một con đường sẽ dẫn họ đến tâm thức Ki-tô. Và khi họ đạt đến tâm thức Ki-tô đó, họ có thể chiến thắng mọi thế lực của vũ trụ vật chất, kể cả chính cái chết.

Thông điệp chủ yếu của đời ta không phải là lời tuyên bố được nhắc đi nhắc lại là ta đã chết trên thập tự giá để trả thay cho tội lỗi loài người, mà thông điệp chủ yếu là mặc dù người ta đã giết chết thân thể vật lý của ta, họ đã không thể giết được ta vì ta là nhiều hơn cơ thể và ta có thể sống còn sau khi cơ thể qua đời. Đây quả thực là thông điệp đáng lý phải được “hô lớn từ mọi mái nhà” cũng như trên màn hình chiếu phim.

Mọi con người đều có tiềm năng bước theo chân ta và làm những công việc ta đã làm. Và chìa khóa để bước theo chân ta là áp dụng cùng một cách tiếp cận đối với tôn giáo mà ta đã chứng tỏ trong suốt đời mình, là đi muốt tiến trình biến hóa tâm thức mà ta đã trải nghiệm. Đó mới đúng là thông điệp chủ yếu của đạo Cơ đốc, và như ta đã từng nói, ta mong muốn mọi hình ảnh của Ki-tô bị đóng đinh được gỡ bỏ khỏi các nhà thờ Cơ đốc và được thay thế bằng hình ảnh của Ki-tô phục sinh.

Cho nên đúng vậy, bộ phim này có tiềm năng là một cản trở cho thông điệp mà ta muốn gửi ra trong thời đại này. Nếu phim này trở nên thịnh hành trong quần chúng, quả là nó có thể tăng cường cho sự trọng tâm quá mức dành cho việc ta bị đóng đinh và đau đớn trên thập tự giá, một trọng tâm đã được củng cố suốt 2000 năm qua. Ta đã có bình luận về chủ đề “Chúa hiến thân cho loài người” ở một nơi khác cho nên như vậy cũng đủ rồi.

Khi con xem một bộ phim, con rất nên chú ý đến mức độ năng lượng của mình trước và sau khi xem phim. Nếu con nhận thấy mức năng lượng giảm xuống, con có thể chắc chắn là phim đã hút cạn năng lượng tích cực của con. Đại đa số các nhà làm phim không nhận thức rõ về sản phẩm của mình, nhưng những loại phim như vậy luôn luôn bị tà lực ảnh hưởng vì tà lực dùng bộ phim để đánh cắp năng lượng tích cực của người xem. Điều này đặc biệt đúng với các loại phim gây sốc cho khán giả qua các hình ảnh khủng khiếp, tình dục hay bạo lực.

Ta nghĩ người xem phim “Cuộc Khổ nạn” nếu họ chú ý đến mức năng lượng của mình, sẽ nhận thấy họ bị rút cạn hết năng lượng sau khi xem phim. Lý do thật đơn giản. Phim này chú tâm quá đáng vào nỗi đau đớn của ta trước và trong khi bị đóng đinh. Nói thật, ta thà không có tín hữu Cơ đốc nào nhìn thấy những hình ảnh của một người bị đóng đinh với thân thể đầy máu được trình bày là Giê-su Ki-tô.

Đó thật không phải là một cách mô tả chính xác về cách hành quyết này. Hiển nhiên là có chút máu nhưng không nhiều lắm. Những hình ảnh như vậy chỉ nhằm tạo chấn động cho người xem khiến họ làm tha hóa năng lượng của Thượng đế, rồi năng lượng này bị bọn quỷ dữ, tà thể cùng các linh hồn không xác hút lấy, vì chúng sống còn nhờ năng lượng tha hóa. Thẳng thắn mà nói, các rạp chiếu phim thường là vùng sinh sôi cho những loại sinh thể thấp kém đó, đặc biệt những rạp chiếu các bộ phim kinh hoàng, phim khiêu dâm và phim bạo lực giết chóc. Ta lượng định phim này là một loại phim nửa chừng giữa phim bạo lực và phim kinh hoàng.

Cho nên, không, bộ phim này không phải là một mô tả xác thực về sự đóng đinh. Đương nhiên, việc ta bị xét xử công khai và bị đóng đinh không là một trải nghiệm thú vị gì. Chính vì vậy mà vào buổi tối trước đó, ta đã băn khoăn đến độ xin Thượng đế lấy chén khỏi tay ta. Dẫu sao thì khi ta quy phục Thượng đế qua những lời: “Dẫu vậy, xin ý Cha được thành, chứ không phải ý con,” (Luke 22:42) thì ta đạt được một trạng thái an bình nội tâm sẽ theo ta trong suốt trải nghiệm.

Con sẽ nhận thấy là những ai trải qua hoàn cảnh khắc nghiệt tột cùng thường có một cảm giác bình an nội tâm với rất ít đau đớn, khó chịu. Các nhà khoa học giải thích sự kiện này là do các hóa chất trong bộ não tạo ra. Đúng là hóa chất có một vai trò nào đó, nhưng điều quan trọng hơn nhiều là trạng thái an bình nội tâm của dòng sống. Chính sự an bình nội tâm giúp cho hóa chất được phóng thích, chứ không phải hoá chất chế tạo được sự an bình nội tâm. Cho nên ta ở trong một trạng thái an bình như vậy trong toàn bộ cuộc trải nghiệm, và vì vậy ta đã không đến nỗi bị đau đớn như nhiều tín hữu Cơ đốc tưởng tượng. Chắc chắn ta đã không đau đớn như được mô tả trong phim.

Trong thời gọi là Thời kỳ Tăm tối [khoảng từ năm 500 đến 1000 SCN], việc người ta đồng cảm với nỗi khổ của Ki-tô là một chuyện tự nhiên, vì đời sống của họ thật cùng khốn, đau khổ. Như ta có giải thích suốt trang mạng này, các chân sư thăng thiên luôn luôn cố gắng tiếp cận con người qua một thông điệp tâm linh có khả năng giúp họ vươn lên cao hơn, và để chạm được họ, các thày phải đến gần họ với một thông điệp phù hợp với trạng thái tâm thức của họ lúc đó. Nếu họ đang trải qua nhiều đau khổ và nếu họ thấy được một vị sáng lập tôn giáo cũng phải nếm đau khổ, thì điều này quả thực có thể giúp họ mở tim ra nhận lấy thông điệp tâm linh.

Đó là một cách phải chăng để con người mở tim ra với Ki-tô trong những thời kỳ họ phải chịu rất nhiều khổ đau. Tất nhiên trong thế giới ngày nay vẫn còn những người bị khổ suốt đời, và họ có thể được giúp qua việc nếm trải khổ nạn của ta trên thập tự giá. Nhưng dẫu sao, thông điệp chính yếu vẫn nên là: qua việc nỗ lực đạt tâm thức Ki-tô, con sẽ vượt qua đau khổ, sẽ thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con và đem lại vương quốc Thượng đế trên trái đất. Không bao giờ thông điệp của các chân sư là con người phải tiếp tục đau khổ cả đời mình rồi sau đó mới được hưởng vương quốc Thượng đế sau khi chết. Mục đích của các thày là chấm dứt đau khổ ngay trên trái đất và đem Nước Trời vào thế gian này.

Ta hoàn toàn thông cảm là trong thế giới hôm nay có nhiều người đã trải qua rất nhiều đau khổ, kể cả chính Mel Gibson. Rồi điều này khiến họ nhận diện chính họ trong ta, vì ta cũng đã đau khổ. Tuy nhiên, điều xảy ra cho nhiều người là đau khổ tạo ra những vết thương cảm xúc trong cỗ xe linh hồn. Cho nên nếu họ tập trung vào khổ nạn của ta trên thập tự giá mà không hiểu thông điệp rằng họ có khả năng vươn lên khỏi đau khổ, thì việc tham gia đạo Cơ đốc sẽ không giúp họ tăng triển tâm linh.

Trái lại, việc tham gia vào đạo Cơ đốc có thể làm thui chột sự tăng triển tâm linh của họ, khiến họ cảm thấy mình phải chịu khổ đau vì chính ta đã khổ đau. Thật là một cách suy luận méo mó xuyên tạc đến độ nó thách thức khả năng hiểu của ta. Vậy mà vẫn có những dòng sống bị thương tích quá nặng đến mức họ không chịu buông những vết thương đó ra. Họ bám lấy vết thương vì vết thương đã trở thành một phần trong ý niệm bản sắc của họ, và họ không thể tưởng tượng là họ có thể được chữa lành khỏi vết thương. Cho nên một cách nào đó, họ biến khổ nạn của ta trên thập tự giá cùng cái chết của ta do khổ nạn đó thành một lời biện minh là họ không được chữa lành vết thương và bước lên một tầng cao hơn. Thậm chí họ còn cố dùng tấm gương của ta để xúi giục người khác thương xót họ, thương xót nỗi đau của họ.

Như ta vừa nói, thông điệp ở trung tâm cuộc đời của ta là: Con không phải khổ đau. Khi con bước theo chân ta và để cho cái tâm ở trong Giê-su Ki-tô bước vào trong con, con có thể khắc phục đau khổ con người và đạt được an bình nội tâm. Thậm chí con có thể thay đổi cả những hoàn cảnh vỏ ngoài đã tạo vết thương trong con. Con nghĩ tại sao ta đã chữa lành người bệnh tật và vực người chết sống lại nếu không phải là để minh chứng tâm thức Ki-tô có quyền năng trên mọi điều kiện vật lý? Con nghĩ tại sao ta đã chứng tỏ là một người với tâm thức Ki-tô có thể chinh phục chính cái chết nếu không để minh chứng là mọi người đều có tiềm năng chinh phục cái chết?

Cho những ai đang đọc dòng chữ này, hãy để ta đưa ra một lời khuyên nhủ. Xin con đừng cảm thấy mình có nghĩa vụ đi xem phim này chỉ vì dường như đây là một bộ phim về Giê-su Ki-tô và con cảm thấy mình phải biết rõ ta đã phải khổ đến chừng nào vì con. Con tuyệt đối không có bổn phận đi xem một bộ phim trưng bày nỗi khổ mà ta không hề trải nghiệm, một bộ phim mô tả việc ta bị đóng đinh thật thiếu chính xác. Và như vậy ta cho phép con được tự do không có bất kỳ cảm giác nghĩa vụ nào mà con có thể có.

Ta làm vậy vì ta biết rõ nhiều tín hữu Cơ đốc sẽ cảm thấy mình có bổn phận phải xem phim này chỉ vì bộ phim nói về ta. Nhưng như ta đang cố giải thích, phim này thực sự không phải về ta. Phim này là về một hình ảnh sai lạc đã được đạo Cơ đốc truyền thống củng cố từ 2000 năm qua. Và những hình ảnh được trình chiếu suốt bộ phim không phát xuất từ một viễn quan chân chính mà từ sự hư cấu của những người mang một quan niệm mất cân bằng về đau khổ.

Ta cũng biết là nhiều vị lãnh đạo Cơ đốc, kể cả Tòa thánh Vatican, sẽ tuyên bố là phim này trình bày sự kiện đóng đinh đúng y như thực. Một số sẽ nói như vậy vì họ tin thật như thế. Một số sẽ nói như vậy vì họ nhìn thấy một cơ hội chính trị để quay sự chú ý của mọi người về cái họ tin là quan điểm đúng đắn duy nhất về Ki-tô, tức chính quan điểm của họ.

Ta buồn là Vatican đã bày tỏ sự ủng hộ thận trọng đối với bộ phim, nhưng ta không ngạc nhiên. Rõ ràng, như đã được giải thích nơi khác, là Giáo hội Công giáo đã che khuất thông điệp đích thực của ta cho nên ta không ngạc nhiên khi chính đức Giáo hoàng cầm giữ một hình ảnh không thật về việc ta bị đóng đinh. Dù sao thì ta cũng không thấy được lý do tại sao người Công giáo phải có bổn phận đi xem phim này.

Ta không đang nói là con không nên xem phim, mà ta nói là con nên thoát ra khỏi mọi bó buộc phải xem phim. Con cần lắng nghe các sáng ngộ từ cái ta Ki-tô của con. Nếu con cảm thấy một sự thôi thúc nội tâm muốn xem phim, bằng mọi cách con hãy làm theo.

Tuy nhiên, ta rất khuyên con nên sử dụng các bài tập về sự bảo vệ tâm linh trước khi xem phim. Ta cũng rất khuyên con nên hình dung một quả cầu ánh sáng trắng tinh bao bọc con trong suốt thời gian xem phim, và con rất cẩn thận để không rơi vào những loại cảm xúc tiêu cực do xem phim.

Con hãy quan sát thật kỹ bộ phim làm thế nào để gia tăng tác động gây hết cơn sốc này đến cơn sốc khác cho đến khi người xem không còn khả năng giữ được tâm an bình nữa. Họ bị rơi vào một trạng thái chấn động lẫn chấn thương khiến họ mở toang ra với các thế lực muốn đánh cắp năng lượng của họ.

Con hãy dùng sự nhận biết của mình để tránh trở thành một nạn nhân cho sự thao túng tinh vi của phim này. Hãy tránh bị làm mồi cho mong muốn thương xót ta – vì nói cho cùng, dường như ta đang làm tất cả những chuyện này vì con – đến độ con bị đánh lừa và cảm thấy con phải mở tâm ra cho các hình ảnh hung bạo trong phim. Đây rõ ràng là một mưu toan lợi dụng tình yêu chân thực mà một số người có đối với ta, cùng ý thức bổn phận sai lạc mà nhiều người hơn nữa có đối với ta. Nó đánh lừa con để con mở tâm tiềm thức ra đón nhận thông điệp ẩn giấu bên dưới của bộ phim, và ta khuyên con chú ý đến thông điệp này. Con sẽ ngạc nhiên trước những tiết lộ mà cái ta Ki-tô của con có thể cho con nếu con lắng nghe nó với tâm cởi mở.

Ta không bảo là Mel Gibson đã làm việc này một cách ý thức. Ông chỉ đơn giản chạm vào mạch, và bị mắc bẫy, cái động lượng từ ngàn năm nhằm đưa ra một hình ảnh sai lạc về Ki-tô hầu ngăn cản mọi người bước theo gương của ta. Kết quả là bộ phim mang một thông điệp rất phá hoại. Đó là một thông điệp giả dối, và ta khuyên con nên coi chừng nó và tránh bị nó đánh bẫy.

Cho nên nếu con muốn coi phim này, con hãy xem đó như một trải nghiệm giáo dục. Con lắng nghe cái ta Ki-tô của con để học được bài học cụ thể mà cái ta Ki-tô muốn con học từ việc xem phim. Bài học này sẽ hơi khác đối với mỗi người.

Các linh mục Công giáo có nên được phép lấy vợ?

Hỏi: Thưa Giê-su, con hiểu được sự cần thiết thực sự cải tổ Giáo hội Công giáo, và con mong nhiều tín hữu Công giáo sẽ lắng nghe lời của thày về nhu cầu cải tổ này. Tuy nhiên con xin hỏi, liệu thày có nghĩ là các linh mục Công giáo nên được phép lấy vợ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ta là một thày tâm linh, và quan tâm của ta luôn luôn hướng về sự phát triển tâm linh của mỗi dòng sống cá nhân. Tăng trưởng tâm linh có nghĩa là giải quyết những tin tưởng sai lầm và vết thương tình cảm đang ngăn cản dòng sống đạt được sự viên mãn, trọn vẹn, cũng gọi là sự thánh thiện. Đây là một sự giải quyết tâm lý nội tâm, không thể là kết quả tự động, hay máy móc, của việc cử hành một số hành động vỏ ngoài. Vì vậy, việc cưỡng ép độc thân có rất ít giá trị và sẽ là một gánh nặng cho những dòng sống chưa sẵn sàng ngừng hẳn tình dục. Thay vì đưa đến việc giải quyết các vấn đề tâm lý, thì rất có thể nó sẽ khiến cho những vấn đề này gia tăng. Đây chính là lý do tại sao Giáo hội đang gặp phải một vấn nạn khổng lồ là sự xâm hại tình dục.

Điều ta muốn nói ở đây là mục đích thực sự của cuộc sống là bước trên một con đường tuần tự sẽ dẫn đến một trạng thái tâm thức cao hơn. Con đường này có thể ví như một cầu thang có nhiều bậc. Khi dòng sống bước lên cầu thang, y sẽ dần dần mất đi – một cách tự nhiên – những gắn bó, dính mắc, ham muốn hay quan tâm đến những thứ của thế gian này, đặc biệt là những khoái cảm giác quan do cơ thể vật lý tao ra. Nói cách khác, điều tự nhiên sẻ xảy ra là dòng sống sẽ lần hồi mất đi ham muốn tình dục của mình, và sẽ chú trọng nhiều hơn đến khía cạnh tâm linh của cuộc sống.

Nếu con khảo sát toàn bộ loài người, con sẽ thấy một số người đã đạt được trạng thái tâm linh này và đã bỏ lại đằng sau các ham muốn thể xác của họ. Con cũng thấy một số người dần dần vượt qua được ham muốn tình dục chỉ trong một kiếp sống. Nhưng con cũng thấy nhiều người trên địa cầu chưa sẵn sàng từ bỏ tình dục. Và nếu một người chưa sẵn sàng thì rất có thể việc ép buộc bản thân phải kiêng cữ tình dục sẽ không giúp cho người đó phát triển tâm linh. Sự kiêng cữ tình dục phải dựa trên căn bản một sự giải quyết đích thực vấn đề ham muốn tình dục trong sâu thẳm của nội tâm, thay vì chỉ là một quyết định của ý chí và tâm vỏ ngoài.

Ý định và hy vọng nguyên thủy của ta cho phong trào Ki-tô giáo là đưa ra một con đường tuần tự dẫn đến một trạng thái tâm thức cao hơn, tức là tâm thức Ki-tô. Lý tưởng, sự tăng trưởng này phải phát xuất từ một sự thấu hiểu, một thấu hiểu nội tâm đích thực, về những bí ẩn tâm linh của sự sống.

Khi dòng sống nhận được sự thấu hiểu như thế, y sẽ tìm được những lời giải đáp đích đáng cho những câu hỏi của y về sự sống. Những lời giải đáp này sẽ đem lại sự giải quyết sâu xa cho dòng sống. Y sẽ dần dần đặt thẳng hàng các tin tưởng của mình cho đồng bộ với thực tế cuộc sống, và y sẽ từ từ giải quyết được các vết thương cùng bế tắc tình cảm của mình. Do đó, sẽ không cần thiết phải tự ép mình làm một số hành động vỏ ngoài, mà y sẽ tự nguyện chọn ra những hành động nào mà y biết sẽ phục vụ cho quyền lợi sáng ngộ của mình.

Điều xảy ra với Giáo hội Công giáo là Giáo hội đã đi chệch đường so với chủ ý nguyên thủy của ta. Rồi Giáo hội bị cuốn mắc vào những cuộc tranh giành quyền lực, với kết quả là một số giáo lý ban đầu của ta bị loại bỏ. Vì thế Giáo hội đã không thể đưa ra cho tín đồ một hiểu biết đích thực khả dĩ dẫn đến một sự giải quyết đích thực. Hệ quả là Giáo hội đã rơi vào một truyền thống ép buộc tín đồ phải tuân theo giáo điều vỏ ngoài cũng như những luật lệ cư xử cứng nhắc.

Trong lý tưởng, một tổ chức tôn giáo cần có một hệ thống thứ bậc cho phép tín đồ tuần tự leo lên những mức cao hơn khi họ đạt được khả năng và họ sẵn lòng làm điều đó. Cấu trúc thứ bậc đó sẽ có nhiều trình độ dựa trên trình độ chứng đạt tâm linh khác nhau của mỗi người. Chẳng hạn, đa số nhân loại chưa đạt tới mức có thể xem việc kiêng cữ tình dục là một chuyện tự nhiên, hay thậm chí hữu ích cho mình. Những người này phải được quyền sống trong một khung cảnh gia đình bình thường, như rất nhiều người trong số họ vẫn đang làm.  

Một giáo hội cần một lớp tu sĩ phục vụ cho những thành phần như thế. Đây sẽ là những vị linh mục Công giáo có trách vụ quản trị bình thường. Nếu con muốn làm việc mục vụ hữu hiệu cho quần chúng, con phải hiểu biết những vấn đề mà người thường phải đối mặt. Làm sao con hiểu được những vấn đề này nếu chính con chưa sống qua? Nói cách khác, nếu con muốn phục vụ hiệu quả cho những gia đình, những cặp vợ chồng có con cái, điều vô cùng hữu ích cho con là con cũng là một người đã lập gia đình, có con cái phải chăm lo hàng ngày.

Thực tế đơn giản là nhiều vị linh muc Công giáo trở thành vô hiệu trong vấn đề muc vụ cho những cặp vợ chồng, những gia đình và trẻ nhỏ. Lý do là vì họ không hề có kinh nghiệm bản thân để dùng làm căn bản cho mục vụ của mình. Cho nên để trả lời câu hỏi của con, ý định của ta không bao giờ là tạo ra một tổ chức đòi hỏi các tu sĩ có trách vụ bình thường phải độc thân. Điều này đã được người ta thêm vào sau này, và không đúng với ý muốn cũng như ý định của ta. Điều này chỉ có mặt do nhu cầu tranh giành quyền lực và kiểm soát.

Bây giờ hãy trở về ý tưởng một hệ thống thứ bậc dựa trên những mức độ chứng đạt tâm linh khác nhau. Khi dòng sống leo con đường tâm linh, y sẽ mất dần một cách tự nhiên, qua một sự giải quyết nội tâm, các dính mắc của mình đối với những thứ của thế gian. Vì vậy, một tổ chức giáo hội phải cung ứng một cách thức cho những ai đã đạt được mức chứng đạt đó có thể sống trong một môi trường nơi họ có thể tập trung vào hoạt động tâm linh. Việc này có thể thực hiện qua các tu viện, hoặc một số khung cảnh khác được đặc biệt thiết kế cho những ai không mong muốn có đời sống gia đình. Việc này cũng có thể thực hiện qua những tổ chức phục vụ quần chúng, và một ví dụ tuyệt vời là tổ chức do Mẹ Teresa lập ra.

Trong những tổ chức như thế, việc sống độc thân sẽ là cách sống tự nhiên chứ không là một quy luật vỏ ngoài bị áp đặt. Đó sẽ là một việc làm tự nguyện dựa trên một sự giải quyết nội tâm và sự phát triển tâm linh đích thực. Những ai chưa đạt được mức này sẽ đương nhiên không chọn sống trong một môi trường như thế. Có thể nói, một tổ chức giáo hội nên có một khía cạnh công truyền nhắm vào việc phục vụ đa số quần chúng sống trong quan hệ gia đình bình thường, và đồng thời cũng có một khía cạnh nội tâm nhằm tạo cơ hội tối đa cho những ai muốn sống tập trung vào hoạt động tâm linh.

Nhưng hãy cho ta đưa ra một lời cảnh báo. Đúng là khi một dòng sống trưởng thành trên đường tâm linh, y sẽ lần hồi bỏ rơi sự vướng mắc vào những ham muốn trần thế một cách tự nhiên. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết có nghĩa là tất cả những ai chứng đạt tâm linh đều không nên lập gia đình và sống độc thân. Việc không kết hôn và bị bắt buộc sống độc thân sẽ không tự động đem lại phát triển tâm linh, và đây chính là tin tưởng sai lạc mà Giáo hội Công giáo cổ võ. Sự sai lầm này được chứng minh rõ ràng qua việc phơi bày tệ nạn xâm hại tình dục do các linh mục. Tệ nạn này cũng chứng minh hiểm họa khi giáo hội cố tình ép buộc một người phải tuân thủ luật lệ vỏ ngoài cứng nhắc khi dòng sống người đó chưa sẵn sàng sống được như vậy.

Điều ta muốn nói là các lãnh đạo của một giáo hội không nhất thiết phải là người độc thân. Một lần nữa, một tu sĩ chỉ có thể làm việc mục vụ hữu hiệu khi tự thân mình biết rõ những vấn đề của tín đồ. Vì vậy, một giáo hội có thể có những vị lãnh đạo, ngay cả những vị lãnh đạo cao cấp, đã lập gia đình. Thật sự, ta cũng không bảo rằng một dòng sống trưởng thành tâm linh sẽ phải ly dị và sống độc thân. Con hoàn toàn có thể tiếp tục cuộc sống hôn nhân mà vẫn kiêng cữ tình dục, hoặc con sinh hoạt tình dục một cách cân bằng hơn so với đa số cặp vợ chồng khác.

Cho nên ta không muốn nhìn thấy một tổ chức với một nền văn hóa quy định rằng những ai độc thân là tốt đẹp hơn, hay chứng đạt tâm linh hơn, những người không độc thân. Ta không khuyến khích bất kỳ hình thức phân biệt cao thấp nào vì nó nuôi dưỡng lòng kiêu hãnh, và kiêu hãnh thì ngược hẳn với tăng trưởng tâm linh. Con hãy nhớ lời này: “Ai là người cao nhất trong số các người, thì sẽ làm đầy tớ cho mọi người.”

Thuyết luân hồi có thể giúp các tín hữu đạo Cơ đốc như thế nào

Hỏi: Tại sao việc suy nghiệm thuyết luân hồi quan trọng đối với người đạo Thiên Chúa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Ta sẽ đề cập đến quan niệm luân hồi vì ta muốn tất cả các tín hữu của ta suy nghiệm về đề tài này. Hãy cho phép ta đưa ra những lý do tại sao ta xem đề tài này là quan trọng.

Thuyết luân hồi có khả năng giải thích rất nhiều những câu hỏi mà người tín đồ  Cơ đốc cho đến nay đã không tìm được câu trả lời. Nếu con suy ngẫm về khái niệm này và nghiệm xem nó áp dụng thế nào cho những vấn đề mà con đang đặt ra về cuộc sống và về Thượng đế, con sẽ tìm ra rất nhiều trả lời trong tim con.

Khi ta nhìn đạo Cơ Đốc ngày nay, ta nhìn thấy bao nhiêu người mộ đạo đã  thành tâm nỗ lực thực hành những lời dạy của ta qua trung gian các kinh sách và những giáo hội công truyền, vỏ ngoài. Tuy nhiên, vì kinh sách công truyền không chứa đựng chìa khóa cho giáo lý tâm truyền của ta, họ đã đặt ra rất nhiều câu hỏi không mang lời giải đáp. Vì những câu hỏi không có giải đáp này mà nhiều người cảm thấy một nỗi oán giận, phẫn uất rất sâu xa, mà nhiều khi chính họ cũng không nhận ra, đối với ta và đối với Thượng đế.  

Nhiều tín đồ Cơ đốc cảm thấy sứ mạng của Giê-su Ki-tô thuở xưa giống như một cái tát vào mặt nhân loại. Lý do là vì đạo Cơ đốc chính thống đưa ra một mục tiêu cho mọi người nhưng lại không có con đường rõ ràng nào để đạt được mục tiêu đó. Đạo Cơ đốc chính thống đưa ra mục tiêu là sự sống vĩnh cửu, nhưng lại không đưa ra con đường hợp lý nào để thực hiện sự sống vĩnh cửu. Ta hy vọng là nay con có thể nhận ra lý do chủ yếu khiến đạo Cơ đốc chính thống không đưa ra được một con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu là vì các lời dạy về quả vị Ki-tô cá nhân đã bị cắt bỏ. Chìa khóa duy nhất cho sự sống vĩnh hằng là quả vị Ki-tô nơi mỗi cá nhân.  

Để trở về với ý tưởng luân hồi, ta muốn nói là ý tưởng này có thể giúp con trả lời nhiều câu hỏi mà con chưa có giải đáp. Chẳng hạn, nhiều người đều biết là có những đứa trẻ sinh ra đã mang sẵn tật nguyền trầm trọng, dù là một khuyết tật vật lý, tình cảm hay tâm thần.

Nếu con không tin vào luân hồi, con chỉ có một chọn lựa là suy luận rằng Thượng đế đã muốn cho dòng sống đó sinh ra như vậy. Và con không khỏi phân vân tại sao Thượng đế lại muốn cho một dòng sống bước vào đời – mà dường như là cuộc đời duy nhất mà đứa bé đó sẽ trải nghiệm – với tật nguyền khắc nghiệt như thế. Khi con thêm vào đó ý niệm trừng phạt mà giáo hội chính thống chủ trương thì con chỉ còn cách suy diễn là có lẽ Thượng đế đã muốn trừng phạt dòng sống đó hay chăng. Thế nhưng làm thế nào một Thượng đế công bình bác ái lại có thể trừng phạt một dòng sống chưa có cơ hội nào để phạm tội?   

Khi con chấp nhận quan niệm luân hồi, con thấy được một lời giải thích. Mỗi con người đều đã từng có những kiếp sống trước đây. Cho nên những điều kiện mà con phải trải nghiệm trong đời này là kết quả của những nguyên nhân mà chính cá nhân con đã khởi động trong những kiếp trước. Hiểu đúng nghĩa của nó, trong luân hồi không hề có quan niệm trừng phạt. Hãy để ta giải thích chi tiết hơn cho con.

Khi Thượng đế tạo ra thế gian, ngài phán: “Hãy có ánh sáng”. Ánh sáng chỉ đơn giản là năng lượng. Mọi thứ trong toàn thể vũ trụ hình tướng được tạo bằng năng lượng của Thượng đế. Cho nên mọi việc con làm, con đều làm với năng lượng của ngài.

Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết, và con có thể quyết định mình muốn làm gì với năng lượng của ngài. Tuy nhiên, thật không công bình chút nào nếu ngài tạo ra một vũ trụ trong đó mọi người đều có quyền tự quyết, tự do làm bất cứ gì mình muốn bất chấp hậu quả cho người khác. Vì vậy Thượng đế cũng đã tạo ra luật nhân quả. Luật này này quy định rằng năng lượng mà con gửi ra vũ trụ sẽ bắt buộc gửi trở lại cho con.

Luật nhân quả là một định luật hoàn toàn khách quan. Nó cũng khách quan y như luật hấp dẫn, hay trọng lực. Nếu con nhảy ra khỏi chiếc máy bay mà không đeo dù, trọng lực sẽ khiến con rơi xuống mặt đất và toi mạng. Cái chết của con không phải là sự trừng phạt của một Thượng đế nóng giận đâu. Cái chết của con là hậu quả khách quan của một định luật thiên nhiên khiến cho mọi vật đều rơi xuống mặt đất. Luật nhân quả – hay luật nghiệp quả như nó mang tên ở phương Đông – không được Thượng đế đặt ra để mong trừng phạt con người. Nó được tạo ra như một cơ chế an toàn để ngăn chặn việc lạm dụng quyền tự quyết.

Kỳ thực, luật nhân quả là một vị thày thế chân, tạm thay thế cho vị thày chính. Vườn Địa đàng (vườn Eden) xưa kia là một lớp học được thiết lập để chuẩn bị cho dòng sống của con trước khi con bước vào đời sống trong vũ trụ vật chất. “Thượng đế” được nói đến trong Vườn Địa đàng không phải là Thượng đế trong ý nghĩa tối hậu, mà là một vị đại diện của Thượng đế, chính xác là một sinh thể tâm linh đã tình nguyện nhận lãnh vai trò làm thày giáo cho lớp học. Nhưng một số dòng sống, sau khi ăn trái cấm, đã rủ nhau lẩn trốn vị thày của mình.

Khi Thượng đế sinh tạo vũ trụ, ngài mong muốn tất cả mọi dòng sống luôn luôn là một phần của hệ thống thứ bậc trải dài từ cao đến thấp trong quan hệ thày-trò, sư phụ-đệ tử. Nói cách khác, không một dòng sống nào có thể bị bỏ rơi phải tồn tại một mình, mà ngược lại mọi dòng sống đều nhận được sự hướng dẫn thương yêu của một vị thày tâm linh. Tuy nhiên Thượng đế cũng ban cho mọi dòng sống quyền tự quyết, và ngài thừa biết một số dòng sống có thể sẽ sử dùng quyền tự do này để quay lưng lại thày mình, vì vậy mà phải có một cơ chế nào đó giống như một người thày thế chân để có thể tiếp tục giáo huấn.

Nếu một dòng sống chối bỏ vị thày tâm linh thì làm thế nào nó có thể học hỏi? Thật vậy, nó có thể học hỏi qua luật nhân quả. Luật này quy định rằng vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là một tấm gương, phản chiếu lại cho con tất cả những gì con gửi ra vũ trụ.

Nếu con gửi hận thù ra vũ trụ, năng lượng hận thù sẽ được gửi trả về ngay cửa nhà của con. Nếu con gửi tình thương ra vũ trụ, vũ trụ sẽ gửi lại tình thương cho con. Nếu Vườn Địa đàng là mái trường của giáo huấn yêu thương và tâm linh, thì luật nhân quả là mái trường giáo huấn của trường đời cay đắng. Đó là tại sao kinh Cựu ước đòi hỏi phải trả một con mắt bằng một con mắt, một cái răng bằng một cái răng. Quy luật này được ban ra cho những ai có tâm thức thấp kém đến độ họ không thể hiểu được một quy luật nào cao hơn.

Luật nhân quả được thiết lập hầu dạy con cách cư xử trong thế gian bằng cách khiến con phải trải nghiệm hậu quả của chính hành vi của con. Khi con có hành vi nào đó, hành vi của con sẽ kích hoạt một phản ứng dây truyền. Hành vi của con gửi một xung lực năng lượng ra vũ trụ, và năng lượng này sẽ nhất định gửi trả lại cho con. Tuy nhiên, vì cách vận hành của vũ trụ vật chất – mà một ngày nào đó khoa học sẽ giải thích được – năng lượng phải mất thời gian để gửi trả về cho con. Giả tỷ con giết người nhưng không ai tìm ra con là thủ phạm thì con sẽ không bị trừng phạt ngay trong cõi thế gian này. Rồi con sẽ qua đời do tuổi già mà không phải chịu bất cứ hậu quả nào của việc con làm. Nếu con chỉ sống đúng một kiếp thôi thì, quả nhiên, con đã thoát được tội giết người.  

Nói cách khác, nếu mọi người chỉ có một kiếp sống trên địa cầu thì Thượng đế đã cung cấp một lợi thế bất công cho những ai sẵn lòng nói dối và lừa đảo. Nếu con là kẻ gian dối, con có thể thoát khỏi hình phạt của tội lỗi ghê hồn nhất nếu không có ai phát hiện con là thủ phạm. Qua luật nhân quả, Thượng đế đã chỉnh sửa lại tiềm năng bất công này. Ngài đã đảm bảo không một ai có thể thoát được hậu quả việc làm của mình. Chỉ có điều là trong hầu hết các trường hợp, con sẽ không phải nếm mùi những hậu quả đó cho đến khi con tái đầu thai trong những kiếp sau.

Nhưng người ta có thể lập luận là việc trì hoãn hậu quả như vậy sẽ khiến cho con người khó học được bài học nhân quả hơn. Nếu vũ trụ có thể, chẳng hạn, giáng xuống một tia sét nẩy lửa mỗi lần có ai phạm tội thì có phải tốt hơn không? Nhưng cách lập luận này chỉ có thể áp dụng nếu con không hiểu biết gì về luật nhân quả. Và sự thiếu hiểu biết này không bao giờ là ý định của Thượng đế.

Thượng đế mong muốn con người hiểu rằng con người không bao giờ thoát khỏi hậu quả hành vi của mình. Hơn nữa, nếu con chỉ có một kiếp sống trên địa cầu và nếu mỗi lần con làm một điều gì khiến vũ trụ phải giết con chết, thì có phải là vũ trụ đã tước mất cơ hội học hỏi của con không? Và đó là lý do Thượng đế đã tạo ra một phản ứng chậm trễ, và kỳ thực, ngài làm vậy do lòng từ bi. Con thấy không, sự kiện nghiệp quả của con phải mất thời gian để bay ngược về con là một phương cách để Thượng đế, trong lòng từ bi và hồng ân của ngài, mở ra cho con cơ hội để con không phải hứng chịu hậu quả hành vi của mình.

Để hiểu trọn điểm này, con cần bỏ lại cái ý tưởng phàm phu muôn thuở cho rằng Thượng đế là một Thượng đế nóng giận có ý muốn trừng phạt con mỗi lần con vi phạm quy luật của ngài. Trên thực tế, ngài là một Thượng đế yêu thương muốn thấy con phát triển tâm Ki-tô của con. Ngài chỉ có một mong muốn mà thôi, là nhìn thấy con học được bài học của đời sống. Khi ngài trì hoãn hậu quả việc làm của con, ngài mở ra cho con khả năng là con sẽ thực sự học được bài học, từ bỏ cái trạng thái tâm thức đã khiến con làm điều sai trái, rồi nhờ đó con không phải gánh chịu hậu quả hành vi đó.

Ngay khoảnh khắc con làm việc gì sai trái, con gửi một xung lực năng lượng ra vũ trụ. Tuy nhiên, nếu con hoàn toàn hiểu ra là hành vi của mình là sai trái, và vì thế con vươn lên một mức tâm thức cao hơn khiến con không thể tái phạm, thì tuyệt đối không có ích lợi gì mà con phải hứng chịu hậu quả của hành vi. Thượng đế không muốn con bị trừng phạt mà chỉ muốn con học hỏi.

Nếu con đã học được bài học rồi thì chẳng còn lý do gì giữ con lại, ngăn cản sự phát triển của con bằng cách bắt con phải gánh chịu một hậu quả đau khổ. Nói cách khác, nếu con học được bài học của con trước khi vũ trụ phản hồi xung lực năng lượng về con, thì Thượng đế qua hồng ân và lòng từ bi, có thể tiêu hủy xung lực đó trước khi nó đập vào con trong một kiếp sau. Trong nhiều trường hợp, ngài có thể cho phép một trong những người anh, người chị tâm linh của con gánh vác nghiệp quả đó giùm con.  

Tuy nhiên nếu con chưa học được bài học thì Thượng đế sẽ để yên cho vũ trụ đáp trả lại xung lực năng lượng của con, và như vậy con lại nhận được thêm một cơ hội nữa để học hỏi qua trường đời cay đắng.

Ta biết nhiều người sẽ bảo: “Nhưng làm sao người ta có thể học được từ một tai họa nếu hoàn toàn không biết đó là hậu quả của việc mình làm?” Đây là một quan tâm chính đáng, nhưng thật không liên quan gì đến Thượng đế cũng như cách ngài thiết kế vũ trụ. Ngài thiết lập luật nhân quả nhưng đồng thời ngài cũng ban ra rất nhiều tôn giáo để dạy dỗ con người về luật nhân quả. Nếu có những người không chịu nghe lời dạy của ngài về luật nhân quả thì đây không phải là trách nhiệm của ngài. Đó chỉ là hậu quả không thể tránh khỏi khi họ cứ tiếp tục lạm dụng quyền tự quyết của họ như vậy.

Điều Thượng đế mong muốn là mọi người được hưởng sự hướng dẫn trìu mến của một vị thày tâm linh. Khi có những người quay lưng lại vị thày tâm linh và đi xuống vũ trụ vật chất, ngài đã không bỏ rơi họ một mình. Ngài đã ban cho họ những lời dạy tâm linh để giảng giải những điều kiện mà họ phải đương đầu trong thế gian. Nếu họ quyết định bỏ qua các lời dạy này thì ngài không còn cách nào khác hơn là để yên cho luật nhân quả giữ vai thày giáo.

Ngài chỉ có thể hy vọng là con người sẽ một ngày tự hỏi tại sao bao nhiêu sự việc như thế lại xảy ra cho mình. Có thể một ngày nào đó, họ sẽ suy xét và nhận ra là chính hành vi của mình đã dẫn đến các điều kiện mình đang nếm trải. Có thể một ngày, con người sẽ hiểu ra là khi họ tự hủy hoại như vậy thì chính họ cũng nắm vận mạng của họ trong tay, rằng chính họ có khả năng chuyển đổi vòng xoắn ốc đang kéo họ đi xuống. Thượng đế không thể làm gì để thay đổi tình thế mà không vi phạm quyền tự quyết của mỗi người, và quyền tự quyết thì ngài sẽ luôn luôn tôn trọng.

Một lý do khác nữa khiến cho luật nhân quả là một vị thày hữu hiệu là một khi con người đánh mất liên lạc với vị thày tâm linh, họ chỉ có thể học hỏi qua kinh nghiệm bản thân mà thôi. Chẳng hạn, con hãy tưởng tượng một người sinh ra làm vua của một quốc gia ở Âu châu thời trung cổ. Nhà vua lạm dụng quyền thế và đối xử thật tệ bạc với thần dân. Ông sống trong xa hoa lộng lẫy trong khi người dân phải chịu cảnh nghèo đói khốn cùng. Ông sống trong cung điện hoành tráng và hoàn toàn không biết tới những nỗi đau khổ của dân chúng. Trong trường hợp này, dòng sống ông vua đó sẽ chẳng học hỏi được gì về hậu quả việc làm của mình.

Tuy nhiên, như luật nhân quả quy định, dòng sống ông vua kia sẽ phải trải nghiệm hoàn cảnh này từ thế đối diện trong một kiếp tương lai. Nói cách khác, ông ta sẽ phải sinh ra làm thần dân của một ông vua bạo ngược khác. Do phải sống và trải nghiệm trực tiếp hậu quả việc làm trước đây của mình, dòng sống nay có cơ hội học hỏi, và có thể nó sẽ quyết định từ bỏ trạng thái tâm thức kia đã khiến nó hành động ích kỷ.

Tất nhiên, một số dòng sống sẽ cực kỳ khó khăn học được bài học giản dị này. Vì vậy, họ sẽ tiếp tục đầu thai trong cùng những điều kiện bên ngoài, hết kiếp này rồi tới kiếp khác, cho tới khi họ rút tỉa được bài học và chuyển sang những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, nếu dòng sống sẵn sàng quay về một giáo lý hay một vị thày tâm linh, họ sẽ nhanh chóng học được là sự ích kỷ không bao giờ giúp mình phát triển. Thậm chí, dòng sông có thể học cả bài học cuối cùng là phải buông bỏ toàn bộ tâm thức nhị nguyên mà đón nhận tâm thức Ki-tô.

Ta là Giê-su Ki-tô, và ta đã hiến mạng sống của ta để đem lại các giáo lý về tâm thức Ki-tô. Các vị thày tâm linh là những người anh, người chị của ta cũng đã nỗ lực đem lại cùng những giáo lý đó trong nhiều bối cảnh khác nhau. Trên thực tế, không một người nào đã từng sống trên hành tinh này mà không tiếp cận được giáo lý tâm linh dưới một hình thức nào đó.

Ta phải nhìn nhận là do sự hiện diện của một tầng lớp thượng tôn quyền lực và tính cách tương đối của tâm nhị nguyên, nhiều người đã không tiếp cận được một giáo lý tâm linh thuần khiết. Tuy nhiên, mỗi dòng sống luôn luôn có một điều gì đó mà mình có thể sử dụng để làm bàn đạp hầu đạt đến một hiểu biết cao hơn về cuộc sống. Nếu người đó sẵn sàng sử dụng những gì đã được ban ra, rồi nhìn vượt ra ngoài những giáo lý công truyền, thì quả thật đã có thể nhận được giáo lý cao hơn từ nội tâm.

Thông điệp chủ yếu mà ta muốn gửi cho con là Thượng đế đã làm tất cả để con dễ dàng học được bài học độc nhất mà con cần học trong đời này. Tuy nhiên, sự tương đối của tâm nhị nguyên thật là bất tận. Nó có thể nghĩ ra vô số lý do để bào chữa tại sao nó đã không chấp nhận hay không đi theo giáo lý tâm linh chân truyền.

Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Quyết định hoàn toàn nằm với con là con sẽ bước theo con đường chân chính phát xuất từ Đại đoàn chưởng giáo của Ánh sáng, hay là con sẽ bước theo con đường giả trá, con đường có vẻ đúng đắn đối với tâm nhị nguyên.

Trước khi ta rời chủ đề luân hồi, hãy để ta nói thêm về một lý do nữa tại sao ta muốn các tín hữu của ta mở tâm ra với quan niệm luân hồi. Ta muốn các con mở tâm ra với luân hồi vì luân hồi là thực tế. Khi ta hiện thân trên địa cầu, ta đã biết luật của Cha ta, và ta đã giảng dạy luật này cho những ai theo ta. Ta không bao giờ muốn các giáo hội Cơ đốc tước mất chìa khoá của hiểu biết.

Cho nên ta nói với giới chức sắc trong các giáo hội chính thống đã tước mất quan niệm về luân hồi: “Khốn cho các người là các thày thông giáo, vì các người đã tước đi chìa khóa của hiểu biết. Chính các người đã không bước vào mà lại còn ngăn cản những ai muốn bước vào. Cho nên ta không biết các người.”

Thực tại nằm trong tâm người đọc

Hỏi: Một trong những quyển sách thất lạc của Kinh thánh, quyển kinh Jasher, có thuật lại là Abraham, vì không tôn thờ các thần giả vào thời của ông, đã bị ném vào lò lửa và thoát thân bình an vô sự, trong khi người anh em của ông thì bị thiêu cháy. Đó có phải là một câu chuyện thật, và liệu quyển kinh của Jasher có chính xác hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Có và không! Theo nghĩa là, con yêu dấu, có nhiều câu chuyện trong kinh Cựu ước, và thậm chí cả kinh Tân ước, không có cùng một loại thực tại mà con có thể quan niệm ngày nay khi con nghe về khái niệm thực tại. 

Con thấy đó, con yêu dấu, tâm thức nhân loại đã thay đổi lớn lao trong vòng mấy ngàn năm qua theo những cách mà con người hiện đại không sao hiểu được. Và do đó khi con nhìn lại một số lời dạy trong Kinh thánh – và ngay cả trong các kinh điển khác của thế giới như kinh Veda hay kinh Phật giáo – thì một người với một tâm thức hiện đại, do đã quen lối suy nghĩ duy vật và đường thẳng, sẽ đặt lên câu hỏi: “Ủa, chuyện này có thật không?” Và khi họ hỏi như vậy thì họ cũng nhìn vào đó theo cách họ quan niệm thực tại.  

Trong khi đó thì một người sống vào thời buổi đó sẽ có một quan niệm khác hơn về thực tại, nghĩa là họ không đến nỗi đường thẳng, không đến nỗi quá tập trung vào khía cạnh vật chất, và do đó họ không nhất thiết sẽ nhìn mọi chuyện một cách đen trắng, đường thẳng. Cho nên ở một mức độ nào đó, họ hiểu rằng các lời kinh dạy mang một tính chất biểu tượng, và cái lò lửa kia không nhất thiết là một lò lửa vật lý, mà nó biểu tượng cho cuộc thử lửa mà mỗi việc làm của mọi người đều được thử thách, cho dù là có thật hay không thật.    

Cho nên, con yêu dấu, đó là cái đã tạo ra vấn đề – và qua đó phong trào cực chính thống (fundamentalist) hiện đại đang bị ảnh hưởng bởi cách suy nghĩ hiện đại, cách tư duy đường thẳng duy vật hiện đại, nhưng họ lại không biết. Và khi họ nhìn vào Kinh thánh, nhìn vào một số lời dạy và câu văn trong đó, thì họ bảo: “À, đây nhất định phải là chuyện đã thực sự xảy ra trong thế giới vật lý, đúng y như cách CHÚNG TA hiểu bản văn Kinh thánh.” Và họ không nhận ra là con người thuở xưa không nhất thiết đã hiểu theo cùng cách như vậy.

Vì thế chẳng hạn, khi con nhìn vào trận đại hồng thủy thời Noah, con có thể nói, đúng là có một thực tế nào đó theo nghĩa là có một trận lụt đã phát sinh ra câu chuyện về con tàu của Noah. Nhưng đó không phải là loại lụt mà con quan niệm thời nay. Bởi vì, con yêu dấu, vào thuở con người nhận được lời dạy và trải nghiệm tai biến đó, thì người ta chưa có quan niệm về trái đất mà con hiện có. Họ không thấy trái đất rộng lớn như con thấy bây giờ, họ không thấy trái đất tròn, họ không biết là trên trái đất có những rặng núi cao hơn gấp bội những ngọn núi như núi Ararat mà họ quen thuộc.

Cho nên, con yêu dấu, khi con – với một tư duy hiện đại – nhìn vào trận lụt của Noah, con nói: “Chà, nếu Kinh thánh phải được hiểu theo nghĩa đen thì nhất định có nghĩa là một trận đại hồng thủy toàn cầu đã trải rộng khắp trái đất và nước lụt đã lấp cả đỉnh Everest.” Và đó là lúc con rơi vào cái khía cạnh kia của tư duy hiện đại là tư duy khoa học hoài nghi, bảo rằng: “Ái chà, làm sao chuyện này có thể xảy ra được? Khối nước khổng lồ đó từ đâu mà có?”

Con yêu dấu, con có thấy điều ta muốn nói ở đây không? Có một sự kiện vật lý đã khởi đầu cho câu chuyện nói trên, nhưng đó không phải là cùng loại biến cố mà con mường tượng với tư duy hiện đại. Nói cách khác, một huyền thoại đã được dựng lên khiến cho biến cố đó trong tư duy hiện đại trở nên to lớn hơn hẳn sự kiện thực tế.

Và đây là chuyện xảy ra với rất nhiều điều của quá khứ, con yêu dấu. Đó là tại sao ngay câu đầu, ta đã nói là quyển sách đó vừa chính xác vừa không chính xác. Bởi vì điều này thực sự tùy thuộc vào tư duy của con khi con đọc một bản văn cổ, tức là cái phin lọc mà con nhìn xuyên qua để mà diễn giải.  

Con yêu dấu, quả thực là Đại thượng sư [khi thày hiện thân là Homer] đã đưa ra các lời dạy trong hai bộ sách Odyssey và Iliad. Nhưng liệu điều này có nhất thiết có nghĩa là nhân vật chính trong quyển Odyssey đã chạm trán với tất cả những sinh vật được mô tả trong sách hay không? Hay đó là một biểu tượng cho những gì anh ta đã đối mặt trong chính tâm thức của anh? Cho nên liệu con có phải khoác vào cái tư duy cho rằng nếu ngày nay con không tin những loại sinh vật như vậy có thể hiện hữu, thì bắt buộc quyển Odyssey cũng hoàn toàn hư cấu và do đó không có chút giá trị nào cho loài người hiện đại hay sao?

Và tất nhiên – một lần nữa với Kinh thánh – câu hỏi đặt ra là liệu các biến cố được kể lại trong Kinh thành có nên được diễn giải từng chữ trong nghĩa đen bởi tư duy hiện đại hay không? À, sự kiện chúng mang một ý nghĩa biểu tượng thâm sâu hơn đã không khiến chúng trở thành lỗi thời đâu con. Cho nên một lần nữa, con đừng bám mắc vào những cách diễn giải đó, bởi vì như chúng tôi đã bày tỏ qua các lời dạy hiện đại, có rất nhiều điều hơn nữa cần được con người thấu hiểu. Và như con sẽ thấy qua cuốn sách của thày Maitreya [Master keys to spiritual freedon – Bí quyết của tự do tâm linh], có một cách hiểu về kinh Sáng thế sâu xa hơn hẳn cách diễn giải thông thường theo nghĩa đen.

Như vậy ta cũng muốn tạo ấn tượng trong con là các giáo lý tâm linh có nhiều cách diễn giải. Điều này không có nghĩa là có một cách đúng và mọi cách khác bắt buộc phải sai. Đây lại là một hệ quả khác của tư duy hiện đại, qua đó dựa trên cách suy nghĩ khoa học, con tin rằng mỗi câu hỏi đặt ra chỉ có một câu trả lời duy nhất, hay mỗi sự đo đạc khoa học chỉ có một kết quả đúng đắn duy nhất. Ấy nhưng ta nói vói con, có một tầng mức tâm thức chỉ biết đến số lượng, và đó chính là tầng tâm thức mà khoa học thời nay đang bị kẹt vào. Đó là lý do tại sao người ta muốn đo đạc và định lượng mọi chuyện.    

Nhưng vượt trên tầng mức của thực tại có thể được đo lường, còn có một tầng mức thâm sâu hơn nơi con không thể định lượng bằng cách đo đạc, bằng cách chia ra thành từng đơn vị nhỏ, bởi vì thực tại không hề đường thẳng. Cho nên để hiểu và tiếp cận với tầng mức thực tại thâm sâu đó, con phải sẵn lòng vượt quá cái tư duy trí thức, phân tích, cứ muốn đo lường mọi chuyện rồi dán nhãn lên mọi chuyện.

Điều thực sự quan trọng không phải là liệu một bản văn tâm linh có chính xác hay có diễn ra đúng như mô tả hay không. Điều thực sự quan trọng là con sử dụng câu chuyện đó để kích hoạt một trải nghiệm nội tâm sẽ giúp con thăng vượt một mức tâm thức nào đó. Kinh sách và văn bản tâm linh không được thảo ra để cống hiến một số thông tin trí thức, đường thẳng, hay một số dữ kiện nào đó. Chúng được viết ra để giúp con người thăng vượt một mức tâm thức. Không một ai trong thế giới hiện đại đã hoàn toàn thoát khỏi trạng thái tâm thức thần thoại, cho nên mọi người đều có thể tìm thấy lợi ích trong việc đọc các bản văn cổ và sử dụng bản văn để làm bàn đạp cho những khám phá trực giác.

Cho nên, con yêu dấu, ta cũng biết là ta đã không trả lời câu hỏi của con một cách đường thẳng, nhưng ta tin tưởng trả lời như vậy cũng là đủ rồi.

Mật mã trong Kinh thánh

Câu hỏi 1: Liệu các mật mã Kinh thánh trong quyển kinh Torah là thật hay không?

Câu hỏi 2: Hình như mọi người đều đang bàn tán sôi nổi về một đoạn mã được tìm thấy trong ấn bản gốc tiếng Do thái của Kinh Cựu ước, hay Torah. Liệu mật mã này có thật hay không? Nó có tiên đoán một số biến cố thực trên địa cầu? Liệu nó chỉ chứa đựng một hậu quả duy nhất hay mấy hậu quả khác nhau có thể xảy đến? Có phải Thượng đế hay người ngoài hành tinh đã đặt nó vào trong đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Con hãy tự đặt một vài câu hỏi. Tại sao Thượng đế lại đi giấu mật mã trong một lời dạy tâm linh được trao truyền ban đầu như một lời tiết lộ trực tiếp và sau đó được truyền khẩu cho đến ngày nay? Tại sao lại cài vào trong đó một đoạn mã mà không ai có thể giải thích được cho tới 2000 năm sau, khi máy tính được phát minh?

Để tin vào một mật mã như vậy, con phải tin rằng mặc dù Thượng đế đã trao cho nhân loại Kinh thánh trong một sự tiết lộ trực tiếp, tự dưng ngài đã đánh mất khả năng tiết lộ trực tiếp đó sau khi ban ra Kinh thánh. Nói cách khác, ngài đã phải biết trước là ngài chỉ có đúng một dịp duy nhất để ban tiết lộ thiêng liêng cho loài người, và do đó ngài đã phải cài vào một đoạn mã để sau này người ta có thể diễn giải khi người ta có máy tính nhưng không còn nhận được tiết lộ nữa.

Khi con suy nghĩ một chút, con sẽ thấy chuyện này hoàn toàn vô lý. Thượng đế là đấng toàn năng, cho nên ngài không thể đánh mất khả năng giao tiếp với loài người. Vậy tại sao ngài lại cài đặt mật mã vào một lời được ban ra cách đây hàng ngàn năm để truyền đạt một thông điệp mà ngày nay ngài có thể dễ dàng truyền đạt qua sự tiết lộ trực tiếp? Một khi con nắm vững thực tế của tiến trình tiết lộ tuần tự – một tiến trình đã tiếp diễn từ trước khi lịch sử được ghi chép và sẽ còn tiếp diễn một cách vô hạn định trong tương lai – thì hiển nhiên không hề có nhu cầu giấu mã trong Kinh thánh.     

Điều hoàn toàn đúng là bất kỳ lời dạy tâm linh chân chính nào cũng có thể được diễn giải ở nhiều tầng cấp khác nhau. Điều này được diễn tả qua câu: “Giê-su chẳng hề giảng cho quần chúng mà không sử dụng ngụ ngôn, nhưng khi ở riêng, thày cắt nghĩa tất cả mọi điều cho môn đồ của mình.” (Mark 4:34)

Cho nên giáo lý của ta có những tầng cấp thông hiểu khác nhau tương ứng với trình độ tâm linh của người nhận trưởng thành tới đâu. Dù sao thì ý nghĩa “ẩn giấu” như vậy không mang hình thức mật mã chỉ được giải trình bởi một chiếc máy tính, mà nó được ban ra dưới dạng một lời dạy mà tâm nhị nguyên không có khả năng hiểu được. Ý nghĩa thực của nó có thể được mở khóa khi người tầm đạo nâng cao tâm thức của mình vượt lên khỏi tư duy nhị nguyên và bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của mình.   

Tại sao bỗng nhiên nhiều người lại quan tâm và phát hiện ra những cái gọi là mật mã Thánh kinh chứ? Một phần là vì tâm thức loài người đang được nâng lên, và điều này khiến cho con người dễ dàng nhận diện hơn các mô thức “ẩn giấu”.

Tuy nhiên còn một phần giải thích khác nữa, đó là kể từ biến cố Sa ngã, một số người đã tìm cầu một cách thức máy móc để đạt cứu rỗi. Những người như vậy ham chuộng máy tính, và ngược lại với một ý tưởng thịnh hành, máy tính là một thiết bị hoàn toàn máy móc sẽ không bao giờ đạt được khả năng thông minh thật sự. Một chiếc máy tính chỉ có thể nhận dạng những mô thức máy móc, nhưng quả vị Ki-tô thì không thể chứng được một cách cơ học máy móc – cho dù nhiều thày giả muốn con tin là chuyện này có thể làm được. Đây chính là “con đường có vẻ đúng cho con người, nhưng cuối cùng lại là con đường của sự chết” (Châm ngôn 14:12).    

Thực tế đơn giản là máy tính không có khả năng rút tỉa thông tin thực. Nó chỉ có thể phân tích một tác phẩm văn chương và so sánh với những con số đã được người dùng máy lập trình vào trong máy. Cho nên những loại mã mà người ta có thể tìm thấy trong Kinh thánh đã được định sẵn bởi những gì người dùng máy muốn tìm. Điều này rất giống như khám phá của ngành vật lý lượng tử, cụ thể là tâm thức của người quan sát sẽ nhất định ảnh hưởng đến kết quả được quan sát.

Sự thật đằng sau việc “khám phá mật mã” này là: Chừng nào con người còn bị mắc kẹt trong tâm nhị nguyên thì họ sẽ còn xu hướng nhìn thấy những gì họ muốn nhìn thấy. Chỉ khi nào con vươn lên cao hơn nhị nguyên và chứng được tầm nhìn đích thực của tâm Ki-tô thì con mới thấy được cái thực.  

Trên thực tế, con có thể lấy hầu như bất kỳ tác phẩm văn chương nào đủ dài và đủ phức tạp và tìm thấy trong đó một loại mã hay mô thức nào đó. Tuy nhiên, như nhà vật lý lượng tử sẽ hỏi: “Liệu thế giới thật sự có ở đó hay chăng khi không có ai đứng nhìn?” thì cũng vậy, con có thể hỏi: “Liệu mật mã Thánh kinh thật sự có ở đó hay chăng khi không có ai tìm nó?”  

Cũng có một vài tác phẩm văn chương mà tác giả đã cố tình cài vào một mật mã. Người ta làm chuyện này trong những xã hội bị nhà nước hay giáo hội đàn áp và tác giả gặp nguy hiểm khi tiết lộ một loại thông tin nhất định nào đó. Cho nên thông tin được bảo mật dưới một dạng mã mà chỉ những ai nắm được chìa khóa mới có thể đọc được. Có một số ví dụ như vậy là các tác phẩm của Francis Bacon và Shakespeare. Tuy nhiên như ta vừa giải thích ở trên, Thượng đế không hề có nhu cầu sử dụng những loại mã như thế. Thượng đế cùng các chân sư thăng thiên có khả năng, bất cứ lúc nào, sử dụng sự tiết lộ trực tiếp để truyền đạt thông điệp của mình.  

Vai trò của Giu-đa

Hỏi: Điều gì đã xảy ra cho Giu-đa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Như đa số những ai đã tự vận, Giu-đa đã tái đầu thai nhanh chóng. Tuy nhiên, Giu-đa là một dòng sống già dặn, và đó là vì sao ông đã được chọn làm một tông đồ của ta và ông đã nhận lời gọi. Thế rồi dòng sống của ông đã thăng thiên kể từ đó.

Giu-đa hiện không phải là một thành viên của chân sư thăng thiên – theo nghĩa một sinh thể đã thăng thiên đang làm việc với các dòng sống trên địa cầu – nhưng thày đã chuyển sang những tầng khác nơi cõi tâm linh. Lý do là vì có quá nhiều sự lên án đổ lên thày từ các tín hữu đạo Cơ đốc cho nên Giu-đa sẽ không thể hiệu năng nếu thày quyết định phụng sự các dòng sống trên trái đất. Do đó thày có thể dùng khả năng của mình hữu hiệu hơn bằng cách làm việc với dòng sống nơi các hệ thống thế giới khác.

Trên thực tế, ta rất mong muốn nhìn thấy các tín đồ Cơ đốc tha thứ cho Giu-đa và hoàn toàn buông xả mọi cảm xúc tiêu cực đối với ông. Người đạo Cơ đốc sẽ được lợi lạc rất nhiều nếu họ tha thứ cho hành vi của ông và chỉ đơn giản bỏ qua tất cả. Cách nhìn đúng đắn về Giu-đa là nhìn ông trong mối liên hệ với người mù bẩm sinh trong câu chuyện Phúc âm. Con có nhớ là sau khi ta chữa lành cho anh mù ấy, các tông đồ có hỏi ta liệu nguyên nhân sự mù lòa là do chính anh đã làm tội hay do cha mẹ của anh đã làm tội. Thì ta đã trả lời: “Chẳng phải anh ấy, cũng chẳng phải cha mẹ anh ấy đã làm tội, mà do sự vận hành của Thượng đế được biểu lộ ở trong anh.” (John 9:3)

Câu nói đó cho thấy anh mù ấy là một dòng sống già dặn đã chọn khoác vào tật bẩm sinh kia để chu toàn một vai trò trong sứ vụ của ta. Cũng vậy, Giu-đa là một dòng sống già dặn đã chọn đảm nhận một vai trò đặc thù trong sứ vụ của ta.

Giu-đa là một người có nhiều mối quan hệ với giới lãnh đạo Do Thái thời đó, và kết quả tốt nhất có thể xảy đến là ông thành công thuyết phục được một số lãnh đạo này công nhận ta như một vị tiên tri chân chính có khả năng đóng góp đổi mới tôn giáo Do Thái. Mong mỏi này không thành hình vì các lãnh đạo Do Thái đã không sẵn lòng muốn thấy tôn giáo của họ đổi mới. Họ lo sợ sẽ mất quyền lực cùng quyền kiểm soát của họ – một nỗi sợ không phải là không có cơ sở.

Khi Giu-đa thấy rõ là ông không thể thuyết phục giới quyền chức rằng ta là một vị tiên tri chân thực, thì điều hay nhất là ông nên buông hẳn chuyện đó đi. Nhưng không may, ông trở nên dính mắc với ý muốn giúp ta hoàn thành sứ vụ của ta. Ông tin rằng nếu ông có thể thúc ép một cuộc chạm trán giữa chính ta và giới quyền chức, thì ta sẽ sử dụng những quyền năng tâm linh mà ông đã thấy ta sử dụng mấy lần. Giu-đa tin rằng nếu giới quyền chức được chứng kiến tận mắt các quyền năng này thì họ sẽ cảm hoá và chấp nhận ta như một tiên tri. Điều không may là ông không hiểu mục đích sâu xa của sứ vụ của ta, và các tông đồ còn lại của ta cũng vậy. Về điểm này, phải nói là chính ta cũng không hiểu một cách ý thức tât cả mọi hệ quả của sứ vụ của ta cho đến khi phục sinh.

Cho nên thực sự Giu-đa đã hy vọng rằng điều mà các tín đồ Cơ đốc thời nay coi là một sự phản bội, chính thực là một hành động sẽ cuối cùng đem lại sự vinh quang cho ta. Tuy nhiên, ông cứ tưởng là vinh quang tối hậu của ta là sẽ trở thành vua của người Do Thái – một viễn quan phát xuất từ tâm nhị nguyên. Hành động của Giu-đa quả thực đã dẫn đến vinh quang tối hậu cho ta nhưng là sự vinh quanh tâm linh, qua đó dòng sống của ta đã chiến thắng phàm ngã và nhờ vậy chứng tỏ được con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Và trong cùng tiến trình này, giới quyền chức Do Thái từng kết án ta tử hình, cũng đã đem lại bản án cho chính họ.

Các tín đồ đạo Cơ đốc cũng nên xem xét việc ta bị nộp cho nhà cầm quyền rồi bị xử án là một điều cần thiết cho sứ vụ của ta được hoàn thành. Nếu Giu-đa không hành xử như ông đã hành sử thì câu chuyện đã có thể khác, và nếu ta không muốn nó xảy ra thì ta đã có thể dễ dàng trốn thoát khỏi thành Jerusalem, hay ta đã có thể thỉnh gọi 12 đạo thiên sứ đến giải cứu (Matthew 26:53). Cho nên đây là thêm một lý do để tha thứ cho Giu-đa và xem ông như một người đóng một vai trong một vở tuồng.

Có hai bài học quan trọng mà mọi người có thể rút tỉa từ cuộc đời của Giu-đa. Một là sự quan trọng của lòng tha thứ. Việc Giu-đa tự vận là một sự kiện đáng tiếc đã không đẩy nhanh sự phát triển tâm linh của ông. Lẽ ra ông đã nên thực sự tha thứ cho chính mình và cống hiến phần đời còn lại để tập trung vào đường tu tâm linh mà ta đã chứng tỏ. Nếu ông làm vậy thì ông đã được hoàn toàn tha thứ, và ông cũng đã quân bình được mọi năng lượng tha hóa, hay nghiệp, mà ông đã gây ra do hành vi của ông. Ý ta muốn nói là tha thứ luôn luôn là một điều chúng ta có khả năng làm được, và tự vận không bao giờ là cách phản ứng hay nhất trong một tình huống khó khăn.

Bài học quan trọng khác là cuộc sống trên hành tinh này có thể được xem như một màn trình diễn trên sân khấu. Mỗi con người là một diễn viên đóng một vai nhất định trong vở tuồng cuộc sống. Khi con đi xem kịch ở nhà hát, con dư biết khi một người bước lên sân khấu trong trang phục của Hamlet là con không đang nhìn Hamlet thực. Con đang nhìn thấy một người có cuộc sống hoàn toàn độc lập với vai trò mà họ đang đóng trên sân khấu. Người đó chỉ đơn giản khoác vào một bộ quần áo và đang đóng một vai tuồng. Khi tuồng kết thúc, diễn viên sẽ cởi áo ra và trở lại cuộc sống bình thường.

Điều này cũng tương tự như điều xảy ra khi một dòng sống đầu thai trên trái đất. Dòng sống là con người thực của con. Thân xác mà con khoác vào cùng cuộc đời mà con sống có thể ví như vai tuồng trong màn trình diễn có tên là “Cuốc sống trên địa cầu.” Một khi vai tuồng trong vở kich đời sống chấm dứt, con sẽ cởi bộ trang phục đó ra và trở về nhà của con nơi cõi tâm linh.

Ý tưởng vừa rồi quan trọng ở chỗ con không bao giờ nên cho phép mình dính mắc vào vai tuồng mình đang diễn, hay quá say mê trơng vai tuồng đến độ con đánh mất bản sắc đích thực của con như một sinh thể tâm linh. Nếu một diễn viên quá say mê với vai diễn để tưởng rằng mình thực là Hamlet rồi từ chối cởi trang phục sau buổi trình diễn, thì hiển nhiên con sẽ bảo là người đó có chuyện gì không ổn, và người đó phải kiểm tra lại thực tế của mình ở đâu. Cũng vậy, những ai sống trên địa cầu mà lại đồng hóa với thân xác vật lý và cuộc đời thay vì giữ lấy bản sắc mình là một sinh thể tâm linh, cũng cần kiểm tra lại thực tại của mình và nhìn xa hơn cái trang phục (cơ thể) mà mình đang mặc cùng những vai tuồng mà mình được giao phó trong vở kịch cuộc đời.

Và điều này cũng áp dụng cho Giu-đa. Khi vai trò của ông không diễn ra như ông mong đợi, tình cảm của ông đã trở nên dính mắc với một thành quả nhất định, rồi ông toan ép buộc cuộc đời phải tuân theo mong đợi của ông. Khi chuyện đó không xảy ra, sự dính mắc đã ngăn cản ông kiểm tra lại thực tại để nhận ra là có lẽ vở kịch không được thiết kế để diễn ra theo ý muốn của ông. Cho nên ông đã không thể vượt qua cảm giác tội lỗi và ông đã chọn sự tự vận thay vì phát triển tâm linh.

Ta mong mọi người sẽ học hỏi được từ tấm gương của ông và quyết định kiểm tra thực tại để mình có thể nhìn xa hơn những trang phục mà mình đang mặc, tức xác thân vật lý, cùng những vai trò mà mình đang trình diễn trong vở kịch cuộc đời. Ai ai cũng biết là một diễn viên sẽ đều đặn bước khỏi sân khấu, cởi trang phục và trở về với trạng thái sống bình thường của mình. Sẽ rất tốt cho mọi người nếu ai nấy đều thỉnh thoảng dành thời gian để bước ra khỏi các sinh hoạt thường nhật và đi sâu vào nội tâm để bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của mình. Việc này sẽ cho con sự kiểm tra thực tại, giúp con nhìn xa hơn vai trò mà con đang diễn trên địa cầu.

Sẽ vô cùng lành mạnh nếu mọi người có thể nhận ra cuộc sống là nhiều hơn vậy, rằng có cái gì nhiều hơn nữa trong cuộc sống – tức sự sống tâm linh – vượt quá những gì mình đang trải nghiệm trong thế gian này. Chỉ khi nào con nối kết lại với bản sắc thực của con thì con mới có thể tránh khỏi dính mắc vào vai trò mình đang diễn trên sân khấu cuộc đời. Và chỉ khi nào con tránh không dính mắc thì con mới không bị lạc vào vai trò hiện thời của con cùng ý niệm bản sắc mà con đã vun bồi dựa trên vai trò đó.

Con thấy đó, không như vở kịch cứ diễn đi diễn lại mỗi tối trên sân khấu, vở tuồng cuộc đời trên trái đất đã được thiết kế để là một vòng xoắn ốc hướng thượng, trong đó con sẽ lần hồi tăng trưởng để có thể bỏ lại vai đó và thăng lên một vai trò cao hơn – cho đến khi con vượt kỳ thi cuối cùng và vĩnh viễn thăng lên cõi tâm linh. Ta không muốn thấy mọi người cứ phải trở lại hết kiếp này tới kiếp khác và diễn lại cùng vai tuồng mà không bao giờ học được bài học cần học. Ta muốn thấy mọi người thăng vượt hết vai này tới vai khác cho đến khi họ thăng vượt chính cuộc trình diễn.

Đó là lý do tại sao ta đã chọn xuống hành tinh này và đóng vai trò đặc thù của ta trong vở kịch này. Tiện thể cũng xin nói thêm, vai trò của ta là đặt ra câu hỏi y hệt như câu hỏi được đặt cho Hamlet: “Là hay không là?” Tuy nhiên, ta sẽ nói thêm là trái với Hamlet, ta có câu trả lời cho bí ẩn của cuộc sống.

Xưng tội không đảm bảo con sẽ thoát khỏi tội lỗi hay nghiệp quả

Hỏi: Xin thày bình luận về bản chất và tầm quan trọng của việc xưng tội?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Có nhiều nhầm lẫn liên quan đến nghi thức xưng tội. Trước hết, ta xin nói thật rõ là ý tưởng cho rằng một giáo hội vỏ ngoài có khả năng loại bỏ tội lỗi của một người là một ý tưởng khuyến khích sự lạm dụng. Nếu con nhìn vào lịch sử của Giáo hội chính thống, con sẽ tìm thấy rất nhiều ví dụ lạm dụng như vậy – và các lá thư ân xá chỉ là một trong nhiều ví dụ đó.

Đúng thực là ta đã ban cho một số môn đệ của ta quyền năng chuộc lỗi cho tội lỗi con người qua trung gian Thánh linh. Tuy nhiên Thánh linh thổi nơi nào nó muốn, và con người hay các tổ chức không thể nào điều khiển được Thánh linh. Ta không bao giờ nói rằng bất cứ ai xưng tội mình cho một đại diện của giáo hội sẽ tự động nhận được sự tha thứ cho các tội đó.

Như ta đã giải thích ở một nơi khác, sự giá chuộc [vicarious atonement, tức việc được cứu rỗi nhờ Ki-tô dùng cái chết của mình thay cho người phạm tội] không loại bỏ tội lỗi hay nghiệp quả của con người. Khi con có một hành động vi phạm quy luật của Thượng đế, con tự động tạo nghiệp. Việc xưng tội không tiêu trừ nghiệp của con. Con vẫn phải quân bình nghiệp chướng đó. Tuy nhiên, việc xưng tội có thể, nếu con tiếp cận đúng đắn, đem lại những tác dụng tâm lý hữu ích.

Các thày là chân sư thăng thiên không mong muốn nhìn thấy bất cứ ai phải mang gánh nặng mặc cảm tội lỗi hay cảm nhận mình là người có tội. Các thày muốn mọi người buông bỏ mọi lầm lạc đã qua và tập trung mọi năng lực cùng sự chú ý của mình vào việc leo lên con đường tâm linh. Và để leo lên thành công trên đường tu, con phải vượt qua mặc cảm tội lỗi đã khiến cho nhiều người cảm thấy mình không xứng đáng để đến gần Thượng đế. 

Tinh túy của đường tu tâm linh là con đến gần hơn với Thượng đế. Nếu con cảm thấy mình không xứng đáng đến gần Thượng đế thì con không thể bước chân trên con đường này. Đối với nhiều người, việc xưng tội có khả năng đem lại tác dụng tâm lý tích cực sẽ giúp họ bỏ lại tội lỗi sau lưng. Nhưng tiếc thay, việc xưng tội cũng có thể có tác dụng tiêu cực. Một số người chăm chỉ đi xưng tội mỗi chủ nhật, họ thú nhận tội lỗi của mình, họ cảm thấy mình đã hết tội, thế là họ lại vui vẻ phạm cùng những tội đó trong tuần lễ kế tiếp. Lòng thương xót của Thượng đế vô biên và sự tha thứ của Thượng đế xảy ra tức thì, tuy nhiên sự tha thứ của Thượng đế sẽ không xảy ra cho đến khi con từ bỏ chính trạng thái tâm thức đã khiến con phạm tội. 

Nếu con xem lại bài Giảng trên Núi của ta, con sẽ thấy là ta đã khuyên mọi người hãy vượt lên trên cái tâm thức đã khiến họ làm những hành động tội lỗi. Trong thời đại hôm nay, con người cần phải tiến thêm một bước nữa. Con người cần phải vươn lên cao hơn toàn bộ tâm thức nhị nguyên cùng toàn bộ tính chất tương đối và nhị nguyên của nó. Điều ta muốn nói ở đây là một tội lỗi sẽ được tha thứ ngay vào lúc con từ bỏ cái tâm thức đã khiến con vi phạm quy luật Thượng đế – mặc dù sự tha thứ này sẽ không xóa bỏ nghiệp chướng của con. Tuy nhiên, nếu con xưng tội mà không từ bỏ tâm thức đó thì thật là ngây thơ nếu con tin rằng tội của con đã được tha thứ.

Giá trị của nghi thức xưng tội đi đôi – trong tỷ lệ thuận – với thái độ của con khi con tiếp cận nghi thức. Nếu việc nhìn nhận một hành động tội lỗi có thể giúp con khắc phục tâm thức đã khiến con phạm tội, thì bằng bất cứ cách nào con hãy đi xưng tội. Tuy nhiên, để khắc phục hoàn toàn tâm thức thấp kém kia, thường thường con sẽ phải kinh qua một tiến trình chữa lành các vết thương tâm lý đã khiến con dính mắc, ràng buộc, với trạng thái tâm thức này. Qua việc chữa lành tâm lý, con có thể tới điểm nhìn nhận một cách ý thức lý do tại sao trạng thái tâm thức đó là sai lạc. Và qua sự nhìn nhận này, con có thể quyết định ý thức là mình sẽ buông bỏ trạng thái tâm thức này.

Nhưng đối với nhiều người, việc xưng tội sẽ không đem lại sự chữa lành tâm lý nào. Nếu họ nghĩ tất cả những gì họ cần làm là chỉ việc xưng tội, thì kỳ thực nghi thức xưng tội có thể cản trở sự tăng triển tâm linh của họ. Hiển nhiên, ta không muốn thấy chuyện này xảy ra cho bất cứ ai. Cho nên ta khuyến khích mọi người hãy chân thành nỗ lực đạt được quả vị Ki-tô cá nhân thay vì tưởng rằng nghi thức xưng tội sẽ đưa mình lên thiên đàng.

Cho nên điều sẽ hữu hiệu hơn nhiều là con sử dụng các dụng cụ tâm linh mà các thày đã trao truyền để con khắc phục quá khứ của con.

Sự thật về Chén Thánh – Giê-su bình luận về sách The Da Vinci Code

Câu hỏi của Kim Michaels: Thưa Giê-su, con vừa đọc xong quyển sách The Da Vinci Code (Mt mã Da Vinci) của Dan Brown, và con muốn hỏi thày về Chén Thánh (Holy Grail). Trong sách đưa ra luận thuyết rằng thật ra, Chén Thánh chính là Mary Magdalene, lúc đó đang mang thai đứa con của thày khi thày bị đóng đinh trên thập tự giá. Mary Magdalene sau đó thoát được sang Pháp, nơi bà khởi đầu một dòng dõi hậu bối sau này có nối kết với một số hoàng tộc tại Âu châu. Liệu luận thuyết này có phần thực nào trong đó hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Trước hết, ta rất vui được thấy sách The Da Vinci Code đã được nhiều người chú ý và tìm đọc đến như vậy. Điều này cho thấy rất nhiều người sẵn lòng nhìn xa hơn những học thuyết của đạo Cơ đốc chính thống, và khao khát một hiểu biết cao hơn. Điều này cũng chứng tỏ là phần lớn sự hiểu biết tâm linh, mà trong các thời đại trước chỉ được truyền bí mật cho một số vị điểm đạo ở một cấp nào đó, bây giờ có thể được phổ biến rộng rãi hơn, và thật sự nó có thể trở thành sự hiểu biết chính mạch. Đó là một tin vui, và sự ưa chuộng quyển sách này là một trong số nhiều dấu hiệu cho thấy tâm thức loài người đang có sự chuyển đổi.

Bây giờ đến lượt tin buồn. Không có sự thật nào trong giả thuyết mà quyển sách đã đưa ra. Mary Magdalene không mang thai đứa con của ta khi ta bị đóng đinh. Cô ấy đã không đến Pháp, và do đó đã không khởi sự một dòng dõi được tiếp nối cho tới ngày nay.

Kim Michaels: Vậy có phải thày nói là truyền thuyết Mary Magdalene là Chén Thánh là một tin vịt? Thuyền thuyết đó ra đời như thế nào và tại sao?

Giê-su: Phải, truyền thuyết đó là hư cấu, nhưng nó không chủ ý là chuyện hư cấu. Những người đặt ra và lan truyền giả thuyết đó thật sự tin rằng có một số sự thật trong đó. Con phải hiểu là trong những thế kỷ sau khi ta bị đóng đinh, đã có rất nhiều huyền thoại và truyện kể được lưu truyền về ta. Một số truyện kể này bắt nguồn từ những truyền thống cổ xưa về Ki-tô hay về một Thượng đế hiện thân làm người, và các truyền thống đó thì bắt nguồn từ những tôn giáo ngày nay bị xem là tôn giáo đa thần, tôn giáo ngoại đạo, trong khi kỳ thực đó là những lời dạy tâm linh phổ quát đã hiện hữu trong thế giới cổ đại song song với các tôn giáo chính mạch được biết đến nhiều hơn.

Giáo lý của môn phái Ngộ giáo (Gnostics) cũng chứa đựng một số truyền thuyết, và con sẽ thấy là phái này cũng có một số sách Phúc âm hay học thuyết mà họ bảo là đã nhận được từ nguồn gốc khải huyền thiêng liêng. Ta có thể nói với con là một số sách Phúc âm và giáo lý Ngộ giáo đã được tiếp nhận như là sự tiết lộ tuần tự đích thực đến từ uy lực của Thánh linh. Tuy nhiên, cũng có một số tín đồ Ngộ giáo đã nhận được những lời tiết lộ giả hiệu, y như ngày nay cũng có nhiều kẻ đồng bóng tiếp xúc với các linh thể thấp kém, hay thậm chí những tà thể độc hại, cố tình đánh lừa quần chúng bằng cách lan truyền những ý tưởng sai lầm.

Kim Michaels: Quyển sách cũng nói rằng Chén Thánh biểu tượng cho khiá cạnh nữ thiêng liêng, và thày đã hiện thân để nâng cao giới phụ nữ cũng như nữ tính thiêng liêng lên vị thế xứng đáng trong xã hội. Liệu có chút sự thật nào trong thuyết đó?

Giê-su: Có, quả là có phần nào sự thật trong đó, theo nghĩa là ta đã đến với niềm hy vọng đem lại sự bình đẳng tâm linh giữa hai phái, bằng cách nâng cao phụ nữ lên vai trò xứng đáng của mình. Ta đã có giải thích điều này một cách khá chi tiết trong câu trả lời về Mary Magdalene.

Tuy nhiên, ta đã không hiện thân chỉ để đem lại những thay đổi vỏ ngoài cho xã hội. Ta cũng đã đến để giúp con người hiểu ra cách duy nhất để trở thành một con người trọn vẹn và cân bằng là đạt được quan hệ đúng đắn giữa nam tính và nữ tính của dòng sống. Ta đã giải thích điều này tường tận trong bài giảng về nguyên nhân tâm linh của đồng tính luyến ái. Tuy nhiên, một lần nữa, ta phải nói với con, Chén Thánh không phải là một người phụ nữ, không phải là Mary Magdalene và cũng không phải là nữ tính thiêng liêng.

Kim Michaels: Còn về Tu viện Scion (Priory of Scion) thì sao? Có thật là có một hội bí mật lưu giữ các tài liệu về đạo Cơ đốc ban sơ và nữ tính thiêng liêng?

Giê-su: Đã có một số hội kín, hay tổ chức bí mật, mọc lên trong thời kỳ Tòa án Dị giáo (Inquisition). Bất cứ khi nào có tình trạng một nhà cầm quyền độc tài trấn áp quyền tự do ngôn luận, thì con sẽ thấy xuất hiện một số hội kín nhằm bảo vệ những ai không chịu tuân theo đường lối cầm quyền.

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, thuở đó đã bảo trợ một vài hội kín dưới thời Tòa án Dị giáo, kể cả hội Chữ thập Hồng (Rosicrucians), hội Tam Điểm (Freemasons) cùng một số phường hội đã xây cất các nhà thờ lớn tại châu Âu.

Ta không nói ở đây là các hội này vẫn được bảo trợ ngày nay. Con cần hiểu là nếu một hội kín đã được thành lập vào thời Tòa án Dị giáo, thì có ích gì mà tiếp tục hoạt động này ngày hôm nay khi quyền tự do ngôn luận đã có mặt? Vào thời đó, một điều tương đối chính đáng đối với một hội kín là không rải truyền toàn bộ giáo lý tâm linh của mình cho quần chúng, mà chỉ trao một số giáo lý cao cấp cho một số đệ tử quyết tâm hơn trên đường tu tâm linh. Tuy nhiên chúng ta đã bước vào một thời đại khi giáo lý tâm linh có thể, và nên, được truyền đạt rộng rãi cho tất cả những ai sẵn lòng học hỏi.

Một hội kín dành một phần giáo lý cho đệ tử cấp cao là một chuyện, còn một hội kín cứ nhất định giữ kín mãi mãi là một chuyện khác hẳn. Chúng tôi các chân sư thăng thiên có thể đã bảo trợ một số hội kín do tình thế đòi hỏi, nhưng điều này không có nghĩa là chúng tôi ưa gì hội kín. Kỳ thực, chúng tôi thà là không có hội kín bởi vì trong những hội như vậy, sự kín đáo luôn luôn mời mọc sự lạm dụng quyền hành. Thật là quá dễ cho một nhóm ưu tú nhỏ hẹp, là nhóm chóp bu đứng đầu tổ chức bí mật đó, lạm dụng quyền lực của mình. Thật sự, các thành viên của một tổ chức như vậy không có cách chi phản đối giới lãnh đạo lạm dụng, bởi vì mọi chuyện có thể được giấu giếm, viện cớ là tổ chức hay giáo lý phải tiếp tục được giữ bí mật.

Xét về Tu viện Scion như được mô tả trong sách The Da Vinci Code, đâu là ích lợi của một hội kín cứ giữ bí mật giáo lý hay tài liệu môt cách vĩnh viễn? Con có thể hiểu được sự ích lợi của việc giữ bí mật để thoát khỏi sự đàn áp của Giáo hội Công giáo và nhờ vậy lưu giữ được thông tin cho hậu thế. Nhưng nếu thông tin đó cứ giữ hoài hoài vĩnh viễn thì mục đích của hội là để làm gì? Tại sao không chỉ tiêu hủy các tài liệu đó đi thì có phải bí mật đó sẽ không bao giờ lọt được vào tay kẻ xấu? Một trong những vấn đề của một hội kín là nó dễ dàng đánh mất mục đích nguyên thủy của nó và chỉ cốt tồn tại hầu tồn tại. Nói cách khác, mục đích duy trì hội kín trở thành quan trọng hơn là việc bảo tồn những giáo lý tâm linh mà nó tưởng là nó nắm giữ.

Ta đồng ý với lập luận đưa ra trong sách rằng nếu một hội kín đang nắm giữ một giáo lý bí mật về Ki-tô, thì bí mật đó cần được tiết lộ trong thời đại hôm nay, vì giờ đây đã có tự do ngôn luận cũng như những phương tiện truyền thông tốt hơn bao giờ hết. Còn cách nào hay hơn để bảo tồn một giáo lý là đưa nó lên internet nơi mọi người có thể đọc được? Nếu để một giáo lý quý giá trong tay một nhóm nhỏ bé thì luôn luôn có hiểm họa nó sẽ bị đánh mất, y như những gì cốt truyện trong sách mô tả.

Kim Michaels: Thế còn các giáo phái tôn thờ sinh sản cùng những nghi lễ tình dục được mô tả trong sách thì sao? Những loại nghi lễ đó hay những giáo lý đằng sau nghi lễ có giá trị gì hay không?

Giê-su: Có sự mâu thuẫn cốt lõi khi một tổ chức tuyên bố là mình bảo tồn bí mật về Ki-tô mà lại đồng thời cử hành những nghi lễ tình dục không bao giờ xuất phát từ bản thân ta, và cũng chẳng bao giờ liên quan gì đến đạo Cơ đốc. Đây là cùng một loại mâu thuẫn như khi bảo rằng Leonardo da Vinci là người cầm đầu bí mật của một tổ chức thờ phượng nữ tính thiêng liêng, trong khi ông là một người đồng tính.

Đã từng có một số tôn giáo cổ xưa có truyền thống thờ phượng nữ tính thiêng liêng, và trong khuôn khổ sự thờ phượng đó, một số giáo phái đã có những nghi lễ tình dục. Nhưng những loại nghi lễ này không bao giờ nằm trong đạo Cơ đốc, cũng như không bao giờ được ta khoan thứ. Trước khi đạo Cơ đốc ra đời, có những lời dạy phổ quát đã có mặt rồi, trong đó một số có giá trị. Một số lời dạy thờ phượng nữ tính thiêng liêng có giá trị. Tuy nhiên, chuyện cử hành nghi thức tình dục như được mô tả trong sách The Da Vinci Code (hoặc một số biến thể của các nghi thức đó), thì không có giá trị tâm linh nào cả. Tác dụng thật sự của những nghi thức đó là lấy ánh sáng của các tham dự viên, đưa nó qua trung gian những người làm chủ lễ để nuôi béo những con quỷ hay tà thể đứng đằng sau.

Lực tình dục, hay ánh sáng Kundalini theo tên gọi tại phương Đông, là một dạng năng lượng vô cùng mạnh mẽ. Vì vậy các tà lực đã nghĩ ra nhiều phương cách để khiến cho con người dùng sai năng lượng này rồi trao ánh sáng cho tà lực. Một trong những cách thức trắng trợn nhất là kỹ nghệ quảng cáo và giải trí thời nay. Có nhiều hình thức tự xưng là giải trí nhưng chỉ là những loại nghi thức tình dục trá hình không hơn không kém, nhằm đánh cắp lực sống của những ai ham mê chuyện này mà hoàn toàn không biết mình đang bị cưỡng hiếp tâm linh.

Kim Michaels: Một truyền thuyết nữa về Chén Thánh đã sống sót suốt bao nhiêu thế kỷ nói rằng Chén Thánh chính là cái ly mà thày đã dùng trong bữa tối cuối cùng. Người ta cho là cái ly này có quyền năng kỳ diệu đem lại sự sống vĩnh hằng cho bất cứ ai uống vào. Truyền thuyết có gì là thật hay không?

Giê-su: Huyền thọai này cũng khởi đầu trong mấy thế kỷ tiếp theo sau việc ta bị hành quyết, và những người loan truyền nó cũng tin là nó có phần sự thật trong đó. Một lần nữa, đây là kết quả của một trí tưởng tượng quá năng động, không hoàn toàn hiểu được những bí ẩn của Ki-tô, cho nên đã cố tạo ra một hình dạng cụ thể cho những bí ẩn này qua cái Chén của Ki-tô.

Quả thật là ta có dùng một cái ly vào buổi ăn tối cuối cùng. Cái lý đó, mẹ yêu dấu của ta đã mang đến Glastonbury tại Anh quốc và cất giấu ở đó. Bây giờ xin con đừng hỏi là nó được cất giấu ở đâu và làm thế nào mà tìm lại được, bởi vì sự thật là nó không tồn tại nữa.

Tuy nhiên, cái ly đó không có quyền năng phép lạ như người ta gán cho nó. Con chi cần dùng chút lôgíc thì đã có thể phát hiện ra sự thật. Tất cả các môn đệ của ta đã uống từ ly đó trong bữa tối cuối cùng. Vậy tại sao người ta lại nghĩ rằng, nếu “Chén Thánh” đó đã không đem lại sự sống vĩnh hằng cho môn đệ của ta – là những người đã uống từ ly đó tận tay ta – thì làm sao nó có thể đạt được quyền năng kỳ diệu bao nhiêu lâu sau?

Kim Michaels: Vậy nếu Chén Thánh không phải là Mary Magdalene, không phải là nữ tính thiêng liêng, cũng không phải là cái chén cụ thể nào cả, thì đó là cái gì? Có sự thật nào đằng sau truyền thuyết Chén Thánh hay không? Bởi vì nói thật, những truyền thuyết này đã sống rất dai dẳng khiến nhiều người bị ám ảnh phải đi tìm Chén Thánh. Liệu tất cả những người đó chỉ chạy theo bóng ảo ảnh, hay là có một thực tại ẩn giấu mà người ta chưa hiểu ra?

Giê-su: Trong ý tưởng Chén Thánh có một thực tại, một thực tại đã được giữ kín khỏi mắt quần chúng từ nhiều thế kỷ, vì chúng tôi các chân sư thăng thiên thấy rằng con người chưa sẵn sàng nắm bắt được chân lý đó – như được chứng tỏ qua sự kiện biết bao người đã đi theo giáo điều vỏ ngoài của đạo Cơ đốc chính thống thay vì nhìn vào ý nghĩa tâm linh nội tâm của Cơ đốc giáo. Vì vậy chúng tôi đã vui lòng để cho người ta tìm kiếm Chén Thánh như một đồ vật bằng vật chất, một cái Chén của Ki-tô.

Như ta đã giải thích trên trang mạng của ta, và đặc biệt trong bài giảng về các chu kỳ tâm linh, nhân loại ngày nay đã vươn lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Cho nên đã đến lúc tiết lộ bí mật thực sự của Chén Thánh, và ta vui lòng làm điều đó ở ngay đây. Con có nhớ chăng là trong sách The Da Vinci Code có nói đến sự kiện là con không tìm thấy Chén Thánh mà Chén Thánh tìm thấy con?

Kim Michaels: Con nghĩ đó là một câu nói vô cùng thâm sâu. Con cũng giật mình là câu đó nghe khá giống một câu rất quen thuộc là, khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày xuất hiện.

Giê-su: À ngay đó con có bí mật của Chén Thánh. Kỳ thực, Chén Thánh là cánh cửa mở giữa thiên đàng và địa cầu, giữa cõi tâm linh và cõi vật chất. Cho nên Chén Thánh là yếu tố cho phép một người, một đứa con của loài người, nâng cao tâm thức mình lên đến mức tâm thức của Ki-tô và trở thành một đứa con của Thượng đế.

Về mặt cá nhân, Chén Thánh chính là cái ta Ki-tô của con. Chỉ qua cái ta Ki-tô con mới có thể thị hiện tâm thức Ki-tô, và chỉ qua tâm thức Ki-tô con mới có thể đạt được sự sống vĩnh hằng bằng cách trở thành một sinh thể thăng thiên.

Chén Thánh cũng có thể là một vị thày tâm linh. Một vị thày như thế có thể là một sinh thể thăng thiên, hay một người đang đầu thai tạm thời phụng sự như một vị thày thế chân cho cái ta Ki-tô cho đến khi đệ tử sẵn sàng bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của mình. Tuy nhiên, điều cực kỳ quan trọng là nhận ra vị thày vỏ ngoài đó không bao giờ được trở thành một thần tượng thay thế vị thày nội tâm là cái ta Ki-tô.

Nếu con cho phép một vị thày vỏ ngoài hay, như nhiều người đã làm, một đồ vật, một hoc thuyết hay một giáo hội vỏ ngoài thay thế vị thày nội tâm, thì con đã đi theo “con đường có vẻ đúng cho con người nhưng thực sự là con đường của sự chết.” Và cái đó trở thành con đường vỏ ngoài mà ta đã mô tả rất tường tận trong các bài giảng của ta.

Con có thể nhận thấy là ta đã giảng day cho số đông quần chúng qua những chuyện ngụ ngôn, và lý do là vì họ chưa sẵn sàng nhận giáo lý nội tâm của ta. Đó chính là những người đã bị cuốn hút vào ý tưởng Chén Thánh là một cái chén, một đồ vật vật lý. Và họ nghĩ, ước gì mình tìm được chén đó thì chỉ cần uống vào là sẽ tự động có sự sống vĩnh hằng và không phải mất công tu tập công phu trên con đường khai ngộ tâm linh. Đó thực sự là giấc mơ được cứu rỗi một cách tự động, bảo đảm – giấc mơ viển vông vĩ đại nhất trên hành tinh này.

Cho dù một số người tìm cách đoạt thiên đường bằng vũ lực, thật là không có con đường tắt. Con sẽ không bao giờ nhập được thiên đàng mà không đi theo con đường nội tâm dẫn đến tâm thức Ki-tô. Nếu con không mặc vào bộ áo cưới, con sẽ không thể ngồi vào bữa tiệc cưới, và con sẽ thấy mình trong bóng tối bên ngoài, chân tay bị trói chặt lại bởi những vết thương tâm lý và tin tưởng sai lầm của con.

Ngay cả quan niệm cho rằng Chén Thánh là một người nữ, và một người nam có thể đạt được kết hợp với Thượng đế qua sự kết hợp tình dục với một người nữ, cũng là giấc mơ cứu rỗi tự động. Tuy nhiên, có một chút sự thật ở đây, theo nghĩa là khi một người đạt được sự cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ của dòng sống, người đó – dù là nam hay nữ – cũng sẽ bắt đầu thoáng nhìn thấy tâm thức Ki-tô, và điều này sẽ dẫn đến hợp nhất với Thượng đế. Giấc mộng rằng sự hợp nhất với Thượng đế có thể được sản xuất một cách tự động và đảm bảo qua kết hợp tình dục, là lời gian dối đằng sau cách thực hành tình dục Tantra đã đặc biệt phổ biến tại phương Đông. Con hãy lưu ý là ta không hề nói triết lý đánh thức Kundalini là sai trái, hoặc điều này không thể thực hiện qua tình dục, mà ta nói rằng đó không phải là một kết quả tự động của kết hợp tình dục.

Trên hành tinh này luôn luôn đã có những kẻ muốn chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực, muốn sản xuất sự giác ngộ tâm linh mà không chịu làm công việc chữa lành tâm lý của mình cũng như thanh lọc tâm trí lẫn con tim. Đây là những người không sẵn sàng nhận sự thật về Chén Thánh. Đây là những người đã đeo đuổi từ hàng bao thế kỷ một đồ vật vỏ ngoài hay một bí mật huyền bí nào đó sẽ tự động cho họ sự sống vĩnh hằng. Bí mật của sự sống vĩnh hằng là kết hợp với cái ta Ki-tô của con, nhưng sự kết hợp này sẽ không bao giờ là kết quả tự động của những hành vi vỏ ngoài. Kết hợp đó là sự kết hợp thần bí nội tâm mà biết bao triết lý tâm linh chân thực khắp thế giới đã nói tới.

Khi ta ở một mình với các môn đệ, ta thường giảng dạy nhiều điều, kể cả sự kiện mỗi con người đều có một cái ta Ki-tô và đều có khả năng hợp nhất với cái ta Ki-tô đó. Thế nhưng ngay cả các môn đệ của ta cũng không thể nắm được hoàn toàn chân lý đằng sau lời dạy này. Đó là tại sao ta đã ban cho họ một nghi lễ vỏ ngoài gọi là nghi lễ Bẻ bánh của sự Sống để họ tưởng nhớ đến ta. Ý nghĩa nội tâm chân chính của nghi lễ này là Bánh của sự Sống chính là tâm thức Ki-tô toàn vũ đã được bẻ ra cho mỗi người dưới dạng cái ta Ki-tô cá nhân nơi mỗi người.

Khi đó, cái ta Ki-tô cá nhân trở thành cái chén chứa đựng huyết – huyết là biều tượng cho dòng tâm thức của tâm Ki-tô toàn vũ. Khi dòng sống của con hợp nhất với cái ta Ki-tô, con nâng chén lên – là cái chén của toàn bộ tâm trí và toàn bộ dòng sống – và như vậy, dòng tâm thức Ki-tô toàn vũ sẽ bắt đầu tuôn chảy xuyên qua con. Mọi ý tưởng, cảm xúc và hành động của con giờ đây được xây dựng trên tảng đá của Ki-tô, tức tâm thức Ki-tô, thay vì trên bãi sa lầy của tâm thức phàm phu.

Do đó chúng ta có thể nói là khi con thật sự tìm ra Chén Thánh trong kết hợp thần bí với cái ta Ki-tô, con cũng đã trở thành chính Chén Thánh vậy. Con trở thành cái chén của Ki-tô mà qua đó tâm thức Ki-tô toàn vũ có thể giảng dạy và trao ánh sáng cho người khác. Và chúng ta cũng có thể nói, con không thể tìm thấy Chén Thánh, mà con có thể trở thành Chén Thánh. Con trở thành cánh cửa mở giữa thiên đàng và địa cầu như ta đã từng là như vậy khi ta còn hiện thân.

Đó là bí mật đích thực của Chén Thánh mà người ta đã đi tìm suốt 2000 năm qua. Nếu họ để ý đến một trong những lời dạy quan trọng nhất của ta, thì họ đã không đi tìm bên ngoài chính họ. Lời dạy đó là, Nước Trời ở ngay trong con. Nó chứng tỏ cho con thấy Chén Thánh phải tìm kiếm bên trong con, bên trong tâm con, bên trong tâm thức của con.

Ta cũng xin nói là truyền thuyết Chén Thánh cũng đã thật có ích lợi ở chỗ nó đã giúp cho nhiều dòng sống giữ được tập trung vỏ ngoài vào một niềm khao khát bên trong đích thực hầu đạt tâm thức Ki-tô. Cho nên ta không bảo là có gì sai trái khi người ta ao ước Chén Thánh. Vấn đề xảy ra là nhiều người đã chú mục vào một đồ vật bên ngoài thay vì tìm kiếm một cách hiểu thâm sâu hơn.   

Ta cũng biết nhiều người sẽ thấy lời giải thích của ta không được lãng mạn và màu mè bằng truyền thuyết. Nhưng nếu họ chuyển dời tâm thức khỏi trọng tâm vào thế giới vật chất để tập trung vào thế giới nội tâm, thì họ sẽ khám phá ra cuộc hành trình nội tâm cùng với Ki-tô sẽ lãng mạn, hứng thú và thỏa nguyện hơn gấp bội việc đeo đuổi một cái chén.

Ta chính là Chén Thánh.
Hãy bước vào trong tim và tìm ta.
Nếu con tìm ta với tim tinh khiết và tâm cởi mở, con sẽ tìm thấy ta.
Khi đó, chắc chắn ta sẽ cho con sự sống vĩnh hằng.

Một nhà thờ cho người da đen có cần thiết không?

Hỏi: Kính chào thày Giê-su, con là một phụ nữ người Mỹ gốc Phi châu, lớn lên trong một giáo hội Baptist. Con không còn tự nhận mình là một tín đồ Cơ đốc nữa vì con nhận thấy giáo lý không đồng điệu với con người nội tâm của con. Một số câu hỏi của con đã không có câu trả lời và cuối cùng con đã phải đi tìm một giáo lý cao hơn.

Theo nhận xét của con, tín đồ trong các giáo hội của người da đen thường đặt các mục sư/chức sắc/giám mục của họ lên đài cao và tôn thờ họ như thể họ là Thượng đế. Khi họ thuyết pháp, nhiều lãnh đạo các giáo hội da đen lên án người đồng tính luyến ái, khiến cho những người này cảm thấy như mình nhơ nhuốc dưới mắt Thượng đế, không xứng đáng được Thượng đế thương yêu. Tiếc thay, nhiều tín đồ trong giáo hội lại mù quáng đi theo giáo lý hận thù như vậy, và chu kỳ phán xét cứ không ngừng tiếp diễn.  

Gần đây đã có những lời cáo buộc đối với một nhà truyền giáo da đen vô cùng quyền thế về việc ông đã có quan hệ bất chính với một số thanh niên. Trớ trêu thay, nhà truyền giáo này cũng là một người chống đối kịch liệt vấn đề đồng tính và hôn nhân đồng tính. Vậy câu hỏi của con là như sau: là con người, làm thế nào chúng con tìm được con đường trung hòa để đi theo tín ngưỡng của mình và không đặt trọn niềm tin vào con người? Người da đen phải làm gì để hiểu ra là việc hò hét từ trên bục giảng trong khi đeo trang sức bạch kim và kim cương và đi xe trị giá $100,000 đậu ngay giữa đường vào nhà thờ, hoàn toàn không chứng minh được mối liên kết trực tiếp, chân phước và hồng ân từ Đấng Sáng tạo?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2011.

Con hãy cho ta dùng câu hỏi này của con để đặt ra một câu hỏi rộng lớn hơn: Có cần nhà thờ Ki-tô giáo dành riêng cho người Mỹ gốc châu Phi hay không – có nhu cầu nào cho một nhà thờ của người da đen?

Nhưng đầu tiên, chúng ta hãy xem xét tại sao con người lại có khuynh hướng miệt thị người khác. Có một số mục sư trong các giáo hội cực chính thống (fundamentalist) – cả Mỹ gốc châu Phi lẫn da trắng – lên án đồng tính luyến ái trong khi chính bản thân họ lại có những vấn đề tình dục.

Tuy nhiên, nếu con nhìn xa hơn vấn đề đồng tính, con sẽ thấy là đằng sau đó có cả một cơ chế tâm lý phổ biến gọi là vật tế thần. Cơ chế này đặc trưng cho một loại tổ chức nhất định, không cứ là tổ chức tôn giáo. Một ví dụ điển hình trong lịch sử là chủ nghĩa Quốc xã, nhưng đã có rất nhiều loại tổ chức áp bức khác cũng đã phân biệt một nhóm người đặc thù nào đó, hay cả những cá nhân, hầu biến họ thành những con dê tế thần.

Tại sao họ lại biến người khác thành vật tế thần? Tại sao họ không nghe lời dạy của ta là KHÔNG được chú tâm vào cái giằm trong mắt người anh em? Phải, luôn luôn là vì họ không chịu nhìn vào cái xà trong mắt họ.

Họ sử dụng việc lên án người khác để không ai chú ý đến họ cùng những vấn đề chưa giải quyết trong tâm lý họ. Bởi vì trên căn bản, bất cứ điều gì mà con phóng chiếu lên người khác cũng phản ánh những vấn đề chưa giải quyết trong chính tâm lý của con.

Con thấy có sự thiếu tự tin trong tâm lý của những người đó. Nhưng hơn thế, con cũng thấy là họ không sẵn sàng làm công việc cải thiện bản thân để trau dồi lòng tự tin đích thực. Và sự thiếu sẵn sàng này được họ “bào chữa” bằng cách tạo ra một hình tư tưởng bảo rằng con người không thể tự cải thiện do đã bị đối xử tàn nhẫn, bị áp bức hay bị chà đạp. Những người như vậy có cái nhìn rất cứng nhắc về cuộc sống. Họ nghĩ là họ bị hạn chế trong một địa vị nhất định nhưng họ vẫn cho là họ sẽ được cứu rỗi, một phần là vì vật tế thần của họ có địa vị thấp hơn, và phần khác vì họ có những lãnh đạo “cao cả” đã hứa hẹn sẽ đưa họ lên thiên đàng.  

Trong bất kỳ tổ chức nào, người lãnh đạo cũng tương xứng với các thành viên, nghĩa là lãnh đạo luôn luôn là một tấm gương cực đoan của những vấn đề tâm lý chưa giải tỏa nơi đa số các thành viên của tổ chức. Do đó trong một tổ chức nhà thờ, cách cư xử của mục sư là sự phản ánh của tâm lý chưa giải tỏa trong hội chúng.

Ta không muốn nói là nếu một nhà thờ lên án người đồng tính thì điều này cho thấy phần lớn tín đồ đều có khuynh hướng đồng tính. Nhưng nó cho thấy là đa số hội chúng có những tâm lý chưa được giải tỏa mà họ không chịu xem xét, và vì vậy họ mới sẵn sàng lên án người khác để cảm thấy mình không cần phải xem xét chính mình. Đây là “tư duy bị ức hiếp”, qua đó con cảm thấy sâu xa là con có một điều gì đó không ổn dưới mắt Thượng đế, nhưng nếu con có thể làm như có nhóm nào khác còn tệ hơn mình nữa thì con cảm thấy Thượng đế sẽ chấp nhận con vì con không đến nỗi tệ như nhóm dê tế thần kia.

Khi con xem xét kỹ hơn, con sẽ thấy đây là một tư duy vô cùng phi lôgíc. Đây là cách nhìn chỉ thấy khuyết điểm, tức là con biết con không đáp ứng tiêu chuẩn mà con nghĩ Thượng đế đang sử dụng, nhưng thay vì đặt trọng tâm vào việc tự cải sửa, con lại tìm cách kéo thấp người khác. Nếu con đưa quan điểm này đến sự cùng cực hợp lý của nó, con như đang bảo rằng: “Đồng ý, chúng tôi không đủ tốt để được cứu rỗi, nhưng Thượng đế phải cứu một ai đó chứ, cho nên nếu chúng tôi khiến cho kẻ khác có vẻ tồi tệ hơn mình thì ngài sẽ phải chọn chúng tôi thôi.”

Vấn đề là Thượng đế không bắt buộc phải cứu rỗi bất kỳ một ai. Ngài đã ban quyền tự quyết cho mọi người, cho nên chính những chọn lựa của mỗi người sẽ định đoạt người đó sẽ được cứu rỗi hay không.

Đằng sau tư duy bị ức hiếp là niềm tin cho rằng một người vào được Nước Trời hay không là do những gì người đó đã làm hay không làm. Nhưng rõ ràng ta đã dạy rằng Nước Trời ở ngay trong con. Và cái ở ngay trong con chính là trạng thái tâm thức của con, tức là con có vào được Nước Trời hay không là hoàn toàn do trạng thái tâm thức của con định đoạt. Vào được Nước Trời có nghĩa là con ở trong chính tâm thức LÀ Nước Trời.  

Trong vương quốc của Thượng đế, mọi sự sống là một – “Ta và Cha ta là một” – cho nên khi nào con còn nghĩ con phải phán xét người khác thì con không thể ở trong trạng thái tâm thức thấy được tính duy nhất của mọi sự sống. Bởi vì khi con thấy mọi sự sống là một, con chỉ có thể cố gắng nâng mọi sự sống đi lên mà thôi. Vì vậy, khi nào con còn phán xét hay cảm thấy nhu cầu bài bác hay thay đổi người khác, con sẽ không thể bước vào Nước Trời, như thày Portia vừa giải thích thật hùng hồn.

Nếu con hiểu giáo lý và sứ vụ nguyên thủy của ta, con sẽ thấy là đường tu mà ta từng giảng dạy và chứng tỏ – tức là Đạo, là con Đường – nhắm đặc biệt đến những ai sẵn lòng thăng vượt tư duy bị ức hiếp đó để hoàn toàn nhận lãnh trách nhiệm về sự cứu rỗi của mình. Con cũng có thể thấy là vào thời đó, không có nhiều người đầu thai sẵn sàng đi theo con đường này. Cho nên nếu những lời dạy nguyên thủy của ta được bảo tồn thì đạo Ki-tô đã không bao giờ trở thành một tôn giáo lớn trên thế giới. Và thật vậy, ta không bao giờ có ý định lập ra một tôn giáo được dùng để giam con người trong tư duy bị ức hiếp.

Cho nên sự thật phũ phàng là như sau: Lý do đạo Ki-tô đã trở thành một tôn giáo toàn cầu là vì có một số kẻ trong tầng lớp thượng lưu quyền lực của Đế quốc La mã đã nẩy ý là họ có thể dùng một dạng tha hóa của giáo lý của ta để áp bức quần chúng tới mức cùng cực. Hình thức áp bức cùng cực là khi người dân hoàn toàn bị kiểm soát bởi một giai cấp thượng lưu quyền lực trên thế gian mà cứ tin chắc là nếu mình đi theo các lãnh đạo thế gian đó thì mình sẽ bảo đảm được bước vào vương quốc trên thiên đàng. Điều này đặc biệt hấp dẫn đối với những ai có tư duy bị ức hiếp, những người không chịu nhận trách nhiệm về bản thân mình mà cứ muốn làm người mù đi theo những người mù.

Trong thế giới ngày nay đã có nhiều dòng sống hơn sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời mình trên trái đất cũng như về sự cứu rỗi của mình. Con có thể tìm thấy những người như vậy trong mọi đoàn nhóm, nhưng tất nhiên là không đồng đều. Hay nói cách khác, một số nhóm có một tỷ lệ khá thấp những dòng sống đã trưởng thành tâm linh bởi vì nhóm chủ trương tán thành lối tư duy thịnh hành nói trên.

Con có thấy điều ta muốn nói chăng? Không hề có dòng sống nào gọi là dòng sống da đen, hay dòng sống da trắng, hay dòng sống gốc Tây ban nha, hay dòng sống da đỏ, hay dòng sống da vàng, hay dòng sống chấm xanh chấm đỏ gì hết. Thế nhưng trong mỗi đoàn nhóm đều có những dòng sống ở những mức độ trưởng thành khác nhau. Và nếu một nhóm có một bản sắc tập thể làm nhụt chí những ai muốn nhận lấy trách nhiệm bản thân – tức là nếu nhóm mang tư duy bị ức hiếp – thì nhóm đó sẽ thu hút những dòng sống thiếu trưởng thành, vì lý do giản dị là những người này sẽ tìm được đúng những gì họ mong muốn, tức là một cái cớ toàn hảo để không phải nhận lãnh trách nhiệm về chính mình.  

Nếu con nhìn người Mỹ gốc châu Phi một cách trung thực – cũng như nhiều nhóm người ngay tại Phi châu – con sẽ nhận thấy một xu hướng tư duy bị ức hiếp. Như một tập thể, người Mỹ gốc châu Phi đang củng cố, tăng cường cho ý niệm bản sắc coi mình là thành phần bị thiệt thòi, bị khinh miệt và ngược đãi. Và như với tất cả mọi thứ khác, một thái độ như vậy sẽ biến thành một vòng ốc xoáy hướng hạ, tự nó cứ nuôi cho lớn mạnh thêm hoài.

Điều điển hình với các thành viên của những nhóm như vậy là họ không muốn có sáng kiến, không muốn khởi xướng, không muốn nổi bật khỏi đám đông. Hậu quả là họ sẽ thần tượng hóa lãnh đạo của họ, đặt lãnh đạo lên trên bệ cao và tin rằng lãnh đạo sẽ không bao giờ lầm lẫn. Lý do là vì chỉ khi nào con đi theo một nhà lãnh đạo không thể sai lầm thì con mới có thể tin rằng lãnh đạo đó sẽ đưa con lên tận thiên đàng.

Làm thế nào phá vỡ được vòng ốc xoáy cứ tự bồi thêm sức mạnh như thế? Có hai cách. Một cách là nhóm đó thu hút những lãnh đạo yêu thích được thần tượng hóa, và thường khi họ cũng nghĩ mình là bất khả sai lầm. Loại lãnh đạo như vậy sẽ không tránh được trở thành tâm điểm cho toàn bộ tâm thức tập thể của nhóm, cho nên họ sẽ trải bày ra những tâm lý chưa giải tỏa của tập thể. Điều này có thể biểu hiện qua những chiếc xe hay đồ trang sức thật hào nhoáng, những hành vi phản ánh xu hướng đồng tính ẩn giấu, hay nó cũng có thể biểu hiện qua chuyện ngoại tình, cờ bạc, phim ảnh khiêu dâm, hoặc bất kỳ cách hành xử nào không phù hợp với những gì người lãnh đạo luôn rao giảng.       

Nói cách khác, bất kỳ hình tư tưởng nào mà nhóm đó đã tạo ra như là một điều kiện để lên được thiên đàng cũng sẽ bị lãnh đạo của họ phá vỡ tan tành qua cách hành xử của lãnh đạo, hầu ai nấy bắt đầu nhìn ra là việc tôn thờ một thần tượng không dẫn tới đâu, và chính họ mới cần nhận lấy trách nhiệm cho bản thân họ. Các thành viên trong nhóm có được cơ hội xem xét những phần tâm lý chưa giải tỏa trong bản thân họ.

Cách thứ nhì có thể giúp ích cho các thành viên là họ nhìn thấy một số gương sáng tích cực trong nhóm họ. Ngay bây giờ đây, người Mỹ châu Phi có một cơ hội độc đáo để vượt qua tư duy bị ức hiếp vì Tổng thống Hoa kỳ là một người da đen. Trong chính quyền trước, con cũng đã thấy Colin Powell, một tấm gương xuất sắc của một người Mỹ gốc châu Phi đã vượt lên trên tư duy bị ức hiếp. Và tất nhiên, còn có tấm gương của Oprah Winfrey cùng với nhiều người khác nữa.

Nếu con nhìn xem điều gì đã khiến cho những vị đó, cũng như nhiều người Mỹ gốc châu Phi khác, đóng góp vượt bực cho xã hội, con sẽ thấy một điểm vô cùng thâm sâu. Hoa kỳ là một xã hội với nhiều phe nhóm nhỏ lẻ và một mức độ hiềm khích chủng tộc cao hơn bất kỳ quốc gia dân chủ nào khác. Thế nhưng các hiềm khích đó thật sự chỉ nằm ở lớp vỏ ngoài của tâm thức. Nếu con bước vào sâu hơn, con sẽ thấy là Hoa kỳ đã được thành lập trên nền tảng một số nguyên lý phổ quát được hiện thân trong bản Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp.

Điều này có nghĩa là tại Hoa kỳ, mỗi cá nhân, bất kể xuất xứ của mình, đều có một cơ hội độc đáo để thành công – NẾU người đó có thể tự đặt mình cho đồng thuận với những nguyên lý phổ quát vừa kể. Nói cách khác, sự trung thực, sự liêm chính cá nhân, sự công bằng, sự tận tụy và tình yêu thương đích thực đối với đồng loại, sẽ giúp con tiến rất xa tại nước Mỹ cho dù nguồn gốc của con có là gì.

Colin Powell đã không thành công vì da ông màu đen, và ông cũng không thành công bất chấp da ông màu đen. Ông đã thành công vì ông đã thăng vượt tư duy bị ức hiếp để mà ôm lấy trạng thái tâm thức phổ quát mà các chân sư thăng thiên vẫn hằng cầm giữ trong viễn quan của mình cho tương lai nước Mỹ. Bất cứ ai cũng có khả năng noi theo tấm gương của những vị lãnh đạo như vậy vì phương châm của các chân sư thăng thiên vốn là: Việc gì một người đã làm được thì mọi người cũng làm được.

Vấn đề là nếu người ta cứ bám chặt lấy tư duy bị ức hiếp thì người ta sẽ không thấy được những tấm gương đó là tấm gương. Người ta sẽ đặt những người đó lên làm thần tượng, coi những người đó là ngoại lệ, y hệt như nhân loại đã hành xử với chính bản thân ta. Và đó là khi người ta sẽ khóa chặt mình lại trong những hệ thống kín mít để rơi vào vòng kềm toả của định luật thứ hai của nhiệt động học. Một cái gì đó sẽ phải đập tan các hình tư tưởng của con người, cho dù là qua cách hành xử của một mục sư hay qua một ai đó có cùng một thái độ nổi lửa nhà thờ của con.

Con có thấy không, vấn đề thực sự với một “nhà thờ của người da đen” tại Hoa kỳ chính là vì nó tự xem nó là một nhà thờ của người da đen. Đặc biệt tại các tiểu bang miền Nam nước Mỹ, con nhận thấy rất nhiều nhà thờ là những hội chúng hoàn toàn da đen không mở tay ra chào đón người da trắng hay người da màu gốc Tây ban nha. Cho nên thái độ hiềm khích mà ta vừa đề cập được tập trung tại các tiểu bang miền Nam giữa hai nhóm người, một là các thành viên của nhà thờ da đen và hai là các nhà thờ da trắng theo xu hướng cực chính thống.

Thật là một điều đáng tiếc khi sự kỳ thị chủng tộc lại kết tụ nơi chính những con người tin chắc rằng mình là những “con chiên ngoan đạo của Ki-tô”.

Thánh Paul – người đã góp phần biến giáo lý của ta thành giáo lý phổ quát – có viết như sau trong những lá thư được cho là của thày:

“Nơi đây không có người Do thái hay người Hy lạp, không có người nô lệ hay người tự do, không có người nam hay người nữ, bởi vì tất cả anh em đều là một trong Ki-tô Giê-su.” (Galatians 3:28)

“Nơi đây không có người Hy lạp hay người Do thái, không có người cắt bì hay không cắt bì, không có người Barbarian hay người Scythian, không có người nô lệ hay người tự do, mà Ki-tô là tất cả, ở trong tất cả.” (Colossians 3:11)

Điều mà lớp thượng lưu quyền lực đã làm từ lâu là biến giáo lý chân thực của ta thành một công cụ để áp bức quần chúng. Và họ làm vậy bằng cách biến lời dạy bao gồm tất cả mọi người của ta trở thành một hệ thống phân mọi người ra thành những người được cứu rỗi và những người sẽ không được cứu rỗi, tức những con dê tế thần.

Nếu con mù quáng đi theo lãnh đạo thế gian để thù ghét những ai mà lãnh đạo của con bảo con phải thù ghét, thì hóa ra con chắc chắn là mình sẽ lên được thiên đàng mà không phải xem xét cái xà trong mắt mình. Hệ thống này vô cùng hấp dẫn đối với những ai mang tư duy bị ức hiếp. Nó có tác dụng giữ mãi họ lại trong trạng thái tâm thức coi mình là nạn nhân bị ức hiếp – bởi vì nếu mình không nhắm mắt đi theo lãnh đạo thì mình sẽ bị liệt vào thành phần đồ bỏ và sẽ bị hụt mất cơ hội cứu rỗi.

Thế nhưng thông điệp mà ta đã đến địa cầu để đem lại cho những ai bị ức hiếp là không hề có sự phân chia giả tạo nào dựa trên tiêu chuẩn thế gian có thể ngăn cản con người lên được thiên đàng. Nói cách khác, cho dù lớp thượng lưu quyền lực có nói gì đi nữa, thì bất cứ ai – BẤT KỂ xuất xứ của người đó trong xã hội loài người – cũng có khả năng lên được thiên đàng, MIỄN LÀ người đó thể hiện được các nguyên lý phổ quát mà ta đã thể hiện, tức là cùng những nguyên lý phổ quát được ghi trong Hiến pháp Hoa kỳ.      

Con có thấy điều này có nghĩa là gì chăng? Người Mỹ gốc châu Phi mang một tư duy bị ức hiếp đang ngăn cản rất nhiều người khởi xướng bất cứ điều gì. Họ nghĩ, bởi vì người da trắng đã áp bức họ cho nên chính người da trắng mới phải đi bước đầu để chấm dứt áp bức.

Nhưng nếu con thực sự hiểu được thông điệp của Ki-tô, con sẽ thấy tại sao cách suy nghĩ đó không đúng. Chính những người bị ức hiếp mới có cơ hội lớn nhất, cao nhất, để trở thành những vị thày của con Đường Ki-tô, bằng cách chứng tỏ là họ sẽ sử dụng giáo lý đích thực của Ki-tô để vươn lên một vị thế cao hơn trong đời sống, cao hơn vị thế mà lớp thượng lưu quyền lực lẫn tâm thức tập thể trong chính nhóm họ đã dành cho họ bấy lâu nay.    

Không hề có nhu cầu có một nhà thờ của người da đen tại Hoa kỳ, bởi vì mọi tín đồ đích thực của đạo Ki-tô sẽ thờ phượng chung với nhau bất kể sự khác biệt bề ngoài, chẳng hạn như màu da hay bất cứ gì khác. Người Mỹ gốc châu Phi không thể ngồi đó mà chờ cho người da trắng khởi xướng thay đổi này, cho dù quả thực một số vị mục sư da đen có tầm nhìn xa đã bắt đầu làm công việc này rồi. Chuyện đó không phải là trách nhiệm của người da trắng mà là cơ hội nghiệp tạo của người da đen, để người da đen khởi xướng thay đổi này trong xã hội nước Mỹ cũng như trong tâm thức đại chúng.

Con có thấy chăng thông điệp sâu kín của Ki-tô? Không phải giới thượng lưu sẽ tạo ra thay đổi trong xã hội, mà là những người xuất thân từ một vị thế khiêm tốn trong xã hội, miễn là họ sẵn lòng thăng vượt vị thế đó bằng cách hòa nhập với tâm Ki-tô phổ quát.

Đã đến lúc người Mỹ gốc châu Phi vươn lên khỏi tư duy làm người Mỹ gốc châu Phi, để thực sự thăng lên và khoác vào bản sắc làm người Mỹ Phổ quát. Bởi vì chỉ những ai xem mình cũng như xem mọi người khác là những đứa con của Thượng đế thì mới có thể tự gọi mình là tín đồ chân chính của Ki-tô – là những người Mỹ chân chính.

Không phải những gì con “làm” trên địa cầu này sẽ đưa con lên thiên đàng, mà là những gì con “buông bỏ” trên địa cầu này. Con vươn mình lên cao hơn mọi hình tượng chạm do con người tạo dựng. Chính điều đó sẽ đưa con lên vương quốc thiên đàng, là nơi tất cả đều là một trong Ki-tô, bởi vì Ki-tô là tất cả và ở trong tất cả.