11 | Quy thuận theo ý chí cao hơn của Tâm Một

Bài truyền đọc của Chân sư MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 4/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên MORE (HƠN NỮA). Con kết nối với thày bằng cách nào? Lẽ tất nhiên, bằng cách muốn hơn nữa. Làm sao có thể có cách nào khác? Con không thể kết nối với thày bằng cách muốn ít hơn, vì lúc nào thày cũng LÀ HƠN NỮA. Con có thể hỏi, “Hơn gì?”, nhưng câu hỏi này không cần đặt ra. Vì cái HƠN NỮA mà thày LÀ không thể so sánh với bất cứ cái gì ít hơn, mà nó cũng không thể so sánh với tất cả cái gì hơn nữa. Vì không thể có gì hơn Chân sư MORE.

Thày tin rằng con có thể thấy điều này nếu con vô hiệu hóa tâm đường thẳng, là cái tâm lúc nào cũng muốn nghĩ là có cái gì hơn nữa. Nếu con cố gắng có hơn những gì con hiện có, thì làm sao con kết nối được với Chân sư MORE, vì thày không hơn và cũng không kém. Bí quyết là vô hiệu hóa tâm đường thẳng, và điều gì có thể giúp con làm việc này?

11.1. Nhiều khía cạnh của Ý chí

Thày là Thượng sư của Tia thứ Nhất, thường được coi là Tia của Ý chí. Và trong những đợt truyền giáo trước, họ coi thày như một vị thày rất nghiêm khắc, và con phải có ý chí mãnh liệt và có kỷ luật thì mới dám tới gần thày, nhưng ý chí có nhiều khía cạnh. Ý chí không phải lúc nào cũng là ý chí mãnh liệt và nhất quyết, vì các thày đang tìm cách giảng điều gì? Cách nối kết với các chân sư thăng thiên không qua việc nhấn và nhấn mạnh hơn, cố gắng và cố gắng nhiều hơn.

Rõ ràng là có một ý chí trên trái đất, và đó là ý chí nhân gian, một ý chí bên ngoài. Có ý chí của tự ngã và của các ngã tách biệt. Có ý chí muốn tiếp cận con đường tâm linh vì tự ngã nghĩ nó có thể gặt hái điều nó muốn gặt hái, là sự an toàn – một địa vị tối hậu nơi nó có thể cảm thấy an toàn. Tự ngã nghĩ rằng nếu con đi theo con đường tu thì con sẽ đến một giai đoạn tối hậu. Và nếu con chú tâm vào ý chí và quyết tâm, thì tự ngã nghĩ rằng con cần ý chí tối hậu, quyết tâm tối hậu. Trong các đợt truyền giáo trước, một số đệ tử đã đi vào tâm thái cho rằng muốn nối kết với thày, El Morya là hình ảnh họ có về thày lúc đó (và dĩ nhiên vẫn còn đang duy trì), thì họ phải thể hiện ý chí mãnh liệt này. Họ phải là ngọn lửa xanh, tia sáng xanh và họ phải nhất quyết và rất chú tâm.

Nhiều người trong số các đệ tử đó quên đi câu chuyện mà các thày có kể, rằng thày Kuthumi và thày được trao nhiệm vụ trèo lên một đỉnh núi để lấy một thông điệp, và thày hoàn toàn chú tâm và xông thẳng lên đỉnh núi, trong khi thày Kuthumi chậm rãi nối kết với chim muông và hoa. Nhưng khi các thày đi xuống từ đỉnh núi, thì thày Kuthumi nhớ thông điệp, trong khi thày thì quên mất. Câu chuyện này cho con thấy là khi con có ý chí quá mạnh, bất quân bình, thì không những con không nhớ thông điệp, mà con còn không nhận được thông điệp nữa.

Sau đó, lẽ dĩ nhiên còn có một hình thức khác của ý chí vỏ ngoài mà ta có thể gọi là phản-ý chí, là điều mà con thấy nơi nhiều người trên trái đất khi họ bị tâm thức tập thể chế ngự. Họ không biểu lộ cá tính mạnh, họ không muốn ló ra khỏi đám đông, họ muốn nhập vào đám đông, biến vào đám đông, làm những chuyện họ được bảo, tuân theo quy ước, tuân theo truyền thống xã hội.

11.2. Trung đạo của Ý chí

Con có cả phản-ý chí lẫn ý chí bất quân bình. Con thực sự có thể thấy cả hai khía cạnh này trên con đường tâm linh. Như thày có nói, có một số đệ tử rất quyết tâm trong khi có một số khác gia nhập một phong trào tâm linh và quyết định họ sẽ làm bất cứ gì được bảo, không bao giờ chất vấn, không bao giờ suy nghĩ tự lập, nhưng chỉ trôi theo nền văn hóa của tổ chức, trôi theo bất kể yêu cầu nào của tổ chức. Cả hai loại ý chí này đều bất quân bình. Thế nào là ý chí quân bình? Có phải chăng là điểm giữa hai đối cực mà thày vừa mô tả, hay là Trung đạo, khác với điểm giữa hai đối cực, nhưng là sự thăng vượt tâm thức của hai đối cực nhị nguyên?

Nhiều đệ tử đã chọn phương hướng tu là cần có kỷ luật và quyết tâm. Và thày hoàn toàn không nói phương pháp này không có giá trị. Khi con đang đi từ tầng tâm thức 48 đến tầng 96, thì lẽ tự nhiên ý chí của con, quyết tâm của con cần mạnh hơn sức kéo xuống của tâm thức tập thể. Vì nếu không thì làm sao con có thể vươn lên trên tâm thức tập thể?

Khi con đi tới các tầng cao hơn và bắt đầu đi quá tầng 96, thì con bước vào một giai đoạn khác. Con nên xem xét là có một cách khác để tiếp cận các đức tính của bảy tia. Con có thể lấy đức tính uy lực ý chí, con có thể thấy nó diễn bày ra sao trên trái đất và con có thể thiết lập hai đối cực. Con có thể nghĩ uy lực ý chí có thể yếu hay mạnh, hoặc hướng ngoại hoặc ù lì, hoặc hung hãn hoặc thụ động.

Một cách nhìn khác là vươn lên tới nhận biết uy lực ý chí là một đức tính thiêng liêng mà con không cần thu nhập khi con là một sinh thể đang đầu thai. Đây là điều nhiều đệ tử trong các đợt truyền giáo trước nghĩ. Họ nghĩ rằng đây là uy lực Ý chí Thiêng liêng của Tia thứ Nhất và tôi cần có được uy lực ý chí đó để tôi có được uy lực ý chí đó khi ở trong xác thân này. Nhưng uy lực ý chí này sẽ biểu lộ ra sao nếu con nghĩ như vậy?

11.3. Nỗ lực tới điểm gãy đổ

Con sẽ xây dựng một ngã tập trung vào uy lực ý chí và cách con nhìn uy lực ý chí xuyên qua một ngã khác. Đó là lý do vì sao con đang xây dựng một uy lực ý chí là ý chí của tự ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Và một lần nữa con nghĩ rằng phải có một rào cản mà con phải đẩy qua vì chắc hẳn thế giới vật lý tách biệt khỏi đức tính Thiêng liêng của Uy lực Ý chí của Tia thứ Nhất. Con cần phải nỗ lực để có được nó, con cần phải nỗ lực để có được bất cứ gì trên trái đất. Con đi vào trạng thái làm, làm, làm, làm nhiều hơn và dùng nhiều nỗ lực hơn và nhiều hơn nữa.

Một số người đã nhận ra là khi họ cố làm nhiều hơn thì họ lại đạt được ít hơn. Đây là điều các thày đã giải thích trước đây. Khi con tạo ra ngã vỏ ngoài phóng chiếu ra ngoài, thì con cũng tạo sự chống đối. Con càng nỗ lực nhiều hơn thì sức chống đối càng mạnh hơn, và sẽ đến lúc con không thể nỗ lực mạnh hơn nữa, con không thể chịu nổi việc cứ luôn luôn phải nỗ lực quá mạnh. Điều này đã khiến một số đệ tử rốt cuộc bị suy sụp, không còn làm được nữa. Các thày đã thấy điều này nơi các đệ tử trong các đợt truyền giáo trước, hội chứng hoàn toàn thất bại khi họ nỗ lực mạnh đến độ họ không còn nỗ lực được nữa. Lúc đó họ phải hoàn toàn rút lui khỏi đường tu, ngay cả rời bỏ con đường tu, tuy đã có lúc họ nghĩ họ đang tiến bộ rất tốt và là các đệ tử ưu tú nhất.

11.4. Cảm nhận sự chuyển động của đại dương của Ý chí Thiêng liêng

Một cách khác là điều mà thày Quân Âm đã đề cập, là không làm nhưng không việc gì không được làm. Con nhận ra là con không tách biệt khỏi Ý chí Thiêng liêng, con là một ngọn sóng trong đại dương của Ý chí Thiêng liêng. Thay vì nghĩ con cần bơi trên ngọn sóng và bơi càng lúc càng nhanh hơn để bắt kịp Ý chí Thiêng liêng, thì con ngừng bơi, con thư giãn và con cảm thấy sự chuyển động của đại dương của Ý chí Thiêng liêng. Nó dâng lên, nó hạ xuống, nó dâng lên, nó thư giãn và nó chảy về một hướng. Hướng này có thể không phải là hướng mà tâm vỏ ngoài, tự ngã, các ngã tách biệt của con muốn con đi tới. Nhưng đó là hướng sẽ cho con tăng trưởng cao nhất, thăng vượt cao nhất, tiến bộ cao nhất về hướng tầng tâm thức 144 và việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con, bất kể điều gì con đã ghi vào sứ vụ này mà tâm vỏ ngoài của con đã quên khuấy, và tâm vỏ ngoài không còn ý thức.

Con đã tạo trong tâm vỏ ngoài một mục đích dựa trên nền văn hóa và môi trường nơi con khôn lớn và con nghĩ con cần nỗ lực mạnh để tiến tới mục đích đó, nhưng hướng đó không phải là hướng của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Một lần nữa, nếu con dùng nỗ lực mạnh đi ngược lại Sứ vụ Thiêng liêng của con thì con tạo sự chống đối bên trong chính mình, và con càng ngày càng phải cố gắng hơn. Đó là lý do một số người trải nghiệm là có cái gì gãy đổ, có cái gì chết đi, họ trải qua một đột phá, một sáng ngộ hay một sự suy sụp tinh thần, nhưng họ cảm thấy có một xoay chuyển và họ không thể tiếp tục đi theo hướng cũ. Nhưng nhận biết này không cần phải là một xoay chuyển quá to lớn khiến con cảm thấy trống vắng hay cảm thấy là không có gì trong đời mình đang suôn sẻ. Con thực sự có thể học cách giải quyết các ngã tách biệt này, nhận diện các ngã tách biệt muốn con đẩy mạnh, đẩy mạnh và đẩy mạnh. Con có thể tới chỗ nhìn thấy chúng, tách mình ra khỏi chúng, để chúng chết đi, và sau đó con nỗ lực, một nỗ lực có ý thức để hòa điệu với hướng đi tới nhịp nhàng của Sứ vụ Thiêng liêng của con, do Ý chí Thiêng liêng hướng dẫn.

11.5. Ý chí của Thượng đế đối với Ý chí của Hiện diện TA LÀ

Có nhiều sự ngộ nhận về Ý chí Thiêng liêng, mà có người cũng gọi là Ý chí của Thượng đế. Vị sứ giả này nhiều năm trước đây tham gia một đợt truyền giáo nói nhiều đến Ý chí Thiêng liêng, Ý chí của Thượng đế. Có sự tương phản giữa ý chí của tự ngã và Ý chí của Thượng đế, và ông trăn trở điều này trong tâm và lúc đó cảm thấy chỉ có hai chọn lựa, hoặc theo ý chí của tự ngã hoặc theo Ý chí của Thượng đế, và cả hai cách đều không có chỗ cho chính ông. Dù ông theo ý chí của tự ngã hay Ý chí của Thượng đế thì ông cũng cảm thấy đây là một ý chí bên ngoài ông. Có chỗ nào cho ý chí của chính ông chăng? Lúc đó ông không hiểu rõ vấn đề nhưng đó là điều ông cảm nhận. Rốt cuộc một ngày kia ông quy hàng và nói: “Được rồi Thượng đế, xin ngài cho tôi thấy ý chí của ngài và tôi sẽ tuân theo” thì lúc đó ông nhận được một xung lực từ bên trong nội tâm, sự thực là từ chính thày: “Nếu Thượng đế chỉ muốn con tự mình lấy quyết định thì sao?” Xung lực này khiến ông chấn động, nhưng nó tạo một phản ứng dây chuyền trong ông khiến ông nhận ra là không có Ý chí Thiêng liêng nào áp đặt bất cứ điều gì lên con người.

Không có một Thượng đế giận dữ trên thiên đàng, hay ngay cả một Chân sư MORE giận dữ trên thiên đàng, đang nhìn xuống con và muốn ép buộc con làm điều gì. Thày còn không muốn ép con phải theo Sứ vụ Thiêng liêng của con. Thày không áp đặt Sứ vụ Thiêng liêng của con lên con, và các chân sư thăng thiên khác cũng vậy. Chính con đã chọn lựa, chính con đã chọn lựa. Vấn đề có phải chăng là lấy vào một ý chí bên ngoài muốn ép buộc vũ trụ phải tuân theo những mục đích và ham muốn của con, hay là vượt lên trên tất cả mọi ý chí bên ngoài, cho dù đó là ý chí của tự ngã, ý chí của thế gian, ý chí của gia đình, ý chí của xã hội, Ý chí của Thượng đế hay của một chân sư thăng thiên nào đó? Có thể nào hòa điệu với cái mà nhiều người còn không coi là uy lực ý chí? Nó giống như đại dương dâng lên lắng xuống, sự đi tới nhẹ nhàng của các làn sóng xuyên qua đại dương để rốt cuộc tới bờ bên kia. Đây là một loại ý chí khác. Đây là một ý chí không thể bị một phản-ý chí chống đối. Đây là một ý chí không áp đặt lên con.

Đây không phải là một ý chí mà con muốn chấp nhận hay chối bỏ. Đây là một ý chí mà con trầm mình vào, giống như con trầm mình vào đại dương. Con hãy tưởng tượng con đang bơi trên mặt đại dương và có những ngọn sóng lớn nhưng nhẹ, và thoạt tiên con bơi và phải vất vả mới giữ được đầu trên mặt nước, nhưng con nhận ra là con không cần thở vì con đang ở trong những thể cao của mình. Con có thể thư giãn, con có thể trầm mình vào lòng đại dương, và như vậy con không còn vùng vẫy trên mặt đại dương nữa và con chỉ nhẹ nhàng di động theo sự trồi sụt của đại dương và con di động theo ý chí cao đó. Con không vùng vẫy, con không dùng lực, và đó là điều mà Lão Tử có nói là con không làm gì cả nhưng không có nghĩa là con thụ động. Không có nghĩa là con phải ngồi trong một hang động trong núi Himalaya và suốt ngày thiền định về Thượng đế. Con có thể có một cuộc sống tích cực, con có thể làm một số công việc, con có thể lấy quyết định nhưng con không áp đặt các quyết định của mình. Con không lấy các quyết định này với tâm vỏ ngoài. 

Con chỉ trầm mình trong ý chí rộng lớn là Ý chí của Hiện diện TA LÀ của con, cũng là ý chí mà chính con đã sắp đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Không có vũ lực, không có vật lộn, chỉ có sự di động nhẹ nhàng nâng con lên, kéo con qua bên này, kéo con qua bên kia, và bỗng nhiên con thấy là tuy con có cảm tưởng là không có gì được làm, nhưng không có gì không được làm, vì điều con quyết định hoàn thành trong Sứ vụ Thiêng liêng đã được hoàn thành. Nhưng điều này nghĩa là gì?

11.6. Vật lộn với ý chí và mục tiêu vỏ ngoài

Con có thể nhìn vào cuộc đời mình và thấy là con đã được dạy dỗ để chấp nhận một số mục tiêu vỏ ngoài cho cuộc đời của mình chăng? Có lẽ cha mẹ con đã thúc đẩy con đi học, làm một công việc nào đó, bắt đầu một sự nghiệp sẽ dẫn con dần dần tới những chức vụ cao hơn cho tới khi con tới mục tiêu cuối cùng của sự nghiệp nơi tất cả mọi sự nghiệp phải chấm dứt, đó là về nghỉ hưu.

Con làm việc trong 40 năm hay nhiều hơn để đạt được chức vụ đó, để rồi về nghỉ hưu một thời gian ngắn sau khi con đạt tới đó. Con đã trải qua cả cuộc đời tìm cầu, và khi con nghỉ hưu và không còn tìm cầu nữa thì con không biết phải làm gì với chính mình. Có rất nhiều người chết trong vòng một hoặc hai năm sau khi nghỉ làm về hưu vì họ không còn lẽ sống nữa. Con có thể thấy nhiều người đi theo con đường vạch sẵn đó suốt đời họ, và sau khi họ rốt cuộc về hưu thì họ nhìn lại cuộc đời họ và cảm thấy: “Cuộc đời này có nghĩa gì? Tôi đã đạt được gì? Những thành tựu bên ngoài mà tôi đã đạt được, cuộc đời thật sự chỉ là thế hay sao?”

11.7. Những trồi sụt trên con đường tu

Khi con là một đệ tử tâm linh thì con có thể nói: “Không, những thành tựu bên ngoài không phải là điều quan trọng trong cuộc đời. Mục đích cuộc đời là nâng cao tâm thức.” Con thấy là ý chí thật sự trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là nâng cao tâm thức, và đôi khi việc nâng cao tâm thức không phải là một tiến trình suôn sẻ, lúc nào cũng đi lên. Một ngọn sóng trồi lên, con có thể có một trải nghiệm tâm linh cao, cảm thấy nối kết thật sự, nhưng sau đó tới lúc phải làm việc, phải nhìn vào tâm lý của mình. Con có thể cảm thấy mình đang tụt dốc, nhưng làn sóng cứ tiếp tục đi tới xuyên qua đại dương, và nó sẽ lại trồi lên, và lần này nó trồi lên cao hơn trước. Con nhận ra là tuy có trồi sụt trên con đường tu, nhưng hướng chung vẫn đi lên cao hơn. Đến cuối đời con thấy là bất kể các kết quả vật lý mà con đạt được, con đã nâng tâm thức mình lên. Các thành tựu vật lý có quan trọng chăng khi con đã nâng tâm thức?

Vì khi con bỏ xác thân vật lý lại đằng sau thì con có thể mang theo thành tựu vật lý nào chăng? Con có thể mang được gì theo con? Chỉ có trình độ tâm thức. Nếu con đã nâng tâm thức mình lên tầng 100 trong một kiếp sống, thì con sẽ bắt đầu ở mức đó trong lần đầu thai kế tiếp, hay ít ra là con có thể mau chóng đạt trở lại mức đó. Như vậy có nghĩa là việc con thăng thiên trong kiếp đó là điều thiết thực. Hoặc con có thể thăng thiên trong kiếp đầu thai này, nhưng không phải nhờ dùng nỗ lực mạnh nhưng bằng cách nối kết với dòng chảy của ý chí, của Ý chí Thiêng liêng, không chú trọng vào thành tựu đặc thù nhưng vào việc nâng cao toàn thể sự sống lên. Mục đích của Ý chí Thiêng liêng không phải là thể hiện một điều kiện vật chất đặc thù nào, mà là nâng mọi sự sống lên các tầng tâm thức cao hơn, lên các tầng rung động cao hơn.

11.8. Vũ khúc hoàn vũ của Tâm Một

Con có thể hỏi, khác biệt giữa tâm thức và rung động là gì? Tâm thức là cái gì có thể rung động và có khả năng khiến năng lượng rung động. Tâm thức là thực tại bên dưới mọi sự, tối hậu nó là tâm thức của đấng Sáng tạo, hay là tâm thức của cái Tất cả vượt quá đấng Sáng tạo, là Tâm Một, tâm không phân chia, không thể phân chia.

Trong cái Tâm Một đó, tâm thức có thể tự nó khiến nó rung động như năng lượng, và sau đó tâm thức có thể biểu thị chính nó như một sinh thể cá biệt có tự nhận biết, và lúc đó có thể khiến năng lượng rung động để thành hình tướng, và sinh thể thị hiện hình tướng lúc đó có thể nhận biết và trải nghiệm hình tướng. Đây là cách sự đồng-sáng tạo tiến hành, nhưng sự đồng-sáng tạo không những chỉ có mục đích nâng các sinh thể cá biệt lên các tầng tâm thức và khả năng đồng-sáng tạo cao hơn, nhưng còn có mục đích nâng lên cái mà ta có thể gọi là năng lượng hay vật chất, nâng cao độ rung động cho tới khi thấy rõ ràng là mọi hình tướng đều là tâm thức, đều xuất phát từ Tâm Một.

Đây là vũ khúc hoàn vũ, khi Tâm Một khoác vào hình tướng, khởi đầu với một ý niệm bản ngã hạn hẹp, nới rộng ý niệm bản ngã đó ra cho tới khi cái ta nhận ra nó là một phần nối dài của tâm một, nó là một đồng-sáng tạo với đấng Sáng tạo. Lúc đó, cái ta cá biệt xoay chuyển để không còn theo đuổi các mục đích như một ngã tách biệt nữa, nhưng trở thành một phần của tiến trình đồng-sáng tạo lớn lao nâng tất cả mọi sự sống lên, qua đó nâng mọi sự sống lên, nâng Tâm Một lên, và đây là điều mà tâm đường thẳng không thể hiểu.

Khi các thày nói chỉ có Tâm Một, con nghĩ (như nhiều người đã nghĩ) là điều này có nghĩa Tâm Một toàn hảo, nó không bao giờ thay đổi, nó là thực tại tối hậu, nhưng vì sao con hiện hữu như một hình tướng được biểu lộ? Đó là vì lúc nào cũng có các hình tướng được biểu lộ từ Tâm Một, và khi tâm tự biểu lộ mình như hình tướng và sau đó tới chỗ nhớ mình là Tâm Một, thì Tâm Một tăng trưởng, mở rộng. Tâm đường thẳng hỏi: tiến trình này đã diễn ra từ bao lâu rồi? Từ muôn thuở là câu trả lời duy nhất. Ấy – tâm đường thẳng lại hỏi – nếu Tâm Một tăng trưởng chính nó từ muôn thuở, thì ắt hẳn nó phải tới một trạng thái tăng trưởng tối hậu. Làm sao nó có thể tăng trưởng mãi mãi? Tiến trình này khởi sự lúc nào? Có cái gì trước khi Tâm Một hiện hữu hay trước khi Tâm Một quyết định biểu lộ chính nó?” Lúc nào cũng có Tâm Một tự biểu lộ chính nó và qua đó trở nên hơn nữa, và tiến trình này sẽ tiếp diễn mãi mãi, và sự tự tăng trưởng của Tâm Một không có giới hạn, không có kết thúc. Đây là điều mà tâm đường thẳng không thể nắm bắt, vì ai có thể nắm cái vô biên?

11.9. Hòa điệu với Hiện diện của các chân sư

Thày không nói là thày, như một chân sư thăng thiên, có thể nắm bắt sự tăng trưởng vô biên, vô tận nhưng thày có thể nắm bắt nó nhiều hơn mỗi ngày. Khi con nắm bắt cái hơn nữa, và tiến trình lúc nào cũng trở nên hơn nữa, thì con có lý do gì cần nắm bắt tiến trình một cách tối hậu? Vì tại sao con lại muốn đạt một mục đích nào đó, một mục đích tột cùng nào đó, khi con nhận ra là bản chất của tiến trình là trở nên hơn nữa? Làm sao có thể có một mục đích tột cùng trong tiến trình tăng trưởng vô biên, vượt thăng vô biên? Mục đích không quan trọng, tiến trình mới quan trọng – và tiến trình là trở nên hơn nữa.

Con có thể trụ vào tiến trình hơn nữa này bằng cách hòa điệu với Hiện diện của thày, vì thày nắm giữ ngọn lửa này cho địa cầu. Thày chỉ có thể cống hiến con Hiện diện của thày, các bài chú bài thỉnh của thày, quyển sách của thày là quyển đầu trong bộ sách về khóa học Tự Điều ngự. Lẽ tất nhiên, tất cả các thày là các Thượng sư trao truyền khóa học này không phải chỉ để giúp các con nâng tâm thức từ tầng 48 lên tới tầng 96, mà còn để các con có thể dùng mỗi quyển sách để hòa điệu với vị Thượng sư đã trao truyền quyển đó. Nếu con cảm thấy gần gũi với một vị Thượng sư, thì con hãy lấy quyển sách của vị ấy, đọc các bài truyền đọc, đọc các bài thỉnh với mục đích hòa điệu, chỉ hòa điệu với hiện diện của vị Thượng sư đó. Bất kể tầng tâm thức hiện tại của con, ngay cả khi con ở trên tầng 96, thì con sẽ thấy là sử dụng quyển sách sẽ cho con một hòa điệu lớn lao với vị Thượng sư, và qua đó với tia đó.

Con thấy chăng, tuy mục đích đặc trưng của quyển sách là giúp con người nâng tâm thức, trong trường hợp của thày bắt đầu từ tầng 48, nhưng lúc nào cũng có những mục đích khác. Nếu con nhìn quyển sách của thày và nói: “Ồ, tôi chắc hẳn đã trên trình độ từ tầng 48 đến tầng 55, do đó tôi không cần học quyển sách của Chân sư MORE nữa”, thì con không nắm được là có một tầng cao hơn. Quyển sách cống hiến một cái gì hơn các tầng căn bản. Hơn bao nhiêu? Khi con còn hiện thân trong cõi vật lý, thì lúc nào cũng có cái hơn nữa. Con có thể ở tầng 144 và con có thể sử dụng quyển sách mà vẫn gặt hái được điều gì từ đó giúp con kết nối với cái hơn nữa. Vì giống như vẻ đẹp nằm trong mắt người nhìn ngắm, tất cả mọi chuyện đều nằm trong mắt người nhìn ngắm, và vấn đề chỉ là cách con nhìn sự việc và cách con dùng một giáo lý hay một dụng cụ tâm linh để vượt thăng tầng tâm thức hiện tại của con.

11.10. Con không vượt quá mức này

Kẻ địch lớn nhất của tăng triển tâm linh là gì? Đó là con cho phép mình tin lời nói của các ngã tách biệt còn sót lại và của tự ngã cho rằng: “Ồ, tôi đã vượt quá mức này. Tôi không cần học giáo lý này nữa. Quyển sách này được trao truyền cho những ai ở các tầng tâm thức thấp. Tôi đã vượt quá mức này. Tôi không cần học quyển sách này nữa.” Con đang hiện thân trong cõi vật lý, phải không con? Quyển sách của thày, bất kể mục đích đặc trưng của nó, đã được trao truyền từ một tầng tâm thức cao hơn tâm thức hiện thân vật lý. Làm sao con có thể vượt quá nó khi con còn xác thân vật lý? Làm sao con có thể vượt quá sự trợ giúp của thày là một chân sư thăng thiên?

Con hãy giám sát chính mình để nhận ra mánh lới của sa nhân và các ngã tách biệt muốn con nghĩ: “Tôi đã đạt được một tầng cao hơn và bây giờ tôi đã vượt quá mức này.” Con lúc nào cũng có thể gặt hái được cái gì hơn nữa từ một giáo lý tâm linh. Lúc nào cũng có cái gì hơn nữa có thể kích hoạt điều gì đó trong con giúp con bỗng nhiên thấy một ảo tưởng, nếu con sẵn lòng thấy ảo tưởng, nếu con có ý chí muốn thấy ảo tưởng.

Có một tha hóa khác của ý chí khi con không sẵn lòng thấy ảo tưởng vì con nghĩ mình đã vượt quá ảo tưởng đó hay mọi ảo tưởng. Con nghĩ rằng con đã đạt tới một tầng nơi con không cần với lên cái hơn nữa, con chỉ cần đợi tới lúc thăng thiên. Nếu con đang hiện thân trong thân vật lý thì làm sao con thăng thiên nếu con không với lên cái hơn nữa? Không có một tầng tối hậu mà con có thể đạt được khi con còn xác thân vật lý. Con lúc nào cũng phải với lên cái hơn nữa để nâng mình lên tầng tâm thức kế tiếp và rốt cuộc tới tầng 144 là nơi con phải với lên cái hơn nữa để nâng mình lên tầng tâm thức kế tiếp, là tầng tâm thức đầu tiên của cõi thăng thiên.

11.11. Những tầng cao hơn của tâm thức thăng thiên

Đúng vậy, con yêu dấu, thày quả thực vừa nói tầng tâm thức đầu tiên của cõi thăng thiên, vì con không nghĩ, phải không con, là khi con thăng thiên thì con đã đạt được một tầng tâm thức tối hậu? Con không nghĩ, phải không con, là khi con thăng thiên từ trái đất, con đã đạt tới cùng tầng tâm thức với Phật Gautama hay Đại chỉ đạo Thiêng liêng hay Alpha và Omega? Lẽ tự nhiên, khi con thăng thiên từ trái đất, con ở tầng tâm thức thấp nhất có thể có ở cõi thăng thiên, và sau đó con bắt đầu làm việc để nâng mình lên cao hơn bằng cách với lên cái hơn nữa. Sau đó, con dần dần, và với đa số chúng ta tiến trình này có thể cần thời gian, con dần dần đạt tới tầng tâm thức của đấng Sáng tạo, nhưng đây là một đoạn đường dài cho tất cả chúng ta, kể cả thày. Thày đã trải nghiệm chợt thoáng nhận tâm thức của đấng Sáng tạo, và nó chắc chắn cao hơn tâm thức của thày vô lượng, tuy thày không còn ở tầng tâm thức đầu của một chân sư thăng thiên.

Lúc nào cũng có cái hơn nữa, ngay cả trên cõi thăng thiên cũng có cái hơn nữa. Con có thể lấy thái độ này, là thái độ sẵn lòng vươn lên cái hơn nữa. Điều này không chỉ có nghĩa là kết nối với thày, tuy rằng thày đã đặt cho mình tên Chân sư MORE. Vì bất cứ chân sư thăng thiên nào cũng hơn những gì con gặp khi con còn đầu thai.

Con hãy tính chuyện tuôn chảy, tuôn chảy theo ý chí đang nâng mọi sự sống lên. Không xua đẩy, không vật lộn, không chống cự, nhưng quy thuận theo ý chí cao đó. Con hãy suy ngẫm quan niệm có thể xem là một nghịch lý: quy thuận theo ý chí. Nhiều người cho rằng có ý chí có nghĩa là nhất quyết, quyết định, tập trung, phải hung hãn, dùng lực để có ý chí. Thay vào đó, con hãy tính chuyện quy thuận theo ý chí. Vì đó là một ý chí cao hơn mọi thứ con có thể thể hiện qua các ngã tách biệt và qua tâm thức thấy nó tách biệt với đại dương của cái ta.

11.12. Lòng tri ân của các chân sư thăng thiên đối với các đệ tử Hàn Quốc

Tới đây thì thày muốn biểu lộ lòng tri ân của thày vì các con đã hiện diện ở đây, đã tổ chức hội nghị này, đã tham dự đông đảo vào công việc này tại Hàn Quốc, phiên dịch các bài giáo lý, phổ biến các giáo lý, đọc chú đọc thỉnh, tổ chức các sinh hoạt này, tạo ra tất cả các dụng cụ tu tập mà các con đã tạo ra. Các thày biết là các con không cần được khen ngợi, vì con không cần tham vọng thế tục đó. Nhưng các thày muốn các con biết rằng, lẽ đương nhiên, các thày biết các nỗ lực lớn lao mà các con đã bỏ ra. Các thày biết ơn các con đã làm nhiều việc để mang các giáo lý này đến nhiều người hơn trong quốc gia này. Tuy có thể có lúc con cảm thấy hơi nản chí vì con có hy vọng các nỗ lực của mình gặt hái được kết quả vật lý cao hơn, nhưng thày bảo đảm với các con là trong sự vận chuyển rộng lớn hơn của đại dương là tâm thức tập thể của quốc gia này, các con đã tạo ra một sự vận chuyển mới, một sự vận chuyển đi lên. Điều quan trọng không phải là kết quả bên ngoài mà là sự nâng cao tâm thức.

Các thày đều hy vọng là các con cảm thấy mãn nguyện khi biết rằng các con thuộc vào làn sóng nâng cao tâm thức sẽ nâng cả dân tộc này lên. Thày không phải chỉ nói đến phần phía nam của dân tộc này, mà cả dân tộc, cho tới khi làn sóng đó tràn qua biên giới và cuốn đi mọi kháng cự một ngày mới. Tới đây, thày niêm phong các con trong Ngọn lửa HƠN NỮA mà thày LÀ.

9 | Tự dạy mình tẩy xóa ký ức

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 1/12/2018, nhân một hội nghị ở Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE, và thày muốn khai triển những gì thày đã trao con hôm qua cùng những gì Mẹ Mary đã trao con và hướng về đề tài làm thế nào con có thể khắc phục quá khứ của con. Trong số các con hôm nay có một người nói với sứ giả này là ông vẫn cảm thấy bị kẹt trong quá khứ, sống trong quá khứ, nhìn lại quá khứ, thậm chí còn ao ước một thiên đàng đánh mất mà mình đã trải nghiệm ở một thời điểm trong quá khứ. Nhiều, rất nhiều người tâm linh khắp nơi trên thế giới mang cảm nhận là mình đã đánh mất cái gì đó và tất nhiên, đúng là con đã mất một cái gì. Con đã mất sự trong trắng mà con có trước khi đến đây, và theo một nghĩa nào đó, giáo lý của các thày cũng có thể gọi là một nỗ lực để giúp con hồi lại, giành lại sự trong trắng này.

Bây giờ, làm thế nào con thoát ra khỏi cảm giác mình sống trong quá khứ, bị vướng buộc vào quá khứ? À tất nhiên, các thày đã trao cho con nhiều dụng cụ và giáo lý rồi. Rõ ràng là một khi con làm tan năng lượng, năng lượng cảm xúc, đã cuốn hút con vào những nghĩ ngợi về một số tình huống đã qua thì việc này sẽ giúp con thoát ra khỏi. Khi con giải thể một số ngã, khi con thấy chẳng hạn nếu con đã phải chịu một chấn thương, đã tạo ra một cái ngã để đáp trả lại nó, để phản ứng lại nó, thì khi nhận diện được ngã và để cho nó chết đi, ít nhất con sẽ thoát ra khỏi tình huống đó.

9.1. Khắc phục nỗi sợ phải lấy quyết định

Hơn vậy, có những cái ngã không thực sự do con tạo ra để phản ứng lại một tình huống đặc thù. Chúng được tạo ra để phản ứng lại cảm giác mình là người đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất. Chúng ta còn có thể nói là những ngã này có mặt rất rõ ràng trong tâm thức tập thể. Thật khó lòng mà không bị chúng ảnh hưởng, đặc biệt sau khi con phải chịu một chấn thương nhập đời và bị sốc là các điều kiện trên trái đất có thể khác xa đến vậy so với những gì con đã hình dung trước khi đến đây. Thật quá dễ để con khoác vào một số những ngã tập thể này đã được tạo ra suốt một thời gian rất dài, và như các thày đã nói, chúng được tạo ra để đối phó với một hoàn cảnh mà con người không thể sống chung. Con không thể sống nổi với hoàn cảnh, con không thể trốn chạy khỏi nó, cho nên con phải tìm được cách ứng phó với nó, để ít nhất con có thể sống cho dù là không thoải mái hay an bình.

Có những cái ngã đã quanh quẩn trong tâm thức tập thể từ rất lâu, và một trong những ngã này tất nhiên – để khai triển những gì Mẹ Mary vừa giảng – là cái ngã bảo rằng con phải toàn hảo, nếu không thì con không tốt đủ. Ngã này khiến con cảm thấy là nếu con đã làm chuyện gì mà chính con hay người khác gọi là lỗi lầm, thì con sẽ không thể trốn thoát khỏi nó. Thậm chí tôn giáo còn thường bị người ta sử dụng để lập ra chuẩn mực cho cách cư xử của mọi người. Nếu con làm chuyện gì mà tôn giáo của con liệt vào loại tội lỗi, con cảm thấy mình bị ô uế bởi tội lỗi này cho đến ngàn đời. Người ta còn đưa ra khái niệm về tội tổ tông, qua đó con sinh ra đã là người có tội do những gì cha mẹ con đã làm hay tổ tiên con đã làm, đi ngược về tận thời Adam và Eva. Rõ ràng con có thể thấy những loại tư tưởng như vậy vi phạm hoàn toàn thực tế của quyền tự quyết. Nhưng chúng ta không nên đi quá sâu vào chuyện này mà hãy tập trung vào sự kiện là có đủ loại ngã muốn con nghĩ rằng một khi con đã làm một việc gì con chấp nhận là sai lầm thì con không thể thoát ra khỏi, và như các thày đã nói, con không thể gỡ bỏ tình huống vật lý đó.

Vậy thì làm sao con có thể thoát khỏi quá khứ con đây? À, thày là chân sư, là Thượng sư của Tia thứ Nhất của Ý chí Thượng đế, vậy làm thế nào con thoát khỏi quá khứ của mình? Nói cho cùng, con phải lấy một quyết định để được tự do. Hiển nhiên thày đã không giúp con nhiều lắm khi thày nói: “Con phải lấy một quyết định để được tự do khỏi quá khứ.” Đa số các con sẽ cảm thấy: “Nhưng con làm thế nào chứ?” Thậm chí con có thể sợ lấy quyết định nữa là đằng khác. Nhưng con cần nhận ra ý chí là một động lực vô cùng đũng mãnh – cái ý chí muốn là con người mà con là, ý chí muốn là một người sáng tạo, ý chí muốn sáng tạo một điều gì chưa có mặt bây giờ.

Đây là một mối đe dọa to lớn cho sa nhân cùng sự kiểm soát của chúng trên địa cầu. Chúng không muốn con sáng tạo. Chúng không muốn con khởi lên một điều gì mà chúng không thể đoán trước. Nếu chúng không thể đoán trước thì chúng không thể kiểm soát. Để dùng cách diễn tả của Nada, chúng muốn “đập dí” sự sáng tạo của con để nó không phá rối hiện tình trong xã hội mà chúng kiểm soát. Một cách để chúng làm vậy là qua cái chuẩn mực bảo rằng con phải toàn hảo nếu không thì con tồi tệ, và chúng khiến con cảm thấy là con đã lầm lỗi. Nhưng làm thế nào con đã lầm lỗi chứ? Bằng cách lấy một quyết định.

Có một cái ngã đã có mặt trong tâm thức tập thể từ lâu đời, nó bảo rằng việc lấy quyết định thật nguy hiểm, và như một cá nhân, con thật sự nên ngừng lấy quyết định. Con nên tuân theo chuẩn mực, tuân theo tiêu chuẩn, tuân theo quy luật, hành xử y như mọi người khác. Theo một nghĩa nào đó, con vẫn lấy quyết định nhưng trong một khuôn khổ được quy định rất hạn hẹp. Con không đang có những quyết định sáng tạo – những quyết định mới mẻ, những quyết định thử nghiệm. Con chỉ đang “làm”, đang quyết định giống y như mọi người khác đã từng quyết định. Ngã này phóng chiếu vào con là nếu con làm vậy, con sẽ an toàn, con sẽ chuẩn, con sẽ không lầm lỗi, con sẽ không bị lên án, con sẽ không bị coi rẻ. Con thấy ở đây có một cái ngã tập thể rất mạnh mẽ không muốn ai có những quyết định sáng tạo cá nhân. Ngã này nói: “Bạn đừng lấy quyết định, bạn không thể phạm lỗi.”

9.2. Quyết định là mình không sợ quyết định

Đương nhiên nếu con đã đến trái đất như một người đồng sáng tạo, như một avatar, hay nếu con là một cư dân nguyên thủy đã phát triển đến một tầng tâm thức nào đó, con không thể an bình nếu con rơi vào tâm thái đó. Nếu con đem ngã này vào bốn thể phàm của con, con không thể an bình với việc mình ở trên trái đất vì con thừa biết là con không đang hoàn thành mục tiêu của mình khi đến đây. Con không đang hoàn thành tiềm năng cao nhất của con, con không tăng triển, con không tự thăng vượt. Con không thể an bình với ngã đó. Chừng nào con không sẵn lòng lấy quyết định thì con sẽ không thể an bình – chỉ giản dị vậy thôi. Con cần làm gì để vượt qua bế tắc, vượt qua thế lưỡng nan này? À con yêu dấu, con cần lấy quyết định – chỉ giản dị vậy thôi.

Và đây cũng là điểm mà ngay cả giáo lý các thày trao truyền đôi khi cũng có thể cho con một cái nhìn hơi méo mó. Con chỉ việc trở về thời thập niên 1930 khi Saint Germain lần đầu tiên ban truyền kỹ thuật thỉnh cầu ngọn lửa tím, con thấy một số học trò của chân sư thăng thiên suy luận rằng tất cả những gì họ cần làm là thỉnh cầu đủ ngọn lửa tím thì một buổi sáng họ sẽ thức dậy sẵn sàng thăng thiên. Tất nhiên là chuyện này không bao giờ xảy ra, và như các thày đã nói, đây không phải là một con đường máy móc.

Con có thể lấy các lời dạy mà các thày ban ra ngày nay và bảo: “À, tôi chỉ cần cầu thỉnh đủ năng lượng qua các bài chú, bài thỉnh, thì tôi sẽ giải tỏa năng lượng cảm xúc đang kéo tôi trở về quá khứ, rồi tôi cần giải thể những ngã này thì một ngày kia tôi sẽ được tự do khỏi quá khứ.” Tất nhiên, việc giải tỏa năng lượng và loại bỏ ngã sẽ giúp con giảm thiểu lực kéo của quá khứ trên con. Nhưng đâu là cái “tôi” mà quá khứ lôi kéo? Các thày đã gọi đó là cái Ta Biết, đơn giản để diễn tả là có một thành phần trong con người phàm của con – cái bản thể đang hiện thân – và thành phần này không phải là bốn thể phàm của con, không phải là ngã tách biệt của con, cũng không phải là ý niệm nhân cách của con, mà là cái gì vượt khỏi những thứ đó. Đó là cái cho con sự tự nhận biết giúp con bước lui lại khỏi hoàn cảnh hiện tại, khỏi ý niệm bản sắc hiện tại của mình, và quyết định là con muốn thay đổi.

Mỗi khi con nhận diện: “Ồ, tôi có một ngã tách biệt trong bản thể tôi đang phóng chiếu là có vấn đề này tôi phải giải quyết,” cái gì là cái có khả năng nhận ra như vậy? Đó là cái Ta Biết. Đó là thành phần trong con có khả năng ý thức được tâm thức của con, ý thức được những gì đang diễn ra trong tâm thức con. Con thấy là nhân cách vỏ ngoài của con, chẳng hạn, hoàn toàn bị bao trùm trong hoàn cảnh hàng ngày. Nhân cách vỏ ngoài không thể bước lui lại và nói: “Bây giờ đến lúc tôi cần hành xử khác hơn.” Nhưng đó là điều cái Ta Biết có thể làm khi nó ý thức được khả năng này của nó. Nó có khả năng bước lui lại.

Một ngã tách biệt không thể bước lui lại, nó không thể nói: “Ồ, tôi muốn giải thể chính tôi.” Cái Ta Biết có thể bước lui lại và nói: “Tôi muốn giải thể ngã này vì nó không phải là cái ta của tôi, nó không phải là con người tôi là.” Mỗi khi con nhận biết có một ngã tách biệt, đó chính là cái Ta Biết đang sử dụng khả năng của nó để ý thức những gì đang xảy ra trong tâm con. Con có thể nói đó là thành phần trong tâm con có khả năng ý thức về phần còn lại của tâm. Đây chỉ là một cách diễn tả.

Vậy con sẽ cần gì để cho một ngã tách biệt chết đi? Ấy, cái Ta Biết phải lấy một quyết định, và đâu là quyết định con phải lấy để cho bất kỳ ngã nào chết đi? Như các thày đã giảng, có một cái ngã phóng chiếu ra là có một vấn đề cần giải quyết. Chẳng hạn để khai triển thêm bài giảng vừa rồi của Mẹ Mary, lấy ví dụ có một ngã tách biệt phóng chiếu là con cần phải toàn hảo, nếu không thì con rất tệ. Ngã không bao giờ có thể chất vấn chuyện này, nó sẽ tiếp tục phóng chiếu vào con là con cần cố gắng trở nên ngày càng tốt hơn để có thể toàn hảo. Hoặc có một ngã khác phóng chiếu là khi con không toàn hảo – và hiển nhiên, con không bao giờ toàn hảo được – thì con phải cảm thấy tủi hổ. Rồi có một ngã khác nữa phóng chiếu là con phải ngừng cố gắng vì rõ ràng con không đủ tốt, hay có gì đó sai quấy với con, vân vân.

Các ngã này không bao giờ có thể khắc phục được sự lập trình của chúng. Điều cái Ta Biết cần làm là nhìn ra ảo tưởng đằng sau sự phóng chiếu của ngã, nhìn ra vấn đề do ngã phóng chiếu là không thực và vì vậy không có giải pháp. Không hề có giải pháp nào. Toàn hảo là gì? Chưa bao giờ có ai định nghĩa được toàn hảo là gì vì nó không thể được định nghĩa, vì đó là một khái niệm vô nghĩa. Cho nên con yêu dấu, đó là một vấn đề không thể giải quyết. Con không thể trở nên toàn hảo. Một khi cái Ta Biết thấy được điều này, nó có thể lấy quyết định: “Tôi không còn muốn chú ý của tôi bị buộc chặt vào việc cố giải quyết vấn đề bất khả này.” Và con để cho ngã chết đi.

9.3. Con đường thoát khỏi quá khứ

Đối với việc khắc phục quá khứ thì có lẽ nó hơi khác một chút. Cho dù con cũng có một cái ngã phóng chiếu là con không thể thoát khỏi quá khứ, nhưng đâu là vấn đề mà ngã này phóng ra? Đó không hẳn là một vấn đề đơn giản vì ngã không thật sự phóng chiếu là có gì đó con cần giải quyết – vì không có chuyện gì để giải quyết. Quá khứ, theo ngã này, đã được khắc trên đá nên con không bao giờ có thể thoát ra khỏi. Điều mà ngã thật sự phóng chiếu là con phải cảm thấy tồi tệ về những gì đã xảy ra trong quá khứ và con phải tiếp tục cảm thấy như vậy. Thật không có vấn đề gì cần giải quyết ở đây, theo nghĩa là ngã không cho con một lối thoát.

Một số các ngã kia, chúng cho con một lối thoát, ít ra ảo tưởng là một ngày con có thể trở nên toàn hảo. Nhưng ngã này không cho con lối thoát vì con không thể thay đổi quá khứ dựa theo những gì nó phóng chiếu. Tất nhiên con có thể nhìn ra đây cũng là một tình huống bất khả, nhưng hầu hết mọi người đều đã được lập trình từ nhiều tiền kiếp để tin rằng có một sự thật nào đó ở đây, theo nghĩa là con không thể thay đổi những gì đã xảy ra trong quá khứ, con không thể gỡ bỏ những gì con đã làm. Nếu con đã phạm vào cái gọi là lỗi lầm thì con không thể hoàn nguyên.

Vậy con có thể làm gì để vượt quanh vấn đề, để nhìn nó một cách khác? Con có thể khai triển những gì thày đã trao cho con trong bài giảng trước khi thày nói là mọi chuyện con làm đều được làm với năng lượng cơ bản, dạng cơ bản của Ánh sáng Mẫu-Vật cấu tạo bốn thể phàm của trái đất, bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất trên trái đất. Có một năng lượng ở đó, và tất cả những gì con làm đều được làm với năng lượng này. Đơn giản, như các thày đã giảng, năng lượng này giống như những cái chấm trên một màn hình có thể bật hay tắt, có thể khoác vào những màu sắc và hình thù khác nhau, có thể sắp xếp thành những mô thức khác nhau.

Như thày đã nói, con cần bắt đầu luyện tập để thấy được năng lượng đằng sau các hình ảnh mà tâm con phóng chiếu lên năng lượng. Hiển nhiên đây không phải là một công việc dễ dàng như các thày mô tả, vì một lần nữa, từ rất lâu tâm thức tập thể đã bị đông đặc lại chung quanh một số hình ảnh như chẳng hạn thế nào là tội lỗi, thế nào là sai trái. Con phải xấu hổ vì đã làm chuyện sai trái, và con phải cảm thấy là mình không bao giờ có thể được chuộc lỗi. Tất cả những thứ này và nhiều, rất nhiều thứ nữa có mặt trong tâm thức tập thể, nhưng con vẫn có thể luyện tập để nhận ra là tất cả đều được tạo bằng năng lượng và năng lượng thì chỉ là năng lượng. Đó chỉ đơn giản là năng lượng.

Con có thể nhìn vào một tình huống nào đó, như trong ví dụ thày đã cho là màn hình chiếu bóng có một số hình ảnh con đang xem, nhưng thực sự đó chỉ là những mô thức ánh sáng. Con có thể nhìn vào một tình huống nào đó trong quá khứ xuyên qua một cái ngã đặc thù bảo rằng con đã phạm lỗi lầm và con không bao giờ có thể chuộc lỗi và con phải xấu hổ. Con có thể nghĩ là tình huống đó đã xảy ra cho nên nó có một thực tế khách quan nào đó. Nó không chỉ là một chuyện chủ quan. “Không, chuyện đó đã xảy ra. Người khác đã thấy nó xảy ra. Thượng đế đã thấy nó xảy ra.” Mắt trời nhìn thấy mọi chuyện và mắt trời đã thấy nó xảy ra, và Thượng đế sẽ mãi mãi cầm giữ hình ảnh lỗi lầm của con và con sẽ không bao giờ thoát ra được. Mọi người khác sẽ mãi mãi cầm giữ lỗi lầm của con và con sẽ không bao giờ thoát ra được. Nói cách khác theo sự phóng chiếu của các ngã và sa nhân, một tình huống đã xảy ra trong quá khứ với một thực tế khách quan. Và đây là điểm con có thể bắt đầu chất vấn điều này và ngộ ra một sự thật vô cùng, vô cùng đơn giản.

9.4. Quá khứ của con không có thực tế khách quan

Thượng đế, như các thày đã nói: Thượng đế Sáng tạo không ngó đến bất cứ gì xảy ra trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Cho đến khi bầu cõi thăng thiên thì Đấng Sáng tạo sẽ hoàn toàn không nhìn đến nó. Tâm thức Thượng đế mãnh liệt đến độ nó sẽ có đủ loại tác động, và ngài đã ban quyền tự quyết cho các sinh thể đồng sáng tạo của ngài. Nói chung, một bầu cõi chưa thăng thiên ra đời khi Thượng đế tạo ra một bầu cõi, gửi sinh thể đồng sáng tạo vào đó rồi nói: “Bây giờ các con hãy đi ra và làm bất cứ gì các con muốn trong bầu cõi này vì ta sẽ không nhìn đến nó.” Khi bầu cõi thăng thiên thì Đấng Sáng tạo sẽ nhìn, nhưng trước đó thì không. Thượng đế đích thực không phán xét con, không lên án con và không cầm giữ hình ảnh về những gì con đã làm trong quá khứ. Loại thượng đế nào mới cầm giữ? À, các thượng đế giả do sa nhân tạo ra, nhưng liệu đó có phải là thượng đế mà con cần quan tâm hay không? Thày không nghĩ vậy, con yêu dấu, khi con biết những gì con biết.

Nếu Thượng đế không cầm giữ hình ảnh về sự việc trong quá khứ, thì hình ảnh những việc con đã làm sẽ tồn tại ở đâu? Đâu là nơi một hình ảnh khách quan sẽ tồn tại? À, con có thể nói: “Trong các Hồ sơ Akasha.”

Phải, trong Hồ sơ Akasha có ghi lại những gì con đã làm trong quá khứ, nhưng đó không phải là một bản ghi những gì con đã nhìn thấy, hay sa nhân đã nhìn thấy, hay người khác đã nhìn thấy. Đó là một bản ghi những sóng năng lượng, những mô thức sóng năng lượng. Hồ sơ Akasha chỉ đơn giản ghi nhận mà không đưa ra một phán xét nào về cách con nhìn tình huống xảy ra. Những hình ảnh mà con gán lên đó, những xét đoán mà con gán lên đó bảo rằng con đã lầm lỗi, không hề được ghi lại trong Hồ sơ Akasha. Các mô thức sóng năng lượng được ghi lại ở đó nhưng chỉ vậy thôi. Hồ sơ Akasha không nhìn sự việc một cách ý thức và đưa ra lời phán xét việc làm của con là sai trái và con phải cảm thấy như thế nào.

Vậy thì những ý tưởng kia bảo rằng con đã lầm lỗi, chúng được cất ở đâu chứ? À, chúng có thể nằm trong tâm của người khác, và một số những người này có thể là sa nhân. Vậy cái nằm trong tâm người khác – và chắc chắn cũng nằm trong tâm sa nhân – cái đó có khách quan không? Không đâu, đấy là một xét đoán hoàn toàn chủ quan.

Có một nơi khác nữa mà bản ghi các lầm lỗi cũ của con có thể được cất giữ là trong bốn thể phàm của chính con, trong chính tâm con – nhưng cái này có khách quan không? Cũng không, đấy không phải là một thực tại khách quan vì nó hoàn toàn tùy thuộc vào nội dung tâm thức con, kể cả những ngã tách biệt đã pha màu nhận thức của con.

Hẳn con thấy được điều thày đang nói chứ, con yêu dấu? Không hề có một thực tế khách quan nào trong những gì con đã làm trong quá khứ. Phải, có một mô thức sóng năng lượng nào đó trong Hồ sơ Akasha, nhưng toàn bộ ý tưởng cho rằng con là kẻ có tội, rằng con là người xấu, rằng con đã lầm lỗi, thì cái này không có bất kỳ thực tế khách quan nào. Nó không được ghi lại ở bất cứ đâu.

Các thày là chân sư thăng thiên, các thày không giống như Thượng đế của Kinh Cựu ước. Các thày cũng không cầm giữ một hình ảnh nào về con. Các thày có thể thấy một số điều con làm nhưng các thày không phán xét con với tâm thức nhân gian. Các thày không phán xét con gì hết. Các thày chỉ nhìn con từ nhãn quan các thày, và điều này thì các thày đã cho con hé thấy nhiều lần, nó rất khác với nhãn quan con người. Một lần nữa, những gì con đã làm trong quá khứ không hiện hữu trong bất kỳ thực tại khách quan nào cả. Chỉ có chính con hay những người khác mới có thể phú cho nó một sự hiện hữu lâu dài. Đây tất nhiên là một trong những ân sủng của việc tái đầu thai – nếu có thể nói như vậy. Nếu con sống thọ một ngàn năm và có những người con đã quen biết cả ngàn năm, thì họ vẫn có thể giơ ngón tay lên bảo rằng: “Bạn có nhớ bạn làm gì cách đây 992 năm không?” Nhưng với tuổi thọ ngắn ngủi mà các con có, họ chỉ có được vài chục năm để giơ ngón tay như vậy. Ở đây con thấy được là có một thực tế đi đôi với việc đầu thai, và thực tế này là như sau: Con có thể đem theo con từ kiếp này sang kiếp khác các hình ảnh cá nhân chủ quan của mình về những gì mình đã làm trong một tiền kiếp, con có thể đem chúng theo con trong bốn thể phàm của con – thường thường thì con không ý thức, nhưng con có thể đem chúng theo với con. Còn những người khác, họ không đem theo các hình ảnh này với họ. Họ có thể mang theo một cảm nhận nào đó về mối quan hệ với con nhưng không phải là chi tiết cụ thể.

9.5. Biết ký ức được lưu trữ ở đâu

Nói cách khác, nếu con lấy một tình huống đã xảy ra cho con cách đây 300 năm có liên quan đến hai người khác, con có thể đặt mình vào một trạng thái hồi quy thôi miên (hypnotic regression), quay trở lại tiền kiếp đó và lấy lại ký ức đó. Con có thể đưa hai người kia cũng trở về tiền kiếp, lấy lại và đánh thức lại ký ức của họ về kiếp đó, và họ sẽ nhớ lại những gì chính họ đã làm cùng cách nhìn của họ về tình huống. Nhưng họ sẽ không nhớ được chi tiết những gì con đã làm cùng cách nhìn của con về tình huống. Con cần hiểu ở đây là con mang với con từ tiền kiếp những gì chính con đã làm và cách nhìn của con, nhưng người khác thì không thể nhớ lại việc con đã làm 300 năm về trước. Con cần nhìn nhận ở đây là ký ức của con về quá khứ chỉ thực sự hiện hữu trong bốn thể phàm của con mà thôi.

Như các thày đã có nói, con không có quyền năng thay đổi các thể phàm của người khác, nhưng con quyền năng làm chủ bốn thể phàm của con và loại bỏ những gì con muốn loại bỏ ra khỏi chúng. Trở về với câu nói của thày rằng Hồ sơ Akasha không ghi lại cách con nhìn việc làm của con mà chỉ ghi lại một số mô thức sóng năng lượng. Bây giờ con hãy tưởng tượng con đang đi dạo trong công viên gần nhà nơi đó có một sân chơi cho trẻ em, con nghe thấy tiếng ồn ào rất lớn ở đó và con lại gần để tìm hiểu xem chuyện gì. Con thấy một người đàn ông đứng đó nhìn xuống bãi chơi cát, la hét rất to tiếng. Con tiến lại gần và nhận ra một người cha đang nói chuyện với đứa con hai tuổi đang xây một lâu đài cát xinh xinh trên bãi chơi cát. Ông ta quở trách đứa con hai tuổi sao lại xây lâu đài cát xấu xí, sao nó hư đốn vì lâu đài sẽ không bao giờ được xóa bỏ, sao nó đã làm hỏng cát, sao tội của nó rất lớn – đủ lời mắng nhiếc mà người cha đổ lên đầu con mình. Đứa bé trông rất sợ hãi, nó không thích bị la mắng.

Thoạt đầu con rất bối rối trước tình huống này, nhưng rồi con nhận ra là điều người cha thực sự muốn nói là đứa bé khi xây lâu đài bằng cát đã phạm một lỗi lầm sẽ không bao giờ tẩy xóa được. Bất chợt không suy nghĩ, con bước vào nói: “Này ông bạn, ông hãy nhìn này,” và con lấy tay gạt phăng chiếc lâu đài cát đi, khiến cho cát trở lại tình trạng nguyên sơ của nó. Không còn hình thù gì ở đó nữa mà chỉ còn cát thôi. Con nói: “Đấy, ông có còn trách con ông là nó đã phạm một lỗi lầm không bao giờ xóa bỏ được hay chăng?” Người cha tất nhiên không biết nói gì cho nên con bước đi, và trong khi con bước ra khỏi sân chơi thì con nghĩ: “Hay thật, mình vừa chặn họng được ông này.”

Thế rồi trước sự ngỡ ngàng của con, con nhận thấy một tấm gương đứng ngay ở đó, con chợt soi vào gương và con ngộ ra: “Ủa, mình có đang làm y như vậy đối với chính mình hay chăng? Mình có đang tự mắng nhiếc vì mình đã xây một lâu đài bằng cát, đã phạm một lỗi lầm không bao giờ tẩy xóa được, trong khi kỳ thực bất cứ gì mình đã làm trên hành tinh này đều được làm với năng lượng mềm mại như cát, và mình có thể đưa năng lượng trở về trạng thái không phân biệt của nó cũng dễ dàng như đống cát mình vừa gạt phăng hồi nãy?” Con ngộ ra đây chính là điều con đã từng làm – không phải là con mà là một ngã tách biệt đặc thù trong bản thể con đã từng làm, không những trong kiếp này mà rất có thể trong nhiều tiền kiếp, có lẽ suốt hai triệu năm trời. Đây là một trong những cái ngã tập thể mạnh mẽ nhất ở đây trên trái đất, nó khiến con người nghĩ rằng một khi mình đã xây một lâu đài cát bị dán nhãn là “sai lầm” hay “tồi tệ” thì lâu đài sẽ không bao giờ tẩy xóa được.

9.6. Quyết định xóa bỏ lâu đài cát

Nhưng đó là một lâu đài cát. Thày không cần biết con đã làm bất cứ gì trong một kiếp trước. Một số đệ tử của chân sư thăng thiên đã có những hé thoáng hay hồi tưởng hay hồi quy về tiền kiếp, và họ nhìn thấy họ đã khiến cho cả một nền văn minh sụp đổ. Nhưng thày không cần biết con đã làm gì, con yêu dấu, đó vẫn chỉ là một lâu đài bằng cát và con có thể gạt bay nó đi. Con sẽ cần gì để gạt bay nó đi? Trong nhiều trường hợp khi con làm gì đó tác động đến người khác, con đã tạo ra điều các thày gọi là nghiệp, mà thực sự chỉ là một dạng năng lượng tha hóa. Con có thể làm một số chuyện. Con có thể hối chuộc với người kia, và nhiều người trong các con đã làm điều này trong các kiếp trước. Cho dù con đã làm ai tổn thương trong một dĩ vãng xa xôi, con đã đền bù trong kiếp trước rồi.

Con có thể đọc chú, đọc thỉnh để làm tan năng lượng. Con có thể giải thể cái ngã đã khiến con hành xử như vậy, và con yêu dấu, nhiều người trong các con đã làm rất nhiều việc như vậy rồi trong các kiếp trước. Nhiều người trong các con có khả năng sử dụng các dụng cụ do các thày trao truyền đã rất nhanh chóng đạt tới mức con đã đền bù, con đã làm những gì cần làm để được tự do khỏi quá khứ, ngoại trừ chỉ một điều thôi, và điều này là lấy quyết định ý thức là con sẽ gạt bay lâu đài cát kia đi. Lâu đài cát là hình ảnh con cầm giữ trong tâm mà con đang áp chồng lên cát, lên năng lượng, lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Như thày đã nói, đó là ký ức của con về một sự cố. Đó chính là hình ảnh con đang cầm giữ, và khi con nhận biết mình đã làm gì đó trong quá khứ vẫn đè nặng lên mình, thì con hãy dùng các dụng cụ, con hãy làm những gì cần làm. Con phải nhận biết, con phải nhạy cảm với sự kiện là sẽ tới điểm khi điều duy nhất, điều tuyệt đối duy nhất, còn sót lại cho con làm là gạt bay hình ảnh con cầm giữ trong tâm con.

Cái đó đòi hỏi con lấy một quyết định, quyết định ngừng bám lấy hình ảnh đó về bản thân, rằng mình là một người xấu xa đã phạm phải lỗi lầm hay những chuyện như vậy. Con có nhận ra điều thày vừa nói cách đây mấy phút? Đấng Sáng tạo không ngó đến những việc con làm trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Ngài đã nói: “Một bầu cõi chưa thăng thiên là một bãi chơi cát vũ trụ.” Không có gì con làm có thể khiến cho cát bị tổn thương, không có gì con làm có thể trở nên vĩnh hằng. Con hãy đơn giản gạt bay cái hình ảnh con cầm giữ trong tâm rằng mình là người xấu, mình là người có tội, mình là một kẻ thất bại không có quyền ở đây, không muốn ở đây, thù ghét ở đây – tất cả hình ảnh loại đó. Sẽ tới điểm con phải đơn giản nhìn vào hình ảnh và gạt bay nó đi. Không có gì phải giải quyết, không có gì phải làm ở đây, hãy chỉ gạt bay nó đi và cho phép mình quên mất là hình ảnh đã từng hiện hữu.

9.7. Chất vấn thực tế của “thế giới thực”

Con có thể luyện tâm mình để nhìn xa hơn các hình ảnh và thấy được năng lượng đang rung động nhịp nhàng đằng sau hình ảnh. Con còn có thể luyện tâm để thấy thế giới vật lý là một rạp hát. Khi con bước lên sân khấu và đi ra phía sau dàn trang trí, con thấy tất cả chỉ là chuyện dàn dựng. Không có gì ở đây là thực, không có gì ở đây là thường hằng. Nó trông có vẻ thực từ một góc nhìn nào đó, cụ thể là từ góc nhìn của khán giả. Đâu là mục đích của một vở kịch trong nhà hát? À, là để cho khán giả một loại trải nghiệm đặc thù. Nếu con đang theo dõi kịch Hamlet của Shakespeare và có những diễn viên xuất sắc hiểu cách nhập vào vai diễn, thì con cũng có thể nhập vào vai đó và có một trải nghiệm độc đáo khi xem màn trình diễn. Cũng đúng y như vậy với mọi thứ khác xảy ra trong cái con gọi là “thế giới thực”.

Có lẽ ảo tưởng lớn nhất mà sa nhân đã áp đặt lên nhân loại là bảo rằng mọi chuyện xảy ra trên trái đất là “thế giới thực.” Chẳng có gì thực trong đó theo một nghĩa khách quan. Toàn bộ mục đích của trái đất là đem lại cho các dòng sống một trải nghiệm đặc thù. Tất nhiên, con yêu dấu, để có được trải nghiệm này thì con phải tin là nó thực. Là một đệ tử tâm linh tinh tiến, sẽ tới điểm con sẵn sàng chất vấn cái thực của trải nghiệm mà mọi người khác đang có. Liệu có một thế giới khách quan chăng? Như các nhà vật lý học đã đặt câu hỏi, liệu thế giới có mặt ở đó hay không khi không có ai đang nhìn? Câu trả lời là năng lượng có ở đó, nhưng các hình ảnh do tâm con người tạo ra khi họ nhìn năng lượng thì không có đó. Chúng không có thực tại khách quan nào cả.

9.8. Tẩy xóa quá khứ

Con yêu dấu, con có hiểu những gì thày nói ở đây? Không, con không hiểu, và đó là tại sao con cần suy nghiệm điều này và suy nghiệm thêm nữa. Nếu có cây đổ trong rừng và không có ai ở đó, thì liệu nó có tạo tiếng động hay không? Nếu cây đổ thì sẽ có một số sóng năng lượng hiện hữu, là sóng năng lượng cấu tạo cái con gọi là cây. Các sóng này chuyển động cho tới khi chúng tương tác với các sóng năng lượng cấu tạo mặt đất. Điều này tạo ra một mô thức giao thoa sẽ gửi ra những sóng năng lượng khác nữa mà con nhận thức là âm thanh. Các sóng năng lượng vẫn ở đó nhưng đó không phải là âm thanh. Đó chỉ là sóng năng lượng mà thôi.

Bây giờ con thử lấy tình huống này. Chúng ta đang ở Đông Âu cho nên chúng ta hãy thử nhìn vào việc Liên Xô chiếm đóng Đông Âu. Nếu không có người nào ở đây thì liệu chuyện này đã có xảy ra hay không? À, nếu không có ai ở đây thì nó đã không xảy ra, sẽ không có ai để khiến nó xảy ra. Vấn đề ở đây là, liệu đã có một sự cố khách quan nào diễn ra hay không? Có, đã có một mô thức nào đó, một sự tương tác nào đó, một mô thức sóng năng lượng vô cùng phức tạp, nhưng trải nghiệm mà người ta có không nằm ở mức sóng năng lượng, nó nằm trong tâm con người. Người ta gọi đó là cái gì đó, người ta nhìn nó theo một cách nào đó.

Thày không đang chê trách ai ở đây, con yêu dấu. Thày không chê trách các dân tộc Đông Âu cảm thấy mình bị Liên Xô đàn áp, ức chế. Thày không đổ lỗi cho họ mà thày chỉ muốn nói là đã có một tình huống khách quan theo nghĩa là một số người đã thực hiện điều con gọi là chiếm đóng Đông Âu, trấn áp người dân nước khác. Có những người đã làm công cụ cho việc thực hiện điều này trong cõi vật lý. Nhưng cách con người trải nghiệm điều này là sản phẩm của một mô thức giao thoa, một sự tương tác giữa các sóng năng lượng được kích hoạt bởi đoàn quân chiếm đóng của Liên Xô với các sóng năng lượng trong tâm những người bị chiếm đóng. Đã có một trải nghiệm mà mọi người ở cả hai bên đã nếm trải, nhưng đây không phải là một trải nghiệm khách quan. Kỳ thực con có khả năng bước lui lại để có được một tầm nhìn hoàn toàn mới lạ về chuyện này. Thay vì nhìn các biến cố mà mọi người đều đồng ý là đã diễn ra, con có khả năng nhìn các sóng năng lượng để thấy chúng giống như hạt cát trong bãi chơi cát. Bất kể có bao nhiêu người đã tham gia vào biến cố này, các năng lượng vẫn có thể dễ dàng được tẩy xóa và đem trở về trạng thái nền của chúng.

Tất nhiên, đây sẽ là một công việc phức tạp vì mọi người liên hệ sẽ phải quyết định buông bỏ các hình ảnh của mình về quá khứ. Nếu chẳng hạn như dân tộc Estonia hội tụ lại, nhìn vào quá khứ của mình và nói: “Chúng tôi như một tập thể sẽ buông bỏ mọi cảm xúc mình đã có về quá khứ. Chúng tôi sẽ hoàn toàn để cho các cảm xúc này ra đi. Thậm chí chúng tôi sẽ không tha thứ cả cho người Nga về những gì họ đã gây cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ buông bỏ toàn bộ ý tưởng là có gì đó cần phải tha thứ. Chúng tôi sẽ gạt bay các hình ảnh mình còn cầm giữ.” Nếu mọi người đều làm vậy thì rất có thể dân tộc Estonia sẽ vô cùng mau chóng thoát ra khỏi quá khứ của họ.

Thày không nói đây là một kịch bản có nhiều xác suất xảy ra trong vòng hai tuần tới. Nhưng thày sẽ nói, cách duy nhất để bất cứ ai hay bất cứ nhóm người nào thoát ra khỏi quá khứ là đạt tới điểm họ có thể nói: “Bất cứ gì đã xảy ra chỉ là lâu đài cát. Trong tầm nhìn vũ trụ dài hạn thì nó cũng chỉ đáng kể như một lâu đài cát. Nó chỉ là một tương tác của sóng năng lượng. Thật là vô nghĩa mà cầm giữ một hình ảnh về nó, gọi nó là đúng hay sai, là cái này hay cái nọ. Câu hỏi thật sự ở đây là: Chúng ta có muốn thoát ra khỏi nó hay không? Và nếu chúng ta muốn thoát ra thì chẳng có gì ở đây phải giải quyết. Chúng ta không phải trừng phạt bất cứ ai. Chúng ta không phải thay đổi bất cứ gì trong cái quá khứ không thể thay đổi. Chúng ta chỉ phải nhận ra là điều buộc chặt chúng ta với quá khứ là hình ảnh của chúng ta về quá khứ. Chúng ta phải quyết định gạt bay nó đi. Thế là chúng ta tự do.”

Tất nhiên, họ sẽ phải làm công việc dọn sạch tất cả các năng lượng cần được tiêu hủy, tất cả các ngã cần được giải quyết cùng tất cả những thứ như vậy. Thày không bảo là nó rất có thể xảy ra, con yêu dấu, mà thày chỉ nói là nó có khả năng xảy ra, và thày nói vậy để con – ở mức cá nhân của con – có thể nhận ra là mặc dù việc khiến mọi người đồng ý là một chuyện phức tạp, nhưng tuyệt đối không có gì ngăn cản con nhìn vào quá khứ của chính con. Con có khả năng buông bỏ bất kỳ hình ảnh nào mà con nhận biết, khi con dùng dụng cụ của các thày để quay trở về các chấn thương trong tiền kiếp, để nhìn lại hoàn cảnh trong rạp hát, xem lại buổi trình diễn, và con có thể thấy sinh thể đó bị đóng băng trong thời gian và các sinh thể kia cũng bị đóng băng trong thời gian là vì con còn cầm giữ một hình ảnh về nó. Con có khả năng nhìn thấy nó và để cho nó ra đi, để cho nó chảy tan ra, con yêu dấu. Đây là những gì con có quyền năng làm được và con có thể dùng các dụng cụ này.

9.9. Gạt bay đi hình ảnh ký ức

Như thày đang nói với con ngay bây giờ, sẽ tới một điểm khi con đã dùng đủ các dụng cụ đến độ điều duy nhất còn sót lại là con nhận biết là con, trong tâm con, còn bám giữ một hình ảnh và con quyết định gạt bay nó đi. Khi con lấy bài giảng vô cùng thâm thúy của Mẹ Mary, điều con đã thực sự quyết định làm, điều đã đem con đến hành tinh này chính là sự kiện con đã muốn – Hiện diện TA LÀ của con đã muốn – trải nghiệm chính mình trên hành tinh này, trong môi trường này. Đấy, những cái ngã con mang, những hình ảnh con giữ về quá khứ bảo rằng con đã lầm lỗi, chúng đang ngăn chặn con trải nghiệm chính mình trên hành tinh này. Con không đang trải nghiệm cái ta thực của con mà con đang trải nghiệm cuộc sống trên trái đất qua một cái ngã đặc thù.

Các thày đã giảng là cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết – đây chỉ là từ ngữ thôi con – nhưng theo một nghĩa nào đó, cái Ta Biết trung hòa đối với việc con ở trên trái đất. Nó có một sự tò mò nào đó về việc ở trên trái đất: “Khi mình trải nghiệm tình huống này thì mình sẽ cảm thấy gì?” Đây là tại sao con đã bước vào rất nhiều hoàn cảnh trong tiền kiếp, vì cái Ta Biết bảo rằng: “Mình sẽ cảm thấy gì đây, mình sẽ trải nghiệm chính mình như thế nào trong hoàn cảnh này đây?” Khi con khoác vào và tạo ra các ngã tách biệt thì trải nghiệm của con bị những ngã này pha màu. Điều các thày nói với con là con có khả năng quay trở về điểm khi cái Ta Biết, trong tư cách là nhận biết thuần khiết, một cái ta trung hòa, sẽ chỉ đơn giản trải nghiệm các điều kiện một cách trung hòa. Con cũng có thể vươn lên cao hơn và trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang trải nghiệm hoàn cảnh đó như thế nào. Đây là khung tham chiếu tối hậu cho phép con bước ra khỏi sự đồng hóa với các điều kiện con gặp, ở trong bốn thể phàm của con lẫn ở ngoài bốn thể phàm của con.

Các thày đã dạy con là con mang những ngã đó trong bốn thể phàm. Ngã đó là gì chứ? Chúng được cấu tạo bằng sóng năng lượng của Ánh sáng Mẫu-Vật này, những cái chấm này mà một mô thức đã được áp chồng lên. Thế thì ngã chỉ là một hình ảnh, và con có thể nhìn vào ngã và quyết định gạt bay nó đi. Các thày đã bảo con trước đây là con hãy để cho ngã chết đi, nhưng nếu con thấy sự hữu ích trong việc xem ngã là một hình ảnh và tưởng tượng con chỉ cần tẩy xóa hình ảnh này y như một lâu đài trên bãi cát, thì con hãy sử dụng cách hình dung này thay vào đó. Cách nào hiệu quả hơn cho con thì con cứ dùng.

Con cần tìm ra cách để dần dần nhận diện là thực tế duy nhất ở đây, điều duy nhất còn sót lại, là hình ảnh và con đang tẩy xoá hình ảnh này đi. Con cho nó ra đi. Điều này, con yêu dấu, không đến nỗi khó khăn lắm nếu con dùng tất cả các dụng cụ mà con có. Thày hoàn toàn công nhận là con không thể làm vậy trong vòng năm phút. Không có ai trong các con có thể làm được ngay lập tức, nhưng vậy thì đã sao? Nếu con đã đầu thai trên trái đất này suốt hai triệu năm trời và chỉ trong vòng vài năm con có thể khắc phục tất cả những tập khí cũ đó, tất cả những ngã đó mà con đã khoác vào, thì thật nhanh quá sức rồi đó. Khi con nhìn trong chiều dài thời gian vũ trụ thì nó ngắn chưa bằng một chớp mắt.

9.10. Khắc phục sự nóng lòng

Chỉ còn một điều nữa mà thày muốn nói. Thày cũng biết là thày đã cho con rất nhiều rồi, nhưng thày là chân sư MORE cho nên thày sẽ cho con nhiều hơn, và điều này đơn giản là như sau. Ở một mức độ nào đó, điều này cũng áp dụng cho các cư dân nguyên thủy của địa cầu đã đạt đến một tầng nào đó, nhưng trước hết nó áp dụng cho các avatar. Nếu con nhìn một avatar đã đến trái đất và sống ở đây rất lâu đời – hai triệu năm không phải là thời gian tất cả các con đã sống ở đây, nhưng một số – nhưng dù sao thì tất cả các con đã ở đây rất lâu. Đâu là đặc tính mà con thấy nơi mọi avatar? Đơn giản là điều này, con yêu dấu: sự thiếu kiên nhẫn. Các con đều rất, rất thiếu kiên nhẫn.

Trước hết, các con thiếu kiên nhẫn với chính mình. Một lần nữa, câu này không có ý chê trách gì con. Con yêu dấu, nếu con đã quen biết thày khi thày còn trong hiện thân vật lý thì con đã có thể thấy tính thiếu kiên nhẫn gần như lên đến cực điểm – nếu con đã thấy Saint Germain, hay thậm chí con có thể thấy câu chuyện về Giê-su nóng lòng đối với các tông đồ như thế nào. Con yêu dấu, các thày không chê trách gì con nhưng các thày sẽ nói là tất cả các con đều có thể được lợi lạc nếu con nhận biết là mình mang xu hướng vô cùng nóng lòng đối với bản thân mình. Khi có ai nói là con có khả năng thực hiện một điều gì, con cảm thấy mình chỉ cần búng tay là phải làm được ngay. Con hãy cho con một chút thời gian – cho con một chút thời gian.

Thậm chí con có thể ngẫm xem là sa nhân rất lão luyện trong việc khiến cho các sinh thể tâm linh bị trật đường rày trên con đường phát triển quả vị Ki-tô, đặc biệt là các avatar. Chúng rất giỏi làm chuyện này. Khi con đạt đến một tầng nhận biết nào đó, chúng sẽ cố khiến con khoác vào một số ngã nhất định sẽ làm trật bánh xe tăng triển của con. Một trong những ngã này là ý tưởng khiến con nóng lòng, rằng con phải có khả năng thực hiện một việc gì đó rất nhanh. Con có thể nhận ra đây là một ngã tách biệt và để cho nó chết đi, con yêu dấu. Hãy cho con một chút thời gian. Con hãy thiền quán về Phật Gautama vì thày thật sự là vị chân sư có thể giúp con khắc phục tính thiếu kiên nhẫn, giúp con nhận ra rằng thời gian mặc dù nó có ở đó nhưng nó không quan trọng gì lắm. Liệu con sẽ tốn năm phút hay năm năm? Thật chẳng quan trọng gì lắm, và như vậy con có thể khắc phục tính nóng lòng này. Con có thể cho mình một chút thời gian.

Thày nói ra điều này vì đối với hầu hết các con, vấn đề không phải là con hóa ra dễ dãi và nói: “Ồ chân sư bảo là tôi có rất nhiều thời gian, cho nên tôi sẽ thư giãn và thôi không đọc thỉnh và cũng không học sách về ngã gốc nữa. Tôi sẽ không quan tâm đến chuyện đó. Tôi sẽ chỉ lo vui hưởng cuộc đời và tự ban cho mình một ly sô-cô-la ngon lành.” Đây không phải là mối nguy cho hầu hết các con. Nó có thể là mối nguy cho một số, và con cũng thấy nhiều người trong lãnh vực Thời mới có đúng cái tư duy này: “Mọi chuyện đều tốt đẹp cho nên chúng ta hãy thư giãn và tận hưởng cuộc đời.” Dẫu vậy, vấn đề của con là con thiếu kiên nhẫn, và tính thiếu kiên nhẫn sẽ làm gì con? Nó ngăn cản không cho con an bình với việc mình ở đây.

Chủ đề của hội nghị này là gì? An bình với việc mình ở đây trên trái đất. Con hãy để ý tính thiếu kiên nhẫn, thấy nó là một cái ngã, và con chỉ quyết định là con không cần quá khắt khe với chính mình. Con không cần hoàn thành mọi chuyện trong vòng năm phút vì theo một nghĩa nào đó, thời gian không có. Thời gian là một ảo tưởng tập thể do tâm thức tập thể tạo ra. Nó được phép tồn tại vì đối với một số người, ý tưởng rằng thời gian có thể cạn kiệt chính là động lực duy nhất sẽ khiến họ ngừng làm những gì họ đang làm.

Với lời này, thày đã nói xong những gì thày muốn trao cho con – ít nhất trong bài giảng này – cho nên thày cảm ơn sự chú ý của con. Thày muốn các con biết, con yêu dấu, là với số người có mặt ở đây lẫn số người trên chương trình phát sóng, các con đã tạo được một tầm ảnh hưởng to lớn trên tâm thức tập thể, ở Đông Âu lẫn ở tất cả mọi quốc gia nơi các con sinh sống hay kết nối. Các bài thỉnh mà các con vừa đọc rất nhiều uy lực, rất sâu sắc và chúng tác động rất mạnh mẽ, đặc biệt khi có thật nhiều người cùng đọc tạo nên một hiệu ứng nhân lên gấp bội. Thày có thể cam đoan với con là con đã hoàn tất một công việc rất tuyệt vời trong hội nghị này, và thày muốn bày tỏ lòng biết ơn cùng sự khen ngợi của các thày. [Các tham dự viên trong hội nghị cùng đọc các bài thỉnh trong sách Chữa lành chấn thương tâm linh]

5 | Giành lại quyền được quên mà Thượng đế đã ban cho con

Bài truyền đọc của Chân sư MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 30/11/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE, và thày rất vui mừng trao cho con bài giảng tiếp nối bài năm ngoái về đề tài vô cùng sâu xa và quan trọng này, là chấn thương nhập đời và làm thế nào con khắc phục được chấn thương đó. Con có thể xem những gì Phật Gautama vừa giảng trong phần vấn đáp về thời gian và sự kiện là nếu con không thể đi trở ngược thời gian để thay đổi những gì đã xảy ra trong quá khứ, nếu con không có một cỗ máy du hành thời gian, thì con không thể tự giải thoát khỏi quá khứ [Xem chương chót trong sách này]. Như Gautama vừa nói, quả thật Mẹ Mary đã cho con một cỗ máy vượt thời gian qua bài thực tập của thày về cách con có thể quay trở về trải nghiệm chấn thương nhập đời đó [Xem sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh].

Thày muốn cho con thêm một cỗ máy vượt thời gian nữa. Con thấy đó, con yêu dấu, điều sa nhân muốn con nghĩ là quá khứ đã được tạc vào đá và không thể thay đổi. Một khi con đã lầm lỗi trên trái đất, con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi lỗi lầm. Bây giờ con hãy tưởng tượng con đang đứng trước một bức tường đá thật lớn. Nếu con đã đi thăm Vạn lý Trường thành ở Trung quốc hay Kim tự tháp ở Ai cập, hay Bức tường Than khóc ở Jerusalem hay bất kỳ thành vách nào ở đây nơi thành phố Tallinn và bất kỳ thành phố cổ nào trên thế giới, thì thật ra con không cần tưởng tượng. Con biết rõ cảm giác đứng trước một bức tường đá đồ sộ. Làm thế nào con có thể đập vỡ vách tường đó với hai bàn tay trần? Phải, con không thể, và tại sao như vậy? Một phần là vì đá rất cứng, và phần khác là vì những viên đá được dán chặt lại với nhau.

Trước tiên con hãy tưởng tượng con có thể gỡ vữa ra, là chất xi-măng giữ đá dính chặt với nhau. Tất nhiên nếu đá dính không chặt, công việc phá bỏ bức tường sẽ dễ hơn một bực. Thế nhưng cũng không dễ lắm, tùy theo kích thước những viên đá. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như con có thể đập đá ra thành vụn nhỏ như cát? Và giả sử con có một cái máy phóng tia sáng có khả năng biến đá thành vụn nhỏ như cát thì chuyện gì sẽ xảy ra?

À, đây chính là quyền năng mà các thày đã trao cho con qua các bài chú, bài thỉnh. Tất nhiên con không thể dùng bài chú để đập vỡ tường đá thành vụn, mặc dù trên lý thuyết nếu có đủ số người đứng trước tường đá thì việc này cũng khả dĩ. Nhưng dù sao thì các thày không có ý định gửi học trò của mình đi vòng quanh thế giới đập đổ tường đá rồi bị bỏ tù về tội phá hoại di tích lịch sử. Điều các thày quan tâm hơn nhiều là giúp con đập đổ những bức tường kiên cố trong chính tâm con đang giam hãm và buộc chặt con vào một khuôn nếp phản ứng lại sa nhân.

Đương nhiên, con có những bài chú và bài thỉnh mà như các thày đã nói nhiều lần, con có thể sử dụng để làm tan năng lượng, và khi năng lượng giảm bớt, con sẽ dễ dàng hơn thoát khỏi khuôn nếp. Tuy nhiên như các thày cũng đã dặn nhiều lần, con cần phải có một trải nghiệm ý thức, một quyết định ý thức, trước khi con được thực sự tự do. Đây không phải là một tiến trình máy móc.

5.1. Ý thức được tiến trình thấy

Đây là điều thày muốn cống hiến cho con. Con cần khởi sự – mới đầu có thể từ từ – nhưng con cần khởi sự huấn luyện tâm con cho nó có thể hình dung, tưởng tượng, và cuối cùng thấy rõ và chiêm nghiệm một điều mà cho tới giờ con chỉ biết qua trí năng, rằng toàn bộ thế giới vật chất được xây dựng bằng năng lượng. Bây giờ con hãy tưởng tượng là con biết trong quá khứ con đã trải qua một tình huống vô cùng đau đớn và con đang mang chấn thương nhập đời này trong con. Tình huống đó được cấu tạo bằng chất gì? Như Phật Gautama có nói, thời gian đã trôi qua và tình huống vật lý không còn hiện diện nữa, đơn giản là nó đã bị thời gian tẩy xóa. Hay có thể nói, nó đã bị thời gian sơn lên một lớp sơn – do cái cọ vĩ đại của thời gian đã biến mọi sự thành cái đang là bây giờ. Như Gautama nói: Cái đang là bây giờ quả thật có thể bị quá khứ ảnh hưởng, tuy nhiên quá khứ không còn ở đó như một hiện thực vật lý nữa. Nó chỉ ở đó như một dấu in hay một hình ảnh trong tâm con, trong ba thể cao của con, và theo một nghĩa nào đó cũng trong cơ thể vật lý của con.

Câu hỏi bây giờ là làm thế nào con thoát khỏi dấu in đó? Điều con cần suy ngẫm trước hết là làm thế nào bộ não vật lý, đôi mắt vật lý của con (nhưng đặc biệt là bộ não) và tâm vỏ ngoài của con nhìn và nhận thức tình huống – nói chung, nhận thức mọi chuyện? Ngay bây giờ con đang ngồi ở đây, con đang nhìn bức tường sau lưng vị sứ giả này, là một bức tường khá vững chắc, và cái con thấy thật ra là một hình ảnh. Các thày đã có giảng là mắt con không thực sự nhìn thấy bức tường mà nó chỉ đơn giản nhận được những xung động gửi vào trong mắt, đập vào võng mạc (retina) dưới dạng những tia sáng. Mắt con không thực sự thấy mà phản ứng lại tia sáng. Phản ứng này trong mắt được chuyển thành một tín hiệu, giống như tín hiệu số trong máy tính. Tín hiệu này được gửi đến cái mà con gọi là vỏ thị giác (visual cortex) trong não.

Bây giờ bộ não có tác dụng giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý. Dụng cụ chủ yếu giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý là khi bộ não áp đặt một số hình ảnh lên trên các tín hiệu đến từ mắt. Mắt con không đang thấy. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là não cũng không đang thấy. Não chỉ đơn giản lấy tín hiệu đến từ mắt rồi sắp xếp lại thành một hình ảnh ăn khớp với những gì não đã chứa sẵn trong kho dữ liệu của nó. Như được chứng minh trong vô số hiện tượng ảo thị (optical illusion) mà con đã được thấy, não không thực sự thấy cái ở trước mặt con. Nó tìm kiếm một mô thức ăn khớp với một cái gì đã nằm sẵn trong kho dữ liệu của nó. Nó không nhìn chính xác những tín hiệu đến từ mắt mà tìm kiếm một mô thức mà nó có thể nhận diện. Một khi nó có đủ xung động để hình thành một mô thức quen thuộc, thì nó sẽ ngừng phản ứng, ngừng nhìn vào xung động từ mắt, và bây giờ nó áp chồng cái mô thức lưu trữ này lên những gì con đang nhìn và nói: “À, đây là cái đó.”

Tất nhiên, chuyện này đã tiếp diễn trên trái đất suốt hàng triệu năm qua. Khi con đầu thai trong kiếp này, bộ não của con không khởi sự từ số không, nó không phải tự huấn luyện từ đầu và xây dựng từng hình ảnh về cái này là gì, cái kia là gì. Não bị buộc chặt vào động lượng tập thể đó, cho nên nó đã mang sẵn một số lập trình: “Đây là ngọn cây, đây là hòn đá, đây là biển cả, đây là bầu trời, vân vân và vân vân”. Con có sẵn một kho dữ liệu những mô thức mà không những chính con đã nhìn thấy từ trước mà cả tâm thức tập thể cũng đã nhìn thấy từ trước. Cho nên con đã quen nhìn mọi thứ dưới dạng hình ảnh và con dán nhãn lên mọi thứ. Con thường dán nhãn bằng ngôn từ, và điều này lại bồi thêm một lớp phức tạp nữa, khi nói chung, vỏ não thị giác nhận ra hình thù. Vỏ não thị giác có thể nhìn vào hình thù, màu sắc và chất liệu của bức tường, nhưng bộ não có thêm chức năng khác là chuyển thành lời nói, chẳng hạn: “Đây là một bức tường”. Thêm một lớp phủ được đắp lên hình ảnh, và như vậy loài người đã có một động lượng rất lâu đời áp chồng ngôn từ lên mọi thứ.

5.2. Con bị kẹt trong nhận thức như thế nào

Trong Thánh kinh có kể rằng Thượng đế ban cho Adam quyền năng đặt tên cho từng loài động vật trên địa cầu. Một số người tin rằng nếu con biết tên của vật thì con có quyền năng trên vật đó. Thực tế sâu sắc hơn là một khi con đặt tên cho một vật, thật ra con đã tự giới hạn mình vì con củng cố cho hộp tư duy của con. Con nghĩ vật sẽ giống như cách con dán nhãn và nó sẽ luôn luôn như vậy. Con không thể nhìn xa hơn sự lập trình – ít ra là hầu hết mọi người không thể. Và do đó con nghĩ: “Cái đó là như thế này.” Con đã buộc mình vào động lượng tập thể, và con đã xây dựng động lượng riêng của con trong bao nhiêu tiền kiếp.

Khi các thày nói là có một giai đoạn hay một tình huống trong quá khứ con phải trải qua một kinh nghiệm vô cùng đau đớn – và các thày có cho con một ví dụ, như trong sách Những kiếp  của tôi mô tả nhân vật chính trong truyện phải nếm mùi một hoàn cảnh vô cùng khó khăn – thì con bị lập trình, bộ não của con bị lập trình để nó áp chồng một hình ảnh và ngôn từ lên trên kinh nghiệm đó, và nó nói: “Kinh nghiệm này như thế đó”. Và bây giờ câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào con có thể thực sự thoát khỏi một tình huống trong quá khứ của con? Chừng nào con còn giữ trong não, ngay cả trong ba thể cao của con, cái dấu in của tình huống đó cùng những hình ảnh hay những ngôn từ mà con đã gắn liền với tình huống, chừng nào những thứ này còn được cất giữ ở đó thì con không thể thoát khỏi tình huống từ quá khứ.

Điều thày nói với con là con có thể bắt đầu tái huấn luyện chính mình. Con có thể rèn luyện tâm con để nó phản lệnh bộ não. Sẽ có thể hữu ích nếu con thử lấy một vài trong số rất nhiều những ảo thị đã được đăng tải. Ảo thị điển hình là một hình vẽ mang hình dáng hoặc một cô gái trẻ đẹp, hoặc một bà cụ da dẻ nhăn nheo tùy theo con chú mục như thế nào. Có những ảo thị với đủ loại màu sắc, hình thù, vân vân. Nếu con chưa bao giờ xem ảo thị thì con nên xem thử để nó giúp con hiểu là con thực sự không thể nào tin vào giác quan của mình. Con không thể tin được bộ não vì trong não có một lập trình khiến con thấy vật theo một cách không phải là cách nó thực là.

Con có thể tiến thêm một bước và tưởng tượng con đang ngồi trong một rạp chiếu phim. Con nhìn thấy gì đó trên màn hình, và bởi vì rạp chiếu bóng tối om cho nên rất có thể con hoàn toàn mải mê với bộ phim đến độ con có cảm giác mình đang sống trọn cốt truyện đang được trình chiếu trên màn hình. Chắc chắn con bị cuốn hút vào đó đến nỗi con quên hết mọi chuyện. Con có thể luyện tập để nhận ra là những hình ảnh đang được chiếu lên màn hình không những không biểu hiện một thực tại vật lý nào (vì con dư biết là chúng chỉ là những tấm hình trên một cuộn phim đặt trong máy chiếu) mà hơn vậy, con có thể tập nhìn chúng như những mô thức gồm có vô số chấm nhỏ đủ màu được chiếu lên màn ảnh. Con có thể tới mức luyện tập cho mắt đổi tiêu cự đôi chút, và thay vì con thấy rõ từng người hay từng vật, thì con chỉ nhìn thấy những mảng tia sáng đủ màu được chiếu lên màn ảnh. Khi con tập như vậy một thời gian, con sẽ lần hồi đạt đến mức con áp dụng được vào cuộc sống hàng ngày. Con có thể luyện tập để thấy bức tường này sau lưng sứ giả không thực là bức tường. Đó chỉ là một số tia sáng tạo thành một số mô thức mà thôi.

Hồi con còn nhỏ, chắc đã có người chỉ con dùng kính lúp để nhìn kỹ một tấm ảnh in trên báo. Và con thấy được những gì có vẻ là một số mảng hình hay một số hình thù kỳ thực chỉ là những chấm đen được sắp xếp theo những mật độ khác nhau. Màu đen càng đậm thì chấm càng xít lại gần nhau. Màu đen càng lạt thì chấm càng cách xa nhau. Tất cả chỉ là những chấm đen đã đánh lừa bộ não của con nhìn thấy hình thù. Cho nên con có thể luyện tập để tập trung vào chấm thay vì hình ảnh. Rồi con có thể áp dụng kỹ thuật này vào mọi tình huống trong đời, tuy ngay lúc này việc áp dụng vào những tình huống đặc thù trong đời chưa quan trọng lắm.

5.3. Đập vỡ hình ảnh quá khứ thành đơn vị nhỏ hơn

Điều thày mong muốn con khởi sự làm là nhìn vào những tình cảnh trong quá khứ của con. Có thể là con cảm được chấn thương nhập đời và con cảm thấy nó chưa được giải quyết. Cũng có thể con đã gặp một tình huống nào khác, ngay cả một tình huống trong kiếp này khi con cảm thấy một sự việc đau đớn đã xảy ra. Bây giờ con có thể xem xét: Khi con nghĩ lại tình huống đó, hình ảnh mà bộ não của con khơi dậy là gì, hay hình ảnh mà ba thể cao của con khơi dậy là gì? Hình ảnh đó là gì? Con có thể nói từ một nhãn quan đường thẳng là nếu con còn ký ức, nếu con còn một hình ảnh từ quá khứ, thì con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi hình ảnh đó, vì những gì đã xảy ra thì đã xảy ra, và con không thể thay đổi nó được. Không có gì con có thể làm để thay đổi nó.

Tất nhiên, đây là điều sa nhân muốn con tin chứ không phải là sự thật. Con có khả năng luyện tập để đưa những hình ảnh này lên tầm nhìn nội tâm của con. Xong con có thể tập nhìn thấy chúng, không phải như là hình thù và hình ảnh mà con đang có, mà chỉ đơn giản là những mô thức tia sáng, hay những mô thức nguyên tử, hạt electron, hạt hạ nguyên tử – hay bất cứ cách nào con có thể hình dung. Con đập vỡ hình ảnh ra thành bộ phận nhỏ bằng bất cứ cách hình dung nào có thể. Như thày nói ở trên, nếu con đứng trước một bức tường đá, con có thể đập vỡ các viên đá cho vụn ra thành hạt cát để con có thể dời chuyển viên đá dễ dàng hơn. Đây là điều con có thể luyện tập để giải quyết những hình ảnh từ quá khứ vẫn ám ảnh con, hay những hình ảnh mà con đã kềm nén nhưng mỗi lần con chạm vào chấn thương nhập đời thì con lại khơi nó dậy.

Con có thể luyện tập để nhận ra một cách ý thức: “Hình ảnh này chỉ là một hình ảnh mà bộ não và các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của tôi đã áp chồng lên ánh sáng.” Thực tế là nó không còn là một tình huống vật lý nữa. Nó chỉ là một hình ảnh. Hình ảnh này được cấu tạo bởi những hạt ánh sáng điện từ nhỏ xíu, là những cái chấm. Hình ảnh được tạo bằng chấm. Thậm chí con có thể ngắm một bức tranh của trường phái Ấn tượng, và nếu con đứng ở xa, con sẽ không thể nhìn thấy những cái chấm mà hoạ sĩ đã sử dụng để vẽ tranh. Khi con lại gần và gần hơn nữa, con bắt đầu nhìn thấy chấm, và khi con xích lại thật sát thì tất cả những gì con thấy chỉ là chấm, vì con không thể thấy hình ảnh nữa. Vậy thày yêu cầu con hãy luyện tập, và một lần nữa, điều này liên quan đến việc con bước vào nỗi đau, tuy nhiên bây giờ con không bước vào nỗi đau nhưng con bước vào một hình ảnh thị giác mà con có trong tâm.

Con bước tới hình ảnh gần hơn và gần hơn nữa cho đến khi con chỉ còn nhìn thấy những cái chấm. Rồi con nhận ra những cái chấm này chính là thực tại sâu xa hơn. Hình ảnh chỉ là cái gì được áp chồng lên bởi bộ não và bởi các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Còn chấm mới là thực tại. Và con cũng nhận ra là chấm luôn chuyển động, chúng linh hoạt, chúng không ngừng rung động, và chúng có thể dễ dàng biểu diễn bất cứ hình ảnh nào khác y như chúng đang biểu diễn hình ảnh con đang có. Hơn thế nữa, thật ra những chấm này có thể được giải phóng khỏi cái khuôn đúc đã được áp chồng lên chúng, hầu chúng trở về với trạng thái nền (ground state), là trạng thái tự do nơi chúng hoàn toàn trung hòa và không biểu hiện bất cứ hình ảnh nào.

Con có thể hình dung hình ảnh đó dần dần tan ra thành từng mảnh nhỏ, và những mảnh này bắt đầu rung lên và chuyển động. Chúng chạy tứ phía, làm phân hủy hình dạng của hình ảnh, chỉ còn lại một màu đồng nhất. Con có thể thấy chúng biến thành giống như nước của biển cả, hay cát của sa mạc, hay không khí của trời xanh. Nhưng chúng trở thành vô đặc tính, vô hình dạng. Hình ảnh được giải thể và con để cho nó ra đi. Giống như thể con đang lấy một quyết định, và ở một điểm nào đó con đang lấy một quyết định, và con nói: “Tôi để cho hình ảnh này chết đi. Tôi để cho nó tan biến. Giản dị là tôi đã quên nó rồi.”

5.4. Bí quyết để lãng quên

Con yêu dấu, quá nhiều người khắp thế giới bị những tình huống từ quá khứ ám ảnh một cách liên tục, hay ít ra một cách thường xuyên, và dường như họ không thể nào quên được. À, vậy bí quyết để lãng quên là gì chứ? Đó là con nhận ra ký ức của con được lưu trữ (như các thày đã nói) một phần dưới dạng năng lượng, năng lượng cảm xúc. Chẳng hạn, lòng sợ hãi, sự tức giận hay bất cứ gì khác đều được cất giữ, và con có thể giải thể năng lượng qua các bài chú, bài thỉnh của con. Hơn vậy, ký ức cũng được lưu trữ dưới dạng hình ảnh trong bộ não, trong ba thể cao của con. Các hình ảnh này đã được áp chồng lên những hạt mà con có thể gọi là hạt lượng tử, là Ánh sáng Mẫu-Vật, hay bất kỳ tên gọi nào con muốn. Đây là những hạt có khả năng khoác vào, hay được sắp xếp thành đủ loại hình thể, đủ loại hình thù, đủ loại mật độ và màu sắc khác nhau. Con có khả năng tháo gỡ các hình ảnh mà tâm con đã phóng chiếu lên hạt và giải phóng hạt khỏi hình ảnh. Khi con thực sự làm như vậy, hình ảnh sẽ không còn đó nữa và, thần diệu thay, ký ức cũng biến mất.

Khi con suy ngẫm về điều này, ký ức là một cái gì con có trong cõi vật chất, trong bốn tầng của cõi vật chất. Phải có một cỗ xe có khả năng chuyên chở ký ức. Hầu hết các ký ức được lưu trữ như thế nào? Dưới dạng hình ảnh thị giác. Các thày đã có đề cập đến các Hồ sơ Akasha và có một sự tương đồng nào đó với ba thể cao của con, ở chỗ là có một môi thể lưu trữ – là những hạt nói trên – có khả năng khoác vào hình ảnh và nhờ vậy duy trì hình thù này vĩnh viễn.

Con có thể luyện tập để đi vào bên trong, nhìn lại hình ảnh đó, nhưng sau đó con nhìn vượt khỏi hình ảnh và giải phóng các hạt để chúng trở về trạng thái nền của chúng. Khi chúng trở về trạng thái nền, hình ảnh tan rã và chính cái đó là cỗ xe của ký ức. Một khi cỗ xe của ký ức tan rã thì ký ức cũng tan theo, con yêu dấu. Đây là cách làm thế nào con có thể quên được.

Công việc này có thể đòi hỏi nỗ lực từ con, nhưng thú vị ở đâu nếu con không có việc gì để mà nỗ lực? Có thể con sẽ chán ở đây trên hành tinh này, và như nhiều các con đã bày tỏ, thật không có nhiều việc lắm để cá nhân con làm hay trải nghiệm, không có nhiều công việc cho con. Tất nhiên là có việc này là con muốn được tự do. Nhiều người trong các con muốn tiến bước, nhưng con không thể tiến bước cho đến khi con cũng tự do khỏi ký ức.

Con yêu dấu, trong một quyển sách được trao truyền trong một đợt truyền pháp trước có một lời tường thuật về ba người đệ tử đến khóa nhập thất của thày ở Darjeeling, và họ được cho xem Hồ sơ Akasha trình chiếu một tình huống trong quá khứ của họ. Thế rồi thày đã lấy một viên ngọc, dùng viên ngọc này để phóng tia sáng vào tình huống đó và xóa bỏ nó trong Hồ sơ Akasha. Đây là một lối minh họa được sử dụng trong quá khứ khi các thày giảng dạy cho một tầng tâm thức thấp hơn. Nó có một độ thực tế nào đó, theo nghĩa là con có thể huấn luyện tâm mình để trở thành cánh cửa mở cho một tia sáng từ một cõi cao hơn. Tia sáng có thể đến từ Hiện diện TA LÀ của con, nó có thể đến từ một chân sư thăng thiên mà con đã lựa chọn – và lẽ tự nhiên, thày cống hiến sự trợ giúp của thày ở đây. Nếu con hòa điệu với thày và con hình dung là thày đang gửi đến con một tia sáng vào hình ảnh đó, và qua đó thày khiến cho các hạt rung động nhanh hơn đến độ chúng nhảy ra khỏi mô thức định sẵn trong hình ảnh và trở về trạng thái nền của chúng, thì đây cũng có thể là một bài hình dung hữu ích cho con.

5.5. Không có gì là rắn đặc

Con cần trước tiên luyện tập để thấy được hình ảnh mà con mang trong tâm thật sự được cấu tạo bằng những hạt đó, và vì vậy hình ảnh sẽ linh hoạt uyển chuyển. Nó có thể dễ dàng tan rã, nó không được tạc trên đá, nó không phải là một bức tường kiên cố. Tất nhiên con có thể tiếp tục làm vậy và nhận ra là một bức tường không có gì kiên cố, nhưng quan tâm của thày ở đây là thày không muốn con làm những loại thủ thuật này mà con dành nỗ lực để thực hiện kỳ công thực sự sáng giá là xóa bỏ các ký ức đau buồn của con, cho dù từ những kiếp trước hay từ kiếp này.

Con yêu dấu, tất nhiên đây không phải là một điều con đã được dạy ở lớp mẫu giáo. Vì vậy, có thể nó sẽ đòi hỏi ở con một nỗ lực nào đó, một sự suy tư nào đó. Nó đòi hỏi con tái trang bị, chuyển hóa tâm con để dần dần chấp nhận là không có gì trong thế giới vật lý và vật chất, không có gì trong cả bốn cõi của vật chất, là rắn chắc như đá. Không có gì là không thể thay đổi, vì tất cả mọi thứ đều được cấu tạo bằng những hạt ánh sáng kia mà trên đó một hình ảnh đã được áp chồng lên.

Những hạt ánh sáng này kỳ thực không phải là hạt ánh sáng như khoa học bảo con là ngay cả hạt hạ nguyên tử cũng đều là hạt. Nếu con đã đọc về vật lý lượng tử, con sẽ biết là các nhà khoa học bị bối rối bởi sự kiện một electron có thể hiện ra dưới cả hai dạng hạt lẫn sóng. Họ gọi đó là lưỡng tính sóng-hạt và họ không làm sao giải thích được. Thực tế là ý tưởng cho rằng cái lưỡng tính hạ nguyên tử kia là một hạt, chỉ là một hình ảnh mà các nhà khoa học mang theo trong tâm họ vì nó gắn liền với một cái gì họ có thể thấy được bằng giác quan vật lý. Họ mang theo hình ảnh này trong tâm và họ muốn áp chồng hình ảnh này lên thế giới lượng tử mà họ vừa khám phá. Cách duy nhất để hiểu được tầng cấp lượng tử là nhận ra rằng nó tuyệt đối không liên hệ gì đến thế giới vĩ mô mà con thấy với giác quan của con.

Cách duy nhất để thực sự hiểu được thế giới lượng tử cùng mối tương quan của nó với thế giới vĩ mô là nhận ra thế giới vĩ mô không được tạo bằng hình thù. Nó được tạo bằng hạt, hay đúng hơn, bằng những thực thể nhỏ hơn mà trên đó hình ảnh đã được áp chồng lên. Một hòn đá không phải là hòn đá, đó là một tập hợp những thực thể ánh sáng, những đơn vị ánh sáng, đã bị cưỡng ép vào một mô thức nhất định và chúng đang biểu hiện mô thức này ra bên ngoài. Rất có thể chúng sẽ được giải phóng khỏi mô thức để trở về với trạng thái nền của chúng, hay chúng có thể biểu hiện một mô thức khác. Một lần nữa, có thể các con hơi bị đuối sức khi phải hình dung toàn bộ thế giới vật lý là linh hoạt và được tạo bằng hạt hay bằng những thực thể nhỏ hơn, nhưng chắc chắn con thấy được là những hình ảnh con cầm giữ trong tâm, những hình ảnh về quá khứ, cũng không được tạo bằng một chất vật lý kiên cố như đá. Thật vậy, chúng được tạo bằng một loại thực thể khác, cho nên chúng linh hoạt uyển chuyển.

Kỳ thực, toàn bộ vũ trụ vật chất được cấu tạo bằng cái mà các thày gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật có những đơn vị cực nhỏ. Nếu chúng ta muốn dùng cùng thuật ngữ của khoa học, chúng ta có thể nói là thật vô nghĩa mà bàn về hạt, vì một hạt trải ra trong không gian. Đó là một cái chấm với một kích thước nào đó. Còn các đơn vị cấu tạo Ánh sáng Mẫu-Vật, măc dù chúng không nhỏ một cách vô hạn, nhưng chúng nhỏ đến độ chúng vượt khỏi khả năng phát hiện của giác quan vật lý hay ngay cả các loại dụng cụ dựa trên ánh sáng khả kiến (visible light), bước sóng (wavelength) của ánh sáng khả kiến.

Con cũng biết là kính hiển vi có khả năng phóng lớn các vật thể nhỏ. Nó giúp con nhìn thấy những vật con không thể thấy bằng mắt trần. Dẫu vậy, những gì con có thể thấy bằng kính hiển vi có giới hạn vì kính hiển vi quang học chỉ có thể hoạt động với ánh sáng khả kiến. Ánh sáng khả kiến có một bước sóng tối thiểu, và bất kỳ vật nào nhỏ hơn bước sóng của ánh sáng sẽ không thể thấy được trong kính hiển vi quang học. Chuyện này không thể làm được. Vấn đề cũng tương tự như vậy với các thực thể nói trên, các đơn vị của Ánh sáng Mẫu-Vật, chúng không thể được phát hiện bởi bất kỳ dụng cụ nào do khoa học chế tạo vì đây là những dụng cụ vật chất, mà Ánh sáng Mẫu-Vật thì không vật chất. Nó trở thành vật chất khi có một hình ảnh được áp chồng lên nó.

Ngay cả trong thế giới lượng tử, con cũng có tình trạng một hạt có thể xuất hiện từ hư vô rồi lại biến mất. Các nhà khoa học bàn về một trạng thái chân không (vacuum state), một trường lượng tử (quantum field) hay một số tên gọi khác, là khi một hạt có thể đột nhiên xuất hiện rồi biến mất vì nó đi vào hay đi ra khỏi một trạng thái nào đó. À, đây là cách con có thể hình dung Ánh sáng Mẫu-Vật. Con có thể nói là Ánh sáng Mẫu-Vật không nằm trong cõi vật lý nhưng nó có thể được kéo vào quang phổ vật lý (physical spectrum). Thế rồi những cái chấm nhỏ đó của Ánh sáng Mẫu-Vật có thể được sắp xếp lại thành một mô thức nào đó, nhưng Ánh sáng Mẫu-Vật chỉ ở lại trong mô thức này trong cõi vật lý chừng nào còn có cái gì phóng chiếu hình ảnh lên nó. Lý do trái đất có một số biểu hiện do con người tạo ra kéo dài trong thời gian là vì tâm thức tập thể liên tục phóng chiếu một số hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

5.6. Con có những ký ức tiềm thức

Điều thày đang giảng cho con là lý do con mang ký ức về quá khứ – hay một hồ sơ, một ghi nhận về quá khứ hay bất kỳ tên gọi nào khác – là vì tâm con đang áp chồng hình ảnh đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Sự thể này ngăn cản không cho các đơn vị của Ánh sáng Mẫu-Vật trở về trạng thái nền của chúng và lại đi ra khỏi cõi vật lý. Con có thể phản bác: “Nhưng làm sao con làm chuyện này được khi con không mang một ký ức ý thức nào về chấn thương nhập đời của con?” Con có mang một ký ức tiềm thức.

Ký ức không chỉ là ký ức có ý thức mà thôi, và đây là tại sao chúng ta có thể nói là những gì con nhớ một cách ý thức thì gọi là ký ức, còn những gì con không nhận biết ý thức gọi là hồ sơ. Đôi khi các thày đã dùng cách phân biệt này. Con cũng có thể nói là có ký ức ý thức hay vô thức. Tất cả các con đều biết là thỉnh thoảng có một sự kiện nào đó mà con biết rõ con đã nghe nói trong quá khứ nhưng con không thể hồi tưởng ngay bây giờ một cách ý thức. Thế rồi khi con suy nghĩ thêm, nó bỗng bật lên và bây giờ con nhớ lại. À, hiển nhiên ký ức này đã có mặt ở đó cho dù nó không nằm trong tâm ý thức của con, và các tình huống từ quá khứ cũng tương tự như vậy. Chúng còn nằm đó là vì tâm tiềm thức của con không ngừng phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Điều con có thể luyện cho tâm con làm là nhìn ra hình ảnh không phải là một hình ảnh vật lý, một hình ảnh cố định không thay đổi. Nó được cấu tạo bằng những cái chấm nhỏ li ti của Ánh sáng Mẫu-Vật. Xong con có thể quyết định trong ý thức và nói: “Vụt” và làm cho hình ảnh tan biến. Để điều này có thể xảy ra, có thể con sẽ cần đọc một lượng bài chú và bài thỉnh để làm tan năng lượng cảm xúc. Như các thày đã nói, có thể con sẽ phải tới điểm xem nó như là một ngã tách biệt, nhìn ra là có một cái ngã tách biệt kỳ thực đang duy trì hình ảnh đó, đang muốn duy trì hình ảnh đó. Con có thể quyết định ngừng nuôi dưỡng nó với năng lượng và chú ý của con. Khi con làm theo những bước khác mà các thày đã cho con trước đây, thì có thể sẽ tới điểm khi tất cả những gì còn sót lại chỉ là ký ức. Con đã làm tan năng lượng, năng lượng cảm xúc, con đã làm tan ngã tách biệt, con đã để cho nó chết đi, nhưng vẫn còn lại một ký ức mà vì một lý do nào đó con nghĩ con phải bám lấy.

Trong một số trường hợp, có một cái ngã nghĩ rằng nó phải bám lấy ký ức và con có thể đạt tới điểm nhìn ra ngã này. Thậm chí, thỉnh thoảng, đây chỉ là vấn đề làm cuộc xoay chuyển ý thức, một quyết định ý thức là: “Tôi không phải bám giữ tất cả mọi ký ức về những chuyện đã xảy ra cho tôi trên hành tinh này.”

Tại sao, con yêu dấu, tại sao con không phải nhớ lại? Các sa nhân và tự ngã của con sẽ la hét vào mặt con: “Không, bạn không thể đơn giản quên nó đi! Chuyện đó đã thực sự xảy ra! Chính bạn đã làm chuyện đó, bạn phải ghi nhớ mãi mãi!” Tại sao con cần ghi nhớ mãi mãi chứ con? Các thày đã dạy con điều gì? Cho dù con đã kinh qua chuyện gì trên hành tinh này, đã trải nghiệm nó như thế nào xuyên qua phin lọc bốn thể phàm của con, thì Hiện diện TA LÀ của con có một kinh nghiệm hoàn toàn khác. Kinh nghiệm này mới là kết quả vững bền, là thành quả lâu dài mà con muốn thành tựu qua việc hiện thân trên trái đất. Kinh nghiệm này được lưu trữ vĩnh viễn trong căn thể của con. Đấy chính là cái thực. Đấy chính là cái tồn tại. Đấy chính là điều con đã muốn gặt hái từ việc hiện thân trên trái đất.

Còn những ký ức kia mà con mang trong bốn thể phàm không có giá trị nào trường tồn. Tại sao chúng lại phải tồn tại? Tại sao con lại phải đem chúng theo con? Tại sao con không nhìn chúng và nói: “Vụt, thế là mi đã tan mất”?  

Con yêu dấu, con hãy đơn giản chấp nhận là con có quyền quên đi. Chừng nào con còn có năng lượng tha hóa và ngã tách biệt thì con không thể quên được, nhưng một khi con đã làm tan cả hai thì con có quyền được quên. Đây là một quyền con người, một nhân quyền – chúng ta có thể nói như vậy – và quyền này phải nằm trong danh sách những quyền hạn bất khả xâm phạm mà Đấng Sáng tạo đã phú cho mọi con người. Con có quyền được quên, một quyền mà Thiêng liêng đã ban cho con.

Thày hy vọng là con sẽ nắm lấy lời dạy này và bắt đầu sử dụng quyền này. Nếu con muốn thày giúp đỡ, thày HƠN là sẵn sàng giúp con.

Lấy lại quyền được quên, là quyền Thượng đế đã ban cho con

Bài giảng của Chân sư MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 30/11/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia. Bài này trích từ cuốn sách “Làm hoà với sự hiện diện của mình trên địa cầu” (Making peace with being on Earth).

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE. Thật là vui mừng cho ta đến đây để gửi con phần tiếp theo của bài giảng hồi năm ngoái của ta về đề tài vô cùng quan trọng và sâu sắc này là chấn thương nhập đời và làm thế nào vượt qua chấn thương đó. Con có thể xem lại những gì Phật Gautama đã nói trong phần vấn đáp vừa rồi về thời gian. Thày nói là nếu con không thể đi trở ngược thời gian để thay đổi những sự việc xảy ra trong quá khứ, nếu con không có một cỗ máy vượt thời gian, thì con không thể tự giải thoát khỏi quá khứ. Như thày Gautama nói, Mẹ Mary quả thực đã cho con một cỗ máy vượt thời gian trong bài thực tập về cách thức trở về với kinh nghiệm chấn thương nhập đời [xin tham khảo sách “Chữa lành chấn thương tâm linh”]

Ta muốn cho con thêm một cỗ máy vượt thời gian. Con yêu dấu, con thấy đó, các sa nhân muốn con nghĩ rằng quá khứ được khắc cứng trong đá và không thể thay đổi. Một khi con đã phạm phải một lỗi lầm trên địa cầu thì con sẽ không bao giờ thoát được khỏi nó. Vậy con hãy tưởng tượng con đang đứng trước một bức tường đá thật lớn. Nếu con đã thăm viếng Vạn lý Trường thành bên Trung quốc hay Kim tự tháp Ai cập, hay Bức tường Than khóc ở Jerusalem hoặc bất kỳ thành vách nào ở đây nơi thành phố Tallinn và bất kỳ thành phố xưa cổ nào trên thế giới, thì thật ra con không cần tưởng tượng. Con biết rõ cảm giác đứng trước một bức tường đá khổng lồ. Làm thế nào con có thể đập vỡ vách tường đó xuống với hai bàn tay trần? Phải, con không thể làm được, và tại sao vậy? Một phần là vì đá rất cứng, và phần khác là vì những viên đá được dán chặt lại với nhau.

Trước tiên con hãy tưởng tượng con có thể gỡ vữa ra, là cái xi-măng giữ viên đá dính chặt với nhau. Tất nhiên nếu viên đá dính không chặt, công việc phá bỏ bức tường sẽ dễ hơn một bực. Thế nhưng cũng không dễ lắm, tùy thuộc vào kích thước những viên đá. Điều gì sẽ xảy ra nếu con có thể đập nhỏ đá ra thành vụn tựa như cát vậy? Và giả như con có một cái máy phóng ra một loại tia sáng có khả năng biến đá thành vụn nhỏ như cát thì điều gì sẽ xảy ra?    

Thật vậy, đó chính là quyền năng mà chúng tôi, các chân sư, đã trao cho con qua các bài chú và bài thỉnh. Tất nhiên con không thể dùng bài chú để đập tường đá thành vụn, mặc dù trên lý thuyết nếu có đủ số đông đứng trước tường đá thì việc này cũng khả dĩ. Nhưng dù sao đi nữa, chúng tôi không hề có ý định gửi học trò chúng tôi đi khắp thế giới mà đập đổ tường đá rồi bị bỏ tù về tội phá hoại di tích lịch sử. Điều chúng tôi quan tâm là đập đổ những bức tường kiên cố trong tâm con đang giam hãm và buộc chặt con vào một khuôn nếp phản ứng đối với các sinh thể sa ngã.   

Đương nhiên, con có những bài chú và bài thỉnh mà như chúng tôi đã nói nhiều lần, con có thể sử dụng để làm cho năng lượng tan rã, và khi năng lượng giảm bớt, con sẽ dễ dàng hơn thoát khỏi khuôn nếp. Tuy nhiên như chúng tôi cũng đã dặn nhiều lần, con cần phải trải qua một kinh nghiệm ý thức, một quyết định ý thức, trước khi con thực sự tự do. Đó không phải là một tiến trình máy móc.

Nhận biết tiến trình thấy

Đây là điều ta muốn đề nghị với con. Con cần khởi sự – mới đầu chỉ cần từ từ – con cần khởi sự huấn luyện tâm con cho nó hình dung, tưởng tưởng và cuối cùng thấy rõ và chiêm nghiệm một điều mà cho tới giờ con chỉ biết trong trí thức, tức là toàn bộ thế giới vật chất được xây dựng bằng năng lượng. Bây giờ con hãy tưởng tượng là con biết trong quá khứ con đã trải qua một tình huống vô cùng đau đớn và con đang mang cái chấn thương nhập đời đó trong con. Tình huống đó được cấu tạo bằng chất gì? Như Phật Gautama có nói, thời gian đã trôi qua và tình huống vật lý không còn hiện diện nữa, nó đã bị thời gian xóa sạch. Hay có thể nói, nó đã bị thời gian sơn lên một lớp sơn – cái cọ khổng lồ của thời gian đã biến mọi sự thành sự thể của hiện tại. Và Gautama bảo: Hiện tại quả thật có thể bị quá khứ ảnh hưởng, tuy nhiên quá khứ không còn ở đó như một thực tại vật lý nữa. Nó chỉ ở đó như một vết in hay một hình ảnh trong tâm con, trong ba thể cao hơn của con, và trong một nghĩa nào đó cũng trong thể xác vật lý của con.     

Câu hỏi bây giờ là làm thế nào thoát khỏi vết in đó? Điều con cần suy ngẫm trước hết là làm thế nào bộ não vật lý, đôi mắt vật lý của con (đặc biệt là bộ não) và ngoại tâm của con nhìn và nhận thức tình huống – đúng hơn, nhận thức mọi chuyện. Ngay bây giờ con đang ngồi ở đây, con đang nhìn bức tường sau lưng vị sứ giả, là một bức tường khá vững chắc, và cái gì con thấy thật sự là một hình ảnh. Chúng tôi đã có giảng là mắt con không thực sự nhìn thấy một bức tường mà chỉ đơn giản nhận được những xung động gửi vào trong mắt, đập vào võng mạc (retina) dưới dạng những tia sáng. Mắt con không thực sự thấy mà chỉ phản ứng lại tia sáng. Phản ứng này trong mắt được chuyển thành một tín hiệu, y như tín hiệu số trong máy tính. Tín hiệu này được gửi đến cái mà con gọi là vỏ thị giác (visual cortex) trong não.  

Bây giờ bộ não có tác dụng giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý. Dụng cụ chủ yếu giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý là bộ não khi nó áp đặt một số hình ảnh lên trên những tín hiệu đến từ mắt. Mắt con không nhìn thấy. Trong một nghĩa nào đó, có thể nói là não cũng không nhìn thấy. Não chỉ đơn giản lấy tín hiệu từ mắt rồi sắp xếp lại thành một hình ảnh ăn khớp với những gì não đã chứa sẵn trong kho dữ liệu của nó. Như được chứng minh trong vô số hiện tượng ảo thị (optical illusions) mà con đã được thấy, não không thực sự thấy cái gì ở trước mặt con. Nó tìm kiếm một mô thức ăn khớp với một cái gì đã nằm sẵn trong kho dữ liệu của nó. Nó không nhìn vào chính xác những tín hiệu đến từ mắt mà tìm kiếm một mô thức mà nó có thể nhận ra. Một khi nó có đủ xung động để tạo thành một mô thức quen thuộc, thì nó sẽ ngừng phản ứng, ngừng nhìn vào xung động từ mắt, và bây giờ nó chồng cái mô hình nó cất giữ đè lên trên cái mà con đang nhìn, và nó nói: “À, đây là cái đó.”    

Hiển nhiên, điều này đã tiếp diễn trên địa cầu suốt hàng triệu năm qua. Khi con đầu thai trong kiếp này, bộ não của con không khởi đầu từ con số không, nó không phải tự đào tạo từ đầu và xây đắp từng hình ảnh của cái này hay cái kia. Nó bị buộc chặt vào động lượng tâm thức tập thể nói trên, cho nên nó đã mang sẵn một số chương trình nội tại: À, đây là cái cây, đây là hòn đá, đây là biển cả, đây là bầu trời, vân vân và vân vân. Con có sẵn một kho dữ liệu những mô hình mà không những con đã nhìn thấy trước rồi mà cả tâm thức tập thể cũng đã nhìn thấy trước. Cho nên con đã quen nhìn mọi thứ dưới dạng hình ảnh và con dán nhãn lên mọi thứ. Con thường dán nhãn qua ngôn từ, và điều này lại bồi thêm một lớp phức tạp mới trong khi vỏ não thị giác chỉ nhận ra hình dạng mà thôi. Vỏ não thị giác có thể nhìn vào hình thù, màu sắc và nét lồi lõm của bức tường, nhưng não có một chức năng khác để chuyển dịch thị giác đó thành lời nói, và nó nói: “Đây là bức tường”. Có thêm một lớp được đắp lên trên hình ảnh, và như vậy loài người đã mang theo một động lượng rất lâu đời đặt ngôn từ lên mọi thứ.  

Con bị kẹt trong nhận thức như thế nào

Trong Thánh kinh có kể rằng Thượng đế ban cho Adam quyền năng đặt tên cho từng loài động vật trên địa cầu. Một số người tin rằng nếu con biết tên của vật thì con có quyền năng trên vật đó. Thực tế sâu sắc hơn là một khi con đặt tên cho một vật, con đã thực sự tự giới hạn mình vì con đã củng cố cho hộp tư duy của con. Con nghĩ rằng vật đó sẽ giống như cái mà con đã dán nhãn, và nó sẽ luôn luôn như vậy. Con không có khả năng nhìn xa hơn sự lập trình đó – it ra là hầu hết mọi người. Và do đó con nghĩ: “Cái đó là như thế này”. Con đã buộc con vào động lượng tập thể, và con cũng xây dựng động lượng của con trong suốt bao nhiêu tiền kiếp.   

Hồi nãy ta có nhắc tới một thời điểm hay một tình huống khi con đã trải qua một kinh nghiệm vô cùng đau đớn, và như cuốn sách “Những cuộc đời của tôi” (My Lives) có cho một ví dụ nơi nhân vật trong truyện phải nếm mùi một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, thì con đã được lập trình, bộ não của con đã được lập trình hầu nó đặt chồng một hình ảnh và ngôn từ lên trên kinh nghiệm đó, và nó nói: “Kinh nghiệm đó như thế đó”. Và câu hỏi được đặt ra: Làm thế nào con có thể thực sự giải thoát khỏi một tình huống của quá khứ? Cho đến khi nào con còn giữ trong não, ngay cả trong ba thể cao hơn của con, cái vết in của tình huống đó cùng những hình ảnh hay những ngôn từ mà con đã liên kết với tình huống, cho đến khi nào mà những thứ đó còn ở đó thì con sẽ không thể thoát khỏi tình huống từ quá khứ.

Ta nói với con là con nên khởi sự tập tành lại chính con. Con có thể rèn luyện tâm con để nó phản lệnh bộ não. Sẽ thật hữu ích nếu con thử nhìn lại rất nhiều những ảo thị từng được đăng tải. Ảo thị điển hình là một hình vẽ mà con có thể nhận ra là một cô gái trẻ đẹp hoặc một bà cụ da dẻ nhăn nheo tùy theo con chú mục như thế nào. Có những ảo thị với đủ loại màu sắc, hình thù vân vân và vân vân. Nếu con chưa bao giờ nhìn ảo thị thì con nên thử nhìn để nó giúp con hiểu ra là con thực sự không thể tin vào giác quan của mình. Con không thể tin vào bộ não vì trong đó có sự lập trình khiến con nhìn thấy đồ vật không đúng như nó thực là.

Con có thể tiến thêm một bước và tưởng tượng con đang ngồi trong một rạp chiếu phim. Con nhìn thấy hình ảnh trên màn hình, và bởi vì rạp chiếu bóng tối om cho nên rất có thể con sẽ hoàn toàn mải mê với bộ phim, đến độ con có cảm giác con đang sống trọn cốt truyện đang được trình chiếu trên màn hình. Chắc chắn con bị cuốn hút vào đó đến nỗi con quên hết mọi chuyện. Con có khả năng tự rèn luyện để nhận ra rằng những hình ảnh đang được chiếu lên màn hình không những không thể hiện một thực tại vật lý nào (bởi vì con dư biết là chúng chỉ là những tấm hình trên một cuộn phim đặt trong máy chiếu) mà hơn thế nữa, con có thể tập nhìn thấy chúng như là những mô hình gồm có vô số những chấm nhỏ đủ màu được chiếu lên màn ảnh. Con có thể đạt đến mức khi con tập cho mắt con nhìn lệch tiêu cự cho hơi mất nét, và thay vì con thấy rõ từng người hay từng vật, thì con chỉ nhìn thấy những trường tia sáng đủ màu đang được chiếu lên màn ảnh. Khi con tập như thế một thời gian, con sẽ lần hồi đạt đến mức con áp dụng được vào cuộc sống hàng ngày. Con có thể rèn luyện để thấy bức tường này sau lưng vị sứ giả không thực là bức tường. Đó chỉ là một số tia sáng tạo thành một số mô thức nào đó.

Hồi con còn nhỏ, thế nào cũng có người bảo con thử dùng cái kính lúp để nhìn kỹ một tấm ảnh in trên tờ báo. Và con có thể thấy được những gì có vẻ là những hình thù thực sự chỉ là những cái chấm đen được sắp xếp theo những mật độ khác nhau. Màu đen càng đậm thì những cái chấm đó càng xít lại gần nhau. Màu đen càng lạt thì chấm đứng càng xa nhau. Tất cả chỉ là những cái chấm đen đã đánh lừa bộ não của con nhìn ra hình thù. Cho nên con có thể tự huấn luyện để tập trung vào những cái chấm thay vì vào hình ảnh. Rồi con áp dụng vào mọi tình huống trong đời, nhưng ngay lúc này thì việc áp dụng vào những tình huống đặc thù trong đời chưa quan trọng lắm.  

Đập vỡ hình ảnh quá khứ thành mảnh nhỏ

Điều ta mong muốn con khởi sự làm là nhìn vào những tình cảnh trong quá khứ của con. Có thể là con cảm được chấn thương nhập đời và con cảm thấy nó chưa được giải quyết. Cũng có thể con đã gặp một tình huống nào khác, ngay cả một tình huống trong kiếp này, khi con cảm thấy một điều gì đau đớn đã xảy ra. Con thử xét xem là khi con nghĩ lại tình huống đó, hình ảnh mà bộ não của con đưa lên, hay hình ảnh mà ba thể cao hơn của con đưa lên, là gì? Hình ảnh đó là gì? Con có thể nói từ một góc cạnh đường thẳng nào đó, rằng nếu con còn ký ức, nếu con còn một hình ảnh từ quá khứ, thì con sẽ không bao giờ thoát được khỏi hình ảnh đó, bởi vì những gì đã xảy ra thì đã xảy ra và con không thể thay đổi được. Con không thể làm gì được để thay đổi nó.  

Nhưng tất nhiên, đấy là điều mà các sa nhân muốn con tin chứ không phải là sự thật. Con có khả năng tập tành để đưa những hình ảnh đó lên tầm nhìn nội tâm của con. Xong con có thể tập nhìn thấy chúng, không phải như là những hình thù và những hình ảnh mà con có, mà chỉ đơn giản là những mô thức tia sáng, hay những khuôn mẫu hạt nguyên tử, hạt electron và hạt hạ nguyên tử – hay bất cứ cách nào mà con có thể hình dung. Con đập vỡ hình ảnh ra thành những mảnh nhỏ bằng bất cứ cách hình dung nào. Như ta nói ở trên, nếu con đứng trước một bức tường đá, con có thể đập vỡ các viên đá cho vụn ra thành hạt cát hầu con có thể đem đá đi dễ dàng hơn. Đây là điều mà con tập tành để giải quyết những hình ảnh từ quá khứ vẫn ám ảnh con, hoặc những hình ảnh mà con đã kềm nén xuống nhưng mỗi lần con chạm vào chấn thương nhập đời thì con lại khơi nó dậy.  

Con có thể tu tập để nhận ra một cách ý thức rằng: “Hình ảnh này chỉ là một hình ảnh mà bộ não và các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của tôi đã chồng lên đó.” Thực tế là nó không còn là một tình huống vật lý nữa. Nó chỉ là một hình ảnh. Hình ảnh này được cấu tạo bởi những hạt ánh sáng điện từ nhỏ xíu, là những cái chấm. Hình ảnh được tạo bằng chấm. Thậm chí con có thể ngắm một bức tranh của trường phái Ấn tượng, và nếu con đứng ở xa, con sẽ không thể nhìn thấy những cái chấm mà hoạ sĩ đã sử dụng để vẽ tranh. Khi con lại gần và gần hơn nữa, con bắt đầu nhìn thấy chấm, và khi con xích lại gần sát thì tất cả những gì con thấy được chỉ là những cái chấm, bởi vì con không thể thấy hình ảnh nữa. Vậy thì ta yêu cầu con hãy tự rèn luyện, và một lần nữa, điều này cũng liên quan đến chuyện con bước vào nỗi đau. Nhưng bây giờ con không bước vào nỗi đau nữa mà đó chỉ là một hình ảnh thị giác mà con có trong tâm con.  

Con hãy bước tới hình ảnh gần hơn và gần hơn nữa cho tới khi con chỉ còn nhìn thấy những cái chấm. Rồi con nhận ra rằng chính những cái chấm này là thực tại sâu xa hơn. Hình ảnh chỉ là cái gì được đặt chồng lên bởi bộ não và bởi các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Còn những cái chấm kia mới là thực tại. Và con cũng nhận ra là chấm luôn chuyển động, chúng linh hoạt, chúng không ngừng rung động, và chúng sẽ dễ dàng trình diễn bất cứ hình ảnh nào khác y như chúng đã diễn xuất hình ảnh mà con hiện có. Hơn thế nữa, những cái chấm đó có thể thực sự thoát khỏi cái khuôn đúc đã được áp đặt lên chúng, hầu chúng có thể trở về với trạng thái nguyên thủy, là trạng thái tự do nơi chúng hoàn toàn trung dung và không hiển thị bất cứ hình ảnh nào.  

Con có thể hình dung hình ảnh đó dần dần tan ra thành từng mảnh nhỏ, và những mảnh này bắt đầu rung và chuyển động. Chúng chạy tứ phía, khiến cho hình thù trên hình ảnh bị phân hủy và chỉ còn lại một màu đồng nhất. Con có thể thấy chúng biến thành giống như nước trong đại dương, hay cát trong sa mạc, hay không khí trong bầu trời xanh. Chúng trở thành vô hình thù, vô hình tướng. Hình ảnh được giải thể và con để yên cho nó ra đi. Giống như con đang lấy một quyết định, và ở một điểm con sẽ lấy một quyết định, và con nói: “Tôi đề cho hình ảnh này chết. Tôi để cho nó tan biến. Giản dị là tôi đã quên nó rồi.”

7 | Hiểu thấu tiết lộ tuần tự

Chân sư Thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, ngày 22 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên MORE, cũng được biết trong các đợt truyền giáo trước như El Morya, Chân sư M, Bapu hay đơn giản là Morya, do đó thày có nhiều tên. Thày hơn là một cái tên, do đó thày tìm cách vụt đi trước các đệ tử muốn gán một hình ảnh tôn thờ vào một danh hiệu nào đó. Thày biết rõ là nhiều đệ tử sẽ và đã bác bỏ tất cả các điều mà thày giảng ngày hôm nay vì thày đã đổi tên từ El Morya sang Chân sư MORE. Tuy nhiên, điều này thích hợp, vì có những đệ tử phải bác bỏ điều thày đang giảng vì họ không thuộc mạn đà la, đợt truyền giáo mà thày đang hướng bài giảng này tới. Tuy nhiên, có một số đệ tử sẽ được lợi lạc từ bài giảng này, nếu họ chịu mở tâm ra đón nhận.

Mỗi lần các thày bảo trợ một tổ chức, và các thày đã bảo trợ nhiều tổ chức hơn các con (đa số các con) biết, thì có một nhóm người, một mạn đà la, mà các thày nhắm tới khi bảo trợ tổ chức đó. Có một số người khác đáng lẽ không thuộc tổ chức đó. Khi các thày bước sang bảo trợ một tổ chức khác, thì điều thích hợp và tự nhiên là những người thuộc mạn đà la của tổ chức trước không đi theo với các thày. Tuy nhiên, lúc nào cũng có trong một tổ chức một số người không thuộc mạn đà la mà tổ chức được tạo ra để phục vụ, và do đó, họ tự do đi theo các thày khi các thày chuyển sang bảo trợ một tổ chức khác.

7.1. Con đường tâm linh lúc trước và ngày nay

Giờ đây, các con yêu dấu, thày muốn bắt đầu bằng cách nói thêm về câu hỏi được đặt ra tối hôm qua về cách các thày đã trình bày con đường tâm linh trong đợt truyền giáo trước ở tổ chức Summit Lighthouse (Ngọn Hải đăng Trên Đỉnh núi), thậm chí đi trở ngược về tổ chức I AM Movement (Phong trào TA LÀ). Thày sẽ nói về sự tương phản giữa cách các thày trình bày con đường tâm linh lúc đó và ngày nay, với các giáo lý mới nhất về cách thể hiện quả vị Ki-tô, cũng như là các giáo lý về ngã gốc, cái Ta Biết, là người đồng-sáng tạo, biểu hiện tiềm năng sáng tạo của mình – là các giáo lý mà các thày đã trao truyền trong những năm vừa qua. Như vị sứ giả này đã nêu lên, không có sự mâu thuẫn trong bản chất các đợt truyền giáo, nhưng nếu con nhìn từ một tầm nhìn nào đó, thì con sẽ thấy có mâu thuẫn. Con nên hiểu là đợt truyền giáo trước ở Summit Lighthouse đã được các thày tạo dựng với mục đích chính là giúp một mạn đà la đệ tử đạt được một số khai ngộ cốt yếu cho họ.

Điều cốt yếu trong việc phát triển cá nhân của họ là họ đạt được các khai ngộ đó, và điều cốt yếu cho hành tinh là có một số người, một số lượng tới hạn người (critical mass), đạt được các khai ngộ đó. Tổ chức Summit Lighthouse đã thu hút nhiều người khác không thuộc mạn đà la đó. Họ đã được lợi lạc khi tham gia vào Summit Lighthouse, và họ đã đóng góp nhiều cho tổ chức, họ đã đóng góp thêm nhiều vào động lượng, và quả thực họ đã giúp các thày đạt được nhiều thành quả từ tổ chức Summit Lighthouse hơn những gì các thày có thể đạt được qua các người thuộc mạn đà la. Cũng đã có nhiều người tâm linh không gia nhập Summit Lighthouse, một phần vì các thày không hướng họ về tổ chức đó. Đây là một số đề tài mà thày muốn thảo luận trong bài giảng này.

7.2. Đợt truyền giáo cuối cùng của thời Song ngư

Thày muốn bắt đầu với sự kiện tổ chức Summit Lighthouse là, như Giê-su đã trình bày trước đây, đợt truyền giáo cuối cùng (hay ít ra là đợt truyền giáo công chúng cuối cùng) mà các thày có thể bảo trợ trong thời Song ngư. Điều này không có nghĩa, như một số người đã diễn giải, là đó là đợt truyền giáo quan trọng, chung cuộc và tuyệt đối nhất mà các thày trao truyền trong thời Song ngư. Tổ chức Summit Lighthouse đã được lập ra với một số mục đích, nhưng mục đích mà thày muốn thảo luận ở đây, liên quan đến mạn đà la mà tổ chức được tạo ra để phục vụ, là một mục đích rất đặc thù. Mục đích đó là để giúp một nhóm dòng sống đạt được các khai ngộ của thời Song ngư mà họ chưa đạt được trong thời Song ngư. 

Con có thể nói như thế này: khi hành tinh bước sang một thời đại tâm linh mới, khi hành tinh chuyển từ thời đại trước sang thời Song ngư, thì có một nhóm người mà ta có thể nói, từ một tầm nhìn nào đó, đã là động cơ thúc đẩy sự tăng triển của hành tinh trong khoảng thời gian 2000 năm đó. Nói cách khác, họ ở một giai đoạn trong tiến trình tăng triển cá nhân khiến họ có tiềm năng đạt được các khai ngộ của thời đại sắp tới. Do đó, khi họ đầu thai trong thời đại đó, họ có thể đẩy mạnh sự tăng triển tâm linh, sự tăng triển của tâm thức Ki-tô, của thời đại đó. Tuy nhiên, để có thể đẩy mạnh tâm thức tập thể, họ phải đạt được các khai ngộ của thời đại đó, các khai ngộ nền tảng của thời đại đó.

Mỗi thời đại có một số khai ngộ nền tảng. Hai ngàn năm trước đây, Giê-su đã khai mở thời đại Song ngư; thày đã tạo dựng nền tảng cho thời Song ngư. Giê-su đã trình bày các khai ngộ đó trong giáo lý nguyên thủy, toàn bộ của thày. Ngay cả trong giáo lý công chúng được bảo tồn trong kinh điển, con cũng tìm được một số lượng tới hạn các khai ngộ này để tạo xoay chuyển tâm thức, đôi khi được trình bày một cách ẩn dụ và đôi khi một cách thẳng thắn hơn.

Thày không nói ở đây là các kinh sách về cuộc đời và lời giảng của Giê-su đã mô tả các khai ngộ này một cách đầy đủ, vì chúng chắc chắn không làm được công việc này. Nhưng Giê-su có trao truyền một khuôn đúc có thể khai triển thành phong trào mà thày hình dung, một phong trào dựa trên Thánh linh, dựa trên Ngôi lời Hằng sống được nói ra. Một phong trào như thế đã có thể đẩy mạnh thời đại Song ngư, đẩy mạnh sự tăng triển của tâm thức tập thể.

7.3. Con người không đạt được các khai ngộ của thời Song ngư

Chuyện đã xảy ra là không có đủ số người trong mạn đà la nguyên thủy đạt được các khai ngộ của thời Song ngư trong những thế kỷ đầu của thời đại đó. Đó là lý do vì sao sa nhân đã có thể xâm nhập và biến phong trào Công giáo thành tôn giáo chính thức của đế quốc La Mã, và từ lúc đó trở đi, đạo Công giáo coi như đã bị tổn hại không thể cứu vãn. Điều này có nghĩa là không có giáo lý công chúng chỉ dẫn con người đạt các khai ngộ của thời Song ngư.

Lẽ tất nhiên, đây không phải là kế hoạch nguyên thủy nhưng các thày luôn luôn tôn trọng quyền tự quyết (thày dùng chữ “các thày” để chỉ các chân sư thăng thiên, vì tất nhiên là trong thời Song ngư chính thày chưa là một chân sư thăng thiên, và do đó thày đã không dự phần vào các cuộc bàn thảo đó). Các chân sư thăng thiên luôn luôn xem xét con người đáp ứng ra sao trước các khai ngộ. Cho dù con người có đáp ứng hay không, các thày luôn luôn tìm một phương cách giúp con người vươn lên cao hơn.  

Trong thời Song ngư, các thày đã tạo cảm hứng và bảo trợ một số tổ chức. Đây là thời Giáo hội Công giáo đàn áp tất cả các người “không tin đạo”. Các tổ chức này đã hoạt động bí mật, các thày đã đề cập đến các hội Rosicrucian và Freemason nhưng cũng có tổ chức khác. Các thày cũng đã bảo trợ một số sáng kiến và tổ chức tại những vùng trên thế giới nơi giáo hội Công giáo không có ảnh hưởng mạnh mẽ. Thày không muốn các con giới hạn tầm nhìn của mình và nghĩ rằng các thày đã chỉ làm việc với một số ít tổ chức. Các thày đã làm việc, như các thày luôn luôn làm, với nhiều cá nhân và nhóm người khi họ sẵn sàng mở tâm đón nhận giáo lý ở một tầng mức nào đó.

Tuy nhiên, điều thày muốn các con nhận ra là khi thời Song ngư đã tới lúc gần chấm dứt, thì chuyện rõ ràng là không đủ số lượng tới hạn người thuộc mạn đà la Song ngư nguyên thủy, không đủ số lượng tới hạn các dòng sống đó, đã đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Các thày đã quyết định (và lần này thày có dự phần vào các cuộc bàn thảo vì thày đã thăng thiên) là các thày sẽ thành lập một tổ chức khác với mục đích chính yếu giúp các dòng sống đó đạt các khai ngộ của thời Song ngư. Liên quan đến tổ chức Summit Lighthouse, thì tổ chức này được thành lập với mục đích chính giúp nhóm dòng sống cá biệt đó đạt được những khai ngộ mà họ cần đạt khi thời Song ngư chấm dứt.

Chính thày có thuộc vào mạn đà la ở đầu thời Song ngư chăng? Có, thày thuộc mạn đà la đó. Kuthumi cũng vậy, cũng như là Saint Germain và lẽ tất nhiên Mẹ Mary. Mẹ Mary thăng thiên rất sớm, Saint Germain cần thêm chút thời gian. Kuthumi và thày đi đoạn hậu và cần rất nhiều thời gian để thăng thiên, nhưng các thày rồi cũng đã thăng thiên. Do đó, các thày đã quyết định là thày là vị chân sư chính bảo trợ tổ chức Summit Lighthouse.

Các con nhận ra là mục đích duy nhất (ít ra là mục đích chính) là giúp mạn đà la đặc thù của các dòng sống đó, các người chưa đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Nói theo từ ngữ hiện đại thì đây là một hình thức quản trị khủng hoảng. Nói cách khác, thời Song ngư đã gần hết, cát trong đồng hồ cát đã gần cạn, và các dòng sống đó vẫn chưa đạt được khai ngộ. Thày không nói là tất cả các dòng sống thuộc mạn đà la nguyên thủy của thời Song ngư đều phải đạt được các khai ngộ trong khoảng thời gian 2000 năm đó. Thày muốn nói là cần một số lượng tới hạn đạt được các khai ngộ đó, và lúc đó chưa đủ túc số đó. Như một hình thức quản trị khủng hoảng, các thày thảo luận và định ra những gì các thày có thể làm để giúp các dòng sống đó (ít ra là một số lượng tới hạn trong nhóm đó) vượt qua trở ngại và đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Các cuộc thảo luận đó là khuôn đúc nền tảng của tổ chức Summit Lighthouse và nói chung tất cả những gì đã xảy ra trong tổ chức đó đều liên quan tới mục đích đó.

7.4. Các khai ngộ của thời Song ngư

Đâu là những khai ngộ mà con người cần đạt trong thời Song ngư, không chỉ những người thuộc mạn đà la nguyên thủy và toàn thể nhân loại? À, con có thể nhìn vào cuộc đời của Giê-su và xem xét khuôn đúc mà Giê-su đã tạo dựng. Sau đó, con có thể xem xét các giáo lý mà các thày đã trao truyền, và lẽ tất nhiên, con yêu dấu, con có thể diễn tả chúng bằng nhiều cách khác nhau. Không phải chỉ có một cách duy nhất để diễn tả chúng bằng ngôn từ, mà có nhiều cách. Con có thể dùng từ vựng khác nhau. Thày không muốn đưa ra cảm tưởng là cách thày diễn tả ở đây là cách diễn tả duy nhất.

Chắc chắn là một cách để diễn tả các khai ngộ của thời Song ngư là: Trong thời Song ngư, con người cần giải thoát mình khỏi ách thống trị và nô lệ của sa nhân. Làm sao con giải thoát mình khỏi sa nhân? Cách duy nhất là đạt được tâm thức Ki-tô. Tâm thức Ki-tô là sợi dây điều giải (mediator) Tánh linh và vật chất, nó là cái được Thượng đế gửi xuống. Để làm gì? Không phải để cứu rỗi con người, như các giáo phái Cơ đốc giáo tuyên bố, nhưng để cho con người một khung tham chiếu, giúp con người có một khung tham chiếu khi họ trải nghiệm chứ không chỉ hiểu tâm thức Ki-tô. Con có thể so sánh với tảng đá Ki-tô tất cả các dối trá và ảo tưởng được phóng tới con, được sa nhân lập trình vào tiềm thức của con.

Con thấy là tất cả các ảo tưởng, triết lý, lý thuyết và luận thuyết đều là cát cuốn bay theo gió. Con có thể so sánh chúng với tảng đá không thể lay chuyển, theo nghĩa nó không có tính chất nhị nguyên. Lẽ tất nhiên, nó không đứng yên vì Ki-tô di chuyển cùng với hướng đi lên của toàn thể vũ trụ, do đó ta có thể nói là Ki-tô luôn luôn tiến triển. Đối với các con đang đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên do nhị nguyên thống trị, thì nó là một tảng đá mà con có thể nương tựa và dùng làm nền móng vững chắc để lượng định các ý tưởng của sa nhân.

Vậy ta có thể nói là các khai ngộ mà con người cần đạt trong thời Song ngư là noi theo gương của Giê-su, tin tưởng Giê-su, làm công việc mà Giê-su đã làm và sau cùng làm những công việc to lớn hơn những gì Giê-su đã làm. Như các thày đã nói nhiều lần, noi theo gương Giê-su thay vì chờ đợi Giê-su sẽ tới và cứu rỗi lúc cuối thời. Vậy câu hỏi trở nên: “Làm sao con người có thể noi theo gương của Giê-su?” Con có thể nhìn lại quá khứ và biện bác là vì con người không có được một bản viết các giáo lý chân thực của Giê-su, nên họ không thể noi theo gương của Giê-su, họ không thể đạt các khai ngộ – có một khoảng cách.

7.5. Khoảng cách giữa giáo lý và ứng dụng

Đây là một đề tài mà thày muốn luận giảng: khoảng cách. Câu hỏi trở nên là: chúng ta hãy giả dụ sa nhân không xía vào công việc của trái đất. Nói cách khác, không có gì ngăn trở các chân sư thăng thiên thể hiện trong bát cung vật lý đúng y những gì các thày muốn thể hiện. Các thày có thể nào trao truyền một giáo lý đầy đủ đến độ bất cứ ai theo và áp dụng giáo lý đều đạt được tâm thức Ki-tô chăng?

Nhiều người trong các con, nếu con xem xét phản ứng của mình trước câu hỏi này, sẽ thấy là trong tâm thức của mình có một niềm tin là: Đúng vậy, điều này phải khả thi. Giờ đây, con yêu dấu, một lần nữa các thày không muốn chê trách con hay khiến con không thoải mái, nhưng thày phải nói rất thẳng thắn là niềm tin này là một ảo tưởng, và nó có thể là một ảo tưởng nguy hiểm. Ảo tưởng này chính thực là lý do chính khiến nhiều người thuộc mạn đà la nguyên thủy của thời Song ngư đã không đạt được các khai ngộ của thời Song ngư.

Thày muốn trình bày ở đây một tóm lược ngắn các sự kiện lịch sử. Có những người đã nói: “Tại sao Giê-su không viết lại những giáo lý chân thực của thày để con người có một văn bản đầy đủ, mà họ có thể theo và áp dụng?” Ấy, thày sẽ trả lời câu hỏi này sau, nhưng chúng ta có sự kiện lịch sử là Giê-su đã không viết lại những giáo lý của thày, Giê-su đã không để lại một văn bản chính thức.

Trong mấy thế kỷ đầu, đạo Công giáo là một phong trào đa dạng, khá hỗn loạn gồm nhiều nhóm và môn phái, một phần do các phương tiện truyền thông thiếu vắng của thời đó, và phần khác là Giê-su mong muốn là những người khác nhau, những nhóm khác nhau có thể trải nghiệm Cơ đốc giáo theo cách riêng của họ.

Sau đó, tới thời điểm then chốt trong lịch sử khi sa nhân trong cõi bản sắc đã thành công trong việc thuyết phục một sa nhân đang đầu thai là y đã trực quan Ki-tô và do đó y biến phong trào Công giáo thành tôn giáo chính thức của Đế quốc La mã. Từ lúc đó, sa nhân đã vững tay điều khiển Cơ đốc giáo. Con có thể thấy là suốt thời Trung cổ, họ đã dùng khả năng điều khiển Cơ đốc giáo để ảnh hưởng và kiểm soát các nước Tây Âu và xã hội Âu châu. Chuyện đã xảy ra thời đó là một số tổ chức bí mật đã bộc phát: hội Rosicrucian, hội Freemason vân vân. Các tổ chức này dựa trên một con đường tu tuần tự, một con đường dẫn con người đi từng bước về hướng những tầng tâm thức cao hơn, hay ít ra là những khai ngộ cao hơn. Sau đó, chúng ta thấy lịch sử dần dần đi tới điểm ảnh hưởng của giáo hội Công giáo bắt đầu suy thoái. Khoa học xuất hiện, và không lâu sau thì thuyết duy vật trở nên dụng cụ chính của sa nhân. Nhưng sa nhân không thể kiềm hãm con người càng ngày càng nhận ra nhu cầu đi theo một con đường khai ngộ, một con đường tuần tự dẫn tới các tầng tâm thức cao hơn.

Sa nhân đã không thể ngăn nổi nhận biết này tuy họ rất muốn làm được chuyện đó. Đã có lúc nhân loại có nhận biết cao hơn về nhu cầu này, và điều này đã khai mở điều kiện cho phép các chân sư thăng thiên bước ra và công khai tiết lộ sự hỗ trợ của mình và do đó bắt đầu trao truyền giáo lý về con đường khai ngộ.

7.6. Những giới hạn của các sứ giả được bảo trợ

Con có thể nói là một khi các thày có một vị sứ giả được bảo trợ thì chắc hẳn các thày có thể nói bất cứ điều mình muốn qua vị sứ giả đó. Điều này vừa đúng vừa không đúng, vì tuy nhiều người trong các đợt truyền giáo trước không muốn nhìn nhận, các thày có bị giới hạn trong những gì có thể trao truyền qua một vị sứ giả được bảo trợ. Có hai giới hạn. Giới hạn thứ nhất là trình độ tâm thức của vị sứ giả quy định giáo lý trao truyền xuyên qua tâm vị sứ giả đó có thể cao đến chừng nào. Nói cách khác, nếu vị sứ giả chưa đạt được một số khai ngộ, thì tâm của vị ấy rất khó nhận được các khuôn đúc về các khai ngộ cao hơn và chuyển chúng thành ngôn từ.

Điều này không nhất thiết có nghĩa là tiến trình không thích nghi, vì con yêu dấu, có lợi ích gì trao truyền một giáo lý cao đến độ không ai đang đầu thai có thể hiểu thấu được? Nói cách khác, các thày luôn luôn nhìn một sứ giả được bảo trợ và cân nhắc: “Có đủ số người có khả năng tiếp thu tầng giáo lý này chăng?” Nếu không có đủ thì các thày sẽ không trao truyền giáo lý đó vào lúc đó. Lẽ tất nhiên, đó là lý do vì sao các thày đã trao cho các con khái niệm tiết lộ tuần tự.

Một chuyện trớ trêu là trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước, đã có những người tin rằng tổ chức của họ và có lẽ nhiều tổ chức trước đó, đã thuộc vào tiến trình tiết lộ tuần tự được các thày bảo trợ, nhưng kỳ lạ thay, tiến trình này ngưng lại khi tổ chức của họ chấm dứt. Khi tổ chức của họ không còn một vị sứ giả thì tiến trình tiết lộ tuần tự vì lý do nào đó chấm dứt. Đây là một điều trớ trêu to lớn, một điều trớ trêu to lớn mà ta cần suy ngẫm. Thày biết là những đệ tử bị vướng mắc trong điểm trớ trêu này có lẽ sẽ không suy ngẫm điều đó, nhưng sự việc này cần được nói ra và phóng chiếu vào tâm thức tập thể.

Điều quan trọng cho tất cả các con đã mở tâm đón nhận, là tiết lộ tuần tự là một tiến trình liên tục mà các thày không dự kiến sẽ chấm dứt trong thời đại Bảo bình. Sẽ có tiết lộ tuần tự liên tục, có thể sẽ có một vài gián đoạn vì một số lý do, nhưng sẽ có tiết lộ tuần tự trong suốt 2000 năm tới của thời Bảo bình. Do đó, trong thời Bảo bình, nghĩ rằng có một giáo lý tối hậu, tuyệt đối hay chung cuộc là chuyện hão huyền. Đó là một giáo lý làm viên gạch dẫn lối trong tiến trình tiết lộ tuần tự trải dài suốt thời Bảo bình. Tiến trình này sẽ trải bày chính xác ra sao tùy thuộc cách con người đón nhận giáo lý, và cũng tùy thuộc Saint Germain ấn định giáo lý nào được trao truyền vì Saint Germain là vị lãnh đạo chính của thời Bảo bình.

7.7. Con đường dẫn tới quả vị Ki-tô không máy móc

Trở lại ý ban đầu của thày, có thể nào các thày, ngay cả vào thời nay khi các thày có một sứ giả được bảo trợ, trao truyền một con đường khai ngộ, một giáo lý có hệ thống phác họa những thực hành, khai ngộ và bước tiến đầy đủ đến độ bất cứ ai chân thành theo đuổi và thực hành sẽ chắc chắn đạt được tâm thức Ki-tô? Ngay cả trong trường hợp không có nhiễu sóng hay giới hạn từ tâm thức tập thể, ngay cả nếu các thày có các điều kiện có thể gọi là “lý tưởng” (tuy các điều kiện lý tưởng này thật sự vô nghĩa và không thể quy định), thì các thày cũng không thể vạch ra một con đường tu có thể bảo đảm kết quả. Lý do, con yêu dấu, là vì con đường quả vị Ki-tô không máy móc, không tự động. Có thể có văn bản tự động, nhưng không có quả vị Ki-tô tự động.

Con yêu dấu, ngay từ khi các thày bắt đầu trao truyền giáo lý về một con đường khai ngộ thì sa nhân đã tìm cách tha hóa nó. Họ đã làm được chuyện này phần lớn nhờ những gì họ đã tạo ra trong thời Song ngư. Nếu con nhìn vào những gì sa nhân đã làm khi giáo hội Công giáo được thành lập, thì con thấy là họ chối bỏ con đường dẫn tới quả vị Ki-tô, nhưng họ cũng biết là họ cần cho con người cái gì đó để thay thế. Nói cách khác, họ biết là họ không thể khiến mọi người chối bỏ Thượng đế hay chối bỏ là cuộc sống có một khía cạnh tâm linh. Họ đã tìm cách làm chuyện này, như thày sẽ giải thích ở phần sau, nhưng điều họ bắt đầu với giáo hội Công giáo là họ nhận ra rằng: “Có một số người tin vào một hình thức nào đó của Thượng đế, cõi tâm linh và đời sống sau cuộc sống trần thế. Chúng ta không thể phá hủy những niềm tin này trong ngắn hạn, do đó chúng ta phải cho họ cái gì khác.” Điều sa nhân đã cho con người (chính yếu) là một con đường cứu rỗi máy móc, tự động.

Cơ đốc giáo là gì? Nó là hứa hẹn con được cứu rỗi một cách bảo đảm, tự động, nếu con tuân theo một số luật lệ vỏ ngoài do giáo hội vỏ ngoài đặt ra. Con thấy chăng, họ bỏ đi con đường nội tâm chân thật dẫn tới quả vị Ki-tô, và thay vào đó họ cho con người một cứu rỗi vỏ ngoài, máy móc, tự động. Chuyện gì đã xảy ra khi các thày bắt đầu trao truyền giáo lý về một con đường khai ngộ? Nhiều người đã diễn giải theo những gì họ được lập trình để nghĩ trong thời Song ngư, là nếu họ theo con đường khai ngộ đó một cách nghiêm túc, thì họ sẽ bảo đảm đạt được kết quả. Thí dụ, ngày hôm nay có những người trong hội Freemasons tin rằng nếu họ theo đủ 33 bước do tổ chức ấn định thì họ sẽ đạt được một tầng tâm thức cao hơn. Con thấy chăng, con yêu dấu, sự thực là tuy một con đường tu có mục đích dẫn con tới một tầng tâm thức cao hơn, nhưng thi hành các bước khai ngộ vỏ ngoài không đồng nghĩa với đạt được một tầng tâm thức cao hơn.

Con yêu dấu, con hãy lắng nghe thật, thật kỹ những gì thày đang nói, vì thày đang trao cho các con chìa khóa cơ yếu để các con hiểu thế nào là Ki-tô Hằng sống đang hành động. Con không thể quy định Ki-tô Hằng sống phải cư xử hay không được cư xử như thế nào. Con không thể chế ra một định nghĩa nói rằng: “Ki-tô Hằng sống như thế này, đây là những điều mà Ki-tô Hằng sống làm, và đây là những điều mà Ki-tô Hằng sống không làm.”

Lẽ tất nhiên, con có thể định một số điều. Ki-tô Hằng sống sẽ không đi bắn giết người khác, nếu ta muốn nói một cách quá đáng. Có một số chuyện mà Ki-tô Hằng sống sẽ không làm vì Ki-tô Hằng sống không hành động do lòng ích kỷ, sợ hãi hay để chứng minh bất cứ điều gì. Nhưng con không thể chế ra một định nghĩa là Ki-tô Hằng sống phải hành động chính xác ra sao. Đó là lý do vì sao con không thể vạch ra một con đường tu đưa con tới quả vị Ki-tô một cách máy móc, tự động.

Trở lại khái niệm khoảng cách mà thày đã nêu lên, điều thày muốn nói ở đây là: Tại sao Giê-su đã không viết ra giáo lý? Bởi vì nếu Giê-su viết ra giáo lý của thày, thì con người sẽ dùng quyển kinh đó để định ra một con đường vỏ ngoài, máy móc, tự động dẫn tới quả vị Ki-tô. Nói cách khác, họ sẽ nghĩ là họ có thể dùng giáo lý đó (được mệnh danh là giáo lý chính thức của Giê-su) để định ra một con đường máy móc. Sa nhân thể nào cũng đã làm như vậy ngay từ đầu, vì có nhiều người, đặc biệt vào thời đó, chấp nhận chuyện này. Thí dụ, người Do thái chấp nhận ý niệm là muốn được cứu rỗi thì con phải rửa sạch tội lỗi, và con làm việc này bằng cách dùng máu của các con vật tế thần. Ấy, còn gì máy móc hơn thế!

Con thấy là ngay thời nay, người Do thái vẫn theo một số quy luật hành xử vỏ ngoài. Con thấy là con người luôn luôn có khuynh hướng tìm một con đường tu máy móc, và tại sao vậy? Vì họ không muốn làm điều mà Giê-su đã dạy họ: Hãy nhìn vào cái đà trong mắt mình thay vì nhìn vào cái giằm trong con mắt người anh em.

7.8. Hãy ngưng phóng chiếu vấn đề ra bên ngoài mình

Đâu là cách khác để mô tả khai ngộ cốt yếu của thời Song ngư? Đó là câu nói con người cần ngưng nhìn vào cái giằm trong con mắt người anh em và thay vào đó bắt đầu nhìn vào cái đà trong mắt mình. Nói cách khác, con người cần ngưng phóng chiếu là vấn đề ở ngoài kia, và nguyên do đau khổ của họ là điều kiện bên ngoài. Thay vào đó, họ cần nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời họ, nhìn vào phản ứng của họ, nhận ra là các phản ứng đó phát xuất từ một cấu trúc nào đó trong tâm lý của họ, và mạnh dạn tiếp tục công việc quán sát nội tâm, một cách hoàn toàn chân thành, cho đến khi họ thấy điều đang giới hạn họ và do đó có thể buông bỏ nó.

Có những người đã làm được chuyện này trong thời Song ngư. Một số đã lớn lên trong một môi trường Cơ đốc giáo và đã học các kinh sách đầy thiếu sót về Giê-su nhưng tuy thế vẫn hiểu được nhu cầu nhìn vào chính mình, nhìn vào tâm thức của mình. Đâu là thay đổi cốt yếu, quyết định cần xảy ra để đạt được các khai ngộ của thời Song ngư? Đó là con phải ngưng phóng chiếu ra ngoài. Con cần nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời của mình và đi vào bên trong.

Giê-su đã đạt quả vị Ki-tô như thế nào? À, điều này tất nhiên không được mô tả trong kinh sách, nhưng Giê-su đã trải qua một tiến trình. Nếu con đọc kỹ thì con có thể thấy một vài gợi ý, tỷ dụ như khi ở bữa tiệc cưới ở Cana, Mẹ Mary đã phải đốc thúc để Giê-su bước ra và bắt đầu sứ vụ công chúng của thày. Con có thể thấy là Giê-su đã rút lui vào nơi hoang vắng trong 40 ngày, và đó là một giai đoạn tự quán sát cao độ. Tất nhiên con cũng biết, từ các giáo lý mà các thày đã trao truyền, là Giê-su đã du hành về phương đông và đã trải qua ở các nơi đó một số hình thức khai ngộ, đã theo một con đường tu. Điều đầu tiên mà Giê-su đã làm (và điều này Giê-su khó diễn tả vào thời đó vì con người không có hiểu biết về tâm lý), là quan sát chính mình, các phản ứng của mình, liên tục nhìn vào nội tâm, nhìn vào tâm lý của mình và nhận ra các giới hạn.

Con yêu dấu, thày có nói là các thày không thể vạch ra một giáo lý bảo đảm kết quả, và sẽ luôn luôn có một khoảng cách. Khoảng cách đó là gì? Đó là: hoặc con người sẽ tiếp cận giáo lý một cách máy móc và muốn theo nó như một con đường vỏ ngoài, hoặc họ sẽ bước lên một mức cao hơn, nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời của mình và dùng giáo lý để quan sát chính mình và các phản ứng của mình. Một vị thày có thể nào ép buộc đệ tử thực hành tự quán sát chăng? Không, không thể được. Một vị thày tâm linh, và đặc biệt các chân sư thăng thiên, tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết. Các thày không thể và không muốn ép buộc đệ tử. Các thày có thể trao truyền giáo lý, các thày có thể gợi ý. Nếu con xem lại các đợt truyền giáo trước thì con sẽ tìm thấy các gợi ý này, nhưng nhiều người lúc đó đã không thấy được các gợi ý đó.

7.9. Khoảng cách trong tâm con người

Các thày hiểu rất rõ, con yêu dấu, là khi con nhìn lại tổ chức Summit Lighthouse, phong trào TA LÀ (I AM Movement), hội Thông thiên học (Theosophy) và các tổ chức khác mà các thày đã bảo trợ hay đã góp tay vào (và có nhiều tổ chức khác), thì các thày hiểu rất rõ là có một khoảng cách trong tâm các người đệ tử. Họ mong muốn đón nhận giáo lý. Họ mong muốn tìm hiểu giáo lý. Họ mong muốn thực tập những thực tập mà các thày trao truyền. Một số rất hăng hái và trở nên rất nhiệt thành, rất triệt để trong việc thực hành. Tuy nhiên, đọc cầu thỉnh ngọn lửa tím trong mười tiếng đồng hồ làm sao có thể giúp con thực tập tự quán sát, nếu con nghĩ tất cả những gì con cần là thực tập vỏ ngoài?

Nói cách khác, con có thể lấy giáo lý, làm những thực tập mà các thày đã trao truyền nhưng vẫn phóng chiếu ra bên ngoài, vẫn nghĩ con đường tu là con đường vỏ ngoài, thậm chí còn xây dựng trong tâm niềm tin rằng: “Tôi thật sự không cần xem xét chính mình. Tôi chỉ cần cầu thỉnh đủ ngọn lửa tím.” Hoặc con cũng có thể dần dần xây dựng một niềm tin còn nguy hại hơn nữa, là điều mà nhiều đệ tử Summit Lighthouse đã làm.

Con thấy chăng, con yêu dấu, là con gặp một giáo lý – mà thày thẳng thắn nhìn nhận là các thày đã phần nào chế dầu vào lửa. Giê-su trước đây đã đưa ra hình ảnh là các thày giống như những người bán xe cũ dùng chiến thuật bán hàng gọi là “nhử hàng thấp, mời hàng cao”.  Các thày phải trao truyền một giáo lý vỏ ngoài hấp dẫn đủ để con người có thể chấp nhận và xử lý, và là điều họ cần ở trình độ tâm thức hiện tại của họ. Sau đó, các thày phải hy vọng là một khi họ đã đến với giáo lý, thì họ sẽ sẵn sàng bước lên cao hơn tầng tâm thức đó và nhận lãnh một hiểu biết sâu sắc hơn của giáo lý.

7.10. Mạn đà la của thời Song ngư

Con người cần gì vào lúc đó? À, đây là điểm con cần xem xét những người thuộc vào mạn đà la nguyên thủy ở đầu thời Song ngư. Những dòng sống đó tất nhiên chưa biểu hiện quả vị Ki-tô nhưng họ có tiềm năng biểu hiện quả vị Ki-tô. Đó là một tiềm năng – họ chưa đạt được quả vị Ki-tô. Trong suốt thời Song ngư, các dòng sống này đã đầu thai, đa số hầu như liên tục, trong nhiều bối cảnh khác nhau. Vì những người này đã đạt một trình độ nào đó ở đầu thời Song ngư, nên mỗi lần đầu thai họ đều có cảm nhận họ phải làm điều gì, họ phải thành tựu điều gì, họ phải tìm ra điều gì. Họ cần tìm ra con đường tu, họ cần phải tiến triển trên con đường đó. Nói chung thì họ đầu thai với cảm nhận đó. Trong số đó, những người đã tìm ra con đường nội tâm thì không có cảm tưởng thiếu vắng to lớn.

Những người này theo con đường nội tâm, nhưng có một số khác không thể (hay đúng ra thày phải nói là họ không muốn) khám phá con đường nội tâm, áp dụng con đường nội tâm, nhìn nhận con đường nội tâm. Qua những kiếp đầu thai trong thời Song ngư, họ càng ngày càng có cảm giác bực bội vì họ biết họ chưa đạt được những gì họ cần đạt. Đồng thời, con yêu dấu, họ bắt đầu nhận ra là họ quả thực có một tâm thức cao hơn nhiều người chung quanh họ. Một số trong họ nhận ra điều này ngay từ lúc đầu và tiếp tục mang theo cảm nhận này.

Cảm giác bực bội vì có hiểu biết nội tại là mình chưa đạt được những tiến bộ mà mình cần đạt, phối hợp với hiểu biết hay quan sát là mình vẫn tiến bộ hơn những người chung quanh, tạo ra nơi những người đệ tử đó một cảm nhận, một nhu cầu về hai chuyện: thứ nhất là họ cần được chứng thực là họ có trình độ cao hơn những người khác. Thứ hai, họ cần cảm thấy họ đang làm chuyện gì quan trọng trên hành tinh này. Một lần nữa, thày không chê trách ai, thày không chỉ trích ai. Thày chỉ đang giản dị mô tả cơ chế trong tâm các đệ tử đó.

Khi các thày thành lập tổ chức Summit Lighthouse, các thày biết các đệ tử đó có những nhu cầu đó, và các thày đã trao truyền một số giáo lý đáp ứng những nhu cầu đó. Đó là lý do vì sao đã có một số lời tuyên bố khiến các đệ tử tin rằng sẽ có một tiết lộ tuyệt đối, chung cuộc, và đó sẽ là giáo lý chính cho 2000 năm sau đó, và điều này có nghĩa là họ chắc chắn là những đệ tử rất cao cấp vì họ đã nhận diện được giáo lý.

Một số đệ tử trong đó quả thật có trình độ cao hơn đa số dân chúng trên trái đất, nhưng thực sự thì đây không phải là một chuẩn mực so sánh ở mức cao và do đó không phải là lý do để có niềm kiêu hãnh tâm linh. Lẽ tất nhiên, niềm kiêu hãnh tâm linh không nề hà chuẩn mực so sánh ở tầng cấp nào, vì điều quan trọng cho nó chỉ là: “Tôi có trình độ cao hơn người khác chăng?” Con có thể thấy điều này ở khắp nơi trên thế giới: con người tìm ra đủ cách để cảm thấy hơn người khác dựa trên một số tiêu chuẩn nhân tạo.

7.11. Nhu cầu làm một việc gì quan trọng

Nhu cầu thứ hai của các đệ tử đó là cảm giác họ đang làm việc gì quan trọng. Các thày đáp ứng nhu cầu này bằng các bài chú và bằng cách hướng đệ tử đọc chú giải quyết những vấn nạn thế giới. Tới đây, các con hãy thận trọng: các bài chú có hiệu quả, không thể chối cãi điều này được. Không thể chối cãi là các đệ tử Summit Lighthouse đã có tầm ảnh hưởng quan trọng cơ yếu trên hành tinh và sự tiến triển của hành tinh. Thày hoàn toàn không có ý giảm danh dự hay hạ thấp tầm quan trọng của công việc đã được hoàn thành.

Như vậy con cũng có thể hiểu là thành quả này đã nuôi dưỡng (nếu họ đọc được hay nghe được những lời này) cảm giác là họ rất quan trọng. Bất cứ những gì các thày nói thì con người luôn luôn có thể diễn giải lệch hướng, đây là một rủi ro mà các thày phải chấp nhận. Tuy nhiên, có nhiều người không thuộc mạn đà la nguyên thủy đã tới Summit Lighthouse và đọc cầu chú, và đây là một phụng sự tuyệt vời. Nhưng với những người thuộc mạn đà la nguyên thủy thì có một số đã tiếp thu được giáo lý và thực tập của Summit Lighthouse và đã nhảy vọt, thu hẹp khoảng cách và bước vào con đường nội tâm. Một số đã làm được việc này nhưng một số khác không làm được.

Những người này đã dùng giáo lý của Summit Lighthouse để củng cố điều mà Giê-su và Quan âm đã giảng: Xuất phát từ ngã gốc, con đã tạo ra một cái ngã khác muốn cảm thấy, không những là nó hiểu cách vận hành của vũ trụ, nhưng nó được an toàn và an ninh. Đã có đệ tử ở Summit Lighthouse đã dùng giáo lý của các thày để củng cố cái ngã đó.  

Tuy nhiên, những đệ tử đó cũng giáp mặt một khai ngộ mà đa số không nhận ra. Con thấy chăng, con yêu dấu, trong Summit Lighthouse có ý tưởng là con có thể trượt một khai ngộ và điều này có hậu quả rất tai hại – ý tưởng này thực ra có giá trị phần nào. Thày không nói là các con, hiện đang trong một đợt truyền giáo khác, cần quá chú tâm vào việc này, nhưng con được lợi ích nếu con hiểu vấn đề này.

Như thày có nói, thực tế là có một mạn đà la gồm một số dòng sống ở đầu thời Song ngư có tiềm năng đẩy mạnh sự tăng trưởng tâm thức tập thể, nhưng với điều kiện các dòng sống đó đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Nếu họ không đạt được các khai ngộ này, thì họ sẽ gặp một số vấn đề ở cuối thời Song ngư.

Con cần nhận ra là khi các thày thành lập một tổ chức nhằm giúp các đệ tử chưa đạt được các khai ngộ của một thời đại nào đó, thì các thày phải chấp nhận một số rủi ro. Rủi ro đó là các thày đặt các đệ tử đó trước tình trạng ăn-cả-hay-về-không. Con hiểu rằng trong 2000 năm thời Song ngư, các đệ tử đó đã có thời gian. Nếu trong một kiếp đầu thai con không đạt được khai ngộ, thì con có cơ hội đạt được trong kiếp tới. Nhưng nay con tới đoạn cuối của thời Song ngư. Lúc đó, con có một nhóm đệ tử đang sống kiếp cuối của họ trong thời Song ngư. Nếu họ không đạt được khai ngộ trong kiếp sống đó thì họ khó có thể đầu thai trở lại trong thời Bảo bình. Đây không phải là trường hợp của tất cả mọi người trên trái đất nhưng đó là trường hợp của các thành viên của mạn đà la nguyên thủy. Họ đã có cơ hội biểu hiện quả vị Ki-tô trong thời Song ngư nhưng nếu họ không làm được việc này thì họ sẽ khó có thể đầu thai vào thời Bảo bình.

Đây không phải là một tai họa, vì nếu họ không đầu thai được trên trái đất thì chắc chắn có một số hành tinh khác có thể đón nhận họ. Nhưng điều tốt hơn, vì một số lý do, là các đệ tử này ít nhất tới được điểm họ quân bình đủ nghiệp quả để không cần đầu thai trở lại. 

Các thày đã trao truyền một số khuôn đúc và rải truyền Ánh sáng xuyên qua tổ chức Summit Lighthouse với mục đích giúp các đệ tử đó quán triệt khai ngộ của thời Song ngư. Nói cách khác, để giúp họ thu hẹp khoảng cách, bước vào con đường nội tâm và qua đó đạt được khai ngộ của thời Song ngư. Thày sẽ nêu lên một cái nhìn vi tế hơn về việc này.

7.12. Tiềm năng cao và thấp của thời Song ngư

Tiềm năng cao nhất của thời Song ngư là con biểu hiện quả vị Ki-tô, nhưng bao giờ cũng có một tiềm năng cao và một tiềm năng thấp. Tiềm năng thấp nhất là con vững chắc bước vào con đường nội tâm. Con có thể nói là với các dòng sống thuộc mạn đà la nguyên thủy, giá chót là vào cuối thời Song ngư họ đã bước vào con đường nội tâm. Nếu họ không làm được việc này thì họ sẽ khó đầu thai vào thời Bảo bình. Đó là điều các thày muốn làm: giúp họ tới được điểm đó.

Tổ chức Summit Lighthouse đưa ra một số khai ngộ cốt yếu mà ta có thể nói đã đặt các đệ tử đó trước tình trạng ăn-cả-hay-về-không. Hoặc các đệ tử đó đạt được khai ngộ hoặc họ không đạt được, không có gì ở giữa. Nếu họ không bước vào con đường nội tâm, thì họ trượt. Nếu họ không biểu hiện quả vị Ki-tô nhưng bước vào con đường nội tâm, thì họ có thể tiếp tục tiến triển. Họ sẽ không hoàn thành được tiềm năng cao nhất của họ, nhưng họ có thể tiến lên. Ngược lại, nếu họ không đạt được khai ngộ của chu kỳ Song ngư thì họ sẽ không thể đầu thai trở lại trên trái đất, ít nhất là trong một khoảng thời gian.

Các thày đã quan sát được gì nơi các đệ tử? Ấy, nhiều đệ tử đã đạt được các khai ngộ và đã ít nhất bước vào con đường nội tâm. Điều này có nghĩa là mục tiêu của Summit Lighthouse đã thật sự được hoàn thành. Các thày đã thành công trong việc giúp một số lượng tới hạn đệ tử thuộc mạn đà la nguyên thủy đạt được các khai ngộ thấp nhất của thời Song ngư và bước vào con đường nội tâm. Với kết quả này, các thày có thể nói là mục tiêu đã được hoàn thành nhưng tiềm năng cao nhất không được hoàn thành vì đã không có nhiều đệ tử đạt được quả vị Ki-tô hay dám biểu hiện quả vị Ki-tô.

Điều đáng chú ý mà thày sẽ trình bày ở đây, là tại sao chuyện này đã không xảy ra. Thày đã trao cho các con chìa khóa để tìm ra giải đáp. Đó là vì tại Summit Lighthouse vẫn còn quá nhiều đệ tử coi quả vị Ki-tô như một con đường vỏ ngoài, như một con đường máy móc: nếu con đọc đủ số bài chú, thì con không thực sự cần xem xét tâm lý của mình.

Các thày có trao truyền giáo lý về nhu cầu giải quyết tâm lý, tuy các thày không thể giảng ở trình độ mà các thày đang giảng hiện nay. Các giáo lý đã được trao truyền lúc đó, cũng như là các dụng cụ tâm linh. Các thày có trao truyền giáo lý, có khi ẩn dụ, về con đường nội tâm. Các đệ tử có thể tìm ra những điều họ cần nếu họ chịu tìm, nhưng có một nhóm đệ tử không chịu tìm. Điều này bắt nguồn từ điều thày đã giảng, là các đệ tử thời Song ngư này đã xây dựng cảm giác bực bội kèm theo cảm giác tự cao.

7.13. Phán xét người khác

Khi cảm giác bực bội nội tâm (do không biết mình đang ở đâu hay biết mình đang không ở nơi mình đáng lẽ phải ở) phối hợp với ước muốn được cao cấp hơn người khác khiến các đệ tử đó có một trạng thái tâm đặc biệt. Đó chính thực là trạng thái tâm của các thày thông giáo (scribe) và pha-ri-si (pharisee) thời Giê-su, mà Giê-su đã nhiều lần thách thức.

Đây là trạng thái tâm rất phán xét người khác dựa trên một cấu trúc vỏ ngoài gồm một số quy luật và luật lệ, thậm chí gồm cả khái niệm con đường khai ngộ, các khai ngộ cốt yếu mà đệ tử cần đạt được, và hình ảnh về cách một đệ tử chân sư thăng thiên phải đi đứng, hành xử và hành động. Các người đệ tử đó muốn tin rằng, khi họ tuân theo các quy luật vỏ ngoài và nghi thức một cách sùng kính, ta cũng có thể nói là một cách cuồng tín, hay như đang bị bệnh loạn thần ám ảnh và cưỡng bức (obsessive-compulsive) (là một câu nói thời thượng của thời nay), thì họ sẽ tự động đạt được tiến bộ.

Giờ đây, con có một nhóm đệ tử gia nhập tổ chức Summit Lighthouse, nhiều người ở tuổi tương đối trẻ. Họ quyết định trở thành nhân viên và làm việc cho tổ chức, họ có thể là nhân viên trong nhiều năm, chăm chỉ làm theo những gì họ được dạy, và thực hành các nghi thức vỏ ngoài. Họ dần dần xây dựng ý tưởng là vì họ đã làm tất cả các công việc vỏ ngoài đó, thì họ phải đạt được một cấp bậc uy quyền nào đó. Do đó, họ phải có khả năng phán xét người khác và có uy quyền để nói lên sự phán xét đó.

7.14. Đệ tử mà El Morya mất

Con yêu dấu, thày không thể nói hay làm gì được để giúp các đệ tử đó. Như một chân sư thăng thiên đã bỏ vào rất nhiều thành quả tâm linh của mình vào việc bảo trợ tổ chức đó, thày phải nhìn nhận một cách thành thực và thẳng thắn là thày đã mất các đệ tử đó. Mặc dù thày đã nỗ lực bảo trợ tổ chức và trao truyền giáo lý, thày đã mất các đệ tử đó. Thày không thể giúp họ. Thày không nói điều này với lòng hối tiếc, nhưng nói lên điều này trong cõi vật lý là một chuyện quan trọng vì một số lý do. Thày đơn giản chấp nhận sự trải bày của luật tự quyết. Thày chấp nhận là thày, như vị chân sư bảo trợ tổ chức, đã không giúp được các đệ tử đó. Thày không nhìn vào chính mình và nói là thày đã thất bại theo nghĩa thày đã không đủ khả năng hay thày đã có thể làm một cách nào khác, thày chỉ giản dị nêu lên sự kiện, thày chỉ nhận xét như vậy. Thày không có gì để nói với hay nói về các đệ tử này – họ đằng nào cũng không muốn nghe. Thày muốn mô tả sự việc này cho những ai mở tâm đón nhận vì chuyện quan trọng là con xem xét việc này. Con có thể nhìn vào thời Song ngư và thấy biết bao tổ chức tôn giáo hay tâm linh, cũng như là các tổ chức chính trị, có mô thức phán xét người khác dựa trên một số tiêu chuẩn vỏ ngoài được quy định trên trái đất. Như các thày đã nhiều lần thuyết giảng trong nhiều bài về tâm thức nhị nguyên và sa nhân, các tiêu chuẩn này tất nhiên do sa nhân quy định.

7.15. Bước vào con đường nội tâm

Điểm quan trọng mà con cần rút tỉa là con đường quả vị Ki-tô không máy móc. Điều quan trọng không phải là học một số giáo lý, thực hành một số thực tập, đạt được một số khai ngộ – điều quan trọng là bước vào con đường nội tâm.  Một khi con đã bước vào con đường nội tâm, thì con vượt lên trên ý niệm có thể trượt thử thách. Nếu con quan sát phản ứng của mình, thì con không thể trượt thử thách. Con có thể chưa thấy một số chuyện, nhưng đó là chuyện con chưa thấy. Nếu con sẵn lòng quan sát chính mình thì con đã đi trên con đường nội tâm, và vấn đề chỉ là con tiến triển bao nhiêu và đi nhanh chừng nào. Có khi con tiến triển nhanh hơn và có lúc khác con cần thì giờ để giải quyết một vấn đề.

Chắc chắn là với giáo lý mà các con đã nhận được về ngã gốc thì con có tiềm năng tiến triển rất nhanh và tới điểm con không những đi vào con đường nội tâm mà còn được giải thoát khỏi cái ngã phản ứng. Lẽ tất nhiên, đây là điều kiện chính yếu để đi vào con đường nội tâm dẫn tới quả vị Ki-tô hay để là Ki-tô Hằng sống, tức là con không phản ứng lại những chuyện xảy ra trên thế gian.

Con có thể nhìn vào tất cả các tổ chức đó và thấy khuynh hướng phán xét, khuynh hướng phán xét người khác. Con hãy nhìn vào khu vực này của thế giới và thấy rằng trong thời chế độ Sô viết, nhiều người dân Liên bang Sô viết tin rằng, vì họ là công dân Liên bang Sô viết, nên họ hơn những người bên ngoài Liên bang Sô viết. Họ rất khinh chê xã hội Tây phương mà họ coi là đồi trụy, hay bất cứ điều gì khác. Con hãy nhìn xem có biết bao nhiêu người ngày nay có thái độ phán xét. Nhiều người dân Hoa kỳ tin rằng Hoa kỳ là quốc gia cao quý nhất thế giới và nhìn các nước khác với con mắt đầy phán xét, và quên nhìn cái đà trong con mắt của tâm hồn dân tộc Mỹ. Con có thể thấy rất, rất nhiều thí dụ tương tự trên khắp thế giới. Con hãy nhìn thời đầu thế kỷ trước, ý niệm hơn người của người dân các nước Đức, Pháp, Anh đã đưa tới Thế chiến Thứ nhất và sau đó Thế chiến Thứ hai. Tinh thần này đã có thể đưa tới Thế chiến Thứ ba nếu các thày không thành công trong việc đưa ra một số biện pháp vá víu, kể cả số lượng lớn các bài chú đã được đọc tại Summit Lighthouse.

7.16. Cái ngã đối phó với việc bị phán xét

Những người trong các con đang hay đã từng biết và tham gia vào Summit Lighthouse, và sẵn sàng mở tâm đón nhận bài giảng này của thày, thì có thể dùng bài này như một phương tiện để làm hòa với kinh nghiệm của mình với tổ chức đó. Một số trong các con có vết thương tâm lý từ thời sinh hoạt trong Summit Lighthouse, trước nhất là vì đã giáp mặt một số người có tâm rất phán xét. Như thày có từng nói hồi thời Summit Lighthouse, có một số đệ tử mà các thày không dám đưa vào tổ chức đó. Lý do chính yếu là vì đây là những linh hồn ngây thơ và các thày không muốn họ giáp mặt tâm thức rất phán xét chi phối tổ chức đó và vẫn còn ảnh hưởng nó ngày nay.

Sau đó, con yêu dấu, con có thể dùng bài giảng này để nhận ra, như vị sứ giả này đã nhận ra trước khi nhận bài truyền đọc này, là để đối phó với tâm thức đó (không những trong Summit Lighthouse nhưng từ sa nhân nói chung và từ các tổ chức mà con đã tham gia trong thời Song ngư, tỷ dụ như Giáo hội Công giáo) con đã tạo ra một cái ngã để đối phó với sự phán xét của người khác, sự lên án của người khác. Chuyện rất quan trọng cho con là con tới điểm nhận diện cái ngã đó, con thấy là nó có trong tâm thức của con, và ở mỗi người nó mỗi khác.

Con cần tự đặt câu hỏi: “Khi một người phán xét tôi, kết tội tôi, và tố cáo là tôi đã làm điều gì sai, thì tôi đối phó với chuyện này như thế nào? Tôi cảm thấy gì? Cảm xúc của tôi là gì? Niềm tin đằng sau là gì?” Sau đó, con có thể dõi lên thể bản sắc và thấy là nó phát xuất từ ngã gốc như thế nào, và con phản ứng ra sao khi sa nhân chê bai con. Điều này sẽ giúp con nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó, nhìn vào nó, và thấy là bất kể vấn đề nào mà ngã đó nêu lên là con cần giải quyết, hay bất kể điều kiện nào mà con cần hội đủ để tránh bị phán xét, chúng đều không thật, đều là ảo tưởng. Ngay cả khi con hội đủ điều kiện, sa nhân sẽ vẫn tiếp tục kết tội con, họ sẽ luôn luôn kết tội con. Một khi con nhận ra điều này, con có thể đi một bước rất, rất quan trọng và không coi cá nhân mình là trọng điểm của con đường tu. Các thày đã giảng điều này trước đây nhưng thày muốn cho con một tầm nhìn khác về vấn đề này.

7.17. Không coi cá nhân mình là trọng điểm của đường tu

Con yêu dấu, con hãy xem xét trường hợp một avatar đã sống lâu năm trên một hành tinh tự nhiên nơi không có sa nhân. Con chưa bao giờ giáp mặt với sự kết tội đó, chưa bao giờ, trên một hành tinh tự nhiên. Giờ đây, con tới trái đất, và có thể là trong kiếp đầu thai đầu, con giáp mặt sự tấn công trực tiếp và mạnh mẽ của sự kết tội của sa nhân. Chuyện gì đã thực sự xảy ra trong tiến trình đó? Ấy, khi con ở trên hành tinh tự nhiên con ở trong trạng thái tâm mà các thày, khi so sánh với chuyện con trải nghiệm trên trái đất, có thể gọi là “không coi cá nhân mình là trọng tâm”.

Con không quá chú tâm vào chính mình, con chú tâm là một phần của tổng thể, đang làm việc cho tổng thể, đang làm việc để nâng cao tổng thể. Đây là trạng thái tâm tự nhiên trên một hành tinh tự nhiên. Giờ đây, con xuống trái đất với ý định làm việc cho tổng thể và nâng cao tổng thể. Con đã quen là khi con làm như vậy thì con nhận được một phản hồi tích cực. Ít ra thì con không bị chê bai khi làm vậy. Bỗng nhiên, con trải nghiệm là sa nhân tố cáo, tấn công, lên án, phán xét, chê bai con. Con bị một cú sốc và nghĩ: “Ồ, họ đang làm các chuyện này đối với tôi. Họ nói là tôi có điều gì sai trái. Tôi chưa bao giờ trải nghiệm chuyện này. Vì sao họ lại nói là tôi có điều gì sai trái? Tôi tới đây với thiện ý tốt nhất. Tôi chỉ muốn tới đây để giúp tổng thể nhưng họ lại nó là tôi sai trái, tôi có điều gì sai trái?”

Bỗng nhiên, lần đầu tiên trong đời, con phải đối mặt với câu hỏi này. Vì con là một dòng sống có thói quen nhìn vào chính mình và xem xét phản ứng của mình, nên con không quen kết tội và bị kết tội. Con xem xét chính mình, lẽ tự nhiên con xem xét chính mình và nói: “Nhưng, có thể nào họ có lý chăng? Tôi đã làm gì sai trái trên hành tinh này chăng?” Bỗng nhiên, con bị phóng vào mối nghi ngờ và con bị ép buộc phải phản ứng. Lúc đó con làm gì? Các thày có giảng là con tạo ra một cái ngã, đó là ngã gốc.

Đúng vậy, nhưng ngã gốc là gì? Nó là một ngã đặt trong tâm vào cá nhân mình. Bỗng nhiên, từ không đặt trọng tâm vào cá nhân mình trên hành tinh tự nhiên, con tới trái đất, con trải qua một chấn thương, và nay con nhìn cuộc đời của mình trên trái đất qua một ngã một cách rất cá nhân. Trên một hành tinh tự nhiên, ý niệm bản ngã của con rất bao la, nhưng trên một hành tinh phi tự nhiên con bị dồn vào một ý niệm bản ngã rất hạn hẹp coi mình là trung tâm của vũ trụ cá nhân của mình. Giống như là con nhìn mọi chuyện từ trung tâm điểm đó, con từ trung tâm điểm đó nhìn ra bên ngoài. Bỗng nhiên, mọi chuyện trở nên cá nhân trên hành tinh này. Bỗng nhiên, con nghĩ là có thể con đã thất bại, có thể con đã làm điều gì sai trái trên hành tinh này. Ngã gốc được tạo dựng chung quanh nỗi sợ thất bại, và đó là lý do vì sao con coi cá nhân mình là trọng tâm khi tiếp giáp mọi sự việc.

Các thày đã cố gắng giảng cho các con là hành tinh này là một hành tinh phi tự nhiên, nơi đây không có gì thường hằng, mọi chuyện như là kết quả của cuộc chơi trong bãi cát. Các thày đã trao truyền các giáo lý đó, nhưng các thày cũng biết các thày đối mặt với tình trạng mà các thày luôn luôn phải đối mặt, đó là khoảng cách. Khi con chưa nhìn ra và giải quyết ngã gốc, thì con không thể ngưng coi cá nhân mình là trọng tâm của cuộc đời mình trên trái đất. Con không thể nhìn vào cuộc đời trên trái đất và nói: “Ấy, tôi sẽ chỉ cần xây một lâu đài cát khác, hay tôi sẽ chỉ phá lâu đài cát cũ và bãi cát sẽ trở về trạng thái tinh khôi của nó.” Cũng giống như dùng gậy đánh vào mặt nước. Con có đánh mạnh đến đâu, thì mặt nước sẽ vẫn trở về trạng thái tĩnh lặng.

Con yêu dấu, chúng ta đang bước vào thời Bảo bình. Con hãy giống như nước nếu con muốn đạt được các khai ngộ của thời Bảo bình. Con thấy chăng, con yêu dấu, khi con nhìn vào ngã đó và xem xét cách con phản ứng lại sự phán xét, và sau đó cho ngã đó chết đi, thì bỗng nhiên cuộc đời không còn xoay quanh cá nhân con nữa. Không có lý do nào để phán xét chính mình vì con nhận ra là các thày không phán xét con. Các thày có thể nói là các thày không phán xét con, nhưng khi con còn cái ngã đó, thì con không thể thực sự hiểu thấu lời giảng của các thày. Chắc chắn là con không thể chấp nhận nó. Khi con đã giải thoát khỏi ngã đó, thì con có thể trải nghiệm điều Giê-su đã trao truyền ngày hôm qua: sự chấp nhận vô điều kiện mà các thày dành cho con.

7.18. Kẻ mạo danh El Morya do đệ tử tạo ra

Con yêu dấu, vì sao thày lại có ý đổi tên mình? Bởi vì trong Summit Lighthouse, các đệ tử đã tạo dựng hình ảnh El Morya như một người trọng kỷ luật khắt khe. Có một số đệ tử thực sự tin rằng họ đã đạt được tới trình độ khiến họ có thể, thậm chí có bổn phận, “rọi ánh sáng xanh” vào các đệ tử khác (như lời họ nói) bằng cách cho các đệ tử này biết El Morya sẽ nói gì về tự ngã, hay kẻ đứng trên ngưỡng cửa, của họ. Họ dung dưỡng hình ảnh là thày là một người trọng kỷ luật khe khắt và đặt ra rất nhiều điều kiện mà các đệ tử phải hội đủ.

Hình ảnh này trở nên quá đậm nét nên thày quyết định là thày muốn làm hai chuyện. Hoặc thày lay động các đệ tử có hình ảnh này để họ có thể bắt đầu thoát khỏi hình ảnh đó. Hoặc thày thu hút đệ tử mới biết thày với một tên mới (Chân sư MORE) và do đó không cần phải đi vào khuôn đúc cũ vẫn còn đó. Điều thực sự xảy ra là các đệ tử tại Summit Lighthouse đã tạo ra một El Morya giả, một người mạo danh El Morya, như một người trọng kỷ luật đầy lòng phán xét. Họ vẫn còn duy trì kẻ mạo danh này cho tới ngày nay. Một số đệ tử tôn thờ kẻ mạo danh đó và nghĩ rằng đó là con người thật của thày tuy rằng thày đã nói là không phải vậy. Các người đó đã mất thày, và thày đã mất họ. Thày chấp nhận điều này. Thày biết là các đệ tử đó sẽ không chấp nhận điều này, vì nếu họ chấp nhận thì họ sẽ phải thay đổi. Họ thật sự sẽ phải nhìn vào chính họ, nhận ra là họ có lòng phán xét lớn, và họ hầu như không thể làm được chuyện này.

Con yêu dấu, con có hiểu chăng tại sao các đệ tử đó hầu như không thể làm được chuyện đó? Chuyện này rất, rất đơn giản. Nếu con đã xây dựng một động lượng phán xét người khác vì họ đã làm lỗi lầm này hay lỗi lầm khác, thì chuyện gì sẽ xảy ra nếu con nhìn nhận là con sai khi phán xét người khác? Ấy, con chỉ có thể phán xử dựa trên tiêu chuẩn đúng hay sai. Con sẽ phải nhìn nhận là con đã sai. Nếu con nhìn nhận là con sai, thì con vẫn còn động lượng phán xét. Lúc đó, thay vì luôn luôn tìm cái giằm trong con mắt người anh em và phán xét họ, thì nay con đã nhìn nhận cái đà trong con mắt mình, thì con sẽ phải phán xét mình như con đã từng phán xét người khác, có thể là suốt 2000 năm qua hay còn nhiều hơn thế nữa. Những người đệ tử đó sẽ không thể chịu được gánh nặng tâm lý của sự lên án chính mình đó.

Mốt số ít người đã chuyển từ phán xét người khác sang phán xét chính mình, và họ hầu như bị loạn trí hay bị vấn đề tâm lý trầm trọng. Lẽ tất nhiên, thày không muốn bất cứ ai phải gánh chịu gánh nặng này. Nếu các đệ tử có thể đón nhận giáo lý mà các thày trao truyền, thì họ sẽ có thể thấy không phải họ đang phán xét người khác. Đó là một cái ngã tách biệt mà họ đã tạo ra, và họ đã tạo ra ngã tách biệt này khi sa nhân khiến họ phải chịu chấn thương nhập đời.

Do đó, nếu họ sẵn lòng đón nhận giáo lý và dùng các dụng cụ tâm linh, thì họ có thể tách mình ra khỏi cái ngã đó và nói: “Đúng rồi, tôi nhìn nhận là chuyện này đáng lẽ không được xảy ra, nhưng nó đã xảy ra, tuy nhiên thực sự không phải là tôi đã làm chuyện đó, mà là cái ngã tách biệt và bây giờ tôi biết tôi hơn ngã tách biệt đó. Do đó, tôi có thể tách mình ra khỏi nó, nhìn vào nó và nói: ‘Tôi cho bạn chết đi.’” Họ có thể nhận ra, nếu họ thực sự đón nhận các giáo lý này, là họ không cần bù đắp vì đã có tâm phán xét. Họ không cần thay đổi gì nơi vỏ ngoài hay chỉnh sửa điều gì hay giải quyết vấn đề nào. Họ chỉ cần nhận diện ra cái ngã và để nó chết đi. Tất nhiên, họ cũng cần đọc một số lượng bài chú để chuyển hóa năng lượng đã bị tha hóa xuyên qua ngã đó, nhưng đây là một chuyện mà họ rất có khả năng làm.

7.19. Tất cả đều có một lối thoát

Tất cả các đệ tử chân sư thăng thiên đều có một lối thoát nếu họ muốn được giải thoát. một lối thoát. Con có thể khắc phục mọi chuyện vì mọi chuyện mà con đã làm, mà con nghĩ đáng lẽ không nên như vậy, đều được làm xuyên qua một ngã tách biệt. Khi con cho ngã đó chết đi thì con được tái sinh, con là một sinh thể mới trong Ki-tô. Con có thể vẫn còn một số ngã tách biệt khác, do đó con không nên có ảo tưởng là con đã sạch tự ngã, con đã hoàn toàn hay giác ngộ. Con là một sinh thể mới trong Ki-tô. Mỗi lần con rũ bỏ một cái ngã thì con được tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn. Thày chỉ muốn như vậy, con yêu dấu. Tất cả các chân sư thăng thiên chỉ muốn thấy con như vậy, thấy con đi vào tiến trình tái sinh liên tục. 

7.20. Thu hẹp khoảng cách

Một lần nữa, và thày biết là thày đang thử thách sức chịu đựng của các con, thày trở lại khoảng cách! Các thày biết là ngay cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền qua vị sứ giả này, nhiều người đã đón nhận giáo lý, đã thực hành các thực tập, nhưng họ vẫn cảm thấy có khoảng cách. Họ nhìn vào mục tiêu đạt quả vị Ki-tô và thấy nó ở trên kia, trong khi họ ở dưới này, có một khoảng cách giữa nơi họ đang là và nơi họ phải là, và họ không thấy làm sao thu hẹp khoảng cách.

Họ xem xét giáo lý và họ nghiên cứu giáo lý và nghĩ là phải có điều gì họ đã bỏ sót và không nhận ra đó là cái gì. Các thày nay đã trao cho các con các giáo lý về cách thu hẹp khoảng cách với ngã gốc, và các ngã tách biệt khác.

Điều mấu chốt là nhận ra là con không thể giải quyết bất cứ vấn đề nào mà ngã tách biệt phóng chiếu tới con – con chỉ có thể cho ngã đó chết đi. Đó là lý do vì sao các thày đã nói là con không thể bước vào con đường quả vị Ki-tô khi con còn tìm cách làm việc này xuyên qua một trong các ngã phản ứng đó. Con không thể là Ki-tô xuyên qua một ngã đang phản ứng lại sa nhân.

Một khi con đã khắc phục được ít nhất là một vài ngã đó, và con đã bớt coi cuộc đời xoay quanh cá nhân mình, thì con có thể bắt đầu là Ki-tô. Lúc đó, con không đi trên con đường Ki-tô để cảm thấy an toàn, hơn người, để giải quyết một vấn đề, để bù đắp một sai lầm mà con đã phạm, để được chứng thực hay công nhận. Con trở lại thuở con ở trên hành tinh tự nhiên và làm việc cho tổng thể, ít ra là như con thấy nó lúc này, và đó là chuyện con đã làm trên hành tinh tự nhiên. Con chưa giác ngộ khi con ở trên hành tinh tự nhiên. Con chưa thăng thiên khi con ở trên hành tinh tự nhiên. Con chưa ở trạng thái tâm thức cao nhất mà con có thể đạt được khi con ở trên hành tinh tự nhiên, nhưng con có tâm thái sống không xoay vần chung quanh cá nhân mình.

Ngôn từ đã tới giới hạn của chúng. Thày chỉ có thể cống hiến các con một cái gì vượt quá ngôn từ và đó là tình thương mà thày dành cho tất cả và mỗi người các con. Con yêu dấu, không có gì trên trái đất thật sự dành cho cá nhân con vì không có gì trên trái đất hướng về cái Ta Biết, là cái gì vượt quá hình tướng.

Có một số điều kiện, đặc tính, năng lượng, khuôn đúc liên quan tới cá nhân con. Sự chấp nhận vô điều kiện của Giê-su dành cho riêng cá nhân con. Tình thương của thày dành riêng cho cá nhân con, cái ta thật của con. Ngay cả cái “ta” mà con là trong trạng thái tâm thức hiện tại, thày thương yêu nó như nó là ngay lúc này, và mỗi ngày thày sẽ thương yêu con hơn nữa. Con chỉ có thể chấp nhận cái hơn nữa đó khi con mỗi ngày trở nên hơn nữa bằng cách buông bỏ các ngã đang là ít hơn.

Thày thương yêu con khi con còn các ngã đó nhưng con không thể trải nghiệm tình thương của thày xuyên qua cái ngã. Chỉ khi nào con cho ngã chết đi, thì con mới trải nghiệm là thày thương yêu con hơn nữa, thực sự không phải vì thày thương yêu con nhiều hơn nhưng vì con trải nghiệm tình thương của thày nhiều hơn. Tới đây thì đã quá đủ ngôn từ rồi, quá đủ ngôn từ rồi, con yêu dấu. Không có lượng ngôn từ nào có thể thu hẹp khoảng cách, chỉ có một sự chuyển đổi tâm mới có thể thu hẹp khoảng cách.

5 | Con không ở trên địa cầu để giải quyết các vấn đề

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 19/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE và thật là niềm vui cho thày được nói chuyện với các con và trao cho con một lời dạy sẽ có vẻ hơi khó và hơi nặng nề đối với con. Tuy nhiên, lời giảng này thật quan trọng để con nắm bắt Sứ vụ Thiêng liêng của con là gì và làm thế nào con có thể thực hiện được Sứ vụ.

5.1. Một cách tiếp cận Sứ vụ Thiêng liêng mất cân bằng

Con yêu dấu, Mẹ Mary có đặt câu hỏi là tại sao các thày đã không ban ra các giáo lý về Sứ vụ Thiêng liêng sớm hơn. Hiển nhiên Mẹ Mary đã trả lời câu đó một phần, nhưng thày muốn nêu lên một khía cạnh khác nữa. Trong một đợt truyền pháp trước, các thày đã ban ra nhiều lời dạy hơn về Sứ vụ Thiêng liêng và cũng đã đặt nhiều trọng tâm hơn vào đó. Các thày có nói là con người cần cân bằng nghiệp quả của mình và có một phần vụ thần thánh mà mình phải hoàn thành. Các thày nhận thấy là khi ai nấy nghe giảng về khái niệm này thì trong nhiều trường hợp, họ rơi vào một phản ứng rất thiếu cân bằng. Thày không nói điều này để chỉ trích một ai. Điều thày muốn chỉ ra ở đây là nhiều học trò, đặc biệt trong các thập niên trước, khi họ nghe nói đến khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng thì họ trở nên vô cùng nhiệt tình, háo hức muốn thực hiện.

Tất nhiên là tự thân nó, lòng nhiệt tình không có gì sai trái. Trên đường tu tâm linh, con cần một độ nhiệt tình nào đó. Nhưng mặt khác, người xưa có câu ngạn ngữ: “Đường dẫn đến địa ngục được lát bằng những ý định tốt.” Thày cũng có thể nói là chiếc xe đưa con xuống địa ngục chạy bằng nhiên liệu là những ý định nhiệt tình thái quá.

Rất, rất nhiều người đã tiếp nhận giáo lý của các thày một cách mất cân bằng. Họ dùng giáo lý để đưa họ vào một trạng thái mà họ cảm nhận là lạc quan tích cực chỉ vì họ háo hức, nóng lòng, cả quyết, “tia sáng xanh và lửa cũng xanh”, và họ không để cho bất cứ gì cản bước họ hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng. Theo một nghĩa nào đó, nó giống như thể họ đang tham dự một cuộc đua xe băng đồng chạy khắp vùng nông thôn để đến được một mức đến. Các học trò đó náo nức đến độ họ nhảy liền lên xe, đạp ga phóng thật nhanh trên đường, khiến đá sỏi văng tung tóe tứ phía, nhưng họ lại không đem theo tấm bản đồ sẽ dẫn họ tới đích. Họ quá chú tâm vào việc chạy càng nhanh càng tốt đến nỗi họ không xét xem họ đang chạy về đâu và làm thế nào họ sẽ tới đó.

Các thày đã từng nói trước đây là một trong những vấn đề lớn với học trò của chân sư thăng thiên là các con có một viễn quan đúng đắn về những gì cần xảy ra – hay ít nhất con thấy được là một sự thay đổi cần phải xảy ra – nhưng con không có viễn quan đúng đắn về cách làm thế nào, làm thế nào để điều đó hiện thực. Một trong những lý do khiến các thày đã không đưa ra nhiều lời dạy hơn về Sứ vụ Thiêng liêng trong đợt truyền pháp này là vì các thày thận trọng hơn, dành ra nhiều thời gian hơn để dần dần vun xới cho tới điểm con có đủ hiểu biết cùng các dụng cụ thực tiễn dưới hình thức các bài thỉnh và sách sẽ giúp con thực sự đương đầu với thế lực đối lập. Tất nhiên con cũng có những dụng cụ thực tiễn để đối phó với các yếu tố trong tâm lý con đã tạo ra phản ứng mất cân bằng. Thày không chỉ nói với các con đang ngồi đây mà với cả nhiều người khác có thể đã tìm ra lời dạy này hay thậm chí nghe nói về Sứ vụ Thiêng liêng lần đầu tiên.

5.2. Ngã gốc và sự mất cân bằng

Điều quan trọng là con cần biết, khi con tìm thấy một lời dạy của chân sư thăng thiên lần đầu, và đặc biệt khi con nghe nói về Sứ vụ Thiêng liêng (và cả về khái niệm Thời đại Hoàng kim lẫn cách làm thế nào thay đổi địa cầu), là không hiếm khi người ta tiếp nhận những lời dạy đó một cách mất cân bằng. Mất cân bằng chính xác là gì? Phần lớn đây là một vấn đề cá nhân cho nên nó tùy thuộc vào tâm lý của con. Điều nó thật sự tùy thuộc là cái ngã gốc mà con đã tạo ra để đáp ứng với chấn thương nhập đời nguyên thủy mà con trải nghiệm, rất có thể trong kiếp hiện thân đầu tiên của con (có khi không là kiếp đầu tiên nhưng một trong những kiếp sau đó).

Khi con phải kinh qua chấn thương đó, hiển nhiên con đã có một số cảm xúc, một số ý nghĩ. Điều này thường khiến con tạo ra một cái ngã tìm cầu một phương cách, có thể nói là để phục thù, bù đắp, đền bồi, chỉnh sửa chấn thương nhập đời mà con đã gánh chịu. Nói cách khác, ngã đó bảo rằng: “Sa nhân đã làm chuyện đó với tôi, tôi muốn trả đũa lại, tôi muốn… [bất cứ điều gì tùy theo mỗi cá nhân].” Con muốn làm gì đó với chúng hay con muốn một điều gì đó xảy ra cho chúng và – nếu có thể nói như vậy – điều này sẽ “gỡ huề tỷ số” để con cảm thấy như chúng nhận được hình phạt xứng đáng. Sự thể này sẽ khiến cho một số các con trở nên, như thày vừa nói, quá nhiệt tình muốn thay đổi thế giới. Trong nhiều trường hợp, nó cũng đã khiến cho một số học trò bước vào một giai đoạn nơi họ tập trung vào những thứ vỏ ngoài.    

Tất nhiên, một trong những thứ mà nhiều người đã làm là trở nên vô cùng háo hức muốn đọc các bài chú, hết giờ này sang giờ nọ – như trong đợt truyền pháp trước, họ sẽ dự lễ mấy lần mỗi tuần để đọc chú hàng giờ đồng hồ. Họ nghĩ họ phải làm điều đó để thay đổi thế giới, để trói chặt sa nhân, để cân bằng nghiệp quả và chuyển đổi địa cầu cho thày Saint Germain. Cho nên họ không có nhu cầu và thời gian hay sự chú ý để tu sửa tâm lý của họ. Tất nhiên, con có thể nhìn lại và nói: “Nhưng họ làm vậy là do những gì đã được ban ra qua các bài truyền đọc, hay ít ra do cách thức mà các bài truyền đọc được diễn giải trong văn hóa của tổ chức đó.”

Đúng vậy, nhưng một lần nữa như các thày đã trình bày mấy lần, các thày phải nhìn vào một nhóm người nhất định ở một thời điểm nhất định, xét xem họ sẵn sàng nhận được những gì, rồi trao cho họ cái đó, thỉnh thoảng còn trao cho họ một cái gì cùng cực đến độ họ sẽ chán ngán và bắt đầu phải nhìn xa hơn. Vào thời đó có một số học trò chưa sẵn sàng, nhưng một số cũng không sẵn lòng nhìn vào tâm lý của mình. Các thày đã cho họ môi trường vỏ ngoài đó nơi họ có cái cớ toàn hảo để không xem đến tâm lý của họ khi họ phải đọc tất cả những bài chú đó.

Mặt khác, họ còn nhận được nhiều lời chỉ dẫn phải đọc những bài chú nào, đến độ nếu họ theo đó mà đọc hết thì 24 tiếng một ngày cũng không đủ vào đâu. Đó là một toan tính từ phía các thày nhằm nói lên: “Đây, các thày không thể chạm được các con, các thày không thể khiến con nhìn ra những gì con cần nhìn thấy, cho nên các thày sẽ cho con nhiều đến độ cuối cùng nó sẽ quá tải, và mong thay, ít nhất có một số các con sẽ đứng lui lại và tìm ra một cách tiếp cận cân bằng hơn.” Quả vậy, một số đã nhìn ra và một số vẫn không nhìn ra – và tiếc thay, đó là sự thể các thày phải chấp nhận. Dù với lời dạy nào đi nữa, các thày cũng không thể chạm được mọi người.

5.3. Một cảm nhận cao hơn về cân xứng

Điểm thày muốn nói ở đây là trong thời đại hôm nay và trong đợt truyền pháp của các con, các con đang có một mức giảng dạy khác hơn. Điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự tăng triển của mỗi cá nhân, việc giải quyết và chữa lành tâm lý cùng những chấn thương trong quá khứ mà các thày đã đề cập với con gần đây.

Có nghĩa là con có tiềm năng tiếp cận một cách cân bằng hơn, y như những gì Mẹ Mary đã nói. Thày muốn đi vào vấn đề này sâu hơn một chút. Mục đích thực sự của các chân sư thăng thiên không phải là để chế tạo một số thay đổi vỏ ngoài nhất định trên địa cầu. Con có thể hỏi: “Nhưng chẳng phải là điều này đi ngược lại những lời dạy về Thời Hoàng kim của Saint Germain khi thày muốn cải thiện mọi khía cạnh của cuộc sống trên trái đất và đem lại một trình độ văn minh cao hơn hay sao?” À, không, con yêu dấu. Từ một nhãn quan vỏ ngoài đường thẳng thì có vẻ mâu thuẫn, nhưng ngay cả Saint Germain cũng từng nói rằng mục đích chính yếu của Thời Hoàng kim thật ra là để nâng cao tâm thức loài người, chứ không để thị hiện những kết quả vỏ ngoài đặc thù đó. Thày Saint Germain sử dụng những thứ vỏ ngoài đó như một dụng cụ để nâng cao tâm thức con người, chứ tự thân chúng không phải là mục tiêu.

Ở đây con phải nhìn nhận là các thày đã cho con khái niệm rằng địa cầu không là một hành tinh tự nhiên. Các thày đã nói với con là có hàng tỷ hành tinh khác trong vũ trụ ở mức hành tinh tự nhiên và do đó cũng không có tất cả những biểu hiện dựa trên sợ hãi mà con thấy trên trái đất. Như Mẹ Mary có gợi ý, kỳ thực có hàng tỷ hành tinh đã gia tốc, và các cư dân ở đó đã gia tốc hành tinh của họ tới một trình độ vượt xa địa cầu đến nỗi hầu hết loài người khó lòng nào hiểu nổi.

Con phải nhìn nhận là tất nhiên, nói chung như một nhóm, các chân sư thăng thiên biết rất rõ là hầu hết mọi hành tinh đều ở một trình độ rất cao. Hiển nhiên các chân sư đã chọn ở lại làm việc với địa cầu thì không quá tập trung vào các hành tinh cao đó, nhưng các thày biết là họ hiện hữu. Các thày có tương tác với các chân sư đang làm việc với các hành tinh đó, thậm chí cả với các chân sư mang viễn quan tổng thể về toàn bộ vũ trụ vật chất lẫn con đường tiến hóa của vũ trụ. Điều này có nghĩa là các thày có một ý niệm về sự cân xứng mà thường thường các con không có được trên địa cầu khi con là người đầu thai.

Nhiều người trên địa cầu rất chú tâm vào địa cầu và, tất nhiên, nhiều người cho rằng đây là hành tinh duy nhất có người ta sinh sống. Nhiều tín hữu đạo Cơ đốc cho rằng đây phải là một hành tinh thật quan trọng đối với Thượng đế, nhiều người theo phong trào Thời Mới và người tâm linh cũng xem địa cầu là quan trọng vì nó khiến cho họ cảm thấy chính họ quan trọng do họ đang sống ở đây, vân vân và vân vân.

Điều thày muốn cho con là một chút cảm nhận cân xứng của các chân sư thăng thiên. Khi con đứng lui lại một bước và ngắm nhìn toàn bộ vũ trụ vật chất, con biết qua khoa học là có hàng tỷ dải thiên hà, hàng tỷ mặt trời, hàng tỷ thái dương hệ, hàng tỷ hành tinh với tiềm năng mang sự sống. Thày nói với con, những hành tinh gọi là “tương tự như trái đất” mà khoa học đã khám phá chỉ là một phần rất nhỏ trong số những hành tinh có sự sống. Các con chỉ đang cố tìm những hành tinh có cùng một loại dạng sống như trên địa cầu. Dĩ nhiên là còn rất nhiều loại dạng sống khác không dựa trên cacbon – nếu có thể nói như vậy – mà dựa trên các nguyên tố hóa học khác và do đó không thể phát hiện được bằng giác quan vật lý cũng như bằng các loại dụng cụ khoa học dựa trên giác quan mà con có trên trái đất. Đó là tại sao con không thể nhìn thấy sự sống trên Kim tinh mặc dù các thày đã nói với con là Kim tinh có sự sống. Điều này cũng áp dụng cho rất nhiều hành tinh khác khắp vũ trụ.

Khi con bước lui lại và nhìn từ tầm nhìn rộng mở đó, con thấy rõ là tuyệt đại đa số các hành tinh đều đang gia tốc rất nhanh chóng. Cư dân ở đó đã đi vào một vòng xoắn ốc tích cực, một xoắn ốc tích cực đang tự củng cố. Khi họ tương tác với chân sư thăng thiên, khi họ nâng cao tâm thức của họ, các chân sư có khả năng trao cho họ nhiều ánh sáng hơn, thế rồi họ lại gia tốc thêm nữa và tất cả trở thành một vòng xoắn ốc hướng thượng tích cực. Tương đối chỉ có một số ít hành tinh giống như địa cầu. Vậy thì trong viễn quan rộng lớn đó, các thày sẽ nhìn địa cầu ra sao? Hiển nhiên, các thày thấy địa cầu rõ ràng không nằm trong số các hành tinh đã bước vào một vòng xoáy tự củng cố và đang gia tốc. Trên địa cầu có một vòng xoáy hướng thượng, nhưng nó chưa bắt đầu tự củng cố do chưa đủ túc số tới hạn (critical mass) là những cư dân hiện đầu thai đã bước vào tiến trình nâng cao tâm thức của mình. Về cơ bản, địa cầu đang phần lớn được kéo lên bởi phần còn lại của vũ trụ, bởi các chân sư thăng thiên và bởi một số ít người đầu thai đang nâng cao tâm thức của mình.

5.4. Địa cầu là một dụng cụ giáo huấn

Loại hành tinh như thế này là một hành tinh mà các thày phần lớn xem là một dụng cụ giáo huấn cho những sinh thể không thể học hỏi trực tiếp từ bên trong nội tâm. Do đó họ cần một hành tinh nơi họ có thể nhìn thấy trạng thái tâm thức của họ trải bày ra trong vật lý. Đồng ý, hầu hết mọi người không nhận thức được điều này và thậm chí cũng không sẵn sàng đón nhận ý tưởng này. Nếu con nói cho họ biết, họ sẽ chỉ lắc đầu và nghĩ con điên rồi. Dù sao thì thực tế là địa cầu đang trình chiếu trạng thái tâm thức của con người ra bên ngoài.

Khi con biết điều này, con cần tự đặt một câu hỏi đơn giản: “Nếu địa cầu đang trình chiếu trạng thái tâm thức của con người lên chính nó, thì liệu có bất kỳ điều kiện nào trên địa cầu là thực một cách tối hậu, bất kỳ điều kiện nào là bền lâu, có tuổi thọ và có giá trị trường cửu liên tục hay không?” Thực tế là trên địa cầu thật sự không có gì cần được bảo tồn, không có gì mà các chân sư thăng thiên muốn thấy được bảo tồn trong dài hạn.

Tất cả mọi thứ ở đây là một thị hiện tạm thời mà các thày thấy rõ là cần được thăng vượt trước khi trái đất trở thành một hành tinh tự nhiên. Con có thể nhìn địa cầu và nói: “Không hiểu nếu địa cầu chuyển đổi và trở thành một hành tinh tự nhiên, liệu sẽ có bất kỳ điều kiện hiện hữu nào sẽ tồn tại hay không?” Câu trả lời sẽ gây sốc cho rất nhiều người: “Không hẳn”. Hầu như không có bất cứ gì ở đây sẽ tồn tại trong hình dạng hiện hữu khi địa cầu trở về trạng thái hành tinh tự nhiên. Con yêu dấu, điều chủ yếu sẽ thay đổi khi địa cầu trở về trạng thái một hành tinh tự nhiên là độ dày đặc của vật chất sẽ giảm xuống và độ rung động của vật chất sẽ tăng lên. Có nghĩa là hầu hết mọi điều kiện vật lý, kể cả những gì các nhà khoa học gọi là định luật tự nhiên đang vận hành ngay bây giờ, sẽ được vượt thăng. Địa cầu sẽ gia tốc vượt ra khỏi các điều kiện đó.

Với ý tưởng này trong tâm, con có thể đạt viễn quan là đối với các chân sư thăng thiên, thật không có gì quan trọng một cách tối hậu nếu một điều kiện nào đó, một điều kiện vật lý nào đó có thay đổi hay không. Có nghĩa là khi đó, con sẽ có thể xoay chuyển – như Mẹ Mary đã nói tới – và bảo rằng: “À, vậy thì tôi cần phải làm gì đây qua Sứ vụ Thiêng liêng của tôi? Nếu tôi đã lập ra Sứ vụ ở một mức nhận thức cao hơn bây giờ, thì vào lúc đó tôi đã ghi vào Sứ vụ những việc gì tôi có ý định thực hiện trong cõi vật lý? Tôi đang ở đây để đóng góp đem lại những thay đổi nào?”

Tất nhiên đây là một câu hỏi mang tính chất rất cá nhân. Mặc dù thày có nói là các điều kiện vật lý không quan trọng một cách tối hậu (chúng là một phần của toàn bộ phương trình của địa cầu), con sẽ không thể chuyển sang Thời đại Hoàng kim hay chuyển cả địa cầu vào một trạng thái tự nhiên mà không đem lại nhiều thay đổi vật lý. Những thay đổi đó bao gồm những ý tưởng mới, những khám phá mới, những công nghệ mới, những hình thức chính quyền mới, những hình thức giáo dục mới, những hình thức văn hóa nghệ thuật mới, vân vân và vân vân. Quả thật sẽ có rất nhiều thay đổi vật lý cần xảy ra, nhưng viễn quan vô cùng quan trọng mà thày thấy cần cho con là sự kiện những thay đổi đó không là tối hậu, không là chung cuộc. Chúng chỉ là những bước đi trên một con đường, là những giai đoạn trong tiến trình chuyển tiếp.    

5.5. Tâm thức đi trước biểu hiện vật lý

Điều này chủ yếu nhằm giúp con tránh rơi vào cái phản ứng khi con cho rằng một số thay đổi vật lý và một số điều kiện nhất định có tầm quan trọng tối hậu. Sự xoay chuyển mà các thày đang cố giúp con thực hiện là con thực sự thể nhập, thực sự nắm bắt, thực sự trải nghiệm sự thật mà các thày đã bày tỏ bằng nhiều cách trong suốt mấy năm qua, đó là tâm thức đi trước biểu hiện vật lý. Nói cách khác, có một niềm tin được người ta ưa chuộng đang bay phất phơ trong tâm thức tập thể – một phần do đạo Cơ đốc – cho rằng có một loại phép lạ nào đó từ trên sẽ có thể thay đổi địa cầu. Niềm tin này cũng một phần đến từ khoa học duy vật cho rằng chỉ một thay đổi vật lý dựa trên các định luật tự nhiên mới có thể đem lại những điều kiện mới.

Điều các thày cố giúp con thể nhập và trải nghiệm là thực tại rằng tất cả mọi thứ đều là sự trải bày ra bên ngoài của trạng thái tâm thức của nhân loại trên địa cầu. Trước khi có thể có thay đổi đích thực, thật ra trước khi có bất kỳ thay đổi nào, phải có trước tiên sự thay đổi trong tâm thức. Con có thể nhìn ngược dòng lịch sử của công nghệ chẳng hạn và con có thể nói: “Nhưng rõ ràng là có một tiến trình vật lý đã tuần tự dẫn từ khám phá này đến khám phá sau rồi khám phá sau nữa. Một nhà khoa học xây dựng trên nền tảng những gì các nhà khoa học trước đó đã tìm ra, và bỗng nhiên chúng ta có các phương trình của Einstein và thuyết tương đối, và chính cái này đã dẫn đến sự phát triển bom nguyên tử.”

Con yêu dấu, điều các nhà duy vật không nhìn thấy – vì họ không muốn nhìn vào – là trước khi tiến trình vật lý có thể xảy ra thì đã có một sự thay đổi trong tâm thức tập thể. Nếu con xem xét tất cả mọi biến cố lịch sử đã diễn ra, con sẽ thấy được – nếu con có khả năng nhìn thấy ba thể cao của tâm thức tập thể – một sự xoay chuyển, một biến đổi nào đó đã có mặt. Cho dù đó là một thay đổi gọi là tích cực hay một thay đổi tiêu cực, thì con cũng thấy được là nó đã xảy đến. Không có gì xảy ra trong cõi vật lý đã từng được quyết định hay được khởi phát duy ở tầng vật lý mà thôi. Luôn luôn có một thay đổi ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc trước khi một thay đổi vật lý có thể xảy đến. Suốt lịch sử đã diễn ra như vậy và trong tương lai cũng sẽ như vậy.

5.6. Con đã xoay chuyển tâm thức hay chưa?

Thế thì con có thể dùng điểm trên để nhìn vào chính mình cùng cách con tiếp cận đối với đường tu tâm linh, đối với khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, và con có thể nói: “À, điều quan trọng thật sự không phải là những thay đổi vật lý mà tôi đã đến đây để đem lại. Điều quan trọng không thật sự là nhìn xem những gì tôi cần làm trong cõi vật lý.” Như thày đã nói, nhiều đệ tử trở nên nóng lòng muốn thay đổi thế giới hay thay đổi người khác đến độ họ quên không nhìn vào bản thân. Nhiều học trò khác thì không đến nỗi tập trung vào việc thay đổi người khác hay thế giới, nhưng họ lại tập trung vào câu hỏi: “Tôi cần phải làm gì trong cõi vật lý?” Như Mẹ Mary một lần nữa đã gợi ý, họ nghĩ nếu phải chi có một vị đạo sư đến bảo họ: “Con phải đem lại khám phá mới này trong lãnh vực này,” thì đó là lời duy nhất mà họ cần biết. Họ sẽ cố tìm hiểu lãnh vực đó một cách phân tích đường thẳng rồi họ sẽ đem lại khám phá mới đó. Nhưng như Mẹ Mary đã nói, con không thể thật sự làm được chuyện đó nếu con chưa xoay chuyển tâm thức của con cho tới điểm con nhận được nó từ bên trong. Và để làm điều này, có thể con sẽ phải khắc phục một số chấn thương, một số tin tưởng sai lầm, một cách phản ứng mất cân bằng nào đó, rồi khi đó con mới có thể nhận được nó từ bên trong. Con không thể nào nhận được nó từ bên ngoài.

Một lần nữa, con có thể nhìn vào chính mình, con có thể nhìn vào phản ứng của con đối với toàn bộ ý tưởng Sứ vụ Thiêng liêng, và một khi con trung thực với chính con, con có thể nhìn vào bất kỳ sự mất cân bằng nào: “Liệu tôi có nhiệt tình thái quá hay không? Liệu tôi có tập trung bên ngoài bản thân mình, tôi có tập trung vào nhu cầu xét xử các sa nhân và loại trừ chúng ra khỏi hành tinh, vào nhu cầu sáng chế và khởi xướng công nghệ mới, nhu cầu cải tổ lãnh vực chính trị, nhu cầu thay đổi người khác để khiến họ nhìn ra cách hành xử sai trái của họ, khiến họ nhìn ra giáo lý của chân sư thăng thiên cùng chân lý duy nhất hay không?” Một lần nữa, thày không hề trách cứ con khi con có những phản ứng đó. Có thể nói đó là cách phản ứng tự nhiên trên hành tinh phi tự nhiên này. Dù sao thì phản ứng như vậy sẽ không giúp con khám phá những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, mà kỳ thực nó sẽ ngăn chặn con khám phá.

5.7. Khắc phục cảm nhận bất công

Nếu con nhận diện con đang có một sự mất cân bằng, con có thể lấy giáo lý về chấn thương nhập đời, về ngã gốc, và con xét xem sự mất cân bằng đó có thật sự khởi lên từ mong muốn trả đũa, từ mong muốn đền bù phần nào sự bất công sai trái mà con cảm thấy người ta đã gây cho con khi con hứng chịu chấn thương nguyên thủy. Thày không phủ nhận là con đã nhận chịu một điều sai trái và đó là một sự bất công. Thày chỉ đang nói là con phải tra vấn (như mọi người đều làm khi cảm thấy mình bị người khác đối xử bất công) và câu hỏi thật giản dị: “Liệu tôi có muốn trừng phạt những kẻ đã hại tôi, hay tôi muốn được giải thoát khỏi những kẻ đã hại tôi và bước đi tiếp trên đường tu tâm linh?”

Nếu con muốn bước đi tiếp thì hiển nhiên con cần nhìn vào đó và nhận ra: “Đây chỉ đơn giản là chấn thương nhập đời của tôi đang tạo ra một phản ứng. Nó đã tạo ra một cái ngã tách biệt là một thành phần của ngã gốc của tôi, và tôi không muốn vác nó theo cho đến mãn kiếp, vì tôi biết rõ tôi không thể đem nó theo tôi vào cõi thăng thiên. Tôi sẵn lòng nhìn nó và tách mình ra khỏi nó, tôi sử dụng những dụng cụ mà chân sư đã cho tôi cho đến khi tôi đạt tới điểm tôi có khả năng buông ngã ra một cách tự nhiên và để cho ngã chết.”

Con yêu dấu, với một cái ngã khởi lên từ một cảm nhận bất công, một cảm nhận có gì sai trái, một mong muốn đền bù, thì ngã đó không bao giờ thỏa mãn được. Con có thể nói: “Nhưng một số sa nhân đã khiến tôi phải chịu chấn thương nhập đời đó, và nếu chúng bị phán xử và đưa vào cái chết thứ nhì, thì cái ngã khởi lên từ chấn thương sẽ được thỏa nguyện và nó sẽ phải giải thể chứ.”

Như các thày đã nói với con nhiều lần, cho dù điều kiện gì xảy ra đi nữa, ngã sẽ không đơn giản chịu nằm xuống mà chờ chết. Nó sẽ tiếp tục làm những gì nó vẫn làm. Nó sẽ nhìn quanh hành tinh này tìm xem có nỗi bất công nào khác hay không, rồi nó sẽ phóng chiếu ra là cái đó cũng phải được đền bù hay được giải quyết, hay một người nào đó phải bị trừng phạt – vì đó là công việc mà nó vốn làm. Nó máy móc y như một chiếc máy tính vậy, và nó sẽ dằng dai, máy móc thi hành những gì nó đã bị lập trình để thi hành, tức là tìm kiếm một điều kiện vỏ ngoài nào đó để lấy cớ làm công việc của nó.

Con sẽ không giải thoát khỏi nó bất kể những điều kiện vỏ ngoài mà con có thể đem lại. Con sẽ chỉ giải thoát khỏi nó khi con nhìn nhận là vấn đề mà ngã đó đã phóng chiếu ra sẽ không bao giờ có thể được giải quyết. Con không cần giải quyết nó. Đơn giản con chỉ cần nhìn ra nó là không thực, xong con cần buông nó ra, con cần từ bỏ nó, con từ bỏ mong muốn giải quyết vấn đề – vì vấn đề không có giải pháp.

Cũng gíống như khi thày cho con tầm nhìn về địa cầu. Con có thể nhìn vào rất nhiều vấn đề, vô số vấn đề gần như vô tận đang hiện diện trên trái đất. Con có thể chú tâm vào: “Tôi phải giải quyết vấn đề này, tôi phải đọc chú để mang lại giải pháp cho vấn đề này, tôi phải làm việc này, tôi phải làm việc kia.” Con có thể tiếp tục làm vậy cho tới hết kiếp này và dồn chú ý của con ra bên ngoài để giải quyết tất cả những vấn đề đó.

Thày không phủ nhận là các vấn đề có một sự tồn tại tạm thời. Thày không phủ nhận là chúng có tác động trên con người trên địa cầu. Nhưng con sẽ không giúp cho hành tình tiến bộ bằng cách giải quyết chúng. Con sẽ giúp cho hành tinh tiến bộ bằng cách cá nhân con thăng vượt tâm thức đã phóng chiếu ra các vấn đề đó, và như vậy con kéo tâm thức tập thể đi lên, hầu mọi người lần lần nhìn ra là mình không cần tiếp tục đánh nhau với người Do Thái hay người Ả Rập hay người Palestine hay người Serbia hay người Croatia hay người Pháp hay người Anh hay người Đức hay điều này điều nọ. Chúng ta có thể giản dị bước xa khỏi những thứ đó, vì chúng ta sẽ cảm thấy vui hơn, cảm thấy hạnh phúc hơn khi chúng ta bước xa khỏi vấn đề mặc dù nó chưa được giải quyết.

5.8. Không có vấn đề nào phải giải quyết

Con thấy đó, con yêu dấu, châu Âu đã từng có một thời khi các quốc gia rơi vào tình trạng binh lửa triền miên. Rất thường khi người ta phóng chiếu ra một nỗi bất công nào đó vì có nước kia đã làm gì sai trái. Con thấy là sau Thế chiến thứ Nhất, Hiệp ước Versailles do người Pháp và người Anh chủ xướng quy cho nước Đức hành xử sai trái cho nên cần bị trừng phạt. Điều này tạo ra tiền đề cho Thế chiến thứ Hai, và cứ như vậy.

Giờ đây sau Thế chiến thứ Hai, có một nhận thức mới đã lan rộng khắp Âu châu, dẫn đến sự kiện là không một cuộc chiến lớn rộng nào đã xảy ra kể từ đó, ít nhất trong phần lớn Âu châu. Con yêu dấu, khi con nhìn vào Thế chiến thứ Hai với nước Đức bị bại trận rồi châu Âu bị chia đôi thành Đông và Tây, liệu Thế chiến thứ Hai đã giải quyết được vấn đề gì hay chăng? Không, chẳng giải quyết được vấn đề nào cả.

Nhưng tại sao đã không có chiến tranh kể từ đó? Bởi vì một túc số tới hạn trong dân chúng đã nhìn ra tính chất phi lý của tâm thức hiếu chiến đã kết đọng hai cuộc thế chiến, và mỗi người ở mức cá nhân của mình đã thăng vượt nó – rồi rốt cuộc cả tập thể cũng đạt được khối lượng tới hạn. Người dân châu Âu đã không chọn con đường dễ dàng nhất, vì tình hình đã bị đẩy tới mức cùng cực với sự diệt chủng người đạo Do Thái cùng những vụ giết người hàng loạt xảy ra trong chiến tranh – nhưng họ đã thành công. Sự xoay chuyển tâm thức chính là lý do tại sao đã không có chiến tranh, chứ không phải việc giải quyết vấn đề đặc thù đã gây ra hai cuộc thế chiến – bởi vì, một cách tối hậu, vấn đề đó không có giải pháp nào hết.

Con hãy nhìn vào các biến cố và tự hỏi: “Làm thế nào vấn đề đó có thể được giải quyết đây?” Nó không thể – vì giải pháp không hề có. Đó chính là vì sao mà cuối cùng thế chiến đã bùng nổ, vì vấn đề đã được sa nhân cố tình tạo ra để không có giải pháp và nó bắt buộc dẫn đến chiến tranh. Vấn đề chỉ được giải quyết khi có đủ túc số những người dân, cho dù có ý thức hay không, nhận ra rằng: “Không có gì ở đây có thể được giải quyết. Chúng ta chỉ có thể nhìn về phía trước mặt và quyết định thăng vượt tâm thức đó và không lại bước vào các khuôn nếp đã dẫn đến chiến tranh.”

5.9. Không có vấn đề nào phải giải quyết trong gia đình

Ở mức cá nhân cũng vậy, và trong gia đình cũng vậy. Trong mọi lãnh vực, sự thể cũng y như vậy. Hồi nãy các con có đề cập đến gia đình các con và chuyện thường xảy ra là có một khuôn nếp nghiệp quả, một khuôn nếp tâm lý đã hiện hữu từ mấy kiếp trước do các thành viên trong gia đình đã tái đầu thai với nhau hết kiếp này tới kiếp khác. Trong tư cách là học trò của chân sư thăng thiên, có lẽ con có tiềm năng đạt tới điểm là con có thể giúp cho thân nhân mình nhìn ra rằng vấn đề này không có giải pháp, rằng việc thay đổi người khác trong gia đình không thể giải quyết được chuyện gì. Đây chỉ đơn giản là chuyện nhìn thấy những gì đang diễn ra trong gia đình, động cơ đang vận hành trong gia đình, là sự biểu lộ của một trạng thái tâm thức. Cách duy nhất để thay đổi sự thể, cách duy nhất cho con được tự do, giản dị là con rời bỏ tâm thức đó, thăng vượt tâm thức đó bằng cách giải quyết nó bên trong chính con.

Đối với nhiều người trong số các con, đây chính là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con liên quan đến gia đình. Đó là con giúp cho người thân thấy được là không có vấn đề gì phải giải quyết. Chỉ có chuyện thăng vượt tâm thức, tìm ra một cách khác để nhìn nhau, để tương tác với nhau và cho phép mỗi người là con người mà mình là. Điều này đòi hỏi con tự thay đổi chính con cho tới mức con chấp nhận bản thân và cho phép mình là con người mà mình là. Chỉ khi nào con cho phép con là người con là, thì con mới có thể cho phép người khác là con người mà họ là, mà không cảm thấy mình bị đe dọa và cũng không muốn thay đổi người khác hầu con tránh né phải đương đầu với chính tâm lý của con. Con đạt tới điểm con cảm thấy thoải mái, vì người kia không còn “nhấn nút” để con cảm thấy mình không phải tự thay đổi chính mình.

Một số các con sẽ có khả năng giải thích những khái niệm này cho người thân một cách chung chung mà không đề cập đến chân sư thăng thiên, và con giúp họ nhìn ra rằng tất cả chỉ là chuyện lấy một quyết định: “Chúng ta sẽ thôi không đối xử với nhau cách đó nữa, chúng ta sẽ thôi không đổ lỗi cho nhau nữa, chúng ta sẽ thôi không tìm cách thay đổi nhau nữa, chúng ta sẽ chỉ đơn giản cho phép mỗi người là con người mà mình là, vui hưởng thời gian bên nhau khi chúng ta đang sống với nhau – hoặc nếu không, khi mỗi người bước theo đường riêng của mình.”

5.10. Không còn gì để bù đắp

Con yêu dấu, lòng nhiệt tình mất cân bằng đó đến từ đâu? Nó đến từ niềm tin cho rằng có một vấn đề nào đó tuyệt đối phải được giải quyết. Việc giải quyết vấn đề đó là chuyện nhất thiết, là quan trọng tối hậu. Đâu là cái tâm lý sâu xa nằm đằng sau? Đó là sự kiện con, như một con người, cảm thấy mình bị bế tắc do có gì đó bên trong mà con không biết làm thế nào thay đổi. Hoặc con sẽ cố không chú ý đến nó, hoặc con tìm cách phóng chiếu ra ngoài (ngã tiềm thức phóng chiếu ra ngoài) là nếu vấn đề vỏ ngoài kia được giải quyết, nếu những người kia thay đổi, thì vấn đề bên trong sẽ không còn nữa. Tại sao con đã không giải quyết được vấn đề đó chứ? À, là vì con chưa nhận được lời dạy về nguyên nhân của vấn đề, một nguyên nhân mà đối với đa số các con đi trở ngược về ngã gốc. Con thường hay cảm thấy mình bị bế tắc vì con trải nghiệm có sự mất cân bằng trong con nhưng con không biết làm thế nào giải quyết. Cho nên con cố giải quyết bằng cách thay đổi tất cả những thứ kia bên ngoài con, vì con không biết cách thay đổi bên trong con. Làm sao con biết cách thay đổi ngã gốc nếu con không biết mình có ngã gốc và ngã gốc đến từ đâu?

Đó là tại sao thày nói với con – vì con là một thành viên của đợt truyền pháp này, con cởi mở với những lời dạy này, và giờ đây con có những dụng cụ này – là con có khả năng, nếu con muốn, vượt qua rất nhanh chóng bất kỳ trạng thái mất cân bằng nào. Con yêu dấu, con có khả năng đạt tới điểm con không còn tìm cách thay đổi thế giới hay thay đổi người khác như một cách bù đắp cho một điều kiện bên trong tâm lý con. Con đã nhìn vào điều kiện đó, con đã giải quyết điều kiện đó – rồi điều gì xảy ra chứ? Một khi con đã giải quyết điều kiện đó, giải quyết xu hướng tập trung vào việc thay đổi những thứ vỏ ngoài, thì đột nhiên giờ đây con có thể bắt đầu nối kết với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Giờ đây con có thể bỗng nhiên nhìn thấy những gì con đã hoạch định thay đổi hay đem lại trên địa cầu.

Sự khác biệt là con sẽ không làm điều này từ một mong muốn bù đắp cái gì. Con sẽ làm vì một lý do hoàn toàn tích cực. Con làm như vậy vì đó là sự biểu lộ con người mà con là. Nói cho cùng, điều sẽ đem lại cho con sự an bình và niềm vui được hiện thân trên một hành tinh như thế này chính là việc biểu lộ con người mà con là. Con không dính mắc vào những kết quả vỏ ngoài, vào quả trái của việc làm, vì con tìm thấy niềm vui khi con thể hiện bản thể cao hơn của mình. Đó là tiềm năng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

5.11. Giai đoạn sáng tạo trong Sứ vụ Thiêng liêng

Tất nhiên là có một giai đoạn “lao động” khi có thể con phải làm một số công việc, có quan hệ với một số người, thực hiện một số việc vỏ ngoài, kinh qua một số trải nghiệm. Nhiều người trong các con đã cảm thấy qua trực giác là con đã làm những thứ đó rồi. Điều các thày cố giúp con đạt tới là con bước vào giai đoạn cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng: giai đoạn sáng tạo. Đây là điểm con có thể bắt đầu trao tặng món quà của mình và biểu đạt cái Ta của con, cái tiềm năng cao nhất mà con muốn biểu đạt trước khi con đi vào hiện thân, dựa trên trạng thái tâm thức cao hơn mà con có tiềm năng đạt tới.

Đây có thể trở thành một vòng xoáy tích cực nơi con có sự an bình khi làm người đầu thai. Con không còn thái độ khiếm khuyết cho rằng mình luôn luôn bị chậm trễ ở đằng sau và mình luôn luôn phải ở một nơi nào khác. Luôn luôn có một điều gì đó mà đáng lý mình đã phải làm nhưng lại chưa làm, và có nhiều điều hơn mà mình đã có thể làm. Thay vào đó, con an bình làm người mà con là, biết rằng con sẽ tiếp tục tiến cao hơn từng bước một cho hết phần còn lại của kiếp này. Con sẽ ngày càng cảm thấy thoải mái hơn, ngày càng sáng tạo hơn khi thể hiện sự sáng tạo của mình, và ngày càng an bình hơn khi tận hưởng tiến trình dõi nhìn đời mình trải bày ra. Đây là trạng thái mà các thày muốn con đạt được vì đó là khi con có thể thực sự vui hưởng việc mình hiện diện trên hành tinh. Con yêu dấu, liệu có lý do gì mà các thày lại không muốn con tận hưởng sự hiện thân của con?

5.12. Dành thời gian để tận hưởng cuộc sống trên địa cầu

Thày sẽ nói với con là có một số đáng kể các chân sư từng thăng thiên từ địa cầu đã nhìn lại tiến trình đầu thai của mình, từ lúc mình rơi vào những vòng xoáy hướng hạ rồi lần lần, từ từ, leo ra khỏi để đạt tới điểm hội đủ tư cách thăng thiên. Các thày nhìn lại tiến trình đó và thấy ước gì mình đã dành ra nhiều thời gian hơn trong hiện thân để thực sự vui hưởng việc đầu thai trên hành tinh. Nhưng các thày cũng thực tế và biết rằng thời buổi đó có khác, và tâm thức tập thể cũng có dày đặc hơn. Cho nên trong một số trường hợp đã có một đòi hỏi cấp bách là các thày cần thăng thiên ở một thời điểm nhất định bởi nhiều lý do khác nhau. Đơn giản là khi đó đã không phải là lúc vui hưởng.

Con có thể thấy như trong trường hợp Giê-su, thày đã thăng thiên trong vật lý ngay sau khi hoàn tất sứ vụ công ích của mình. Thế rồi thày nhận được sự đặc miễn để có thể vật chất hóa một xác thân mới và sinh sống trong xác thân này cho đến tuổi 81 khi thày thực hiện cuộc thăng thiên tâm linh chung cuộc. Trong những năm tháng sống tại vùng Kashmir, thày đã vui hưởng sự đầu thai của mình mặc dù độ dày đặc của hành tinh vào thời đó. Con cũng thấy chính thày đây trong kiếp đầu thai chót, cùng với thày Kuthumi, hai thày cũng đã có thêm thời gian. Hai thày đã có một mức chứng đạt và không dính mắc nào đó cho nên đã có thể vui hưởng sự đầu thai của mình khi đó. Sự kiện này đã không được nhấn mạnh trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên, nhưng nó đã thật xảy ra – các thày đã có được một thời gian như vậy. Với một thời gian như vậy, kết quả là con có thể thực sự đạt tới điểm hoàn toàn an bình với sự có mặt của mình ở đây, nhưng con cũng an bình với việc thăng thiên. Trong khi đó, nếu con có một lịch trình gấp rút hơn thì thường khi con sẽ không đạt tới điểm an bình khi sống trên địa cầu.

Cho nên con gần như có thể tới mức hội đủ tư cách thăng thiên nhưng con chưa hẳn an bình với việc thăng thiên. Kỳ thực, con phải bỏ thêm thời gian để giải quyết cảm nhận phi-an-bình cuối cùng đó trước khi con thực sự đạt tới điểm có thể hoàn toàn bỏ lại địa cầu ở đằng sau và bước vào trạng thái thăng thiên. Lẽ tự nhiên, các thày mong muốn những ai trong số các con có tiềm năng thăng thiên sau kiếp này có thể chứng được mức đó, là mức con an bình và tận hưởng cuộc sống ở đây. Làm như vậy, con sẽ nêu gương là người tâm linh có thể an bình và có thể tận hưởng cuộc sống. Họ không cần rút khỏi cuộc đời để sống trong hang đá, họ không cần sống một cuộc đời khắc khổ với kỷ luật nghiêm ngặt. Thật ra họ có thể vui hưởng cuộc sống và biểu lộ niềm vui đó, và rồi họ cũng có thể an bình khi đi bước kế tiếp. Đối với các con có tiềm năng thăng thiên sau kiếp này, đây là những trình độ cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Đối với một số các con, điều này có thể đòi hỏi con xoay chuyển nhận biết một cách ý thức để mà thực sự thấy được điều này.

Để thấy được điều này, có thể con sẽ phải sẵn lòng xem xét một số thái độ cố hữu của mình về thế nào là một người tâm linh, thế nào là một học trò của chân sư thăng thiên, thế nào là đạt được một mức tâm thức cao hơn, thế nào là tỏ lộ quả vị Ki-tô của mình hay thị hiện quả vị Phật. Con cần bỏ lại một số hình ảnh đã được tạo ra trong quá khứ về cách hành xử mà một người tâm linh phải có.

5.13. Cả gan là con người mà con là

Con cần nhận ra ở đây như Mẹ Mary đã nói, rằng Sứ vụ Thiêng liêng của con là hoàn toàn cá nhân. Không có cách nào con có thể nhìn vào quá khứ và cách phản ứng của những người tâm linh khác trong quá khứ rồi bảo: “Ồ, đây là cái khuôn mẫu mà tất cả chúng ta phải làm theo trong tương lai.” Thày Giê-su đã kinh qua những gì thày đã kinh qua 2000 năm về trước vào khởi điểm của Thời đại Song ngư. Bây giờ con đang đứng ở khởi điểm của Thời đại Bảo bình. Con sẽ không hội đủ tư cách để thăng thiên bằng cách làm giống hệt như Giê-su vì tâm thức đã chuyển đổi và các yêu cầu cũng khác hơn.

Tất cả những thứ đó được bao gồm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con đã nhìn vào thời điểm mình sẽ đầu thai, nhìn vào tâm thức của mình và con đã vạch ra một đường đi. Nếu con có tiềm năng thăng thiên sau kiếp này, con cũng sẽ có tiềm năng nhìn ra lần lần Sứ vụ Thiêng liêng và cách biểu hiện quả vị Ki-tô của con như thế nào. Thày chỉ giản dị nói là để làm được điều đó, con sẽ phải ngừng đặt ra bất kỳ chuẩn mực nào cho cách hành xử mà con nghĩ con phải có, cũng như những gì con nghĩ con phải làm hay không được làm.

Một lần nữa, đây không phải là chuyện bảo rằng con muốn làm gì cũng được, rằng không có gì sai trái hay không có gì phản tâm linh, mà là nói rằng: “Tôi sẽ không đi theo các tiêu chuẩn trong thế gian, các tiêu chuẩn của sa nhân, các tiêu chuẩn của tâm thức tập thể, hay ngay cả các tiêu chuẩn mà cho tới giờ tôi đã tạo ra trong kiếp đầu thai này. Thay vào đó tôi sẽ xem xét: Điều gì tôi đã ghi vào trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi, là những điều tôi đã chọn từ một mức nhận biết cao hơn. Tôi sẽ kéo những điều đó vào nhận thức có ý thức của mình, và tôi sẽ cả gan là con người như vậy, con người mà tôi đã muốn là trước khi tôi đầu thai – chứ không phải con người mà người khác hay sa nhân muốn tôi là, không phải con người mà các ngã tách biệt của tôi muốn tôi là.”       

Theo một nghĩa nào đó, đây không nhất thiết là một mục đích mà con có thể thị hiện trong một khoảng thời gian ngắn. Đó là một tiến trình lần hồi, như Mẹ Mary có nói là một tiến trình từng bước đạt tới sự nhận biết cao hơn đó. Đối với nhiều người trong các con, nó sẽ không đến với con cho tới phần sau của đời con. Điều quan trọng là con không hốt hoảng mà rơi vào cái khuôn mẫu tự đặt ra cho mình một thời gian biểu. Nói thật, con yêu dấu, khi con bước vào những trạng thái cao hơn của tâm thức để tiến tới tầng 144, khi con tới điểm bắt đầu làm hòa, thì thời gian không còn đường thẳng nữa. Bỗng nhiên, như Phật có nói, thời gian không hiện hữu. Ngay cả nếu con tới mức hoàn toàn an bình trong hiện thân chỉ một tuần trước khi con bỏ lại thân xác và thăng thiên, thì trong tuần lễ đó con vẫn có thể tỏa rạng nhiều ánh sáng vào tâm thức tập thể đến độ con hoàn thành được Sứ vụ Thiêng liêng của con.

5.14. Tránh đặt ra những mục tiêu đường thẳng

Con thấy tâm đường thẳng luôn luôn muốn làm những thứ mà tâm đường thẳng muốn làm. Khi con “bắt” được khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng và con có một mục tiêu, thì tâm đường thẳng sẽ muốn phát biểu: “Phải, nhưng mục tiêu này thật quá sức đối với tôi, cho nên tôi sẽ phải cố gắng xốc vác, tôi phải lập ra một thời gian biểu, tôi phải đến được điểm này, rồi tôi phải đến được điểm kia trước tuần tới. Trong vòng năm tới, tôi sẽ phải vươn lên tới mức đó, vân vân và vân vân.” Con có thể bắt đầu tạo ra trong tâm mình những cấu trúc công phu như vậy, nhưng nó có thể cản trở toàn bộ tiến trình. Bỗng nhiên nó biến thành một tiến trình đường thẳng, trong khi như các thày đã cố giải thích cho con mấy lần, đó là một tiến trình hình cầu, trực nhận và dựa trên trải nghiệm.

Đó không phải là chuyện hiểu biết, lên kế hoạch rồi quyết định với tâm vỏ ngoài, mà là thăng vượt tâm vỏ ngoài và có được những trải nghiệm không đường thẳng, không phân tích, không dựa trên tâm vỏ ngoài. Đó không là một cái gì tâm vỏ ngoài có thể nắm bắt. Chuyện thường xảy ra là khi con có một sáng ngộ “Đây là bước kế tiếp trong Sứ vụ của tôi” thì con không thể giải thích, con không thể biện minh được cho người khác. Con không thể đưa ra một lý do nào ngay cả cho chính con. Con chỉ biết: “Đây là bước kế tiếp và đây là những gì tôi đang làm.” Con học cách xuôi chảy, mà các thày gọi là xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Và khi con có một sáng ngộ, con không có nhu cầu biện minh cho nó và cũng không chống cự lại để thực hiện nó. Con chỉ xuôi chảy vào với nó. Vì vậy con không cần phải lên kế hoạch trước. Nhiều khi chỉ có một sáng ngộ tự phát đang có mặt ở đó, và ngay tức khắc, con xuôi chảy theo và đưa nó vào thị hiện.

Tư duy đường thẳng có thể hữu ích ở một mức nào đó trên đường tu, nhưng tới một điểm trên đường tu con sẽ không thể dùng một tiến trình đường thẳng để vượt qua khoảng cách giữa điểm con đang đứng với trạng thái thăng thiên. Tiến trình đó vẫn lần hồi, nó vẫn diễn ra từng bước một, nhưng nó không hề đường thẳng khi con có thể ngồi đó với tâm phân tích mà vạch ra kế hoạch: “Đây là cách thức tôi sẽ đi từ tầng 132 lên tầng 133 tuốt lên tới tầng 144.” Tiến trình đó hình cầu hơn nhiều, trực giác hơn nhiều, và đó là tại sao sẽ tới điểm khi con phải bắt đầu nhìn ra những giới hạn của tâm đường thẳng và vô hiệu hóa nó một cách ý thức.

Con tách mình ra khỏi nó và nhận ra tâm đường thẳng là một dụng cụ. Tự thân nó không có gì sai trái, nó chỉ là một dụng cụ tương tự như cơ thể vật lý. Cơ thể vật lý là cỗ xe để con tương tác với địa cầu. Tâm đường thẳng cũng như vậy, nhưng con đâu có cho phép các giới hạn của cơ thể vật lý quy định những gì con có thể thực hiện về mặt tâm linh và tăng triển tâm thức? Tâm đường thẳng cũng thế – con không cho phép nó giới hạn con.

Cho nên con phải đạt đến sự nhận biết ý thức cũng như quyết định ý thức là con sẽ tự gia tốc vượt khỏi tâm đường thẳng. Con sẽ ngừng tự đồng hóa với nó, con sẽ nhận ra là tâm đường thẳng sẽ luôn luôn làm những gì nó vốn làm – nó sẽ luôn luôn so sánh, luôn luôn phân tích, luôn luôn dán nhãn. Trong nhiều trường hợp, con chỉ đơn giản không đặt chú ý vào nó nữa. Con để yên cho nó làm công việc của nó, nhưng con không để ý tới nó vì con đi tìm cái sáng ngộ hình cầu sẽ có thể giải quyết bất kỳ mâu thuẫn hay nghịch lý nào mà tâm đường thẳng có thể nghĩ ra. Con cũng vô hiệu hóa mong muốn của tâm đường thẳng nhằm hoạch định từng chi tiết nhỏ nhặt trong phần đời còn lại của con. Con sẵn lòng xuôi chảy với Sứ vụ Thiêng liêng, tin tưởng rằng một khi con chuyên cần chữa lành tâm lý của mình và mở rộng tâm ra để nhận sáng ngộ, thì con sẽ nhận được những sáng ngộ đó, và khi con nhận được thì con sẽ tự động bắt tay thực hiện.

Thày đã nói nhiều hơn thày muốn, và tất nhiên đây là bản chất và niềm vui của thày. Mặc dù thày có thể tiếp tục nói nhiều hơn nữa, thày sẽ công nhận giới hạn của bát cung vật lý. Thày cảm ơn các con đã sẵn lòng trải nghiệm sự Hiện diện của thày và cũng cho phép thày trải nghiệm hiện diện của các con, vì sự tương tác với các con thật là một niềm vui. Như Mẹ Mary có nói, các thày đón nhận mỗi người trong tất cả các con một cách vô điều kiện, và thày không muốn cho con cảm tưởng – mà có thể con đã có từ những đợt truyền pháp trước – rằng thày là một sinh thể kỷ luật nghiêm khắc cứ đặt ra điều kiện là con phải đạt tới mức nào đó thì thày mới chỉ dạy con. Đối với những ai trong số các con mở tâm ra cho lời dạy này thì thật là một niềm vui cho thày được tương tác với con cho dù con tự nhìn mình như thế nào.

Một lần nữa, mong muốn của thày – mong muốn của thày – là con cũng tự nhìn mình như thày nhìn con. Đó sẽ là món quà mà thày sẽ sẵn lòng trao cho con. Quả thật nếu con cởi mở và sẵn lòng, rất có thể thày sẽ cho con một cái nhìn hé thoáng về những gì thày nhìn thấy nơi con – nếu con dành cho thày một khoảnh khắc chú ý.

20 | Vượt qua nỗi giận chính mình, 16 phần.

Chân sư Thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, ngày 1 tháng 12 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền tại một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên MORE, và thày là phương cách tối hậu để vượt qua tâm thức thiếu thốn. Khi con hòa điệu với ngọn lửa của thày, thì con sẽ biết là trong Bản thể của thày không có thiếu thốn. Do đó, nếu con cho phép mình nhận cái mà thày rất mong muốn trao cho con, thì con sẽ không thấy thiếu thốn trong con.

Con không phải là một sinh thể bất toàn! Tất cả các hệ thống tư tưởng đã lập trình điều gì vào tâm tập thể từ bao thiên kỷ nay? Đó là ý niệm con người tự bản chất hư xấu và bất toàn. Nếu con nhìn một cách trung thực, thì con sẽ thấy đó là thông điệp của tư tưởng Mác xít và Cộng sản, cũng như là của Giáo hội Công giáo và của tất cả các giáo đoàn Cơ đốc giáo khác cũng dựa trên cùng nền tảng. Con là tội đồ từ trong bản tánh, con vốn dĩ giới hạn, và tâm thức này từ đâu tới?

20.1. Nỗi giận của sa nhân

Ấy, lẽ dĩ nhiên là nó tới từ sa nhân. Ta có thể nói họ có nhu cầu khẩn thiết muốn cảm thấy hơn những người họ rất khó chịu phải chung sống ở đây. Họ tin rằng trái đất là một hành tinh rất thấp và họ đáng lẽ không sống ở đây. Họ đáng lẽ phải sống trên một hành tinh cao hơn nhiều, một hành tinh to lớn hơn nhiều, nơi họ có thể cảm thấy có nhiều uy quyền hơn.

Họ cảm thấy họ đã bị mất giá trị khi họ phải tới hành tinh này. Do đó, nhiều sa nhân có một nỗi giận ăn sâu trong tâm thức họ đối với những người sống trên hành tinh này, gồm cả các cư dân nguyên thủy và các avatar (sinh thể từ hành tinh tự nhiên xuống đầu thai trên trái đất) đã dám tới đầu thai ở đây để thách thức quyền trị vì của họ. Con không thể giải thích nỗi giận này (mà con có thể thấy rõ trong lịch sử, nếu con chịu nhìn) qua những hệ thống tư tưởng truyền thống. Vì sao vậy, con yêu dấu? Đó là vì những hệ thống tư tưởng do sa nhân tạo ra có nhu cầu, kế hoạch và thâm ý tối thượng là che giấu sự hiện hữu của sa nhân. Do đó, lẽ dĩ nhiên là các hệ thống đó không thể giải thích nỗi giận này. Chúng hoặc không đưa ra một lời giải thích, hoặc nêu lên vài ý tưởng mơ hồ là người này người nọ đặc biệt tà ác, hay những chuyện tương tự.

20.2. Sự giận dữ bắt nguồn từ thể bản sắc

Sư thực là sa nhân, lẽ dĩ nhiên, có một nỗi giận ăn sâu trong tâm thức họ, ta có thể nói là một nỗi giận hiện sinh đối với con người. Họ sẵn sàng có những hành động phi lý, nghịch lý để đả thương, phá hoại và tiêu diệt con người, giống như mọi nỗi giận lúc nào cũng có tính chất phi lý và nghịch lý. Sự giận dữ là một xúc động nhưng nó không phải chỉ là một cảm giác, nó hơn một cái gì trong thể tình cảm của con người. Rất, rất ít người tìm hiểu tâm lý học đã hiểu điều này.

Sự thực là sự giận dữ bắt nguồn trong thể bản sắc. Sa nhân có trong thể bản sắc của họ nỗi giận đối với Thượng đế. Nếu con suy nghĩ thêm thì con thấy họ thực sự có phần giận Thượng đế vỏ ngoài mà họ đã tạo ra, nhưng chính thực thì còn hơn thế nữa vì họ giận chính họ. Vì cho dù họ đã sa ngã, nhưng họ đã bắt đầu như một phần nối dài của đấng Sáng tạo, giống như tất cả chúng ta. Trong họ có một nỗi giận ở tầng bản sắc, có một mô thức tư tưởng phức tạp giải thích cơn giận đó và định hướng nó. Lẽ dĩ nhiên, cũng có một mô thức xúc cảm, thường thúc đẩy con người làm những chuyện khi giận dữ mà họ không bao giờ làm nếu họ suy nghĩ sáng suốt dựa trên lý trí. 

Con có thể nói là với đa số con người và avatar trên hành tinh này thì sự giận dữ chủ yếu là một hiện tượng xúc cảm, nhưng với sa nhân thì nó hơn thế. Đó là lý do vì sao, khi con phân tích tâm lý của những người như Hitler, Lê-nin, Stalin, Mao và các nhà độc tài khác trong lịch sử, thì con thấy là sự giận dữ của họ không đơn thuần là xúc cảm. Họ có một nỗi giận rất sâu trong thể lý trí và bản sắc của họ. Nó là một cái gì mà họ thường không làm chủ được – nó làm chủ họ. Con có thể thấy là có những lúc họ hành động không phải vì thịnh nộ mê cuồng mà với một nỗi giận có tính toán, dài hạn và có kế hoạch.  

20.3. Sự giận dữ có tính toán của sa nhân

Vì sao thày lại đề cập đến chuyện này? Áy, thày có một số lý do. Một lý do, lẽ dĩ nhiên, là con cần hiểu là điều đã xảy ra trong Khối Sô viết đưới chế độ Cộng sản, không thể được giải thích bằng sự giận dữ mà thôi. Con cần hiểu nỗi giận rất sâu của sa nhân đối với nhân loại, và ước muốn của sa nhân muốn hoặc kiểm soát nhân loại, hoặc tiêu diệt những ai họ không thể kiểm soát. Con yêu dấu, không phải là Stalin hay những người trong guồng máy Sô viết ở trong cơn thịnh nộ không thể kiềm chế khi họ gõ cửa nhà người dân lúc 4 giờ sáng và đày họ đi Siberia. Không có một cơn giận xúc cảm đằng sau các hành động này, tuy rằng trong một số trường hợp, các tên đồ tể thi hành những lệnh này phải đặt mình vào trong một trạng thái xúc cảm để có thể làm những chuyện này với người đồng hương của họ.

Khi con xem xét nhóm lãnh đạo và đặc biệt là người lãnh đạo tối cao, thì con thấy là trong họ không có nỗi giận xúc cảm. Con có thể thấy là khi Hitler nói một số bài diễn văn thì y có vẻ bị rơi vào trạng thái giận dữ xúc cảm. Nhưng khi y đối xử với các tướng lãnh và những người khác, thì y không xúc động, y rất tính toán – ta còn có thể nói là y hành xử hợp lý. Con chỉ có thể hiểu hiện tượng này khi xem xét tầng sâu hơn mà thày đã đề cập. Thày đang nói với các avatar trong hội trường này, và các con cần hiểu là tuy các cư dân nguyên thủy của trái đất ít khi có cơn giận đi quá tầng xúc cảm, thì một avatar quả thực có thể có một sự giận dữ như vậy.

Điều này không có nghĩa là các con có cùng nỗi giận như sa nhân. Con yêu dấu, khi con nhìn vào tâm lý của một số sa nhân (không phải tất cả, nhưng một số) và tâm lý của một số avatar (không phải tất cả, nhưng một số) thì con thấy là cả hai nhóm có sự giận dữ trong thể lý trí và bản sắc của họ. Nếu con xem xét kỹ hơn, thì con thấy một khác biệt cơ bản. Nỗi giận của sa nhân lúc nào cũng hướng ra ngoài. Trong nhiều trường hợp, nó cũng hướng lên trên, tức là về hướng Thượng đế. Sa nhân không bao giờ cảm thấy giận (một cách ý thức) chính mình. Nhưng, con thấy nơi nhiều avatar một nỗi giận ở tầng lý trí và bản sắc hướng về chính họ. Có nhiều lý do ở tầng lý trí. Ở tầng bản sắc cũng có một số lý do khác nhau, nhưng chúng đều xoay quanh một chủ đề, đó là con giận mình đã tình nguyện xuống hành tinh này. Con giận mình đã chọn lựa tới hành tinh này.

Cũng có một số avatar sau khi đến đây, sau khi đã đi vào nhị nguyên, đã tiếp nhận một số niềm tin vi tế mà sa nhân đã phổ biến. Họ có thể cảm thấy giận Thượng đế đã tạo ra một vũ trụ trong đó những đau khổ mà con thấy trên trái đất có thể xảy ra. Một số avatar có thể có cảm giác như vậy, nhưng nó không giống nỗi giận của sa nhân đối với Thượng đế. Một avatar không có cảm giác giống như sa nhân. Thày sẽ không mô tả ở đây cảm giác của sa nhân, nỗi giận của họ đối với Thượng đế, vì trong cương vị một avatar, con không cần để tâm đến việc này. Thày chỉ nói với các con là, dù con có cảm thấy giận Thượng đế, thì điều này không có nghĩa con là sa nhân.

Con không cần phải chê trách mình vì chuyện này. Con nhận ra rằng nó không phải là một nỗi giận mà con đã mang theo khi con xuống hành tinh này. Sa nhân mang nỗi giận Thượng đế theo họ khi họ tới hành tinh này, và ngay cả khi họ đi vào bầu cõi này. Con thì đã tiếp nhận nó trên trái đất, và như tất cả mọi thứ mà con đã tiếp nhận trên trái đất thì con có thể nhận ra nó, thấy nó không phải là con và buông bỏ nó. Con có thể nâng mình lên khỏi nó.

20.4. Nỗi giận đối với cõi Mẹ

Con cũng có thể cảm thấy giận cõi Mẹ (cõi vật chất) vì cõi Mẹ, Ánh sáng Mẫu-Vật, đã biểu hiện những điều kiện vật lý tạo ra sự đau khổ cùng cực đó. Nhiều avatar cảm thấy điều này, không phải vì những chuyện đã xảy ra cho chính họ, như Mẹ Mary đã nói, nhưng vì những chuyện mà họ đã thấy xảy tới người khác. Con khởi lên lòng từ bi và do đó có một sự giận dữ: “Vì sao vật chất lại để các chuyện này xảy ra, vì sao đá không kêu lên như Giê-su đã nói?” Vì sao các tảng đá không từ chối rơi xuống và đè bẹp con người, con đôi khi có cảm giác như vậy. Lý do là, lẽ dĩ nhiên, chúng ta đang nói những chuyện hơi khác nhau. Giê-su nói là đá kêu lên vì chúng nhận ra Ki-tô, dù con người không nhận ra. Chuyện này khác việc vật chất tạo ra những hậu quả vật lý khe khắt. Như các thày đã giảng, vật chất chỉ là một tấm gương và bắt buộc phải biểu hiện những gì được phóng chiếu lên nó. Con hiểu điều này bằng lý trí, thày hiểu như vậy. Thày chỉ đang nhắc nhở là con có thể cần học hay nghe bài truyền đọc này nhiều lần và suy ngẫm nó cho tới khi con thực sự thấy trong bản thân mình là con có nỗi giận này, và nó không phải là con nhưng chỉ là cái gì con đã tiếp nhận.

Có nhiều người trong các con, có nhiều người tâm linh, nhiều avatar đã đi vào tư duy (mà vị sứ giả này cũng đã nhận ra nơi chính ông) cho rằng một người tâm linh không được cảm thấy giận dữ. Do đó, con không chịu nhìn nhận cơn giận của mình, và như Phật Gautama đã giảng vào đầu năm nay, có khi con cần nhận ra những cảm xúc của mình để có thể tách mình ra khỏi chúng. Phật Gautama có trao cho các con một bài tập trong đó con đi tới một nơi cách biệt không ai có thể nghe thấy con, và con dùng lời để phát biểu cảm xúc của con đối với sa nhân, nhưng ngay cả với Thượng đế và cõi vật chất. Con có thể nói ra nỗi giận của mình, dùng ngôn từ để phát biểu nó. Khi con dùng ngôn từ để phát biểu nó, thì con dễ tách mình ra khỏi nó hơn, và thày sẽ cho con có một gợi ý đơn giản lý do vì sao lại như vậy, con yêu dấu.

20.5. Nói ra lời mình là ai

Con hãy tưởng tượng con đi tới một nơi cách biệt và con nói ra lời nỗi giận của mình. Tôi giận Thượng đế vì lý do này hay lý do khác. Một khi con đã làm xong chuyện này, khi con đã trút hết những gì trong con và không còn lời nào thốt ra nữa, thì thày muốn con làm một chuyện giản dị. Bây giờ thì con hãy nói ra lời con gì. Con thực sự là gì? Đúng, con có thể nói “Tôi là một con người, tôi là một sinh thể tâm linh,” hay là cái gì khác, nhưng con hãy mô tả nó. Con thực sự là gì? Con sẽ thấy là rất khó thêm vào những chữ sâu sắc hay nhiều ý nghĩa. Con có thể thêm vào một số chữ hời hợt dựa trên bất cứ giáo lý tâm linh hay nhân sinh quan nào mà con có, nhưng con sẽ rất khó nói rõ con thực sự gì.

Lý do vì sao rất giản dị. Cái con thực sự là là sự cá biệt neo trong Hiện diện TA LÀ của con, và sự cá biệt này hoàn toàn vượt lên trên ngôn từ. Ta không thể giảm thiểu nó bằng lời nói. Khi con nhận ra là nỗi giận của con có thể được diễn tả bằng lời nói nhưng Bản thể thực của con không thể được diễn tả bằng lời, thì con có thể dễ dàng xoay chuyển tầm nhìn và nhận ra rằng nỗi giận của con không phải là nỗi giận của Bản thể thực của con – nó không phải là nỗi giận của con. Nó chỉ là một điều mà con đã lấy vào ở đây trong bát cung vật lý của trái đất. Con yêu dấu, thày đã đầu thai trong một thời gian rất dài trên hành tinh này. Nếu con tưởng tượng ra bất cứ sự ngu xuẩn, thấp hèn, hư xấu, ngu si nào mà con người có thể làm, thì rất có thể là thày đã trải nghiệm nó.

Bất kể hình ảnh nào về thày đã được tạo ra bởi các giáo lý vỏ ngoài hay trong tâm của các đệ tử và tổ chức chân sư thăng thiên trước đây, thì thày có thể nói một cách rất thành thực, con yêu dấu, là thày đã trải nghiệm hầu như tất cả mọi chuyện có thể trải nghiêm được trên hành tinh này qua nhiều lần đầu thai của thày. Thày không phải lúc nào cũng đã là một vị đạo sư tâm linh có tiến hóa cao hay một vị vua hay một vị vua minh triết. Trong nhiều kiếp con có thể nói là thày rất là con người. Thày không nói điều này để tự hạ mình xuống. Thày nói vậy để giản dị giúp con nhận ra là con không thể tránh cảm thấy giận dữ vì những trải nghiệm của con trên hành tinh này.

20.6. Cảm giác và đồng-sáng tạo

Cách duy nhất để con có thể tới hành tinh này mà không cảm thấy giận dữ, là con không có khả năng cảm thấy bất cứ gì. Con không thể là một sinh thể có tự nhận biết và sáng tạo nếu con không cảm thấy gì, bởi vì làm sao con có thể là một đồng-sáng tạo nếu con không có khả năng cảm giác? Chính qua cảm thể mà con đem các tạo vật của con xuống cõi vật lý, không có cách nào khác.

Con có thể có một họa đồ cực kỳ tinh vi của một ngôi nhà trong thể lý trí của con, nhưng con không thể đem nó thẳng từ cõi lý trí xuống cõi vật lý. Con phải đi qua cõi cảm xúc, và đây là cách con sáng tạo bất cứ gì. Sự kiện con tới đây như một avatar chứng tỏ là con có khả năng cảm giác. Vì sao con lại tới đây nếu con không có lòng từ bi đối với những người sống trên trái đất? Khi con tới đây và trải nghiệm sự đau khổ cùng cực của những người ở đây, thì làm sao con không phản ứng một cách giận dữ?

Thày đã có nhiều kiếp sống trong đó thày đã phản ứng một cách giận dữ, và tất cả những sinh thể đã thăng thiên từ trái đất đã có những kiếp đầu thai như vậy. Một số đệ tử tâm linh có khuynh hướng duy trì hình ảnh tôn sùng El Morya, Saint Germain hay Giê-su, và cho rằng tuy các thày đã từng đầu thai trên trái đất, nhưng các thày lúc nào cũng điềm đạm, bình tĩnh và tự chủ. Các thày không làm gì có thể bị chê trách, không bao giờ làm gì sai trái, không bao giờ mất bình tĩnh, không bao giờ nổi giận. Con yêu dấu, có phải chăng là các thày đã giải thích là vai trò của chúng ta khi đầu thai xuống trái đất (tất cả chúng ta, các con hiện đang ở đây, và các thày đã ở đây trước kia nhưng nay đã thăng thiên) là để trải qua tiến trình trầm mình và thức tỉnh?

20.7. Con coi điều gì quan trọng?

Thày bảo đảm với con là tất cả chúng ta đã trải qua giai đoạn trầm mình đã đi vào đủ loại hành động, cảm xúc và tin tưởng mà con người thường có, và đó là chuyện không thể tránh được. Con tới một điểm nhận ra con là một sinh thể tâm linh, và con giản dị nhìn vào nỗi giận của con và nói: “Đúng rồi, tôi đã làm chuyện này, tôi đã cảm thấy thế này, tôi đã nghĩ những điều này, nhưng đây chỉ là những điều tôi đã lấy vào khi tôi phản ứng lại hành tinh rất khó khăn này.” Sau đó, con bước lui lại và nói: “Có điều gì trên hành tinh này mà tôi coi là quan trọng, có điều gì mà tôi cảm thấy có quyền lực trên tôi như một sinh thể tâm linh?” Con có thể được lợi lạc nếu con thử nhìn những sinh hoạt nhân gian trong thế giới, những sinh hoạt mà con người đang tham gia. Sau đó, con nhận ra trong chính mình: “Tôi có coi những chuyện này quan trọng không? Chúng có níu kéo tôi chăng? Chúng có quyền lực trên tôi chăng?”

Tỷ dụ, con có thể xem xét việc con người đang giao chiến với nhau tại một số vùng trên trái đất và đã giao chiến với nhau suốt nhiều thế hệ. Không ai biết vì sao họ đánh nhau, nhưng họ vẫn tiếp tục đánh nhau. Con có thể nói: “Tôi có coi chuyện này quan trọng chăng, chuyện này có níu kéo tôi chăng?” Con có thể nhìn một số sinh hoạt mà con người tham dự (trong nền văn hóa của con) và nói: “Tôi có coi việc tìm cách tích lũy vài tỷ đô-la là quan trọng chăng, nó có níu kéo tôi chăng?” Con sẽ khám phá là có rất nhiều chuyện trên thế gian con không coi là quan trọng. Con đã thăng vượt chúng, chúng không còn níu kéo con, chúng không còn níu kéo con ở thể tình cảm, lý trí hay bản sắc. Con chỉ cần giản dị nhìn chúng và nói: “Rồi sao, chuyện này không có nghĩa lý gì đối với tôi.” Sau đó, con có thể xem xét vì sao con lại coi chúng quan trọng, vì sao chúng níu kéo con, vì sao con cảm thấy giận điều gì. Nếu con phản ứng với tình cảm tiêu cực, thì tại sao, con yêu dấu, con lại thấy chúng quan trọng? Lẽ dĩ nhiên, con có thể coi chúng quan trọng vì lý do chính đáng, nhưng cũng có thể vì lý do không chính đáng.  

20.8. Khe khắt với chính mình

Lý do chính đáng là trên cương vị một người tâm linh đang đi trên con đường tu, trên cương vị một avatar, con luôn luôn xem xét chính mình. Con luôn luôn lượng định mình và con lúc nào cũng tìm cách làm tốt hơn. Điều này chính đáng, chúng ta ai ai cũng đều phải làm vậy. Các thày đã tìm cách giải thích bằng nhiều cách, có khi vi tế, nhưng nay thày nói thẳng thắn: Vì sao các con là những người tâm linh nhất, ít hung hãn nhất, không phải là người xấu tính theo bất cứ tiêu chuẩn nào, vì sao con lại quá khe khắt với mình như vậy?

Vì sao khuynh hướng tự nhiên và chính đáng xem xét chính mình và lượng định xem mình có thể làm tốt hơn không lại thường khi đi đôi với cảm giác hổ thẹn khi con làm một lỗi lầm, khi con làm một điều mà con nghĩ một người tâm linh không được làm? Vì sao lại thường có một cảm xúc rất mạnh, và ngay cả (nếu con nhìn kỹ) một phản ứng ở thể lý trí, và trong một số trường hợp ở phần thấp của thể bản sắc của con? Con có ý niệm là con không được làm chuyện đó, con không được nổi giận, con không được làm điều mà người thường vẫn làm. Con đáng lẽ phải đứng bên trên phản ứng đó. Tại sao con lại có ý niệm đó, vì sao lại có phán xét giá trị đặt lên trên việc lượng định tự nhiên và xây dựng?

Vì sao một số trong các con đã khắc phục được khuynh hướng đó, nhưng nhiều người thì chưa? Nhiều người, khi mới tìm ra con đường tâm linh, đã trải qua một giai đoạn đối phó với khuynh hướng này. Bỗng nhiên, giáo lý tâm linh trở nên một cách khác để họ lên án mình và cảm thấy là họ không làm tròn bổn phận. Đầu năm nay các thày đã nói là các thày là chân sư thăng thiên chỉ mong muốn một điều là các con cảm thấy thoải mái với chính mình, nhưng rất nhiều khi giáo lý mà các thày trao truyền lại khiến các con cảm thấy không thoải mái bằng trước khi nhận giáo lý.

Vì sao lại có cơ chế đó? Con yêu dấu, nó một phần do sa nhân gài vào. Họ đã đề ra những lý thuyết cầu kỳ cho rằng trong con có điều hư xấu, và con là thế này hay thế khác. Con yêu dấu, con hãy nhìn nhận là sa nhân không chỉ tạo ra, tỷ dụ, quan niệm tội tổ tông (original sin) cho rằng mọi con người đều hư xấu. Họ cũng đã tạo ra một số khái niệm rất, rất vi tế mà con không thể tìm ra trong các bản văn, nhưng vẫn hiện hành trong tâm thức tập thể. Họ nói là nếu con là một người tâm linh thì con không được nổi giận, vì đây là một điều rất, rất xấu. Nếu con nổi giận và mất bình tĩnh thì con phải cảm thấy rất hổ thẹn.

Ý tưởng này do sa nhân tạo ra, không phải – không phải – do chân sư thăng thiên tạo ra. Các thày không muốn các con phán xét mình kiểu đó. Vậy thì vì sao nhiều người trong các con là đệ tử chân sư thăng thiên lại làm theo sa nhân và những gì họ gài vào con, thay vì làm theo các thày, dù con đã biết các thày? Vì sao con vẫn còn cơ chế đó trong bốn thể phàm của mình (mà con không thể khắc phục hoàn toàn) khiến con cảm thấy hổ thẹn? Thày sẽ nói con vì sao! Đó là vì con giận chính mình. Trong rất, rất nhiều kiếp con đã hướng nỗi giận tới chính mình vì con vẫn giữ, hay con đã lấy lại khi con bắt đầu tiến lên trên con đường tu, cảm nhận là cách mọi chuyện đang trải bày trên trái đất không phải là cách duy nhất mà chúng có thể là.

20.9. Chấm dứt vòng xoáy đi xuống

Nhiều người trong các con đã tới từ hành tinh tự nhiên là nơi không có những biểu hiện mà con thấy trên trái đất. Do đó, không bao giờ có một điều kiện bên ngoài nào dữ dội đến độ khiến con cảm thấy giận dữ. Vì vậy, con đã giữ trong bản thể của con cảm nhận (hay con đã nối kết trở lại với cảm nhận đó trong bản thể của con) là con không được nổi giận. Như thày đã nói, mọi chuyện trên trái đất tệ hơn trên các hành tinh tự nhiên rất nhiều, do đó con không thể tránh cảm thấy giận dữ.

Vì con có khuynh hướng lượng định chính mình (là điều cần thiết, vì nếu không thì con không thể tăng trưởng), vì con có cảm nhận là con không được làm như vậy, nên con đã giận mình là đã nổi giận trước những điều kiện trên trái đất. Điều này tạo nên một vòng xoáy và cơn giận chính mình đã tích lũy trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc thấp của con. Điều này có nghĩa là trong kiếp đầu thai tới, khi con gặp một điều kiện dữ dội trên trái đất, con sẽ có khuynh hướng cảm thấy giận điều kiện đó. Sau đó, lẽ dĩ nhiên là con cảm thấy giận mình vì đã nổi giận, và vòng xoáy cứ mạnh thêm và mạnh thêm. 

Con yêu dấu, thày không có ý định – không có ý định – khiến con cảm thấy xốn xang hơn vì có vòng xoáy đó. Thày muốn con nhận ra là con có vòng xoáy đó và đã đến lúc vượt thăng nó. Vậy, con làm sao vượt thăng nó? Ấy, con yêu dấu, mỗi người trong các con có thể cần một tiến trình riêng. Nó bao gồm điều mà thày đã giảng: nhận ra rằng nó không phải là nỗi giận của con. Con không có nó khi con đến đây, con không giận chính mình khi con đến đây. Đây là một cái gì con đã lấy vào khi gặp những điều kiện trên trái đất. Con có thể cần làm bài tập mà thày đã trao cho các con liên quan đến việc nhìn các điều kiện trên trái đất và nói: “Chúng có còn níu kéo tôi nữa chăng? Vì sao tôi lại giận mình vì đã nổi giận trước những điều kiện này?” Con có thể nhờ vậy đi vào tiến trình dần dần buông bỏ một phần nỗi giận.

20.10. Nỗi giận không thể tự nó hiện hữu

Thày không muốn nói là có một chuyện con có thể làm và tức khắc loại bỏ nỗi giận. Con có thể tới điểm nhận ra là nỗi giận không phải là một cảm xúc hay một mô thức tư tưởng có thể tự nó hiện hữu. Các thày có nói tới các ước muốn thật và các ước muốn giả. Ta cũng có thể nói là có cảm xúc thật, cảm xúc giả, cảm xúc cao và cảm xúc thấp. Các thày có nói tới cảm xúc dựa trên tình thương và cảm xúc dựa trên sợ hãi. Ấy, con yêu dấu, sự khác biệt rất giản dị hay ít ra nó có thể được diễn tả một cách rất giản dị.

Một cảm xúc dựa trên tình thương có thể tự nó hiện hữu. Một cảm xúc dựa trên tình thương là một dạng năng lượng tâm linh xuất phát từ cõi cao và tuôn chảy xuyên qua con. Nó có thể hoàn toàn tự nó hiện hữu. Một cảm xúc dựa trên sợ hãi, và giận dữ là một cảm xúc dựa trên sợ hãi, không thể tự nó hiện hữu. Nó có thể tự nó phát triển và trở nên một tà thể (entity) hay ác quỷ (demon), nhưng nó không thể tự nó hiện hữu.

Nó bắt buộc phải có một đối tượng. Con không sợ một cái gì không xác định, con không sợ cái không là vật thể. Khi con sợ thì con phải sợ một cái gì đó. Đúng là giận dữ hay sợ hãi có thể trở nên một cảm xúc chung chung lấp đầy thể cảm xúc của con đến độ con không nhận ra là mình sợ cái gì, nhưng nỗi sợ bắt đầu bằng một nỗi sợ cái gì đó. Tương tự, giận dữ bắt đầu bằng nỗi giận một đối tượng. Có một lý do khiến con giận dữ, và đó là lý do vì sao thày nói con có thể khắc phục cảm xúc đó bằng cách sẵn sàng làm theo lời Giê-su: “Chúng ta hãy cùng nhau suy luận.” Đây là một châm ngôn của các chân sư thăng thiên: “Chúng ta hãy cùng nhau suy luận.”

20.11. Suy luận về sự giận dữ

Nếu con sẵn sàng thì con hãy chọn một vị chân sư thăng thiên. Thày tình nguyện làm việc này, nhưng con hãy chọn vị chân sư nào gần với con. Sau đó, con nói: “Chúng ta hãy cùng nhau suy luận về nỗi giận của con.” Nếu con sẵn sàng đi hết tiến trình này thì con có thể tới điểm dần dần thấy đối tượng nguyên thủy đã khiến con giận hành tinh này. Sau đó, con dần dần thấy là điều đó không còn quan trọng đối với con như lúc ban đầu. Như được giảng trong quyển sách mới, chấn thương nhập đời nguyên thủy, chấn thương đầu tiên của con, không thể được lặp lại vì con không thể cảm thấy lại sự tương phản giữa sự việc gây nên chấn thương và trạng thái ngây thơ của con lúc đó. Khi con nối kết lại với sự việc nguyên thủy đã khiến con giận trái đất, thì nó không còn quan trọng đối với con như lúc đầu nữa. Điều này có nghĩa là con tới điểm nói: “Đúng rồi, tôi có thể buông bỏ nó. Tôi không còn thấy giận chuyện này nữa.” Sau đó, khi con đã phần nào làm được việc này với những đối tượng đã khiến con giận trái đất, thì con có thể xin sự hướng dẫn của vị chân sư để nhận ra: “Tại sao con lại cảm thấy giận chính mình?”

Lúc đó, con sẽ nhận ra là, một lần nữa, có chuyện gì phi lý. Như thày có nói, con không dễ dùng ngôn từ để diễn tả con là gì, và con nhận ra rằng nếu con giận chính mình, thì con đã biến mình thành một vật thể. Con chỉ có thể giận một vật thể, tỷ dụ như con giận một số điều kiện trên trái đất hay con giận sa nhân. Nếu con giận chính mình, thì có nghĩa là có một vật thể mà con giận.

Vật thể đó là gì? Ấy, nó là cái mà các thày đã gọi (trong một số giáo lý mà các thày đã trao truyền) là một sắc thái của tự ngã, một phàm linh nội tại hay một cái ngã tách biệt. Con có thể tới điểm nhận ra con có một cái ngã cảm thấy là, trong cương vị một người tâm linh, con không bao giờ được giận dữ. Do đó, khi con cảm thấy giận dữ, cái ngã đó bắn một mũi tên vào thể cảm xúc của con và khiến con cảm thấy không thoải mái. Con cảm thấy không thoải mái một cách mơ hồ với chính mình. Con cảm thấy con kém cỏi, con thấp kém, con đã phạm một lỗi lầm, con không thể nào chuộc tội. Bởi vì cái ngã đó khiến con cảm thấy không thoải mái, nên con cảm thấy giận cái ngã đó. Sau đó, con nhận ra là đối tượng của nỗi giận chính mình thực ra không phải là con, mà là một cái ngã không phải là con.

Nó chỉ là một cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra để phản ứng lại các điều kiện trên trái đất. Lúc đó, con tách mình ra khỏi cái ngã đó, con nhận ra là nỗi giận với chính mình thực sự không khác nỗi giận mà con cảm thấy khi con thấy có người bị giết trong chiến tranh hay bất cứ điều gì khác mà con đã trải nghiệm trong quá khứ. Con có thể tách mình ra khỏi nỗi giận và nói: “Nhưng nếu có một số điều kiện trên trái đất mà tôi không còn cảm thấy giận nữa, thì tại sao tôi lại cảm thấy giận cái ngã đó? Tôi thấy cái ngã đó không thực, nó không thực sự là tôi, vậy tại sao tôi lại giận cái ngã đó?”

20.12. Một bài tập để giải trừ nỗi giận

Khi con nhận ra là cái ngã mà con giận tách biệt với con, thì con có thể làm một bài tập nhỏ khác. Dựa trên những gì con biết về khía cạnh tâm linh của đời sống và về chính con, thày muốn con hình dung là bây giờ con nhìn vào nỗi giận chính mình (cái ngã tách biệt) và con nói: “Đúng rồi, nhưng bây giờ tôi không muốn hướng nỗi giận về phía cái ngã tách biệt nữa, bây giờ tôi muốn hướng nó về phía cái ta thật của tôi. Vậy cái ta thật của tôi là gì, cái ta thật của tôi ở đâu, tôi muốn xác định nó là gì một cách chính xác.” Con sẽ thấy là nếu con làm việc này, thì tâm của con sẽ trống trơn. Con không thể tạo một hình tư tưởng hay một hình ảnh ngôn từ về cái ta thật của con, vì cái ta thật của con – mặc dù các thày đã gọi nó là Hiện diện TA LÀ và cho con một số khái niệm – vượt ra ngoài những gì con có thể hình dung hay tưởng tượng với tâm vỏ ngoài của con.

Tâm vỏ ngoài không thể hiểu Hiện diện TA LÀ. Cái Ta Biết có thể trong thoáng chốc trải nghiệm Hiện diện TA LÀ, nhưng tâm vỏ ngoài thì không thể. Cái Ta Biết không chĩa nỗi giận, mà là tâm vỏ ngoài, cái ngã vỏ ngoài. Khi con nhận ra là con không thể tìm ra cái ta thật để hướng nỗi giận tới, thì con cũng nhận ra là không phải cái ta thật đang giận dữ. Cái ta thật còn không giận cái ta tách biệt đã khiến con cảm thấy không thoải mái. Cái gì giận cái ta tách biệt? Ấy, đó lại là một cái ngã tách biệt khác.

Bây giờ thì con có một cái ngã tách biệt khiến con cảm thấy không thoải mái và một cái ngã tách biệt khác khiến con giận cái ngã tách biệt đầu. Khi con thấy điều này thì con thấy đây là một trò hề. Không phải là các ngã tách biệt này không có mặt. Con thực sự có thể thấy một nhân vật giống như một anh lùn giữ cửa (gnome) đang có vẻ bị gánh nặng quá tải và bất lực, đang phóng chiếu không ngừng là con phải hổ thẹn vì không toàn hảo. Và có một cái ngã nhăn nhó khác đang phóng chiếu là con phải giận cái ngã đầu. Con có thể thấy là hai cái ngã này có mặt. Lúc đó, con có thể thấy: “Chúng không phải là tôi. Chúng ở trong bốn thể phàm của tôi.” Quả thật là con đã tạo ra chúng, nhưng chúng không phải là con, và con có thể nói: “Tại sao tôi lại muốn kéo lê các ngã này theo tôi? Tại sao?”

Con yêu dấu, nếu con tìm ra được một lý do vì sao con muốn tiếp tục kéo lê các ngã này theo con, thì thày không có vấn đề gì. Thày tôn trọng quyền tự quyết của con. Nếu con muốn mang chúng theo con, thì con hãy làm chuyện này. Thày chỉ muốn cống hiến sự trợ giúp của thày nếu con muốn giải thoát mình khỏi chúng. Lúc đó, con chỉ cần giản dị lấy một quyết định. Con cần lấy quyết định gì? Đó là: “Tôi sẵn sàng để cho các ngã này chết đi.”

20.13. Hội chứng truyền giáo

Giờ đây điều thày nói sau đây có thể cần con suy ngẫm. Một lần nữa, thày tìm cách dùng cái trí của con, cái trí lý luận, lô-gíc, suy luận, để vượt qua khả năng suy luận của nó bằng cách giúp con thấy là đôi khi óc suy luận trở nên quá đáng vì nó tạo ra mâu thuẫn. Điều con cần nhận ra là điều Mẹ Mary đã nói trong bài truyền đọc của thày: “Trong cương vị một avatar con không có mặt trên trái đất để đem lại thay đổi vật lý đặc trưng.” Vì sao lại như vậy? Vì chuyện xảy ra trên trái đất không phải là trách nhiệm của con, mà là trách nhiệm của các cư dân nguyên thủy.

Nếu cần có thay đổi vật lý đặc trưng, tỷ dụ như loại bỏ chiến tranh và không còn chiến tranh trên hành tinh này nữa, thì con, như là một avatar, không thể lấy quyết định đem tình trạng này xuống cõi vật lý. Cần có đủ túc số cư dân nguyên thủy lấy quyết định này, và lúc đó nó sẽ hiện thực trong cõi vật lý. Điều con có thể làm là giúp họ lấy quyết định này. Con làm việc này như thế nào? Không bằng cách ép buộc họ, vì như vậy thì con chỉ làm đúng những gì sa nhân đã làm – con còn không thể ép buộc họ ở các tầng xúc cảm, lý trí và bản sắc.

Con cần nhận ra một điều mà rất rất nhiều người tâm linh hay sùng đạo (nhưng nhiều người tin vào một ý thức hệ chính trị cũng vậy) đã bị mắc bãy, đó là điều mà ta có thể gọi là “hội chứng truyền giáo”. Đây là khi con nghĩ con cần đi ra bên ngoài và cải đạo mọi người theo hệ thống tư tưởng của con bằng cách dùng cảm xúc, thể lý trí và ý niệm bản sắc của họ, để họ đổi ý và tin vào hệ thống tư tưởng của con. Họ lúc đó khoác hệ thống tư tưởng này như một áo choàng và nói: “Tôi bây giờ theo tôn giáo này và do đó tôi sẽ cư xử theo tôn giáo đó.” Đây không phải là lý do vì sao con đã tới đây như một avatar. Như các thày đã giảng, con tới đây để chứng minh tiến trình thức tỉnh khỏi sự tự đồng hóa mình với cõi vật chất. Con ở đây để cho mọi người thấy là bất cứ ai đều có thể nâng mình lên khỏi ý niệm bản sắc mình là một người phàm, và nhận ra là tất cả chúng ta đều là sinh thể tâm linh.

Con ở đây để chứng tỏ sự thức tỉnh, và dù con có thể, con yêu dấu, cải đạo người khác để họ theo một hệ thống tư tưởng – nhưng đó không phải là thức tỉnh. Nhiều người không dễ nhìn ra điều này, nhưng con thì có thể thấy. Nếu con có thể cải đạo tất cả mọi người trên hành tinh để họ trở nên tín đồ Công giáo thuận thành, thì điều này có nghĩa chăng là họ đã tới gần quả vị Ki-tô hơn? Ấy, lẽ dĩ nhiên con biết là không, vì giáo hội Công giáo đã tha hóa khái niệm quả vị Ki-tô.

Con có thể nói: “Nếu con có thể cải đạo mọi người để họ tin giáo lý chân sư thăng thiên, thì điều này có dẫn họ tới gần quả vị Ki-tô hơn chăng?” Ở đây thì ta có một câu hỏi lắt léo hơn vì chính thực là họ sẽ tới gần quả vị Ki-tô hơn, vì giáo lý chân sư thăng thiên có một giáo lý có giá trị hơn nếu con muốn nâng tâm thức mình lên. Con không thể thực sự hết lòng theo giáo lý chân sư thăng thiên mà không nâng tâm thức mình lên. Như các thày đã nói nhiều lần, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã chứng minh là con có thể theo giáo lý chân sư thăng thiên trong nhiều thập kỷ mà vẫn không thực sự hiểu thế nào là con đường tu nội tâm. Con có nhận ra điều thày nói chăng? Vấn đề không phải là khiến con người tin vào một giáo lý. Cách duy nhất để dẫn con người đến gần quả vị Ki-tô hơn, là con chứng tỏ bằng bản thân mình tiến trình thức tỉnh. Sau đó, lẽ dĩ nhiên con có thể giúp họ khóa chặt họ vào tiến trình đó, nhưng thức tỉnh không phải là chấp nhận một giáo lý vỏ ngoài với tâm vỏ ngoài. Nó là, như chúng ta đều biết, một tiến trình nội tâm. Con yêu dấu, khi con nhận ra điều này thì con nhận ra là con không tới đây để đem lại một thay đổi đặc trưng trên trái đất, và do đó hoàn toàn không có lý do gì để con tiếc nuối những gì con đã làm hay đặc biệt là đã không làm trong kiếp này hay các kiếp trước.

20.14. Không tiếc nuối

Giờ đây chúng ta đang ở Đông Âu, môt vùng đất trước đây ở dưới gông cùm Cộng sản. Mẹ Mary có nói là nhiều người dân Đông Âu cảm thấy không được nuôi dưỡng nhưng họ cũng cảm thấy đời họ là một cơ hội bị mất. Khi con nhìn vào các nước dưới gông cùm Cộng sản thì nhiều người có cảm tưởng là vì họ không có cơ hội biểu lộ sự sáng tạo của họ nên cuộc đời của họ đã là một cơ hội bị mất. Một số người trong các con cũng có thể cảm thấy như vậy, nhưng các con nên biết là nhiều người thuộc thế hệ cha mẹ các con đã cảm thấy như vậy. Cũng có những quốc gia (và chắc chắn nước Estonia này là một trong những nước đó) mà tâm thức quốc gia cảm thấy cơ hội bị mất vì họ nghĩ mức độ phát triển quốc gia của họ sẽ hơn nhiều nếu họ không bị Liên bang Sô viết áp chế.

Rất, rất nhiều avatar có thể có cùng cảm nhận mình đã đánh mất cơ hội. Trong khi nhiều người cảm thấy là có người khác, có một lực bên ngoài đã phá vỡ cơ hội của họ, thì nhiều avatar lại cảm thấy: “Chính tôi đã phá vỡ cơ hội vì tôi đã phản ứng như thế. Tôi đã giận dữ, tôi đã đi vào một vòng xoáy tiêu cực, tôi đã đánh nhau với sa nhân, tôi đã làm điều này, tôi đã làm điều nọ, và do đó tôi đã lãng phí quá nhiều kiếp sống.” Khi vị sứ giả này nhận truyền đọc quyển sách cuối, ông đã phải trải qua một giai đoạn trong đó ông suy ngẫm: “Nhưng nếu tôi cũng đã làm điều mà nhân vật trong quyển sách đã trải qua, là đánh nhau với sa nhân trong vòng một triệu năm, tôi đã lãng phí biết bao nhiêu thời gian trong cuộc đấu tranh nhị nguyên đó.” Con yêu dấu, khi con nhận ra điều thày đã nói: là con không tới đây để đem lại thay đổi vật lý đặc trưng, con ở đây để chứng tỏ tiến trình thức tỉnh, thì con thấy là nhìn từ một tầm nhìn cao, con không bao giờ đánh mất cơ hội. Con không thể nào đánh mất cơ hội, con yêu dấu. Con có thể nói: “Nhưng tôi đã không là người tâm linh trong kiếp sống này, tôi đã không làm việc tâm linh nào cả. Tôi chỉ làm việc tâm linh từ lúc tôi tìm ra giáo lý, nhưng suốt mấy chục năm trước tôi không làm gì tâm linh cả.” Thày sẽ nói: “Vậy vì sao sự việc này lại khiến con đánh mất cơ hội?”

20.15. Không bao giờ đánh mất cơ hội

Con tới đây để làm gì? Con tới đây để chứng tỏ là một người trong quá khứ không tâm linh nay đã thức tỉnh. Nếu trong quá khứ con đã là người tâm linh, thì làm sao con chứng tỏ cách thức tỉnh? Nếu con đầu thai với cùng trình độ tự điều ngự mà nhiều người trong các con nghĩ là Giê-su có khi thày đầu thai, thì họ sẽ làm với con điều họ đã làm với Giê-su: biến con thành một thần tượng. Các thày đã nói điều này và thày lại nói một lần nữa. Nếu một người chứng tỏ Tâm thức Ki-tô, thì sa nhân sẽ lập tức biến vị đó thành một ngoại lệ và nói: “Các người còn lại sẽ không đạt được điều này.” Nếu mười ngàn hay nhiều triệu người chứng tỏ tâm thức Ki-tô, thì sa nhân sẽ không làm được như vậy nữa, và đó chính là kế hoạch mà các thày đã đề ra cho thời đại này. Đây là kế hoạch mà Giê-su đã có 2,000 năm trước khi thày nói: “Những ai tin ta sẽ làm những chuyện ta đã làm và hơn thế nữa.”

Con yêu dấu, quả đúng là sự việc có thể xảy ra sớm hơn. Nhưng nó đã không xảy ra sớm hơn và giờ đây không quan trọng là nó đã không xảy ra sớm hơn, vì nó có thể xảy ra bây giờ nếu con sẵn sàng xoay chuyển tầm nhìn, và giản dị nhìn vào cái ngã giận dữ và nói: “Đây không phải là tôi, tôi sẵn sàng để cho nó chết đi.” Con có thể nhìn vào bất cứ ngã nào đang ngăn trở con, bất cứ ngã nào đang trì hoãn con và con có thể nói: “Tôi thấy đây không phải là tôi, tôi sẵn sàng cho ngã này chết đi.” Sau đó, con để cho nó chết đi, con yêu dấu. Làm cách nào con để cho nó chết đi? Ấy, thày sẽ nhường cho một đồng nghiệp tôn quý của thày diễn giải điều này, vì thày đã nói những gì thày muốn nói lúc này và thày đã trao cho các con những gì con có thể tiếp nhận, và nhiều hơn chút nữa, như thày luôn luôn làm.  

20.16. Chân sư MORE không tự coi mình quá quan trọng

Vì thày là Chân sư MORE, thì làm sao thày lại có thể không cho con nhiều hơn là những gì con có thể tiếp nhận? Bằng cách cho con nhiều hơn những gì con có thể tiếp nhận bây giờ, thì lần tới con có thể tiếp nhận nhiều hơn, và lúc đó thày lại có thể cho con nhiều hơn những gì con có thể tiếp nhận lúc đó. Thày chơi trò chơi này vì đây là ngọn lửa của thày. Con yêu dấu, trong một đợt truyền giáo lý chân sư thăng thiên trước, các đệ tử coi El Morya, như họ gọi thày lúc đó, rất quan trọng. Thày không bao giờ coi mình quan trọng bằng đệ tử coi thày. Vì sao vậy? Ấy, đó là vì các đệ tử chưa thăng thiên nhưng thày thì đã thăng thiên. Họ chưa thăng thiên vì họ coi thày và chính họ quá quan trọng. Thày đã thăng thiên vì thày đã ngưng coi thày và mọi chuyện trên trái đất quá quan trọng. Đó là cách duy nhất để thăng thiên, con yêu dấu.   

Khi nào còn điều gì trên trái đất mà con coi là quan trọng và nghĩ nó có quyền lực trên con (nó có quyền lực giữ con lại trái đất) thì con không thể thăng thiên. Thăng thiên có nghĩa là bỏ lại tất cả mọi chuyện trên trái đất đằng sau mình. Con chỉ có thể bỏ lại một chuyện đằng sau mình khi con tới điểm con có thể nhìn vào nó và con không coi nó quan trọng, nó không níu kéo được con. Con chỉ giản dị nói: “Ấy, rồi sao, chuyện này không có nghĩa lý gì với tôi, tôi đã thăng vượt nó. Trong quá khứ nó có nghĩa lý với tôi.” Việc có những chuyện có nghĩa lý với con là điều bình thường vì nó thuộc vào tiến trình trầm mình và thức tỉnh. Con trầm mình bằng cách coi một số chuyện quan trọng, và như vậy chúng có nghĩa lý với con. Con yêu dấu, con thức tỉnh bằng cách khắc phục khuynh hướng coi các chuyện trên trái đất quan trọng.

Con có thể nói là để thăng thiên, thì con cần coi con đường tu, Hiện diện TA LÀ của con và việc thăng thiên, là quan trọng. Làm sao con có thể coi Hiện diện TA LÀ quan trọng khi con không thể định rõ chính xác nó là gì? Một lần nữa, con coi một chuyện quan trọng vì đối với con nó đã trở thành một vật thể, nhưng con không bao giờ có thể hoàn toàn biến Hiện diện TA LÀ của con thành một vật thể. Con có thể, như một số đệ tử chân sư thăng thiên đã làm, tạo ra một khái niệm Hiện diện TA LÀ là gì và nó gần như đóng vai trò vật thể đối với con. Nếu con bắt đầu nhìn vào việc này, suy luận về nó, thì con sẽ thấy là con không thể biến Hiện diện TA LÀ thành một vật thể. Vì sao vậy? Bởi vì nó không ở bên ngoài con. Con có thể nói con có khái niệm về Hiện diện TA LÀ của con nhưng nó không phải là Hiện diện TA LÀ của con. Con có thể coi khái niệm đó quan trọng, nhưng đó không phải là Hiện diện TA LÀ của con. Con không thể biến cái gì không tách biệt khỏi con thành một vật thể, và con không thể thực sự nắm bắt Hiện diện TA LÀ của con khi con còn ý niệm tách biệt khỏi nó.

Thày đã không cưỡng được cám dỗ cho con nhiều hơn những gì thày đã nói thày muốn cho con. Bây giờ, thì thày sẽ cáo biệt và chúc lành các con vì thày  thực sự vui mừng khi tương tác với bản thể các con. Thày sẽ vui mừng tương tác với từng người trong các con ở mức độ cá nhân, khi con tinh tấn làm việc với thày.

Thày bày tỏ lòng tri ân, tình thương và ngọn lửa HƠN NỮA của thày.

Chấn thương nhập đời nguyên thủy

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 5 năm 2015. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

Quả thực TA LÀ Chân sư Thăng thiên More và trong quá khứ ta được biết tới dưới các tên M, Morya, El Morya, Bapu hay một số tên khác. Một cái tên chứa đựng những gì? Thày hơn bất cứ danh hiệu nào. Thày là hơn chân sư MORE. Thày hơn tất cả những gì trước đây. Hình ảnh nào trong bát cung vật lý trên một hành tinh như trái đất có thể nắm giữ được một chân sư thăng thiên? Không một hình ảnh nào cả! Con yêu dấu, không một điều gì có thể nắm giữ được thày bao giờ. Bất cứ hình ảnh nào được phóng chiếu lên thày từ sa nhân hay học viên của chân sư thăng thiên – không nhất thiết là hai nhóm này không trùng khớp – thày sẽ hơn hình ảnh đó.

Con sẽ không bao giờ với được tới thày nếu con nắm chặt một hình ảnh từ quá khứ. Quá khứ là gì? Một giây trước đây là quá khứ, con yêu dấu. Con suy nghĩ nhanh nhất mà con làm được, thì đó đã là quá khứ. Con có nhận ra chăng là tâm con người có một khoảng cách trong đó nó thể phân biệt được thời gian? Khoảng cách đó rất gần với một giây, nhưng thực ra con có thể phân biệt thời gian trong khoảng cách ngắn hơn thế.

Đó là quá khứ. Khi khoảng cách đó đã trôi qua, tất cả mọi thứ trước đó là quá khứ. Bây giờ con có thể nói: “Khoảng cách này quá ngắn khiến tâm ý thức của tôi không thể bắt kịp. Tôi không thể nghĩ một cách có ý thức: ‘Ồ, điều này là quá khứ. Bây giờ tôi đang ở trong hiện tại.’” Không đâu, con không làm được điều này, nhưng tại sao con cần phân biệt giữa quá khứ và hiện tại và tương lai? Tại sao cần có cái gì khác ngoài cái hiện tại?”

3.1. Tại sao con cần thời gian?

Tại sao con cần phân chia thời gian thành quá khứ, hiện tại và tương lai? Hãy tuôn chảy với hiện tại vĩnh hằng. Lúc ấy con là hơn tất cả cái gì con là trước đó, dù rằng không có cái trước đó, không có cái sau đó, chỉ có cái ngay bây giờ. Đây là niềm vui thực khi con tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống.

Những biểu hiện của phản-tình thương muốn chia chẻ mọi thứ, xếp mọi thứ vào thể loại tách biệt. Rồi chúng muốn nói là chuyện xảy ra trong quá khứ sẽ ảnh hưởng hiện tại và quyết định tương lai.

Con nghĩ về khái niệm nghiệp quả của người Ấn độ cho rằng mọi chuyện xảy ra trong cuộc sống của con được định trước bởi nghiệp quả từ các kiếp trước. Con yêu dấu, nếu quả thực như vậy thì toàn thể mục đích cuộc sống là gì đây? Phải chăng mục đích cuộc sống là mở rộng tâm thức của mình? Làm sao mở rộng tâm thức? Bằng cách chọn lựa. Nếu mọi chuyện trong hiện tại của con đều bị quá khứ quy định thì còn chỗ nào cho con chọn lựa nữa đây?

Con có thể nói: “Nhưng nghiệp quả của tôi do những chọn lựa trong quá khứ của tôi tạo ra.” Phải, đúng đấy, nhưng nếu những chọn lựa quá khứ của con có thể tước đi khả năng chọn lựa trong hiện tại của con thì làm sao con học hỏi được? Vậy mục đích cuộc sống ở đâu? Con có nghĩ chăng là một Thượng đế đầy tình thương có thể nào sáng tạo một vũ trụ trong đó con có thể lấy một chọn lựa và chọn lựa này sẽ tước đi khả năng phá bỏ chọn lựa cũ bằng một chọn lựa mới? Thượng đế nào lại làm như vậy? Chắc chắn không phải Thượng đế mà thày biết.

Có thể đó là thượng đế mà sa nhân đã chế ra mà nhiều người trên trái đất thờ phượng vì họ nghĩ vị thượng đế này cần thờ phượng. Con yêu dấu, vị thượng đế giả do sa nhân chế ra cần được con người thờ phượng bởi vì thượng đế đó không thật và do đó không thể nào nhận được năng lượng từ cõi tâm linh mà thày cảm nhận lúc nào cũng đang tuôn chảy qua thày. Thượng đế đó cần năng lượng của con người và đó là lý do tại sao vị ấy cần được thờ phượng. Làm sao một Thượng đế vô hình tướng lại có thể cần bất cứ gì từ con người trên trái đất? Đúng thật là Thượng đế vô hình tướng cần một điều: ngài cần cho ra từ chính ngài và ngài cần có những ai sẵn sàng nhận. Đó là cách để khép kín vòng chảy hình số tám. Đó là điều Thượng đế thật muốn. Thượng đế muốn tuôn chảy, muốn là hơn nữa qua con khi con trở nên hơn nữa.

3.2. Làm thế nào Thượng đế trở nên hơn nữa

Đấng Sáng tạo vũ trụ đã đạt được tâm thức của các đấng Sáng tạo. Ngài không thể trở nên hơn nữa bằng cách Sáng tạo nhiều hơn. Ngài trở nên hơn nữa bằng cách tạo ra những nối dài của chính ngài và gửi các nối dài này xuống một bầu cõi chưa thăng thiên. Khi các phần nối dài này tăng triển tâm thức, thì đấng Sáng tạo trở nên hơn nữa qua họ. Tại sao đấng Sáng tạo lại sáng tạo một vũ trụ trong đó con không thể trở nên hơn nữa, con bị giới hạn trong việc trở nên hơn nữa, con bị giới hạn trong việc thăng vượt? Không một Thượng đế nào làm điều này – ngoại trừ thượng đế giả không có thật.

Thày không còn chú ý tới các thượng đế giả này. Tại sao con lại cần chú ý tới họ? Tại sao con nghĩ con cần chú ý tới họ?

Con yêu dấu, con hãy nhìn lại chính mình và hãy chân thành với chính mình. Hầu như mỗi người chúng con đều mang một hình ảnh giả về thượng đế, không những trong kiếp này mà ngay cả trong các kiếp trước. Thày không trách cứ con về chuyện này. Khi con đã sống nhiều kiếp trên hành tinh này, con không tránh khỏi bị nhồi sọ, lập trình với hình ảnh giả của thượng đế này.

Thày không đang cố gắng tìm lỗi nơi con. Thày cũng không yêu cầu con tìm lỗi nơi mình. Thày chỉ muốn con nhìn nhận: “Ồ, đúng rồi, tôi có khuynh hướng nhìn Thượng đế như vậy và lẽ dĩ nhiên đây không phải là Thượng đế chân chính.” Rồi con quyết định buông bỏ hình ảnh giả này. Con sẵn sàng thoát khỏi các hình ảnh này.

3.3. Con thật sự từ đâu đến

Con yêu dấu, sa nhân làm cách nào để đánh bẫy con trong cái ta tách biệt, trong tâm thức nhị nguyên? Con có nhận ra chăng là đa số các con đã có lúc ở trên cõi ê-the và nhìn xuống trái đất? Đa số các con là những người tâm linh không được sinh tạo để đầu thai lần đầu trên trái đất. Các con đã đầu thai trên những hành tinh khác trước đó.

Các con đã tới điểm có chọn lựa tự do không cần phải trở lại hành tinh cũ của mình nữa. Con có thể đầu thai trên một hành tinh khác. Con nhìn vào trái đất và thấy ở đó có nhu cầu vì con thấy các cư dân nguyên thủy ở đó đều bị mắc bẫy trong một tấm màn, trong một vòng xoắn ốc đi xuống. Con thấy được là cách thực tế duy nhất để đem lại thay đổi là có người không bị mắc bẫy trong xoáy ốc xuống đầu thai. Người đó có tầng mức tâm thức cao hơn và do đó có thể nâng các cư dân lên cao hơn. Con nhìn trái đất ở giai đoạn đó và con quyết định con muốn xuống đầu thai nơi đó.

Đối với một số người trên trái đất, đây là lần đầu họ đầu thai trên hành tinh này. Ngay cả một số người tâm linh đã là linh hồn trưởng thành, đây là lần đầu thai đầu tiên của họ trên hành tinh này. Nhiều linh hồn đã đầu thai lần đầu tiên trên trái đất vào thời điểm này vì họ muốn giúp vào việc chuyển tiếp từ thời đại Song ngư sang thời đại Bảo bình, và họ muốn giúp Saint Germain biểu hiện Thời đại Hoàng Kim. Nhiều người trong các con đã giúp Saint Germain biểu hiện Thời đại Hoàng Kim trên các hành tinh khác trước khi đến trái đất, cho nên các con muốn góp phần vào công việc này. Cũng có một số đông các con đã ở trên trái đất này nhiều kiếp.

Tuy nhiên, đã có một lúc khi con đi xuống đầu thai lần đầu trên hành tinh này. Thày có thể bảo đảm với con rằng – và thày cần bảo đảm với con vì con đã dồn nén ký ức này – ở trên bát cung ê-the và nhìn xuống trái đất là một chuyện. Đúng vậy, lẽ dĩ nhiên con có thể thấy là có vấn đề trên trái đất. Con có thể thấy nhiều hoàn cảnh đáng lý không được như thế. Đó chính là lý do vì sao con muốn xuống đây và trợ giúp. Ở trên bát cung ê-the không cách chi con có thể biết được là kiếp đầu thai trên trái đất dày đặc như thế nào. Con không thể nào biết được.

3.4. Cú sốc khi đầu thai

Lúc mà con đầu thai trong xác thân vật lý lần đầu tiên và lúc con ý thức chuyện gì xảy ra trên hành tinh này, thì con bị một cú sốc. Không người nào mà không bị cú sốc nặng nề khi đầu thai lần đầu tiên ở đây (sau khi trái đất đã bắt đầu đi vào vòng xoáy hướng hạ). Có thể con nghe có người nói chuyện về cú sốc khi sanh ra trong kiếp này. Đa số mọi người đã dồn nén ký ức này, nhưng con có thể trở về điểm đó và trải nghiệm lại nó và qua đó vượt qua chấn thương nhập đời này. Ở đây thày nói đến chấn thương đầu thai lần đầu.

Các sa nhân, ít nhất là một số trong các sa nhân, biết chuyện gì đang xảy ra. Một số trong họ có khả năng theo dõi biết được khi một dòng sống mới đầu thai lần đầu trên trái đất. Các sa nhân này ở trên cõi bản sắc nhưng họ có hàng ngũ dưới họ, hàng ngũ giả dưới họ, ở các cõi lý trí, tình cảm và vật lý. Họ có khả năng hòa điệu với dòng sống của con và biết được là con là loại dòng sống như thế nào. Sau đó họ có thể ra lệnh cho bộ hạ của họ, từ các cõi cao xuống tới cõi vật lý, dàn xếp để cho con phải chịu đựng một hoàn cảnh khe khắt nhất, kinh khủng nhất, ghê tởm nhất mà con có thể tưởng tượng được. Họ biết chính xác hoàn cảnh nào đối với con kinh khủng nhất và họ sẽ dùng bộ hạ của họ để bắt con phải chịu hoàn cảnh vật lý mà con xem là kinh khủng nhất có thể xảy ra cho mình.

Nhiều người đã phải đối đầu với chiến tranh, tra tấn hay những hình thức bạo hành khác. Đây là biểu hiện của phản-tình thương, là một sự hủ hóa của tia sáng thứ nhất của uy lực. Các sa nhân trong cả bốn bát cung đã lạm dùng quyền lực xâm phạm con đến độ con cảm thấy điều này kinh khủng tuyệt đối và làm con bị chấn động tuyệt đối. Con cảm thấy chuyện này không được xảy ra cho bất cứ ai. Giản dị là nó không được xảy ra.

Khi con phản ứng như thế là lúc con đi vào tâm thái bị sốc. Khi con còn ở trên bát cung ê-the, con có thể thấy có những chuyện xảy ra trên hành tinh, nhưng con không sống trong đó và con biết là con không bị ảnh hưởng bởi những gì xảy ra trong bát cung vật lý. Khi con xuống đầu thai, thì gần như không tránh được là con đã quên đi mình là một sinh thể tâm linh không thể nào bị ảnh hưởng bởi chuyện gì xảy ra trong bát cung vật lý. Khi con ở trong xác thân vật lý, con trải nghiệm cái đau, cái chấn thương, cái khổ đau của thân vật lý. Con không giữ được sự nhận biết là: “Ồ, tôi là một sinh thể tâm linh, và không có điều gì xảy ra cho thân thể vật lý quy định được tôi.” Có một điểm khi xác thân bị tra tấn tới mức đó, bị đau đớn tới mức đó thì gần như không ai có thể không dính mắc vào cái đau này.

3.5. Vết thương của cơn đau tối đa

Có một điểm khi các sa nhân xâm phạm con bị chấn thương đến độ họ buộc con phải trải nghiệm cơn đau tối đa. Con lúc ấy không thể không dính mắc. Có một trạng thái đau đớn tối đa mà tất cả chúng ta đều đã trải nghiệm khi đầu thai lần đầu trên hành tinh này. Nó trở thành một vết thương trong bản thể của con, một vết thương trong hồn con, trong bốn thể phàm của con. Ở thời điểm đó, cơn đau này làm con choáng ngợp và nó quả thực đã choáng ngợp con, khi con ở tầng tâm thức của con lúc đó.

Thày không trách cứ con chút nào. Thày cũng đã phản ứng y như vậy khi đầu thai lần đầu. Mọi người đã từng đầu thai ở đây đều đã làm như vậy. Mục đích của thày ở đây là giúp con nhìn nhận chấn thương nhập đời vũ trụ này và giải thoát mình ra khỏi nó. Một số các con cảm nhận được nó như thế nào. Một số các con có thể xem xét được: “Điều gì làm tôi bị xáo trộn nhất trên trái đất? Hoàn cảnh nào tôi thật sự muốn trừ tiệt? Chuyện gì tôi thật sự cảm thấy không được xảy ra?”

Có thể là con không trải qua hoàn cảnh này trong kiếp này nhưng con đã thấy người khác bị như thế và con nói: “Chuyện này quả thật không được xảy ra.” Cảm tưởng này dính liền với điều đã xảy ra cho con trong lần đầu thai đầu của con. Nếu con quán chiếu nó, con sẽ thấy rõ hơn nó là gì bên trong con.

Lẽ dĩ nhiên quán chiếu thôi không đủ. Con cần nhận ra là có một số lượng năng lượng đã bị tha hóa qua vết thương đó. Con cần kêu gọi các thày, thỉnh cầu ánh sáng để tiêu trừ nó để con tới được điểm mà con có thể bắt đầu nhìn vào nó. Thày nói thật với con: chỉ có một cách để con giải thoát mình khỏi chấn thương này. Đó là con làm điều mà tự ngã của con, các sa nhân hay hầu hết con người đều không muốn con làm – đó là con đi thẳng vào chấn thương đó và trải nghiệm nó trở lại.

3.6. Nhu cầu trải nghiệm lại chấn thương

Không cách chi giúp con giải thoát mình khỏi bất kỳ kinh nghiệm nào mà con đã trải qua trên trái đất bằng cách trốn chạy kinh nghiệm này và nỗi đau mà nó đã gây ra. Con không thể thoát khỏi bất cứ điều gì bằng cách trốn chạy nó. Con chỉ thoát được khi con đi thẳng vào nó, trải nghiệm nó, và vì tâm thức của con đã được nâng lên, nó không còn quy định con nữa. Con không còn tự đồng hóa mình với nó. Con không còn bị nó giam hãm. Các sa nhân muốn con tin, tự ngã muốn con tin rằng nếu con đi vào nỗi đau nguyên thủy đó, con sẽ chết. Con sẽ bị choáng ngợp trở lại. Nó sẽ quá sức chịu đụng của con. Nhưng con thấy chăng, con đã tiến hơn so với lần đầu tiên khi con xuống hành tinh này. Hầu hết các con đã tiến rất xa trong tâm thức và do đó chuyện này giống như một người trưởng thành trở về nhìn một chấn thương thời trẻ thơ hay chấn thương nhập đời.

Con có thể đối phó với nó bây giờ vì con nhận ra rằng con không trải nghiệm nó như lúc nó xảy ra lần đầu. Con không bị choáng ngợp. Con không hoàn toàn nhập vào nỗi đau. Con có thể tách mình ra khỏi nỗi đau. Khi con đi vào chấn thương đó, thì con trải nghiệm rằng: “Tôi vẫn còn ở đây. Tôi vẫn còn sống. Tôi đâu có chết. Tôi không bị tiêu hủy. Tôi không bị nỗi đau nuốt chửng. Tôi chỉ đang đứng ở đây, đang nhìn dòng năng lượng xoắn tít này, và tôi đang nhìn những niềm tin, và tôi đang nhìn tất cả những sinh linh trong cõi trung giới, và tôi nhận ra rằng đây không phải là tôi. Đây chỉ là một cái gì mà một phần của tôi, cái ta vỏ ngoài của tôi, đã trải nghiệm. Nhưng tôi hơn kinh nghiệm này, và do đó tôi có thể nhìn nó và nói: “Ngươi không còn sở hữu ta nữa. Ngươi không quy định ta nữa. Đây không phải cái ta là. Bớ Satan, ngươi hãy lui ra đằng sau ta, vì ta thấy được ngươi không thật, ta thấy và ta trải nghiệm cái thật của chính ta và cái thật của các chân sư thăng thiên.”

3.7. Các chân sư sẽ hỗ trợ các con

Các thày không nói rằng con phải làm việc này một mình. Chân sư nào mà con cảm thấy thân thiết nhất trong tim con, chân sư đó sẽ hỗ trợ con làm việc này. Các thày sẽ hỗ trợ con rất xa trên con đường này. Nhưng sẽ tới một điểm mà các thày không thể giúp con thêm nữa, lúc ấy con phải bước bước đó một mình, cái bước cuối cùng khi con đối đầu với ác quỷ trong chính mình, theo câu ngạn ngữ bình dân, và thấy chúng không thật.

Con hiểu là thày đang cho con ở đây chìa khóa về cách sa nhân đã giăng bẫy con người. Họ lạm dùng quyền lực mà họ có trong bát cung vật lý để con bị chấn thương. Đây là cái không thực mà con nghĩ là thực, ý tưởng cho rằng những điều đã xảy ra cho con trong quá khứ đang quy định kinh nghiệm sống hiện tại của con và đang quy định chuyện gì sẽ xảy ra cho con trong tương lai. Ảo tưởng này chính là điều thày muốn phá tan trong con.

Họ thực sự muốn nói với con là những gì con dùng ý chí làm trong quá khứ đã ngăn cản những gì con có thể dùng ý chí làm trong hiện tại và miên viễn về sau. Đây là biểu hiện của phản-tình thương. Thày nhất quyết muốn thấy con thoát khỏi điều đó, nếu con muốn, nhưng con phải có ý muốn. Thày không muốn hộ con được.

Một khi con đã muốn, thày có thể củng cố chọn lựa của con. Thày có thể giúp con, nhưng thày không thể thúc đẩy con chọn lựa như thế. Đây là chọn lựa của con, nhưng con cần có hiểu biết. Đây là điều thày có thể giúp con, thày có thể cho con hiểu biết tuyệt đối là không có chọn lựa nào mà không thể đảo ngược lại được bằng một chọn lựa cao hơn. Đây là một quy luật vĩnh hằng. Đó là lý do vì sao một hành tinh có thể bị rơi vào một tình trạng thấp kém như con thấy với trái đất hiện nay bởi vì quyền tự quyết không có giới hạn. Nhưng quy luật này cũng áp dụng cho cả hai chiều.

3.8. Ta có thể tháo gỡ điều ta đã sáng tạo

Con có thể sáng tạo bất cứ khổ đau nào mà con muốn, ngay cả khổ đau mà con không muốn một cách ý thức. Con cũng có thể tháo gỡ bất cứ khổ đau nào mà con đã sáng tạo. Con có thể giải thoát con khỏi nó.

Thày đã thoát khỏi mọi khổ đau trên trái đất. Thày đã thoát khỏi chấn thương nhập đời của thày đã đi theo thày cho tới kiếp đầu thai cuối cùng của thày. Con đừng lầm lẫn, chấn thương nhập đời sẽ là điều cuối cùng con khắc phục trước khi con tự do để thăng thiên vì nó là điều đầu tiên đã giam bẫy con trong trạng thái tâm thức thấp. Thách đố, cái bẫy họ giăng, là khi con bị chấn thương nhập đời, chấn thương đầu tiên, thì lẽ dĩ nhiên con trải nghiệm là có một lực bên ngoài áp đặt kinh nghiệm này lên con. Quả thực, đây chínhmột lực bên ngoài trong bát cung vật lý đã áp đặt nó lên con, đích danh lực đó là sa nhân và tay sai của họ.

Điều mà sa nhân phóng chiếu lên con là con có mặt ở đây để khắc phục, để tống khứ những lực đã bắt con phải chịu chấn thương đó để người khác không bị chấn thương như thế. Họ phóng chiếu lên con là con phải tham gia vào một cuộc đấu tranh nào đó, một cuộc chiến chống lại các lực bên ngoài này. Họ muốn con tin rằng một khi các lực này bị loại trừ ra khỏi trái đất, con sẽ thoát khỏi chấn thương của mình.

Con thấy chăng, con đâu có mời các lực này đến trái đất. Họ được mời tới bởi những chọn lựa khác, bởi những sinh thể khác đã chọn lựa. Con không thể tháo gỡ chọn lựa của những sinh thể đó. Vậy con có thể làm gì? Con có thể tháo gỡ chọn lựa của chính mình. Con có thể nhận ra: “Tôi có mặt ở đây để mang lại thay đổi tích cực cho hành tinh này. Nhưng tôi không mang lại thay đổi tích cực bằng cách đánh nhau với sa nhân và tà lực. Tôi mang lại thay đổi tích cực bằng cách vượt thăng trạng thái tâm thức của họ. Làm sao tôi làm được điều này? Bằng cách thăng vượt trong tôi tâm thức đã khiến tôi phản ứng lại họ và phản ứng này tạo cho tôi chấn thương nguyên thủy đó.”

Đây là phụng sự cao nhất của con trên trái đất. Khi con giải thoát mình khỏi trạng thái tâm thức đó, thì con sẽ kéo tập thể lên và kéo tất cả mọi người khác đang đầu thai lên. Đây là điều con tới đây để làm. Khi con phản ứng như thế thì con có làm sai không, con có làm điều xấu không? Không đâu, con mang trạng thái tâm thức này với con, nhưng con không phải mang nó theo con mãi mãi. Con không mang nó với con để có động lực đánh nhau với sa nhân. Con mang nó vào để chứng minh là bất cứ điều gì con mang vào – một điều kiện trong thế gian này – con có thể thăng vượt nó. Con có thể thăng vượt nó bằng sức mạnh ý chí của mình, ý chí muốn tự do, ý chí muốn hơn nữa.

3.9. Muốn cho các con hơn nữa

Thày là Chân sư Thăng thiên MORE. Thày chỉ muốn một điều cho con là con hơn nữa. Khi con có ý chí muốn hơn nữa, con đang mời thày vào đời của con để giúp con và hỗ trợ con tối đa. Thày không muốn áp đặt con bất cứ cách nào. Thày chỉ muốn con biết là thày có mặt ở đây để giúp con khi con quyết định: “Tôi muốn HƠN NỮA.”

Như Mẹ Mary đã nói – và đó là một trong những lời dạy sâu sắc nhất mà con nghe được từ xưa tới nay – là khi con không muốn hơn nữa, con đang nói trong tiềm thức: “Chân sư MORE, thày hãy để con yên một mình. Con chưa kinh nghiệm đủ trạng thái kém hơn. Con chưa sẵn sàng muốn hơn nữa.” Lúc mà con quyết định con sẵn sàng hơn nữa, thì đó là lúc thày thật sự có thể giúp con bằng một cách mà con hiện nay không thể nào mơ tưởng được.

Thày không đặt giới hạn cho những gì có thể xảy ra hay mức mà con có thể trở nên hơn nữa. Sẽ không bao giờ có một điểm khi thày muốn kềm giữ không cho con trở nên hơn nữa. Thày không sợ con vượt qua thày, giống như nhiều cha mẹ và thày cô trên trái đất đã sợ. Không điều gì khiến thày vui thích hơn là thấy con trở nên hơn nữa.

Thày cũng không so sánh. Con không thể nào trở nên hơn thày bởi vì con chỉ có thể trở nên hơn chính mình, hơn cái con là. Đây là cách chúng ta tiến triển và nhận ra mình là sinh thể vô biên. Đây không phải là chuyện so sánh. Trong cõi thăng thiên mọi so sánh và phê phán giá trị đều tan biến. Thày không hơn Saint Germain. Thày là MORE và Germain là Germain, nhưng người này không hơn người kia. Thày trở nên hơn MORE và Germain trở nên hơn Germain, và đó là chuyện phải lý. Ở đây không có sự đe dọa. Con trở nên hơn là con.

Thày mong muốn con cũng được như thế. Con đã bị lập trình quá sâu đậm trên trái đất khiến con nghĩ con là kém hơn, con nhất thiết phải kém hơn, con phải kém hơn, con chỉ có thể kém hơn, con không được phép là hơn nữa. Thày nói với con: “Con là hơn nữa! Con được phép là hơn nữa.” Vì sao thày nói được như thế? Bởi vì thày là Thượng sư của Tia thứ Nhất. Thày là sinh thể quyết định Tia thứ Nhất có thể biểu hiện như thế nào trên trái đất, và thày cho phép con hơn nữa. Thày là sinh thể duy nhất được cho phép con như thế vì đấy là chức vụ của thày trong đại đoàn chưởng giáo, và thày cho phép con là hơn tất cả những gì con là từ trước tới giờ.

Với câu trên, con yêu dấu, thày cám ơn con đã chú ý, đã thương yêu thày, một tình thương sâu đậm và thày cảm được là rất nhiều đệ tử chân sư thăng thiên dành cho thày. Dù các con gọi thày bằng danh hiệu nào, thày cũng sẽ đáp ứng. Thày cũng muốn cho con biết là thày hơn tất cả các danh hiệu, như con cũng hơn tên của con. Bởi chưng, có gì nắm giữ được Tánh Linh? Chắc chắn là chẳng có điều gì trên một hành tinh như trái đất này.

Quả thực, thày là Tánh Linh, và con cũng vậy. Trong cái biết này chúng ta là một. Thật sự, chúng ta hơn là một vì ngay cả cái một cũng là một khái niệm có thể bị gán một đối trọng. Cái mà chúng ta thực là không có đối trọng. Nó chỉ là.

Uy lực và tự do

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 8/2/2013.

TA LÀ chân sư MORE, và thày tự do. Con sẽ tự do với thày chăng? Đó là câu hỏi mà con có thể tự hỏi mình. Và con có thể xem câu hỏi này là cơ hội để đứng lùi lại, xem các bài giảng trước của thày và tự đặt câu hỏi: “Con có thể tự do với Chân sư MORE không?”

Con hãy tưởng tượng con và thày đi vào khu vườn xung quanh khu nhập thất của thày tại Darjeeling. Chúng ta tìm thấy một nơi yên tĩnh, ngồi xuống, và ở đây chỉ có hai thày trò chúng ta. Chúng ta có thể nói bất cứ chuyện gì con muốn. Con sẽ cảm thấy tự do đến đâu trong tình huống đó?

Con có cảm thấy đủ tự do để chia sẻ với thày những quan tâm về cuộc đời, những quan tâm về sự tăng triển của mình, về trạng thái tâm thức của mình? Con có cảm thấy đủ tự do để hỏi bất cứ câu hỏi nào, hay có câu hỏi con ngại hỏi vì con sợ nghe câu trả lời của thày?

Con thấy chăng, điều thày muốn giải thích là khóa nhập thất của Tia thứ Nhất là nơi đầu tiên các sinh thể tâm linh tìm đến khi họ sẵn sàng đi con đường tu cao hơn dưới sự hướng dẫn trực tiếp của các chân sư thăng thiên, của các Thượng sư. Điều này có nghĩa là con không cần ở tầng tâm thức thứ 48 khi đến nhập thất với thày. Con cần tới một bước ngoặt, là nơi con thành thật mong muốn điều gì hơn là cứ lặp đi lặp lại những khuôn nếp cũ, như con đã làm trong một thời gian dài.

17.1. Con tự do đến đâu?

Khi con có ước muốn trở nên hơn nữa, con có thể tham dự khóa nhập thất của thày trong các thể cao của mình. Lúc ấy, thày sẽ cố gắng giúp con tùy theo tầng tâm thức của con và ý muốn vượt qua tầng tâm thức đó. Con thấy chăng, ta có thể nói mức độ tự do của con định đoạt khả năng giúp đỡ của thày. Đây là tự do đứng lùi lại và nhìn trạng thái tâm thức hiện nay, phin lọc nhận thức hiện nay, cách nhìn đời của con. Con có sẵn sàng đứng lùi lại, tự do nhìn vào tâm thức hiện nay của mình và nhận ra: “Tôi không còn muốn ở tầng tâm thức này nữa, tôi muốn lên cao hơn?”

Nhiều học viên đến đây có rất ít tự do chất vấn cách họ nhìn cuộc đời. Họ thường cảm thấy kẹt cứng trong một khuôn nếp. Họ chỉ có một cách nhìn cuộc đời. Họ không muốn hay không có khả năng nhận ra cách họ nhìn cuộc đời hiện nay chỉ là một trong nhiều cách và có nhiều cách nhìn khác – và chỉ xem xét các cách này họ mới có cơ hội vượt lên trạng thái tâm thức cao hơn. Vì nếu con tiếp tục nhìn đời theo cách con nhìn hiện nay mà không chất vấn, thì làm sao con có thể bước lên tầng cao hơn? Chuyện giản dị như vậy, phải không con?

Con có cảm thấy đủ tự do để lùi lại và nhìn vào trạng thái tâm thức hiện nay của mình, hoặc hỏi thày: “Chân sư MORE, xin thày chỉ cho con thấy con đang ở tầng tâm thức nào. Xin thày chỉ cho con thấy điều gì đang kềm giữ con ngay bây giờ, ngăn cản con đi bước kế tiếp lên tầng cao hơn.”

17.2. Khuôn nếp phản ứng của con

Con có thể nhận ra yếu tố chính là mức độ con cá nhân hóa những chuyện xảy ra trong cuộc đời mình. Con hãy sẵn sàng nhìn vào đời mình và nhận ra những hoàn cảnh khi người khác nói hay làm điều gì, và con coi điều đó như một tấn công vào chính cá nhân mình. Con cảm thấy người khác tấn công con, chế giễu con, tìm cách miệt thị con, tìm cách làm con xấu hổ, tìm cách làm con tức giận. Và vì vậy, con rơi vào khuôn nếp phản ứng mà con có thể thấy rõ – nếu con chịu nhìn.

Sau đó, con hãy sẵn lòng tự hỏi những phản ứng này từ đâu đến. Khuôn nếp phản ứng này từ đâu đến? Và con hãy nhận ra nó đến từ một chỗ giản dị: nó đến từ các phàm linh mà con đã cho phép xâm nhập vào các thể thấp của con hay con đã tạo ra trong các thể thấp của con.

Khi con biết rằng con là cái Ta Biết – khi con biết con đã trải nghiệm thoáng qua nhận biết thuần túy – con có thể thấy rằng cái Ta Biết, vốn đơn giản là nhận biết thuần túy, không thể thấy những chuyện xảy ra trên thế gian như dính dáng đến cá nhân nó. Bởi vì nó biết nó không phải là thân thể, nó biết nó không phải là tâm phàm, nó biết nó không phải là các phàm linh. Vậy thì đâu có lý do gì con cảm thấy cá nhân mình bị tấn công? Con thấy chăng, cái Ta Biết không xem những chuyện xảy ra dính dáng đến cá nhân nó. Con chỉ thấy một chuyện xảy ra dính dáng đến cá nhân mình khi con nhìn hoàn cảnh xuyên qua phin lọc của một phàm linh.

Thày Saint Germain có nói (Xuôi theo Dòng sông sự Sống) là khu nhập thất chính của thày được gọi là Hang Biểu tượng. Thày có khả năng giúp con nhìn thấy biểu tượng đang kìm hãm con, đang hạn chế con. Nhưng giáo lý này đã được đưa ra trước khi Đại thượng sư giảng về các phàm linh. Vì vậy, bây giờ con thấy tuyến phản ứng đầu tiên thực sự là phàm linh. Nhưng tất nhiên phàm linh được tạo ra từ một khuôn đúc tư tưởng, đó là cái thày Saint Germain gọi là biểu tượng vì nó là chỉ là một biểu tượng. Nó không có thật. Nó chỉ là một khuôn đúc tư tưởng được tạo ra trong tâm. Và nó được tạo ra dựa trên một cái nhìn hạn hẹp, chọn lọc về cuộc đời.

Do đó, con có thể thấy là khi một phàm linh được tạo ra, nó được tạo ra dựa trên một biểu tượng, dựa trên một cách nhìn cá biệt về cuộc đời. Đây là một cách nhìn đời mà con chấp nhận vì một điều gì đó đã xảy ra cho con trên trái đất, hoặc con đã quyết định tạo ra để đối phó với một số tình huống trên trái đất.

17.2. Đối phó với tự tấn công

Thày đã nói gì với con trước đây? Hành tinh này là một hành tinh đen tối với nhiều sa nhân hiện thân và nhiều sinh thể bị kẹt trong tâm thức sa ngã. Họ chỉ có thể thấy mình như sinh thể tách biệt, họ chỉ có thể thấy mình đối lập với người khác, ganh đua với người khác, luôn tìm cách nâng mình lên bằng cách hạ người khác xuống. Khi con biểu lộ bất cứ tính sáng tạo nào, bất cứ tính tâm linh nào, họ cảm thấy bị đe dọa và do đó họ muốn miệt thị con. Đó là lý do vì sao, ngay từ lúc con hiện thân ở đây và dám biểu lộ động lực sáng tạo của mình, con đã bị chế giễu, miệt thị và tấn công qua nhiều cách: thể chất, tình cảm, tư tưởng và thậm chí ở tầng bản sắc.

Con đã làm gì, khi con là một dòng sống mới đến đây với những ý định tốt đẹp nhất và cảm thấy mình như một đứa trẻ ngây thơ, rồi con đã bị tấn công dữ dội bởi những người lớn này. Họ chỉ có một mong muốn là miệt thị, khóa miệng hoặc tiêu diệt con, nếu họ cần tiêu diệt con, để ngăn cản con biểu lộ động lực sáng tạo của con.

Điều con đã làm là con không biết phải hành xử ra sao, và do đó con đã tạo ra một phàm linh để đối phó với tình huống này. Phàm linh này được tạo ra dựa trên ý niệm bản ngã hạn chế mà con có lúc đó. Và do đó, con đã không thể nhìn tình huống một cách rõ ràng bằng Hiện diện TA LÀ của con. Con đã quên rằng con là cái Ta Biết, tức là nhận biết thuần khiết và do đó không cần phải phản ứng với bất cứ chuyện gì xảy ra trên trái đất nhưng có thể cho phép Hiện diện phản ứng.

Con đã tin rằng con phải phản ứng với mọi chuyện xảy ra trên trái đất với mức độ tự nhận biết lúc đó của con. Do đó, con đã phản ứng nhưng vì con không biết phản ứng như thế nào, không muốn phản ứng, và không thấy có cách phản ứng nào xây dựng hay hữu ích, nên con đã tạo ra một phàm linh để phản ứng thay con. Và phàm linh được tạo ra dựa trên mức độ tâm thức, cách nhìn cuộc đời qua cái ta mà con mang lúc đó. Như vậy, trên bản chất nó là một phàm linh hạn hẹp. Nó chỉ có một số ít chọn lựa khi phản ứng lại tình huống.

Một khi phàm linh được tạo ra, nó bị khóa trong khuôn đúc đã tạo ra nó, đã quy định nó. Nó không có khả năng tự nhận biết để thăng vượt khuôn đúc đó, vì vậy nó chỉ có thể tiếp tục phản ứng lại tình huống một cách giản dị theo cùng một khuôn nếp. Nhưng nó có thể đi tới những hình thái ngày càng cực đoan của khuôn nếp, thí dụ nếu khuôn nếp đó là sự tức giận, thì nó có thể ngày càng tức giận nhiều hơn, cho tới khi con gần như lúc nào cũng tức giận, lúc nào cũng sẵn sàng la chửi khi có bất cứ điều gì cản trở hay làm con khó chịu.

17.4. Thấy những phàm linh đang phản ứng thay con 

Khi các học viên đến khóa nhập thất của thày và bị mắc kẹt trong những khuôn đúc này, thì thày có thể – nếu họ đã học qua sáu bước đầu tiên mà thày đã mô tả trong các bài giảng trước – đưa họ đến khóa nhập thất của thày Saint Germain tại Hang Biểu tượng. Nơi đây, các thày có thể chỉ cho học viên thấy trên một màn ảnh là chính các phàm linh đã phản ứng khi họ nhìn sự việc như tấn công cá nhân họ.

Tất nhiên, phản ứng không phải lúc nào cũng là tức giận. Nhiều khi có những cảm xúc khác. Nhiều người tâm linh cảm thấy xấu hổ hay bị chế giễu khi chọ cảm thấy không được người khác chấp nhận. Trước hết, các thày chỉ cho học viên thấy là phản ứng của họ không phải là một phản ứng sáng tạo, một kết quả của lựa chọn. Họ chỉ đơn giản phản ứng một cách tự động, và trong một số trường hợp, họ hoàn toàn rút lui không dùng khả năng tự nhận biết và để phàm linh làm chủ phản ứng của mình.

Các thày chỉ cho họ thấy phàm linh phản ứng ra sao . Các thày chỉ cho họ thấy phàm linh trông như thế nào, thường thì không đẹp đẽ lắm đâu. Sau đó, các thày cho thấy phàm linh phản ứng ra sao, nhưng các thày cũng cho thấy cái gì phóng tới khiến phàm linh phản ứng. Các thày cho thấy cái phóng tới không phải là một phản ứng sáng tạo vì hành động tấn công, chế giễu hay miệt thị không phải là một phản ứng sáng tạo từ người kia.

Người kia cũng đã cho phép một phàm linh làm chủ tâm họ, và do đó chính phàm linh hung hãn này đang tấn công con. Và nay con phản ứng lại nó với một phàm linh hung hãn của chính mình hay với một phàm linh thụ động quy phục sự tấn công. Phàm linh thụ động tìm cách giải quyết bằng cách giữ nó trong tâm, đưa đến tự trách mình, hay cảm thấy mình ngu ngốc, cảm thấy bị chế giễu, xấu hổ hoặc giận mình tại sao không tự vệ hay tấn công lại.

Con thấy chăng, khi con tới khóa nhập thất của thày Saint Germain và nhìn lên màn ảnh, con thấy là phản ứng của con là một phàm linh, nhưng tấn công cũng là một phàm linh. Như vậy, có một phàm linh tấn công con và có một phàm linh khác phản ứng lại cuộc tấn công. Khi con đã học qua sáu cấp của khóa nhập thất của thày, thì thường con sẵn sàng nhận ra thật là vô nghĩa nếu con cho phép cuộc đời mình và sự chú ý của mình bị tiêu hao trong những cuộc phàm linh tấn công và tự vệ chống lại sự tấn công của phàm linh khác. Con nhận ra điều này tiêu hao cuộc đời và sự chú ý của con, và con quyết tâm nói rằng; “Ngưng lại! Tôi sẽ không cho phép phàm linh tước đi tự do của tôi.”

Và tất nhiên, con có thể tiến thêm bước nữa và nhìn vào phàm linh đang điều khiển đời mình – là phàm linh chính mà con cho phép làm chủ phản ứng của mình trước hoàn cảnh sống đang bận tâm con. Con nhận ra rằng cách duy nhất để thực sự thoát khỏi phàm linh là con phải lấy quyết định không cho phàm linh này kiểm soát phản ứng của mình trước loại tình huống này nữa. Vì con thực sự sẵn sàng sử dụng uy lực và ý chí của mình để lấy quyết định sáng tạo về cách phản ứng trước những tình huống này.

17.5. Lấy quyết định sáng tạo

Thày muốn nói gì khi nói tới quyết định sáng tạo? Đó là khi con có tự do phản ứng theo cách mà con chưa từng làm trước đó. Con tự do phản ứng theo cách con muốn phản ứng, không để một phàm linh nào làm chủ phản ứng của con. Con sẵn sàng quyết định và nói: “Vâng, tôi thấy là tôi đã tạo ra một phàm linh. Tôi thấy rằng trong quá khứ tôi đã phản ứng nhiều lần theo cách này trong tình huống như thế. Nhưng tại sao bây giờ tôi lại bị ràng buộc bởi cách mà tôi phản ứng trong quá khứ? Đây không phải là tự do quyết định. Tôi không dùng sức mạnh ý chí của mình khi tôi cho phép một phàm linh làm chủ phản ứng của tôi bởi vì tôi không muốn lựa chọn. Vậy bây giờ, tôi lấy lại sức mạnh ý chí của mình, và tôi sẵn sàng lựa chọn. Vì tôi nhận ra phàm linh mà tôi tạo ra nhiều kiếp trước đây, đã được tạo ra với trạng thái tâm thức của tôi vào lúc đó, ý niệm bản ngã của tôi vào lúc đó. Nhưng tôi đã tăng triển. Tôi đã mở rộng ý niệm bản ngã của mình. Vì vậy, tôi có khả năng và ý muốn phản ứng một cách chín chắn hơn, có ý thức hơn và có nhận biết nhiều hơn so với trước đây.

Con có thấy chăng? Tự do có thể bị mất nếu không chịu lấy quyết định. Nhưng không thể có tự do nếu không chịu lấy những quyết định có ý thức, có chủ tâm và có cân nhắc. Con có thể nghĩ tự do là cái gì đó thụ động, là trạng thái không có gì bên ngoài cản trở con. Nhưng đây không phải là tự do.

Tự do là một lực tích cực. Phải có uy lực mới có tự do, và uy lực chỉ có thể phát huy qua ý chí. Con không thể có tự do bằng cách thụ động và hy vọng không ai tấn công mình. Vì điều đó sẽ không xảy ra trên trái đất này, ít nhất là trong tương lai gần. Vẫn còn quá nhiều dòng sống có tâm thức sa ngã đang hiện thân trên trái đất, và họ sẽ tấn công con. Cuộc sống của họ bị các phàm linh làm chủ, và các phàm linh này được tạo ra bởi một khuôn đúc hung hãn và tấn công. Hiện nay họ không thể sống cách nào khác.

Khi con nhận ra các điều này, con bắt đầu ngưng cá nhân hóa cuộc đời mình. Vì con nhận ra rằng những người đang tấn công hay chế giễu con không thực sự chế giễu cá nhân con. Thậm chí họ còn không thấy con, vì họ chỉ thấy con qua phin lọc của phàm linh đang khống chế tâm thức họ. Phàm linh này nhìn sự việc qua khuôn đúc đã quy định nó. Thật ra điều phàm linh thấy là thấy cái khuôn đúc. Nó không nhìn thấy con thực sự là ai. Nó không có khả năng nhìn thấy con thực sự là ai. Nó chỉ đơn giản nhìn thấy mô thức được tạo ra trong tâm nó khi nó gặp con, trường năng lượng của con, hay phàm linh đang làm chủ cuộc đời con.

Con thấy chăng, phàm linh trong người kia không nhìn thấy con. Người kia không có ý thức, không có nhận biết. Không ai có thể tấn công, chế giễu hay miệt thị con nếu họ hoàn toàn nhận biết họ là một sinh thể tâm linh. Vì lúc đó, họ cũng sẽ nhận biết rằng con là một sinh thể tâm linh. Và tại sao một sinh thể tâm linh lại đi miệt thị một sinh thể tâm linh khác? Nhưng một phàm linh thì sẵn sàng miệt thị một phàm linh khác hay một sinh thể tâm linh khác. Người kia không thấy con là một sinh thể tâm linh, họ chỉ thấy một ảo ảnh được tạo ra trong tâm họ khi phin lọc nhận thức của họ tiếp xúc với con.

17.6. Ngưng cá nhân hóa cuộc đời mình

Khi con biết điều này – khi con bắt đầu nhận ra điều này, khi con bắt đầu nhìn thấy nó – con có thể nói: “Nếu họ không tấn công cá nhân tôi, tại sao tôi lại cá nhân hóa chuyện này? Tôi nhận ra nếu có người khác ở trong hoàn cảnh của tôi, họ cũng sẽ tấn công người đó nếu người đó đang làm những gì tôi đang làm. Vì vậy, đòn tấn công này không thực sự nhắm vào cá nhân tôi. Tại sao tôi lại cảm thấy cá nhân mình đang bị tấn công?”

Lúc đó con nhận ra rằng con, cái Ta Biết – nhận biết thuần khiết – không cảm thấy cá nhân nó bị tấn công. Chính phàm linh mà xuyên qua đó con nhìn tình huống, đang cảm thấy cá nhân nó bị tấn công. Con có thể nói là cá nhân phàm linh đang bị tấn công bởi một phàm linh khác. Hoặc con có thể nói phàm linh của con được tạo ra để cảm thấy cá nhân nó bị tấn công, và để đối phó với loại tình huống này một cách đặc trưng và cá nhân. Nhưng khi con nhận ra con không phải là phàm linh, con thấy được là con không cần cảm nhận những gì phàm linh cảm nhận. Mặc dù phàm linh coi chuyện này là một tấn công cá nhân, con không cần nhìn giống nó.

Cái “ta” đang phản ứng với tình huống là ai? Nó có phải là cùng cái “ta” đang hỏi câu hỏi này không? Và khi con nhận ra con có khả năng tự hỏi, cái ta nào đang phản ứng với tình huống, thì con nhận ra có một cái ta là cái Ta Biết và có một cái ta chỉ là phàm linh – và cái ta nghĩ nó là phàm linh không có thật. Phàm linh không có thật.

Do đó, con nhận ra con không bị ràng buộc bởi phản ứng của phàm linh. Con không bị ràng buộc bởi khuôn đúc. Con có thể quyết định sáng tạo nhìn vào khuôn đúc, xem nó hạn chế con như thế nào và nói: “Tôi không muốn nhìn tình huống qua khuôn đúc này. Tôi muốn nhìn nó một cách sáng tạo hơn. Tôi muốn có tự do nhìn tình huống với tầm nhìn cao hơn và do đó phản ứng từ tầm nhìn cao hơn.”

Đây là lúc con bắt đầu đạt được tự do, tự do ý chí, tự do biểu lộ uy lực của mình. Vì các phàm linh con tạo ra đang làm gì? Chúng đang hạn chế uy lực của con. Chúng nói rằng con không thể phản ứng với tình huống một cách sáng tạo, con phải phản ứng y như những lần trước bởi vì con phải phản ứng qua phàm linh. Con không biểu hiện quyền năng sáng tạo của mình nếu con để phàm linh phản ứng. Con càng tạo ra nhiều phàm linh, con càng hạn chế uy lực sáng tạo từ Hiện diện TA LÀ chảy qua con. Hiện diện TA LÀ làm điều này như một hồng ân cho con, để con không củng cố phàm linh hơn nữa, không để chúng hoàn toàn làm chủ cuộc đời con.

17.7. Đánh mất sự ngây thơ của mình 

Tất nhiên, những phàm linh đang tấn công con không phải là phàm linh sáng tạo. Chúng được tạo ra bởi sa nhân lúc ban đầu để ngăn cản con biểu hiện quyền năng sáng tạo của con. Sa nhân có kinh nghiệm là nếu họ tấn công những người ngây thơ thiêng liêng một cách tàn ác và bất công, thì một tỷ lệ nào đó – đúng thực là một tỷ lệ cao – sẽ bị chấn thương, bị chấn động đến độ bị lừa và đánh mất sự ngây thơ của mình, vì nghĩ rằng phải phản ứng lại đòn tấn công với một tầng mức tâm thức tương tự như tâm thức của kẻ tấn công. Vì vậy, họ nghĩ rằng họ phải tạo ra phàm linh với cùng tầng mức tâm thức để phản ứng lại những phàm linh đang tấn công.

Sư vận hành này rất tinh vi. Khi con đang ở trong tình trạng thơ ngây, con không thể nào đẩy ngược một đòn tấn công có tầng mức tâm thức thấp. Con chỉ có thể đẩy ngược một đòn tấn công bằng cách vô hiệu hóa hay chặn nó với năng lượng ở một tầng tương đương hay thấp hơn. Hành động lúc nào cũng tạo ra phản ứng. Đây là quy luật của một bầu cõi chưa thăng thiên. Và đó là lý do vì sao con dễ rơi vào cái bẫy suy nghĩ rằng khi có một hành động tấn công con ở một tầng rung động nào đó, con phải chống lại nó bằng một phản ứng có cùng độ rung và cùng tầng tâm thức. Và đây là nguyên nhân khiến con mất đi sự ngây thơ thiêng liêng của mình.

Vậy thày muốn nói gì đây? Phải chăng thày muốn nói, để giữ sự ngây thơ, con phải cho phép sa nhân liên tục tấn công con? Đó quả thực là điều thày muốn nói. Vì đâu có sao đâu nếu họ tấn công con và con giữ mình trong suốt để cú đánh đi xuyên qua con? Sự ngây thơ tối hậu là sự trong suốt, khi ấy bất cứ gì họ phóng tới con với tâm thức sa ngã sẽ đi xuyên qua con, bởi vì trong con không có cái gì có cùng tần số rung động cho nó tương tác.

Vì vậy thực tế sâu sắc là tà lực, sa nhân không thể buộc con phản ứng lại chúng. Chính con đã chọn lựa phản ứng ở cùng tầng cấp tâm thức. Chúng rất không ngoan lừa con nghĩ rằng phản ứng ở tầng đó cần thiết và chính đáng. Giống như chúng đã dụ những người tốt thuộc Cơ đốc giáo tham gia thánh chiến, nghĩ rằng giết đàn ông, phụ nữ và trẻ em theo đạo Hồi để giải phóng Jerusalem là điều chính đáng. Trong khi sự thực là các cuộc thánh chiến chỉ là một cuộc xung đột lớn do sa nhân và tà lực tạo ra để nuôi dưỡng phàm linh và ngăn cản con người không biểu hiện được quả vị Ki-tô bằng cách kéo họ vào một cuộc xung đột bất tận.

Con không có tự do khi con bị kéo vào chuỗi hành động-phản ứng tiếp diễn mãi mãi. Khi con đến cấp thứ bảy của khóa nhập thất của thày, thày tìm cách giúp con thấy điều này. Một số sẽ không thấy được, và họ phải rời khóa nhập thất và quay trở lại Trường đời Cay đắng. Một số khác sợ hãi đến độ phải trở lại quán cháo từ thiện một thời gian và nhận sự chữa lành.

Một số khác nhìn thoáng thấy những phàm linh mà họ đã tạo ra và chuyện này tạo ra một vết sẹo. Khi nhìn thấy phàm linh của mình, họ phản ứng mạnh đến độ họ tạo ra một phàm linh mới. Lúc đó, họ quay trở lại tầng đầu tiên của khóa nhập thất của thày và học trở lại từ đầu, vừa học vừa nhận sự chữa lành. Hoặc họ đi đến khóa nhập thất của một trong các Thượng sư khác, nơi họ có thể nhận sự chữa lành hoặc tình thương hoặc bất cứ điều gì họ cần, cho đến khi họ sẵn sàng trở lại cấp thứ bảy. Lúc ấy họ có thể bình tĩnh nhìn vào phàm linh đang kìm hãm họ ở tầng tâm thức này và nói: “Ngươi lừa ta đủ rồi. Ngươi sẽ không kiểm soát cuộc đời của ta thêm nữa. Ngươi sẽ không kiểm soát phản ứng của ta đối với loại tình huống này nữa, và từ nay ta sẵn sàng quyết định một cách ý thức phải phản ứng như thế nào.”

17.8. Thay đổi các mối quan hệ của con

Con yêu dấu, có nhiều học viên đến khóa nhập thất của thày mà không có ý thức về những gì thày đang nói với con ở đây. Một phần lý do thày nói với con là để giúp con lưu giữ lại một số ký ức ý thức về các khai ngộ này, để con có thể áp dụng chúng dễ hơn trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng thày cũng có thể nói với con là nhiều học viên đã bắt đầu áp dụng những khai ngộ này mà không biết một cách ý thức là chúng từ đâu đến. Và tác dụng của việc đến khóa nhập thất của thày, và đạt được sự khai ngộ ở cấp thứ bảy, là học viên sẽ bắt đầu cố ý thay đổi phản ứng của mình đối với một số tình huống.

Điều này thường xảy ra trong mối quan hệ với một người khác, như cha mẹ, vợ, chồng, bạn bè hay con cái. Cũng có thể là người đồng nghiệp. Con đã gặp khó khăn khi đối xử với họ – có khi suốt nhiều năm hay nhiều chục năm – nhưng nay con chợt nhận ra rằng con không muốn tiếp tục mối quan hệ dựa trên khuôn nếp cũ này nữa.

Con đột nhiên nhận ra rằng người kia sẽ không thay đổi. Vậy nếu muốn quan hệ thay đổi, thì ai là người phải thay đổi? Người đó là con vì con ý thức hơn. Con có nhiều nhận biết hơn. Con sẵn sàng lấy quyết định hơn. Và do đó, con có thể đột nhiên nhìn vào mối quan hệ và nói: “Nếu mối quan hệ này thay đổi, và đó là điều tôi muốn, thì tôi là người phải làm điều gì đó để thay đổi cách nó vận hành. Và điều đó có nghĩa là tôi phải thay đổi phản ứng của tôi và cách tôi đối xử với người kia.”

Con yêu dấu, lúc đó con sẽ thấy rằng khi con quyết định thay đổi một cách cố ý và ý thức cách con đối xử với người kia, thì một trong hai chuyện sẽ xảy ra: hoặc người kia sẽ ngạc nhiên và bắt đầu thay đổi, hoặc, nếu người kia không thay đổi và tiếp tục phản ứng như trước, thì nhiều khi con sẽ thấy con giản dị ngưng mối quan hệ đó và chuyển sang tình trạng không phải đối mặt với loại người này.

Có những trường hợp con có lý do đặc biệt để tiếp tục duy trì mối quan hệ. Đặc biệt là khi đó là quan hệ với con cái, vợ chồng, và tất nhiên cha mẹ. Lúc đó, con sẽ thấy rằng dù người kia không thay đổi, con đã thay đổi nhiều đến độ hành vi người kia không còn làm phiền con nữa vì con không còn coi hành vi này tấn công cá nhân con. Điều này có nghĩa là con tiếp tục có mối quan hệ với người đó, nhưng con sẽ thấy mình rút lui khỏi người đó và chỉ duy trì quan hệ tối thiểu. Nhưng khi con tiếp xúc với họ, con có thể duy trì một phản ứng không cá nhân. Con có thể để người đó nói huyên thuyên như họ đã làm suốt mấy chục năm bởi vì con biết họ bị mắc kẹt trong một khuôn nếp.

Nếu đó là cha mẹ hoặc con cái của con, con thương yêu họ, con chấp nhận họ như họ là, và sau đó con chấp nhận rằng có lẽ họ sẽ không thể thay đổi trong suốt phần còn lại của cuộc đời họ. Và con nhận ra rằng con không có phận sự buộc họ thay đổi, cho dù họ là một người thân thiết với con. Con có thể cho phép mình là mình. Con có thể cho phép người kia là họ bởi vì con chấp nhận Luật Tự quyết.

Con chấp nhận rằng con đã sử dụng quyền tự quyết của mình khi con thay đổi phản ứng của mình. Con sẽ tiếp tục sử dụng quyền tự quyết bằng cách không cho phép bị tâm thức rắn lừa và nghĩ rằng con có trách nhiệm thay đổi người kia. Con cho phép người kia tiếp tục lặp lại những khuôn nếp cũ vì người đó không sẵn sàng sử dụng quyền tự quyết của mình. Nhưng con vẫn sử dụng quyền tự quyết của con bằng cách tiếp tục phản ứng với người kia một cách không cá nhân.

Con không coi cá nhân mình đang bị tấn công. Con duy trì tự do của mình. Và để duy trì phát triển tâm linh của mình, có khi con cần giữ phản ứng không cá nhân với người kia trong một thời gian dài để nó dần dần neo chặt trong bốn thể phàm của con. Và sẽ có một lúc con chứng minh cho chính mình là con có thể đương đầu với người đó, đối phó với người đó, mà không trở lại những khuôn nếp cũ mà con đã lặp đi lặp lại qua nhiều kiếp.

17.9. Không cá nhân hóa và không có nhân tính

Một lần nữa, con không nên dính mắc vào hoàn cảnh bên ngoài và kết quả của hoàn cảnh đó. Đây là một bước cốt yếu để có tự do. Một trong những cách chính mà sa nhân và những người trong tâm thức rắn dùng để cám dỗ con đi vào khuôn nếp hành động-phản ứng, là khiến con tin rằng con phải đạt được một kết quả – một kết quả vật lý – nào đó. Họ thường dùng tư duy cuồng đại cho rằng có một đại nghĩa cao cả đòi hỏi một kết quả nào đó phải được thể hiện.

Con yêu dấu, Adolf Hitler đã làm gì để lừa đối đa số dân Đức và khiến họ tin rằng trong sạch hóa chủng tộc Aryan là điều cốt yếu? Các nhà lãnh đạo cộng sản quốc tế đã làm gì để lừa dối biết bao nhiêu người và khiến họ tin rằng giết và tra tấn người khác để đem lại thiên đàng cộng sản là điều chính đáng?

Con có nghĩ rằng một người tiếp cận tâm linh của mình có thể giết hay tra tấn người khác chăng? Chuyện này không thể làm được. Chuyện này chỉ xảy ra khi người đó cho phép một phàm linh làm chủ phản ứng của mình. Vì sao người đó lại làm vậy? Đó là vì họ tin chắc là một kết quả nào đó hoàn toàn cần thiết để hoàn thành đại nghĩa cuồng đại, và do đó họ cần làm những điều mà họ không thể làm như một con người. Do đó, họ xóa cá nhân tính của họ bằng cách để một phàm linh làm chủ phản ứng và hành động của họ. Do đó, họ có thể tách cá nhân họ khỏi hành động, như vậy họ không thấy là họ đang tra tấn hay giết một con người. Họ nghĩ, vì lý do nào đó, người bị giết hay bị xô đẩy vào buồng hơi ngạt là một loài thấp hơn con người, một loài không phải là người.

Các con thấy chăng, điều thày muốn nói là con cần không cá nhân hóa cuộc đời mình. Nhưng quan niệm không cá nhân hóa có thể đi quá đà và trở thành từ bỏ nhân tính của mình và của người khác. Con cần nhận ra là phản ứng cá nhân – khi con xem cá nhân mình bị tấn công – và phản ứng vô nhân – khi con nghĩ người khác không phải là con người – đều là phản ứng của phàm linh.

Khi con bắt đầu nhận ra điều này thì con bắt đầu thực sự giải thoát mình khỏi khuôn nếp hành động-phản ứng. Con thoát khỏi sự lừa dối của sa nhân, và phản ứng chống lại hai loại sa nhân: sa nhân tấn công bằng vũ lực trắng trợn, và sa nhân tấn công con bằng lừa dối. Với loại thứ hai, con không biết mình đang bị tấn công và bị ép vào một khuôn nếp.

Khi con tới cấp thứ bảy của khóa nhập thất của thày, thì con đã ở tầng tâm thức nơi con có khả năng dùng lý luận để thấy cách quyền lực bị lạm dụng. Con nhận ra cách khiến con người lạm dụng quyền lực là cá nhân hóa mọi việc xảy ra cho mình đồng thời lại từ bỏ nhân tính trong cách mình đối xử với người khác. Thí dụ, người Đức trong Thế chiến thứ Hai coi những điều mà họ nghĩ người Do Thái làm cho họ và cho nước Đức là tấn công cá nhân họ. Đồng thời, họ coi người Do Thái không phải là người để nghĩ rằng họ không đang giết người khi họ giết người Do Thái.

17.10. Thái cực nhị nguyên

Con có thấy phản ứng này chăng? Trong tâm thức nhị nguyên, lúc nào cũng có hai đối cực. Và đó là lý do vì sao con có cả hai khi con bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Con bị hoàn toàn mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên khi con cá nhân hóa phản ứng của mình đối với những gì con nghĩ người khác đang làm, nhưng con không cá nhân hóa hành động của con đối với họ. Vì con nghĩ họ không có quyền coi hành động của con là tấn công cá nhân họ. Vì họ là người xấu.

Do đó, con không nhận ra rằng khi con bạo tàn với họ, con cũng sai y như họ. Khi con nhận ra điều này, con có thể dùng lý luận cao để thoát khỏi phản ứng, và con bất thần ngộ ra: “Tôi không thể buộc tội họ dùng bạo lực đối với tôi trong khi chính tôi cũng đang dùng bạo lực đối với họ. Đây là đạo đức giả.”

Đây là lúc khả năng lý luận có thể giúp con thoát khỏi khuôn nếp phản ứng này. Nhưng con không làm được điều này khi con còn nhìn tình huống xuyên qua phàm linh vì phàm linh không thể lý luận xa hơn khuôn đúc của nó. Phàm linh không có ý thức cá nhân và nhiều phàm linh được tạo ra từ một khuôn đúc coi một nhóm người không có nhân tính. Phàm linh không thể phá vỡ khuôn đúc. Chúng không thể nghĩ một cách sáng tạo.

Vì vậy, khi con còn hoàn toàn đồng hóa mình với phàm linh và nhìn tình huống qua chúng, con không thể nhận ra mình đang đạo đức giả. Ví dụ, con không nhận ra rằng con đang tự xưng là một tín đồ Cơ đốc tốt trong khi việc giết phụ nữ và trẻ em Hồi giáo hoàn toàn đi ngược lại các điều răn của Ki-tô.

Bây giờ con – khi con cảm nhận tâm linh của mình – có thể thấy điều này. Nhưng khi con từ bỏ nhân tính của mình khi cho phép các phàm linh làm chủ cuộc đời mình, thì con không thể thấy điều này. Vì thực sự lúc đó con không còn là một sinh thể tâm linh nữa. Con đã trở thành một người phàm phản ứng với nỗi sợ bị người phàm khác đe dọa.

Chỉ khi nào con chợt nhận ra nhân tính cao của mình – tâm linh của mình – con mới bắt thấy mình đang làm gì và lý luận rằng con không thể cho phép mình tự xưng là người tín đồ Cơ đốc tốt, nếu con vi phạm điều răn của Ki-tô. Cũng vậy, con không thể tự xưng mình đang phục vụ một lý tưởng cao, đồng thời giết, tra tấn, miệt thị, chế giễu hay kỳ thị người khác. Vì họ cũng là sinh thể tâm linh, và một sinh thể tâm linh không thể đối xử một cách vô nhân đạo với một sinh thể tâm linh khác. Chuyện này đơn giản không thể có được.

17.11. Tình trạng tiến thoái lưỡng nan của mặc cảm tội lỗi

Đây là điều mà thày Saint Germain và thày muốn con đạt được khi con ở cấp thứ bảy của khóa nhập thất của thày. Các thày không nhằm giúp con hoàn toàn thoát khỏi khuôn nếp hành động-phản ứng, nhưng các thày muốn giúp con nhận ra một cách ý thức phàm linh nào đã khiến con phản ứng một cách vô nhân với người khác và với chính mình. Sau đó, các thày giúp con ý thức kinh nghiệm của mình khi con thấy phàm linh đó, thấy nó không phải là mình, thấy nó không thật, và từ đó quyết định hoàn toàn buông bỏ nó mà không cảm thấy tội lỗi vì đã tạo ra nó.

Đây thường là một thách đố lớn đối với các thày, vì có nhiều học viên nhận ra họ đã đối xử bất nhân với người khác. Và họ khó nhìn nhận điều này mà không bị một phàm linh khác cướp quyền phản ứng của họ. Phàm linh này đã được họ tạo ra từ nhiều kiếp trước. Họ đã nhiều lần nhập vào phàm linh chỉ biết phản ứng với mặc cảm tội lỗi và tự trách vì phàm linh này được tạo ra dựa trên khuôn đúc đó.

Các sa nhân rất thiện nghệ trong việc tạo ra tình trạng tiến thoái lưỡng nan này, khi con tạo ra một phàm linh phản ứng vô nhân đạo và một phàm linh khác tự trách mình đã phản ứng vô nhân đạo. Hậu quả là con rất khó nhận ra phàm linh đầu vì con biết rằng phàm sau sẽ chiếm lấy phản ứng của con và khiến con cảm thấy khó chịu đến độ không chịu nổi.

Khi con đến cấp thứ bảy của khóa nhập thất của thày, con đã đi qua sáu cấp kia và đã nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ, tình thương từ các thày và các Thượng sư khác nên con đã sẵn sàng nắm lấy tay các thày và nhìn cả hai phàm linh, và thấy rằng sự tự trách không đến từ Thượng đế vì Hiện diện TA LÀ của con không trách cứ con bất cứ điều gì con đã làm trên trái đất này. Nó thấy rằng tất cả đều không thật; vì hành tinh này chỉ là một phần của bãi chơi cát toàn vũ. Vì vậy, không có điều gì trên trái đất này thường hằng, có thật. Và nếu nó không thường hằng và có thật, thì tại sao con phải mang nó theo như một phần của dòng sống mình? Cái gì đang mang nó theo con? Chính là một phàm linh trong tâm con đang mang nó theo.

17.12. Xóa bỏ sử liệu akasha

Đây là lúc các thày đưa con trở lại khóa nhập thất của thày, và con có thể thấy trong kho sử liệu akasha toàn bộ tình huống gồm các quyết định tạo ra phàm linh tự trách và phàm linh giữ con trong khuôn nếp hành động-phản ứng. Lúc đó con có thể dùng động lượng đọc chú của bảy tia sáng – mà lúc đó con đã gầy dựng được, vì nếu không con đã không lên đến được tầng này của khóa nhập thất – để đi vào kho sử liệu akasha. Và bằng cách phóng một tia ánh sáng rất tập trung, chính xác giống như tia sáng la-de, con có thể xóa sử liệu nguyên thủy trong kho sử liệu akasha.

Lúc đó con thấy sự thực rằng khi một điều được xóa khỏi sử liệu akasha, con đã hoàn thành yêu cầu như Thượng đế nói: “Ta sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của họ nữa.” Và đó là lúc con có thể gạt bỏ và thực sự phá tan khuôn đúc tư tưởng đã tạo ra phàm linh, đã giữ tình huống trong thể ký ức của con, và liên tục sử dụng nó để trách móc con đã sai lầm trong quá khứ. Khi con đã thăng vượt tâm thức khiến con lựa chọn như thế trong quá khứ, không còn lý do để con phải ghi nhớ chuyện này trong các thể thấp của mình. Vì thành tựu tích cực của sự thăng vượt tầng mức tâm thức đó bây giờ là một phần của căn thể (causal body) của con.

Con có hiểu chuyện này chăng? Căn thể không lưu trữ ký ức tiêu cực. Nó chỉ lưu trữ thành tựu, bài học tích cực con đã học. Và đó là lúc không còn sử liệu nữa, và đây là kinh nghiệm cuối cùng các thày tìm cách cho con ở cấp thứ bảy của khóa nhập thất. Thày Saint Germain và thày muốn giúp con có cái biết bên trong – kinh nghiệm trực tiếp – biết rằng con có thể hoàn toàn tự do thoát khỏi một tình huống tiêu cực trong quá khứ. Con có thể hoàn toàn thăng vượt cái con nghĩ là một sai lầm và biến nó thành một kinh nghiệm tích cực, một kinh nghiệm hỗ trợ sự sống, hỗ trợ tăng trưởng.

Lúc này một số các con có thể nhận ra, tuy có thể không biết một cách ý thức, là khi con nhìn lại cuộc đời mình, con nhận ra hồi còn thơ ấu, con có một sự lạc quan, một khả năng nhìn đời nhẹ nhàng, một cảm nhận nội tâm rằng không có điều gì thật xấu, không có lỗi lầm nào nặng đến độ con không hàn gắn được. Cảm giác đó không nhất thiết là niềm tin mình đã không làm điều sai lầm, nhưng lỗi lầm nào cũng có thể làm tốt trở lại, thăng vượt, bỏ lại đằng sau.

Con cũng có thể nhận ra rằng con có khuynh hướng tự trách mình, vì nhiều đệ tử tâm linh có ý muốn làm điều tốt rất mạnh, đến độ họ cũng có khuynh hướng trách cứ mình khi họ phạm lỗi. Phản ứng này tất nhiên là của phàm linh, nhưng thày muốn nói tới một sự kiện sâu sắc hơn. Con là cái Ta Biết, và cái Ta Biết kết nối với Hiện diện TA LÀ. Và như vậy, con biết là ở tầng mức của Hiện diện TA LÀ, mọi chuyện trên trái đất đều có thể biến thành một kinh nghiệm tích cực.

17.13. Cuộc sống có thể là một vòng xoáy đi lên

Khi con ý thức hơn về cái biết nội tâm này – tất nhiên, thày đang tìm cách giúp con ý thức nó qua việc dạy con giáo lý vỏ ngoài này – thì lúc đó con có thể ý thức sự kiện cuộc sống trên trái đất – ngay cả trong tình trạng hiện nay của hành tinh này – cuộc sống trên trái đất có thể trở nên một trải nghiệm hoàn toàn tích cực. Con đi từ trải nghiệm học hỏi tích cực này sang trải nghiệm học hỏi tích cực khác và con liên tục thăng vượt chính mình trong một vòng xoáy đi lên. Và thật vậy, buổi lễ tốt nghiệp từ khóa nhập thất của thày, trước khi thày có thể gửi con đến khóa nhập thất của đức Lanto trên Tia thứ Hai, sẽ chỉ diễn ra khi con nắm bắt được điều này, khi con cảm nhận – kinh nghiệm – rằng cuộc sống có thể là một trải nghiệm tích cực.

Điều đó không có nghĩa là con đã xóa sạch tiềm thức của mình, bốn tầng của tâm, khỏi mọi phàm linh và mọi khuôn mẫu quá khứ đang ngăn trở bước tiến của con. Nhưng nó có nghĩa là ở một mức độ nào đó của con người con, con có cái biết nội tâm dựa trên kinh nghiệm rằng cuộc sống có thể tích cực. Và tất nhiên, đó là hy vọng của các thày, bảy Thượng sư và Đại thượng sư, rằng khi con đến tầng 96, con sẽ giữ chặt trong tâm cái biết cuộc sống là một vòng xoáy đi lên. Để sa nhân không thể cám dỗ con rời vòng xoáy đi lên này, để con tiếp tục vượt thăng chính mình. Vì con đã trải nghiệm những cạm bẫy của sa nhân trên bảy tia sáng không thể ngăn cản bước tiến của con, sự tự vượt thăng của con.

Thày cảm thấy một niềm hân hoan rất lớn khi đệ tử đạt trình độ này và tốt nghiệp khóa nhập thất của thày. Và thày có thể mời thày Lanto đến và cầm tay người đệ tử. Và thày đứng nhìn con đi với thày Lanto trên cây cầu ánh sáng từ khu nhập thất của thày đến khu nhập thất của thày Lanto, và thày chỉ giản dị nhìn con bước đi, giống như hình nhân vật chính cưỡi ngựa đi vào ánh chiều tà trong một số cuốn phim. Con cùng với thày Lanto đi vào dòng ánh sáng, và thày đứng lại, đôi khi cảm thấy một giọt nước mắt hạnh phúc khi biết thày đã hoàn thành công việc của mình là Thượng sư của Tia thứ Nhất. Thày đã dẫn người đệ tử đi xa nhất mà người đệ tử có thể đi được trong khóa nhập thất của thày, và trong niềm thương yêu và hân hoan thày chứng kiến người đệ tử tiến lên tầng kế tiếp.

Vì thày là Thượng sư của khóa nhập thất thứ nhất. Thày biết thày không phải là người đưa đệ tử đi hết con đường dẫn tới thăng thiên. Thày là Thượng sư thứ nhất. Có thể nói thày là người làm công việc nhơ bẩn nhất, vì chắn chắn là khi con đã trải qua khóa nhập thất của thày, con đã được thanh lọc phần nào. Đó là lý do vì sao con sẵn sàng nhận những chỉ dẫn cao hơn đang chờ đợi con tại khóa nhập thất của thày Lanto.

Thày đã chọn là Thượng sư của Tia thứ Nhất. Thày hoàn toàn an bình với vị trí của mình và những thách thức và khó khăn của nó. Thày hoàn toàn yêu Tia thứ Nhất của uy lực và ý chí. Nhưng thật ra, thày yêu động lực sáng tạo, và không điều gì khiến thày vui bằng việc giúp các dòng sống mở khóa quyền năng sáng tạo của họ, để họ sẵn sàng lấy quyết định sáng tạo thay vì quyết định máy móc. Chúng không thực sự là chọn lựa, mà là không-chọn lựa, điều mà Giê-su gọi là chọn lựa Chết.

Đến đây là đủ cho kỳ truyền đọc này. Thày sẽ trở lại với một vài nhận xét nữa về Tia thứ Nhất, đúng hơn là nhiều hơn một vài nhận xét. Vì còn một số đặc tính của Tia thứ Nhất mà thày muốn đưa ra dưới một dạng mà các con có thể nghiên cứu ở tầng vật lý, ở mức nhận biết ý thức. Thày là chân sư MORE và thày mãi mãi HƠN NỮA.

Uy lực và an bình

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 7/2/2013.

TA LÀ Chân sư MORE. Hôm nay thày đến đây để cho các con bài giảng kế tiếp trong bộ này để giúp con lĩnh hội – không phải chỉ hiểu bằng lý trí – và trải nghiệm sự rung động và các đức tính của Tia thứ Nhất.

Dĩ nhiên một đức tính cơ bản của Tia thứ Nhất là uy lực. Nhưng khi thày nói tới uy lực, nhiều đệ tử tức khắc liên tưởng tới quyền lực trên trái đất. Vậy con hãy để thày góp ý thế nào là uy lực thực sự. Khi con nhìn vào trái đất, đặc biệt là lịch sử, con thấy có những người có quyền lực vật lý lớn trên người khác. Do đó, con có thể có một tiêu chuẩn là những người có quyền lực độc đoán như vậy là người có uy lực. Tuy nhiên, xét theo định nghĩa bất nhị, thì những người này không có uy lực chút nào.

Các con yêu dấu, nếu con muốn có một hình ảnh so sánh thì con có thể nhìn vào một tổ kiến. Chắc con cũng biết là tổ kiến có tổ chức rất thứ bậc. Có một con kiến chúa trên đỉnh của tháp quyền lực, có kiến khác là chiến sĩ, và đa số là kiến thợ không thực sự có ý chí riêng biệt và ý muốn riêng biệt. Con có thể cho là kiến chúa có nhiều quyền lực trong tổ kiến. Nhưng con là một con người, con có thể lấy một cái xẻng và chỉ vài phút sau đập nát tổ kiến khiến không thể xây dựng lại như trước.

15.1. Uy lực thực sự là gì?

Khi con tiến lên tầm nhìn của chân sư thăng thiên, thì con thấy những người được coi là quyền uy nhất trên trái đất không khác gì con kiến chúa trong tổ kiến, và quyền lực của họ không ra gì so với uy lực của các Elohim, hay khi so sánh với uy lực hiện diện trên các hành tinh không có những biểu hiện thấp như trên trái đất. Có những hành tinh trong vũ trụ vật chất nơi có những người đã phát triển uy lực của tâm đến mức, nếu họ xuất hiện trên trái đất, họ chỉ cần xua tay là có thể tiêu diệt đội quân hùng mạnh nhất từ xưa tới nay. Do đó, con thấy điều mà con người gọi là uy lực không phải là uy lực thực sự. Nó chỉ là uy lực trong một bối cảnh nào đó, vì như con cũng biết – qua thuyết tương đối nổi danh của Einstein – tất cả đều tương đối, ít nhất là trong vũ trụ vật chất.

Quyền uy trên người khác trong tổ kiến trái đất có phải là uy lực thực sự chăng? Không phải đâu con. Như thày hay nói, nếu vị thày tâm linh là một con kiến thì con hãy nghe nó. Vậy con hãy học từ thí dụ tổ kiến là quyền lực trên thế giới vật chất không ra gì khi so sánh với quyền năng sáng tạo của Thượng đế.

Dĩ nhiên, điều thày muốn giảng qua lời chỉ dẫn này là cho con thấy mục đích của con Đường Bảy bức Màn là giúp con mở khóa quyền năng thật của con, quyền năng sáng tạo đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Hiện diện của con khao khát cho quyền năng này tuôn chảy xuyên qua con khi con trở thành cánh cửa mở.

Mục đích của con Đường Bảy bức Màn không phải là nâng mình lên để có quyền uy theo tiêu chuẩn đánh giá của người phàm, mà là để con trở thành cánh cửa mở cho quyền uy của Thượng đế. Nhưng con có thấy chăng, quyền uy của Thượng đế muốn biểu lộ trên trái đất, nhưng nó sẽ không biểu hiện theo kỳ vọng và tiêu chuẩn con người. Đó là lý do vì sao khi con còn ôm chặt những kỳ vọng và tiêu chuẩn, tâm của con sẽ là cánh cửa đóng. Trong tiềm thức, con đặt điều kiện bắt quyền năng sáng tạo của Thượng đế phải biểu hiện qua con như thế nào, và như thế các van trên luân xa của con sẽ khép lại và quyền năng Thượng đế sẽ không chảy qua được. Vì đương nhiên là uy lực Thượng đế, tuy toàn năng, sẽ không vi phạm quyền tự quyết.

15.2. Mơ ước có quyền năng đặc biệt

Các con hãy để thày nói về một vấn đề mà thày hay cần giải quyết ở khóa nhâp thất của thày, đó là có nhiều đệ tử mơ ước có quyền năng đặc biệt. Không nhất thiết là quyền năng vật lý, nhưng là quyền năng tâm linh hay tâm lý. Rất nhiều đệ tử mơ ước trổ tài làm phép lạ để thuyết phục mọi người về thực tại của cõi tâm linh và con đường tâm linh, hay giá trị của giáo lý, hay của vị thày tâm linh, và ngay cả sự hiện hữu của chân sư thăng thiên. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên mơ ước có ngày các chân sư thăng thiên xuất hiện như một biểu hiện vật lý không thể phủ nhận, để mọi người thấy là các thày có thật, và như vậy các đệ tử là người đã sớm nhận ra các thày đã đúng ngay từ đầu.

Con yêu dấu, hầu hết những mơ ước và mong chờ này đều xuất phát từ tự ngã, và các nhà tâm lý gọi chúng là “ảo tưởng vĩ đại”, mơ ước mình bất thần thay đổi giống như trong các truyện thần thoại “nhà nghèo thành phú ông”. Con bất thần thay đổi nhờ một phép lạ nào đó, và nay mọi người coi con là một người đặc biệt, cao cả. Con yêu dấu, các thày không hành xử như vậy với đệ tử. Các thày không mong muốn nâng đệ tử lên một địa vị cao cả, theo định nghĩa của tiêu chuẩn thế gian về uy lực và khả năng đặc biệt. Các thày mong muốn đệ tử là cánh cửa mở cho uy lực thật sự. Nhưng uy lực thật sự không giống điều con chờ đợi dựa trên tiêu chuẩn thế gian. Vậy bây giờ thày muốn dẫn con đi một cuộc hành trình tìm về nguồn gốc của ước mơ này, ảo tưởng vĩ đại này.

Thành thật mà nói thì đa số những người tâm linh hay ngoan đạo trên trái đất có những ảo tưởng vĩ đại như vậy, và những người không tâm linh và không ngoan đạo cũng vậy. Con hãy nhìn trường hợp Liên Xô và thấy có bao nhiêu người mơ ước giấc mơ thống trị và vượt trội toàn cầu của chủ nghĩa cộng sản. Con hãy nhìn trường hợp Đức Quốc xã và thấy bao nhiêu người mơ ước giấc mơ chủng tộc Aryan vượt trội mọi sắc tộc và nước Đức cai trị toàn cầu. Và con hãy nhìn biết bao người tâm linh và Thời đại Mới mơ ước vị thày tâm linh của mình được nhìn nhận như người duy nhất sẽ cứu rỗi nhân loại. Hay con hãy nhìn biết bao nhiêu người ngoan đạo mơ ước tôn giáo, giáo hội hay giáo phái của mình được coi là cao cả nhất.  Biết bao nhiêu người Cơ đốc giáo tin rằng Giê-su sẽ trở lại và minh chứng giáo phái của họ là giáo phái thật duy nhất của đấng Ki-tô. Ôi, đều là ảo tưởng vĩ đại, các con yêu dấu.

Các con đã qua những tầng đầu ở khóa nhập thất của thày, bây giờ các con tới tầng thứ sáu là nơi Tia thứ Nhất phối hợp với Tia thứ Sáu. Các con cần xem xét các ảo tưởng vĩ đại và tự hỏi chúng từ đâu tới.

15.3. Cảm thấy bất lực

Thày có giảng là khi các con đầu thai lần đầu xuống trái đất, con bị các sa nhân cố ý ruồng bỏ một cách ác độc. Họ làm tất cả những gì họ có thể làm để miệt thị khả năng sáng tạo của con, để khiến con dập tắt các khả năng này. Và hậu quả của việc này là gì? Khi con dập tắt khả năng sáng tạo và quy phục tiêu chuẩn, hay quyền lực vật lý, của sa nhân, thì con cảm thấy thế nào? Con cảm thấy bất lực. Con cảm thấy mình chỉ là một cá nhân và không thể đương đầu nổi cơ cấu quyền lực của sa nhân.

Làm sao một cá nhân có thể đương đầu nổi cơ cấu quyền lực của Liên Xô, Đức Quốc xã, hay các đế quốc trong quá khứ? Con thấy chăng, cảm giác bất lực đã tới như song sinh của cảm giác bị ruồng bỏ. Sau đó, sau nhiều kiếp cảm thấy bất lực, con nảy sinh ước muốn có một quyền lực thần kỳ từ ngoài đến và cải sửa mọi chuyện cho hoàn mỹ. Và đây là nguyên nhân sâu xa của ảo tưởng vĩ đại.

Các sa nhân dĩ nhiên đã rất khôn khéo móc nối với cảm xúc này và tạo ra ảo tưởng một cứu tinh bên ngoài. Con thấy điều này rất rõ nơi Cơ đốc giáo. Giê-su đến để chứng minh, qua hành động của thày, quyền năng mà tất cả mọi người đều có khi họ để uy lực của Thượng đế chảy xuyên qua họ. Đó là lý do vì sao thày nói những ai tin thày – hay đúng hơn là những ai dám chứng tỏ tầng tâm thức mà thày biểu lộ – sẽ làm được công việc mà thày làm. Nhưng đã có bao nhiêu người dám làm chuyện này? Không có ai, vì họ đã bị sa nhân lừa dối và ép buộc nhìn Giê-su như một ngoại lệ thay vì một tấm gương. Và nay họ chờ Giê-su trở lại và cải sửa mọi chuyện cho hoàn mỹ, nhưng họ không biết rằng Giê-su, vì tôn trọng Luật Tự quyết, đang ngồi trên thiên đàng chờ họ noi theo gương thày và để uy lực của Thượng đế chảy xuyên qua họ.

Tái lâm của Ki-tô không phải là Giê-su trở lại thế gian trong một biểu hiện không thể phủ nhận, mà là hàng chục ngàn hàng triệu người bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô cá nhân của họ. Đó là ý nghĩa thật của tái lâm của Ki-tô. Đó là Ki-tô tái lâm trong con, như các thày đã giảng trong nhiều quyển sách.

Con có thể làm gì để vượt qua cảm giác bất lực này? Con có thể cảm thấy điều thày sắp nói mâu thuẫn, nhưng thực ra chỉ có một cách duy nhất để vượt qua cảm giác bất lực là kết hợp Tia thứ nhất và Tia thứ sáu để tâm hoàn toàn bình an với sự bất lực. Trong quá khứ tâm con không bình an với điều này. Con cảm thấy cảm giác bất lực khi mình chạm trán sa nhân và những lạm dụng quyền lực trắng trợn của họ, là một điều không phải, không công bằng. Và hậu quả là gì? Hậu quả là con tin một lời dối trá khác của sa nhân. Các thày đã phơi bày sự dối trá này một cách chi tiết trong một quyển sách (Chữa lành Mẹ địa cầu), nhưng thày muốn cho con một tóm lược trong bài giảng này.

15.4. Không có gì sai lầm cả

Bản chất của lời dối trá này là sa nhân đã phóng chiếu ảo tưởng là kế hoạch vận hành vũ trụ của Thượng đế có điều gì không ổn. Cách Thượng đế thiết kế vũ trụ có sai lầm. Thượng đế đã sai lầm khi cho con và các sinh thể tự nhận biết quyền tự quyết, vì quyền này cho con người cơ hội đi vào tâm thức nhị nguyên và bị lạc đường. Sa nhân phóng chiếu là Thượng đế đã sai lầm.

Nhưng, như các thày đã giảng, thực sự là cách duy nhất giúp con gia tăng tự nhận biết là có quyền tự quyết hoàn toàn. Cách duy nhất để con trở thành Thượng đế, là mục tiêu của cuộc sống, là con có quyền tự quyết, sử dụng nó, và nhận ra quyền tự quyết luôn luôn tự do vì lúc nào con cũng có thể xóa bỏ một quyết định cũ bằng một quyết định mới. Con không bao giờ có một lựa chọn có thể lấy đi quyền thay đổi lựa chọn đó. Nhưng sa nhân đã phóng chiếu là có điều gì không ổn, và giờ đây có một tà lực có khả năng lật đổ quyền uy của Thượng đế trong vũ trụ. Như các thày đã giảng trong quyển sách Chữa lành Mẹ Địa cầu, có hai loại sa nhân: một loại dùng lừa dối, và do đó ít khi bị lộ diện, và loại kia dùng bạo lực và lạm dụng quyền lực.

Con bây giờ vào thế trên đe dưới búa, bị tấn công bởi sa nhân lạm dụng quyền lực vật lý và sa nhân thày rắn, thày giả, lan truyền ảo tưởng rằng có cái gì không ổn – nhưng con sẽ là người chỉnh sửa. Con sẽ làm điều mà Thượng đế chính Ngài không làm được, và do đó con phải tham gia trận chiến cuồng đại giữa thiện và ác. Và do đó con phải tìm cách có tối đa quyền lực, hoặc hỗ trợ quyền lực cho các sa nhân đang tìm cách chỉnh sửa vấn đề.

Con yêu dấu, nhiều người dân Liên Xô không sùng đạo, nhưng họ thực sự đã tin vào một giáo điều cốt lõi của thuyết Mác-xít là chuyên chính vô sản, là giấc mơ không tưởng của khuynh hướng cộng sản-xã hội cho rằng con, đám đông bất lực, phải chỉnh sửa vấn đề bằng cách ủng hộ cách mạng cộng sản.

Dĩ nhiên là cách mạng cộng sản do một nhóm nhỏ thượng lưu quyền lực lãnh đạo, và họ không bao giờ có ý định trao quyền cho giai cấp vô sản. Họ luôn luôn muốn giữ đặc quyền của giới thượng lưu, như con đã thấy tại Liên Xô, khi họ dành quyền giết tất cả những người mà họ nghĩ đang đe dọa địa vị của họ. Thực sự là qua các vụ giết chóc này, họ đã dùng năng lượng – năng lượng sống chảy ra từ các vụ tra tấn và giết chóc – để củng cố quyền lực của họ, và của những quỷ dữ nấp sau lưng họ và cho họ quyền lực vỏ ngoài.

15.5. Đấu tranh cuồng đại 

Điều thày muốn nói giản dị là: có nhiều hình thức của trận chiến, cuộc đấu tranh cuồng đại này. Con thấy nó trong đa số tôn giáo. Con thấy nó trong nhiều giáo lý Thời đại Mới. Con thấy nó ngay cả trong một số giáo lý mà các thày đã trao truyền trong thế kỷ vừa qua, vì các thày bắt buộc phải dạy một số giáo lý nhằm giúp một số người lên tầng tâm thức cao hơn. Đó là lý do các thày trước đây đã không thể trực diện thách đố tư duy cuồng đại, vì con người không thể chấp nhận ở tầng tâm thức lúc đó.

Nhưng khi con đã học qua năm tầng đầu ở khóa nhập thất của thày thì con đã sẵn sàng dùng khả năng lý luận để xem xét trận chiến cuồng đại và tư duy cuồng đại đằng sau nó. Dĩ nhiên là thày sẽ giúp con làm việc này, nhưng con cũng sẽ được chân sư Nada chỉ dẫn. Thày Nada sẽ tới khóa nhập thất của thày hoặc con sẽ đi qua khóa nhập thất của thày Nada bên trên Ả Rập Xê-út. Các thày sẽ giúp các đệ tử đã sẵn sàng xem xét tư duy cuồng đại đó. Điều đầu tiên con cần là hiểu sự khác biệt giữa uy lực thực sự và uy lực tâm linh, như thày có đề cập ở đầu bài. Con có thể nhìn vào cuộc đời Giê-su, chẳng hạn, và thấy là thày có quyền năng siêu nhân – theo định nghĩa hiện nay của con người. Hiển nhiên là nếu thày có quyền năng này, thày có thể dễ dàng tránh bị bắt giữ. Thày có thể, bất cứ lúc nào, thoát khỏi nhà tù hay gọi các thiên thần tới giải cứu thày. Khi thày bị treo trên thập tự, chính thày cũng có nói là thày có thể ra lệnh Đức Cha phái thiên thần tới giải thoát thày.

Vậy tại sao Giê-su không dùng quyền năng này? Tại sao thày lại để bị hành hạ và đóng đinh trên thập tự? Đó là vì uy lực của Thượng đế không biểu hiện trong trống không. Như thày có nói, uy lực của Thượng đế không có mục đích biểu hiện một số điều kiện trên trái đất. Uy lực của Thượng đế tôn trọng một thực tế giản dị: trái đất là một lớp học.

Quy luật tối hậu trên trái đất là Luật Tự Quyết. Uy lực Thượng đế sẽ không xuống trái đất và thay đổi mọi thứ trong xã hội con người, cho dù là để thể hiện viễn quan của Thời đại Hoàng kim. Uy lực của Thượng đế sẽ không áp đặt Thời đại Hoàng kim lên nhân loại, vì nhân loại phải đồng-sáng tạo Thời đại Hoàng kim bằng cách sử dụng khả năng đồng-sáng tạo của mình. Mục đích không phải là biểu hiện Thời đại Hoàng kim theo một thiết kế vật lý vỏ ngoài. Mục đích là giúp con người nâng cao tâm thức. Đó mới là mục đích cao hơn.

Con thấy Giê-su và nhiều vị khác đã đạt được điều ngự tâm linh đã quy phục Luật Tự quyết và làm mọi chuyện cần thiết, mọi chuyện thích hợp hoàn cảnh, để nâng cao tâm thức con người, không phải qua một bước nhảy vĩ đại lên một tầng tối hậu, mà từ tầng hiện tại lên tầng kế tiếp.

Các thày có nói là 2,000 năm trước, Giê-su chỉ truyền giáo lý thích hợp cho tầng tâm thức con người lúc đó. Thày không tới để truyền giáo lý tối hậu, và thày đã không truyền giáo lý tối hậu. Đức Phật 2,500 năm trước đây cũng vậy.  Và ngày nay các thày cũng không truyền giáo lý tối hậu. Các thày chỉ truyền giáo lý đủ để giúp những người sẵn sàng lên tầng tâm thức kế tiếp, nhưng các thày cũng mong là giáo lý sẽ giúp họ có động lượng và hiểu biết, nếu họ tiếp tục trên con đường, để đi đến tận tầng thứ 144.

15.6. Để quyền tự quyết trải bày

Khi con tới điểm nhận chỉ dẫn ở tầng Tia Thứ Sáu của Tia thứ Nhất, bước đầu là con phải nhận ra viễn quan rộng lớn là quyền tự quyết phải được phép trải bày ra. Như một người tâm linh, con có thể thấy một số chuyện trên trái đất không đạt được tiềm năng cao nhất của chúng. Những điều này tạo ra nhiểu đau khổ, bất công. Có nhiều lạm dụng quyền lực. Nhưng con thấy chăng, điều này không có nghĩa là con nên tham gia một trận chiến cuồng đại chống lại những người mà con coi là nguyên nhân của bất công.

Nếu con muốn có một hình ảnh minh họa điều thày đang nói, thì con có thể xem thí dụ của những cuộc nổi dậy trong hai năm vừa qua trong những nước Ả Rập. Các cuộc nổi dậy này được gọi là Mùa Xuân Ả Rập. Nhưng con cũng thấy là tại các nước Ai Cập, Tunisia, Libya và nay Syria, lật đổ một nhà độc tài không bảo đảm có dân chủ, tiến bộ, hòa bình. Và lý do rất giản dị. Dân chủ và hòa bình chỉ có được khi tâm thức đại chúng được nâng lên tới chỗ bắt đầu vượt thăng tư duy cuồng đại.

Thày không muốn nói là tư duy cuồng dại không thể có mặt trong một nước dân chủ, vì điều này được chứng minh quá rõ ràng bởi nước Hoa Kỳ. Điều thày muốn nói là một quốc gia phải bắt đầu từ bỏ tư duy cuồng đại thì mới có thể thể hiện dân chủ thật sự. Và điều này hiển nhiên chưa xảy ra ở các nước Ả Rập. Phương trình khá giản dị: khi dân một nước lật đổ một nhà độc tài, họ không chứng tỏ là họ đã từ bỏ tư duy cuồng đại. Đó là lý do cuộc bạo động chỉ tạo hoàn cảnh để có thêm xung đột giữa các nhóm người trong nước đó.

Con có thấy điều này ở Hoa Kỳ chăng? Hoa Kỳ có một Hiến chương phần nào được chân sư thăng thiên bảo trợ, dựa trên một số lý tưởng chân chính và bất nhị. Tuy thế, Hoa Kỳ được khai sinh qua một cuộc cách mạng đẫm máu, qua một cuộc chiến hung bạo chống lại Đế quốc Anh, và điều này đã tạo hoàn cảnh cho cuộc Nội Chiến đã gần xé nát dân tộc Mỹ. Chỉ nhờ có một số người lãnh đạo và nhiều người trong dân chúng đã chịu vượt lên trên tư duy cuồng đại mà Hiệp chủng quốc được duy trì và Hoa Kỳ sống sót như một dân tộc dưới Thượng đế.

15.7. Một phân tích sâu sắc về lịch sử

Thày Nada và thày dùng khả năng phóng chiếu sử liệu Akasha lên một màn ảnh để chỉ cho đệ tử một số giai đoạn lịch sử và phân tích sâu sắc những diễn tiến và nguyên do sâu xa. Các thày có thể cho thấy là các thiên thần sa ngã và thày giả đứng đằng sau nhiều diễn biến đó. Các thày cũng cho thấy cách hai nhóm sa nhân – nhóm dùng bạo lực vật lý và nhóm dùng lừa đảo – hoạt động để tạo tình trạng phe nào thắng cũng không quan trọng, vì kết quả vẫn là dân chúng bị đàn áp bởi giới thượng lưu sa nhân. Trong nhiều trường hợp, cuộc tranh chấp chỉ là một cuộc chiến nhị nguyên giữa hai nhóm sa nhân, và kết quả ra sao thì sa nhân vẫn nắm quyền, như con có thể thấy trong cuộc Cách mạng Pháp, Cách mạng Bôn sê víc, và nhiều thí dụ khác.

Khi người đệ tử thấy điều này, họ bắt đầu nhận ra là họ không mong có quyền lực vật lý cho họ khả năng bước vào một hoàn cảnh và thay đổi nó tức khắc. Họ nhận ra rằng nếu họ bước vào một hoàn cảnh và sử dụng quyền năng tâm linh, thì quyền năng tâm linh sẽ hỗ trợ – và do đó cho thêm sức mạnh – một phe sa nhân. Dĩ nhiên, đây là một lạm dụng và tha hóa trầm trọng quyền năng tâm linh. Dĩ nhiên các đệ tử đã tới tầng này của khóa nhập thất của thày không muốn dùng quyền năng tâm linh để hỗ trợ sa nhân đang chống lại mục tiêu của Thượng đế.

Lúc đó người đệ tử nhận ra việc có quyền năng tâm linh lớn trong khi vẫn còn viễn quan giới hạn là một điều rất nguy hiểm cho họ. Vì nếu họ có quyền năng đó, viễn quan giới hạn sẽ khiến họ lạm dụng quyền lực, và như thế cho sa nhân thêm rất nhiều năng lượng tâm linh, giúp chúng kiềm tỏa con người hơn nữa.

Khi người đệ tử thấy điều này, họ nhận ra họ thực sự cần xây dựng một viễn quan cao hơn. Thày Nada rất thiện nghệ trong việc giảng và chỉ cho người đệ tử thấy là chìa khóa để có viễn quan cao hơn, chìa khóa để tăng trưởng khả năng phụng sự với tâm thức Ki-tô, là trước tiên đạt được sự bình an nội tâm. Và điều này đạt được bằng cách xem xét Luật Tự Quyết và cách nó trải bày, và vì sao phải cho phép nó trải bày.

Con có thể nhìn lịch sử trái đất và thấy rằng dân chúng đã bị áp bức bởi một thiểu số thượng lưu, tình trạng này vẫn xảy ra ở một số nơi hiện nay. Dân chúng bị nghèo đói, không được công lý của tòa án, sống dưới chế độ độc tài quân phiệt có thể làm bất cứ điều gì mà không phải tội, hay các hình thức lạm dụng quyền lực khác. Con có thể có ước muốn giải thoát con người khỏi các tệ nạn này. Con có thể có ước muốn dẹp tan giới thượng lưu quyền lực đang áp bức dân chúng.

15.8. Bài học cốt yếu trên con đường tâm linh

Nhưng nếu con nhìn sâu hơn, con thấy là những tệ nạn kia xảy ra vì người dân chưa chịu nâng tâm thức mình lên. Họ chưa chịu nhìn vào sự bất lực và nhận ra một điều giản dị: bất lực theo nghĩa vật lý không dính dáng gì tới quyền năng tâm linh, vì quyền năng tâm linh đến từ bên trong. Con không cần xin phép một thẩm quyền thế gian để đi vào nội tâm, tìm thấy vương quốc mà Giê-su nói có ở trong con, và bắt đầu là cánh cửa mở cho sự biểu hiện uy lực đến từ vương quốc này.

Không một thẩm quyền nào trên trái đất có thể cản con làm chuyện này. Đây là bài học cốt yếu trên con đường tâm linh. Điều này áp dụng cho những người đang bị áp bức, cũng như là cho chính con. Con không cần xin phép bất cứ thẩm quyền nào trên trái đất để mở tâm và cho phép uy lực của Hiện diện TA LÀ tuôn chảy xuyên qua con. Thày Nada và thày sẽ giúp con lĩnh hội và thể nhập bài học này.

Lúc đó, con thấy lý do vì sao dân chúng bị áp bức bởi nhà độc tài tàn ác nhất, chỉ giản dị là: Luật Tự quyết bắt buộc rằng nếu con người không chịu học từ bên trong, thì họ sẽ phải học từ bên ngoài. Nếu họ không chịu học lời chỉ dẫn của chân sư thăng thiên, thì họ sẽ phải học từ Trường đời Cay đắng. Và trong Trường đời Cay đắng, con người sẽ chỉ đổi hướng nhìn khi vị cay đắng lên cao đến độ họ không chịu nổi nữa, và họ chịu nhìn về chính mình và nói: “Tôi có thể làm gì để thay đổi tình trạng này? Tôi có thể thay đổi gì trong chính tôi, thay vì cứ nghĩ rằng điều kiện bên ngoài phải thay đổi?”

15.9. Quyền tự quyết trải bày ra sao

Tại sao con là một đệ tử tâm linh? Tại sao con tham dự khóa nhập thất của thày? Tại sao con đang đọc hay nghe bài giảng này? Đó là vì từ rất lâu rồi con đã quyết định sẵn sàng nhìn vào bên trong mình. Thày Nada và thày có thể dựa trên ý muốn này để giúp con thấy là tất cả mọi chuyện đang xảy ra trên trái đất và trong suốt lịch sử, đều là sự trải bày của quyền tự quyết.

Không điều gì có thể xảy ra cho con người mà không phản ánh trạng thái tâm thức của họ. Và khi người dân một quốc gia nâng tâm thức mình lên quá một mức nào đó thì chính thể độc tài phải được thay thế bởi một hình thức chính quyền cao hơn.

Thay vì một nhóm thượng lưu quyền lực thay thế một nhóm khác – nhóm sau có thể còn tàn ác hơn nhóm trước – thì một sự chuyển vọt xảy ra, đưa đến một hình thức chính quyền cao hơn. Lúc đầu không nhất thiết là hình thức chính quyền lý tưởng, nhưng là một hình thức cao hơn. Sau đó, dân chúng lại nâng tâm thức lên hơn nữa, và một hình thức chính quyền cao hơn lại thể hiện, và vòng xoáy đi lên cứ tiếp tục về hướng Thời đại Hoàng kim. Lúc đó, con có thể nhìn trái đất và nói:  “Con thấy thiết kế của Thượng đế thật tài tình khi cho quyền tự quyết được trải bày.” Sau đó, con nhìn vào ảo tưởng của tư duy cuồng đại, ảo tưởng cho rằng thiết kế của Thượng đế có điều gì sai lầm căn bản, và nói: “Tôi không còn tin bạn nữa. Tôi thấy cái giả đằng sau bạn.” Lúc đó, con có thể bình yên với chuyện đang là.

Sau đó, con có thể đi sâu thêm nữa và nhìn vào cảm giác bị hất hủi khi sa nhân miệt thị nỗ lực sáng tạo của con lúc con đầu thai lần đầu. Con nhận ra tình huống này không tránh được, vì sa nhân có quá nhiều kiểm soát trên trái đất và vì con ở trong trạng thái tâm thức tương đối non nớt.

Ở đây, chúng ta sẽ không đào sâu lý do tại sao con xuống đây, và tại sao nhiều người trong chúng con đã xuống đây khi chưa sẵn sàng đối phó với các sa nhân, vì điều này đã được giảng tường tận trong quyển sách của thày Maitreya (Chìa khóa cốt yếu của tự do tâm linh). Điều thày muốn nói ở đây là: Khi con nhìn chuyện đã xảy ra, con nhận ra đây giản dị là một hậu quả không tránh được. Cảm giác bị hất hủi khi con con xuống trái đất lần đầu là cái giá phải trả của việc con xuống đây.

Con có thể đi sâu thêm chút nữa, và thấy là con đến đây với ước muốn thay đổi một số chuyện theo viễn quan của mình. Lúc đó, đặc biệt dưới sự hướng dẫn của thày Nada, con có thể chất vấn viễn quan này. Thày Nada có nhiều động lượng trên Tia thứ Sáu nên rất thiện nghệ trong việc giúp con nhận ra sự khác biệt giữa phụng sự thật và phụng sự giả, giữa phụng sự phát xuất từ bình an nội tâm hoàn toàn và phụng sự phát xuất từ bất an, nghĩa là từ ý niệm có cái gì sai lầm cần được chỉnh sửa.

15.10. Đừng hạn chế Hiện diện TA LÀ

Trong loạt bài này, thày có nói tới tiêu chuẩn của sa nhân, và lý do vì sao không thể áp dụng tiêu chuẩn vào sự sáng tạo. Con có thấy chăng, liên quan đến tư duy cuồng đại, là khi con muốn thay đổi một điều gì đó theo một viễn quan đã định sẵn, con không thể là cánh cửa mở cho quyền năng sáng tạo của Hiện diện TA LÀ của mình. Lý do là con muốn đặt một viễn quan lên trên điều mà Hiện diện TA LÀ có thể và phải biểu lộ xuyên qua con, và viễn quan này dựa trên một cái nhìn hạn hẹp vì con đang hiện thân trong cõi vật lý.

Đó là lúc con nhận ra, khi con hiện thân trong một hành tinh dày đặc như trái đất, con không thể tránh bắt đầu với một tầm nhìn hạn hẹp. Đó là lý do vì sao tiến trình học cách biểu hiện khả năng đồng-sáng tạo của con gồm hai phần. Con phải học về năng lượng sáng tạo của bảy tia sáng và học cách biểu hiện bảy tia. Nhưng mặt khác, để biểu lộ bảy tia một cách sáng tạo, con cũng cần khắc phục những khái niệm giả tha hóa bảy tia mà sa nhân đã tạo ra.

Như thày có nói, trên một hành tinh như trái đất con không phát triển theo kịch bản lý tưởng. Trong kịch bản thực sự mà con phải đối đầu, con bắt đầu với một viễn quan hạn chế, trong lọc viễn quan này qua nhiều bước và tầng lớp, cho tới khi con trở thành cánh cửa hoàn toàn mở ở tầng tâm thức 96. Trong tiến trình này, con đã buông bỏ một số khía cạnh của tâm thức sa ngã và tiêu chuẩn sáng tạo mà họ áp đặt qua tư duy cuồng đại và quan niệm thiết kế của Thượng đế có điều sai lầm. Do đó, con không thể phụng sự thực sự nếu tâm con chưa an bình trọn vẹn. Thày Nada và thày không chờ đợi con đạt được an bình trọn vẹn ở tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày. Nhưng các thày mong đặt được nền tảng giúp con hiểu tầm quan trọng của việc khắc phục tư duy cuồng đại, đạt được tâm bình an, và phụng sự trong trạng thái bình an thay vì trạng thái sợ hãi, giận dữ, hận thù hay kích động.

15.11. Một bước ngoặt trọng yếu trên đường tu 

Các con yêu dấu, các thày đã thấy đệ tử tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên và hăng say đọc bài chú với lòng hận thù sa nhân và biểu hiện nào đó của thiên thần sa ngã trên trái đất – như họ hình dung. Qua đó, việc đọc chú của họ đã có phần tha hóa ánh sáng. Các thày không muốn thấy điều này tiếp tục, vì nó tạo nghiệp cho người đệ tử, và cũng có phần tạo nghiệp cho các thày, tuy các thày có thể giảm nghiệp này bằng cách giới hạn uy lực chảy xuyên qua bài chú khi người đệ tử đọc với tâm không trong sáng.

Đây là một tầng quan trọng của khóa nhập thất của thày. Các đệ tử không có khả năng chất vấn tư duy cuồng đại không thể đi quá tầng này của khóa nhập thất. Có một số đệ tử tới chỗ này và phải trở lại Trường đời Cay đắng vì họ cần trải nghiệm thế nào là chiến đấu người khác vì tư duy cuồng đại. Họ chưa chán ngán kinh nghiệm này nên chưa thực sự nhận ra niềm mong ước vượt qua tư duy cuồng đại của họ.

Có lẽ con đã bắt đầu nhận ra một sự thực giản dị: con có thể rời con Đường Bảy bức Màn bất cứ lúc nào cho tới tầng 96, nhưng bảy tầng đầu trong khóa nhập thất của thày là những điểm quan trọng nhất. Đây là nơi con có thể quyết định bỏ đường tu và trở về Trường Đời Cay đắng.

Thày phải nói tầng thứ sáu là nơi nhiều đệ tử – không phải đa số, nhưng khá nhiều đệ tử – quyết định, qua việc không chịu chất vấn tư duy cuồng đại, trở về Trường đời Cay đắng và tranh đấu chống một bất công cuồng đại nào đó. Thày hy vọng rằng sau một hay nhiều kiếp sống, họ có thể trở lại khóa nhập thất của thày. Nhưng khi họ trở lại, nhiều khi họ có nhiều nghiệp quả cần giải quyết trước khi có thể mở tâm đón nhận lời chỉ dẫn của thày.

15.12. Đệ tử kẹt trong tranh chấp quyền lực 

Có đệ tử tới khóa nhập thất của thày với động lượng từ nhiều kiếp có địa vị quyền uy trên trái đất. Những đệ tử này không nhiều. Đa số đệ tử đi vào con đường tâm linh đã quyết định từ nhiều kiếp trước không tham gia vào tranh chấp quyền lực trên trái đất. Do đó họ thường chấp nhận một đia vị thấp kém trong xã hội. Hoặc họ đã sống trong tu viện hay rút ra khỏi cuộc đời. Nhưng cũng có người – như chính thày trong nhiều kiếp – đã tham gia vào các giới quyền lực trên trái đất. Những người này, như chính thày, không tránh bị lôi kéo vào các cuộc tranh giành quyền lực.

Trường hợp những đệ tử này là một thách đố khác cho thày, vì họ cần học cùng bài học, nhưng không tự lên án mình vì đã tham gia vào tranh giành hay lạm dụng quyền lực. Thày có nói là trong kiếp thày đầu thai như Thomas More, thày đã lạm dụng quyền lực và đã từng hành quyết một số người mà thày cho là phỉ báng Thượng đế. Thày có thể bảo đảm với con là một thách đố lớn cho thày sau kiếp sống đó là nhìn nhận mình đã lạm dụng quyền lực mà không cảm thấy tủi hổ đến độ bỏ cuộc.

Thày đã làm được điều này vì, như con thấy trong lịch sử, trong cùng kiếp đó thày đã từ chối không dùng quyền lực chống lại nhà vua, và ngược lại để nhà vua hành hạ và hành quyết mình. Qua đó, thày đã bắt đầu tiến trình chất vấn sự lạm dụng quyền lực. Tuy thế, chất vấn nó trong tâm thày vẫn là một thách đố lớn. Vì dĩ nhiên nhìn ra sự lạm dụng quyền lực nơi người khác luôn luôn dễ hơn là nhìn ra sự lạm dụng quyền lực từ chính mình.

Một lần nữa, thày Nada và thày có thiết kế một số dụng cụ nhằm giúp những đệ tử đã có những chức vụ quyền uy trong những kiếp cuối, để họ nhận ra bài học toàn vũ là con không đẩy mạnh mục tiêu của các chân sư thăng thiên và mang lại Thời đại Hoàng kim bằng cách sử dụng quyền lực trong đấu tranh cuồng đại.

Đây là một bài học khó, nhưng khi đệ tử tới chỗ này, thì các thày có dụng cụ và kinh nghiệm để giúp họ vượt qua trở ngại. Nhưng có một số tới khóa nhập thất, và không những họ có động lực lạm dụng quyền lực, có khi ngay cả trong kiếp này, nhưng họ lại ngạo mạn không chấp nhận là mình sai. Dĩ nhiên là con có thể thấy trên trái đất hai đặc tính này đi cùng với nhau. Những người có nhiều quyền lực nhất thường rơi vào một ảo tưởng khác do sa nhân phóng chiếu cho rằng muốn duy trì vị thế quyền lực thì mình lúc nào cũng phải đúng.

Khắc phục tư duy này là một thách đố đặc biệt, một khai ngộ đặc biệt, và đó là một lý do tại sao Giê-su lại để nhóm thượng lưu quyền lực hành hạ và sỉ nhục. Thày làm điều này không phải chỉ để mang họ ra xét xử; nhưng thực là để thày chứng minh cho chính mình và các thày tâm linh của thày là thày đã buông bỏ niềm tự hào đó. Do đó, thày bảo đảm với con là chấp nhận cho các thiên thần sa ngã, sa nhân đang đầu thai, miệt thị, chế giễu, sỉ nhục, nói đủ điều không thật về mình, với mục đích rạng danh Ki-tô, thực sự là một phần của tiến trình khai ngộ.

Nếu con thấy mình đã trải nghiệm bị chế giễu và hành hạ trong kiếp này, thì con hãy tươi lên. Vì khi con học cách nhìn vào điều này mà không dính mắc – chỉ đơn giản nhận ra đó là Luật Tự Quyết trải bày – thì con tiến một bước lớn trên con đường tu của con. Con sẵn sàng để Luật Tự quyết trải bày, nhờ đó những người đang chế giễu con có cơ hội thấy tại sao họ muốn chế nhạo người khác và từ đó bắt đầu chất vấn trạng thái tâm thức của mình. Nhưng con cũng được cơ hội chứng tỏ con sẵn sàng bị chế giễu, vì con sẵn sàng bước lên trạng thái tâm thức cao hơn trong đó con không quá coi trọng nó, con không để những lời chế giễu của người khác ngăn cản con thực hiện sứ vụ thiêng liêng và biểu hiện năng lượng sáng tạo của mình.

Đây là một khai ngộ cực kỳ quan trọng, dó đó thày Nada và thày sẽ giúp con thấy là con có thể nhận sự chế giễu của thế gian mà không dính mắc. Con thực sự có thể học cách buông bỏ ý thức cá nhân trong cuộc sống. Nhưng thày đang đi quá nhanh, vì đây là đề tài của bài chỉ dẫn tới của thày. Vì làm sao con có tự do khi con coi những gì xảy ra với con đều nhắm vào cá nhân mình? Chuyện này không thể làm được. Chính vì vậy, thày Saint Germain và thày đã thiết kế một số phương pháp để giúp đệ tử lên tầng cao hơn. Vậy thày sẽ trở lại để cho con tầng chỉ dẫn đó.

Uy lực và chữa lành

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 6/2/2013.

TA LÀ Chân sư MORE. Các con hãy để thày nói rộng thêm điều thày đã giảng về bữa tiệc mà các thày dành cho những người đã tới chỗ quyết định sẵn sàng gia tốc chính họ. Thày đã so sánh nó với bữa tiệc kiên tín thường được tổ chức cho thanh thiếu niên khi họ xác nhận đức tin Cơ đốc của họ.

Tất nhiên, thày biết rằng nhiều thanh thiếu niên trên thế giới coi đây là một buổi lễ truyền thống, một hình thức cho phép họ có bữa tiệc và quà tặng. Tuy nhiên, ý nghĩa sâu xa là con đã thực sự trưởng thành và có thể xác nhận một cách ý thức đức tin Cơ đốc của mình.

Tất nhiên, thày không yêu cầu con xác nhận bất cứ điều gì bằng đức tin. Đức tin đâu có dính dáng gì đến điều thày dạy, vì thày dạy qua kinh nghiệm. Và khi con trải nghiệm, con cần gì phải tin vào điều mà con chưa trải nghiệm? Tin một trải nghiệm có thể có giúp con mở tâm trí và trái tim đón nhận trải nghiệm, nhưng mục đích tối hậu là con có được trải nghiệm.

13.1. Một giai đoạn tăng triển mãnh liệt

Khi con thực hiện cam kết này, con bước vào giai đoạn có thể sử dụng quyền năng mà con đã khám phá để gia tốc ý niệm bản ngã. Con có thể gia tăng tốc quá ý niệm bản ngã trước. Nhiều đệ tử bước vào một thời kỳ mà những gì họ trải nghiệm trong khóa nhập thất của thày tương tự với những gì họ trải nghiệm trong cuộc sống có ý thức. Thông thường, khi một người trải qua buổi lễ trong khóa nhập thất của thày, thì họ không nhớ buổi lễ với tâm ý thức của họ, nhưng họ nhận ra con đường tâm linh là một cơ hội lớn để gia tốc mình.

Những người biết tới giáo lý của các thày thì thường nghiên cứu giáo lý một cách sốt sắng hơn và thực hành kỹ thuật đọc chú đọc thỉnh một cách nhiệt thành hơn trước. Điều này thường đưa họ vào một giai đoạn tăng triển rất mạnh mẽ giúp họ rũ bỏ nhiều điều kiện cũ, rũ bỏ phần lớn hành trang mà họ đã mang theo mình, thường khi từ nhiều kiếp. Đây là một tiến trình tăng triển vượt bậc, một gia tốc mãnh liệt.

13.2. Tới khóa nhập thất của các Thượng sư khác

Thêm vào đó, sau khi con trải qua buổi lễ xác nhận con thực sự sẵn sàng gia tốc mình, con không còn bị giới hạn ở trong khóa nhập thất của thày. Khi con chưa làm lời cam kết, con chỉ có thể tham dự khóa nhập thất của Tia thứ Nhất, vì đây là nơi thử thách sự sẵn sàng gia tốc của con. Như thày đã mô tả, khi con mới tới khóa nhập thất của thày, thày tìm cách dẫn con tới điểm lấy quyết định đó. Nhưng khi con chưa lấy quyết định đó, con không thể đi đâu khác; con không thể thực sự tới các khóa nhập thất của các Thượng sư khác. Nhưng một khi con lấy quyết định đó, con có thể đi tới các khóa nhập thất mà con cần, để vượt qua một nấc thang, một khó khăn trên con đường tu của con.

Một số đệ tử đến khóa nhập thất của Đức Lanto để học mở rộng khả năng suy luận của mình vì họ cần suy luận để gia tốc vượt qua một số hành trang trong quá khứ. Có đệ tử khác tham dự khóa nhập thất của thày Paul người thành Venice, để trải nghiệm và hấp thụ tình thương nhiều hơn, để gia tăng khả năng chấp nhận họ xứng đáng được yêu thương. Tất nhiên, tại thời điểm này, cũng có đệ tử khác đi tới khóa nhập thất của thày Serapis Bey, để được nhiều giúp đỡ trong việc sử dụng uy lực gia tốc, Ngọn lửa Gia tốc, Ngọn lửa Thanh khiết, để gia tốc bản thân vượt xa quá khứ.

13.3. Con không thể thăng thiên bằng cách tuân theo các quy tắc

Tuy nhiên thày Serapis cũng sẽ cho những đệ tử này ý niệm rất rõ ràng rằng tại thời điểm này trên con đường tu cá nhân của họ, những gì Ngọn lửa Thanh khiết và Gia tốc có thể giúp họ có giới hạn. Vì dù Serapis là vị thày chính của pháp thăng thiên và xoáy ốc thăng thiên – cuộn xoáy thăng thiên – thày nói rõ là lúc này người đệ tử chưa sẵn sàng bước vào vòng xoáy thăng thiên. Và lý do rất đơn giản: Con không thể thăng thiên bằng cách tuân theo các quy tắc.

Các thày là chân sư thăng thiên có thể cho con một giáo lý, một giáo lý vỏ ngoài trên trái đất. Giáo lý này có giá trị, nhưng điều này không có nghĩa là con có thể thăng thiên bằng cách học hỏi giáo lý vỏ ngoài này. Một số đệ tử đã lấy một giáo lý vỏ ngoài có giá trị và dùng nó để tạo ra quy tắc. Và có đệ tử thực sự tin với tâm ý thức rằng họ sẽ thăng thiên nếu họ tiếp tục tuân theo các quy tắc, đọc các bài chú, làm điều này và tránh điều kia. Nhưng không phải như vậy đâu.

Họ tin điều này với tâm vỏ ngoài của họ vì ở các tầng sâu trong tâm họ, họ chưa cam kết gia tốc bản thân và do đó không thể tham dự khóa nhập thất của thày Serapis. Và họ đã không học được bài học là họ không thể thăng thiên bằng cách tuân theo quy tắc. Vì thăng thiên là gì? Đó là một tiến trình sáng tạo. Con chỉ có thể thăng thiên bằng cách mở khóa trọn vẹn quyền năng sáng tạo của mình, trước tiên là qua bảy tia sáng và sau đó xa hơn nữa là qua các tia bí mật và quả vị Ki-tô. 

Chỉ khi nào con biểu lộ một cách sáng tạo những gì Hiện diện TA LÀ muốn biểu lộ qua con, thì con mới biểu lộ được đầy đủ món quà mà Hiện diện TA LÀ muốn cho trái đất này xuyên qua con. Và lúc đó con sẵn sàng thăng thiên. Vì con thấy chăng, Hiện diện TA LÀ không gửi con xuống đây để tạo nghiệp, cân bằng nghiệp quả và ra đi. Hiện diện gửi con đến đây với mục đích tích cực, mục tiêu tích cực là đem một món quà, là cánh cửa mở để đem món quà của nó cho trái đất.

Chỉ khi nào Hiện diện thỏa mãn là nó đã cho trọn vẹn món quà của nó, thì con – cái Ta Biết, dòng sống hiện thân trong cõi này – mới có thể thăng thiên, vì lúc đó con mới hoàn thành mục đích trở nên cánh cửa hoàn toàn mở. Bức vẽ của con quá hạn hẹp và bảng màu của con bị giới hạn bởi những điều kiện mà con người vỏ ngoài của con đã chấp nhận, và con nghĩ những điều kiện này phải giới hạn, kiểm soát và điều khiển cách con biểu lộ sự sáng tạo của mình.

13.4. Con có nhu cầu chữa lành

Sau khi con đã ở với thày Serapis Bey và học bài học này, con quay trở lại khóa nhập thất của thày. Và bây giờ thày bắt đầu dạy bước thứ năm, tất nhiên là bước sử dụng tia chữa lành. Và sau đó thày cho con hiểu rằng con cần được chữa lành. Thày giúp con thấy rằng mặc dù con đã dùng Ngọn lửa Tinh khiết để gia tốc rất nhiều vượt quá tầng tâm thức trước của mình, con chỉ có thể gia tốc mình bằng Ngọn lửa Tinh khiết tới một mức nào đó mà thôi. Bởi vì con vẫn còn một số vết thương trong tiềm thức, ở các tầng tình cảm, lý trí và bản sắc của tâm mình.

Có thể nói, chúng giống như những cái neo thả đằng sau chiếc thuyền của con. Và khi con tăng tốc độ của động cơ, con cảm thấy có cái gì cản trở không cho thuyền đi về phía trước. Vì làm thế nào con có thể chờ đợi con thuyền đi về phía trước với tốc độ tối đa, nếu con có một số neo treo sau thuyền? Bây giờ là lúc tạm dừng việc gia tốc và thay vào đó hãy thành thật soi mình trong gương và nói: “Con cần chữa lành chỗ nào?”

Nhưng trước khi chúng ta thực sự xem xét chi tiết cách con cần được chữa lành và những gì con cần được chữa lành, trước tiên chúng ta cần trả lời câu hỏi vì sao con cần được chữa lành. Đây là một câu hỏi mà nhiều đệ tử chưa thực sự cân nhắc với tâm ý thức của mình. Đúng thực là nhiều đệ tử sẽ chống không chịu xem xét điều này với tâm ý thức của họ. Lý do một phần là tiêu chuẩn do các thày giả tạo ra, vì tiêu chuẩn đó khiến nhiều người tin rằng nếu họ tuân theo một số quy tắc – một số giáo điều – bằng cách lấy một thái độ nào đó, họ chắc chắn đủ điều kiện để thăng thiên hoặc để đạt cái mà họ định nghĩa là mục tiêu tối hậu của nỗ lực tâm linh của họ.

Thày có thể nói với con rằng có rất nhiều người trong các phong trào tâm linh và tôn giáo tin rằng nếu họ tuân theo các quy định của tôn giáo hay đạo sư của họ, họ sẽ tự động lên được cõi tâm linh. Tất nhiên, điều này không đúng, vì một lần nữa mọi chuyện là một tiến trình sáng tạo. Để biểu lộ trọn vẹn sự sáng tạo của con, con cần nhìn vào các điều kiện, vết thương và hạn chế đã ngăn cản sự biểu lộ quyền năng sáng tạo của con từ Hiện diện TA LÀ.

13.5. Tại sao con bị thương?

Con cần chữa lành những vết thương nào và tại sao con cần phải xem xét chúng? Trong bài trước thày có nói chuyện con đi vào vườn hồng và được chữa lành khi trải nghiệm tình thương vô điều kiện. Nhưng một lần nữa, ngay cả tình thương vô điều kiện cũng không thể chữa lành mọi vết thương của con và lý do rất đơn giản. Con không thể chữa lành một vết thương nếu con không ý thức nhận ra nguyên nhân tạo ra nó. Nguyên nhân tạo ra vết thương là một sự việc bên ngoài đã kích động một kinh nghiệm nội tâm. Và vì kinh nghiệm nội tâm này, con lấy một quyết định.

Chính quyết định này đã thiết lập một điều kiện trong tâm con và điều kiện này giới hạn sự biểu lộ sáng tạo của con. Con đã lập ra điều kiện nhưng có thể con không hoàn toàn nhận biết có ý thức quyết định là gì và hậu quả của nó ra sao. Nhưng để giải thoát mình khỏi quyết định này, con phải ý thức nhận biết quyết định cũ và hậu quả của nó. Sau đó, con phải thay thế một cách ý thức quyết định cũ bằng một quyết định mới, dựa trên tầng tâm thức cao hơn của con hiện nay. Lúc này là lúc các đệ tử cần hiểu tại sao họ bị đả thương trên trái đất.

Con hiểu rằng khi một đệ tử đến khóa nhập thất của thày, dòng sống đó đã trải nghiệm trước đó khóa nhập thất của thày và do đó không có vấn đề chấp nhận lời giảng này. Nhưng thày đang giảng bài này trong một cuốn sách mà con đọc với tâm ý thức của mình, ngay khi con không nhớ gì về khóa nhập thất của thày. Vì vậy, thày sẽ yêu cầu con thành thật và tự trả lời câu hỏi này: Con có đang đọc các bài chú và bài thỉnh mà các thày đã cho các con không? Con có thói quen hàng ngày kêu gọi Đại thiên thần Michael bảo vệ con chưa? Nếu con chưa làm các chuyện này, thày chỉ đơn giản yêu cầu con đừng đọc hoặc nghe phần còn lại của bài giảng này. Vì nó có thể quá những gì con chấp nhận ở mức độ nhận thức có ý thức của con, và lý do rất đơn giản. Khi con đọc các bài chú và bài thỉnh xin bảo vệ tâm linh, sau một thời gian, con sẽ tạo ra một động lượng. Động lượng này, kết hợp với những chỉ dẫn mà con nhận được khi nhập thất với thày, sẽ cho con ý niệm rằng Đại thiên thần Michael có khả năng bảo vệ con khỏi bất cứ mọi lực có mặt trên trái đất.

Khi con biết mình được bảo vệ khỏi một lực nào đó, con có thể ý thức nhìn nó, nhận ra nó có mặt, và nhận ra nó đã ảnh hưởng mình trong quá khứ và con cần gia tốc để vượt qua ảnh hưởng đó. Nhưng con chỉ làm được điều này nếu con ý thức nhìn vào lực này và xem xét điều gì trong tâm lý mình khiến mình dễ bị nó tấn công.

13.6. Không cần phải sợ hãi

Con có thấy sự vận hành đơn giản này chăng? Thày không có ý định dọa con với bất cứ điều gì ở đây. Sợ hãi không có chỗ đứng trong phương pháp giảng dạy của thày. Đôi khi thày cho phép đệ tử sợ hãi trong một thời gian, nếu họ quá dính mắc với nó đến độ thày không thể hướng dẫn họ bằng cách nào khác. Tất nhiên, thày không thể đòi hỏi mọi người thoát sạch sợ hãi trước khi họ tới khóa nhập thất của thày. Nhưng điều này không có nghĩa là thày dùng sợ hãi để hù dọa mọi người.

Thày không có ý khiến con sợ hãi. Và đó là lý do tại sao thày muốn con thành thực và nhận ra rằng chỉ khi nào con xây dựng đủ động lượng cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh, con mới sẵn sàng ý thức đón nhận lời chỉ giáo mà thày cho con bây giờ. Thày tin tưởng rằng nếu con đang đọc hoặc nghe những lời này, con đã có một số động lượng cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh. Do đó, thực tế như sau: Không thể hiện thân trên trái đất mà không bị tổn thương. Đơn giản là không thể được. Chính Đại thượng sư đã mô tả là tất cả các thày, những người đã từng hiện thân, đã phải quy phục cái mà thày gọi là tâm thức chết. Tâm thức chết vô cùng mạnh mẽ trên trái đất,và không cách chi con hiện thân trên trái mà không bị nó đả thương hay không quy phục nó tới một mức độ nào đó.

Quy phục tâm thức chết nghĩa là gì? Nếu con nhìn vào các đệ tử trong các phong trào tâm linh hay Thời đại Mới, con sẽ thấy rằng một số tin rằng họ không cần nhìn vào những gì đen tối, tỷ dụ như tà lực, hoặc các lực xấu ác hoặc ác quỷ. Ho nghĩ nếu họ chỉ tập trung vào điều tích cực, thì họ vẫn có thể đạt được mục tiêu của mình. Họ thực sự – nhiều người trong số họ – tin rằng thật nguy hiểm nếu họ chú ý vào các tà lực vì sẽ cung cấp cho chúng nguồn năng lượng củng cố chúng.

Tất nhiên con cũng đã nghe câu ngạn ngữ “Cái gì con chống lại sẽ tồn tại.” Nhưng con thấy đấy, những gì con chống lại sẽ tồn tại vì khi con chống cự nó, con cho nó năng lượng. Nhưng con có thể nhìn mà không chống cự. Nói cách khác, con có thể nhìn tà lực mà không phản ứng nghĩ rằng phải đánh nhau với chúng. Và khi con cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh từ Đại thiên thần Michael, con không đánh nhau với tà lực. Con bao bọc mình khỏi năng lực chúng phóng tới con. Đây không phải là chống lại chúng, vì không cho chúng thêm năng lượng.Vì vậy, khi con không phản ứng bằng sợ hãi hoặc tức giận, thì con không chống lại tà lực và con đang không tiếp thêm năng lượng cho chúng.

13.7. Nhìn nhận tà lực có mặt

Tại sao nhìn nhận sự tà lực có mặt lại quan trọng? Đó là vì, như Đại thượng sư đã giải thích, tâm thức chết bao phủ hành tinh này như một đám mây đen. Cách duy nhất để biểu hiện một tâm thức tâm linh cao trên trái đất là giải thoát mình khỏi ảnh hưởng của tâm thức chết, và con không làm được điều này nếu con không ý thức về nó. Con không thể tiến tới tự điều ngự nếu con không làm chủ cái ta, có nghĩa con cần vượt quá tất cả những lực và điều kiện đang tìm cách giới hạn cái ta.

Sẽ có lúc con không thể tiến bộ hơn trên con đường tâm linh nếu con không nhìn nhận tà lực có mặt. Các tà lực này đã đả thương con đến độ con không thể gia tốc hơn nữa, và con chỉ tiến triển khi con xem xét những vết thương và quyết định của con khi bị tà lực tấn công.

Nếu con không nhìn nhận tà lực có mặt và thấy chúng ảnh hưởng con ra sao thì con đã và đang quy phục tà lực và tâm thức chết. Thày có thể đảm bảo với con rằng rất nhiều người trong các phong trào tâm linh và Thời đại Mới cảm thấy rất thoải mái, cảm thấy rằng họ rất tâm linh vì họ rất tích cực và rất tốt. Nhưng trên thực tế họ đã quy phục tâm thức chết.

Có thể nói là họ đã thỏa thuận với ác quỷ – tất nhiên không phải một cách ý thức nhưng trong tiềm thức – và nói thế này: “Nếu ta không gia tốc mình quá một mức nào đó, thì ngươi sẽ không tấn công ta.” Khi con thỏa thuận như vậy thì ác quỷ sẽ để con yên. Vì nó không có vấn đề gì khi con ở trong một phòng trào tâm linh và cảm thấy mình thánh thiện, hoàn toàn tin tưởng rằng mình là một người tâm linh tốt. Nếu con không gia tốc mình về hướng quả vị Ki-tô thì ác quỷ sẽ để con yên và để con cảm thấy thoải mái. Nhưng con có thấy chăng, con sẽ không tiến triển quá một điểm nào đó.

13.8. Nỗi sợ từ các tiền kiếp

Câu hỏi rất đơn giản: “Tại sao có rất nhiều người trong các phong trào tâm linh và Thời đại Mới không chịu nhìn nhận tà lực có mặt, không chịu nhìn chúng và không làm gì để giải thoát khỏi ảnh hưởng của chúng?” Một phần là do lười biếng – lười biếng tâm linh – vì họ thực sự không muốn gia tốc mình quá một mức nào đó. Nhưng cũng có lý do sâu xa hơn, đó là sợ hãi.

Họ đã trải nghiệm trong tiền kiếp là khi họ đến một điểm nào đó trên con đường tu, khi họ bắt đầu vươn lên trên tầng tâm thức đại chúng, thì tà lực sẽ tấn công họ. Họ có ký ức là họ đã bị tà lực tấn công trong quá khứ. Vì vậy, họ có ý niệm rằng gia tốc quá một tầng cấp nào đó thật nguy hiểm vì khi đó họ trở thành mục tiêu của những đòn tấn công rất độc ác, cá nhân và trực tiếp.

Bởi vì họ không sẵn sàng trực diện nỗi sợ hãi này, họ đã thỏa thuận với tà lực, nói rằng: “Nếu ta không gia tốc mình, ngươi sẽ để ta yên trong kiếp sống này.” Một số người có thể cần một thời gian yên ổn như thế. Thày không tranh luận điều này; thày không lên án bất cứ ai. Thày chỉ nói đơn giản rằng thày không thể giúp bất cứ ai vượt qua một tầng tâm thức, một tầng trên con đường tâm linh, trừ phi người đó sẵn sàng nhìn nhận một điều: “Tôi đã bị tổn thương và tôi cần xem xét tại sao tôi bị tổn thương vì đây là cách duy nhất để chữa lành vết thương.”

13.9. Ác mộng kinh hoàng nhất của tà lực

Bây giờ thày cho con thức ăn cho tâm ý thức của con, mà nếu con đã theo tiến trình đọc các bài thỉnh bài chú và học các bài giảng trước của thày, thì con có thể dùng tâm ý thức này để nối kết với cái biết bên trong của con. Khi đó, những gì thày nói ở đây sẽ không khiến con sợ hãi, không khiến con nghi ngờ, con không cần phải tranh luận hay bác bỏ nó. Con hòa điệu với trái tim mình, và con cảm thấy có thực tại ở đây và đã đến lúc con phải nhìn vào nó.

Thực tế đơn giản trên hành tinh trái đất là thế này: Hiện nay các tà lực tin rằng họ đang kiểm soát hành tinh này. Sư thực sâu xa là họ không kiểm soát được, vì hành tinh này không phải là một đơn vị biệt lập; nó là một phần của toàn bộ vũ trụ vật chất. Và như các thày đã giải thích, toàn bộ vũ trụ vật chất nằm trong một vòng xoáy đi lên bởi vì có vô số hành tinh khác nơi cư dân đã đưa hành tinh của họ vào một vòng xoáy đi lên. Và điều này, như Đại thượng sư đã giải thích, đã tạo ra sức mạnh của Thánh linh kéo cả vũ trụ vật chất lên cao, tất nhiên là trong đó có hành tinh trái đất.

Hành tinh trái đất đi chậm hơn dòng chuyển động đi lên chung của vũ trụ, và đó là lý do khiến các tà lực tin vào ảo tưởng họ đang kiểm soát hành tinh này. Và họ thực sự có một tầm kiểm soát lớn vì họ đã khiến được biết bao nhiêu người quy phục tâm thức chết.

Bây giờ thì điều gì có thể phá vỡ sự kiểm soát này? Đó là khi có những cá nhân gia tốc tâm thức họ quá một tầng nào đó và bắt đầu đạt được và dám biểu hiện quả vị Ki-tô. Bài học chính con học từ đời Giê-su là thày là một gương chính yếu, một nguyên mẫu, của một người đã gia tốc tâm thức quá tiêu chuẩn và tâm thức đại chúng, và biểu hiện một mức cao của quả vị Ki-tô – và thày dám bày tỏ điều đó.

Tất nhiên, con thấy điều gì đã xảy ra cho Giê-su. Thày bị khủng bố một cách tàn bạo và rốt cuộc bị giết một cách rất tàn nhẫn. Lý do là nếu chỉ một cá nhân đạt được và biểu hiện quả vị Ki-tô, thì tầm kiểm soát của tà lực trên hành tinh này sẽ bị giảm thiểu.

Nay con thử tưởng tượng 10.000 người biểu hiện quả vị Ki-tô giống như Giê-su đã biểu hiện, và có thêm nhiều triệu người nữa biểu hiện quả vị Ki-tô ở mức thấp hơn, thì con có thể thấy được đây sẽ là ác mộng kinh hoàng nhất của tà lực. Và như chính Giê-su đã nói, hiện nay có 10.000 người đang hiện thân có tiềm năng thể hiện mức độ cao của quả vị Ki-tô trong kiếp này của họ. Và có hàng triệu người khác có tiềm năng thể hiện một mức độ nào đó của quả vị Ki-tô trong kiếp này. Nhiều người trong số này đã bắt đầu bày tỏ quả vị Ki-tô của mình, nhưng nhiều người khác thì chưa làm được vì họ bị mắc kẹt ở tầng tâm thức nơi họ không dám hoàn toàn gia tốc mình để biểu hiện quả vị Ki-tô. Bởi vì, do kinh nghiệm các kiếp trước, họ sợ những gì sẽ xảy ra khi họ làm như vậy.

Bên trong tâm họ biết rằng các đòn tấn công sẽ xảy ra lúc họ bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, và họ biết rằng sẽ bị tấn công dồn dập và ác độc. Tuy nhiên, nếu con đã đến điểm này trên con đường tu cá nhân của mình, thì con đã sẵn sàng nhìn nhận rằng mặc dù các đòn tấn công sẽ xảy ra, nhưng con chỉ bị tổn thương nếu trong tâm con còn điều kiện, là những vết thương và điều kiện con đã chấp nhận khi con lấy một quyết định trong quá khứ. Do đó, nếu con sẵn sàng giải quyết các vết thương và quyết định này, con sẽ trở nên trong suốt trước những đòn tấn công và bất cứ điều gì họ phóng tới con sẽ chỉ lướt xuyên qua con mà thôi.

13.10. Quyền lực giới hạn của tà lực

Con hãy để thày cho con một ý niệm đo lường. Con hiểu chăng là tà lực đã tự cắt rời khỏi cõi tâm linh? Điều này có nghĩa là chúng chỉ có thể làm việc với các năng lượng ở một tầng nào đó của cõi vật chất. Mọi chuyện con làm đều được thực hiện bằng năng lượng. Khả năng sáng tạo của con, uy lực của con, được quy định bởi số lượng năng lượng con có thể tiếp cận, và độ rung của năng lượng mà con có thể tiếp cận.

Các thày đã giải thích rằng vũ trụ vật chất có bốn tầng. Là một người sống trên trái đất, con biết cơ thể vật lý của con chỉ có thể hoạt động trong một phạm vi khả năng nào đó. Lý do là cơ thể vật chất của con chỉ có thể sử dụng năng lượng trong một quang phổ nào đó. Cõi tình cảm có tần số rung động cao hơn. Tuy nhiên, các mức năng lượng thấp hơn trong cõi tình cảm không có chút sức mạnh nào để ảnh hưởng được cõi lý trí. Cũng vậy, các tần số trong cõi lý trí cũng có giới hạn, và những tần số này không thể ảnh hưởng cõi bản sắc. Tất nhiên, không điều gì trong bốn tầng của vũ trụ vật chất có thể ảnh hưởng Hiện diện TA LÀ của con. Đó là lý do vì sao Hiện diện TA LÀ của con không bị tổn thương bởi bất cứ điều gì con đã làm, đã gặp phải hay trải nghiệm trên trái đất.

Con có thể nhận ra một điều rất giản dị. Khi con ngừng đồng hóa mình với xác thân vật lý (và nếu con là một đệ tử tâm linh, và chắc chắn con là thế, con đã ngừng đồng hóa mình hoàn toàn với thân xác), thì con không thể bị tổn thương bởi bất cứ điều gì xảy ra cho thân xác. Tất nhiên, con sẽ bị ảnh hưởng nhưng dòng sống của con – con người thấp của con – sẽ không bị tổn thương bởi bất cứ điều gì xảy ra cho thân xác. Khi con gia tốc ý niệm bản ngã tới mức con không đồng hóa mình với cảm xúc, thì con không thể bị tổn thương bởi bất cứ năng lực nào phóng tới con trong cõi tình cảm. Khi con không còn đồng hóa mình với tư tưởng, con không thể bị tổn thương bởi những năng lực hướng tới con trong cõi lý trí. Và khi con không còn đồng hóa mình là con người bị giới hạn và tách biệt, con không thể bị tổn thương bởi những lực ở các tầng thấp của cõi bản sắc.

Con thấy chăng, vấn đề là con tập trung ý niệm bản sắc ở đâu. Nhiều người trên trái đất hoàn toàn tập trung vào xác thân vật lý và đồng hóa mình với nó. Vì vậy, nếu cơ thể của họ bị giết hoặc bị bệnh, họ bị tổn thương sâu đậm trong tâm hồn. Và họ mang theo vết thương đó từ kiếp này sang kiếp khác, thường khi đầu thai với nỗi sợ lớn bị giết hoặc bệnh tật.

Tất nhiên là cũng có những người hoàn toàn đồng hóa với cảm xúc của họ, và cả đời họ tìm cách tránh những cảm xúc tiêu cực, tìm cách tránh bị khinh miệt, vân vân. Có người khác đồng hóa mình nặng với trí tuệ của họ và họ sống cả đời là học giả hay người trí thức hoàn toàn đồng hóa với tư tưởng của mình và luôn tìm cách tránh bị chứng minh là sai trong các cuộc tranh luận trí thức – hoặc tìm cách chứng minh người khác sai để chứng minh họ giỏi hơn.

13.11. Một ý niệm bản sắc đúng đắn

Là một đệ tử tâm linh, nhiệm vụ của con là nâng cao ý niệm bản sắc, để buông không đồng hóa mình với thân xác, buông không đồng hóa mình với tình cảm, buông không đồng hóa mình với tư tưởng và cuối cùng, buông bỏ bất kỳ ý niệm bản sắc thấp hay tách biệt nào. Con đồng hóa mình đúng đắn với nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết, chính là nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và do đó nó không thể bị tổn thương hay bị ảnh hưởng bởi các năng lực thấp trong cõi vật chất.

Cái Ta Biết không được cấu tạo bằng năng lực của cõi vật chất. Khi con nhìn nhận điều này một cách ý thức, con không thể bị tổn thương bởi bất cứ điều gì hướng tới con trong cõi vật chất. Tất nhiên tà lực chỉ có thể có mặt trong cõi vật chất. Chúng chỉ có thể phóng tới con năng lực của cõi vật chất – và do đó, khi con tới điểm không đồng hóa với vật chất – thì con trở nên trong suốt. Con đáp ứng yêu cầu mà Giê-su mô tả, khi thày nói: “Ông hoàng của thế gian sẽ đến và không tìm thấy gì trong tôi để nắm.” Vì vậy, bất cứ điều gì họ phóng tới con – bất kỳ đòn tấn công nào họ đánh vào con – sẽ đi xuyên qua con.

Thày giải thích điều này để cho con mục tiêu mà con cần hướng tới khi tu tập. Tất nhiên, thày biết là con chưa tới đích, và đó là lý do vì sao con cần thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh. Con vẫn có những vết thương và những sự đồng hóa khiến con dễ bị tấn công bởi tà lực. Đó là lý do tại sao con thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh: Để tạo ra một lá chắn năng lượng tần số cao bao bọc trường năng lượng của con, để các đòn tấn công không dễ dàng xâm nhập vào con. Chúng chỉ vào được nếu con có những dính mắc tạo ra cánh cửa mở trong lá chắn bao bọc trường năng lượng của mình. Đây là những dính mắc mà con cần giải quyết ở tầng tâm thức này, là những dính mắc khiến con dễ bị tà lực đen tối tấn công nhất.

13.12. Vì sao con bị đả thương trong quá khứ

Con hãy để thày giải thích vì sao con bị đả thương khi con mới tới trái đất. Nếu con xem lại tình trạng khi con lần đầu xuống hành tinh trái đất, con sẽ thấy, như các thày đã nói, rằng hầu hết các con không xuống trái đất khi hành tinh này còn trong điều kiện lý tưởng, nguyên sơ của nó. Hầu hết các con, những người hiện thân ngày nay, đã xuống sau khi hành tinh này đã rơi xuống một tầng thấp hơn. Điều này có nghĩa là khi lần đầu tiên con xuống trái đất, sa nhân đã có mặt trên trái đất.

Chúng tất nhiên có mục tiêu kéo tất cả các dòng sống đến đây vào một vòng xoáy đi xuống. Vì đây là cách tối hậu để chúng hy vọng chứng minh là Đấng Sáng Tạo sai, bằng cách chứng minh quyền tự quyết không khả thi vì nó khiến các linh hồn đi theo vòng xoán đi xuống và rốt cuộc bị lạc đường. Đây là toàn bộ kế hoạch của chúng, như các thày đã giải thích trước đây [sách Chữa lành cho Trái Đất Mẹ].

Điểm mà thày muốn nói là khi hầu hết các con xuống trái lần đầu thì sa nhân đã có mặt ở đây. Con đến đây để biểu hiện một món quà tích cực nhằm nâng cao hành tinh này. Nhưng các sa nhân hiện thân không muốn món quà đó chút nào, vì như thày đã giải thích, chúng tất nhiên xem sự thể hiện quả vị Ki-tô là một mối đe dọa đối với chúng.

Ngay khi con đầu thai trên trái đất và bắt đầu biểu hiện quyền năng sáng tạo của mình, tà lực đã tấn công con rất ác độc để đẩy con tới chỗ quyết định không dùng quyền năng sáng tạo của mình nữa. Chúng chế giễu hay tấn công con ác độc đến độ con đã quyết định giới hạn hay dẹp bỏ quyền năng sáng tạo của mình vì con muốn tránh phản ứng tiêu cực này.

Con yêu dấu, con lấy quyết định này là điều rất dễ hiểu. Chính thày cũng đã quyết định như vậy khi thày bắt đầu hiện thân trên trái đất. Tất cả các chân sư thăng thiên khác đã từng hiện thân ở đây cũng đã làm vậy. Tất cả chúng ta đều bị sửng sốt bởi sự hung ác của tà lực, đến nỗi chúng ta rơi vào trạng thái chấn động, trạng thái chấn thương. Lúc đó, con không còn khả năng tiếp xúc cảm giác sâu sắc nhất, phản ứng sâu sắc nhất của con đối với cuộc sống trên hành tinh này.

Nhưng nếu con có thể tiếp xúc cảm giác đó, thày có thể đảm bảo với con là cảm giác sâu đậm nhất mà con có về cuộc sống trên trái đất là cảm giác bị chấn động, bị chấn thương bởi sự ác độc của sa nhân khi họ bác bỏ khả năng sáng tạo của con. Đây là vết thương sâu đậm nhất của con.

Thày nói cho con điều này vì dây là một điều quan trọng con cần ghi nhớ. Thày nhận ra là lúc này con chưa sẵn sàng giải quyết vết thương đó, vì con chỉ làm điều này sau này. Trên thực tế, con sẽ làm điều này sau tầng 96. Nhưng điều quan trọng cơ bản con nên biết là vết thương đầu tiên con nhận được trên trái đất là sự bác bỏ tàn nhẫn khả năng sáng tạo của con. Và nói chung là mọi vết thương khác sau đó chỉ đơn giản là biến thể của vết thương ban đầu này. Có thể nói là tất cả những vết thương sau đó là phản ứng lại sự bác bỏ sáng tạo của con lần đầu ấy.

13.13. Vết thương con cần chữa lành ngay bây giờ

Khi con hiểu điều này một cách ý thức, con có thể thấy rằng, trước hết, mục tiêu của con là trở lại tình trạng con là cánh cửa rộng mở và có thể thể hiện sự sáng tạo của mình. Nhưng con cũng thấy nhu cầu đối phó với các vết thương đó. Một lần nữa, con không cần phải giải quyết vết thương sâu nhất vào lúc này.

Nhưng con cần nhận ra con không thể gia tốc mình quá tầng tâm thức hiện nay cho tới khi con thấy vết thương đang kềm con lại bây giờ, đang ngăn con đi bước kế tiếp.

Đây là cái neo đang treo sau con thuyền của con và con cần phải xem xét ngay bây giờ. Con yêu dấu, không thể đi đường tắt được. Con không thể đơn giản cắt dây neo. Con cần phải nhảy xuống nước, lặn dưới nước và lần theo dây neo cho đến khi con thấy cái neo. Sau đó, khi con thấy cái neo, con nhận ra nó dựa trên một quyết định – con thấy nó giống như cái chốt giữ chiếc neo. Và khi con kéo cái chốt đó, chiếc neo sẽ được thả ra. Nhưng để kéo được chốt, con phải thấy được quyết định cũ và làm lại quyết định mới.

Tất nhiên, thày sẽ giúp làm điều này trong khóa nhập thất của thày khi con đến mức độ này. Một lần nữa, thày sẽ đưa con vào căn phòng với màn ảnh nơi đó con có thể rà hào quang của con. Con có thể thấy vết thương con phải giải quyết lúc này, quyết định nào trong quá khứ – thường là con đã củng cố quyết định này trong kiếp này – hiện đang kìm hãm sự biểu lộ sáng tạo của con.

Con có thể cảm nhận điều này bằng cách nhìn vào cuộc đời mình trong kiếp sống này. Có lẽ con đã nhớ, nếu không thì con sẽ nhớ, con đã từng bị chế giễu hoặc miệt thị vì khả năng sáng tạo của con và quyết định không biểu hiện khả năng đó? Thày không nói rằng đây nhất thiết phải là một cuộc tấn công ác độc. Nó có thể đến từ những người có thiện chí tưởng biết cách biểu hiện sáng tạo làm sao cho hợp tiêu chuẩn. Dù sao thì con cũng đã tiếp xúc với một tiêu chuẩn khiến con dẹp bỏ sự sáng tạo, biểu hiện sáng tạo của con.

Thày cần con sẵn sàng nhìn vào điều này. Và tất nhiên, khi con học bài giảng này và các bài giảng khác, khi con tiếp tục thực hành các bài chú và yêu cầu được đưa đến khóa nhập thất của thày ban đêm, thày sẽ dần dần giúp con. Đây không phải là điều thày có thể trình bày trong một cuốn sách, vì mỗi người mỗi khác. Thày sẽ giúp con tiếp xúc với vấn đề cá nhân của con. Con đã có quyết định nào kìm hãm quyền năng sáng tạo của mình trong cuộc đời này, ngưng không biểu hiện mình một cách sáng tạo? Mặc dù một lúc nào đó con có thể có ước mơ sáng tạo nhưng con lại nghĩ: “Ồ, tôi không thể làm được điều đó, hoặc tôi không thể kiếm sống bằng việc làm sáng tạo, vì vậy tôi phải đi vào một lĩnh vực khác kiếm sống tốt hơn.”

Con yêu dấu, thày không nói rằng con nên từ bỏ công việc con đang làm và trở thành một nghệ sĩ. Nhưng thày cũng không nói con không nên từ bỏ công việc con đang làm và trở thành một nghệ sĩ. Thành thật mà nói, từ bỏ công việc đang làm và làm một việc gì khác không phải là điều quan trọng. Vấn đề cốt yếu là tiếp xúc với quyết định đã giới hạn sự biểu lộ sáng tạo trong tâm lý con. Con không cần phải là một nghệ sĩ để biểu lộ mình một cách sáng tạo. Con có thể có một công việc thoạt trông rất bình thường nhưng con vẫn có thể biểu lộ sự sáng tạo qua nó. Tuy nhiên, khi con bắt đầu mở khóa sự sáng tạo của mình, con sẽ thấy con chuyển từ công việc bình thường sang một công việc có nhiều cơ hội cho sự biểu lộ sáng tạo hơn.

13.14. Tiếp xúc với ước mơ của con

Tuy nhiên, ý của thày ở đây là: Nếu con sẵn sàng nhìn vào điều này, nếu con sẵn lòng nhìn vào cuộc đời mình, nếu con sẵn sàng yêu cầu sự giúp đỡ của thày và sự chỉ đạo của thày, thì thày sẽ giúp con. Hiện diện TA LÀ của con sẽ giúp con, và người bào huynh yêu quý của thày, thày Hilarion, sẽ giúp con, khi con tham dự khóa nhập thất của thày ấy, nơi con có thể nhận ra một cách ý thức ước mơ sáng tạo của con là gì. Con có thể nhận biết một cách ý thức sự kiện nào trong cuộc sống đã thực sự khiến con chối bỏ giấc mơ đó, coi nó là viển vông và quyết định ngưng sự biểu lộ sáng tạo của mình. Sau đó, con có thể tới điểm mà con nói: “Tôi lúc đó thật sự không cần lấy quyết định đó, nhưng chắc chắn bây giờ tôi không cần giữ quyết định này nữa. Do đó, tôi quyết định giải phóng sự biểu lộ sáng tạo của mình. Tôi sẵn sàng biểu lộ mình.” Sự biểu lộ sáng tạo, như thày đã nói, không chỉ là vẽ tranh hay viết sách, làm thơ hay thế này thế nọ. Có nhiều cách để sáng tạo. Đưa ra những ý tưởng mới giúp cải thiện một số khía cạnh của cuộc sống hoặc xã hội, đây chính là sáng tạo. Bất cứ cách nào để làm việc giỏi hơn hay cải thiện cuộc sống đều là sáng tạo.

Điều quan trọng đối với con ở thời điểm này trên con đường tu là tiếp xúc với khả năng sáng tạo có sẵn trong con, lòng yêu thích biểu lộ sáng tạo dưới một dạng nào đó. Một lần nữa, thày không nói rằng con cần phải thay đổi nghề và kiếm sống qua sáng tạo. Nhưng ít nhất hãy dám ước mơ. Dám thể hiện nó bằng một cách nào đó. Dám sáng tạo. Ban đầu có thể là những bước nhỏ, nhưng hãy dám sáng tạo. Và sau đó hãy sẵn sàng xem xét con đã chấp nhận trong tâm những tiêu chuẩn nào mà con nghĩ cần áp dụng vào sự sáng tạo của mình. Vì đây là tiêu chuẩn của sa nhân.

Như thày đã nói, con không thể áp dụng tiêu chuẩn vào sự biểu lộ sáng tạo, vì biểu lộ sáng tạo đem lại điều gì mới. Và làm sao một điều mới có thể bị giam hãm và quy định trước bởi một tiêu chuẩn? Phải chăng điều này quá rõ ràng khi con sử dụng khả năng suy luận của mình?

Làm thế nào cuộc sống có thể cải thiện trên trái đất trừ khi có một cái gì mới, hay một số ý tưởng mới xuất hiện? Nếu không có chỗ cho điều mới, con sẽ có một xã hội trì trệ, ví dụ như con đã thấy trong xã hội phong kiến ở Châu Âu thời trung cổ. Trong hơn vài trăm năm, điều kiện sống hầu như không được cải thiện. Có rất ít chỗ cho sáng tạo, vì mọi thứ đều bị khóa chặt bởi một tiêu chuẩn mà sa nhân đã áp đặt qua công cụ bên ngoài là Giáo hội Công giáo, giai cấp quý tộc và các vua chúa. Họ muốn duy trì vị trí đặc quyền của họ trong xã hội bất chấp những đau khổ gây ra cho dân chúng.

13.15. Tiềm năng sáng tạo của con

Vậy thì con hãy sẵn sàng là một thành phần của tầng lớp tâm linh sáng tạo ưu tú, những người sẽ không để nhóm thượng lưu quyền lực ngăn chặn sự biểu lộ sáng tạo của mình. Đây là việc làm của con. Đây là tiềm năng của con trong kiếp sống này. Nếu nó không phải là tiềm năng của con, con đã không tìm thấy giáo lý này. Con đã không đang đọc và nghe những lời này.

Thày là Chân sư MORE. Thày là thượng sư của Tia sáng thứ Nhất của biểu lộ sáng tạo. Thày nói với con: “Con có tiềm năng là một thành phần của giới ưu tú sẽ giúp hành tinh này làm một bước nhảy vọt vĩ đại vào Thời đại Hoàng Kim của Saint Germain.” Đây là lý do tại sao con chọn hiện thân lần này. Đây là lý do tại sao con đã chịu đựng hiện thân nhiều lần trên hành tinh này trong suốt 2,000 năm qua: để bảo đảm Giê-su hoàn thành việc thiết lập khuôn mẫu, nguyên mẫu cho thời đại Song Ngư với những người biểu lộ quả vị Ki-tô. Con ở đây để bảo đảm thời đại Song Ngư sẽ tiến tới thời đại Bảo Bình khi cả ngàn người sẽ thể hiện và biểu lộ quả vị Ki-tô trên hành tinh này.

Đây là mục đích sâu xa khiến các thày ra mắt những cuốn sách này. Mục đích là giúp những người này mở khóa khả năng sáng tạo của họ, để họ có thể biểu lộ khả năng sáng tạo của mình trong việc đưa hành tinh này nhập vào khuôn đúc Thời đại Hoàng kim mà thày Saint Germain giữ trong tâm – mà tất cả các thày giữ trong tâm. Vì các thày đều là một trong nỗ lực nâng trái đất này vào Thời đại Hoàng kim. Các con là một với các thày trong nỗ lực đó, và thày có mặt ở đây để giúp con mở khóa sự nhận biết có ý thức rằng con là một phần của nỗ lực này. Vì khi con nhận biết có ý thức điều này, con có thể gia tốc sự biểu lộ sáng tạo của mình. Con có thể gia tốc quá trình chữa lành vết thương đang kìm hãm sự biểu lộ sáng tạo đó.

Ôi con yêu dấu, thày rất hân hoan khi thấy đệ tử tại khóa nhập thất bắt đầu mở khóa quyền năng sáng tạo của họ và bắt đầu dám biểu lộ những quyền năng sáng tạo đó – không chỉ ở khóa nhập thất mà còn trong cuộc sống có ý thức của họ. Thật là niềm vui lớn khi các thày thấy đệ tử dám vượt ra khỏi khuôn khổ mà họ đã thấm nhuần từ khi thơ ấu, dám làm điều gì đó khác biệt và dám biểu hiện điều cái hơn nữa.

13.16. Tìm sự trợ giúp của Mẹ Mary

Thày chỉ ước thày có thể giúp mỗi đệ tử tới điểm đó. Nhưng đôi khi thày phải nhìn nhận rằng khả năng giúp đỡ của thày có giới hạn. Và tất nhiên, đây là lúc thày làm điều mà mọi vị tướng giỏi đều làm: gọi quân tiếp viện. Thực sự có những đệ tử tại khóa nhập thất của thày gặp khó khăn vượt qua một vết thương đang cản trở sự sáng tạo của họ. Và lúc đó thày nhờ tới người chị yêu dấu của thày, Mẹ Mary, là người đại diện của Mẹ Thiêng liêng cho trái đất.

Mẹ Mary có khả năng ôm đệ tử vào vòng tay và giữ chặt đệ tử đó, như con thấy trong tranh vẽ mẹ Mary ôm bé sơ sinh Giê-su. Nhưng tất nhiên, những bức tranh và bức tượng con thấy trên trái đất không sánh được vẻ đẹp thực sự trong suốt của Mẹ Mary. Tuy nhiên, con có thể tưởng tượng hoàn toàn phó thác mình trong vòng tay của Mẹ Thiêng liêng, trong tình thương vô điều kiện mà Mẹ của Thượng đế dành cho con, khi Mẹ Mary ôm con trong vòng tay.

Con cảm được hào quang chữa lành thấm vào trường năng lượng của mình, lập tức nhắm vào vết thương con đang cần giải quyết, chiếu năng lượng chữa lành của Mẹ vào vết thương đó, khiến con nhìn nó mà không cảm thấy nỗi đau xúc cảm dữ dội như trước kia. Con nhìn nó với viễn quan tinh khôi của Mẹ và thấy nó thực sự chỉ là một vết thương. Nó chỉ là một quyết định.

Con đã lấy một quyết định, nhưng con không trở thành quyết định đó. Quyết định tạo ra một phàm linh, như Đại thượng sư đã giảng, nhưng con không trở thành phàm linh đó. Do đó, con không phải vĩnh viễn nhìn quyết định này xuyên qua phin lọc nhận thức của phàm linh. Tất nhiên, đây là nguyên nhân khiến con đau đớn. Đây là lý do khiến con nghĩ rằng con không thể nào xóa bỏ quyết định đó vì phàm linh không thể nào xóa bỏ quyết định đó. Phàm linh chỉ có thể nhìn quyết định và cảm thấy đau đớn, vì nó được tạo ra từ nỗi đau của kinh nghiệm chấn thương ban đầu khi sự sáng tạo của con bị bác bỏ.

Mẹ Mary sẽ giúp con bước ra ngoài nỗi đau – ra ngoài phàm linh – và nhận ra một thực tế giản dị. Thượng đế không bác bỏ sự sáng tạo của con. Các sa nhân cũng không thực sự bác bỏ nó vì chúng không thấy được sự sáng tạo của con. Chúng không thấy nó như nó là. Chúng chỉ cảm thấy sự biểu lộ sáng tạo của con làm xáo trộn cảm giác kiểm soát của chúng, và do đó chúng phản ứng theo cách duy nhất mà sa nhân biết.

Con yêu dấu, con có bao giờ kinh nghiệm mình là một đứa trẻ phải chạm trán một con chó dữ? Có thể là một con chó bị xích hoặc sủa sau hàng rào, nhưng nó sủa và gầm gừ với con. Và con có thể đã tìm cách nói chuyện với nó với giọng nhẹ nhàng, nhưng nó tiếp tục sủa và gầm gừ với con. Có con chó con có thể dỗ dịu bằng cách nói chuyện với nó, nhưng có con khác, con không làm thế được. Và đó là lúc con nhận ra rằng một con chó tức giận sẽ luôn luôn làm chuyện chó điên thường làm: sủa và gầm gừ bất kể con nói gì.

Vậy thì con phải làm gì? Con chỉ có thể bỏ đi. Nhưng con không cảm thấy con chó giận dữ đang bác bỏ sự biểu lộ sáng tạo của con, vì con nhận ra chó điên chỉ đơn giản là chó điên. Các sa nhân cũng tương tự như vậy thôi. Chúng chỉ có thể phản ứng như một con chó điên. Bất cứ khi nào chúng cảm thấy ai đang biểu lộ điều gì sáng tạo, chúng liền cảm thấy bị đe dọa và làm những gì chúng luôn luôn làm: Chúng tìm cách đập nó xuống. Nhưng không phải vì chúng ghét cá nhân con. Thậm chí chúng còn không nhìn thấy sự độc đáo của con người con và sự biểu lộ sáng tạo của con. Vì chúng chỉ nhìn thấy những hình ảnh được tạo ra trong tâm trí của chúng và hình ảnh thì không liên quan gì đến thực tế của sự biểu lộ sáng tạo của con.

13.17. Tách rời sáng tạo ra khỏi kết quả

Khi con ở trong vòng tay Mẹ Mary và thấy điều này, con có thể thấy rằng con đã lấy quyết định vì nghĩ rằng con đang hiện thân nên phải chấp nhận tiêu chuẩn mà sa nhân phóng chiếu lên con. Nói cách khác, con nghĩ phải nhìn biểu lộ sáng tạo của mình qua phin lọc bác bỏ của họ, thay vì nhìn biểu lộ sáng tạo của mình qua nhận biết thuần khiết mà con là.

Con có nhận ra vì sao con tin điều này? Đó chính là vì con đầu thai xuống trái đất này với ý định thay đổi một số chuyện. Con tới đây với ý muốn tặng một món quà tích cực, đem lại đổi thay, nâng hành tinh lên một trạng thái cao hơn. Con có mục đích này là điều rất dễ hiểu – vì nếu không tại sao con lại tình nguyện xuống một môi trường dày đặc như thế này?

Thật vậy, như thày đã nói, con có mặt ở đây để đem hành tinh này vào Thời đại Hoàng kim. Nhưng cần nhận ra là một điều đơn giản: đem hành tinh đến gần Thời đại Hoàng kim hơn không tùy thuộc vào phản ứng của sa nhân và tâm thức chết trước nỗ lực sáng tạo của con. Con không tới đây để thay đổi các dòng sống. Có phải chăng là thày đã nói trước đây về nhu cầu vượt qua mong muốn thay đổi ý kiến người khác? Con không tới đây để thay đổi ý kiến sa nhân. Sự thành công của biểu lộ sáng tạo của con không tùy thuộc vào phản ứng hay sự chấp nhận hay không chấp nhận từ những người mang trạng thái tâm thức sa ngã – vì họ sẽ luôn luôn bác bỏ.

Sự thành công của biểu lộ sáng tạo của con chỉ dựa trên một điều: con đã biểu lộ nó. Khi con biểu lộ sáng tạo của mình, thì con đã thành công, vì biểu lộ chính là thành công. Phản ứng từ người khác không quan trọng. Và đây là những gì con nhận ra khi con ở trong vòng tay yêu thương của Mẹ Mary. Đây là viễn quan tinh khôi, khái niệm tinh khôi.

13.18. Làm sao nâng địa cầu

Con thấy chăng, điều gì chắc chắn sẽ nâng cao trái đất? Này nhé, nếu con có một căn phòng tối và muốn tăng ánh sáng trong phòng, con phải làm gì? Con đem nhiều ánh sáng vào hơn. Và mỗi khi con mang nhiều ánh sáng hơn, con giảm bóng tối. Không thể nào khác hơn, vì bóng tối là sự thiếu ánh sáng. Con thấy chăng, mỗi khi con biểu lộ quyền năng sáng tạo của mình, con giúp gia tăng ánh sáng trên hành tinh này và đưa nó tới gần Thời đại Hoàng kim hơn.

Nhưng con cũng thấy gì trong căn phòng tối khi con tăng ánh sáng? Lúc đầu mọi thứ đều có màu xám. Nhưng khi ánh sáng tăng thêm, sẽ có tương phản lớn hơn giữa các vùng có tia sáng mặt trời chiếu thẳng xuống sàn nhà và các vùng trong bóng tối. Sẽ có tương phản lớn hơn giữa ánh sáng và bóng tối. Đây là những gì con thấy trên hành tinh trái đất hiện nay.

Đó là lý do vì sao con bị tấn công dữ dội bởi sa nhân và những người vẫn còn bị mắc kẹt trong tư duy sa ngã. Đây là lý do vì sao con có thể bị tấn công khi con bắt đầu công khai biểu lộ quả vị Ki-tô của mình. Nhưng thày không yêu cầu con công khai biểu lộ quả vị Ki-tô của con. Thày chỉ đơn giản yêu cầu con biểu lộ nó cho chính mình, để con có thể bắt đầu tiến trình mở khóa khả năng sáng tạo của mình.

Khi con tới điểm chữa lành được vết thương lớn, con sẽ thấy biểu hiện của mình không được đánh giá bởi sự bác bỏ của những người có tư duy sa ngã. Vì con có quyền biểu lộ khả năng sáng tạo của mình, mặc dù thực tế là sẽ có người kịch liệt bác bỏ nó và tấn công con một cách ác độc. Nhưng con có thể tiếp tục là chính mình, vì Mẹ của Thượng đế – người có thẩm quyền tối hậu trên trái đất – đã cho phép con biểu lộ sự sáng tạo thiêng liêng của con. Chính Đấng Sáng tạo – người có thẩm quyền tối hậu trong thế giới hình tướng – đã cho phép con là chính mình và là cánh cửa rộng mở để biểu lộ Hiện Diện TA LÀ Của Con.

Con yêu dấu, khi con được phép của Thượng đế và Mẹ của Thượng đế, thì tại sao con lại cần sự cho phép của sa nhân, những người đã tự cắt đứt mình ra khỏi Thượng đế và đã bác bỏ và khủng bố Mẹ của Thượng đế và con cái của Mẹ? Tại sao con cần họ cho phép? Và nếu con không cần họ cho phép, tại sao con lại để sự bác bỏ của họ ngăn cản con trao món quà biểu hiện sáng tạo của con cho hành tinh này, món quà mà con đến đây để trao tặng, món quà là tiềm năng cao nhất mà con có thể cống hiến?

Khi con bắt đầu nắm bắt điều này trong tâm ý thức của mình, con bắt đầu chữa lành vết thương. Con bắt đầu chấp nhận vai trò thực sự của mình là biểu lộ sự sáng tạo của mình. Con tới đây để trải qua tiến trình tu của con Đường Bảy bức Màn, theo đó con dần dần trở thành một cánh cửa ngày càng rộng mở để biểu hiện cái hơn nữa, cái HƠN NỮA mà TA LÀ.

Uy lực và gia tốc

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/2/2013.

TA LÀ Chân sư MORE. Trong bài giảng này, thày sẽ nâng các lời hướng dẫn lên một mức cao hơn. Trong các bài trước thày đã mô tả cách thày giúp những dòng sống lần đầu tới khóa nhập thất của thày ở Darjeeling. Thày mô tả là đa số đệ tử mới tới phải qua một giai đoạn sơ khởi trong đó thày giúp họ nhận ra nhu cầu là họ cần nhìn quá những gì họ chờ đợi nơi một vị thày tâm linh, nơi một đệ tử tâm linh, và nơi một nhập thất tâm linh. Những chờ đợi này chính là thế giới quan và tiêu chuẩn của họ. Vì thày không thể giúp những người muốn ép buộc thày phải tuân theo những chờ đợi của họ, thay vì sẵn sàng để cho thày dẫn họ ra ngoài hộp tư duy hiện nay của họ.

Thày có mô tả là thày tìm cách lý luận với họ, vì tất cả mọi người đều có khả năng lý luận một mức trên tầng tâm thức hiện nay của họ. Thày mô tả là thày tìm cách cho người đệ tử cảm thấy mình được thương yêu, và nhận ra là thày không phê phán họ chút nào, vì thày chỉ có một mục đích là giúp họ vươn lên các tầng tâm thức cao hơn.

11.1. Chữa lành trong Vườn Tình thương

Thày cũng mô tả là nhiều đệ tử – sau khi đã nhận ra nhu cầu nhìn quá tiêu chuẩn và bắt đầu dùng khả năng lý luận – cần một thời gian để được chữa lành qua việc kinh nghiệm tình thương. Đó là lý do thày có một khu vườn rất rộng chung quanh khu nhập thất của thày, và vì khu này tọa lạc trên cõi bản sắc nên khí hậu không là vấn đề. Vì khí hậu do thày và các phụ tá chăm lo khu nhập thất tạo ra.

Thày và các phụ tá đã tạo ra một khu vườn rất rộng có nhiều khóm hoa, cây cỏ nức mùi thơm, suối nước và vòi nước, và dĩ nhiên cũng có nhiều loài chim ca hát không ngừng. Thày có nói tới con chim nhỏ màu xanh của sự tử tế nhưng trong vườn của thày cũng có nhiều loài chim khác. Thày có một phần của khu vườn trồng nhiều hoa hồng và có nhiều chim hót một cách khiến người đệ tử cảm nhận được rung động của tình thương.

Dĩ nhiên hoa hồng mà con biết tới trên trái đất có mùi thơm gần rung động của tình thương nhất. Khi con ngửi hoa hồng, con tới gần rung động của tình thương hơn những gì con có thể trải nghiệm qua khứu giác. Sau khi người đệ tử đã ở khóa nhập thất của thày một thời gian thì tới lúc các vị ấy cần ngửi hoa hồng. Lúc đó, các đệ tử đi ra ngoài vườn, chọn một nơi họ thích và ngồi đó hấp thụ mùi thơm của hoa và tiếng hót của chim. Thày dĩ nhiên có người phụ tá biết đọc rung động của từ trường và luân xa con người, và biết thật chính xác họ cần nghe, ngửi, thấy và cảm những gì để được chữa lành tốt nhất.

Các đệ tử có khi ngồi trong khu vườn rất lâu, vì thực sự khóa học không thể tiến xa hơn nếu con chưa trải nghiệm tình thương đích thực, là tình thương vượt lên trên điều kiện. Tình thương này vượt lên trên tình thương con thường trải nghiệm trên trái đất. Trên trái đất con đã quá quen thuộc ý tưởng tình thương của người khác đối với mình lúc nào cũng có điều kiện. Con cần phải xứng đáng, con cần phải hội đủ một số điều kiện thì mới được nhận tình thương. Nhưng sự thực là sự chữa lành tối hậu đến từ trải nghiệm tình thương vô điều kiện.

Lúc ban đầu con có thể cảm nhận tình thương vô điều kiện của thày, nhưng mục đích tối hậu là con trải nghiệm trực tiếp tình thương vô điều kiện của Hiện diện TA LÀ của con, là nguồn tình thương vô điều kiện cho con. Tình thương này, dĩ nhiên, là tình thương của đấng Sáng tạo, tình thương mà đấng Sáng tạo dành cho tất cả những nối dài có tự nhận biết của ngài. Do đó, con không thể tạo ra nó. Con chỉ có thể là cánh cửa mở nhận nó, nhưng nó là tác nhân tối hậu chữa lành.

11.2. Chối bỏ tình thương vô điều kiện

Có những người đã bị lập trình quá nặng bởi điều kiện trên trái đất nên họ khó chấp nhận tình thương vô điều kiện khi lần đầu tới khóa nhập thất của thày. Đây là một thách đố cho thày. Vì làm sao con có thể giúp một người cảm được tình thương, khi người đó có quá nhiều điều kiện liên quan tới tình thương – tình thương phải được biểu hiện như thế nào, một người phải sống theo đúng tiêu chuẩn nào trước khi có thể mở lòng để thực sự trải nghiệm tình thương?

Con nhìn trái đất và thấy là con đã bị lập trình để nghĩ rằng con phải hội đủ một số điều kiện trước khi con có thể nhận tình thương, và nhiều đệ tử đã gán điều này lên Thượng đế và nghĩ Thượng đế là người có nhiều điều kiện nhất. Vì tình thương của Thượng đế đúng lý phải đặc biệt – đặc biệt hơn tình thương của con người – do đó nếu con phải hội đủ một số điều kiện mới nhận được tình thương của người phàm, thì con sẽ phải hội đủ nhiều điều kiện khắt khe hơn nữa mới mong nhận được tình thương cao hơn của Thượng đế.

Một số đệ tử lý luận như vậy khi họ tới thày. Dĩ nhiên là thày có thể tìm cách dùng lý trí để khuyên bảo họ. Nhưng câu hỏi là: liệu họ có thể tới chỗ buông bỏ lâu đủ những điều kiện của họ để trải nghiệm – không phải chỉ hiểu mà thực sự trải nghiệm – tình thương vô điều kiện?

Thày đã giảng là ở tầng tâm thức 48, con phải đối mặt với nhu cầu nhìn quá tiêu chuẩn của mình. Khi con chấp nhận chịu nhìn quá tiêu chuẩn của mình thì con có thể tiến lên tầng 49. Điều này không có nghĩa là con đã buông bỏ hết mọi tiêu chuẩn, vì bình thường con chỉ làm được điều này khi con tới tầng 96, và có khi còn phải cao hơn nữa. Nhưng nó có nghĩa là con đã trải nghiệm nhìn vào chính mình và cuộc đời từ một trạng thái tâm thức cao hơn trạng thái được quy định bởi tiêu chuẩn. Lúc đó con tiến lên tầng 49.

Ở tầng này, con phải học cách dùng khả năng lý luận để chất vấn một cách ý thức một phần của tiêu chuẩn và trải nghiệm cảm giác buông bỏ phần đó. Một lần nữa, không có nghĩa là con buông bỏ hết mọi tiêu chuẩn, nhưng con đã trải nghiệm tiến trình buông bỏ một phần tiêu chuẩn. Lúc đó con tiến lên tầng 50.

Tầng 50 là nơi con phải đối mặt nhu cầu trải nghiệm tình thương vượt lên trên điều kiện. Không có nghĩa là con buông bỏ hết mọi điều kiện, nhưng có nghĩa là con trực tiếp trải nghiệm tình thương vượt lên trên điều kiện hiện nay của con. Và nếu con chưa trải nghiệm điều này thì con không thể lên tầng 51. Điều này không thể xảy ra được.

11.3. Quan hệ giữa con và Thượng đế 

Đối với một số đệ tử, đây là một thách đố lớn, vì con phải nghĩ lại cách con nhìn Thượng đế và quan hệ của con với Thượng đế. Dĩ nhiên là trái đất có một truyền thống rất lâu đời – lâu đời nếu tính theo chiều dài kiếp người, nhưng không lâu nếu so sánh với toàn bộ thời gian có sự sống thông minh trên trái đất – miêu tả Thượng đế như một thượng đế giận dữ và phê phán ở trên trời. Có rất nhiều người trên trái đất hiện nay đã bị lập trình bởi tiêu chuẩn này, bởi ý do sa nhân phóng chiếu là đây là hình ảnh thực duy nhất của Thượng đế, và ai chất vấn hình ảnh này sẽ mang tội thóa mạ thần linh.

Các con yêu dấu, có một sự kiện giản dị là tâm thức con không thể nào vươn cao hơn hình ảnh của con về Thượng đế. Con có thể tới khóa nhập thất của thày với hình ảnh một Thượng đế giận dữ và phê phán. Con có thể tiến triển qua hai tầng đầu, nhưng con sẽ không thể đi quá tầng 50 nếu con giữ hình ảnh Thượng đế giận dữ và phê phán và nhất định phóng chiếu hình ảnh này lên thày; muốn thày là một vị thày giận dữ và phê phán sẽ phạt nặng khi con làm lỗi.

Các con yêu dấu, nhiều đệ tử đã tới khóa nhập thất của thày với trạng thái tâm thức sợ làm lỗi hơn là yêu làm cái hơn nữa. Thày có nói về tiêu chuẩn. Bản chất của tiêu chuẩn là nó quy định hai cực: tốt hoặc xấu, đúng hoặc sai. Hầu hết mọi người đã bị lập trình để đánh giá như vậy mọi khía cạnh của đời sống, tâm thức, tình cảm, tư tưởng và hình ảnh mình là ai.

Nhất định là phải có đúng và sai, đúng vậy chăng? Sai, con yêu dấu! Trong thực tại của Thượng đế không có đúng sai. Những khái niệm nhị nguyên do tâm thức tách biệt, tâm thức phản-Ki-tô tạo ra. Con sẽ không bao giờ biết Thượng đế thật nếu con nhất định phóng chiếu hình ảnh này lên Thượng đế.

11.4. Chân sư MORE không phải là một vị thày giận dữ

Con sẽ không bao giờ biết Chân sư MORE thật nếu con nhất định phóng chiếu hình ảnh này lên thày, như nhiều người tự nhận là đệ tử chân sư thăng thiên đã và đang làm. Họ muốn thày là một vị thày giận dữ và phê phán. Thày không phải là một vị thày như vậy. Thày chưa bao giờ như vậy. Trong mấy chục năm trước, thày đã để đệ tử phóng chiếu hình ảnh này lên thày, nhưng thày sẽ không để chuyện này xảy ra nữa. Thày sẽ công khai bác bỏ hình ảnh này và tố cáo các đệ tử đó là người không chịu nhìn vào – hay đúng hơn là không chịu trải nghiệm – thực tại của thày.

Thày không phải là vị thày giận dữ và phê phán. Thày là vị thày thương yêu vô điều kiện và thày sẽ hỗ trợ con vô điều kiện. Nhưng cách thày hỗ trợ con và sự tăng triển của con là giúp con thăng vượt các điều kiện của mình, vì thày không phải là người kềm con lại. Thượng đế không kềm con lại; ma quỷ không kềm con lại. Cái kềm con lại trên con đường tu chính là các điều kiện của con, những điều kiện mà con đã quy định và chấp nhận. Thày đồng ý là ma quỷ đã quy định nhiều điều kiện mà con đã chấp nhận, và do đó ma quỷ đã gián tiếp kềm con lại. Nhưng ma quỷ không có quyền lực trên con trừ phi con cho nó quyền lực đó bằng cách chấp nhận một số điều kiện.

Con sẽ không bao giờ biết thày nếu con phóng chiếu hình ảnh một Thượng đế giận dữ và phê phán lên thày và nghĩ rằng thày giống vậy. Con yêu dấu, con sẽ không bao giờ biết thày. Và đây là một gánh năng trên tim thày, thày phải thành thật nói vậy. Vì dĩ nhiên thày biết thày là ai. Thày biết thày có thể cống hiến đệ tử rất nhiều. Và thày thấy họ ngồi đó và bị kẹt vì không buông bỏ lâu đủ các điều kiện của mình để trải nghiệm, dù chỉ một thoáng, tình thương vô điều kiện mà thày cảm nhận đang tuôn chảy qua thày từ đấng Sáng tạo, và từ Hiện diện TA LÀ trực tiếp xuống tới họ.

Thày thấy thày trở thành cánh cửa mở cho tình thương đó khi các đệ tử tới khóa nhập thất của thày. Và họ ngồi đó và không chịu nhận nó vì họ nhất định nắm giữ điều kiện nào đó miêu tả họ không xứng đáng – vì thày là người quy định điều kiện mà họ không hội đủ. Thực ra chính họ đã quy định các điều kiện này, nhưng họ phóng chiếu lên thày là thày là người đã quy định chúng. Họ cho rằng thày là người đã giữ lại và không cho họ tình thương vì thày đã quy định những điều kiện quá khắt khe mà họ không hội đủ được. Nhưng thày không có điều kiện. Mọi người tới khóa nhập thất của thày với điều kiện của chính họ.

Có trường hợp đệ tử ở rất lâu trong vườn hồng mà vẫn không cảm được tình thương. Vì giản dị là họ không chịu ngửi mùi hoa hồng và trải nghiệm khu vườn.

11.5. Tia thứ Nhất của uy lực sáng tạo

Đệ tử tới thày trong tâm như có một bản nhạc – tựa như một đĩa nhạc rè cứ lặp đi lặp lại – lặp lại những điều kiện. Họ nhìn khóa nhập thất của thày và nghĩ: “Tôi phải hội đủ những điều kiện nào đây? Tôi không thể phạm lỗi ở đây; tôi đang tham dự một khóa nhập thất tâm linh.”

Vì họ quá quan tâm đến việc tránh phạm lỗi nên họ không dám làm gì cả. Và vì sao đây là một vấn đề? Đây là một vấn đề vì thày là Thượng sư của Tia thứ Nhất. Trong quá khứ, Tia thứ Nhất được miêu tả là tia của uy lực và ý chí, nhưng đó là vì uy lực và ý chí là thành phần thiết yếu của nỗ lực sáng tạo.

Con không thể sáng tạo bất cứ cái gì nếu con không phóng uy lực ra ngoài, và con không thể sáng tạo bất cứ cái gì nếu con không có ý chí sáng tạo. Do đó con có thấy chăng là thày không muốn con nhìn uy lực và ý chí như đức tính cố định, như tiêu chuẩn mà con phải sống theo. Thày đã nói gì về tiêu chuẩn? Nó giết sự sáng tạo. Nhưng con có nghĩ thày, là Chân sư MORE, Thượng sư của Tia thứ Nhất của Nỗ lực Sáng tạo, muốn giết sự sáng tạo của con? Nếu con nghĩ vậy, thì thày có thể bảo đảm với con là con sẽ thấy điều này không đúng nếu con chịu dùng khả năng lý luận của mình.

Thày không phải là người muốn giết sự sáng tạo của con. Tự ngã của con, các tà lực và thày giả muốn làm điều này, nhưng thày thì không, vì thày, chân sư MORE, chỉ muốn con hơn nữa. Và con hơn nữa qua sự sáng tạo. Và con chỉ sáng tạo khi con sẵn sàng thử nghiệm. Và con chỉ sẵn sàng thử nghiệm khi con nhìn vào nỗi sợ phạm lỗi và tự hỏi: “Có điều gì con yêu thích hơn nỗi sợ phạm lỗi không? Trong con có sự yêu thích nào mạnh hơn nỗi sợ phạm lỗi không?”

Thày không muốn nói tới lòng yêu thích muốn mình đúng dựa trên một tiêu chuẩn thế gian, tuy rằng đây có khi là một điểm khởi đầu. Thày muốn nói tới tình yêu thương cái gì hơn mọi tiêu chuẩn. Vì chỉ khi con vượt lên trên tiêu chuẩn con mới có thể sáng tạo.          

Nếu ngồi trong vườn hồng không giúp được người đệ tử, thì thày có một khu khác trong khu nhập thất của thày. Chắc con cũng có nghe đến kho sử liệu akasha. Kho sử liệu akasha có thể coi như một trường năng lượng có độ rung rất thanh hay cao, vượt rất xa các rung động trong cõi vật chất. Những rung động này có khả năng ghi nhận tất cả mọi diễn biến, mọi hành động xảy ra trong vũ trụ vật chất, do đó tất cả những điều này được ghi lại như hình ảnh, giống như cuộn phim có thể xem lại.

Kho sử liệu akasha đặc biệt hữu dụng khi một dòng sống rời bỏ xác thân và duyệt xét lại cuộc đời vừa qua của mình. Vì nhiều khi dòng sống đã quên hay có một cái nhìn méo mó về những chuyện đã xảy ra. Do đó, các thày có thể trở về kho sử liệu và chiếu lại hoàn cảnh thực, vì cái gì được ghi nhận trong kho sử liệu chỉ là sự kiện đã xảy ra, không có những cảm xúc và trải nghiệm nội tâm của những người trong cuộc.

Khi người đệ tử thấy những gì được ghi trong kho sử liệu akasha, y trải nghiệm chuyện xảy ra một cách hoàn toàn trung hòa không cảm xúc. Y có thể nhìn câu chuyện một cách khách quan – thấy nó như nó là – do đó giúp y dễ dàng buông bỏ, ghi nhận điều xảy ra và được chữa lành. Dĩ nhiên, có sử liệu khác ghi nhận các cảm xúc và các rung động này cũng cần được xóa bỏ trước khi người đệ tử thực sự buông bỏ.

11.6. Vẽ lên tấm vải vẽ của tiềm thức

Trong khu nhập thất của thày, thày cũng có một căn phòng có một màn ảnh 180 độ có thể chiếu lên bất cứ hình ảnh nào. Thày cũng có một dụng cũ giống như máy rà hình, tương tự như máy rà hình trong bệnh viện trên trái đất nhưng tinh vi hơn. Máy này có thể rà tiềm thức – gồm các thể xúc cảm, lý trí và bản sắc của tâm – của người đệ tử. Tác dụng là màn ảnh lớn trở nên một tấm vải vẽ trên đó người đệ tử có thể vẽ bất cứ gì mình muốn. Tiến trình xảy ra như sau.

Người đệ tử ngồi xuống và máy rà hình rà tâm của y. Máy rà hình phát hiện tất cả các điều kiện mà người đệ tử có trong tiềm thức. Sau đó, máy phát lên màn ảnh một tấm vải vẽ trắng giống như tấm vải vẽ của người họa sĩ. Tuy nhiên, kích thước của tấm vải vẽ – và con nên nhớ là màn ảnh rất lớn và chiếm nửa căn phòng – được chiếu như một phần màu trắng trên màn ảnh tùy thuộc vào những điều kiện mà người đệ tử có trong tâm. Càng nhiều điều kiện, tấm vải vẽ càng nhỏ.

Bên cạnh người đệ tử có một bảng pha màu gồm cọ và màu, và bảng pha màu này cũng tùy thuộc các điều kiện. Càng nhiều điều kiện, càng ít màu ít cọ. Có đệ tử chỉ có một cọ và chỉ có màu đen để vẽ trên một tấm vải vẽ trắng nhỏ – có khi nhỏ đến độ hầu như không có chỗ để vẽ gì vào.

Người đệ tử được giao công việc vẽ lên tấm vải vẽ màu trắng – vẽ gì cũng được. Một số đệ tử coi đây là một thách đố lớn. Những người có nhiều điều kiện nhất có tấm vải vẽ nhỏ nhất và ít màu nhất, nhưng tuy vậy họ không biết phải chọn màu gì, họ không thể quyết định vẽ cái gì. Họ nhìn thày với con mắt hoảng sợ và muốn thày nói họ phải vẽ gì lên tấm vải vẽ của đời mình. Họ muốn có quy luật, tiêu chuẩn mà họ có thể áp dụng, và như vậy biết chắc là mình đang làm đúng và không làm gì sai.

Nhưng con yêu dấu, con có thấy chăng: ở đây không có đúng sai. Vì mục đích không phải là vẽ một bức tranh. Mục đích là giúp con thẩm định các điều kiện đang hạn chế sự sáng tạo của mình.

Thày rời căn phòng để lại người đệ tử một mình, và trở lại một lúc sau để xem người đệ tử đã vẽ gì. Có khi thày trở lại nhưng y không vẽ được gì cả. Lúc đó thày cho y thêm thì giờ. Nhưng vẫn có một số đệ tử bị giam trong điều kiện đến độ họ không dám vẽ gì cả. Có người thày không thể giúp được và đành phải gửi trả họ về quán ăn miễn phí là nơi họ có thể đi thêm một vòng nữa và nhận được chút ít hơn những gì họ có thể nhận lúc này.

Với những đệ tử đã vẽ được một cái gì, thì thày tìm cách giúp họ bằng cách hỏi: “Khi con vẽ hình này – khi con nhìn hình này – thì năng lượng của con lên hay xuống? Con có phản ứng gì? Trạng thái tâm của con thế nào khi con vẽ và nhìn hình?”

Thày giúp họ thấy đây không phải là một kỳ thi khảo hạch. Đây không giống các chương trình truyền hình trong đó có một số giám khảo đưa ra những lời bàn vô duyên về những gì người khác sáng tạo. Thày không ở đây để bàn về tấm hình của con. Thày ở đây để giúp con thấy trạng thái tâm mình và thấy mức độ tự do – hay nhiều khi là thiếu tự do – của mình khi biểu lộ chính mình một cách sáng tạo.

11.7. Sáng tạo qua các luân xa

Sau khi thày đã giúp người đệ tử tiếp cận cảm xúc của mình, thì thày hỏi y đánh giá tiềm năng sáng tạo của mình. Hay nói cách khác, con có thể làm hơn những gì con đã làm chăng? Nhiều khi người đệ tử trả lời: “Con có thể làm hơn nếu con có một tấm vải vẽ lớn hơn và nhiều màu hơn”. Lúc đó là lúc thày giúp y thấy rằng thày không phải là người giới hạn kích thước tấm vải vẽ và số màu: đó là chính các điều kiện của người đệ tử. Thày có thể chỉ cho y thấy – và chiếu lên màn ảnh – cách điều kiện hạn chế biểu hiện sáng tạo.

Thày có thể chiếu lên màn ảnh từ trường và các luân xa của người đệ tử. Thày có thể cho thấy biểu hiện sáng tạo vận hành ra sao qua các luân xa. Thày có thể cho thấy là mỗi luân xa có những cái được gọi là cánh hoa, vì luân xa có thể so sánh với một đóa hoa. Nhưng những cánh hoa này thực sự là những van hay cổng cho ánh sáng vào. Trong nhiều trường hợp người đệ tử đã đóng hầu hết các cổng này trong luân xa, do đó có rất ít ánh sáng chảy xuyên qua luân xa.

Sau đó, thày cho thấy những luân xa có cổng bị tắc nghẽn. Và thày cho thấy là sự tắc nghẽn được tạo ra bởi điều kiện mà người đệ tử đã chấp nhận. Và thày cho thấy là nếu điều kiện được buông bỏ thì có nhiều ánh sáng chảy qua luân xa hơn, và lúc đó tấm vải vẽ sẽ rộng lớn và số màu sẽ tăng lên. Qua cách này, thày có khi – đúng thật là thường khi – giúp người đệ tử thấy được một số điều kiện và dần dần buông bỏ chúng để mở rộng tấm vải vẽ và gia tăng số màu trong bảng pha màu.

Nhiều đệ tử đáp ứng rất tốt, và họ hăng hái làm công việc buông bỏ điều kiện để tăng kích thước bức vải vẽ. Dĩ nhiên là thày cho họ thấy bức vải vẽ có tiềm năng lớn thế nào. Thày có thể cho họ thấy khi họ sẵn sàng – có nghĩa là họ thấy mà không quá nản chí – những bức hình mà các đệ tử khác đã vẽ. Thày chỉ cho thấy những bức hình đẹp tuyệt vời khi đệ tử dùng được toàn bộ bức vải vẽ và bảng pha màu.

Nhưng thày cũng cho họ thấy là các đệ tử này đã bắt đầu với một bức vải vẽ rất nhỏ và một bảng pha màu giới hạn, giống như họ vậy. Qua đó, thày chỉ cho thấy sự khác biệt giữa tiềm năng sáng tạo và khả năng sáng tạo hiện nay của họ, và cho thấy chính các điều kiện và không gì khác đã hiển nhiên hạn chế tiềm năng sáng tạo của họ.

Đây là một công việc rất hữu ích, và người đệ tử thường đáp ứng rất tốt. Cũng có người không buông bỏ được hình ảnh Thượng đế giận dữ và phê phán, và tiếp tục chối cãi họ không phải là người đã quy định điều kiện của họ. Có khi những đệ tử đó phải trở lại xếp hàng trong quán ăn miễn phí. Cũng có người phải trở lại Trường Đời Cay đắng vì họ không chịu nhận lấy trách nhiệm về cuộc đời mình.

11.8. Quyết định gia tốc

Ở tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày – ở tầng tâm thức 50 – công việc của con là tình thương. Công việc của con là trải nghiệm tình thương vô điều kiện. Nhưng trải nghiệm tình thương thực sự chỉ đặt nền móng cho bước kế tiếp. Bước kế tiếp là sử dụng Tia thứ Tư, được coi là tia của tinh khiết. Nhưng tinh khiết là gì? Đó là điều xảy ra khi cái có độ rung thấp được gia tốc lên độ rung cao hơn.

Làm sao con khiến một cái gì trở nên tinh khiết? Bằng cách gia tốc độ rung của nó. Do đó, con sẽ phải tới chỗ nhìn nhận một cách ý thức con thương yêu cái gì hơn nữa – con thương yêu sự biểu hiện sáng tạo của mình, bản thể cao của mình, và tiềm năng sáng tạo của mình. Và con yêu tiềm năng này nhiều đến độ con sẵn sàng nhìn chính mình và thấy cái gì hạn chế sự biểu hiện sáng tạo chính là những điều kiện mình đã chấp nhận và cho phép hiện hữu trong tâm thức.

Lúc đó con lấy quyết định: “Vâng, con sẵn sàng gia tốc mình vượt lên trên các điều kiện này. Con sẵn sàng gia tốc ý niệm bản ngã vượt lên trên tiêu chuẩn con đã chấp nhận. Con bây giờ thấy tiêu chuẩn này dựa trên tâm thức sa ngã, tâm thức phản-Ki-tô. Con sẽ không bị hạn chế bởi tiêu chuẩn này nữa. Con muốn gia tốc ý niệm bản ngã vượt lên trên tiêu chuẩn đó, và con gia tốc mình vượt lên trên tiêu chuẩn đó.”

Nhưng con có thấy chăng, con không thể lấy quyết định này nếu con chưa trải nghiệm, ít nhất là một thoáng, tình thương vô điều kiện. Con yêu dấu, tại sao lại như vậy? Vì trở nên hơn nữa là một tiến trình sáng tạo, và một tiến trình sáng tạo thì không ép uổng được. Nó không thể dựa trên sợ hãi, nó phải dựa trên tình thương. Con thương yêu cái hơn, do đó con sẵn sàng gia tốc mình lên một tầng cao hơn để cái hơn đó chảy qua con.

Chắc con đã bắt đầu thấy là Hiện diện TA LÀ của con là nguồn gốc của sự sáng tạo của con, và Hiện diện TA LÀ muốn thể hiện đầy đủ sự sáng tạo của nó như món quà giúp nâng trái đất lên một mức cao hơn. Nhưng Hiện diện TA LÀ của con chỉ có thể thể hiện sự sáng tạo của nó qua con. Con có tiềm năng – con, cái Ta Biết – có tiềm năng trở về trạng thái nhận biết thuần khiết, khi đó con trở thành cánh cửa mở, cánh cửa hoàn toàn mở. Và con thấy vì tiêu chuẩn của con, vì các điều kiện của con, con chưa là cánh cửa mở hoàn toàn. Con chỉ mở cánh cửa một phần, đôi khi chỉ mở chút xíu.

Khi con nhận ra điều này – khi con trải nghiệm tình thương vô điều kiện của Hiện diện TA LÀ dành cho con và muốn biểu hiện qua con – thì con có thể lấy quyết định từ cốt lõi bản thể mình. Quyết định này không đi qua phin lọc của cái ta vỏ ngoài và cá tính, vì cái ta vỏ ngoài đựa trên sợ hãi và chỉ có thể quyết định dựa trên sợ hãi. Con yêu dấu, Tia thứ Nhất là tia của ý chí, và ý chí thật dựa trên tình thương – ngược với ý chí giả dựa trên sợ hãi.

Ở đây có một điểm tế nhị con cần xem xét. Có đệ tử tới khóa nhập thất của thày quá sợ lấy quyết định sai nên họ không chịu lấy bất cứ quyết định gì. Họ muốn thày nói cho họ biết phải làm gì. Với các đệ tử này, thày không làm được gì khác hơn là gửi họ về quán ăn miễn phí. Thày chỉ có thể khởi sự tích cực làm việc với một đệ tử khi đệ tử này ít nhất chịu lấy quyết định. Nhưng dĩ nhiên lúc đầu – đặc biệt là các đệ tử đã xuống dưới tầng tâm thức thứ 48 – họ chỉ có thể lấy quyết định dựa trên sợ hãi.

11.9. Quyết định dựa trên sợ hãi

Thày muốn nói gì khi thày nói tới quyết định dựa trên sợ hãi? Đó là một quyết định phản ứng lại điều gì con cảm thấy bị áp đặt lên con. Con hãy nhìn cuộc đời mình và thấy có những điều kiện mà con cảm thấy đang hạn chế con. Đó có thể là người khác, có thể là cha mẹ con, người phối ngẫu, thày giáo hay một người có uy quyền, nhưng con cảm thấy họ quy định một số hàm số – họ đặt trên con môt số yêu cầu – và con lấy một quyết định né tránh phản ứng tiêu cực từ các người đó.

Đó là một thí dụ điển hình của một quyết định dựa trên sợ hãi. Con sợ phản ứng tiêu cực, do đó con lấy quyết định né tránh nó. Hầu hết các quyết định của con là quyết định né tránh; con tìm cách né tránh không cho chuyện xấu xảy ra. Tuy thế, lấy những quyết định này còn tốt hơn là không quyết định gì cả, vì ít nhất con đang hành động. Lúc đó, thày có thể làm việc với con và hướng quyết định con về hướng khác bằng cách giúp con nhận ra tiêu chuẩn, lý luận với con và dẫn con tới chỗ con nhận ra con cần trải nghiệm tình thương vô điều kiện. Và do đó, con cần buông bỏ điều kiện để chấp nhận tình thương.

Một khi một người đã trải nghiệm một thoáng tình thương vô điều kiện, y có thể dùng lý luận để bắt đầu hiểu là có một mức quyết định không do sợ hãi, không để né tránh cái xấu. Con lấy quyết định tích cực dựa trên tình thương yêu cái hơn nữa và lòng mong muốn trải nghiệm một cái gì tích cực, một cái gì tốt.

Vì dĩ nhiên khi con bị giam trong sợ hãi, con nghĩ là bất cứ quyết định nào cũng sẽ dẫn tới điều xấu. Vì con quá chú tâm tới tiềm năng của chuyện xấu nên con không thấy sự thực hiển nhiên là một quyết định cũng có thể dẫn tới điều tốt. Nó có thể dẫn tới tiến bộ, nhưng không lấy quyết định không dẫn con tới đâu hết.

11.10. Sự thực về ý chí Thượng đế

Đây là ý chí cao. Ý chí của Thượng đế hoàn toàn tích cực. Con yêu dấu, con hãy nghĩ xem. Con có thực sự nghĩ là Thượng đế sợ hãi? Nếu con tin vào hình ảnh thượng đế giận dữ và phê phán thì con đã gián tiếp tin rằng thượng đế sợ hãi. Vì nếu thượng đế giận dữ, thì nỗi giận này từ đâu tới? Nó tới từ sợ hãi. Nếu thượng đế phê phán, thì nhu cầu phê phán này từ đâu tới? Nó tới từ sợ hãi. Con thấy chăng, hình ảnh phổ biến của một Thượng đế giận dữ và phê phán ở trên trời thực sự là một hình ảnh dựa trên sợ hãi. Nó miêu tả Thượng đế như một Thượng đế hành xử dựa trên sợ hãi.

Dĩ nhiên là ma quỷ ước mơ là Thượng đế sợ ma quỷ và quyền lực của ma quỷ. Quả thực có người trên trái đất tin điều này, tin rằng ma quỷ có quyền năng nào đó khiến Thượng đế phải sợ. Nhưng dĩ nhiên là Thượng đế thật, Thượng đế thật của tình thương vô điều kiện, không sợ bất cứ cái gì. Trong ngài không có sợ hãi.

Ý chí của Thượng đế không dựa trên sợ hãi; quyết định của Thượng đế không dựa trên sợ hãi. Và ý chí của Thượng đế là con có quyền tự quyết, và ý chí của Thượng đế là con thực thi quyền tự quyết theo ý con muốn. Nhưng ý chí và viễn quan cao nhất của Thượng đế là con thực thi quyền tự quyết dựa trên tình thương và tất cả quyết định của con giúp con trở nên hơn nữa, giúp bầu cõi vật chất trở nên hơn nữa, sẽ rốt cuộc giúp đấng Sáng tạo trở nên hơn nữa. Đây là tiến trình của sự sống trong đó mọi thứ đều trở nên hơn nữa.

Tiến trình này đã tạm thời bị đảo ngược trên trái đất, và trái đất quả thực đã là một trường học cho nhiều dòng sống bị giam trong tâm thức sợ hãi. Nó là một loại chặng giữa thiên đàng và địa ngục. Trái đất không phải là một hành tinh cao, như thày đã từng nói trước đây.

Điều thày muốn nói là sẽ có một lúc con phải dùng ý chí để gia tốc mình vượt lên trên tiêu chuẩn của mình, cái tiêu chuẩn đang hạn chế sự sáng tạo của mình. Nhưng ý chí này, quyết định này không thể dựa trên tâm vỏ ngoài thấm đậm sợ hãi. Nó phải dựa trên tình thương vì chỉ như vậy nó mới gia tốc ý niệm bản ngã của con.

Có nghĩa là con có thể thực sự tới chỗ đã bắt đầu con đường đi lên, nhưng con vẫn nghĩ mục đích của con đường tu là kiện toàn cái ta vỏ ngoài và khiến cái ta vỏ ngoài sống theo tiêu chuẩn nào đó. Con nghĩ rằng nếu con kiện toàn cái ta vỏ ngoài theo tiêu chuẩn đó, thì thày sẽ phải chấp nhận con – cái ta vỏ ngoài – và Thượng đế phải chấp nhận cái ta vỏ ngoài. Đó là điều mà Giê-su đã giảng trong ẩn dụ về bữa tiệc cưới:

Con tưởng con có thể nhập tiệc cưới mà không mặc áo cưới. Áo cưới được dệt bằng tình thương; nó không được làm bằng sợ hãi.

Con có thể có hình ảnh một hiệp sĩ thời Trung cổ đội mũ sắt và mặc áo giáp sắt che khắp thân. Đây không phải là áo cưới, đây là một dụng cụ dựa trên sợ hãi được thiết kế để bảo vệ con khỏi những cú đánh mà con sợ sẽ tới. Chỉ khi nào con buông bỏ nỗi sợ và dệt chiếc áo không đường may, chiếc áo cưới, thì con mới bắt đầu thăng vượt sợ hãi. Và chỉ lúc đó con mới vào được tiệc cưới.

11.11. Một tiệc mừng ở Darjeeling

Dĩ nhiên là lúc này con chưa thể vào tiệc cưới, vì chiếc áo không đường may – chiếc áo cưới – phải được dệt với chỉ của cả bảy tia sáng. Tuy nhiên – một khi con đã thoáng trải nghiệm tình thương vô điều kiện – con đã thực sự bắt đầu công việc dệt áo cưới của mình. Và con sẽ tiếp tục kiện toàn nó, đây chỉ là một cách nói, khi con tiến dần lên tầng 96.

Sẽ có lúc cách duy nhất để tiến triển là con quyết định gia tốc ý niệm bản ngã, không phải là vượt lên trên mọi tiêu chuẩn nhưng chắc chắn là vượt lên trên tiêu chuẩn của con lúc đó, và quyết định này phải dựa trên tình thương. Khi con lấy quyết định này, thày cảm thấy một niềm vui trong tim lớn đến độ thày không diễn tả nổi. Khi một đệ tử đã trải nghiệm tình thương vô điều kiện và quyết định gia tốc mình dựa trên tình thương, thì đây là một cơ hội để ăn mừng ở khóa nhập thất của thày.

Đây thực sự là mục đích của công việc của các thày; đây là một phần thưởng quý giá. Không có nghĩa là thày đã làm xong công việc với người đệ tử đó, nhưng có nghĩa đây là một bước cơ yếu trên con đường tu. Và đây là một lý do quá lớn để vui mừng, nên thày luôn luôn tổ chức một tiệc mừng người đệ tử. Giống như những lễ thuộc một số truyền thống Cơ đốc giáo mà con thấy trên trái đất, khi một em trẻ được chứng minh, và sau đó có một bữa tiệc trong đó em được nhận quà và nhiều lời chúc tụng. Thày có một buổi lễ không hoàn toàn giống nhưng tương tự để ăn mừng sự tiến triển của người đệ tử, và thày phải nói, với khá nhiều nghi thức long trọng.

Và thày mong mỏi con có được buổi lễ đó. Thày mong muốn thấy con tới chỗ cảm được tình thương vô điều kiện tới từ cõi cao ngay cả khi con tỉnh thức và ý thức .

Uy lực và tình thương

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 4/2/2013.

TA LÀ Chân sư MORE. Thày muốn cho con một lớp hiểu biết khác về khả năng suy luận cao. Như các thày đã nói, trái đất ở tình trạng thấp hơn kịch bản lý tưởng rất nhiều. Do đó, khi con tới con Đường Bảy bức Màn và ghi danh với thày là Thượng sư thứ nhất, con không tới với tâm trong trắng; con mang theo mình một quá trình.

Con đã tích lũy quá trình này khi con sống trên trái đất, là một môi trường rất ô nhiễm. Trái đất bị ô nhiễm không phải chỉ do những gì nhân loại đã đồng sáng tạo trong suốt mấy ngàn năm, mà chính yếu là do quan điểm và giáo lý của các sinh thể mà ta có thể gọi là thày giả. Họ đã được phép đầu thai trên hành tinh này từ rất lâu rồi, và do đó đã ảnh hưởng tất cả mọi khía cạnh của đời sống trên trái đất. Không có khía cạnh nào của đời sống trên trái đất không bị ảnh hưởng bởi tư duy các thày giả đó, mà các thày cũng đã gọi là sa nhân. Tư duy này là tâm thức nhị nguyên, được đại diện một cách ẩn dụ bởi con rắn trong Vườn Địa đàng.

9.1. Lời dối trá mình có thể trở thành một thượng đế

Còn câu chuyện truyền thuyết, con rắn nói với E-và là nếu cô ăn trái cấm thì cô sẽ không “chắc chắn chết” nhưng sẽ trở thành như một thượng đế “biết tốt và xấu”. Như các thày có giảng chi tiết trước đây, cách giải thích câu chuyện ẩn dụ này giản dị là: Khi con trở thành một thượng đế, con nghĩ con có khả năng quy định cái gì tốt cái gì xấu. Nói cách khác, bản chất của tâm thức rắn là nó tạo ra một tiêu chuẩn giả về tốt và xấu, sau đó nó nói nếu con sống theo tiêu chuẩn vỏ ngoài này – tìm cách tránh xấu làm tốt – con được bảo đảm lên thiên đàng.

Khi đệ tử tới khóa nhập thất của thày ở Darjeeling, họ không nhiều thì ít mang tư duy sa ngã này. Ho đều đã chấp nhận một tiêu chuẩn nào đó, và họ nghĩ có thể tới khóa nhập thất của thày và áp đặt tiêu chuẩn của mình lên thày.

Các con yêu dấu, có những đệ tử tới khóa nhập thất của thày trong thể cao của họ mà vẫn dính mắc vào tiêu chuẩn của mình và nhất định áp đặt tiêu chuẩn này lên thày. Khi họ thấy thày không chịu tuân theo tiêu chuẩn thì họ suy luận ngay thày là một thày giả hay thày tu không đủ cao để dạy họ, và do đó họ giận dữ bỏ đi.

Các vị đó nghĩ họ từ bỏ thày là hoàn toàn chính đáng, tuy rằng họ từ bỏ thày dựa trên một ảo tưởng, trong khi thày thực sự là thật vì thày đã thăng vượt tư duy sa ngã. Tư duy này đã giam các đệ tử đó đến độ họ không nhận ra là thày cho họ một khung tham chiếu vượt lên trên tư duy sa ngã. Họ còn không nhận ra rằng họ cần vươn ra ngoài hộp tư duy đóng kín của tâm họ. Họ không thấy được giá trị của một vị thày có thể cống hiến một khung tham chiếu vượt lên trên tư duy sa ngã. Vì họ chỉ muốn tìm một vị thày công nhận tiêu chuẩn dựa trên tâm thức rắn.

9.2. Sử dụng khả năng lý luận

Các con có thấy chăng là thày không thể giúp các đệ tử đó? Đó là lý do vì sao điều đầu tiên mà thày muốn giảng trong bài này là nếu con muốn trở thành người mà chân sư thăng thiên có thể dạy được, thì con phải sẵn sàng dùng khả năng lý luận của mình ở bất kỳ tầng tâm thức nào. Con cần dùng khả năng lý luận để nhận ra một điều giản dị: là mức nhận biết hiện nay của con tạo thành cái hộp chung quanh tâm con, một hộp tư duy. Cách duy nhất để vượt quá tầng tâm thức hiện nay và lên tầng kế tiếp là con với tới cái gì bên ngoài hộp tư duy hiện nay của mình. Bất kỳ ai đã vươn lên tầng tâm thức cao hơn trong quá khứ đều đã dùng cách này. Bất kỳ ai có thể vươn lên tầng tâm thức cao hơn trong tương lai sẽ phải dùng cách này. Không ai có thể gian lận được.

Con có nhận ra rằng đây là một bài học của khoa học về các luật thiên nhiên? Không ai có thể gian lận luật trọng lực. Nếu con đứng trên một tòa nhà cao hay một vách đá cao và bước ra ngoài thì con sẽ rơi xuống. Con cần bước ra ngoài một tòa nhà cao bao nhiêu lần để chấp nhận là trọng lực sẽ biến con thành một vết đỏ trên sàn đất dưới kia? Con cần phải trải qua bao nhiêu kiếp bị giam trong một hộp tư duy để nhận ra rằng con đường giả đưa tới cứu rỗi mà các thày giả hứa hẹn sẽ không tự động đưa con lên thiên đàng sau kiếp này?

Điều thày muốn nói là: bất kể con đang ở tầng tâm thức nào, con có khả năng lý luận để nhận ra là nó tạo thành một hệ thống đóng kín – một hộp tư duy đóng kín – và cách duy nhất để vươn lên tầng kế tiếp là tìm một vị thày có thể cho con một cái gì bên ngoài hộp tư duy, ngoài tầng tâm thức hiện tại của con. Lúc đó, nếu con nắm lấy sợi dây cứu sống đó, con có thể dùng nó để kéo mình lên tầng trên của đường tâm linh.

Con có thấy chăng, khi con đang ở dưới tầng tâm thức 48, thì tầng tâm thức hiện nay của con giống như cát lún, và con càng vùng vẫy thì càng lún nhanh hơn. Chỉ có một cách thoát là ngừng vùng vẫy và để tâm lắng yên xuống, nhờ vậy con có thể thấy có người đang cho con một sợi dây. Khi con nắm sợi dây này, con có điểm cố định giúp con tự kéo mình lên.

Thày muốn con dùng khả năng lý luận để nhận ra thày là một vị thày thật. Thày đang cho con một sợi dây. Nhưng nếu con cho phép mình dính mắc vào một tiêu chuẩn giả hay một giáo lý giả khiến con không chấp nhận thày hay một số khía cạnh giáo lý của thày, thì dĩ nhiên là thày không giúp con được. Thày sẽ phải giản dị tôn trọng Luật Tự quyết, là điều thày sẵn sàng làm với tất cả lòng yêu thương, và để con buông sợi dây và do đó rơi trở lại vào cát lún của tầng tâm thức hiện nay của con.

Tuy nhiên, thày có tình thương vô điều kiện – vì thày đã thăng vượt tất cả điều kiện. Do đó, dù con chối bỏ thày, thày vẫn sẽ luôn luôn có mặt khi con muốn trở lại và xin thày giúp. Vậy, cho những ai chịu dùng khả năng lý luận của mình để nhận ra là Chân sư MORE đang cho họ một cái gì vượt lên trên hộp tư duy của họ, chúng ta hãy xem làm sao tận dụng những gì thày cống hiến.

9.3. Phản ứng cao và phản ứng thấp

Để bắt đầu, con hãy nhận ra rằng khi con nhận lời hướng dẫn từ một vị thày tâm linh, trong con sẽ có hai phản ứng. Con có thể tự hỏi tại sao như vậy, nhưng nếu con dùng lý luận thì con sẽ nhận ra rằng cho tới khi con thăng thiên, trong con luôn luôn có một sự phân chia. Vì có một yếu tố nào đó – mà ta có thể gọi là tự ngã hay tâm thức con người – giữ con hiện thân trên trái đất.

Như thày đã giảng, trái đất là một hành tinh rất dày đặc. Có rất nhiều hành tinh trong vũ trụ ở tầng tâm thức cao hơn trái đất. Con yêu dấu, trái đất là một hành tinh rất dày đặc. Có nghĩa là ngày nào con còn hiện thân ở đây, phải có một yếu tố nào đó của tâm thức con người giữ con trong thân thể vật lý này.

Nếu con buông bỏ tất cả trong một khoảnh khắc, con sẽ giản dị không giữ nổi chú tâm vào thân thể nữa, và do đó con sẽ thăng thiên và bỏ lại tấm thân. Điều thày muốn nói là: bất kể tầng tâm thức của con, khi con nhận lời hướng dẫn từ tầng tâm thức kế tiếp, trong con sẽ luôn luôn có hai phản ứng. Một là phản ứng cao, khao khát cái gì hơn nữa, cao hơn tầng tâm thức hiện nay. Thứ hai là phản ứng thấp, muốn chối bỏ cái cao hơn để biện minh tại sao nên bám víu vào tầng tâm thức hiện nay, cách nhìn cuộc đời hiện nay, cách nhìn con đường tâm linh hiện nay.

Bất kể tầng tâm thức của con, con chỉ cần giản dị dùng khả năng lý luận mà con sẵn có để nhận ra điều này. Như thày có nói nhiều lần, con có thể học cách hòa điệu với trái tim của con, nhưng con cũng có thể hòa điệu với khía cạnh khác của con người con, kể cả các luân xa khác. Lúc đó, con học cách phân biện phản ứng nâng con lên và phản ứng chống lại lời hướng dẫn của thày. Có một phản ứng muốn nhập một với vị thày, và có phản ứng muốn chối bỏ, tránh xa và lẩn trốn vị thày. Phản ứng này sẽ muốn biện minh tại sao con tiếp tục tránh xa vị thày thay vì chấp nhận lời hướng dẫn và dùng nó để thăng vượt tầng tâm thức hiện nay của con.

9.4. Phản ứng chối bỏ vị thày

Chúng ta hãy xem xét phản ứng chối bỏ vị thày và lời hướng dẫn của thày. Phản ứng này dựa vào đâu? Nó luôn luôn dựa trên một tiêu chuẩn mà con đã chấp nhận với tâm vỏ ngoài, và tiêu chuẩn này luôn luôn – con yêu dấu, luôn luôn – do tâm rắn thiết kế.

Thày đang cố ý khiến con bị chấn động vì thày muốn con có cơ hội cảm thấy hai phản ứng trong con khi nghe lời khẳng định này. Bất kể tiêu chuẩn nào con đã chấp nhận trên trái đất, tiêu chuẩn này luôn luôn dựa trên hay bị ảnh hưởng bởi tâm rắn.

Thày biết rằng khi các đệ tử lần đầu tới khóa nhập thất của thày, họ khó chấp nhận được điều này. Thày đã rất nhiều lần thấy đệ tử đến với một tiêu chuẩn mà họ tin có giá trị và có thẩm quyền tối hậu – và họ chờ đợi thày tuân theo tiêu chuẩn này hay xác nhận nó có giá trị. Nhưng con có thấy chăng, nếu tiêu chuẩn của con có thể đưa con lên thiên đàng, thì con đâu cần thày hướng dẫn, phải không con?

Do đó, thày biết rằng, vì con đã tới khóa nhập thất của thày, con chưa sẵn sàng để lên thiên đàng. Sự kiện con tới khóa nhập thất của thày cho thấy tiêu chuẩn của con sẽ không đưa con lên thiên đàng được. Do đó, thày không thể giúp con vươn lên tầng tâm thức cao hơn bằng cách xác nhận hay tuân theo tiêu chuẩn của con. Thày phải chất vấn tiêu chuẩn của con nếu thày muốn giúp con.

Con có thấy điều này chăng? Một lần nữa, con chỉ cần sử dụng khá năng lý luận của con. Không một vị thày nào có thể giúp con vươn lên tầng cao hơn bằng cách xác nhận tiêu chuẩn mà con có ở tầng tâm thức hiện nay của con. Chuyện thật giản dị như vậy.

9.5. Một tiêu chuẩn tôn giáo hay tâm linh

Thày muốn nói rõ là đa số đệ tử tới khóa nhập thất của thày đã tham gia vào một phong trào hay tổ chức tôn giáo hay tâm linh. Đa số đã dùng phong trào và giáo lý để xây dựng một tiêu chuẩn và dùng nó để đánh giá hành động và nỗ lực sáng tạo của mình. Trong quá khứ, các thày đã truyền giáo lý qua một số sứ giả và đã công khai giới thiệu mình là chân sư thăng thiên. Có lúc, các thày đã quy định một số luật lệ cấm hay cho phép đệ tử làm một số điều. Trong một số trường hợp, các thày đã quy định nhiều luật lệ đến độ không thể nào áp dụng hết được. Mục đích các thày rất giản dị: nếu con người không chịu nghe lời hướng dẫn nội tâm, nếu họ không chịu buông bỏ dính mắc vào tiêu chuẩn vỏ ngoài, thì làm sao các thày giúp họ được?

Các con có thấy chăng một kết quả điển hình của tiêu chuẩn vỏ ngoài là con muốn có quy luật cho mọi thứ. Con muốn có một quy luật và khi con tuân theo quy luật, con là người tốt và Thượng đế phải nhận con vào thiên đàng. Những ai không tuân theo quy luật sẽ bị kết án khổ hình vĩnh viễn trong địa ngục. Đây là một lập luận nhị phân đơn giản. Có hay không. Tốt hay xấu. Bật hoặc tắt. Và đây là tâm nhị nguyên. Các thày phải làm gì, khi có đệ tử muốn có luật lệ để họ nghĩ rằng, nếu họ tuân theo hết các quy luật trên trái đất, thì họ sẽ tự động hội đủ điều kiện để thăng thiên? Các thày có thể làm gì để giúp người đệ tử vượt lên trên tư duy đó? Các thày có thể giảng về đề tài này, nhưng nếu đệ tử không chịu nghe thì các thày phải làm gì? Chọn lựa duy nhất của các thày là tạo ra nhiều luật lệ đến độ khi người đệ tử muốn thỏa mãn ước muốn có luật lệ thì họ không thể kham nổi. Và nếu họ cố gắng tuân theo tất cả các quy luật, thì họ trở nên tê liệt và không còn nhúc nhích được nữa. Họ thu mình vào một cái hộp quá nhỏ, và đột nhiên nhận ra cái hộp chật hẹp quá, và cái gì đó trong con người họ hét lên xin được thoát khỏi luật lệ.

9.6. Vì sao tự ngã không thể cho con tự do

Các con hãy cho thày giảng một điều bất ngờ. Cái gì trong con hét lên muốn có tự do? Trên trái đất mọi người đồng ý thế nào là người có tự ngã lớn. Con thấy nhiều người có tự ngã lớn làm bất cứ điều gì họ muốn mà không cần biết đến hậu quả trên người khác. Con thấy các nhà độc tài trong lịch sử có quyền lực tuyệt đối. Họ có thể làm bất cứ gì họ muốn, họ có thể giết bất cứ ai cản trở hay chống đối họ – và họ thực sự đã giết hàng triệu người. Con nhìn các chuyện này và có thể nghĩ là họ có quyền tự do, nhưng đây không phải là tự do. Thày sẽ giảng điều này rõ hơn.

Tự ngã không thể cho con tự do. Nếu con nhìn vào tâm lý của các nhà độc tài đó, con sẽ thấy là tuy họ có vẻ có tự do hành động – vì họ có thể làm bất cứ điều gì mà không bị trừng phạt – nhưng họ không thực sự có tự do. Tâm họ không có tự do vì bị đóng khung bởi những quy luật mà họ tạo ra và dùng để phán xét người khác. Con có thể nói là tự ngã muốn làm bất cứ gì nó muốn mà không bị trừng phạt, nhưng tự ngã không thật sự khao khát tự do, vì nó không biết tự do là gì. Và nó sẽ không bao giờ biết được.

Con có thấy chăng, định nghĩa tự do của tự ngã không phải là vượt lên trên quy luật. Tự ngã tìm cách cho mình tự do bằng cách quy định một bộ luật có tiêu chuẩn hai hàng. Một tiêu chuẩn áp dụng cho người khác và tiêu chuẩn kia áp dụng cho tôi, như vậy tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi muốn mà không bị trừng phạt nhưng người khác thì không được làm vậy; người khác phải chấp nhận là tôi có quyền làm bất cứ gì tôi muốn.

Con có thấy chăng, một lần nữa, con chỉ cần dùng lý luận để thấy rằng tự ngã có thể có tự do làm gì nó muốn, nhưng tâm nó không có tự do? Vì trong tâm có bộ luật với tiêu chuẩn hai hàng, và con phải tuân theo tiêu chuẩn này để được tự do do tiêu chuẩn quy định. Do đó, tuy tự ngã đã quy định được một tiêu chuẩn cho nó quyền làm dường như bất cứ gì nó muốn, nó vẫn bị mắc kẹt trong tiêu chuẩn. Sẽ có một lúc con cảm thấy bị giam cầm trong chính tiêu chuẩn của mình.

Con có thể thấy điều này trong tâm lý của những người có vẻ đã đạt được quyền lực tuyệt đối trên trái đất. Họ tới chỗ nhận ra họ thực sự bị giam trong hệ thống mà họ đã tạo ra. Vì họ không thể tự cho phép đi ngược lại tiêu chuẩn đã cho họ quyền lực tuyệt đối. Họ không thể cho phép mình biểu lộ nhược điểm, hay nhân tính. Họ phải sống đúng theo hình ảnh lãnh tụ tuyệt đối mà họ đã tạo ra. Và sẽ có lúc họ thức tỉnh và nhận ra họ đã tạo ra một cái lồng bằng vàng cho chính họ, và cái lồng dường như càng ngày càng thu hẹp, và họ không thể nhúc nhích được nữa.

9.7. Cái gì trong con khao khát tự do?

Cái gì trong con thật sự khao khát tự do? Đó là cái mà các thày gọi là cái Ta Biết vì nó là một nối dài của Hiện diện TA LÀ của con. Nó là Tánh linh (Spirit), và Tánh linh luôn luôn cảm thấy bị giam hãm khi nó phải quy thuận vật chất. Không thể có cách nào khác. Vì sao vậy? Vì Tánh linh có tự do sáng tạo.

Tự do sáng tạo không phải là tự do làm bất cứ gì con muốn dựa trên một bộ luật được quy định trong thế giới hình tướng. Con có thấy chăng là quy luật được định ra bởi một cái gì có hình tướng, và một khi con chấp nhận chúng là quy luật, con không thể thay đổi hình tướng đó? Hình tướng bị giam trong một khuôn đúc, và khi con còn tin vào quy luật thì con không thể thăng vượt nó. Nhưng Tánh linh không được tạo ra để bị giam trong hình tướng. Tánh linh được tạo ra để sáng tạo hình tướng, và nó luôn luôn tạo hình tướng hơn những gì nó sáng tạo trước đó, bằng cách học hỏi từ những sáng tạo này.

Con có thấy chăng là sự sáng tạo – động lực sáng tạo của Tánh linh – tạo ra hình tướng nhưng nó không bị giam lâu trong hình tướng, mà dùng kinh nghiệm sáng tạo hình tướng đó để tạo ra một hình tướng hơn trước đó? Khi con theo tiến trình này – sáng tạo, học hỏi và sau đó sáng tạo cái hơn nữa – con tăng trưởng sự tự nhận biết của mình. Đây là mục đích sự sống. Đây là cách sự sống tiến bộ: qua tiến trình sáng tạo.

Các thày giả đã khiến con người tin rằng họ phải giết động lực sáng tạo của họ. Khi con tìm cách tuân theo quy luật thì con ngừng sáng tạo. Con không thể nào sáng tạo bằng cách tuân theo quy luật được quy định dựa trên hình tướng vì như vậy con không thể thăng vượt hình tướng. Và làm sao con sáng tạo được nếu con không thăng vượt hình tướng đang hiện hữu? Điều này không thể xảy ra. Đó không phải là sáng tạo

Các thày giả đã tạo ra một tiêu chuẩn giả – một niềm tin giả – cho rằng nếu con muốn lên thiên đàng thì con phải tuân theo một bộ luật được quy định bởi một thẩm quyền tối hậu, chẳng hạn như vị thượng đế giận dữ ở trên trời, mà ba tôn giáo đơn thần đã tôn vinh từ mấy ngàn năm nay. Khoa học duy vật cũng đề cao một hình ảnh tương tự khi chủ trương có những quy luật thiên nhiên bất biến.

Đúng thực là có quy luật thiên nhiên. Đấng Sáng tạo đã sử dụng một số nguyên tắc sáng tạo. Nhưng con có thể học cách sử dụng những nguyên tắc này một cách càng ngày càng sáng tạo hơn để nâng cao toàn thể. Đây là sáng tạo, trong khi định nghĩa quy luật thiên nhiên và quy luật Thượng đế như một chiếc áo khóa tay giam chặt sự sáng tạo, thì không phải là sáng tạo. Đây là tâm thức chết mà Giê-su đã nói tới. Nó không phải là tâm thức Sống, tâm thức Ki-tô tìm cách nâng cao mọi sự sống.

9.8. Sử dụng quy luật thiên nhiên một cách sáng tạo

Làm sao con nâng cao mọi sự sống? Con hãy nhìn vấn đề với lý luận đường thẳng. Ta hãy lấy thí dụ vấn đề nghèo đói trên trái đất. Nếu con dùng lý luận đường thẳng, phiến diện thì con có thể nói có nghèo đói vì thiếu tiền. Do đó, nếu có thêm tiền thì mọi người sẽ có đủ tiền để mua những gì họ cần. Nhưng làm sao gia tăng số lượng tiền tệ? Con có thể làm chuyện này một cách giả tạo, như một số quốc gia và cơ quan đã định làm. Nhưng hậu quả không tránh được là cái được gọi là lạm phát, và giá trị đồng tiền sẽ giảm đi. Do đó, tuy con có thêm tiền, nhưng con không thể mua thêm hàng hóa với tiền đó.

Đâu là cách đúng để giải quyết nạn nghèo đói? Giải pháp đúng là gia tăng sự dồi dào trên trái đất. Nhưng dồi dào không phải là tiền. Sự dồi dào không có được bằng cách in thêm tiền. Sự dồi dào có được nhờ óc sáng tạo, nhờ đó con học cách sử dụng tài nguyên thiên nhiên và quy luật thiên nhiên tốt hơn.

Ở đầu bài thày có đề cập tới quy luật trọng lực và nói rằng nếu con từ trên một tòa nhà cao bước ra ngoài khoảng không thì con sẽ rơi xuống đất. Và điều này đúng. Con thấy là trong mấy ngàn năm, con người nghĩ rằng bay như chim là điều không tưởng. Nhưng con cũng thấy là con người đã học cách sử dụng quy luật thiên nhiên để vô hiệu hóa trọng lực, và do đó con có thể dùng máy bay để bay trong không khí. Và con thấy là phát minh sáng tạo này – cách sử dụng quy luật thiên nhiên một cách sáng tạo – đã mở ra cả một nên công nghệ tạo nên sự giàu có, sự dồi dào.

Thành quả trên được thành hình nhờ áp dụng quy luật thiên nhiên một cách sáng tạo, chứ không phải bằng cách mù quáng tuân theo luật lệ. Vì nếu không ai dám nghĩ một cách sáng tạo thì con người sẽ vẫn chỉ đi bộ dưới đất, và thèm thuồng ngẩng nhìn chim bay, nghĩ rằng bay trên trời là một giấc mơ ngoài tầm với.

9.9. Tách sáng tạo khỏi kết quả vật lý

Con yêu dấu, khi đệ tử lần đầu tới khóa nhập thất của thày, thì thách đố lớn nhất của thày là đưa họ tới chỗ chấp nhận để thày dẫn họ vượt lên trên tiêu chuẩn hiện nay của họ. Vì con có thấy chăng là tiêu chuẩn mà con đã chấp nhận trên trái đất này chỉ có một mục đích duy nhất, đó là giới hạn sự sáng tạo của con để con không dùng sự sáng tạo của mình để vươn lên tầng tâm thức cao hơn?

Con yêu dấu, điều quan trọng không phải là con dùng khả năng sáng tạo để tạo ra kết quả nào đó trên trái đất. Các thày là chân sư thăng thiên quả thật có ý muốn giúp con người dùng óc sáng tạo để nâng xã hội lên cao hơn, như các thày đã từng làm qua khoa học kỹ thuật và một số cách khác. Nhưng quan tâm chính của các thày, như thày đã có nói, không phải là kết quả vỏ ngoài. Quan tâm chính của các thày là con học cách sử dụng khả năng sáng tạo để vươn lên tầng tâm thức kế tiếp. Các thày không có mục đích thay đổi chuyện vỏ ngoài. Các thày muốn con thay đổi ý niệm bản ngã vì chỉ khi nào con thay đổi ý niệm bản ngã, con mới từ tầng tâm thức 49 vươn lên tầng 50 được.

Con có thấy điều này chăng? Con không cần tạo ra kết quả vỏ ngoài nào cả để vươn lên tầng cao hơn. Nhưng con có cần thay đổi ý niệm bản ngã của mình. Con không thể làm điều này bằng cách tuân theo quy luật của tiêu chuẩn hiện nay của con, vì tiêu chuẩn này sẽ giữ ý niệm bản ngã của con ở cùng tầng tâm thức. Do đó, cách duy nhất để tái tạo ý niệm bản ngã của con là sử dụng khả năng sáng tạo của mình.

Khi đệ tử lần đầu tới khóa nhập thất của thày, công việc đầu của thày là khiến họ bỏ qua một bên tiêu chuẩn của họ – những quy luật của họ – để nối kết lại với khả năng sáng tạo của mình. Thày có thể bảo đảm với con là không ai trên trái đất hoàn toàn nối kết với khả năng sáng tạo của mình. Và chắc chắn là không có một đệ tử nào tới khóa nhập thất của thày mà nhận biết hoàn toàn khả năng sáng tạo của mình. Do đó, công việc của thày là giúp đệ tử bắt đầu nối kết với khả năng sáng tạo của họ để hiểu rằng có cái gì cao hơn tầng tâm thức hiện nay của họ, và họ có tiềm năng vươn lên tầng này. Không phải do thày làm thay họ, nhưng bằng cách họ dùng khả năng sẵn có trong họ, khả năng sáng tạo của chính họ.

Con có thấy chăng là có nhiều người tâm linh hay ngoan đạo đã chấp nhận một tiêu chuẩn cho rằng họ cần một vị thày hay một vị cứu tinh bên ngoài làm điều gì đó giúp họ? Do đó, họ đã tới khóa nhập thất của thày, và nghĩ rằng thày, Chân sư MORE, sẽ cho họ một liều thần dược hay một công thức thần diệu giúp họ đột nhiên lên tầng tâm thức cao hơn.

9.10. Chôn khả năng xuống đất

Có một điểm vi tế mà con có thể nhận ra bằng cách dùng khả năng lý luận của con. Vì quả thực là con cần một cái gì bên ngoài tầng tâm thức hiện nay của con. Con cần sợi dây treo từ trên xuống mà con có thể nắm và kéo mình ra khỏi bãi cát lún. Do đó, đúng là con cần một vị thày ở tầng tâm thức cao hơn con, có thể cho con một khung tham chiếu cao hơn tầng tâm thức hiện nay của con. Nhưng điều này không có nghĩa là vị thày sẽ làm công việc hộ con. Vị thày sẽ cho con điều con cần, nhưng con phải thể nhập nó. Như Giê-su có giảng trong bài ẩn dụ, con phải tăng trưởng các đồng tiền mà con nhận được thay vì chôn nó xuống đất.

Chôn đồng tiền xuống đất có nghĩa gì? Nó có nghĩa lấy giáo lý mà thày dạy con rồi ép nó phải thuận theo tiêu chuẩn hiện nay của con, những quy luật hiện nay của con. Qua đó, con sẽ biến giáo lý của thày thành một quy luật khác, nghĩ rằng nếu con làm điều này và tránh làm điều kia, thì chắc chắn con sẽ lên tầng cao hơn.

Nhưng con có thấy chăng, thày không dạy con giáo lý để con biến nó thành một quy luật. Thày dạy con giáo lý để chất vấn một quy luật nào đó và giải thoát khả năng sáng tạo của con. Con sẽ không lên thiên đường bằng cách tuân theo quy luật – đây là một hiểu lầm tai hại của đa số tôn giáo cũng như là một số giáo lý tâm linh. Con chỉ lên được thiên đường bằng cách đồng-sáng tạo một ý niệm bản ngã cao hơn và bỏ đi hồn ma cuối cùng của tự ngã đang trói buộc con vào thân thể vật lý.

9.11. Phương trình tình thương và sợ hãi 

Con hãy để thày cho con một cách nhìn khác. Ở phần trên thày có nói tới các nhà độc tài có quyền lực tuyệt đối và trên mặt hành động, có thể làm bất cứ gì họ muốn. Nhưng nếu con theo lời dạy của Giê-su: “Hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho mình”, thì ý nghĩa sâu của lời giảng này là gì? Ý nghĩa sâu của nguyên tắc này là gì? Ý nghĩa giản dị là: những gì con làm cho người khác, con đã làm cho chính mình trong tâm thức mình.

Làm sao con có thể ép buộc một người khác? Con chỉ có thể ép buộc người khác khi con đã ép buộc mình phải tuân theo một tiêu chuẩn trong tâm mình. Do đó, con có thấy chăng là một nhà độc tài không thể nô lệ hóa người khác mà không tự nô lệ hóa mình. Y có thể không bị nô lệ trên mặt vật lý, như những người dân, nhưng y bị nô lệ một cách dũng mãnh hơn nhiều, vì y bị nô lệ trong ba tầng cao của tâm. Y bị nô lệ trong cảm xúc, tư tưởng, và ý niệm bản ngã.

Thày có thể nói với con là nô lệ tinh thần mãnh liệt hơn nô lệ thể xác. Vì khi con bị nô lệ thể xác, con biết con đang bị nô lệ và con ao ước được tự do. Nhưng khi tâm con bị nô lệ, con bị tiêu chuẩn làm mù quáng đến độ không biết có một cách sống khác, bên ngoài tiêu chuẩn. Do đó con không ao ước tự do một cách ý thức, tuy rằng có một phần của con ao ước tự do. Cuối cùng thì con có thể hòa điệu với phần này của con, và nhận ra rằng con là Tánh linh đang bị giam trong tâm phàm. Sau đó, con có thể hòa điệu với Tánh linh.

Thày sẽ cho con một tiêu chuẩn giản dị. Thày có nói về việc hòa điệu với trái tim và nhận ra là một chuyện gì đó nâng năng lượng lên hay hạ năng lượng xuống. Nay thày thêm một khía cạnh nữa. Năng lượng lên hay xuống thực sự có nghĩa gì? Cái nâng năng lượng là tình thương, cái hạ năng lượng là sợ hãi.

Do đó, con có một thước đo giản dị để đánh giá mọi chuyện trong cuộc đời. Con hãy nhìn lại chính mình và xem con nhìn đời như thế nào; con cảm thấy gì trước một số hoàn cảnh trong cuộc đời. Con hãy nhận ra bất kỳ điều kiện nào hạn chế con đều có một nguyên nhân. Con quen nghĩ rằng điều kiện bên ngoài là nguyên nhân và cảm nhận bên trong là hậu quả. Nhưng, như các thày đã cố giảng nhiều lần, sự thực ngược lại. Chính cảm nhận bên trong là nguyên nhân nguyên thủy và điều kiện bên ngoài chỉ giản dị là hình ảnh phóng chiếu của cái gì xảy ra trong tâm thức.

Điều khó khăn là con không có ý thức những gì xảy ra ở các tầng xúc cảm, lý trí và bản sắc của tâm, vì vậy con không thấy được là tâm thái nơi ba tầng cao của tâm đã tạo ra hoàn cảnh bên ngoài. Do đó, con không thấy rằng khi con phản ứng lại hoàn cảnh bên ngoài, con đang phản ứng lại cái gì con đã tạo ra. Cái tiêu chuẩn – và thày dùng chữ “tiêu chuẩn” để làm con giật mình, vì nay thày muốn con phận biệt tiêu chuẩn thấp, vỏ ngoài, và cây gậy chỉ đường cao, tuyệt đối – mà thày muốn con chấp nhận là bất kỳ cái gì hạn chế con đều do con tạo ra khi con sử dụng khả năng sáng tạo qua sự sợ hãi.

Con thực sự có nhiều cách biểu lộ khả năng sáng tạo. Nhưng ngoài các hình thức biểu lộ cá biệt, thì đặc tính chung là: con đang biểu lộ khả năng sáng tạo với thái độ thương yêu hay với thái độ sợ hãi? Con có thấy chăng, khi con nhìn vào hình thức cá biệt thì có thể kết quả bên ngoài không khác nhau mấy. Tỷ dụ, con có thể nhìn hai người vẽ tranh và không thấy khác biệt trong cách họ vẽ, nhưng một người đang vẽ trong trạng thái sợ hãi trong khi người kia thì vẽ trong trạng thái thương yêu. Tất cả mọi sinh hoạt trên trái đất đều như thế.

Khi con bắt đầu hòa điệu với đề tài này thì con sẽ thấy là có nhiều sinh hoạt trên trái đất bắt nguồn từ sợ hãi. Và con có thể phân biện điều này bằng cách tự hỏi: “Chuyện này nâng năng lượng của tôi lên hay hạ năng lượng xuống?” Khi con nhìn một sinh hoạt trên trái đất thì con biết, con cảm nhận, là nó đang hạ năng lượng của con xuống. Sau đó, con có thể lý luận là sinh hoạt đó dựa trên sợ hãi.

9.12. Sáng tạo vượt lên trên sợ hãi

Đây là bước tới mà con cần thấy. Sợ hãi là bạn đồng hành không thể tránh của việc áp dụng một tiêu chuẩn khi con dùng khả năng sáng tạo của mình. Ngay lúc con chấp nhận tiêu chuẩn, với cái nhìn nhị nguyên, con lượng định xem mình đang tuân thủ hay vi phạm tiêu chuẩn. Tác dụng chung là tạo nơi con nỗi sợ không thể tránh, sợ vi phạm tiêu chuẩn và sợ những hậu quả nghiêm trọng quy định bởi tiêu chuẩn. Vì tiêu chuẩn không chỉ nói: “Làm điều này, đừng làm điều kia.” Tiêu chuẩn luôn luôn có hai mặt: phần thưởng khi tuân theo nó và hình phạt khi vi phạm nó.

Con yêu dấu, con có thấy chăng? Trong kịch bản lý tưởng, khi một dòng sống mới xuống đầu thai, thì không có tiêu chuẩn nhị nguyên. Dòng sống được quyền tự do tuyệt đối làm gì nó muốn, sau đó nó được sự hướng dẫn và tình thương của một chân sư thăng thiên giúp nó thấy hậu quả của hành động, nỗ lực sáng tạo, của nó. Sau đó nó đánh giá những hậu quả này và nói: “Tôi không muốn cái này, tôi muốn cái kia nhiều hơn.” Và nó điều chỉnh cách nó sử dụng khả năng sáng tạo. Trong tiến trình này không có sợ hãi. Làm sao lại có sợ hãi khi mình biết mình có thể thăng vượt bất kỳ quyết định nào trước đó của mình? Con hãy nghe câu này một lần nữa: “Làm sao lại có sợ hãi khi mình biết mình có thể thăng vượt bất kỳ quyết định nào trước đó của mình và thay bằng một quyết định tốt hơn?

Đây là chuyện xảy ra trong Trường Bí giáo. Đây là chuyện xảy ra khi con đi theo con Đường Bảy Tia sáng mà không có tiêu chuẩn giả của các thày giả. Con có thể đi từ tầng 48 lên tầng 96 mà không sợ hãi. Dĩ nhiên là chúng ta không có kịch bản lý tưởng trên trái đất, do đó con có sợ hãi và con phải đối phó với tiêu chuẩn.

Đó là lý do vì sao, khi đệ tử tới khóa nhập thất của thày, điều đầu tiên thày phải làm là giúp họ chất vấn tiêu chuẩn của họ. Thày phải giúp họ đứng ra ngoài tiêu chuẩn của họ, nhìn nó từ bên ngoài, và nhận ra rằng mặc dù tiêu chuẩn này cho tự ngã họ một số điều thuận lợi – bằng cách khiến tự ngã cảm thấy được an toàn – họ cảm thấy bị giam cầm trong tiêu chuẩn đó. Cái Ta Biết của họ, Tánh linh, cảm thấy bị giam cầm trong tiêu chuẩn đó.

Đó là lúc con bắt đầu thấy là nếu con có thể bỏ lại đằng sau tầng tự ngã đó, con có thể vươn lên một tầng tâm thức mới nơi con thoát khỏi tiêu chuẩn cũ của con. Con có thể vẫn còn một tiêu chuẩn nào đó, nhưng ít ra, con thoát khỏi một số hạn chế đã giam cầm mình.

9.13. Tiêu chuẩn giả nhị nguyên

Con có thấy chăng là tiêu chuẩn của tâm thức nhị nguyên, tâm thức rắn, áp đặt lời dối trá tinh vi là con bị giới hạn – bị giam hãm – bởi các lựa chọn quá khứ của mình. Việc tạo ra một tiêu chuẩn ngụ ý rằng một số chọn lựa của con đã sai lầm theo nghĩa tối hậu. Các chọn lựa này vi phạm tiêu chuẩn, do đó chính việc con dùng quyền tự quyết một cách sáng tạo đã khiến con vi phạm tiêu chuẩn.

Đây là lời dối trá do rắn áp đặt. Do đó, lời hứa ngầm là nếu con ngưng dùng quyền tự quyết của mình một cách sáng tạo – và thay vào đó giam quyền tự quyết vào một tiêu chuẩn vỏ ngoài – thì con sẽ được bảo đảm lên thiên đàng. Vì Thượng đế phải chấp nhận con khi con sống theo tiêu chuẩn do rắn quy định trên trái đất.

Đây là lời dối trá tiềm ẩn đằng sau con đường giả. Họ nói: Bạn sai lầm – bạn đã phạm một lỗi lầm – khi bạn dùng khả năng sáng tạo của mình. Do đó, cách duy nhất tránh xuống địa ngục là ngừng sáng tạo và làm theo quy luật sẽ đưa bạn lên thiên đàng. Nhưng con yêu dấu, con có thấy đây là lời dối trá chăng?

Con có bắt đầu thoáng thấy chăng là toàn bộ mục đích cuộc đời là để con học cách dùng khả năng sáng tạo của mình để tự thăng vượt liên tục và trở nên hơn nữa? Con có thấy chăng là rắn nói là con không thể tự thăng vượt, con không thể thăng vượt chọn lựa cũ của mình? Do đó, rắn nói rằng con có thể vào thiên đàng bằng cách tuân theo quy luật thay vì thăng vượt ý niệm bản ngã của mình. Rắn nói rằng con có thể kiện toàn ý niệm bản ngã hiện nay của mình bằng cách tuân theo quy luật vỏ ngoài.

Cách duy nhất để vào thiên đàng là thăng vượt ý niệm bản ngã hiện nay của mình, và cách duy nhất để thăng vượt ý niệm bản ngã hiện nay của mình là dùng khả năng sáng tạo để tái tạo một ý niệm bản ngã mới, một ý niệm bản ngã cao hơn. Con làm điều này bằng cách học hỏi từ chọn lựa quá khứ và sau đó chọn lựa tốt hơn. Con không làm điều này bằng cách từ chối chọn lựa, từ chối học hỏi, hay nghĩ rằng con có thể tuân theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài. Con có thể dùng lý luận để hiểu ra sự thực này. Thày nói với con một cách cả quyết tuyệt đối. Thày là Chân sư MORE. Thày đã thấy hàng triệu đệ tử tới khóa nhập thất của thày. Và thày biết là con không thể tới khóa nhập thất của thày nếu con không có khả năng lý luận mà thày đề cập. Do đó, con có thể bắt đầu tiến trình thay đổi toàn diện cái nhìn của mình về cuộc đời và nhận ra con không tăng triển – con không lên thiên đàng, con không thăng thiên – bằng sợ hãi, mà chỉ tăng triển bằng tình thương. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của con – nhiệm vụ chính yếu của con – lúc này là giải thoát khả năng sáng tạo của mình để con có thể sử dụng nó trong tình thương thay vì sợ hãi.

9.14. Sáng tạo trong tình thương 

Tiêu chuẩn vỏ ngoài đã khiến rất nhiều người sử dụng khả năng sáng tạo của họ trong sợ hãi vì lúc nào họ cũng phản ứng lại tiêu chuẩn. Họ tìm cách né tránh điều gì hoặc bù đắp cho một hành động quá khứ.

Nhưng con không cần bù đắp cho những chọn lựa quá khứ. Con cần học hỏi từ những chọn lựa này và thăng vượt tầng tâm thức lúc ấy. Có gì cần bù đắp đâu trong bãi chơi cát trên trái đất? Con cần thăng vượt ý niệm bản ngã thay vì tiếp tục đồng-sáng tạo qua bản ngã đó. Đây là điều một đệ tử tâm linh cần làm.

Một lần nữa, con hãy dùng khả năng cảm nhận điều gì nâng cao hay hạ thấp năng lượng. Con hãy bắt đầu áp dụng nó vào cách con nhìn cuộc đời và tiêu chuẩn của con. Và con hãy nhận ra là tiêu chuẩn của mình – ít ra là một số khía cạnh của nó mà con có thể thấy – dựa trên sợ hãi. Con hãy bắt đầu xem xét con sợ điều gì. Con hãy tiếp cận nỗi sợ này. Con hãy cảm nhận là chỉ nghĩ về nó thôi cũng đã hạ năng lượng của mình. Sau đó, con hãy nhận ra là bất kỳ điều gì hạ năng lượng đều đến từ sợ hãi, và bất kỳ điều gì đến từ sợ hãi cản trở, giới hạn, giết chết sự sáng tạo.

Thày là Chân sư MORE, thày là Thượng sư của Tia thứ Nhất. Tia này đã được gọi là tia của uy lực và ý chí, nhưng cái mà con thấy trên trái đất là sự lạm dụng quyền lực dựa trên một tiêu chuẩn, một tiêu chuẩn hai hàng có một bộ luật cho nhóm thượng lưu và một bộ luật cho người thường.

Dĩ nhiên là cũng có khái niệm ý muốn của Thượng đế, mà nhiều người cho là cái áo khoá tay. Vì khi con tuân theo ý muốn của Thượng đế, con phải từ bỏ quyền tự quyết của mình. Nhưng con yêu dấu, ý muốn của Thượng đế là con có quyền tự quyết! Quyền này được cho không! Thượng đế cho con quyền tự quyết và ý muốn của Thượng đế là con được tự do dùng nó.

Nhưng thực thi quyền tự quyết có nghĩa giản dị là con nhìn vào kết quả của lựa chọn quá khứ của mình. Và sau đó con đánh giá: Tôi muốn nhiều thêm kết quả này hay tôi muốn điều gì cao hơn kết quả này? Và nếu con muốn điều gì cao hơn, thì con dùng chọn lựa quá khứ của mình để học hỏi cách tái tạo chính mình và đồng-sáng tạo cái hơn nữa. Đây là cách con dần dần nâng cao quyền tự quyết của mình để nó thực sự tự do. Vì con biết bất kể điều gì con đã chọn trước đây, con có thể thăng vượt mức tâm thức đó và chọn cái gì cao hơn. Con không bị ràng buộc bởi chọn lựa quá khứ của mình. Con không bị ràng buộc bởi quy luật. Con không bị ràng buộc bởi một tiêu chuẩn vỏ ngoài trên trái đất.

Thày mong rằng khi con học xong các bài giảng này, con sẽ bắt đầu hiểu quyền tự quyết là gì. Bây giờ thì thày đã cho con đủ và có thể quá những gì con hấp thụ được, do đó thày sẽ niêm bài giảng này cho tới khi thày dạy bài tới. Ngay bây giờ thì con hãy xem xét các nỗi sợ của mình, và nhận ra rằng chìa khóa để tiến bộ trên con đường tâm linh là tránh xa sợ hãi và tiến vào tình thương. Không thể có cách nào khác hơn. Vì phải chăng là Giê-su đã nói là quy luật quan trọng nhất là yêu Thượng đế với tất cả trí óc, trái tim và linh hồn? Và làm sao con có thể yêu Thượng đế nếu con nghĩ đây là một bạo chúa chỉ muốn hạn chế ý chí mà y đã ban cho con?

Con không thể thương yêu một thượng đế mà con sợ. Con chỉ có thể yêu Thượng đế bằng cách thăng vượt và tới chỗ trong tâm thức con chỉ còn tình thương. Vì ông hoàng của thế gian sẽ tới và sẽ không tìm ra nỗi sợ nào trong con khiến y có thể nắm lấy và bắt con phải tuân theo tiêu chuẩn của rắn. Vì con chỉ có tình thương của sự hiểu biết là con có thể thăng vượt mọi chọn lựa quá khứ. Và do đó con có tự do – lúc nào cũng tự do là hơn nữa.

Uy lực và minh triết

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/2/2013.

TA LÀ Chân sư MORE. Và thày là chân sư của uy lực. Do đó, trong bài giảng này, thày sẽ nói về cách dụng uy lực và cách sử dụng uy lực đúng. Khó khăn mà con gặp phải là trong cuộc sống trên trái đất này, con đã gặp nhiều trường hợp lạm dụng uy lực và rất ít khi thấy uy lực sử dụng đúng. Do đó, con đã tới chỗ chấp nhận khung tham chiếu giả cho rằng trên trái đất này, sự thành công hay uy lực được đánh giá qua kết quả hay hậu quả vật lý mà nó tạo ra.

Người ta cho rằng người có uy lực là người làm được việc, bất kể những tổn hại và hậu quả khác trên người khác. Tỷ dụ, con có thể coi một vị tướng đánh bại quân địch là người có uy lực, tuy nhiều người bị thiệt mạng hay chịu đau khổ. Hay con cũng có thể coi một nguyên thủ quốc gia thực hiện được một số chuyện vỏ ngoài là có uy lực, nhưng không biết cái giá mà người dân nước đó hay nước khác phải trả.

Con biết chăng, thày là Thượng sư của Uy lực nhưng thày không đánh giá uy lực dựa trên kết quả vật lý trên trái đất. Đối với thày, kết quả vật lý không quan trọng chút nào. Câu này có thể khiến nhiều đệ tử tâm linh kinh ngạc. Đó là vì họ nhìn Tia thứ Nhất của uy lực xuyên qua phin lọc của tiêu chuẩn thế gian, tiêu chuẩn giả về uy lực.

7.1. Mục đích cuộc đời là sự tăng triển của con 

Các thày đã nói điều gì nhiều lần? Vũ trụ vật chất là một lớp học, một môi trường học hỏi. Vũ trụ là một tấm gương toàn vũ. Những gì con phóng ra ngoài sẽ được phản chiếu lại dưới dạng hoàn cảnh vật lý. Nhưng tại sao lại phản chiếu lại con những gì con phóng ra? Mục đích giản dị là để phơi bày một cách không thể chối cãi những gì con không thấy được trong tiềm thức hay tâm ý thức của mình. Và vì sao vũ trụ lại làm vậy? Vì mục đích cuộc sống là tăng triển tâm thức con người.

Con có thể so sánh với một công nghệ là kính thực tại ảo (virtual reality goggles). Con đeo một cặp kính thực tại ảo vào và không còn thấy căn phòng chung quanh con nữa. Con chỉ còn thấy cái gì được chiếu trước mắt con trên màn ảnh bên trong cặp kính. Cái con thấy không phải là môi trường thực, mà chỉ là một môi trường tạo ra bởi một máy điện toán – tức là một môi trường ảo, giả. Thày có thể bảo đảm với con là nếu con có thể thấy như thày thấy, thì con sẽ thấy môi trường vật lý trên hành tinh trái đất cũng giả như môi trường trong cặp kính thực tại ảo.

7.2. Kết quả vỏ ngoài không có ý nghĩa

Hành tinh trái đất chỉ giản dị là một phóng chiếu của tâm thức. Các thày đã nói về các bầu cõi chưa thăng thiên, nhưng con đang sống trong bầu cõi chưa thăng thiên cuối. Trong một bầu cõi chưa thăng thiên, không có gì thật một cách tối hậu, không có gì trường tồn, vì đây chỉ là một môi trường thử nghiệm. Do vậy, không có gì trường tồn – không có gì trở nên thực tại tối hậu – cho tới khi bầu cõi thăng thiên. Vì con đang sống trong một môi trường không có thực tính tối hậu, thì tại sao thày, hay tất cả các sinh thể thăng thiên khác, lại quan tâm đến kết quả vật lý mà con tạo ra hay không tạo ra? Điều này hoàn toàn vô nghĩa với các thày.

Con có thấy chăng là các thày đã nhất quán giảng là con đường bên ngoài là con đường giả không đưa tới cứu rỗi và con đường bên trong mới là con đường thực? Trong hình thức thô sơ của con đường vỏ ngoài, con nghĩ là con chắc chắn được cứu rỗi vì con là một thành viên của một tôn giáo vỏ ngoài. Trong hình thức tinh vi hơn, con nghĩ là con chắc chắn được cứu rỗi vì con là đệ tử chân sư thăng thiên, đã làm hết những chuyện vỏ ngoài và đạt được một số kết quả vỏ ngoài.

Nhưng các thày đã lặp lại nhiều lần là trạng thái tâm thức của con sẽ quyết định con có được cứu rỗi hay không, con có thăng thiên hay không, con có vào cõi tâm linh hay không. Con sẽ không vào cõi tâm linh cho tới khi con đạt tầng tâm thức 144. Con sẽ không đạt tầng này nếu con nghĩ chỉ cần tạo ra một số kết quả bên ngoài nào đó. Sư thực là con sẽ không từ tầng 48 lên tấng 49 nếu con nghĩ chỉ có kết quả bên ngoài là quan trọng.

7.3. Hậu quả của sự lạm dụng uy lực 

Thày muốn con nhận ra là cách duy nhất để đi xuống thấp hơn tầng tâm thức 48 là con bắt đầu lạm dụng quyền lực. Con bắt đầu lạm dụng quyền lực khi con dùng động lượng của mình, những thành tựu trên bảy tia sáng để khởi lên ý định hung hãn muốn tạo ra một kết quả bên ngoài bằng cách kiểm soát hay áp lực người khác. Đó là cách khiến con đi xuống dưới tầng tâm thức 48.

Dù con sa ngã ở tầng 48 hay cao hơn, thì cách duy nhất khiến tâm thức sa ngã là con dính mắc vào một kết quả bên ngoài nào đó đến độ con sẵn sàng dùng sức mạnh – thày cũng coi lừa dối là dùng sức mạnh – để khiến người người khác tuân theo cái nhìn của mình về chuyện gì phải xảy ra hay không xảy ra. Đó là lý do vì sao các sinh thể sa ngã lần đầu ở bầu cõi thứ tư. Đó là lý do vì sao một số tiếp tục sa ngã ở bầu cõi thứ năm, thứ sáu và nay ở bầu cõi thứ bảy này.

Đó là lý do vì sao họ đã lôi kéo được nhiều người đầu thai lần đầu vào bầu cõi thứ bảy bước vào vòng xoáy đi xuống của họ, khiến những người này theo họ vào tâm thức sa ngã.

Bản chất của tâm thức sa ngã là sự lạm dụng quyền lực để khiến người khác dùng quyền tự quyết của họ làm theo cái nhìn của mình – dù rằng đó không phải là cái nhìn của họ. Hoặc con có thể tìm cách ép họ phải chấp nhận cái nhìn của mình và bỏ đi cái nhìn của cá tính thiêng liêng của họ. Đó là tâm thức sa ngã. Không có cách nào mô tả nó khác hơn.

7.4. Biết là mình thuộc một tổng thể

Con là một sinh thể cá biệt. Con đã được ban cho quyền tự quyết cá nhân. Con có quyền thử nghiệm quyền tự quyết này và khả năng sáng tạo của mình. Như thày đã giảng trong hai bài đầu, ở tầng 48 con đúng lý phải thử nghiệm khả năng sáng tạo của mình. Nhưng các con có thấy chăng, thử nghiệm quyền năng sáng tạo không có nghĩa là làm bất cứ điều gì mình muốn, vì có một điểm vi tế mà ta phải xem xét.

Con thấy chăng, tuy con là một sinh thể cá biệt có quyền tự quyết, nhưng con không được sinh ra như một sinh thể cá biệt sống một mình trong môi trường. Lúc nào con cũng hiện hữu chung và chia sẻ môi trường với những sinh thể cá biệt có tự nhận biết khác. Do đó, con không bao giờ ở trong hoàn cảnh có thể làm bất cứ cái gì mình muốn mà không cần quan tâm đến hậu quả.

Khi thày nói điều này thì thày biết là những đệ tử đã bị tâm thức nhị nguyên ảnh hưởng quá nhiều sẽ không hiểu ngay được điều thày nói. Vì trong kịch bản lý tưởng, khi một sinh thể lần đầu xuống một hành tinh như trái đất ở tầng tâm thức 48, thì nó là một sinh thể cá biệt, nhưng nó không tự coi nó như là một sinh thể tách biệt. Con biết con liên hệ với cái gì lớn hơn mình. Con biết là có những sinh thể khác trong môi trường, và con cũng cảm thấy mình có liên hệ với họ. Do đó, con là một phần của tổng thể, và bất cứ điều gì con làm ảnh hưởng đến tổng thể – và ngược lại tổng thể cũng ảnh hưởng đến con. Do đó, bất cứ điều gì con làm cũng ảnh hưởng chính mình.

Khi con xuống ở tầng 48, con không thấy điều này hạn chế quyền tự quyết hay quyền năng sáng tạo của mình. Con coi như điều đương nhiên là con sống trong một môi trường và con biểu lộ quyền năng sáng tạo của mình trong môi trường đó – không phải như một sinh thể tách biệt có thể làm bất cứ gì mình muốn. Trong bài giảng trước thày gọi đây là sự ngây thơ thiêng liêng, khiến con có trực giác mình thuộc một tổng thể. Bất cứ điều gì con làm ảnh hưởng đến tổng thể và mỗi người trong tổng thể, kể cả chính mình. Vì con thấy mình là một biểu hiện của tổng thể.

7.5. Nhìn mình như một sinh thể tách biệt

Có một khác biệt căn bản giữa kịch bản lý tưởng và thái độ của các đệ tử khi họ đến khóa nhập thất của thày ở Darjeeling và ghi danh học khai ngộ của Tia thứ Nhất. Vì khi con đầu thai vào một hành tinh như trái đất nơi tâm thức con người đã xuống dưới kịch bản lý tưởng, con không thấy mình là một sinh thể nối kết với sinh thể khác. Con thấy mình là một sinh thể tách biệt. Như một sinh thể tách biệt, con nghĩ con có thể tách nguyên nhân ra khỏi hậu quả. Con nghĩ con có thể hành động mà không ảnh hưởng đến chính mình.

Con nghĩ có thể làm một điều mà con thấy có ảnh hưởng rõ trên người khác và môi trường, nhưng con lại nghĩ nó sẽ không ảnh hưởng đến chính mình. Đây chính là bản chất của ảo tưởng tách biệt. Cái mà các thày gọi là tâm thức nhị nguyên biện minh cho ảo tưởng này, từ đó nó biện minh cho những hành động dựa trên ảo tưởng này. Như thày đã nói trước đây, ảo tưởng là tin rằng mình có quyền áp lực người khác nhân danh một đại nghĩa nào đó – tỷ dụ như cứu rỗi thế giới hay truyền bá một ý thức hệ.

Nhưng con thấy chăng, cái sai lầm trong lý luận này là khái niệm có “người khác”. Vì khi con xuống trong sự ngây thơ thiêng liêng, con không thấy những sinh thể có tự nhận biết khác trong môi trường là người khác, theo nghĩa họ tách biệt với mình. Con thấy mọi người là một phần của tổng thể và con là một phần của tổng thể. Con thấy như điều hiển nhiên là những gì con làm ảnh hưởng đến người khác và tuy con có quyền ảnh hưởng người khác, nhưng con không có quyền áp lực họ.

Khi thày nói “có quyền”, thày muốn nói tới quy luật toàn vũ mà Giê-su đã khai bày: Hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho con. Quy luật này giản dị như sau: Cái gì tốt nhất cho con và cho người khác là cái gì tốt nhất cho tổng thể. Tuy nhiên, có khác biệt tinh tế là ở tầng 48 – khi con xuống như một người đồng-sáng tạo mới – con không có kinh nghiệm về quyền năng sáng tạo của mình. Vậy làm sao con có được kinh nghiệm này? Con chỉ có được kinh nghiệm bằng cách thử nghiệm, và đó là lý do vì sao các sinh thể mới đi xuống trong một môi trường được bảo bọc, mà các thày gọi là Trường Bí giáo.

7.6. Mục đích của Trường Bí giáo 

Trường Bí giáo do một vị chân sư thăng thiên giám sát. Chắc con cũng biết là truyền thuyết Vườn Địa đàng trong Sáng-thế Ký (Genesis) là biểu tượng của một Trường Bí giáo. Con chắc cũng biết là Trường Bí giáo được gọi là Đia đàng do một chân sư thăng thiên là thày Maitreya giám sát. Điều thày muốn nói là: trong Trường Bí Giáo, trong môi trường được bảo bọc đó, con có thể làm tuyệt đối bất kỳ điều gì với quyền năng sáng tạo của mình. Con có thể tự do thử nghiệm vì các chân sư giám sát Trường Bí Giáo đã tạo ra một môi trường ảo nằm bên trong môi trường ảo vĩ đại của vũ trụ vật chất.

Trong môi trường đó con có thể làm bất kỳ điều gì con muốn mà không tạo ra hậu quả lâu dài, không tạo ra nghiệp quả lâu dài cho mình. Đó là gì vị chân sư của Trường Bí Giáo cho con một môi trường an toàn giống như một bãi cát nơi đó con có thể làm bất kỳ điều gì con muốn. Con không thể đả thương cát, con không thể đả thương chính mình, con không thể đả thương những trẻ em khác đang chơi trong bãi cát.

Nơi đó con có thể học hỏi mà không tạo hậu quả lâu dài cho chính mình. Con học hỏi mà không tạo nghiệp quả sẽ trở ngược về và đả thương con. Lý do là vì con học dưới sự hướng dẫn trực tiếp của vị thày thăng thiên. Và lý do mà vị thày đó xóa được nghiệp quả mỗi cuối ngày là vì thày giúp con nhìn kết quả của hành động sáng tạo của mình và ngay lúc đó học bài học của ngày sáng tạo đó. Vì một khi con đã học xong bài học, thì đâu có lý do gì nữa để con phải chịu nghiệp quả quay về ám ảnh con? Vì dĩ nhiên mục đích của nghiệp quả, giống như mọi chuyện khác, là giúp con học hỏi.

7.7. Mục đích của nghiệp quả 

Nghiệp quả chỉ cần thiết khi con không chịu nhìn hậu quả của hành động của mình vào cuối ngày học dưới sự hướng dẫn của vị thày. Do đó, con không tạo nghiệp trong Trường Bí giáo. Nhưng một khi các đệ tử quyết định không cho phép vị thày cho xem hậu quả của những nỗ lực sáng tạo của mình – thay vào đó họ che dấu vị thày – thì họ không thể ở lại trong Trường Bí Giáo. Khi đó, làm sao họ học được liệu hành động của họ có hậu quả hay không? Tuy thế nếu hành động của họ có hậu quả tức khắc, thì làm sao họ học được vì trong nhiều trường hợp họ sẽ tự hủy hoại tức khắc? Đó là lý do vũ trụ được thiết lập khiến cho khi con hành động, hành động này có hậu quả vật lý tức khắc trên môi trường và người khác; nhưng nó có thể không có hậu quả vật lý tức khắc trên con. Thay vào đó, con phóng ra một xung lực nghiệp, một xung lực năng lượng, đi vào các tầng cao của vũ trụ vật chất là cõi bản sắc, lý trí và tình cảm. Xung lực đi qua ba tầng này, trước khi chúng trở về con ở tầng vật lý, biểu hiện như một hoàn cảnh vật lý.

Lý do có sự trì hoãn này là để con có cơ hội nâng cao tâm thức mình trong khoảng cách thời gian trước khi nghiệp báo trở về con. Khi nghiệp báo trở về, con có thể làm điều mà thày giảng trong bài trước: con có thể đáp ứng với một mức tâm thức cao hơn tâm thức khi con phóng xung lực ra ngoài. Bằng cách này, phản ứng của con với nghiệp báo sẽ ở tầng cao hơn, có nghĩa là bây giờ con tạo ra một xung lực nghiệp mới ở một tầng cao hơn. Khi xung lực kế tiếp quay trở về, con ở tầng cao hơn lúc đầu. Do đó, con vẫn tiến bộ, dù rất chậm và khó khăn, và thường với nhiều đau khổ. Tuy thế chính con đã lựa chọn rời khỏi Trường Bí giáo.

7.8. Trở lại Trường Bí giáo của Maitreya

Hầu hết mọi người trên trái đất đã rời Trường Bí giáo. Điều con đang làm bây giờ – khi con tới đây ghi danh với Thượng sư Tia thứ Nhất – là con ghi danh trở lại Trường Bí Giáo của thày Maitreya. Nhưng để con có thể trở lại trường, để con hội đủ điều kiện trở lại Trường Bí giáo của thày Maitreya, con phải gom đủ điều kiện bằng cách đi trên con Đường Bảy bức Màn, con Đường bảy Tia sáng dưới sự hướng dẫn của bảy Thượng sư. Lúc đó, khi con tới tầng 96, con sẽ ghi danh với Đại thượng sư, Và khi con đạt được khai ngộ này thì con vào trở lại Trường Bí giáo của thày Maitreya, và thày sẽ dẫn con đi đoạn đường cuối tới tầng tâm thức 144.

Dĩ nhiên là nếu con muốn đạt được khai ngộ ở tầng 96 và trên nữa thì con phải chấp nhận không che giấu bất cứ gì với vị thày. Vì nếu con tìm cách che giấu thì con sẽ sa ngã một lần nữa. Khi đó con sẽ phải trở lại từ đầu, theo học Trường đời Cay đắng cho tới khi con trở lại tầng 48 và ghi danh với Thượng sư Tia thứ Nhất và từ đó đi trở lên.

Có một số dòng sống đã làm điều này nhiều lần. Họ sa ngã xuống tầng tâm thức thấp nhất hay gần đó. Vòng xoắn đi xuống mà họ tạo ra trở nên càng ngày càng mạnh khiến họ rốt cuộc không chịu nổi nữa. Lúc đó, họ bắt đầu nâng tâm thức cho tới khi họ tới tầng 48. Sau đó họ ghi danh với các Thượng sư và dần dần tiến lên dưới bảy tia sáng. Khi họ tới chỗ phải ngưng giấu giếm vị thày, thì lại có điều gì đó mà họ không chịu phơi bày với vị thày. Do đó, họ lại sa ngã và bắt đầu lại từ đầu.

Điều thày không muốn thấy là các con là những người đã ghi danh vào khóa học này – mà các thày đã công bố lần đầu trong cõi vật lý khi cho xuất bản bộ sách này – bị rơi vào khuôn nếp đó. Thầy muốn thấy con phá vỡ khuôn nếp nếu con đã bị ở trong đó, hay không bị nó hút vào nếu con chưa ở trong đó, và con sẽ tới tầng 96 và hoàn toàn sẵn sàng để đạt khai ngộ. Đó là lý do thày cho con lời hướng dẫn này. Thật ra đa số đệ tử sẽ thấy lời hướng dẫn này quá tầng tâm thức của họ. Tuy thế, những điều quá tầng tâm thức trên mặt thực hành vẫn có thể hiểu được, suy luận được.

7.9. Trực giác đi đôi với suy luận

Mặc dù các thày thường xuyên khuyên các con nên tập để trực giác – là cảm giác nội tâm, cũng là sự thơ ngây – bén nhạy hơn, nhưng trực giác đi đôi với lý luận. Lý luận không phải là kẻ thù của tăng trưởng tâm linh; vì nếu con không biết lý luận, thì cách tăng trưởng duy nhất là trải nghiệm tất cả mọi việc. Các con yêu dấu, khi con nhìn cuộc đời hiện đang biểu lộ trên trái đất, chắc con cũng thấy là có một số hành động không có tính cách tâm linh và không giúp con người phàt triển tâm linh? Nhưng con làm sao biết được là một hành động gây tổn hại cho sự phát triển tâm linh của con?

Trong bài giảng trước, thày dạy con một thước đo giản dị: “Sinh hoạt này nâng năng lượng của tôi lên hay hạ năng lượng của tôi xuống?” Đây là một khả năng trực giác, một khả năng trải nghiệm. Con phải sống trong hoàn cảnh thì mới biết là nó hạ thấp hay nâng cao năng lượng của mình. Như vậy có nghĩa là nếu con muốn biết, tỷ dụ, là ăn cắp của người khác nâng hay hạ năng lượng, thì con phải thử mới biết được. Con sẽ phải thử nghiệm chiến tranh và bị mạng vong. Con sẽ phải thử giết người. Con sẽ phải thử nghiệm tất cả mọi sinh hoạt có thể có trên trái đất. Và con có biết là con cần bao nhiêu kiếp để trải nghiệm tất cả những chuyện có thể làm trên trái đất?

Dĩ nhiên là con người càng ngày càng chế thêm nhiều sinh hoạt. Con có thể thấy là hiện nay có không biết bao nhiêu sinh hoạt không thể tưởng tượng được một thế kỷ trước đây, tỷ dụ như trong lãnh vực công nghệ điện toán. Con có thể thấy là con cần vô vàn kiếp sống để trải nghiệm hết mọi chuyện. Do đó, cách duy nhất để không phải trải nghiệm mọi hoàn cảnh là sử dụng khả năng lý luận cao. Đây chính là phương pháp mà vị anh em lẫy lừng của thày là Saint Germain đã đem xuống hành tinh này, tỷ dụ như trong kiếp đầu thai như Francis Bacon là người đã thiết lập nền tảng của phương pháp khoa học. Phương pháp này chủ trương rằng khi con đã làm một số thí nghiệm đưa tới cùng kết quả, con có thể suy luận là điều này sẽ xảy ra trong tất cả hoàn cảnh tương tự. Tỷ dụ, nếu con đã có một hay nhiều kiếp đầu thai như một người nghèo phải ăn cắp để sống, sau khi con đã đầu thai ở hai hay ba nước khác nhau, con có thể suy luận là con không cần phải đầu thai ở tất cả mọi nước trên trái đất, nhưng có thể nói rằng: “Đầu thai vào một môi trường như vậy không giúp tôi phát triển tâm linh, và tôi không cần trải nghiệm tất cả các môi trường này. Tôi có thể suy luận rằng: thế này là quá đủ rồi. Do đó, tôi muốn rời bỏ tầng tâm thức này.”

Bây giờ chúng ta hãy bước thêm một bước nữa và xem xét trường hợp một người có thể đầu thai vào mấy chục ngàn hoàn cảnh trên trái đất mà vẫn ở cùng tầng tâm thức 48. Nhưng con có thực sự cần đầu thai mấy chục ngàn kiếp để nhận ra rằng con không muốn ở tầng tâm thức 48 nữa, mà muốn lên tầng 49? Không, con không cần làm vậy nếu con dùng khả năng suy luận cao của tâm Ki-tô. Lúc đó, con có thể nói: “Thế này là quá đủ rồi. Tôi nay đã biết đủ về tầng tâm thức 48 rồi. Tôi đã khám phá đủ tầng này của tòa nhà rồi. Tôi sẵn sàng tìm ra cầu thang để đi lên tầng trên, nơi tôi có cái nhìn bao quát hơn về môi trường chung quanh và nhiều tự do hơn để sáng tạo.”

Về chuyện quyền lực và lạm dụng quyền lực, con có cần trải nghiệm mọi hình thức lạm dụng quyền lực – trong cương vị hung thủ hay nạn nhân? Hay con dùng khả năng lý luận để nói: “Thưa Chân sư MORE, xin thày chỉ cho con quyền lực được lạm dụng như thế nào. Xin thày chỉ cho con thấy lạm dụng quyền lực vận hành như thế nào để con vượt lên trên nó và vươn lên tầng kế tiếp.”

7.10. Học hỏi khi ở dưới tầng 48

Điều mà thày cho con ở đây giản dị là một khung tham chiếu. Trên trái đất này, con được phép lạm dụng quyền lực bằng cách ép buộc người khác phải phản ứng. Trong Trường đời Cay đắng, con có quyền làm điều này. Con có hiểu chăng?

Các thày là chân sư thăng thiên không áp dụng những quy tắc luân thường đạo lý thông thường của xã hội. Các thày không nói rằng giết người là hợp luân thường đạo lý, nhưng các thày nói rằng với những người ở dưới tầng tâm thức 48, đưa ra một tiêu chuẩn đạo đức cao là điều vô nghĩa.

Nếu con muốn áp dụng thành công tiêu chuẩn này, thì con cần dùng khả năng suy luận. Và nhiều người ở dưới tầng tâm thức 48 không biết dùng khả năng suy luận cao. Họ chỉ thấy những gì có lợi cho họ, nhìn từ góc độ tâm thức hiện tại của họ. Họ không thể tự hỏi có cái gì tốt cho họ dựa trên một quan điểm cao hơn mức tâm thức hiện tại của họ.

Điều mà thày muốn giải thích là: khi một người chưa có hay chưa tác động được khả năng suy luận cao, thì nói với y chuyện phải trái, chuyện phải làm, chuyện phải tránh, là điều vô nghĩa. Điều duy nhất mà chúng ta cần quan tâm là: làm sao y sẽ học hỏi khi ở tầng tâm thức hiện tại? Và điều thày muốn nói là: nếu y không dùng khả năng suy luận – mà mọi người đều có, ngay khi ở tầng tâm thức thấp – thì y chỉ có thể học bằng một cách duy nhất. Cách đó là để y làm bất cứ gì y muốn, dựa trên tầng tâm thưc hiện tại của y, và trải nghiệm nghiệp báo vật lý trở ngược về từ tấm gương vũ trụ.

Nếu một người ở một tầng tâm thức thấp đến độ y nghĩ có quyền giết một người khác để tước đoạt tiền hay tài sản của người đó, và lúc đó có một người tới xua tay nói: “Ngươi không được phép làm chuyện này”, thì con có thấy chăng là điều này không ích lợi gì? Người đang muốn giết người sẽ không chịu học hỏi, vì y không có khả năng suy luận. Do đó, y chỉ có thể học bằng một cách duy nhất, đó là giết người và sau đó chịu nghiệp báo.

Con có thấy chăng tuy hành động giết người là điều sai theo quan điểm cao, nhưng ở tầng tâm thức nào đó, chỉ có cách đó con người mới học hỏi? Thày có thể bảo đảm với con là luật nhân quả áp dụng rất chính xác, do đó nếu một người bị một người ở, tỷ dụ, tầng tâm thức thứ 10 giết, thì người bị giết cũng ở một tầng tâm thức rất thấp. Người đó đã giết người trong một kiếp trước và chuyện xảy ra bây giờ là kết quả của nghiệp báo. Con có thấy chăng: cả người giết lẫn người bị giết đang giản dị học bằng cách duy nhất họ có thể học, đó là thấy nghiệp báo của trạng thái tâm thức của họ?

Đó là lý do vì sao con thấy nhiều người trên trái đất bị giam trong những khuôn nếp cứ lặp đi lặp lại. Họ không tác động khả năng suy luận có thể giúp họ nói: “Tôi chán sống thế này quá rồi. Nhất định phải có một cách sống tốt hơn. Cuộc đời phải có gì hơn nữa. Nhất định phải có một cách học hỏi cao hơn.” Lúc đó, họ có thể dùng khả năng suy luận để tìm ra một giáo lý giúp họ hiểu là có một phản ứng cao hơn cách do tầng tâm thức hiện tại và phàm linh ở đó sai khiến, vì phàm linh này chỉ biết phản ứng một cách mà thôi.

7.11. Phàm linh con tạo ra không thể tự thăng vượt

Con có thấy chăng, như thày đã từng giảng, là khi con xuống dưới tầng 48, những gì tiên đoán về con sẽ trở thành sự thật, vì tâm con là một hệ thống đóng. Con phóng ra một xung lực, và khi tấm gương vũ trụ phản chiếu nó trở về, con phản ứng lại với cùng tầng tâm thức, tạo nên một xung lực khác – và cứ tiếp tục như thế. Đó là vì con tạo ra xung lực qua một phàm linh, và con phản ứng lại xung lực quay trở về với cùng phàm linh đó. Phàm linh này không thể thăng vượt chính nó.

Đây là một điểm rất quan trọng, rất cơ yếu, mà Đại thượng sư đã giảng trong quyển sách của thày [Quyển Trôi theo Dòng sông sự Sống]. Phàm linh mà con tạo ra không thể thăng vượt chính nó vì nó không có khả năng lý luận vượt quá tầng tâm thức của nó và khuôn đúc quy định nó. Nhưng con, cái Ta Biết, có khả năng lý luận vượt lên trên phàm linh. Do đó, cho dù con đang ở một tầng tâm thức nào – tỷ dụ tầng tâm thức thấp nhất – con vẫn giữ được khả năng rút mình ra khỏi phàm linh đang điều khiển cách con nhìn cuộc đời.

Do đó, tuy con không nhất thiết nối kết được với biểu hiện cao nhất của tâm Ki-tô, nhưng con có thể nối kết với tâm Ki-tô ở trên tầng tâm thức hiện tại của con và nhận ra có tầng tâm thức cao hơn. Nếu con nhìn nhận điều này, nếu con hành động theo đó, thì con có thể dần dần phá vỡ vòng vây của phàm linh đang kềm giữ tầm nhìn và sự chú ý của con, giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Đây là một khả năng cơ yếu, một cứu tinh giúp con thoát vòng xoáy đi xuống mà con đã tạo ta khi con lạm dụng quyền lực ở bất cứ tầng nào.

Con có thể lý luận rằng cách con dùng quyền lực đã đưa con tới tình trạng hiện nay. Và điều duy nhất giúp con thoát khỏi tình trạng hiện nay là học dùng quyền lực một cách cao. Điều này sẽ giúp con lên tầng kế tiếp. Sau đó, con lại dùng khả năng lý luận để tiến thêm bước nữa, sau khi đã trải nghiệm việc dùng quyền lực ở tầng cao hơn này.

Con sẽ tới điểm trở lại tầng 48. Lúc đó, con có thể hòa điệu với thày và học dùng quyền lực cùng với khả năng suy luận, bằng cách nghe thày giảng về cách dùng quyền lực đúng và sai. Và đây dĩ nhiên là một phần lý do vì sao thày giảng loạt bài này.

Thày chấm dứt bài gỉảng này và xin con khởi động khả năng nhận diện năng lượng đang lên hay xuống trong con. Con hãy bỏ chút thì giờ xem xét chuyện xảy ra trên thế giới, tỷ dụ như đọc sách về một giai đoạn sôi động của lịch sử, như giai đoạn chiến tranh hay cách mạng và những lạm dụng quyền lực lúc đó. Sau đó, con hãy xem xét: năng lượng nơi tim con lên hay xuống khi con xem xét một hình thức biểu lộ quyền lực nào đó? Khi con nhìn vào cách các nhân vật như Hitler, Napoleon hay một số nhân vật nổi danh khác biểu lộ quyền lực, thì chuyện gì xảy ra với năng lượng nơi tim mình? Năng lượng lên hay xuống? Điều này sẽ giúp con đo lường, và chuẩn bị con cho bài giảng tới của thày.

Uy lực và Ý chí

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 2/2/2013.

TA LÀ Hơn Nữa (More). TA LÀ chân sư. Do đó TA LÀ chân sư của Hơn Nữa. Và thày tới đây để cho con thấy làm sao trở nên hơn nữa với Tia sáng thứ Nhất. Thày sẽ bắt đầu với một khái quát. Các con dĩ nhiên là quen thuộc với giáo lý có 144 tầng tâm thức. Con biết rằng mục đích của loạt bài giảng này, và mục đích của bộ sách mà các thày cho ra mắt, là để chỉ cho con cách đi từ tầng 48 lên tới tầng 96 bằng cách điều ngự các khai ngộ của bảy tia sáng.

Chúng ta hãy xem xét chuyện gì xảy ra khi các con xuống trái đất lần đầu. Như các thày đã nói, khi con xuống trái đất lần đầu tiên, con xuống ở tầng tâm thức 48, nếu con là một dòng sống mới. Trong kịch bản lý tưởng, chuyện gì xảy ra với dòng sống đó? Dòng sống đó xuống với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm và ý niệm là nó nối kết với một cái gì lớn hơn – dù nó không thấy rõ ràng Hiện diện TA LÀ của nó – và nó xuống với mong muốn thử nghiệm các khả năng sáng tạo của nó.

Do đó, ở tầng 48, khả năng quan trọng nhất mà con có một cách tự nhiên, trong kịch bản lý tưởng, là ý chí muốn thử nghiệm. Đó là ý chí muốn thử cái gì mới, và nhìn xem vũ trụ vật chất – mà ta có thể coi là một máy phản hồi vĩ đại – đáp ứng ra sao. Bất cứ cái gì con gửi ra sẽ được tấm gương vũ trụ phản chiếu lại con.

Nếu con nhìn ý chí muốn thử nghiệm dưới một góc độ hơi khác, thì trạng thái tâm thức đó là gì? Đó phần nào là cái mà đức Phật gọi là “sơ tâm” (beginner’s mind). Đó là cái tâm mà Giê-su nói tới khi thày nói rằng trừ phi con trở thành trẻ thơ, con không thể bước vào vương quốc. Trạng thái tâm của con ở tầng 48 là sự ngây thơ, một sự ngây thơ thiêng liêng.

5.1. Tầm quan trọng của sự ngây thơ 

Trong kịch bản lý tưởng, con tiến lên qua các bước khai ngộ của bảy tia sáng mà không mất đi sự ngây thơ này. Dĩ nhiên là con sẽ có thêm kinh nghiệm, nhưng điều này không khiến con mất đi sự ngây thơ, tuy con chắc chắn trưởng thành hơn và khôn ngoan hơn trên một số phương diện. Nhưng con vẫn còn ngây thơ, theo nghĩa con không có những ý định không trong sạch, ích kỷ muốn hạ thấp sự sống khác. Và con cũng không phải tiếp xúc các dòng sống khác có ý muốn chê bai con và các nỗ lực sáng tạo của con.

Con có thấy chăng là trong kịch bản lý tưởng, con có thể mở rộng khả năng sáng tạo của mình, tăng trưởng nhận biết về khả năng sáng tạo của mình, mà không bao giờ phải gặp tư duy – tức là tâm thức – muốn chê bai và phê phán con dựa trên một tiêu chuẩn tương đối, nhị nguyên, theo đó con phải hoặc đúng hoặc sai? Và khi con làm điều gì sai thì có nghĩa là con có cái gì sai.

Dĩ nhiên là con đã tiếp cận với chính trạng thái tâm thức đó trong kiếp này và, thày bảo đảm với con, trong nhiều kiếp trước trên hành tinh này. Con chỉ cần nhìn lại quá trình của trái đất để thấy rằng tâm thức phán xét, đánh giá, chê bai đã thấm đẫm sự sống trên hành tinh này từ khi có lịch sử con người – và thày có thể bảo đảm với con là rất lâu trước đó nữa.

Như các thày đã nói, trái đất hiện nay không theo kịch bản lý tưởng. Ý mà thày muốn gieo như hạt mầm vào tâm trí con là mục đích của con Đường Bảy bức Màn không phải là để tâm đạt được một số khả năng tinh vi làm chủ vật chất qua đó con có thể tạo ra những hiện tượng khác thường nhìn thấy được, khiến người khác nể phục. Mục đích cũng không phải là đạt được sự minh triết đặc biệt nào, sự tinh xảo đặc biệt nào trong chuyện này hay chuyện kia. Mục đích chính của con đường của bảy tia sáng trong tình trạng hiện nay của trái đất chính thực là: lấy lại sự ngây thơ và biểu lộ các năng lượng sáng tạo của bảy tia sáng trong sự ngây thơ hoàn toàn.

Đây dĩ nhiên là một ngã rẽ mới mà nhiều đệ tử tâm linh không nhận ra. Từ hơn một trăm năm nay các thày đã công khai truyền dạy giáo lý của các chân sư thăng thiên qua trung gian nhiều sứ giả và tổ chức. Nhưng ít ai nhận ra là mục đích thật của con đường tu là lấy lại sự ngây thơ đã bị đánh mất, sự ngây thơ thực sự là thiên đàng trên trái đất.

5.2. Thiên đàng bị đánh mất

Làm sao con biểu hiện thiên đàng trên trái đất? Phải chăng là Giê-su có nói là Nước Trời ở trong con? Như vậy phải chăng điều hợp lý là cách biểu hiện thiên đàng trên trái đất là đạt được một trạng thái tâm thức nào đó? Và tâm thức ở Vườn Địa đàng là tâm thức gì? Trước khi con ăn trái cấm và tự đưa mình ra khỏi thiên đàng là Trường Bí giáo của thày Maitreya, con ở trong trạng thái ngây thơ. Đó là một trạng thái ngây thơ thiêng liêng trong đó con tự do thử nghiệm khả năng sáng tạo của mình mà không đánh giá chúng dựa trên một tiêu chuẩn do tâm thức tách biệt nhị nguyên tạo ra.

Con thấy chăng, cái con gặp khi con xuống trái đất là tiêu chuẩn do sa nhân tạo ra, được đặc biệt tạo ra để phá tan sự ngây thơ của những kẻ ngây thơ thiêng liêng. Nó được tạo ra để đảm bảo rằng một khi con đánh mất sự ngây thơ ấy, con sẽ khó lòng lấy lại được.

Con có thấy chăng là lấy lại sự ngây thơ trong môi trường hiện tại trên trái đất, khi con bị tấn công không ngừng bởi người khác hay tà lực tăm tối, là điều rất khó khăn? Hay con bị tấn công bởi đám phàm linh mà thày Đại thượng sư đã phơi bày, đang lởn vởn trong tâm thức tập thể, lúc nào cũng chực dụ dỗ con tham gia vào một cuộc đấu tranh, một trò chơi nào đó để chứng minh điều gì đó đúng hay người khác sai.

Con yêu dấu, hãy nhìn cuộc đời. Con có nhận ra tâm thức này và thấy là nó đã thấm đẫm mọi khía cạnh của xã hội, của sự tương tác giữa con người, và chính con cũng đã gặp nó? Vậy con hãy nghe thày nói là tình trạng của con ngày nay ngược lại với kịch bản nguyên thủy. Trong kịch bản lý tưởng, con khởi đầu với sự ngây thơ, sau đó con tăng trưởng và duy trì sự ngây thơ, đồng thời trở nên trưởng thành và khôn ngoan hơn. Nhưng bây giờ, khi con tới với thày và mong muốn được khai ngộ với Tia thứ Nhất, thì mình có tình trạng gần như đối ngược. Bây giờ con khôn ngoan và trưởng thành, theo nghĩa là con biết nhiều chuyện và có nhiều kinh nghiệm sống trên trái đất, nhưng con đã đánh mất sự ngây thơ.

Con không nên chờ đợi thày có thể giúp con lấy lại sự ngây thơ ở tầng 48, ở khai ngộ đầu tiên. Thày, như Thượng sư đầu tiên, thực sự không thể làm được chuyện này. Con chỉ có cơ hội lấy lại sự ngây thơ của mình khi con đi qua cả bảy tia sáng và đạt tới tầng 96, là nơi con hoàn toàn lấy lại sự ngây thơ khi con xuống trái đất lần đầu.

Đó là lý do vì sao con có thể đạt sự khai ngộ ở tầng 96 mà không dùng những khả năng sáng tạo của mình một cách ích kỷ, hay tệ hơn là một cách hung hãn, với mục đích kiểm soát người khác hay đấu tranh cho một lý tưởng cuồng đại nào đó. Điều này giúp con có một viễn quan dài hạn. Và con cần ghi nhớ một điều quan trọng, đó là – khi con đi trên con Đường Bảy bức Màn – mỗi bước con đi trên con đường tu, con tiến lại gần hơn sự ngây thơ. Con cần suy xét: “Cái gì ngay bây giờ đang lấy đi sự ngây thơ của mình, ở tầng tâm thức hiện tại của mình?”

5.3. Học hỏi ngoài hành động vật lý

Đây quả thực là một điều quan trọng mà con cần ghi nhớ. Có thể là ngay bây giờ con không có một ý niệm rõ ràng, có ý thức, về trạng thái ngây thơ. Có thể là con không thể trải nghiệm, dù chỉ một thoáng, điều mà thày muốn nói khi thày nói tới sự ngây thơ thiêng liêng. Đó là vì tâm con quá đầy những phàm linh đang liên tục hú hét như sài lang, tìm cách kéo con ra khỏi sự ngây thơ. Và cũng có phàm linh khác nói năng với miệng lưỡi tinh vi của rắn, tìm cách dụ dỗ con rơi vào những khuôn nếp cũ, cũng kéo con ra khỏi sự ngây thơ thiêng liêng là quyền bẩm sinh của con.

Tuy nhiên, trong bài giảng này thày sẽ dẫn con đi bước đầu. Con có nhớ là các thày có nói về Trường đời Cay đắng. Và tuy các thày là chân sư thăng thiên có thể giúp đôi chút những người đang ở dưới tầng 48 bằng cách cho họ vài chỉ thị, nhưng thực sự là họ đang ở trong Trường đời Cay đắng cho tới khi họ tới tầng 48. Chỉ khi nào họ từ tầng 47 bước lên tầng 48 thì họ mới hoàn toàn xong xuôi với Trường đời Cay đắng và ghi danh vào con Đường Bảy bức Màn. Đó là lúc họ có thể tham dự các khóa nhập thất trên cõi bản sắc của các thày, và qua đó đạt được cái biết nội tâm vì họ ghi nhớ nội dung bài học, tuy họ không nhớ được chi tiết các chỉ thị.

Lúc đó họ có thể tỉnh giấc với một cái biết nội tâm, tuy họ không nhớ vị thày đã nói gì và dạy điều gì. Nhưng họ biết là có cái gì đó thật, biết có cái gì đó đúng và muốn áp dụng nó vào đời mình. Lúc đó, tâm thức họ chuyển dời và họ ý thức được điều đó.  

Điều thày muốn nói rất giản dị. Trong Trường đời Cay đắng, con chủ yếu học qua hành động. Con hành động và thấy hậu quả – hay ít nhất là con gặp một kết quả vật lý – và sau đó con có cơ hội học hỏi hay không học hỏi bằng cách lượng định kết quả. Nhưng khi con lên đến tầng 48, con không còn chủ yếu học hỏi qua hành động vật lý bên ngoài. Tiến trình học hỏi của con lúc đó xảy ra bên trong – trong tâm con – bằng cách con lượng định những gì xảy ra trong tư tưởng và cảm xúc của con, hơn là hành động vật lý, tuy con dĩ nhiên vẫn sống trong cuộc đời. Quan tâm chính lúc đó là học hỏi bằng những cách khác hơn là hành động vật lý.

Chắc con cũng thấy là học hỏi qua hành động vật lý là một cách học rất khổ nhọc. Vì con gửi đi một xung lực tới tấm gương vũ trụ, và sẽ có một khoảng thời gian trước khi xung lực trở ngược về con dưới hình dạng một cảnh ngộ vật lý. Nếu con không nhớ xung lực mà con đã gửi đi thì con không nhận ra sự liên hệ giữa xung lực này và nghiệp quả vật lý đang quay ngược trở lại. Và do đó con không dễ nhận ra là con cần thay đổi tâm thức như thế nào để tránh không bị nghiệp quả từ vũ trụ quay ngược về mình. Vậy chuyện gì xảy ra khi con tốt nghiệp Trường đời Cay đắng và vào Trường Chỉ đạo Nội tâm? Lúc đó con bắt đầu có cái biết nội tâm khiến con không cần phải có nhiều hành động vật lý. Vì con có thể nhận ra và tỉnh ngộ: “À há, cái này không đưa tới kết quả tốt, cái này không dẫn tôi tới nơi tôi muốn đến trong cuộc đời này.” Tại đây, thày muốn con nhận ra khai ngộ đầu tiên mà con sẽ gặp ở tầng tâm thức 48.

5.4. Khai ngộ đầu tiên ở tầng 48

Chắc con có nghe nói là Tia thứ Nhất hay được gọi là tia sáng của uy lực và ý chí. Con có thể thấy là khi con xuống trái đất ở tầng 48 như một dòng sống mới, thì dĩ nhiên là con phải thí nghiệm. Con phải tạo một viễn quan, sau đó con phải dùng ý chí phóng chiếu hình ảnh đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật để tạo ra một phản hồi nào đó từ Ánh sáng Mẫu-Vật.

Con cảm thấy con cần biểu lộ uy lực khi con là một đệ tử mới. Nhưng khi con không ở trong kịch bản lý tưởng, thì thực sự là con cần kềm lại sự biểu lộ uy lực của mình và cân nhắc trước khi con biểu lộ điều gì. Con dĩ nhiên cũng biết là Tia thứ Nhất, giống như các tia khác, tương ứng với một luân xa. Và luân xa tương ứng với Tia thứ Nhất là luân xa cổ họng, nằm ở trên trung tâm phát âm.

Do đó, một trong những cách chủ yếu để biểu lộ uy lực là bằng giọng nói, và đặc biệt là bằng lời nói. Dưới tầng 48, con chủ yếu học hỏi qua hành động vật lý, nhưng ở tầng 48 và bảy tầng trên đó, con cần chú tâm đến cách con biểu lộ uy lực qua luân xa cổ họng và lời nói. Như Giê-su có nói: “Qua lời nói con sẽ được minh chính; qua lời nói con sẽ bị lên án”. Đây là một nguyên tắc quan trọng mà con cần ghi nhớ – tuy không có ai ngồi đây để lên án con cả. Thày là chân sư More, thày không lên án con. Thày muốn con nhận biết có ý thức một khả năng mà con đã có và đã sử dụng, để con tới mức mở tâm đón nhận lời chỉ dạy của thày. Đó là khả năng cảm nhận năng lượng nơi luân xa trái tim của con.

Nếu con chú tâm vào luân xa tim của con, con sẽ có thể cảm nhận có ý thức là năng lượng đang dâng lên hay hạ xuống. Con cũng có thể cảm nhận điều này khi con nghe bài truyền đọc này, tức là con cảm thấy năng lượng dâng lên cao hơn bình thường. Con cảm được một dòng chảy đi lên, một chuyển động đi lên. Con cũng có thể cảm thấy nó như một vòng xoắn ốc đang lên dần từ khi con bắt đầu nghe hoặc đọc bài giảng này. Con dĩ nhiên sẽ nhận ra là tác dụng mạnh nhất xảy ra khi con nghe lời giảng, nhưng ngay cả khi con đọc hay chú tâm, con cũng cảm được là năng lượng đang dâng lên hay hạ xuống. 

Đây là một khả năng mà con đã sử dụng nhiều lần trong đời, nhưng có thể con không biết đến nó một cách ý thức. Dù vậy, nó là một thước đo cơ yếu giúp con đi từ tầng 48 lên tầng 96: con chỉ cần giản dị cảm nhận điều gì đang nâng lên hay hạ xuống năng lượng nơi tim con.

5.5. Cách con sử dụng lời nói 

Điều thày muốn con làm là có ý thức hơn khi con áp dụng khả năng này vào việc phát ngôn, tức là nội dung lời nói và cách con nói. Con dĩ nhiên đã nhận ra là con biết ngay khi người khác nói với một giọng khiến con phản ứng và cảm thấy năng lượng xuống thấp, có thể khiến con cảm thấy giận hay bực bội. Con đôi khi cũng cảm thấy được là điều người khác nói khiến con cảm thấy xuống tinh thần, chán chường hay không xứng đáng.

Con biết là điều đang xảy ra rất giản dị. Những người này đang phóng một làn sóng năng lượng tới con, và khi nó vào trường năng lượng của con, nó tức khắc có tác dụng nâng lên hay hạ xuống năng lượng của con. Sau đó, con có thể làm ngược lại và nhận ra là cách con nói với người khác cũng phóng một xung lực năng lượng vào trường năng lượng của họ và gây một tác dụng.

Dĩ nhiên là có nhiều tác dụng vi tế xảy ra, nhưng ở đây thày chỉ muốn con chú tâm vào một lượng định giản dị: năng lượng của con đang dâng lên hay hạ xuống? Điều mà con có thể nhận ra, khi con nghĩ và hòa điệu với việc này, là điều con nói với người khác cũng có một tác dụng tức khắc trên con. Lời nói của con không chỉ ảnh hưởng người khác; nó ảnh hưởng luôn cả chính con. Đây là khai ngộ đầu ở tầng thứ 48. Con hãy nhận ra cách con dùng lời nói và giọng nói như một phương tiện chuyên chở năng lượng, một máy phát sóng năng lượng gửi tới người khác và có thể tới toàn vũ trụ.

Dĩ nhiên là các thày cũng đã giảng về tầm quan trọng của việc thỉnh cầu năng lượng tâm linh qua luân xa cổ họng, là luân xa uy lực, khi con đọc các bài chú và bài thỉnh. Một lợi ích lớn khi con đọc bài chú bài thỉnh – và khi con biết đọc cách nào hữu hiệu nhất – là con sản xuất và phóng đi làn sóng năng lượng có tác dụng nâng mọi sự sống lên. Và nó cũng có tác dụng nâng chính con lên.

Do đó, khi con đọc bài chú bài thỉnh, con tự tạo một khung tham chiếu giúp con biết khi nào giọng nói của con nâng cao năng lượng hay ngược lại. Có nghĩa là con dùng những gì con cảm thấy trên chính con khi con đọc bài chú bài thỉnh như một khung tham chiếu rất hữu hiệu để lượng định cách con dùng trung tâm uy lực trong các hoàn cảnh sống khác.

Con sẽ bắt đầu cảm thấy tức khắc là điều con nói và giọng nói có thể hạ năng lượng con xuống tức khắc. Và đây là lúc con cần nhận ra điều này một cách ý thức. Như thày đã nói trong bài giảng đầu, sẽ có một lúc con cần lấy một quyết định có ý thức: “Điều này có đưa tôi đến nơi tôi muốn tới không, hay sẽ cản trở sự tiến bộ của tôi?” Dĩ nhiên là điều gì hạ năng lượng của con, hay phóng ra một xung lực năng lượng hạ năng lượng của người khác, sẽ không đưa con tới chỗ con muốn tới – nếu con muốn đi từ tầng 48 lên tầng 96.

5.6. Mô thức luẩn quẩn hành động-phản ứng

Nếu con muốn thăng vượt tâm thức hiện tại của con thì con không muốn ở trong Trường đời Cay đắng là nơi con học bằng cách phóng tâm thức hiện tại của con về phía tấm gương vũ trụ và thấy cái gì quay ngược về con. Con muốn đi theo một vòng xoắn tích cực trong đó con bắt đầu hành động và phản ứng dựa trên một tâm thức cao hơn tâm thức hiện thời của con.

Con có thấy một quy luật tự nhiên giản dị chăng? Vũ trụ là một tấm gương. Nếu con gửi ra một xung lực năng lượng ở một tần số rung động tương ứng với một tầng tâm thức nào đó, thì cái gì sẽ quay ngược về con? Đó là một phản ứng cùng tần số rung động. Và điều gì sẽ xảy ra khi phản ứng từ vũ trụ quay ngược trở về con? Con sẽ phản ứng lại phản ứng này với tâm thức của con lúc đó, có nghĩa là con lại tạo một xung lực ở cùng tầng tâm thức. Tới bao giờ con mới thoát cỗ máy lôi cuốn khiến con liên tục phản ứng lại một phản ứng của một phản ứng của một phản ứng – có thể đã bắt đầu từ rất lâu trước đó như một hành động. Nhưng sau đó thì chỉ toàn là phản ứng.  

Con phải tìm ra một cách để phá vỡ cái vòng phản ứng này, nhưng con làm sao đây? Con phải làm chủ tâm mình một cách ý thức, để lần sau khi tấm gương vũ trụ gửi trả  điều gì, con sẽ không phản ứng với cùng tầng tâm thức đã tạo ra xung lực. Trái lại, con có thể phản ứng ở tầng cao hơn, có nghĩa là con tạo ra một xung lực ở tầng tâm thức cao hơn – và đây là điều con gửi ra ngoài, như vậy điều được trả về cũng cao hơn. Đâu có cách nào khác để phá vỡ vòng tròn luẩn quẩn của phản ứng lại phản ứng, phải không con?

Con thấy chăng, để thay đổi phản ứng, con phải ngừng không phản ứng nữa và thay vào đó, hành động ở tầng cao hơn. Nhưng con chỉ làm được điều này khi con vươn lên một tầng tâm thức cao hơn. Và bước đầu trong tiến trình này là gì? Như thày đã nói, đó là thẩm định mọi thứ con gửi ra, đặc biệt là lời nói, và cân nhắc: câu này nâng năng lượng lên hay hạ xuống?

Đây là chỗ chúng ta phải bắt đầu khi con tới và ghi danh vào khóa nhập thất của thày ở Darjeeling. Ở đó, thày quả thực có một căn phòng trong đó mình có khả năng thấy được xung lực năng lượng mà con gửi ra qua giọng nói. Chắc chắn là con cũng đã thấy trên trái đất ứng dụng trên máy điện toán vẽ ra hình nhiều màu trên màn ảnh khi con chơi nhạc. 

Thày có một căn phòng hình cầu, và nửa quả cầu đó là một màn ảnh vĩ đại chiếu lên những hình ảnh dựa trên những âm thanh mà con gửi đi về phía màn ảnh. Qua đó, con có thể thấy tác dụng của âm thanh mà con gửi đi với giọng nói của mình. Cách giảng huấn này rất có hiệu quả với những người chưa bao giờ nghĩ tới điều này và tác hại mà lời nói con người có thể gây ra khi gửi đi những xung lực trái điệu và chát chúa làm xáo trộn tất cả mọi sự sống.

5.7. Uy lực của giọng nói con người

Chắc hẳn con có nghe tới những nghiên cứu khoa học về ảnh hưởng của một số loại nhạc trên cây cỏ, khả năng học hỏi của trẻ em, hay hình kỷ hà trên mặt nước. Con biết là âm thanh có uy lực, và cách dũng mãnh nhất mà con tạo âm thanh là bằng giọng nói.

Dĩ nhiên là con không để ý đến những chuyện này. Con dùng lời nói suốt ngày, và con nghĩ tác dụng duy nhất là những gì có thể thấy và nghe được. Lời con nói có tác dụng trực tiếp gì trên người khác chăng, có ảnh hưởng cách họ phản ứng và trả lời lại con chăng? Nhưng con hãy nghĩ xem, một xung lực năng lượng được gửi đi sẽ lan ra như những vòng trên mặt nước, và sẽ đi rất rất xa khắp vũ trụ, tạo ra nhiều tác dụng rất sâu xa.  

Nếu con có thể cùng thày bay lên trên bầu khí quyển của trái đất, và nếu con có thể thấy, như thày có thể thấy, những làn sóng âm thanh do con người tạo ra, thì con sẽ thấy một hình ảnh khá giống hình ảnh địa cầu ban đêm chụp từ vệ tinh cho thấy các khu vực, đặc biệt chung quanh các thành phố lớn, giống như mạng ánh sáng tinh vi. Con sẽ thấy là các làn sóng âm thanh do nhân loại tạo ra cũng hợp thành những hình kỷ hà tinh vi, dĩ nhiên là tập trung vào các thành phố lớn nơi nhiều người tụ tập.

Nếu con có thể thấy hình dạng và màu sắc của các làn sóng âm thanh đó, con sẽ thấy tác dụng tại hại mà con người tạo ra hàng ngày bằng lời nói. Con sẽ rất kinh ngạc. Và nếu con có thể thấy tác dụng này, thì con sẽ nhận ra là con sống trong một nồi cháo năng lượng được liên tục tạo ra và củng cố bởi lời nói con người.

Con sẽ nhận ra là có những cách nói tạo ra vòng xoắn năng lượng đi xuống, nhập vào các vòng xoắn năng lượng tiêu cực của hành tinh. Do đó các vòng xoắn này trở thành đường hai chiều, vì người nói không chỉ gửi đi năng lượng mà còn nhận ngược lại năng lượng từ các vòng xoắn của tâm thức tập thể. Do đó mở đường cho các phàm linh trong tâm thức tập thể xâm nhập trường năng lượng của mình.

Con có đã từng trải nghiệm nơi chính mình, hay thấy nơi người khác, là có lúc con bị giam hãm trong một khuôn nếp khiến con không thể ngừng nói về một số đề tài? Giống như là họ không tự kềm chế được; họ phải nói cái gì đó; họ phải nói về đề tài đó. Và mỗi ngày họ lại phải nói thêm về đề tài đó, và phải tiếp tục cũng cố nó tuy họ không có gì mới để nói. Ho cứ phải lặp đi lặp lại hoài chuyện đó vì nó khuấy động năng lượng.

5.8. Ảnh hưởng của phàm linh hung hãn

Thày có thể bảo đảm với con là mỗi khi – và thày muốn nói thực sự là mỗi khi – con cảm thấy bắt buộc phải nói một số chuyện, đặc biệt là chuyện không tích cực, thì đó là vì trường năng lượng của con đã bị một phàm linh hung hãn xâm nhập. Nó muốn con nói chuyện này vì như vậy nó được năng lượng. Đây là một điều mà con sẽ học nhận ra, bằng cách thẩm định năng lượng lên hay xuống nơi tim. Mỗi khi năng lượng xuống, thì con biết là năng lượng đó đi đâu. Và con sẽ học nhận ra là khi năng lượng bị hút ra khỏi tim, thì có một phàm linh hung hãn đang hút năng lượng ra khỏi trường năng lượng của con.

Đó là lý do vì sao con có thể nhận ra mô thức là khi con nói điều gì hay với người nào một cách giận dữ hay khinh miệt, con cảm thấy mình tạm thời có thêm uy lực, giống như là cơn giận hay sự khích động cho con thêm uy lực, cho giọng nói nhiều sức mạnh hơn thường ngày. Nhưng cái giá con phải trả là khi sự bùng nổ hết thì cảm giác xung khởi – một sự xung khởi giả tạo – cũng biến mất. Khi đó, giống như với tất cả mọi xung khởi giả tạo, con sẽ cảm thấy xuống tinh thần. Con có thể học nhận ra mô thức xung khởi và xuống tinh thần này và nhận ra trạng thái gọi là xung khởi – và ngay cả khi con nói với sức mạnh của phàm linh hung hãn – không thực sự nâng năng lượng của con lên. Con có thể học nhận ra rằng tuy có sức mạnh nào đó tuôn chảy qua con, đó không phải là năng lượng cao. Do đó, tuy con phóng ra nhiều dung lượng hơn, nhiều năng lượng hung hãn hơn, nhưng nó không nâng năng lượng nơi tim con lên – và nó cũng không nâng độ rung của năng lượng.

Con yêu dấu, con sẽ thấy có sự khác biệt giữa tần số và âm lượng của sóng âm thanh. Một âm thanh thấp có tần số thấp vẫn có thể nghe to. Nhưng tần số không cao hơn khi con nâng âm lượng lên.

5.9. Tự nhận biết nhưng không cảm thấy tội lỗi

Thày cần con bất đầu xem một cách nhẹ nhàng cách mình nói, xem cách con dùng giọng nói, và nhận ra là nó nâng cao hay hạ thấp năng lượng của mình. Nhưng thày không cần con – thày không muốn con – lên án, chỉ trích, hay trừng phạt mình. Con yêu dấu, con có hiểu chăng là các thày là thày tâm linh cần giữ một thăng bằng tế nhị? Các thày không thể giúp con nếu không chỉ cho con thấy những điều con cần sửa. Nhưng khi con mới bắt đầu nhận chỉ thị của các thày, có thể là khi các thày chỉ cho con thấy điều con cần sửa, thì con kết nối với một số mô thức tâm lý trong tâm mình. Như thày đã nói, con không thể sống trên hành tinh này mà không tiếp xúc với cái năng lượng rất hung hãn và lên án này.

Khi thày nói với con về nhu cầu thẩm định cách con dùng giọng nói, có thể là con có khuôn nếp trong trường năng lượng khiến con nhận ra là con đã không dùng giọng nói của mình một cách cao nhất. Điều này có thể nối kết với những vết thương xúc cảm khiến con nghĩ con phải cảm thấy tội lỗi, phải lên án mình, phải cảm thấy giận mình, phải sợ chuyện gì sẽ xảy ra, có thể là thày, Chân sư More, sẽ lên án con. Nhưng thày không lên án con. Thày không phán xét con. Thày không có nhu cầu phán xét con. Đây không phải là đức tính của Tia thứ Nhất hay các tia khác.

Thày chỉ tìm cách giúp con ý thức rõ hơn, để con quyết định con muốn tiếp tục khuôn nếp cũ hay thăng vượt nó một cách ý thức, bằng cách nhận ra rằng: “Cái này không phù hợp với tôi nữa. Nó không biểu hiện con người tôi nữa. Nó không phản ánh hình ảnh tôi có về mình nữa. Vì tôi đã trải nghiệm sự hiện diện của Chân sư MORE, và tôi biết Chân sư MORE không lên án, chỉ trích hay chê bai tôi.”

Con yêu dấu, con có thấy chăng là thày chỉ muốn nâng con lên. Thày là một chân sư thăng thiên. Thày không muốn hạ thấp bất cứ sự sống nào. Thày chỉ mong muốn nâng mọi sự sống lên. Con xứng đáng để được nâng lên. Con đã sẵn sàng để được nâng lên vì nếu không, con đã không đọc hay nghe bài giảng này. Chuyện giản đị như vậy đó.

5.10. Phương trình của sự xứng đáng

Con có hiểu chăng phương trình rất giản dị? Nếu con đã sẵn sàng nghe lời thày dạy, thì con đã xứng đáng thăng vượt, con có khả năng thăng vượt tầm tâm thức hiện tại của mình. Do đó chỉ còn một câu hỏi mà thôi. Con có muốn thăng vượt tầng tâm thức hiện tại của con không? Thày cho con biết giải đáp giản dị là gì. Nếu con muốn nghe bài giảng này thì con cũng có uy lực để thực thi nó. Con chỉ cần muốn một cách ý thức thực thi lời thày giảng và bỏ lại đằng sau ý niệm bản ngã cũ, phàm linh cũ, ở tầng tâm thức hiện tại của con.

Thày không chờ đợi là đa số người đọc hay nghe bài giảng này có thể bỏ lại đằng sau phàm linh của họ. Những chữ thày nói ở đây chỉ có mục đích giúp con hòa điệu tâm thức của con với Hiện diện của thày, giúp con có thể ban đêm tham dự nhập thất của thày. Vì chính nơi đó là nơi thày giúp con thấy được phàm linh, và sau đó tách mình ra khỏi nó. Vì, con yêu dấu, chắc con đã nhận ra là thăng vượt phàm linh không khó. Con chỉ cần nhìn thấy nó từ bên ngoài, như vậy con thấy nó không phải là con. Và khi con biết phàm linh không phải là con, thì con có thể cho nó chết đi mà con không chết. Con sẽ tái sinh với một ý niệm bản ngã cao hơn.

Thày có rất nhiều kinh nghiệm với tiến trình này. Thày có nhiều kinh nghiêm giúp đệ tử trải qua tiến trình này. Có thể là con không ý thức là con đang theo tiến trình này, nhưng thày bảo đảm với con là khi con ghi danh theo học với thày – bằng cách đọc các bài thỉnh trong quyển sách này và xin được dẫn tới khóa nhập thất ở Darjeeling ban đêm – thì con sẽ đi theo tiến trình này.

Thày sẽ giúp con. Thày đang giúp con. Thày đã giúp con. Vì nếu không làm sao con có thể hòa điệu với bài giảng này bằng tâm vỏ ngoài của con? Nguyên nhân dẫn tới hậu quả. Nếu con chưa sẵn sàng ở các tầng cao của tâm con – ở các tầng bản sắc, lý trí và tình cảm – thì con đã không thể tìm ra và học giáo lý này ở tầng ý thức.

Con chỉ cần hòa điệu với sự sẵn sàng và ý muốn đã có mặt nơi các tầng cao của tâm con, và nhận ra rằng, như thày đã nói trước đây, khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày xuất hiện. Có nghĩa là vì thày đã xuất hiện trước mắt con ở tầng ý thức, thì con biết là thày đã làm việc với con ở ba tầng cao một thời gian rồi, trước khi con có thể nhận ra thày. Do đó, con đã sẵn sàng đem những thành đạt ở ba tầng cao hơn xuống tâm ý thức của con và nhận ra con là đệ tử của Chân sư MORE.

Con xứng đáng là đệ tử của thày. Con đã xứng đáng rồi, bằng không con đã không nhận được bài giảng này. Vậy con hãy bỏ đi nhu cầu chỉ trích hay chê bai mình. Con hãy áp dụng phương pháp thiết thực và tự hỏi: Làm thế này thành công hay không thành công? Chuyện này nâng cao hay hạ thấp năng lượng? Lời nói của tôi có đưa tôi đến nơi tôi muốn tới hay không?

Nếu con thấy khuôn nếp nói năng nào không đưa con tới chỗ con muốn tới, thì con hãy xin thày – với tâm ý thức của con – dẫn con tới khóa nhập thất Darjeeling và giúp con vượt qua chúng. Con sẽ ngạc nhiên – nếu con chịu đọc lời cầu nguyện đơn giản và bài thỉnh – thấy rằng con sẽ dễ dàng buông bỏ những khuôn nếp cũ, và con sẽ bắt đầu chuyển hóa cách nói chuyện của mình sau một thời gian ngắn. Thực sự là có lý do tại sao các thày tâm linh rất ít nói. Vì thực sự là không có nhiều điều đáng nói.

Thày không muốn nói là thày muốn các đệ tử của thày im lặng. Nhưng những điều cần nói ít hơn những điều được nói ra hàng ngày rất nhiều. Vì nhiều điều được nói ra không phải là từ hai con người đối thoại với nhau; đó là phàm linh hung hãn nói với nhau qua trung gian con người. Và thày tin rằng đây là một trò chơi mà con không còn muốn chơi nữa.

Thày là một chân sư có thể giúp con phá tan vòng xoắn cũ, để con xây dựng một vòng xoắn tích cực trong đó giọng nói của con chỉ nâng cao năng lượng của mình và của mọi sự sống chung quanh con. Giọng nói con sẽ đột nhiên trở thành cánh cửa mở để năng lượng của bảy tia sáng biểu lộ trong cõi vật chất. Năng lượng này sẽ gia tốc độ rung của mọi năng lượng trong cõi vật chất. Con sẽ trở thành thiện nghệ trong việc này.

Con có thể sử dụng giọng nói như một sức mạnh nâng mọi thứ lên, một sức mạnh hơn tất cả những gì mà nhân loại đã từng có. Sức mạnh này sẽ giúp lan tỏa ánh sáng, chuyển hóa địa cầu và thị hiện ở cõi vật lý Thời Hoàng kim của Saint Germain, vị anh em lừng lẫy của thày. Đúng vậy, đây là tiềm năng cao nhất của giọng nói con người. Con có tiềm năng này, và thày LÀ vị chân sư có thể dạy con thực hiện tiềm năng, nếu con sẵn sàng. Và thày tin là con sẽ sẵn sàng khi con bắt đầu nhận ra uy lực thực của giọng nói con người, thực sự là cánh cửa mở đón nhận giọng nói của Thượng đế, khiến con sẽ nói: “Vì miệng của Thượng đề đã nói điều này, Amen.”

Tia thứ Nhất: Một quan niệm không đường thẳng về nghiệp quả

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 17/4/2009.

TA LÀ HƠN NỮA. Các con phải biết là thày tới mau chóng và ra đi cũng mau chóng. Khi thày đã nói những gì cần nói, thày không quan tâm các phép lịch sự thông thường đòi hỏi phải chấm dứt một cách nào đó. Khi chuyện đã quá đủ, thì thày chuyển sang chuyện khác.

Đây là một lời gợi ý cho tất cả các con. Khi đã quá đủ thì con hãy chuyển sang chuyện khác. Con hãy vứt bỏ cùm xích của bất cứ tâm thức nào mà con đã chấp nhận. Con có quyền có bất cứ trải nghiệm nào mà con muốn, nhưng con phải biết là khi con đã trải nghiệm đủ một kinh nghiệm nào đó, thì con thực sự có thể chuyển sang chuyện khác.

Đó là chìa khóa chủ yếu cho sự chữa lành. Đó là chìa khóa để phục hồi sự chữa lành thực sự. Con hãy nhìn xem con người tìm sự chữa lành như thế nào trên trái đất này. Các con hãy xem xét ngành y khoa mà các con có ngày hôm nay. Họ ngầm hứa hẹn điều gì? Họ hứa hẹn là khi cơ thể con có bệnh, họ có thể cho con một phương pháp máy móc để chữa lành. Con không cần giải quyết tâm thức đã kết đọng thành căn bệnh trong cơ thể. Con không cần xem xét cây đà trong chính mắt mình.

Đó là điều họ hứa hẹn. Có phải chăng đây cũng là điều mà nhiều tôn giáo đã hứa hẹn qua các thời đại? “Nếu quý vị theo tôn giáo của chúng tôi, nếu quý vị tuân theo các luật lệ và quy tắc mà chúng tôi đề ra, thì một ngày nào đó quý vị sẽ được vào nước Trời mà không cần xem xét cây đà trong chính mắt mình.”

Ấy, đó chính là lời hứa hẹn. Đã có bao nhiêu người tin lời hứa hẹn đó để rồi khám phá – sau kiếp sống này – là đây là một lời hứa giả và họ phải trở lại đầu thai trên trái đất? Họ càng ngày càng nghi ngờ các tôn giáo, vì họ thấy tính chất đạo đức giả của tôn giáo khi chính các giáo sĩ cũng tin rằng chỉ cần tuân theo các nghi thức bên ngoài. Họ nghĩ họ có thể làm bất cứ điều gì nếu họ không bị lộ tảy vì có thể trốn sau bình phong của giáo hội, tỷ dụ như trường hợp giáo hội Công giáo và nạn xâm phạm trẻ em tràn lan khắp giáo hội, quả đã xúc phạm những gì Giê-su chủ trương. Phải chăng là Giê-su có nói rằng tội tổn thương trẻ em nặng hơn tội bị đeo gông vào cổ và vứt xuống biển?

Con cũng thấy điều này nơi nhiều giáo hội khác, tỷ dụ như khi một mục sư trong một giáo hội cực chính thống đã bị lật tảy khi nói rằng: “Con có thể là một người của Thượng đế và vẫn có thể có các thú vui bên lề.” Quả là một sự đạo đức giả khi họ tuyên bố có thể đại điện Thượng đế đồng thời nghĩ rằng Thượng đế sẽ không thấy những gì họ che giấu khỏi con mắt người đời. Thượng đế không ở trên trời nhìn xuống con, nhưng Thượng đế bên trong con, đợi khi con tìm cầu Người Tình Thiêng liêng thương yêu con như là người con trai hay con gái yêu dấu.

5.1. Lòng chân thật là căn bản của sự chữa lành

Để phục hồi sự chữa lành thực sự, chúng ta cần bắt đầu với một nền móng vững chắc. Chúng ta cần bắt đầu với Tia thứ Nhất của ý chí của Thượng đế. Vậy, đặc tính của Tia thứ Nhất là gì? Con có thể nghĩ đó là ý chí của Thượng đế, con có thể nghĩ đó là uy lực của Thượng đế, nhưng ta có nên nghĩ tới đặc tính khác là sự chân thật chăng?

Con yêu dấu, phải chăng chân thật là một đặc tính của Tia thứ Nhất? Nó phải chăng là một biểu hiện của ý chí và uy lực cửa Thượng đế? Cốt lõi của lòng chân thật là gì? Phải chăng là sự nhập một với ý chí của Thượng đế? Thượng đế đúng thực là sinh thể chân thật tối hậu – vì Thượng đế không thể che giấu điều gì với chính mình.

Con có lẽ đã nghe người ta dùng lý trí đường thẳng hỏi câu này “Nếu Thượng đế toàn năng, thì Thượng đế có thể tạo chăng một tảng đá lớn đến độ chính ngài không thể nâng lên được?” Thượng đế là cái Một, do đó Thượng đế không thể tạo ra cái gì có thể che giấu khỏi mắt ngài – do đó ngài là tính chân thật. Con hãy xem xét cốt lõi của sự gian dối. Đó là niềm tin có thể che giấu một điều gì đó, có thể nói và làm một đàng và nghĩ một nẻo. Quả thực là khi con rắn nói chuyện với E-và, nó đã giả dạng là một người tới giải phóng, tới để giải thoát nàng khỏi cùm xích của vị thày tâm linh trong vườn địa đàng. Ngay nơi đó nó đã tạo nền móng của bệnh tật – với sự gian dối, với ảo tưởng là có thể che giấu một điều gì đó.

Con hãy xem xét lòng chân thật và luật tự quyết cho con quyền có bất cứ trải nghiệm nào mà con mong muốn, cho con quyền bước lên sân khấu cuộc đời và khoác vào bất cứ bộ áo tuồng nào mà con muốn trải nghiệm. Không có gì sai trái, không có gì tội lỗi – hay bất cứ danh từ nào khác mà người ta muốn dùng – khi con thử khoác vào nhiều bộ áo tuồng trên sân khấu cuộc đời. Thượng đế đã cho con quyền làm điều này.

Khi con bắt đầu tin rằng con bị kẹt trong một bộ áo tuồng nào đó và có một lực bên ngoài ngăn chặn không cho con chuyển sang chuyện khác, thì sự gian dối xuất hiện. Vì sao thày nói đây là sự gian dối? Bởi vì khi con nhìn sự việc một cách thiết thực, thì con nhận ra là Thượng đế đã cho con quyền tự do tuyệt đối thử bất cứ bộ áo tuồng nào mà con mong muốn. Thượng đế không ép con phải thử bất cứ bộ áo tuồng nào, và điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là chính con đã chọn lựa bộ áo tuồng mà con đã mặc vào.

Khi con xây dựng niềm tin là con đã không chọn lựa hoàn cảnh hiện tại của mình – nghĩa là hoàn cảnh hiện tại của con không phải là hậu quả của những chọn lựa trong hiện tại và quá khứ của con – thì con tự đặt mình vào thế kẹt mà các thày đã gọi là thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu con nghĩ là có một lực bên ngoài đã đặt con vào hoàn cảnh hiện tại của mình, thì ai sẽ có thể giải thoát con ra khỏi hoàn cảnh đó? Theo đúng lý luận hợp lý thì phải nói đó là một lực bên ngoài, phải không con? Điều này có nghĩa là con đã trao đi quyền thay đổi hoàn cảnh của con. Con đã tự đặt mình vào thái độ tiêu cực chờ đợi một lực bên ngoài nào đó thay con hành sự. Con đã làm một điều mà con cũng có quyền làm – đó là trao cho một lực bên ngoài quyền tự quyết của mình.

Thày nhắc lại là Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Con có quyền làm điều trên. Như thày Maitreya đã giảng trong quyển sách của thày, con có quyền quyết định là con không muốn quyết định. Con có thể lấy quyết định là con không muốn quyết định nữa. Lúc đó, con tạo ra hình ảnh khô chết về một quyền lực bên ngoài điều khiển đời con.

5.2. Hãy thận trọng các điểm vi tế của luật tự quyết

Rắn sẽ rỉ vào tai con là con có quyền tạo ra vai tuồng đó, khoác vào bộ y phụ cáo tuồng đó để thử xem thế nào là cảm giác bất lực. Nếu con nhìn với lý trí đường thẳng, thì rắn có vẻ có lý. Nhưng điểm vi tế là một khi con trao đi uy lực của mình, thì làm sao con có thể rũ bỏ bộ áo tuồng? Làm sao con có thể giản dị bỏ nó lại phía sau và cất bước ra đi? Con có thấy điểm vi tế này chăng?

Nếu ta dùng lý luận đường thẳng, phân tích thì ta khó nói là rắn không có lý. Thượng đế đã cho con quyền tự do tuyệt đối và không giới hạn chọn lựa của con. Con có thể thử khoác vào bất cứ bộ áo tuồng nào, và bất kể bộ áo tuồng đó là gì, Thượng đế vẫn chấp nhận con như là sinh thể mà Thượng đế đã tạo ra như một sự nối dài của chính ngài. Bất cứ lúc nào con muốn bỏ đi con người cũ và khoác vào con người mới trong Ki-tô, con người mới trong cái Một, thì Thượng đế sẽ mở tay chào đón con. Thượng đế không giới hạn quyền tự do khoác vào một bộ áo tuồng và sau đó cởi nó ra.

Sự thực là lối lý luận của rắn giới hạn quyền tự do của con. Khi con chấp nhận lời gian dối, ảo tưởng cho rằng có một lực bên ngoài – tỷ dụ như vị Thượng đế giận dữ ở trên trời đã khiến con sinh ra trong tội lỗi – đã kết đọng hoàn cảnh hiện tại của con, thì con không thể giản dị tin rằng con có thể cởi bộ áo tuồng ra, từ bỏ con người cũ, và được tái sinh và trở nên một con người mới trong Ki-tô. Thượng đế đã cho con uy lực và quyền tự do để thực thi uy lực đó, nhưng rắn và tâm thức rắn tìm cách tước đi uy lực đó của con.

Thày, như là người đại diện của Ý chí của Thượng đế, tuyên bố rằng ý chí tối cao của Thượng đế là cho con quyền thực thi quyền tự quyết và tạo ra bất cứ trải nghiệm nào mà con mong muốn, vì như vậy con có cơ hội học hỏi. Đó là lý do vì sao con có thể tách mình ra khỏi cái một và tin vào sự dối trá của rắn và đi theo con đường giả, con đường hướng hạ, càng lúc càng tách mình ra khỏi cái một.

Con có quyền làm chuyện đó. Thày ủng hộ việc con có quyền đó. Nhưng điều thày muốn nói ở đây là ý chí của Thượng đế hoàn toàn không muốn con bị đau khổ vì bị giam cầm trong một ý niệm bản sắc hạn hẹp. Ý chí của Thượng đế không muốn con trở nên ít hơn, theo nghĩa con tự thấy mình ít hơn Sinh thể trong sáng mà Thượng đế đã tạo ra.

5.3. Khía cạnh Alpha và Omega của sự chữa lành

Khía cạnh Alpha của ý chí của Thượng đế cho con quyền tự do chọn lựa tuyệt đối. Khía cạnh Omega của ý chí của Thượng đế muốn con dùng quyền tự do chọn lựa để trở nên hơn nữa, chứ không ít hơn.

Bài học của sự chữa lành thực sự là gì? Sự chữa lành thực sự là gì? Đó là tự chữa lành!

Mục đích sự sống là gì? Đó là sự tăng trưởng cái ta, sự tăng trưởng sự tự nhận biết. Đó chính là toàn bộ mục đích của thế giới hình tướng là nơi con bắt đầu với một ý niệm bản sắc rất địa phương, con tự đồng hóa mình với một hình tướng vật chất, tỷ dụ như thân thể của mình. Ý niệm bản sắc đó có hạn hẹp đến đâu, con vẫn có tiềm năng tăng trưởng sự tự nhận biết cho đến khi con đạt được tâm thức của Đấng mà con là một phần của Đấng đó. Sự tăng trưởng đó là tự tăng trưởng. Thượng đế không áp đặt nó lên con, vì sự tự tăng trưởng không thể bị áp đặt.

Bước khởi đầu của sự tự chữa lành chính thực là con nhận ra con đã chọn lựa tách mình ra khỏi cái Một. Lý do vì sao thân thể hay tâm của con cần chữa lành là vì con đã lấy một số chọn lựa đã giới hạn mình, thay vì mở rộng ý niệm bản ngã của mình. Con bị giam trong một ảo tưởng qua đó con không còn thấy mình là một sinh thể tâm linh đang tạm thời khoác vào một vai tuồng và bộ áo tuồng trong màn kịch của vũ trụ vật chất. Thay vào đó, con nghĩ là con bị giam trong vũ trụ này, bị giam trong vai tuồng nào đó. Khi con làm vậy thì con trao đi quyền năng tự chữa lành của mình.

Làm sao con thực thi được quyền năng đó? Con yêu dấu, khi con đã thực sự hiểu luật tự quyết, thì con nhận ra con có quyền tự do, hoàn toàn tự do. Thượng đế đã cho con một ý chí hoàn toàn tự do. Điều này có nghĩa là, giống như con có quyền chọn khoác vào một bộ áo tuồng nào đó – bất kể bộ áo tuồng này là gì – thì bất cứ lúc nào, con có tự do tuyệt đối tách mình ra khỏi bộ áo tuồng – con chỉ giản dị cởi nó ra, bỏ nó xuống, để cho con người cũ chết đi và được tái sinh với một ý niệm bản ngã mới. Làm như thế là nhìn nhận quyền năng mà Thượng đế đã ban cho con. Chính tự ngã của con và các thày giả, những người có tâm thức rắn, đang tìm cách tước đoạt quyền năng của con bằng cách khiến con tin rằng hoặc con chính bộ áo tuồng hoặc con không thể giản dị cởi nó ra.

5.4. Mở tâm đón nhận một quan niệm mới về nghiệp quả

Khi con nhìn vào tập thể nhân loại, thì con có thể quan sát một lằn ranh phân chia. Nhiều người vẫn hoàn toàn tự đồng hóa với xác thân vật lý và với hoàn cảnh gia đình, văn hóa, quốc tịch, tôn giáo, sắc tộc, chủng tộc hay bất cứ sự phân chia nào khác của môi trường nơi họ lớn lên. Những người có tâm linh cao hơn đã bắt đầu tỉnh giấc khỏi ảo tưởng đó và nhận ra họ hơn những bản sắc vỏ ngoài, nhãn hiệu và phân chia. Tuy nhiên, khi con bắt đầu tỉnh giấc và nhận ra mình hơn nữa, con phải đối mặt với luận điệu gian dối là con không thể giản dị rũ bỏ cái bản sắc cũ. Luận điệu này cho rằng nếu con đã phạm lỗi lầm thì con đã có tội. Con phải đền tội, con phải cân bằng nghiệp quả.

Thày muốn mời con tham dự một cuộc thí nghiệm tư tưởng. Chúng ta hãy lấy một giáo lý được trao truyền ở phương Đông – đây cũng là một giáo lý mà các thày cảm thấy cần giảng dạy trong các đợt truyền giáo trước của giáo lý chân sư thăng thiên – là quan niệm coi nghiệp là một lực bên ngoài. Con đã phạm lỗi trong một kiếp trước và mang một món nợ với sự sống, và do đó cán cân phải được cân bằng lại. Năng lượng mà con đã tha hóa cần phải được cân bằng trở lại.

Quan niệm này không nhất thiết sai. Con có quyền tự quyết làm bất cứ điều gì con muốn. Nhưng cái gì cho con khả năng làm bất cứ điều gì trong thế giới vật chất này? Đó chính là vì con nhận một phần năng lượng tâm linh từ Hiện diện TA LÀ của con, và con biểu hiện nó qua bốn thể phàm của con. Lẽ đương nhiên con chịu trách nhiệm về cách con sử dụng năng lượng đó. Con không thể vĩnh viễn rời bỏ trái đất nếu con chưa nâng lên tất cả năng lượng mà con đã pha màu với rung động của phản tình thương đang giới hạn mọi sự sống.

Con phải tới điểm mà sự hiện diện của con trên trái đất ít nhất phải là một sự quân bằng – con không kéo sự sống xuống. Lẽ dĩ nhiên con không xuống đây để kéo sự sống xuống, và con cũng không xuống đây để vật lộn trong mấy trăm kiếp để rồi trở lại điểm thăng bằng và rời trái đất. Con tới đây để đem lại một món quà tích cực, để đem ánh sáng của mình chiếu vào sự tăm tối của vũ trụ vật chất với mục đích tối hậu là nâng cao toàn bầu cõi, như thày Maitreya có giảng, lên tới điểm nó có thể thăng thiên và thể hiện nước Trời. Chúng ta hãy xem xét sự việc con là một người đồng sáng tạo đã thử nghiệm với quyền tự quyết trong nhiều kiếp sống. Con đã khoác lên một số vai tuồng, con đã đồng hóa mình như một sinh thể tách biệt, và con đã dùng năng lượng mà Hiện diện TA LÀ đã ban cho con để sở hữu và chiếm hữu một số vật cho cái ta tách biệt đó. Có thể là con đã tìm cách nâng nó lên trên người khác, và qua đó đã đạt được chức vị nổi bật trong xã hội cho con cơ hội hạ thấp người khác và coi mình quan trọng hơn người khác.

Lẽ dĩ nhiên có nhiều cách để tạo nghiệp. Con hãy nhìn sự việc một cách thực tiễn và nhận ra rằng không có gì nói ra bằng lời mà không thể bị tâm thức rắn và lý luận rắn bẻ quẹo. Đó chính là bản chất của lý luận rắn, nghĩa là khi con đã ăn trái cấm, thì con sẽ “khôn ngoan như Thượng đế”, con trở thành như Thượng đế, “biết thiện và ác”. Có nghĩa là lúc đó con đi vào tâm thức nhị nguyên và nghĩ rằng – tự ngã con nghĩ rằng – nó có quyền định nghĩa thiện và ác một cách tối hậu.

Đó là lý do vì sao có những tôn giáo trên trái đất tự coi mình là tôn giáo thực duy nhất, và qua đó ấn định niềm tin tuyệt đối là những ai không theo tôn giáo đó sẽ phải bị thiêu đốt vĩnh viễn trong đia ngục. Có những người đã theo một triết lý chính trị và coi nó cao hơn tất cả mọi triết lý khác, và do đó tin rằng diệt trừ tất cả các triết lý khác và áp đặt thể chế của họ lên toàn thế giới là một điều chính đáng.

Tâm thức rắn giam con trong niềm tin là hình tướng mà con thấy trong thế giới vật chất có một thực tại tối hậu. Con không thể giản dị rời bỏ chúng. Con bị đóng đinh bởi hình tướng, bởi hình ảnh, bởi tâm thức. Như cuộc đời của Giê-su đã trải bày, con bước vào vở bi kịch của cuộc đời, và quả thực là chúng có thể “đóng đinh” con. Có vẻ, ngay cả với Giê-su, không thể làm gì khác ngoài thủ vai tuồng đó.

Con hãy nhìn hình ảnh những chặng đường thập tự của Giê-su như truyền thống Công giáo mô tả. Giê-su bị kết án tử hình. Giê-su nhận cây thập tự. Nhưng đây cũng là một hành động thụ động chấp nhận một vật mà người khác giao cho thày. Giê-su té ngã, ai đó giúp Giê-su khiêng cây thập tự, ai đó lau nước mắt của thày, ai đó tìm cách khuyên thày nên bỏ cuộc. Thày bị đóng đinh trên cây thập tự, thày chết, thân xác thày bị đem xuống, thân thày bị chôn xuống mồ. Con yêu dấu, tất cả đều có tính chất thụ động.

Điều gì thiếu sót trong hình ảnh các chặng đường thập tự? Nhiều điều lắm, nhưng đầu tiên là sự kiện Giê-su biết rất rõ chuyện gì có thể xảy ra khi thày chọn bước vào thành Jerusalem. Quan trọng hơn cả là khi thày bị treo trên cây thập tự, thày chọn dứt bỏ hồn ma, qua đó ngay tức khắc rũ bỏ ý niệm cái ta tách biệt và chứng minh rằng mọi người đều có tiềm năng để sinh thể cũ, cái ta cũ chết đi tức khắc. Khi làm vậy con không ngưng hiện hữu, như các thày giả và tự ngã muốn con nghĩ, nhưng con thật sự được tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn, cái ta mà con vẫn là trong mắt của Thượng đế.

5.5. Một quan niệm cách mạng về nghiệp quả

Có một thực tại sâu sắc hơn. Con hãy quay trở về quan niệm nghiệp quả, con có thấy ảo tưởng mà tâm thức rắn dán lên quan niệm này? Khi con hiểu là tâm rắn dựa trên sự tách biệt, và khi con tách rời khỏi nguồn cội của mình, thì con phải tin gì về uy lực của Thượng đế? Con phải tin rằng nó chỉ có thể phát xuất từ bên ngoài con.

Khi con xem mình là một sinh thể tách biệt, con không thể chấp nhận là uy lực của Thượng đế có thể đến từ bên trong con. Con dễ rơi vào niềm tin gồm hai cực điểm, một bên là con cần một đấng cứu rỗi bên ngoài, và bên kia là con cần làm điều gì đó trên thế gian này, với tư cách một cái ta tách biệt, để chuộc tội hay cân bằng nghiệp quả.

Con hãy chú ý nghe điều thày đang nói. Con hãy cảnh giác ngay bên giờ, có thể con nên bước lui lại và nhận ra là cái tâm vỏ ngoài, tâm phân tích của con đang đánh lừa con để hoặc con không nghe lời thày nói, hoặc con không nghe ý nghĩa thực của nó. Thày đã nói gì trước đây? Con đã chấp nhận là có điều gì sai trái với con, có vấn đề cá biệt nào đó đang ngăn chặn con bước vào nước Trời. Điều thật sự sai trái với con là khái niệm có điều gì đó sai trái.

Khái niệm này từ đâu tới? Nó tới từ ảo tưởng tách biệt, từ sự thành lập cái ta tách biệt! Ta có thể nói là quả thực có cái gì sai trái với cái ta tách biệt, nếu ta suy nghĩ theo lối nhị nguyên. Nhưng không có gì sai trái với con, sinh thể mà con thực sự là.

Nhìn một cách rộng rãi hơn, ta có thể nói là cũng không có gì sai trái với cái ta tách biệt, vì Thượng đế không có quan niệm đúng và sai. Thượng đế chỉ quan niệm cái gì thật và không thật. Chỉ những gì được tạo ra trong cái một, là biểu lộ của cái một, chỉ có những cái này là có thật. Tất cả những gì được tạo ra trong tâm thức tách biệt không có thật và do đó không thể ảnh hưởng đến phần thật của con người con. Chúng không thể giới hạn nó, không thể nhốt nó vào cái lồng do một vai tuồng, bộ áo tuồng, hình tướng hay ý niệm bản ngã nào đó tạo ra.

Con có bắt đầu thấy nghiệp quả thực sự là gì chăng? Con đã quá quen thuộc, quá bị điều kiện hóa bởi tâm nhị nguyên nên con đã tin rằng thực sự có hai đối cực – và một cực là Thượng đế và cực kia là phản-Thượng đế. Đây chính là sự cao ngạo và lòng kiêu hãnh tâm linh của sa nhân khi họ nghĩ rằng khi họ chống lại Thượng đế thì họ có thể ảnh hưởng Thượng đế hay các sinh thể tâm linh không tách biệt khỏi cái một. Thượng đế không phải là đối cực của sự tách biệt. Thượng đế là cái Một, không phân chia, không thể phân chia, không điều kiện. Làm sao một điều kiện lại có thể chống lại cái vô điều kiện?

Con có thấy chăng là trong cái một không thể có điều kiện? Làm sao con tách ra khỏi cái một? Bằng cách tạo ra điều kiện! Và làm sao con tạo ra điều kiện? Con phải tạo ra hai điều kiện, ít nhất là hai, chống đối lẫn nhau.

Nếu không có sự chống đối, thì con vẫn còn cái một và do đó không có tách biệt.

Thày là chân sư của Ý chí của Thượng đế. Thày có các người bạn yêu dấu ở sáu tia kia. Vậy có nghĩa chăng là thày chống đối thày Saint Germain, vì thày ở tia thứ nhất và thày Saint Germain ở tia thứ bảy, tức là hai cực điểm trên một nấc thang đường thẳng? Điều này làm sao xảy ra được? Có thể nào là Ý chí của Thượng đế chống lại Tự do của Thượng đế, khi ý muốn của Thượng đế là mọi sinh thể đều tự do – và con có tự do khi con nhập một với ý chí của Thượng đế muốn nâng mọi sự sống lên?

Con có thể nghĩ là trong một kiếp trước con đã tạo nghiệp xấu và nếu con muốn thăng thiên, con cần cân bằng nghiệp đó bằng cách tạo ra nghiệp tốt. Nhưng xấu và tốt là hai điều kiện nhị nguyên. Con không thể hóa giải, cân bằng hay phủ định một điều kiện nhị nguyên bằng cách thêm vào điều kiện đối nghịch. Con không thể khắc phục một vấn đề với cùng tâm thức đã tạo ra vấn đề.

Nghiệp quả là gì? Nó được tạo ra khi con dùng khả năng sáng tạo của mình qua phin lọc của cái ta tách biệt, nhị nguyên. Bất cứ điều gì con làm qua phin lọc đó tạo ra nghiệp khiến con tách biệt khỏi cái một. Chính vì con xem mình là một sinh thể tách biệt nên con chú tâm vào cái ta của mình, và do đó có thể đã có hành động vị kỷ hay ích kỷ theo định nghĩa thông thường – và do đó con tạo ra điều mà đa số gọi là nghiệp xấu. Chính ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt đã tạo ra nó.

Nếu vậy thì làm sao con có thể giải trừ bằng cách làm điều gì khác qua cái ta tách biệt? Con có thấy chăng là quan niệm con đã tạo nghiệp xấu với cái ta tách biệt, và nay con cân bằng nghiệp đó bằng cái ta tách biệt, là một điều phi lý, mâu thuẫn? Con càng nỗ lực cân bằng nghiệp do cái ta tách biệt tạo ra, thì con càng củng cố ảo tưởng con là một cái ta tách biệt.

5.6. Khi cân bằng nghiệp quả là một trở ngại cho sự thăng thiên

Con có thể nghĩ là thày nói đi nói lại cùng một chuyện – và thày quả đang làm vậy. Nhưng thày nói điều đó dưới những góc độ hơi khác nhau, vì thày đang cho con một hình tư tưởng kỷ hà. Nếu con không thấy nó từ một góc nhìn này, có thể con sẽ thấy nó từ một góc nhìn hơi khác. Ý chính là: con hãy nhận ra là quan niệm con cần cân bằng nghiệp quả đang củng cố ý niệm con là một sinh thể tách biệt. Phải chăng ngụ ý là con không thể thăng thiên – có nghĩa là, trên căn bản, trở về với cái một – nếu con chưa cân bằng nghiệp quả?

Trong tâm, con nói: “Tôi là một sinh thể tách biệt, và tôi phải tiếp tục là một sinh thể tách biệt, cho tới khi, trong tương lai nào đó, tôi cân bằng hết nghiệp quả như một sinh thể tách biệt và – “bụp” một cái – một ngày nào đó tôi sẽ thăng thiên mà không hiểu rõ vì sao.” Một số trong các con, đã quả thực nhận được từ những lần truyền giáo trước của chân sư thăng thiên một hình ảnh – hay cũng có thể nói là con đã chấp nhận một hình ảnh – là ngay tiến trình thăng thiên cũng có tính chất thụ động trong đó con cân bằng nghiệp quả và mọi chuyện còn lại sẽ tự động xảy ra.

Không phải vậy đâu! Làm sao con thăng thiên? Bằng cách lấy lại quyền năng của ý chí của con! Con có nghĩ chăng là thày, Chân sư MORE, đang đứng trên thiên đàng và tìm cách ép buộc người khác thăng thiên? Thày làm như vậy thì đạt được gì? Những người đó sẽ vào thiên đàng với cùng trạng thái tâm thức mà họ đang hiện có. Các thày không muốn thấy những khuôn mặt buồn bã hay những khuôn mặt kịch cỡm mà ta thấy trên trái đất. Các thày muốn con như con là – trong cái một.

Thày không nói là con trở về thiên đàng giống y như khi con từ thiên đàng xuống thế. Con học hỏi khi con sống trong các cõi dày đặc hơn, con mở rộng ý niệm bản ngã của mình vượt quá khi con được tạo ra. Nhưng vì con trở về trong cái một, con nhận ra là con và các thày không khác nhau. Con là một nối dài của chính Bản thể của các thày.

Điều thày đề nghị với con rất giản dị. Con hãy suy ngẫm là con, như một sinh thể tách biệt, đi tới kết luận là con là một sinh thể tâm linh từ thiên đàng xuống và muốn trở về thiên đàng. Để có thể trở về con phải cân bằng nghiệp quả, do đó con tiến hành công việc với cùng tâm thức tách biệt.

Con có thể tiến triển đôi chút nếu con làm như vậy. Con có thể cân bằng năng lượng. Con có khía cạnh Alpha của trạng thái tâm thức của con mà con dán lên năng lượng, Ánh sáng Mẫu-Vật. Khía cạnh Omega của Ánh sáng Mẫu-Vật mang vào độ rung thấp hơn vì nhận các hình ảnh dán lên nó. Con có thể phần nào làm công việc cân bằng, vì chắc chắn là một hành động vị tha sẽ cân bằng nghiệp quả, theo cách nói của con. Nhưng thày phải nói với con là con không thể hoàn thành tiến trình này nếu con vẫn còn nhìn mình như một cái ta tách biệt. Điều này không thể xảy ra.

Vì sao lại không thể xảy ra? Lý do là điều thày đã giảng – con chỉ có thể vào thiên đàng khi con trở thành một với uy lực của Thượng đế trong con. Con chỉ có thể trở thành một với cái đó khi con chiến thắng cái ta tách biệt.

Con phải chọn lựa thăng thiên. Thăng thiên không phải là chuyện thực thi một số yêu cầu vỏ ngoài rồi – “bụp” một cái – con ở trên cõi thăng thiên. Thăng thiên phải là một quyết định, một chọn lựa.

5.7. Một cách nhanh chóng hơn để vượt lên trên nghiệp quả

Tuy con có thể tiến triển đôi chút với tâm thức của cái ta tách biệt, con hãy xem xét một con đường khác. Con hãy suy ngẫm là thay vì chú tâm vào việc cân bằng nghiệp quả, hay một lực bên ngoài nào khác, con lắng nghe lời dạy của Ki-tô. Có phải chăng là thày đã nói: “Trước tiên hãy tìm cầu Nước Trời và sự công chính của Thượng đế, thì tất cả những thứ kia sẽ được ban thêm cho con.”

Nước Trời là gì? Nó thực là tâm thức Ki-tô dựa trên cái một nơi con có sự công chính – cách sử dụng đúng – của uy lực sáng tạo của mình. Con dùng nó để nâng cái Tất cả lên thay vì cái ta tách biệt. Con hãy suy ngẫm là thay vì chú tâm vào hành động cân bằng nghiệp quả là một hành động vỏ ngoài và có phần máy móc, con chú tâm vào việc chuyển đổi ý niệm bản sắc, hình ảnh về chính mình, cách nhìn cuộc đời. Con trải qua một chuyển đổi kinh thiên động địa vể bản sắc khi con không còn thấy tách biệt nhưng thấy cái một.

Chuyện gì sẽ xảy ra trong tiến trình này? Chuyện sẽ xảy ra là con lấy lại uy lực của mình, con kết nối trở lại với sinh thể cao mà con là và khi đó con có thể nói với Giê-su: “Ta và cha ta là một. Cha ta làm việc cho đến bây giờ, nay ta cũng làm việc như vậy.”

Khi con đi vào trạng thái một đó – ít nhất là một phần của trạng thái một tuy chưa hoàn toàn là quả vị Ki-tô – và con thấy con vẫn còn một ít nghiệp quả, thì con nghĩ công việc cân bằng nghiệp quả đó có khó chăng khi con có uy lực của Thượng đế chảy xuyên qua con và giúp con hoàn thành công việc? Đi con đường tâm linh dễ hơn nhiều khi ta khởi đầu bằng tìm cầu cái một, thay vì tìm cách thực thi một yêu cầu vỏ ngoài như cân bằng nghiệp quả và nghĩ rằng cái một sẽ tự động đến sau. Qua cách đó con giới hạn mình – có thể là trong suốt phần còn lại của kiếp sống này – vào việc sử dụng uy lực chảy xuyên qua cái ta tách biệt, thay vì uy lực của sinh thể cao mà con là.

Ảo tưởng, con yêu dấu – ảo tưởng! Lý luận của tâm rắn vi tế biết bao? Nó rất vi tế khi con nhìn nó từ bên trong cái ta tách biệt. Nó rất lộ liễu khi con vươn lên tâm Ki-tô và đạt được tầm nhìn vô điều kiện giúp con thấy chân lý không diễn tả bằng lời nói hay giáo lý. Con đã theo lời gọi của Ki-tô: “Thượng đế là Tánh linh, và những ai thờ kính ngài phải thờ kính trong Tánh linh và chân lý.”

Khi con biết Tánh linh của Chân lý, con nhận ra sự rung động của chân lý, và con có thước cùng-đo tối hậu, cây gậy chỉ đường tối hậu, cây gậy của Moses, có khả năng rẽ nước Biển Chết – là biểu tượng của tâm thức nhị nguyên. Lúc đó con có thể an toàn vượt qua biển nhưng, khi đoàn quân của cái chết tới sau con, thì nước của tâm thức nhị nguyên của chúng sẽ tràn lên chúng. Chúng bị cuốn đi trong sự náo loạn, trong khi con bước sang bờ bên kia, tới vùng đất của Do Thái, biểu tượng cho cái thật.

5.8. Một quan niệm không đường thẳng về luân hồi

Chắc con có nghe là El Morya, Chân sư MORE, có tiền kiếp là Thomas More, là Thomas Beckett, là vị Chân sư nào đó, hay một nhân vật lịch sử nào đó. Nếu con đi trở ngược dòng thời gian, thì thày có từng đầu thai như Abraham. Nhưng con thấy chăng, Thomas More đã chết, Abraham đã chết. Tuy rằng con có thể nghĩ thày đã từng đầu thai như Abraham, nhưng thày nói là không phải vậy. Vì trước khi có Abraham, TA LÀ.

Vậy phải chăng thày chối bỏ đã có một tiền thân là Abraham? Phải chăng thày chối bỏ giáo lý được trao truyền? Không, thày không chối bỏ. Thày muốn con tiến lên cao hơn và nhận ra là như một sinh thể thăng thiên, thày đã nhập một với Sinh thể cao, mà từ sinh thể đó đã đầu thai như Abraham. Ý niệm bản ngã đã đầu thai như Abraham và những nhân vật kia không còn nữa. Thày HƠN NỮA. Thày đã vươn lên trên mọi ý niệm bản ngã thế gian. Thày đã trút bỏ các bộ áo tuồng. Thay đã đứng trần truồng trước hồ nước chữa lành và đã bước đi qua bờ bên kia. TA LÀ một sinh thể tái sinh, như con cũng có thể tái sinh, con yêu dấu.

Con hãy đi theo niềm hân hoan của mình! Con hãy xem điều gì mang lại cho con niềm vui lớn nhất, vì con sẽ thấy là điều cho con niềm vui lớn nhất là ý niệm là một với cai Ta bên trong của con, với ngọn Lửa Thượng đế của con, với Bản thể tâm linh cao hơn mà từ đó con sinh ra. Con hãy dùng niềm vui đó như thước đo để quyết định làm điều này hay điều kia ở giai đoạn này của cuộc đời của con.

Điều cho con niềm vui lớn nhất là điều mang con đến gần hơn sự hợp nhất với Bản thể cao hơn của con. Nếu có điều gì hạ năng lượng của con xuống, lấy mất sự chú tâm của con, khiến con cảm thấy mình phải làm sao để xứng đáng với một hình ảnh nào đó, mình phải đóng một vai tuồng nào đó, thì con hãy bước lui lại và nói: “Việc này không phải là việc của tôi!”

Những người phái nữ hiện nay đang hòa điệu hơn với con người tâm linh và sứ vụ thiêng liêng của họ hơn là người phái nam. Con cảm nhận là khi một người nam tới gần con và có thể có nhiều thiện ý – nhưng trong tâm người đó có một hình ảnh là con phải như thế nào nếu con chấp nhận đề nghị của y – con cảm thấy là người đó đang tước đi niềm hân hoan của con.

Con hãy bước lui lại và tìm xem đâu là niềm hân hoan của con, và con hãy theo nó – như nhiều người trong các con đã làm. Thày chỉ đơn giản giúp con chú tâm có ý thức là con có thể nhận biết rõ hơn về điều đó, con có thể cảm nhận có ý thức trong tim đâu là niềm hân hoan, cái gì mở rộng bản thể mình, ý niệm bản thể của mình, niềm vui của mình.

Có nhiều cách để thực hiện điều này. Con có thể đạt được qua sự sùng kính, như nhiều người đã làm qua nhiều thời đại, sùng kính Thượng đế, Giê-su, Mẹ Mary, đức Phật, Khrisna hay những vị đại diện tâm linh chân chính khác. Như Ấn giáo mô tả, có nhiều đường dẫn tới Thượng đế, nhiều hình thức yoga. Con hãy theo phương pháp đem lại cho con niềm vui lớn nhất, và đừng xem những người đang theo niềm hân hoan của họ là sai.

Con yêu dấu, thày nói với con là thày là đại diện của Ý chí của Thượng đế vì thày sùng kính vô điều kiện Ý chí của Thượng đế. Thày thương yêu Ý chí của Thượng đế. Thày thương yêu Uy lực của Thượng đế, biểu lộ cùng với tình thương vô điều kiện muốn nâng mọi sự sống lên.

Làm sao con có thể nhập một cách tối hậu với ý chí và uy lực của Thượng đế? Con có thể nào chiếm uy lực của Thượng đế bằng vũ lực của cái ta tách biệt chăng? Không đâu, con chỉ có thể thương yêu ý chí và uy lực – ý chí muốn nâng mọi sự sống lên. Khi con không còn động cơ nào khác, thì uy lực của Thượng đế sẽ tuôn chảy xuyên qua con để nâng mọi sự sống lên.

Con yêu dấu, con hãy được niêm trong tình thương của thày – yêu Ý chí của Thượng đế và yêu con. Ý muốn của Thượng đế là con có quyền tự quyết, và con có thể nghĩ là nếu con lấy chọn lựa “sai” thì thày sẽ không thương yêu con. Nhưng Thượng đế đã cho con quyền tự quyết và do đó – bất kể chọn lựa nào con đã lấy – thày vẫn thương yêu con vô điều kiện.

Lẽ dĩ nhiên, tình thương của thày không ngăn thày là một vị thày nghiêm nghị, không tìm cách khiển trách con, nhưng muốn cho con một thước cùng-đo – mà tâm rắn không thể tranh cãi, bóp méo và bẻ quẹo. Tình thương của thày bất di dịch, như Tảng đá của Ki-tô. Khi con chân thật, con sẽ tìm sự bất di dịch của Tảng đá của Ki-tô để có thể phân biện đâu là thật đâu là giả.

Con yêu dấu, TA LÀ thật. Con có chịu nhìn nhận chăng là con cũng thật? Nếu vậy, con hãy được niêm trong Ngọn lửa của Thực tại.

Lấy trách nhiệm làm chủ tâm mình

Bài giảng của chân sư thăng thiên More qua trung gian Kim Michaels, ngày 31/12/2008. Bài này được xếp thành Chương 2 của quyển Làm sao giáo tiếp từ trái tim (How to Communicate from the Heart, Kim Michaels, 2014).

Thầy chào đón con trong ngọn lửa HƠN NỮA mà TA LÀ. Nhưng này hỡi con yêu dấu, tại sao Thầy lại là một với ngọn lửa đó? Bởi vì Thầy đã chọn trở thành một với ngọn lửa đó, Thầy đã chọn nhìn nhận TA LÀ ai. Con cũng vậy, con cũng đang lấy những lựa chọn, vì cuộc đời là một chuỗi lựa chọn.

Có người trên trái đất này phủ nhận họ có quyền tự quyết. Nhưng đây không phải là Chân Tâm của họ đã phủ nhận điều này đâu, mà chỉ là tự ngã của họ thôi. Tự ngã không muốn cái Ta Ý Thức của con – là Chân Tâm của con – lấy các quyết định. Tự ngã muốn tiếp tục điều khiển con, và do đó nó không muốn để cái ta ý thức của con quyết định là nó có quyền lựa chọn. Tự ngã không cho con lựa chọn là con có thể vượt quá các giới hạn của cơ thể, hoặc vượt lên trên niềm tin sai lệch là mình là cơ thể. Quá nhiều người vướng mắc tin rằng mình đồng hóa với cơ thể, tức là họ tin rằng họ chỉ là phần vật chất của con người họ.

Đây là sự khác biệt giữa những ai còn đang say ngủ và những ai đã bắt đầu thức tỉnh. Làm thế nào để thức tỉnh? Con thức tỉnh khi con nhận ra rằng mình có quyền lựa chọn – thay vì rơi vào cái khuôn nếp giống như nhiều người cứ lặp đi lặp lại: “Tôi không có quyền lựa chọn” hoặc “Tôi không có lựa chọn nào khác” ngoài hành động mà họ đã làm.

Lúc nào cũng có quyền lựa chọn

Khi con nghe người nào nói câu đó thì con biết ngay rằng họ không sẵn sàng nhận trách nhiệm làm chủ cuộc đời hay hoàn cảnh của mình. Vì một khi con nhận trách nhiệm đó thì con sẽ nhận ra rằng bất kể hoàn cảnh bên ngoài như thế nào, con luôn luôn có quyền lựa chọn trạng thái tâm của mình và chọn có một phản ứng khác hơn phản ứng thông thường của 99 phần trăm người trên hành tinh này. Phản ứng thông thường này cũng có thể đã được lập trình vào tâm con từ khi con còn nhỏ.

Con yêu dấu, có những người đã hiểu sai giáo lý của Đấng Ki-Tô đến độ không nhận ra rằng cốt lõi giáo lý của Giê-Su là con người có quyền lựa chọn. Phải chăng là Ki-Tô đã từng nói: “Đừng chống cự lại cái ác. Hãy chìa má bên kia”.

Có đúng chăng là hầu hết mọi người trên thế gian này đã bị lập trình để chống cự cái ác và ăn miếng trả miếng? Con có thấy chăng là cốt lõi giáo lý của Đấng Ki-Tô là con có tiềm năng và khả năng để chọn chìa má bên kia – ngay khi con vừa bị đánh vào má này?

Giao tiếp từ trái tim

Điều Thầy đang nói liên quan trực tiếp đến chủ đề quyển sách này. Tại sao Thầy lại nói bài mở cho quyển sách này? Đó là vì Thầy là thượng sư của Tia sáng Thứ nhất của Ý chí của Thượng đế. Làm thế nào để khởi sự giao tiếp từ trái tim? Trước hết, con phải quyết định rằng con muốn giao tiếp từ trái tim. Con phải lựa chọn, con phải lấy quyết định, là con muốn giao tiếp từ trái tim.

Nhiều người trong các con sẽ nói ngay là họ muốn giao tiếp từ trái tim. Nhưng chưa chắc con nhận ra rằng con đã bị lập trình từ nhiều kiếp để không giao tiếp từ trái tim. Con chưa nhận ra rằng rất là khó để rũ bỏ cái chương trình này và như thế giao tiếp được với người khác một cách sâu sắc hơn bằng trái tim.

Đây là thực tế mà chúng ta phải chịu khi chúng ta có xác thân vật chất này. Chúng ta chọn giao tiếp ở mức độ nào? Chúng ta có chọn phản ứng theo lập trình có sẵn chăng? Tức là chúng ta sẽ ăn miếng trả miếng hoặc tiếp tục và củng cố những lựa chọn mà ta đã lấy trước kia – trong thời thơ ấu hay trong các kiếp trước. Nếu như vậy thì chúng ta không thực sự lựa chọn có ý thức. Chúng ta chỉ để cho những lựa chọn cũ của mình lặp lại mà không thực sự đứng lên khẳng định mình là ai.

Con phải chọn giao tiếp bằng con người bên ngoài hay bằng con người bên trong. Con chỉ có thể giao tiếp bằng con người bên trong nếu con giao tiếp từ trái tim. Con không thể nào giao tiếp bằng con người bên trong mà chỉ dùng lý trí. Con có thể dùng lý trí để phát biểu những gì con cảm được trong tim nhưng con không thể giao tiếp bằng con người bên trong mà chỉ dùng lý trí.

Cái duy nhất có thực

Con không thể phân tích sự giao tiếp từ trái tim, chia nó ra thành phần nhỏ và bắt chiếc làm theo với cái trí vỏ ngoài luôn luôn phân tích và lý luận theo đường thẳng. Con yêu dấu, điều đó không thể làm được vì một lý do giản dị: đó là muốn giao tiếp từ trái tim thì phải nhận ra rằng cái duy nhất có thật. Muốn giao tiếp từ trái tim thì chỉ có cách là sống trong cái duy nhất, quy thuận cái duy nhất, phụng sự cái duy nhất trong Tất cả — qua đó con nhằm nâng cao Tất cả. Con không thể giao tiếp từ trái tim nếu con chưa quyết định rằng cái duy nhất quan trọng hơn sự tách biệt.

Khi con nhìn vào cuộc đời – khi con nhìn cách mọi người giao tiếp – thì con thấy ngay là khi họ giao tiếp họ không coi cái duy nhất là có thật. Ngược lại, khi giao tiếp họ tìm cách nâng mình lên trên người khác, hay tìm cách kiểm soát người khác, hay tìm cách tránh bị người khác làm tổn thương, hay tìm cách dìm người khác xuống bằng cách chỉ trích, phán xét, hay áp đặt một tiêu chuẩn. Các tiêu chuẩn này dựa trên quan niệm sai lầm rằng nếu ta sống theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài của thế gian, thì chắc chắn ta sẽ được vào nước Trời. Nước Trời vượt lên trên thế gian, và dĩ nhiên chuyện này không thể xảy ra. Làm sao ta có thể vào nước Trời bằng cái gì tách biệt khỏi nước Trời? Các con yêu dấu, điều này đương nhiên là không thể xảy ra được.

Nền tảng của sự giao tiếp từ trái tim là nhận ra rằng mọi sự sống là một. Tức là mỗi khi con giao tiếp với một người khác, thì mục đích, mục tiêu, và ước mong của con là nâng người đó lên.

Tự nhận biết

Làm sao con tránh phán xét, làm sao con tránh chỉ trích, làm sao con tránh đổ thừa, làm sao con tránh so sánh người khác với một tiêu chuẩn mà con cho là tốt nhất cho họ? Con hãy suy ngẫm là Tia sáng Thứ nhất là tia sáng của Ý chí và Uy Lực của Thượng đế. Khi con quán sát ý chí của Thượng đế, thì con sẽ nhận ra rằng ý muốn tối hậu của Thượng đế là tạo ra những phần nối dài của Ngài có khả năng tự nhận biết. Nhưng tự nhận biết là gì? Con không thể có tự nhận biết mà không có quyền tự quyết.

Nếu một tự thể không có khả năng lựa chọn, thì nó không phải là một tự thể – nó không có đặc tính riêng biệt, nó không thể chọn nó sẽ là gì. Con chú ý rằng khi Moses gặp Thượng đế trên đỉnh núi và hỏi ngài cho biết tên, thì Thượng đế trả lời rằng: “Yod He Wav He – Ta Sẽ Là Cái Ta Sẽ Là.” Chứ không phải là “Ta Là Cái Ta Là”, như thường được dịch ra. Sự thực là Thượng đế đã không cho Moses tên mình vì Thượng đế là một đấng tự vượt thăng không ngừng. Tức là Thượng đế nói: “Ở mọi lúc, ta tự cho ta quyền trở thành cái gì ta muốn.”

Đó chính là bản chất của quyền tự quyết – tức là mình được chọn mình là ai ở bất cứ lúc nào. Con phải chọn điểm khởi đầu này khi con muốn giao tiếp từ trái tim – tức là con phải chọn lựa con là ai đối với người hoặc nhóm người mà con đang giao tiếp. Con có chọn để mình bị kẹt vào ảo tưởng mình là một cái ta riêng biệt – tức là con tách biệt với họ, con có thể phải đối chọi với họ, họ có thể làm hại con, họ có thể đe dọa con? Hay là con nghĩ là con cần kiểm soát họ để làm chuyện tốt cho chính họ – vì con biết rõ hơn họ cái gì tốt nhất cho họ?

Con thấy không, khi con chọn mình là cái ta tách biệt thì con không thể tôn trọng quyền tự quyết của người khác được. Ở đây khi Thầy dùng chữ “tôn trọng”, Thầy muốn nói chấp nhận hoàn toàn và vô điều kiện quyền tự quyết của người khác. Nếu con không tôn trọng quyền tự quyết thì con không thể thực sự trải nghiệm mình là một với người khác được. Cái duy nhất không thể bị gò ép.

Ta không thể là một với người khác bằng vũ lực hay kiểm soát. Muốn là một thì phải chấp nhận hoàn toàn và vô điều kiện là đấng Sáng tạo đã quyết định tạo ra các phần nối dài của chính mình và cho các phần này cá tính riêng biệt và quyền tự quyết. Do đó, các phần nối dài có khả năng lựa chọn – họ có thể chọn là hơn nữa, là kém hơn, là cái này, hay cái khác.

Tiềm năng cao nhất của con người

Đó là quyết định tuyệt vời – và tối thượng – của đấng đã sáng tạo ra con. Khi con hiểu và chấp nhận điều này một cách trọn vẹn và đầy đủ, thì con có thể hợp một với đấng Sáng tạo – hợp một với ý định và mục đích của đấng Sáng tạo là không ép buộc hay lập trình con người phải đạt một tiêu chuẩn nào đó. Thay vào đó, ngài cho phép con người quyền tự quyết và cơ hội để chọn mình là hơn nữa, chọn là một với người khác, là một với cội nguồn của mình.

Đó chính là kế hoạch cứu rỗi của Thượng đế trong con, của đấng Sáng tạo trong con. Nhưng cái gì đã xảy ra là đã có một số sinh thể đến từ một bầu cõi lúc đó chưa thăng nhưng nay đã thăng đã quyết định nổi loạn chống lại kế hoạch và quyết định của Thượng đế. Họ đã chọn sử dụng quyền tự quyết của họ để nổi loạn. Việc họ chọn tâm thức tách biệt là một chuyện có thể làm được vì họ có quyền tự quyết. Sau đó, họ đã chế ngự được tâm thức tập thể của những sinh thể đầu thai vào hành tinh này và một số hành tinh khác trong vũ trụ (nhưng con chỉ cần quan tâm đến hành tinh này mà thôi, vì con còn kẹt ở đây cho đến khi con học xong bài học và quyết định lấy lại quyền tự quyết của mình).

Nếu con muốn lấy lại quyền tự quyết của mình và thực thi tự do lựa chọn, thì con phải tôn trọng quyết định của đấng Sáng tạo, tức là sự lựa chọn của ngài cho quyền tự quyết cho con và mọi sinh thể có tự nhận biết. Chỉ khi nào con tôn trọng quyền tự quyết của người khác, thì con mới có thể thực sự chấp nhận là mình có quyền tự quyết và mình có quyền chọn là hơn nữa, cho dù hôm qua con có thể đã chọn mình là kém hơn.

Lời nói dối tối hậu của các thầy giả là một khi con đã chọn mình là một cái gì thấp hơn, thì con sẽ không thể từ bỏ cái bản sắc đó nữa, con không thể vứt bỏ nó, con không thể vượt lên trên nó. Khi con hiểu quyền tự quyết, thì con sẽ hiểu – con sẽ chấp nhận và kinh nghiệm – rằng con có quyền nói với Thượng đế nơi con: “Ta sẽ Là cái Ta sẽ Là.” Vì vậy, con có thể chọn từ bỏ cái bản sắc cũ, cho nó chết đi, cho nó biến đi, cho nó đi vào ngọn lửa mà con là.

Con yêu dấu, đó là tiềm năng cao nhất của con, là khả năng chọn mình hơn cái gì mình là một giây trước đây. Đây là cách duy nhất để vượt qua những chướng ngại trong việc giao tiếp, cách này coi mọi sự sống là một và tìm cách nâng mọi sự sống lên thay vì dìm xuống.

Tôn trọng quyền tự quyết của người khác và của chính mình

Khi con thực sự chấp nhận quyền tự quyết và nhận ra là đấng Sáng tạo đã lựa chọn thật sáng suốt, thì con sẽ nhận ra rằng Thượng đế đã ban cho mỗi người quyền được chọn mình là ai. Khi con gặp một người đã có xung đột với con trong quá khứ, nếu con chấp nhận quyền tự quyết của họ thì con chấp nhận họ được Thượng đế ban cho quyền tự do tuyệt đối có trạng thái tâm thức mà họ hiện đang có. Hỡi con yếu dấu, đó là quyền của họ. Thượng đế đã cho họ cái quyền đó.

Trừ phi con bị rơi vào ảo tưởng của các sa nhân – tức là tự cho mình khôn ngoan hơn Thượng đế – thì con nên chấp nhận rằng Thượng đế đã ban cho họ cái quyền đó. Con nên chấp nhận rằng khi họ ở bất kể trạng thái tâm thức nào, họ đang thực thi quyền tự quyết mà Thượng đế đã ban cho họ, tức là họ được quyền chọn là bất cứ cái gì họ muốn. Tuy nhiên, Thượng đế cũng đã sắp đặt vũ trụ vật chất này để khiến mỗi người phải thực sự trải nghiệm trạng thái tâm thức mà mình đã chọn, kể cả những thể hiện vật chất của trạng thái tâm thức đó, vì mọi vật thực sự đều là thể hiện của tâm thức.

Khi con đã hiểu và chấp nhận điều này, thì con sẽ không còn phán xét họ nữa. Con sẽ không cần có trong đầu một mẫu mực mà con nghĩ họ phải tuân theo. Con sẽ để cho họ tự do trở thành bất cứ ai họ muốn ngay lúc đó.

Con làm thế nào để cho họ quyền tự do đó? Con chỉ cần chấp nhận quyền tự quyết của họ y như con chấp nhận quyền tự quyết của con. Khi con chấp nhận rằng họ có quyền ở trong bất cứ trạng thái tâm thức nào, thì con cũng chấp nhận rằng con có quyền ở trong bất cứ trạng thái tâm thức nào mà con chọn. Trạng thái tâm thức mà con chọn hoàn toàn độc lập với lựa chọn của người khác, độc lập ngay cả với lựa chọn tập thể của tất cả mọi người trên trái đất này.

Đó chính là điều mà Giê-su đã chứng minh. Mặc dù tất cả những người ngài gặp trong kiếp sống đó đều chọn không ở trong tâm thức Ki-tô, nhưng ngài vẫn có thể chọn ở trong tâm thức Ki-tô, ngài chọn là Đấng Ki-tô và phô diễn điều đó.

Khi con hiểu rằng con không cần để lựa chọn của người khác ảnh hưởng đến lựa chọn của mình, thì con sẽ kết hợp được hai thái cực Alpha và Omega, tức là con sẽ cho người khác và cho chính mình đều được tự do. Có nghĩa là khi con tiếp xúc với người khác, thì con nên nhớ rằng lúc nào con cũng có thể lựa chọn trạng thái tâm thức của chính mình, cho dù trạng thái tâm thức của họ như thế nào. Con có thể giao tiếp với họ trên căn bản con có quyền tự do lựa chọn trạng thái tâm thức của chính mình – mà không phải cảm thấy rằng trạng thái tâm thức của họ, hay lời nói của họ, buộc con phải phản ứng một cách nào đó.

Nguyên do thông thường của xung đột

Đa số con người xung đột với nhau chính vì đa số tin rằng khi người khác không cư xử hay nói chuyện đúng như những gì mình chờ đợi, thì mình chỉ có một lựa chọn duy nhất là có tình cảm hay tư tưởng tiêu cực, tỷ dụ như sợ hãi, tức giận hay bất cứ cảm xúc tiêu cực nào khác. Phần thiêng liêng của tâm sẽ tức khắc cảm thấy bị mắc kẹt khi có phản ứng tiêu cực. Nhưng nếu con đổ lỗi là họ đã buộc con vào một trạng thái tiêu cực thì con đã không hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết của mình tức là nhận trách nhiệm làm chủ mình. Vì con phải nhìn nhận rằng chính con đã lựa chọn có trạng thái tiêu cực đó. Con phải nhìn nhận rằng con có thể dễ dàng chọn một phản ứng khác, một phản ứng cao hơn, một phản ứng dựa trên tình thương thay vì sợ hãi hoặc một trong những sắc thái của sợ hãi. Mọi phản ứng và cảm xúc tiêu cực chính thực đều bắt nguồn từ nỗi sợ đến từ sự tách biệt.

Chìa khóa để vượt qua tất cả những cảm xúc tiêu cực, để tránh bị mắc bẫy và rơi vào những cảm xúc này, là phải đứng lui ra và nói với chính mình: “Ta vẫn có thể chọn cái duy nhất dù họ chọn tách biệt! Nếu họ chọn tự coi họ tách biệt với ta, xem ta là kẻ thù, đối thủ, hay một mối đe dọa, thì ta không bắt buộc phải lấy một lựa chọn tương tự. Lúc nào ta cũng có thể chọn cái duy nhất! Trước hết, ta có thể chọn là một với nội tâm của mình, bằng cách đi trở vào bên trong, vào thánh địa bên trong của mình.”

Thánh địa bên trong của con người

Con yêu đấu, con nên biết về thánh địa bên trong này. Hạt ngọc trai quý giá này có thể xem như là căn phòng bí mật trong tim con, là cốt lõi của tim con. Khi thầy nói “trái tim”, thì con hiểu là thầy không nói tới bộ phận vật lý làm phận sự bơm máu, mà là luân xa tim và cái cốt lõi phía sau nó – là một điểm nhỏ đến mức ai muốn tìm xem nó ở đâu, dùng kính hiển vi tốt nhất mà khoa học chế tạo ra cũng sẽ không thể tìm ra nó được.

Con cần nhận ra điểm đó trong con, đó chính là nơi cõi vật chất và cõi tâm linh gặp gỡ nhau trong con người con. Nơi đó là cốt lõi con người, là nơi con lúc nào cũng có thể trở về để tái lập sự hợp nhất với bản thể cao của mình. Con không nên chỉ xem nó như một điểm nhỏ, mà nên tập để biến nó thành một quả cầu và sau đó tiếp tục nới rộng ra mãi, cho đến khi nó vượt quá phạm vi cơ thể và từ trường khiến con lúc nào cũng được bao bọc trong quả cầu đó và không có gì có thể nhập vào và ảnh hưởng ngoại tâm và ngay cả trí phân biện của con.

Một khi con đã rút vào thánh địa bên trong đó và dùng bản thể cao của con để kết nối với cái duy nhất và nhận ra con là ai, thì con sẽ có thể chọn một phản ứng khác phản ứng bình thường

Con không phải là một người máy

Hỡi con yêu dấu, con có nhớ lại những gì thầy nói ở đầu bài về những người đã chối bỏ họ có quyền tự quyết chăng? Hệ quả là gì? Một người không có quyền tự quyết chỉ là một người máy, một cỗ máy. Đặc tính của cỗ máy là gì? Là nếu con nhấn một nút, thì chắc chắn con nhận được từ cỗ máy một phản ứng nhất định nào đó. Nếu con không nhận được phản ứng đó thì cỗ máy không hoạt động hoàn chỉnh, tức là có điều gì không ổn, cần phải được sửa chữa.

Con là một sinh thể có sáng tạo. Nếu có ai nhấn nút thì con không bắt buộc phải phản ứng một cách tiêu cực, vì con có quyền chọn mình không là một máy điện toán. Con có thể chọn mình là một vị đồng sáng tạo với Thượng đế và con có thể đồng sáng tạo một phản ứng tốt đẹp hơn bằng cách kết nối với bản thể cao của con và nhận ra một cách rõ ràng là cái Hiện diện TA LÀ của con – là cái gì ở bên trên thế giới vật chất này – không thể bị ảnh hưởng bởi một người đang nổi cáu. Nó không bao giờ phản ứng tiêu cực với người khác, bất kể họ làm gì tới con.

Khi con hợp vào cái duy nhất đó, thì đó là nền tảng để con con đồng sáng tạo với bản thể cao của con một phản ứng tích cực, một phản ứng hứng khởi, một phản ứng nhằm nâng người khác lên thay vì chống đỡ, phản công và tìm cách dìm họ xuống, khóa miệng họ hoặc bất cứ phản ứng nào cứ được lặp đi lặp lại mãi.

Hơn nữa, hay không hơn nữa

Trong bất cứ hoàn cảnh nào, bất kể người khác làm hay nói gì, con nên hỏi mình: con muốn mình hơn nữa trong hoàn cảnh đó chăng? Hay là con muốn mình kém đi – có nghĩa là con để cho người kia, hay tự ngã của con hay tâm thức đại chúng điều khiển con và buộc con phải kém hơn con người thực của con, là một vị đồng sáng tạo đã được Thượng đế ban cho khả năng sáng tạo vô biên khi được ngài tạo ra. Đó chính là sự lựa chọn: ngay hôm nay con hãy chọn mình sẽ phục vụ cái gì. Con sẽ phục vụ cái kém hơn, hay con sẽ phục vụ cái hơn nữa?

Nếu con chọn phục vụ cái hơn nữa, thì con hãy tôn trọng quyền tự quyết mà Thượng đế đã cho con để chọn mình là hơn nữa trong mọi hoàn cảnh. Thực tế là khi đa số nhân loại chọn cái kém hơn, thì họ tạo nên một vòng xoáy đi xuống càng ngày càng mạnh khiến cả nhân loại đi vào một cuộc đại suy thoái, giống như chữ được dùng để chỉ nền kinh tế toàn cầu vào những năm 1930.

Con hãy nhận ra là về các mặt tâm lý, xúc cảm và tinh thần, nhân lọai đã ở trong một tình trạng đại suy thoái tâm linh. Nhân loại đã bị kẹt trong đó một thời gian rất dài rồi, khiến con người cảm thấy bất lực và không có khả năng vượt qua các giới hạn. Họ không nhận ra rằng thực sự mọi việc đều là sự thể hiện của tâm thức và chính con người lựa chọn tâm thức của mình. Mỗi người đều có quyền chọn đón nhận điều này điều kia vào tâm thức của mình, tức là để cho các thứ này trở thành một phần con người của mình. Tức là mình đã chọn để chúng quyết định mình là ai, và như vậy chấp nhận là mình không hơn cái bản sắc đang cảm thấy bị kẹt trong vũ trụ vật chất này.

Tiềm năng cao và thấp

Thầy muốn nói gì qua mấy lời bàn lan man này? Thầy đang tìm cách dẫn con tới chỗ nhận ra rằng quyển sách sách này, và cách con sử dụng nó, có một tiềm năng cao và một tiềm năng thấp. Nó có thể chỉ là một quyển sách về tâm linh như nhiều quyển khác mà sau khi đọc xong con cảm thấy thoải mái, nhẹ nhàng và nói: “Ồ, sách này hay quá” và sau đó ngay lập tức trở về với các thói quen và khuôn nếp cũ. Hoặc con có thể chọn biến quyển sách này thành một kinh nghiệm đổi đời, qua đó con tiến lên một mức cao hơn và sẽ không bao giờ trở về chỗ cũ nữa. Con đã đặt chân lên tảng đá của tánh Ki-tô trong nội tâm mình một cách vững chắc đến độ con không thể quay về những khuôn nếp và thói quen cũ nữa. Con có lựa chọn này mỗi khi con đọc một quyển sách tâm linh. Nhưng thầy muốn nói với con rằng ngay lúc này, hơn các lần khác trong quá khứ, con cần cân nhắc lựa chọn và tiềm năng đó.

Tất nhiên, thầy là một vị đã thăng hoa. Do đó thầy không bao giờ cảm thấy bị đe dọa bởi những lựa chọn của con, và thầy cũng không hề mong muốn điều khiển con. Thầy và các chân sư đã thăng hoa khác không cần điều gì nơi con cả, khác với các sinh thể trên cõi vô hình giao tiếp qua các đồng bóng. Các thầy không cần tiền bạc của các con, không cần sự chú ý, không cần năng lực, không cần sự phục tùng của các con, không cần các con tôn thờ.

Hỡi con yếu dấu, thầy có tự do như Thượng đế, và vì vậy, thầy có thể cho con quyền tự do trở thành bất cứ cái gì con chọn. Thầy không muốn ảnh hưởng sự lựa chọn của con, nhưng thầy cũng có quyền – một quyền do Thượng đế ban cho – giúp con nhận thức rõ ràng hơn là con có tiềm năng lấy một lựa chọn khác. Con cũng có quyền làm như vậy khi con tiếp xúc với bất cứ ai.

Phá vỡ khuôn nếp cũ

Thầy không có ý nói là ta nên khoan dung và chấp nhận để con người có một trạng thái tâm thức thấp hơn. Khi con nhận ra rằng con không cần phải xuống cùng mức tâm thức của người khác, thì con đã mặc nhiên cho họ thấy là có một lựa chọn cao hơn. Họ chờ đợi con có một phản ứng tiêu cực, và như vậy điều họ tin sẽ được củng cố, tỷ dụ như họ tin rằng họ có thể điều khiển con bằng cách làm cho con sợ hãi, hay tức giận khi họ khiêu khích con.

Khi con lựa chọn giống như các lần trước, bất kể lựa chọn này là gì, và đi theo khuôn nếp cũ, thì con đã củng cố nơi họ và nơi chính con hình ảnh con là một người kém hơn. Nhưng khi con chọn một phản ứng khác – một phản ứng cao hơn – thì con làm họ bị chấn động và nhận ra rằng có điều gì đang xảy ra mà chưa từng xảy ra trước đó, một điều gì mới lạ, khác thường.

Đây là mục đích chính của các thầy khi các thầy truyền đạt giáo lý qua sứ giả. Các thầy chỉ có mục đích đơn giản là giúp con người nhận thấy rằng có một trạng thái tâm thức cao hơn, rằng ai cũng có thể vượt lên trên tâm thức nhị nguyên, vượt lên trên tự ngã và tất cả các khuôn nếp cứ lặp đi lặp lại mãi.

Con lúc nào cũng có thể lấy một lựa chọn khác. Con có thể chọn là mình hơn một người phàm, hơn một người máy sinh học được lập trình sẵn – một máy điện toán sinh học chỉ có thể phản ứng một cách nhất định khi một số nút được nhấn. Con thực sự có thể chọn tuần tự loại bỏ những nút đó – tức là những chỗ nghẽn, những vết thương, dính mắc – đến độ con không còn nút nào để ông hoàng thế gian này có thể nhấn vào. Hắn không nắm được gì nơi con để hắn điều khiển được con.

Hỡi các con yêu dấu, đó chính là tự do – đó là cách duy nhất để có tự do trên quả địa cầu này. Đó là cách duy nhất để thoát khỏi quả địa cầu này và thăng hoa lên một cõi cao hơn.

Đệ tử giả

Có những người tự coi mình là đệ tử của các chân sư đã thăng hoa, họ đã theo học nhiều đợt truyền pháp của các thầy, họ đã học các bài giảng của các thầy, các bài giảng về hơn nữa, về lựa chọn tốt hơn, nhưng họ là đệ tử giả. Họ đã biến các lời giảng của các thầy thành một hệ thống tín điều tinh tế qua đó ta chỉ cần đáp ứng một số yêu cầu vỏ ngoài – tỷ dụ như đọc cầu chú, dự các buổi lễ, dự hội nghị, nghiên cứu sách, hoặc nói chuyện hay ăn mặc một cách nào đó, và không lái xe màu đỏ, và tất cả những thứ vỏ ngoài khác – thì họ sẽ chắc chắn được thăng hoa một ngày nào đó. Họ nghĩ rằng một ngày nào đó, không biết do đâu, như một phép lạ, thì bỗng nhiên họ sẽ thăng hoa, mà không cần phải đối mặt với tự ngã của mình và lựa chọn trở nên hơn nữa bằng cách chọn nhìn vào những ảo tưởng của tự ngã và tháo gỡ chúng bằng cách chọn thực tại Ki-tô thay vì ảo tưởng nhị nguyên.

Không có cách nào để tự động thăng hoa cả, vì thăng hoa là một sự lựa chọn! Có một sự lựa chọn cuối cùng, nhưng trước khi con tới mức có thể lấy lựa chọn thăng hoa, thì con sẽ phải lấy nhiều nhiều lựa chọn khác. Vị huynh đệ yêu dấu của thầy là ngài Saint Germain đã chẳng nói rằng sự thăng hoa của ngài là kết quả của hơn một triệu lựa chọn đúng, mỗi lựa chọn là một lựa chọn hơn nữa thay vì kém hơn? Câu này không có nghĩa là Saint Germain đã tham gia một cuộc thi đố, một cuộc khảo hạch nào đó, trên trái đất này. Không có bài kiểm tra trắc nghiệm nào có thể bảo đảm sự thăng hoa của con. Các lựa chọn mà thầy nói ở đây là các lựa chọn sáng tạo, mà sáng tạo là gì vậy? Đó chính là cái hơn nữa. Đây là định nghĩa đơn giản nhất của sự sáng tạo mà con có thể tìm thấy. Cái gì hơn nữađó chính là sự sáng tạo.

Sáng tạo thật sự

Con lấy một lựa chọn sáng tạo khi con chọn là hơn nữa – khi con chọn con hơn cái gì mà người khác muốn con là vì họ muốn con trở về các khuôn nếp cũ của cái kém hơn. Con chọn không chấp nhận điều đó và thay vào đó, con chọn là hơn nữa và thể hiện điều này bằng cách thực sự vượt lên trên và chứng minh rằng cuộc sống có cái gì hơn là cứ lặp đi lặp lại những thói quen cũ như thị phi, đấu khẩu và tranh cãi.

Mình phải tự hỏi tại sao một người có thể mãn nguyện hay hài lòng khi suốt đời họ lặp lại một cách máy móc những khuôn nếp cũ như một cái đĩa nhạc bị rè.

Con yêu dấu, hãy suy gẫm điều này! Con hãy nhớ lại cái đĩa nhạc rè mà con được biết khi còn nhỏ – tuy rằng trong số các con có lẽ có nhiều người đã lớn lên vào thời đại mà các đĩa nhạc đã bị xếp lên đầu tủ để gom bụi. Con hãy nhớ lại lúc mình đang chờ đợi bài hát tiếp tục thì nó lại lặp lại, con mất bao lâu để nhận ra rằng có cái gì không ổn? Con mất bao lâu để bắt đầu cảm thấy hơi căng thẳng và muốn bài hát tiếp tục?

Con có thấy chăng là tâm của con được tạo tác với khả năng sáng tạo, và do đó có một phần tâm con không hài lòng với một cuộc sống cứ lặp đi lặp lại như một cái đĩa nhạc rè – trừ phi con đã bị rơi vào một trong những vòng lẩn quẩn do các thầy giả dựng lên để làm điên đảo con người. Những người bị rơi vào các vòng lẩn quẩn này không còn ý muốn tiến hơn nữa và do đó không thoát ra được các khuôn nếp cứ lặp đi lặp lại mãi. Nhưng con thì có thể thoát ra được, vì nếu không con đã không có mặt nơi đây – thậm chí là không có khả năng nghe được các câu nói này của thầy. Và, con yêu dấu, trong tâm con con biết rõ điều đó.

Bước ngoặt và lựa chọn con là

Đó là lý do tại sao thầy nói lại một lần nữa: là con đã đến chỗ con có thể thực sự vươn lên một mức hoàn toàn khác và biến việc đọc quyển sách này thành một bước ngoặt quyết định trong đời con. Mọi chuyện đều đã được an bày. Mọi nhân duyên đều đã có mặt. Con chỉ cần lựa chọn đúng và tiếp tục củng cố lựa chọn này trong tương lai để bất kể chuyện gì xảy ra con cũng sẽ không chịu đi xuống ngay khi cả nhân loại bị vòng xoáy của sợ hãi cuốn xuống, do tình hình kinh tế hay chiến tranh hay bất cứ biến cố gì khác gây nên. Con đã tự đưa mình đến chỗ có thể vĩnh viễn thoát khỏi lực kéo xuống của tâm thức quần chúng. Bất kể điều gì xảy ra bên ngoài sẽ không khiến con bị cám dỗ đi theo vòng xoáy đi xuống, ngược lại con sẽ tiếp tục cứ lên cao và lên cao nữa, luôn luôn chọn mình là hơn nữa, bất kể tình cảnh lúc đó như thế nào – tình cảnh này ở phạm vi riêng con hay phạm vi toàn cầu.

Con đã tới thời điểm đó. Con đang ở thời điểm giống như khi Giê-su bước đến đám người và nói với họ: “Hãy bỏ lưới xuống và theo ta, ta sẽ biến các ngươi thành những tay đánh lưới người.” Con đã sẵn sàng bỏ lưới của con, và các thầy sẽ biến con thành một tay đánh lưới người có khả năng cho mọi người thấy rằng quả thực có hơn nữa.

Con hãy lựa chọn trong tự do. Con đừng lựa chọn vội vã với cái tâm vỏ ngoài. Con hãy dùng việc đọc quyển sách này để đi vào nội tâm, để tiếp xúc phần cốt lõi trong con. Nếu con dùng ngoại tâm để lựa chọn thì con sẽ phải đấu tranh với các thế lực thế gian chống lại lựa chọn của con.

Con hãy cho mình đủ thời gian để lựa chọn. Con hãy dành đủ thời gian để đi vào bên trong mình cho tới khi con tìm lại lúc chính con chọn đầu thai vào thế giới này để mang tới ánh sáng và tình thương vô điều kiện của Thượng đế. Đó là sự lựa chọn, một lựa chọn tự phát tự nguyện, hoàn toàn hợp nhất, vô điều kiện mà không gì trên thế gian này có thể cưỡng lại. Chỉ khi nào con chọn từ mức độ đó của tâm con, thì sự lựa chọn mới bền vững và vĩnh viễn. Chỉ khi đó con mới , con mới vượt lên trên cái phản-là.

Khi các thầy, là các chân sư đã thăng hoa, đỡ đầu một pháp giảng hay phong trào nào, thì sự đỡ đầu này không máy móc tự động, như một số đệ tử đã lầm tưởng, mà là một sự đỡ đầu sáng tạo. Các thầy sẽ không đỡ đầu hoặc củng cố những lựa chọn được làm với ngoại tâm. Các thầy sẽ không củng cố nỗ lực của con khi con chỉ muốn cho mình dáng vẻ người tâm linh bằng cách áp dụng các quy tắc vỏ ngoài một cách máy móc. Các thầy sẽ củng cố những lựa chọn sáng tạo của con, những lựa chọn được làm từ quan điểm nhất nguyên.

Đó là lời nguyện của thầy, đó là tặng vật của thầy cho con ngày hôm nay. Thầy cống hiến cho con sự tự do trọn vẹn của tình thương vô điều kiện của thầy để con chọn. Bất kể con chọn thế nào, con sẽ vẫn có tình thương vô điều kiện của thầy. Vì nếu không như thế, thì tình thương của thầy đâu có vô điều kiện, và như vậy thì thầy đâu phải là một chân sư đã thăng hoa. Một người thăng hoa là người hoàn toàn tự do, và con cũng được tự do khi con cho mọi sự sống được quyền tự do lựa chọn, vì đó là quyền mà Thượng đế đã ban cho họ.

Thầy cảm ơn con đã chú tâm đọc bài này, thầy cảm ơn con đã sẵn lòng làm cánh cửa rộng mở đón nhận đợt trao truyền này giúp nó đi sâu vào tâm thức đại chúng toàn cầu. Nó thực sự đã tạo nên những làn sóng kinh động các quan niệm chối bỏ quyền lựa chọn, không muốn lựa chọn, không muốn lấy một lựa chọn thực sự thay vì một phản ứng được lập trình. Đó chính là tâm thức mà thầy muốn phá vỡ. Một lần nữa, thầy cảm ơn con, và thầy niêm con yêu dấu của thầy trong ngọn lửa của Ý chí Thượng đế – cũng là ý chí của Thượng đế bên trong con, của Thượng đế mà con .