23 | Thoát khỏi ngã gốc của con

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 3 tháng 12 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày muốn con nghĩ tới nhiều tín đồ Cơ đốc đang ngồi thờ phượng trong giáo đường của họ vào một buổi sáng Chủ nhật khắp nơi trên thế giới. Nhiều người trong họ thuộc về một giáo hội đặc thù và họ tin rằng giáo hội của họ có sự diễn giải chân chính về cuộc đời của thày và có khi còn là diễn giải chân chính duy nhất.

Nhiều người trong những tín đồ Cơ đốc này cho rằng họ diễn giải Kinh thánh theo nghĩa đen. Họ tuyên bố là họ diễn giải Thánh kinh theo nghĩa đen. Giờ đây, con yêu dấu, thày có thể chứng minh họ sai chỉ qua vài câu. Tất cả các con đều biết câu trích dẫn lời thày nói trong Thánh kinh: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nhưng ai vì ta mà mất mạng sống mình thì sẽ được sự sống thật, sự sống trường cửu.” Con yêu dấu, nếu con tuyên bố diễn giải thánh kinh theo nghĩa đen, thì câu hỏi là: “Vậy thì tại sao con chưa kết liễu mạng sống mình?”

Nếu con vẫn còn sống thì sự thật giản dị là con đã không hiểu theo nghĩa đen tất cả mọi câu trong Thánh kinh. Nếu con không hiểu theo nghĩa đen một câu nói (vì con đã không bỏ mạng sống mình để đi tìm đời sống vĩnh cửu), vậy thì tại sao con không hiểu câu nói đó theo nghĩa đen? Lẽ dĩ nhiên đó là vì con nhận ra ý của câu này không thể hiểu theo nghĩa đen được. Nếu có một câu không nên hiểu theo nghĩa đen, thì phải chăng nhiều câu khác cũng thế? Còn hơn thế nữa, phải chăng là tất cả những câu nói của thày không nên hiểu theo nghĩa đen?

Ngay cả Thánh kinh cũng chứng minh là thày giảng giáo lý thấp hơn cho đại chúng và giáo lý cao hơn cho các tông đồ của thày. Có khó lắm không để thấy là thày đã dạy một giáo lý có thể hiểu ở nhiều trình độ khác nhau vì thày chờ đợi là các con dùng giáo lý để gia tăng sự hiểu biết, để nâng cao sự nhận biết của các con? Khi làm như thế, con sẽ hiểu được ý nghĩa sâu sắc hơn đằng sau những lời thày nói. Cho nên, những ai hiểu Thánh kinh theo nghĩa đen đang không đi trên con đường tu, con Đường Đạo mà thày đã phác họa. Có khó lắm chăng để thấy điều này, con yêu dấu?

23.1. Những cái ngã của con bị kẹt trong một nhận thức đặc thù

Lẽ dĩ nhiên thày biết là tất cả các con có thể thấy được điều này vì nếu không thì các con đã không theo học giáo lý của các chân sư thăng thiên. Thày nêu lên điều này bởi vì ngay cả những người trong các con đã mở tâm đón nhận giáo lý của các thày, các con quả thực cũng nhận ra có những phần trong tâm thức mình đã hiểu một số điều theo nghĩa đen. Thày đã nói tới những cái ngã mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại những kinh nghiệm con trải qua trong thế gian này. Con yêu dấu, có thể nói một cái ngã như thế bị kẹt trong một trạng thái tâm thức mà con thấy nơi nhiều tín đồ Cơ đốc giáo cực chính thống.

Cái ngã được tạo ra cho một mục đích đặc thù và nó chỉ có thể nhìn cuộc đời (hay nhìn một khía cạnh đặc thù của cuộc đời) theo cách nhìn được quy định khi nó được tạo ra. Nó giống như cái máy cứ giản dị lặp đi lặp lại cùng một khuôn nếp. Giáo lý mà các thày trao truyền ở đây lẽ dĩ nhiên không dành cho người mới bắt đầu tu, ngay cả những người mới bắt đầu tu theo giáo lý của các chân sư thăng thiên. Nó được trao truyền đặc biệt cho những người đã tiến lên những tầng cao hơn. Giáo lý thày trao truyền trong lần truyền giảng này đặc biệt dành cho những người đã đọc quyển sách mà các thày đã trao truyền (Các Kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su) và do đó họ đã sẵn sàng đối phó với các khai ngộ này vì họ nhận ra họ là một avatar đã đầu thai trên trái đất. Thày yêu cầu con, nếu con cảm thấy mình chưa tới tầng mức này, thì con để qua bên giáo lý này và tìm hiểu một số giáo lý khác cho tới khi con cảm thấy mình sẵn sàng học nó. Nhiều người trong các con đã sẵn sàng và đó là lý do tại sao các thày không giữ lại giáo lý này.

Các thày đã trao truyền cho các con một số giáo lý về những cái ngã mà con đã tạo ra, những khía cạnh của tự ngã, những phàm linh nội tại. Đầu năm nay, thày có nói tới cách hành xử của con, cách con nhìn các chân sư thăng thiên. Thày đã nói con nhìn thế giới vật chất như thế nào và tất cả những giáo lý này là dụng cụ để giúp con khám phá ra con đã tạo ra những cái ngã nào bên trong con và chúng vẫn còn ở đó và con vẫn còn mang chúng bên trong con. Chúng là gánh nặng đè lên con, kiềm giữ con lại trên nhiều khía cạnh. Ví dụ như chúng có thể khiến cho tư tưởng của con đi vào những khuôn nếp lặp đi lặp lại. Chúng có thể khởi động một phản ứng xúc cảm khi con ở trong một số tình huống nào đó. Xúc cảm này có thể là sợ hãi, có thể là mắc cở hay hổ thẹn. Nó có thể là giận dữ; nó có thể là nhiều xúc cảm khác. Mỗi người mỗi khác, nhưng điểm chính là con nhận ra có một khuôn nếp được lặp đi lặp lại. Con yêu dấu, con lưu ý điều sau: Cái Ta Biết của con, cốt lõi của bản thể con là một sinh thể sáng tạo.

Nó muốn luôn luôn tiến lên và trải nghiệm cái mới. Đó là lý do tại sao con tới đây ngay từ đầu. Sau khi đã sống trên các hành tinh tự nhiên một thời gian dài, con muốn trải nghiệm cái gì mới, cái gì khác. Một lần nữa, điều này không có gì sai trái. Hiếu kỳ có thể giết con mèo nhưng các con không phải là mèo. Hiếu kỳ là điều hoàn toàn tự nhiên đối với một sinh thể đang mở rộng tự nhận biết của nó. Làm sao con có thể mở rộng tự nhận biết nếu con không hiếu kỳ về những gì ở bên ngoài ý niệm bản ngã hiện hành của con?

Con nhận ra ở đây là cốt lõi của bản thể con là hiếu kỳ, thích tiến sang chuyện khác, thích trải nghiệm những cái mới. Điều này có nghĩa là bất cứ khi nào con thấy có một khuôn nếp lặp đi lặp lại trong bốn thể phàm của mình, thì con biết đây không phải là cái ta thật của con. Con cũng biết là nó kiềm giữ con lại và có thể là nó khiến cho cái ta thật của con cảm thấy bực bội, bất toại nguyện, không vui khi phải ở đây.

23.2. Sự tạo thành của cái ngã tách biệt đầu tiên của con

Giờ đây, khi thày nói điều này, lẽ dĩ nhiên chúng ta cần phân biệt. Chúng ta cần tự hỏi: “Nếu cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, thì có thể nào cái Ta Biết thực sự cảm thấy không vui, nóng giận, bực bội chăng?” Câu hỏi này không có câu trải lời giản dị, đường thẳng. Lý do là vì con đã đầu thai trong một thời gian rất dài và do đó con đã tạo ra những cái ngã vi tế đến độ con bây giờ không thể thấy được sự khác biệt giữa cái Ta Biết và những cái ngã này.

Đó là lý do tại sao các thày đã bắt đầu nói với các con về một số ngã có tính cách phiến diện hơn và con có thể thấy rất dễ dàng là những ngã này liên quan tới những tình huống đặc thù hay khía cạnh đặc thù của cuộc sống. Con nhìn ra những ngã phiến diện này dễ hơn, con nhận diện chúng là ngã tách biệt và chúng không phải là cái ta thật của con. Trước đây các thày có trao truyền giáo lý về chấn thương nhập đời mà con gánh chịu khi con xuống đầu thai lần đầu trên trái đất, thì bây giờ các thày đã sẵn sàng trao cho các con sự hiểu biết là khi các con trải qua chấn thương nhập đời này, thì con tạo ra một cái ngã. Nó không phải là cách cơ bản con liên hệ với trái đất nhưng là cách cơ bản con liên hệ với trái đất sau khi bị chấn thương. Nói cách khác, để có thể đối phó với chấn thương, con tạo ra cái ngã tách biệt đầu tiên này. Chúng ta có thể nói ý niệm bản ngã mà con có trước khi bị chấn thương, ý niệm bản ngã mà con tạo ra khi con tạo ra bốn thể phàm của con, nó đã chết đi vì con bị chấn thương nhập đời.  

Con lưu ý là các thày đã giảng điều này trước đây nhưng thày sẽ tóm tắt ở đây. Để có thể đầu thai lần đầu trên một hành tinh dày đặc như trái đất, con tạo ra (với sự nhận biết mà con có trước khi con tới đây) thể bản sắc, thể lý trí, thể tình cảm và cuối cùng là thể vật lý (nghĩa là cái tâm liên quan tới thể vật lý). Ba thể cao được tạo ra dựa trên viễn quan về trái đất mà con có trước khi con thật sự kinh nghiệm cuộc sống trên trái đất. Nó là một cái ngã phần nào có tính cách lý thuyết. Sau đó, con đi xuống với ý định tốt nhất, với cái ngã con đã tạo ra với những mong chờ về những gì con muốn làm, về những gì con có thể gặp, về hậu quả của sự hiện diện của con ở đây. Sau đó, con trải nghiệm chấn thương nhập đời khi con gặp các sa nhân, và cái ngã nguyên thủy chết đi. Một cái ngã mới được tạo ra khi con phản ứng lại sa nhân và các điều kiện trên trái đất. Ta có thể nói là quả thực cái Ta Biết không thể cảm thấy buồn phiền, bực dọc hay bất toại nguyện khi nó nhận ra nó là nhận biết thuần khiết. Trong nhận biết thuần khiết không có cảm xúc tiêu cực, cũng không có bất cứ cảm xúc nào được gọi là cảm xúc tích cực trên trái đất. Trong nhận biết thuần khiết con chỉ giản dị quan sát. Nếu con có thể trụ mình vào nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết, con có thể chỉ quan sát trái đất. Con không lượng định, phê phán. Không có phán xét giá trị, không có cái phải là hay cái không được là: Con chỉ quan sát.

Đây là trạng thái tâm thức mà Phật đã chứng minh khi thày đạt sáng ngộ cuối cùng khi thày ngồi thiền định dưới cội cây Bồ đề, và quỷ sứ của Ma vương lại gần và tìm cách khích động thày phản ứng lại chúng một cách nào đó. Thày trụ trong tâm không dính mắc, thày đứng ra ngoài các khuôn nếp phản ứng bằng cách ở trong nhận biết thuần khiết trong đó thày thấy chuyện gì đang xảy ra trên trái đất nhưng chỉ quan sát mà không phản ứng.

Giờ đây lẽ dĩ nhiên, con yêu dấu, con không ở đây để ngồi dưới một gốc cây và chỉ quan sát. Con ở đây để tham gia vào cuộc sống trên trái đất. Con cần gì để có thể tham gia vào cuộc sống? Con cần một thể bản sắc, một thể lý trí, một thể tình cảm và một thể vật lý. Hệ quả là con có một cái ngã và điều này nghĩa là con có thể bước lui ra khỏi cái ngã đó, đi vào nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết và chỉ quan sát. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là điều con làm trong đời sống thường nhật thực tiễn. Ngay lúc con chú ý bên ngoài để thực sự tham gia vào cuộc sống trên trái đất này, thì con (như là cái Ta Biết) đang trải nghiệm cuộc sống qua cái ngã mà con tạo ra. Đó là lý do tại sao cái Ta Biết có thể kinh nghiệm sự bực bội, thất vọng, cảm giác bị ruồng bỏ.

Trên mặt lý thuyết đây không phải là cái Ta Biết. Những cảm xúc này không ở trong cái Ta Biết nhưng cái Ta Biết đang kinh nghiệm cuộc sống qua cái ngã đó. Đó là lý do tại sao đây là một ý niệm sâu thẳm về bản ngã mà hầu hết không ai thấy được. Ngay cả những người đã đi trên con đường tu một thời gian khá dài cũng không thấy được điều này vì đây quả thực là cái ngã cơ bản mà họ đã tạo ra sau khi tới đây. Nó là cái ngã sinh ra sau khi cái ngã đầu tiên chết đi. Nó bám chặt, nó ăn sâu, nó vi tế đến độ con xem nó là đương nhiên. Con nghĩ đây là cách duy nhất để kinh nghiệm cuộc sống trên trái đất.

23.3. Con đã buông bỏ những cái ngã khác

Các thày đã trao truyền cho con khái niệm về những cái ngã phiến diện hơn liên quan tới một điều kiện đặc thù. Mục đích là giúp con nhận ra con đã thấy một số các ngã này. Con đã đi trên con đường tâm linh, ngay cả nếu con chỉ mới đi trong một thời gian ngắn (và ở đây thày không nói tới chuyện con tìm thấy những giáo lý đặc thù này vì nhiều người trong các con đã đi trên con đường tu nhiều năm trước khi con tìm thấy các giáo lý này). Nếu con đã đi trên con đường tu một thời gian, thì con đã thấy một số các ngã vỏ ngoài này, con đã tách mình ra khỏi chúng và con đã buông bỏ chúng.

Con đã quen thuộc với tiến trình buông bỏ đó. Một khi con nghĩ về nó và xem xét đường tu của mình, con nhận ra là con đã buông bỏ một số ngã này (có thể là con buông bỏ một cách không có ý thức). Ngày hôm nay con không phản ứng giống như trước khi con tìm thấy con đường tâm linh. Con đã thăng vượt một số khuôn nếp phản ứng, con đã bỏ chúng lại đằng sau, và đó là vì con đã vượt lên trên những cái ngã vỏ ngoài này. Điều thày muốn nói ở đây là một cái ngã vỏ ngoài là một cái ngã vỏ ngoài. Con có thể có một cái ngã vỏ ngoài liên quan tới cách con hành xử với những người nổi giận với con. Lẽ dĩ nhiên nó là một cái ngã vỏ ngoài đặc thù hơn cái ngã con đã tạo ra khi con phản ứng lại chấn thương nhập đời, nhưng trên căn bản cả hai đều được tạo ra theo cùng một cách.

Cả hai đều dựa trên một ảo tưởng cho nên cách khắc phục chúng quả thực là một. Con nhận ra nó là một cái ngã vỏ ngoài và con quyết định con không muốn mang nó trong mình nữa. Sau đó con có thể buông bỏ nó. Tuy nhiên với cái ngã mà con tạo ra trong chấn thương nhập đời vũ trụ, mà chúng ta có thể gọi là ngã gốc, thì lẽ dĩ nhiên buông bỏ nó khó hơn vì nó vi tế hơn.

23.4. Cái ngã mà con có trong kiếp đầu thai đầu tiên

Khi thày nói con xuống đầu thai với một cái ngã mà con đã tạo ra trước khi con kinh nghiệm cuộc sống trên trái đất và cái ngã này chết đi và con tạo ra một cái ngã khác, thì điều này thực sự có nghĩa gì? Ấy, điều này có nghĩa, con yêu dấu, là khi cái ngã trước của con chết đi, con mất đi khung tham chiếu mà cái ngã này có thể cho con. Nói cách khác, cái ngã mà con có khi con xuống đây được tạo ra với tầm nhìn của con từ một cõi cao hơn, dựa trên cuộc sống của con trên một hành tinh tự nhiên. Lẽ dĩ nhiên cái ngã này không đầy đủ vì nó không biết cuộc sống ở đây ra sao. Điều nó biết là có một lối sống khác với lối sống trên trái đất, có một dạng sống tốt hơn; có một cái gì khác. Khi con trải qua chấn thương và cái ngã đó chết đi, con mất đi khung tham chiếu này, ít nhất là trong tâm ý thức của con.

Điều này có nghĩa là từ lúc đó con bắt đầu nghĩ và kinh nghiệm là cách duy nhất để nhìn cuộc sống là cách con đang nhìn cuộc sống qua cái ngã mới, cái ngã gốc mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại chấn thương nhập đời và các điều kiện trên trái đất. Do đó nhận diện cái ngã này khó hơn nhận diện những cái ngã phiến diện hơn. Con phải làm việc nhiều hơn nhưng các thày đã trao truyền giáo lý và dụng cụ cho các con. Dụng cụ của Mẹ Mary để giúp con tiếp cận chấn thương nhập đời là một dụng cụ tuyệt diệu giúp con có một nhận biết, một nhận biết rộng hơn về cái ngã mà con đã tạo ra để con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó. Có thể nói là con có thể bắt đầu thấy ngã này từ bên ngoài thay vì con nhìn cuộc sống xuyên qua cái ngã, từ bên trong cái ngã.

23.5. Buông bỏ cái ngã thâm sâu

Thày tin là con cũng thấy sự thật hiển nhiên là ngày nào con còn ở trong một cái ngã, thì con không thể thấy cái ngã đó. Nếu con mang cặp mắt kính màu vàng và con không biết mình đang mang kính thì con không thể thấy cặp kính này. Để có thể thấy được cái ngã, thì con phải bước ra bên ngoài nó. Lẽ dĩ nhiên, mục đích của các thày là dẫn con theo một tiến trình trong đó con dần dần buông bỏ tất cả những phàm linh và ngã phiến diện cho tới khi con tới điểm cái ngã duy nhất còn lại là ngã gốc. Khi con đã đi qua tiến trình này, thì con có thể chuyển đổi nhận thức và nhận ra con có một ngã gốc. Nó vi tế hơn các ngã khác nhưng nó vẫn chỉ là một cái ngã được tạo ra theo cùng một cách. Sau đó con có thể bắt đầu nhận ra nó không phải là con người thật của con. Nó là một cái ngã được tạo ra để đáp ứng lại một tình huống rất khó khăn, làm con bị chấn thương mạnh, xảy ra cho con trên trái đất.

Một lần nữa các thày hoàn toàn không trách cứ con. Các thày đã từng đầu thai; các thày đã tạo ra một ngã gốc khi phản ứng lại chấn thương nhập đời trên hành tinh này. Các thày chỉ có mặt ở đây để chứng minh cho các con thấy là các thày đã khắc phục cái ngã gốc đó và do đó các con cũng làm được. Điều mà một người đã làm được thì tất cả đều có thể làm được.

Vậy thì làm sao con khắc phục cái ngã gốc được? Ấy, như các thày đã nói trước đây, chìa khóa là con nhận ra là bất cứ mọi cái ngã đều được tạo ra với một mục đích đặc trưng, với một tầm nhìn đặc trưng. Do đó, chúng ta có thể nói là trong cốt lõi, cái ngã có một vấn đề nào đó. Nó có một vấn đề cố hữu và khi con nhìn từ bên trong cái ngã, vấn đề này phải được giải quyết một cách nào đó. Các thày đã nói là các con có thể đã tới đây với ý định tạo ra một sự thay đổi bên ngoài nào đó trên trái đất. Sau đó khi con tạo ra một cái ngã dựa trên những gì xảy ra cho con trên trái đất, cái ngã này có thể phóng chiếu ra hay nó có thể thấy một vấn đề đặc trưng nào đó ở đây trên trái đất nhất định phải được giải quyết. Như thày có nói, nếu vấn đề là chiến tranh, thì phải loại trừ chiến tranh ra khỏi trái đất trước khi con có thể giải quyết vấn đề.

Lẽ dĩ nhiên đây không phải là cách giúp con khắc phục một cái ngã như thế. Ngay cả nếu con giải quyết được vấn đề mà cái ngã phóng chiếu ra, như loại trừ tất cả chiến tranh, thì con vẫn không tự động khắc phục được cái ngã vỏ ngoài này. Bí quyết ở đây là con bắt đầu nhận ra là con sẽ không vượt lên trên ngã gốc bằng cách giải quyết vấn đề hay thay đổi điều kiện đã khiến con phản ứng lại và tạo ra ngã gốc.

Con sẽ chỉ khắc phục nó khi con nhận ra nó là một ngã tách biệt, nó dựa trên một ảo tưởng và không có vấn đề nào cần giải quyết. Điều này lẽ dĩ nhiên không đơn giản. Đúng là có chiến tranh trên trái đất. Đúng là các chân sư thăng thiên muốn loại trừ chiến tranh khỏi trái đất, và tất cả các con cũng vậy. Nó là một vấn đề thật, nhưng con không thể giải thoát khỏi ngã gốc bằng cách giải quyết vấn đề ở bên ngoài. Nó chỉ làm được bằng cách giải quyết cơ cấu bên trong con khiến con nghĩ rằng cuộc sống của con trên hành tinh này, ý niệm bản ngã của con và việc con rời khỏi hành tinh này, tùy thuộc vào bất kỳ điều kiện nào ở đây.

Một lần nữa chúng ta có thể xem xét những gì thày nói, trích dẫn từ thánh kinh: “Ông Hoàng Thế gian tới và không nắm được gì nơi ta.” Câu này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là không có lực nào trên trái đất có sức thu hút trên con khiến con phải làm điều gì đó, phải thay đổi điều gì đó, phải giải quyết điều gì đó ở đây. Không có lực nào có thể ra lệnh cho con là con phải phản ứng theo kiểu nào đó, con phải có cảm xúc như thế nào đó.

23.6. Cảm nhận của ngã gốc

Giờ đây, lẽ dĩ nhiên là không phải tất cả các con đều đã tạo ra một ngã gốc có mục đích giải quyết một vấn đề nào đó. Một số các con đã tạo ra một ngã gốc cảm thấy mình bị sa nhân hoàn toàn bác bỏ. Một số các con đã tạo ra những cái ngã cảm thấy một nỗi buồn chung về cuộc sống, cảm thấy rất thất vọng và rất bị chấn động vì những điều kiện ở đây, cảm thấy mình quá bất lực không thay đổi được chúng, cho nên việc mình tới đây không có ý nghĩa gì và không đạt được mục đích gì. Việc mình tới đây đã là một sai lầm.

Mỗi người trong các con phải dùng các dụng cụ của các thày, dùng bài tập của Mẹ Mary, để chiêm nghiệm xem ngã gốc của mình là gì. Cốt lõi của nó là gì? Phản ứng là gì? Niềm tin là gì? Sau đó, con cần nhận ra là ngã gốc đã cho con một cảm nhận gốc, một ý niệm gốc về trái đất và đời sống trên trái đất. Lẽ dĩ nhiên ý niệm này không đẹp đẽ cho nên con biết đáng lẽ nó phải khác. Như thày đã nói, dù là cái ngã nguyên thủy của con đã chết, một số các con vẫn có thể còn cảm nhận là có một lối sống khác với lối sống trên trái đất, có một cõi khác nơi, ví dụ, chiến tranh không có mặt.

Con cảm thấy một sự bất an nào đó, một sự căng thẳng nào đó. Có điều gì đó sai, có điều gì đó làm con bất an. Con cần tới được điểm con nhận diện chính xác cảm giác đó, niềm tin đó vì, như các thày đã nói với con, khi con gặp chấn thương nhập đời thì con lấy một quyết định. Đây có thể là một quyết định khó có thể diễn tả chính xác bằng lời. Như được nói trong quyển sách, con đã lấy quyết định: “Tôi không bao giờ muốn kinh nghiệm điều này nữa.” Điều chính xác nào con không muốn kinh nghiệm nữa? Con cũng đã lấy quyết định điều gì con có thể làm và điều gì con muốn làm trên trái đất kể từ lúc đó – nghĩa là con sẽ tiếp cận cuộc sống như thế nào. Ở đây con cần nhận ra một sự vận hành cơ bản.

23.7. Sa nhân phá hoại sứ vụ của con

Có nhiều sa nhân đang đầu thai mà có thể con đã gặp họ nhưng họ không ý thức điều này. Các sa nhân ở cõi bản sắc chắc chắn ý thức điều này. Họ biết về các avatar, họ biết đã có nhiều sinh thể tới trái đất để nâng hành tinh này lên. Họ biết rằng sự thống trị trái đất của họ tùy thuộc họ có phá hoại được sứ vụ của các avatar này không hay ít nhất trì hoãn được sứ vụ đó. Điều họ thực sự muốn làm là cho con một cú sốc lớn đến độ con cảm thấy sứ vụ nguyên thủy của con khi xuống đây không thể hoàn thành được. Do đó con cảm thấy con đã sai lầm khi tới đây vì con không thể đem lại thay đổi. Con không thể thay đổi bất cứ điều gì trên trái đất.

Nhiều người trong các con khi trải qua chấn thương nhập đời vũ trụ đã bị cú sốc vì các con tới đây với ý định trong sáng nhất. Điều này có nghĩa là các con thấy mọi người trên trái đất đang đau khổ, tỷ dụ vì có chiến tranh trên trái đất. Con giả định là nếu con người đang đau khổ, thì họ muốn thoát khỏi đau khổ và do đó họ muốn khắc phục chiến tranh. Con xuống đây và con nghĩ lẽ hiển nhiên con người muốn khắc phục chiến tranh. Khi con đề nghị cách thực hiện điều này, thì con chờ đợi là mọi người sẽ tiếp nhận một cách tích cực.

Khi con ở trên hành tinh tự nhiên, con quen thấy mọi người đều muốn cải thiện cuộc sống của họ. Sau đó, con xuống trái đất và con nhận ra hai điều. Trước tiên, có những người trên trái đất không muốn thay đổi, họ không muốn khắc phục đau khổ của họ; họ không muốn từ bỏ chiến tranh hay bất cứ điều gì khác. Họ không muốn thay đổi. Sau đó, khi con ở dưới này, con trải nghiệm trọn vẹn hiện thực tuyệt đối, không thay đổi được của quyền tự quyết. Trước đây, khi con nhìn xuống trái đất từ trên cao, con không thực sự hiểu thấu điều này. Tất cả chúng ta thật sự không hiểu thấu rằng nếu con người trên trái đất không muốn từ bỏ chiến tranh, thì con không ép họ được. Khi con ở dưới này, thì con nhận ra (và đây thường là cú sốc lớn nhất) là dù con biết cách khắc phục các vấn đề và giới hạn của nhân loại, nhưng con không làm gì được vì con người không hưởng ứng.

23.8. Cú sốc khi gặp sự chống đối thay đổi

Lẽ dĩ nhiên con không thể đi ngược lại quyền tự quyết của họ. Quả thực là con không muốn đi ngược lại quyền tự quyết của họ, nhưng trước khi con tới đây, con giản dị nghĩ nếu con chỉ cho họ con đường thoát khỏi lầm than, thì họ sẽ muốn theo con đường này. Con bị cú sốc khi nhận ra có một số sinh thể, các sa nhân, không những không muốn thay đổi mà còn tìm cách tiêu diệt con. Trong một số trường hợp con có thể đối phó với điều này, nhưng con cũng nhận ra là đại đa số người trên hành tinh này không muốn tiêu diệt con, họ chỉ không muốn dính dáng tới con. Họ không muốn lắng nghe con, họ không muốn thay đổi.

Khi con kinh nghiệm điều này, thì con rất dễ (và chúng ta đều đã làm như thế) lấy quyết định (quyết định này hơi khác tùy theo mỗi cá nhân) rằng: “Đáng lẽ tôi không nên tới đây, đó là một sai lầm, tôi chẳng làm được gì ở đây, tôi có mặt ở đây vô ích, tôi không thay đổi được sa nhân, tôi còn không thay đổi được con người vì họ không muốn thay đổi, họ không muốn vượt lên trên đau khổ của họ, họ còn không muốn lắng nghe tôi. Quả thực họ không muốn tôi ở đây.”

Trải nghiệm này khiến con có nỗi bất mãn sâu xa. Tại sao tôi ở đây? Tôi ở đây để làm gì? Ngay lúc sự bất mãn của con lên tới cùng cực, thì con lấy một quyết định là từ nay về sau con sẽ tiếp cận cuộc sống ra sao. Mỗi người sẽ biểu hiện quyết định đó thành lời khác nhau và đó là lý do tại sao con cần khám phá ra quyết định của riêng mình. Một ví dụ chung chung là con có thể quyết định rằng: “Tôi sẽ không can thiệp vào quyền tự quyết của con người.” Hoặc: “Tôi sẽ không bao giờ ép buộc ai. Tôi sẽ không bao giờ lấy quyết định ảnh hưởng tới người khác vì tôi không muốn ép buộc ai cả.” Hoặc: “Tôi sẽ không thách thức sa nhân.” Hoặc con có thể lấy quyết định, như quyển sách đã mô tả, là con sẽ chống lại sa nhân; hay quyết định là con muốn hiểu sa nhân và tại sao họ phản ứng như thế.

23.9. Tái sinh trong Ki-tô

Các quyết định đó đã tạo ra một cái ngã đã pha màu cách con nhìn mình như thế nào như một sinh thể trên trái đất. Đây là cái ngã cuối cùng, cái ngã gốc, mà con có thể buông bỏ, và con có thể buông bỏ nó. Con có thể buông bỏ nó từng phần một. Con có thể tới điểm con cho cái ngã đó chết đi và con tái sinh trong một ý niệm bản sắc mới dựa trên hiểu biết mà con có lúc này và dựa trên sự việc con đã phần nào tiếp xúc được với Hiện diện TA LÀ của con. Do đó con có thể được tái sinh trong Ki-tô vì đây không phải là một cái ngã vỏ ngoài dựa trên sợ hãi và phản ứng lại trái đất. Đây là cái ta hòa điệu với Hiện diện TA LÀ hay là nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, cá thể của Hiện diện TA LÀ của con, và thực tại Ki-tô là con là một sinh thể tâm linh, là nhận biết thuần khiết không thể bị ảnh hưởng hay thay đổi bởi bất cứ điều gì trên trái đất.

Lúc ấy, con có thể vượt lên trên ngã gốc và tái sinh trong ý niệm bản sắc mới qua đó con thấy cuộc sống trên trái đất là điều tích cực. Giờ đây con có cái nhìn tích cực, một mục tiêu tích cực, một cảm nhận tích cực. Điều này không có nghĩa là con có một vấn đề mà con nhất định phải giải quyết bằng được. Con nhận ra sự có mặt của con ở đây có ý nghĩa vì chỉ vỏn vẹn con có mặt ở đây là con đang tỏa chiếu ánh sáng vào tăm tối. Con đang cho mọi người một tấm gương là có một cách sống khác với tâm thức nhị nguyên, khác với đau khổ, khác trạng thái tâm loạn động như tâm của mọi người.

23.10. Khi cái bất thường trở thành bình thường

Mọi người trên trái đất đều không vui, bất toại nguyện và xáo trộn trong tâm: điều này hoàn toàn thật. Nhưng để có thể sống được thì mọi người tới điểm xem trạng thái mất quân bình là bình thường. Đó là lý do tại sao chế độ cộng sản sống còn lâu như vậy. Hầu hết mọi người chấp nhận đó là tình trạng bình thường để họ có thể sống được với nó và do đó họ có thể sống còn. Điều này không có nghĩa là họ bằng lòng với chế độ này. Điều này không có nghĩa là họ đang tăng triển nhưng họ có thể sống còn. Lẽ dĩ nhiên con cũng đã làm như thế: con đã tạo ra một chuẩn mực cho phép con sống còn. Con đã tìm ra một cách sống trên trái đất giúp con tránh được những cảnh huống khơi dậy cảm xúc mà con có khi trải qua chấn thương nhập đời của mình.

Gần giống như là con đã tìm ra một cách ru ngủ ngã gốc, cho nó bị hôn mê, vì con đã học cách tạo ra những hoàn cảnh bên ngoài không đánh thức nó dậy. Quả thực con có thể sống như vậy trong vài kiếp và con có thể tiến bộ trong việc vứt bỏ một số ngã vỏ ngoài nhưng con thật sự chưa bao giờ chạm vào ngã gốc. Có những trường hợp đệ tử chân sư thăng thiên đã theo học giáo lý của các chân sư thăng thiên vài thập kỷ và họ đã có tiến bộ nhưng họ còn chưa bắt đầu nhìn vào ngã gốc.

Một lần nữa không nhất thiết chuyện này là sai trái. Con không thể nhìn vào ngã gốc khi con chưa sẵn sàng. Nhưng con sẽ tới điểm quả thực dậm chân tại chỗ nếu con không bắt đầu nhìn vào ngã gốc. Con sẽ không tăng triển, có thể cho tới cuối kiếp sống này, bởi vì con có cảm nhận là có điều gì trong con mà con không muốn chạm tới, con không muốn đối phó – vì chuyện này khó quá.

23.11. Chuyển đổi đồng hóa mình với ai

Con có thể có cảm nhận là con biết mình đã buông bỏ nhiều cái ngã khác và làm điều này không có vấn đề. Cái ngã này, con cảm thấy không bỏ nó được vì con cảm thấy mình sẽ chết nếu bỏ nó. Con sẽ chết. Con yêu dấu, đúng thế. Con sẽ chết. Cái “ngã” qua đó con nhìn mình như một sinh thể trên trái đất, cái ngã đó sẽ chết. Điều này không có nghĩa là cái ta thật của con sẽ chết vì con sẽ tái sinh trong một cái ta mới mà con sẽ phải tuần tự tạo ra, lẽ dĩ nhiên. Con thấy là các thày hoàn toàn ý thức, con yêu dấu, là điều mà các thày yêu cầu con làm ở đây (trong các giáo lý gần đây về chấn thương nhập đời và hành trình của các con trên trái đất) là một việc làm rất, rất phức tạp. Con không thể phất tay một cái là làm xong. Con cần nhiều thời gian, một số năm, có khi vài thập kỷ vì con sẽ dần dần phá bỏ cái ngã cũ và đồng lúc con cũng tạo ra một cái ta mới.

Đây là một việc làm phức tạp, nhưng việc này có thể làm được và con đã trong tiến trình làm việc này. Những gì thày mô tả ở đây nghe rất lớn lao nhưng nó không lớn lao như thế. Khi con đi trên con đường tu, con buông bỏ một số ngã phiến diện, con cũng tạo ra một ý niệm bản ngã mới dựa trên một tầm nhìn tích cực, dựa trên sự hiểu biết của con về giáo lý. Không phải là con phải hoàn toàn phá vỡ ngã gốc và nó chết đi và con không còn gì cả – và sau đó con có thể bắt đầu xây dựng lại một cái ta mới. Mọi chuyện không xảy ra như thế. Con phá vỡ cái cũ và con tạo ra cái mới cùng một lúc.

Điều gì có thể mang lại sự chuyển đổi nơi con? Ấy nó giản dị như thế này. Thày không nói là tất cả các con đều làm được ngay bây giờ nhưng sẽ tới lúc con đã phá vỡ phần lớn ngã gốc của mình. Con đã tạo ra một cái ngã mới, nhưng trong bản thể của con vẫn còn một điểm nơi con đồng hóa mình với ngã gốc. Con vẫn nhìn cuộc sống trên trái đất qua ngã gốc này. Khi thày nói cho ngã gốc chết đi, thì đó là điểm con nhìn thấy nó, con thấy cái ngã đó và con có thể buông bỏ nó. Con có thể cho ngã gốc chết đi. Đó là lúc thày nói con tái sinh.

Điều thật sự xảy ra là trọng tâm bản sắc của con, trung tâm bản sắc của con, dời chuyển từ ngã gốc sang cái ta mới mà con đã gày dựng bấy lâu nay. Bất thình lình, con thoát khỏi cái nhìn tiêu cực về trái đất và cuộc sống trên trái đất và bây giờ con nhìn cuộc sống qua cái nhìn tích cực. Con nhìn mình với cái nhìn tích cực. Con không còn cái nhìn tiêu cực về điều gì con làm được hay không làm được trên trái đất, tại sao con ở đây và con đã ngu xuẩn khi tới đây – điều này và điều kia. Nó không còn nữa. Nó đã chết.

23.12. Khi chết là đồng minh của con

Con yêu dấu, con hiểu là có một câu trích từ thánh kinh nói rằng kẻ thù cuối cùng mà chúng ta chinh phục là cái chết. Câu này không chỉ cái chết vật lý. Tất cả các con đều là người tâm linh, các con đều nhận ra là các con đã từng sống trước đây và các con đều đã kinh nghiệm nhiều lần là thân xác vật lý chết đi nhưng con thì vẫn tồn tại. Thân xác có thể tới, có thể đi nhưng ta tồn tại mãi mãi. Chuyện xảy ra ở đây không phải là con chết (cái ta thật của con không chết) nhưng có một cái “ta”, một cái ngã đúng thực chết. Lẽ dĩ nhiên cái ngã này sẽ chống trả không muốn chết. Nó không có tự nhận biết nhưng nó có đủ tâm thức để chống lại cái chết. Lẽ dĩ nhiên nó sẽ phóng chiếu lên con là con sẽ chết khi chết. Đó là lý do tại sao con cần tới điểm xét lại quan điểm của mình về cái chết. Cái chết có thực là kẻ thù không?

Khi con nhận ra là cốt lõi bản sắc của mình là Hiện diện TA LÀ, ở trên cõi tâm linh, một cõi vượt lên trên thời gian và không gian, thì con biết là Hiện diện TA LÀ của con không thể chết. Các thày đã nói nhiều lần với các con là cái Ta Biết là một nối dài của Hiện diện nên nó cũng không thể chết. Khi con bắt đầu kết nối với ý niệm nhận biết thuần khiết đó (ý niệm biết mình hơn cái ta vỏ ngoài, hơn bất cứ điều gì trên trái đất), con có thể chuyển đổi nhận thức và nhận ra rằng con không thể chết. Cái có thể chết chỉ là ý niệm cái “ta”, ý niệm cái ngã, ý niệm mình là ai. Bởi vì ý niệm bản ngã của con giới hạn, nên con có thật sự mất mát chăng khi cái ngã đó chết đi? Hay đó là một thắng lợi cho con vì cái nhìn tiêu cực về mình đã chết, và con tái sinh trong cái nhìn tích cực? Nói cách khác, con tự do hơn sau khi cái ngã chết đi.

Kẻ thù cuối cùng mà mình chinh phục là cái chết, câu này nghĩa là gì? Nó nghĩa là con nhận ra cái chết không phải là kẻ thù của mình. Cái chết là bạn của mình. Cái chết là một dụng cụ giúp cho cái ngã giới hạn chết đi và nhờ vậy mình được tự do. Lẽ tự nhiên hầu hết mọi người chống cự lại cái chết vì họ quá đồng hóa họ với thân xác của họ và ngay cả thân xác cũng có nhận biết của nó, được gọi là bản năng sinh tồn khiến nó chống cự lại cái chết. Con biết là con sẽ không chết khi cái ngã tách biệt chết. Chúng ta không nói chuyện ở đây về cái chết vật lý. Chắc chắn đây không phải là giáo phái tự vận cuồng tín. Các con yêu dấu, chúng ta nói là con sẽ tới điểm thay vì sợ chết, sợ và chống cự cái ngã tách biệt chết, thì con cho phép nó xảy ra. Con đón mừng nó vì con nhận ra con sẽ tự do hơn sau cái chết của ngã tách biệt này. Đây là ý nghĩa đích thực của phục sinh.

23.13. Phục sinh đích thực

Phục sinh không thực sự là phục sinh thân xác như một số tín đồ Cơ đốc mơ tưởng. Trên căn bản nó là một khai ngộ tâm linh. Nó là điều con thấy khi thày đang bị treo trên cây thập tự và lúc đầu thày kêu lên: “Ôi Thượng đế, ôi Thượng đế, sao ngài lại bỏ rơi con?” Tại sao thày đã hành động như thế? Bởi vì cho tới lúc đó, thày có một cái ngã nghĩ rằng một cách nào đó Thượng đế sẽ làm phép lạ, gửi các thiên thần xuống giải cứu thày để thày không phải chết trên cây thập tự. Sau đó thày vẫn bị treo ở đó và thày nhận ra đây là một ảo tưởng. Có một cái ngã tách biệt mang ảo tưởng này. Quả thực nó là cái ngã tách biệt mà thày đã tạo ra khi bị chấn thương nhập đời. Nó là cái ngã tách biệt gốc của thày.

Trước khi thày xuống đầu thai lần đầu tiên trên trái đất, thày biết rất rõ tự thân mình không làm được điều gì cả. Thày biết rất rõ là cần có người đầu thai trên trái đất để làm cánh cửa mở cho uy lực của Thượng đế làm việc trong cõi vật chất của hành tinh này. Thày tình nguyện làm chuyện này, nhưng thày cũng đã xây đắp kỳ vọng là khi thày làm việc phụng sự Thượng đế thì Thượng đế sẽ can thiệp không để điều gì quá tệ hại xảy ra cho thày. Do đó, khi chuyện quá sức tệ hại xảy ra, thì Thượng đế sẽ tới và giải cứu thày bằng một phép lạ nào đó.

Đó là cái ngã thày đã xây dựng, đó là cái ngã thày đã có khi đầu thai. Sau đó, khi thày bị chấn thương nhập đời, thì thày đích thực nhận ra chuyện này sẽ không xảy ra. Thượng đế sẽ không dùng phép lạ để giải cứu thày khỏi hoàn cảnh rất khó khăn khiến thày bị chấn thương nhập đời. Thày phản ứng lại bằng cách tạo ra một ngã gốc giải thích tại sao Thượng đế đã không cứu thày trong hoàn cảnh đó. Đồng thời, thày cũng không thật sự chấp nhận thực tế của quyền tự quyết và Thượng đế không thể nào can thiệp vào quyền tự quyết và do đó trong một số trường hợp Thượng đế sẽ không thể nào giải cứu thày. Thày không chấp nhận điều này cho nên thày vẫn kỳ vọng là nếu thày thật sự, thật sự cần được giải cứu thì Thượng đế sẽ cứu thày.  

Cái ngã gốc của thày phải chịu tin là, thôi thì trong hoàn cảnh đó, dù nó tạo chấn thương tâm lý mạnh cho thày, thày quả thực không cần được giải cứu vì thày có thể đối phó được với chuyện đó. Nhưng nếu có một hoàn cảnh mà thày thật sự cần thì Thượng đế sẽ giải cứu thày. Nhiều nhiều năm sau đó, trong kiếp đầu thai cuối cùng của thày, thân xác thày đang bị treo trên cây thập tự và bỗng nhiên thày đối mặt với ngã gốc và kỳ vọng đây là một trong những cảnh huống mà thày thật sự, thật sự cần được giúp và bây giờ Thượng đế sẽ giải cứu cho thày. 

Lần đầu tiên thày thấy thực tế, toàn bộ thực tế của quyền tự quyết. Thày thật sự thấy nó và thày nhận ra là Thượng đế sẽ không giải cứu thày. Sau đó, thay vì tạo ra một cái ngã khác để đối phó với chuyện này, thì thày bỗng nhiên nhận ra đó là một cái ngã không thật. Nó chỉ là một ảo tưởng và thày thấy nó từ bên ngoài, và đó là lúc, như trong thánh kinh nói, thày “buông bỏ hồn ma.” Thày buông bỏ cái ngã cho rằng nó đặc biệt và do đó nó được quyền nhận phép lạ từ Thượng đế vì nó đã phụng sự Thượng đế trên trái đất này. Thày buông bỏ nó. Thày buông bỏ nó và sau đó thân xác thày chết đi nhưng điều thật sự quan trọng trong cảnh huống này là thày tái sinh theo nghĩa tâm linh. Cái ngã tách biệt, ngã gốc chết đi và thày tái sinh. Sau đó, thày không cần phải đầu thai trở lại trên trái đất nữa. Thày có thể từ bỏ trái đất. Dù rằng sau đó, thày được phép thị hiện một thân vật lý, điều này chính là để khởi động phong trào Cơ đốc và để khắc phục một số mong muốn vỏ ngoài không liên quan tới ngã gốc của thày. Tiến trình thật sự là việc cho phép cái ngã chết đi và con yêu dấu, có thể nói là khi con cho ngã gốc chết đi, con phải trải qua kinh nghiệm cảm thấy mình sẽ chết. Con cảm thấy con đang chết.

23.14. Chấp nhận cái chết

Giờ đây, con sẽ thấy, nếu con đã đọc về các kinh nghiệm cận tử, là có nhiều người đã trải qua kinh nghiệm cận tử trong một hoàn cảnh rất nguy hiểm, tạo chấn thương tâm lý. Trong một khoảng thời gian, bản năng sinh tồn của họ khiến họ chống cự lại và không chịu rời bỏ thân xác. Sau đó, họ tới điểm bỗng nhiên cảm thấy một sự bình an nội tâm và lúc đó họ buông bỏ thân xác và nói: “Bất chấp chuyện gì xảy ra.” Trong sự phó thác này, họ rời bỏ thân xác. Sau đó, họ có kinh nghiệm cận tử và trở về và kể lại câu chuyện. Con có thể tới điểm nhận diện ra ngã gốc, con biết nó cần phải chết đi, con biết bây giờ là đúng lúc. Sau đó, thay vì chống lại cái chết của ngã gốc, thì con quy thuận. Con hàng phục. Con cảm thấy bình an trong lòng và con nói: “Hãy cho nó chết đi; bất chấp chuyện gì sẽ xảy ra” hay “Xin ý cha được hoàn thành, không phải ý con.”

Con chỉ cho phép nó xảy ra và con cho phép mình trải qua tiến trình, trong đó mình cảm thấy như mình đang chết, giống như mình đang buông bỏ cái gì đó. Đó là vì con đang buông bỏ thật sự. Lẽ dĩ nhiên con kinh nghiệm là sau khi con buông bỏ cái ngã tách biệt này, con không biến mất, con vẫn còn tự nhận biết. Đấy là lúc con có thể chuyển dời bản sắc của mình tới một cái ta mới, một cái ta được xây dựng trong Ki-tô và con trở thành, như Paul đã diễn tả, “một sinh thể mới trong Ki-tô.”

Không phải tất cả các con đều làm được điều này trong khoảnh khắc. Thày không yêu cầu con làm điều này sau khi nghe hay đọc bài truyền đọc này. Thày yêu cầu con chiêm nghiệm tiến trình này, nhận biết tiến trình này. Khi con tới điểm đã sẵn sàng vì con đã phá vỡ hầu hết ngã gốc của mình, con đã tạo dựng một cái ta mới và quả thực để ngã gốc chết đi không phải là một chuyện lớn lao nữa (nó chỉ là chuyện chuyển dời tâm thức khi con đưa trọng tâm bản sắc của con rời khỏi ngã gốc để chuyển sang cái ta mới), thì lúc đó con không chống cự lại tiến trình. Con cảm thấy: “Ồ, tôi sẵn sàng rồi” và con giản dị buông bỏ. Con đón mừng cái chết. Con đón mừng cái chết của ngã gốc. Con đón mừng cái chết như người bạn của mình. Con ngưng chống lại nó. Con ngưng hờn trách hay chống cự nó. Con đón mừng nó, không phải như sự chết mà là sự tái sinh, là một khởi đầu mới. 

23.15. Hoàn tất lý do con tới trái đất

Con yêu dấu, đấy là lúc con thật sự có thể bắt đầu hoàn tất lý do nguyên thủy tại sao con xuống trái đất. Con không hoàn tất nó bằng cách làm điều gì, bằng cách thay đổi điều gì, bằng cách thay đổi người khác. Con hoàn tất lý do đó chỉ bằng cách con là cái con là và tỏa chiếu ánh sáng, sinh thể, tâm thức và khuôn đúc của cá thể mình. Con không cần giải quyết vấn đề nào và không cần hoàn tất mục tiêu nào. Con nhận ra rằng con chỉ cần ở đây là đã làm điều con tới đây để làm. Con cảm thấy mãn nguyện khi làm vậy vì sự việc con là cái con là không lệ thuộc vào chọn lựa của người khác. Con không cần thay đổi chọn lựa của người khác để là cái con là.

Có thể là con nhận ra, cái ngã gốc đã làm gì? Niềm tin cốt lõi của ngã gốc là gì? Con yêu dấu, nó tin là sự việc con là chính mình, con là cái con là, không tốt đủ. Hoặc như thế là sai trên hành tinh này. Hành tinh này không muốn thấy điều đó.  Nói cách khác, trước khi con xuống đây, con chờ đợi là con chỉ cần tới đây và là cái con là thì mọi người sẽ đón mừng con. Sau đó, con nhận ra là sa nhân và luôn cả hầu hết con người không đón mừng con, chào đón con, chấp nhận con. Con quyết định là hình như con đáng lẽ không nên là cái con là, con không được phép là cái con là trên hành tinh này. Hoặc sự việc con là cái con là vẫn chưa đủ.

Có thể nói là tất cả những gì con đã làm, tất cả những gì đã xảy ra cho con sau chấn thương nhập đời, là con đã dồn nén không cho phép con là cái con là. Đây là điều con có thể giành lại, và khi con giành lại, con sẽ có ảnh hưởng trên trái đất. Con sẽ không dính mắc tới ảnh hưởng này vì con không là cái con là để thay đổi bất cứ điều gì trên trái đất. Con là cái con là vì nó đem lại cho con niềm hỷ lạc và mãn nguyện lớn lao nhất.

Con nhận ra niềm hỷ lạc lớn nhất mà con có thể có trên trái đất là con là cái con là trước mọi điều kiện trên hành tinh này. Con có thể đứng yên và không gì ảnh hưởng được con, giống như Phật ngồi dưới cội bồ đề đối mặt với quỷ dữ của Ma vương đang cám dỗ để thày phản ứng lại chúng. Con có thể nhìn màn xiếc trên trái đất, con có thể nhìn vào quỷ dữ của Ma vương mà không phản ứng. Con vẫn tỏa chiếu ánh sáng của mình, vẫn sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật của mình, tương tác với người khác, đi làm, nuôi dạy các con, hay bất cứ điều gì khác. Con cảm thấy dòng chảy, niềm hỷ lạc, khi con cảm thấy con đang biểu lộ cái con là trong mọi việc con làm. Bỗng nhiên rào cản giữa sinh hoạt tâm linh và không tâm linh trở nên hoàn toàn vô nghĩa vì tất cả trở thành sinh hoạt tâm linh. 

Mọi sự đều biểu hiện cái con là. Mọi sự đều mang lại cho con niềm hỷ lạc và mãn nguyện, không còn cái đúng cái sai, hay cái này cái kia. Đây là cách con có thể mang lại ảnh hưởng lớn nhất cho hành tinh này vì nó sẽ kéo tâm thức tập thể lên. Nó sẽ gây cú sốc cho người khác, những người mở tâm để thấy là có một cách sống khác với cách sống mà họ xem là bình thường của con người.

Một lần nữa con không dính mắc chuyện người khác có làm hay không làm. Con không dính mắc chuyện này. Con chỉ chú tâm là cái con là và con vui hưởng làm như thế. Sau đó, con có thái độ là bất cứ chuyện gì xảy ra, con chỉ nói “bất chấp chuyện gì xảy ra.” Con không có ý định gì, con không có ý muốn vỏ ngoài nào. Con chỉ cho phép cuộc sống trải bày ra. Đây là, như các thày đã nói trước đây, ở trong Dòng sông sự Sống. Đây là trôi theo Dòng sông sự Sống. Con yêu dấu, đây đích thực là chứng minh quả vị Ki-tô. Nó có vẻ không lớn lao như nhiều tín đồ Cơ đốc giáo hay ngay cả đệ tử chân sư thăng thiên mường tượng, chẳng hạn như con phải làm tất cả những phép lạ kia hay làm tất cả những biểu hiện thấy rõ kia.

Con yêu dấu, một khía cạnh rất quan trọng, rất cao của quả vị Ki-tô (và lẽ dĩ nhiên có nhiều khía cạnh khác) là con có thể tham gia đời sống thường nhật với một thái độ và cách nhìn đời hoàn toàn tích cực. Phải chăng đây là chứng minh quả vị Ki-tô, con yêu dấu? Đích thực, nó .

Đây là điều mà thày đã không làm trong kiếp đầu thai cuối cùng, thày đồng ý với con. Nhưng phải chăng thày có nói là các con sẽ hoàn thành những việc lớn lao hơn thày? Đây là một ví dụ của những việc lớn lao hơn mà thày chưa đủ khả năng điều ngự để hoàn thành 2,000 năm về trước – con có thấy vậy chăng.

25 | Cảm thấy thoải mái với việc mình ở trên trái đất

Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 3 tháng 12 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama, và trong niềm vui của Phật, thày là. Nhiều người có lẽ không gắn liền Phật với niềm vui vì họ có hình ảnh Phật nghiêm trang, ngồi yên, có vẻ cách biệt khỏi trần thế và những người trong thế gian. Lẽ dĩ nhiên, con yêu dấu, nếu thày thật sự cách biệt khỏi con người thế gian, thì tại sao thày lại rời Niết bàn để giáo hóa họ? Nếu thày thật sự cách biệt, thì liệu thày có phát nguyện nâng cao ngọn lửa của Phật và giữ không gian cho trái đất? Chắc chắn là không, và do đó thày không cách biệt nhưng thày cũng không dính mắc. Trung đạo phải được tìm ra, không nhất thiết giữa hai đối cực mà vượt lên trên chúng.

Trung đạo là một điểm quân bình rất khó tìm trên một hành tinh dày đặc và tăm tối như trái đất. Chắc chắn là những người trong các con đã đến đây như một avatar đã phải đối mặt với thách thức này. Tất cả chúng ta, là những người đã đến đây như avatar, đều đã phải đối mặt với thách thức làm sao ở trong đời nhưng không thuộc vào đời. Lẽ dĩ nhiên, tất cả chúng ta đều đã trải qua một giai đoạn trầm mình vào thế gian, đồng hóa mình với thế gian, và tại sao chúng ta đã làm vậy? Chúng ta đã làm vậy như sự tiếp nối của mong muốn đã đem chúng ta tới đây. Chúng ta đã tới đây để đem lại một thay đổi tích cực và giúp trái đất vượt lên trên một số biểu hiện mà chúng ta thấy rõ là không tự nhiên và không thể hiện hữu trên một hành tinh tự nhiên.

25.1. Mong muốn có quyền năng siêu nhiên

Đó là mục đích đã đem chúng ta tới đây, và chúng ta đã đi vào một khuôn nếp phản ứng khi chúng ta tới đây và thấy là thiện tâm của mình bị bác bỏ và chê bai. Nhiều khi chúng ta lại càng thêm thiết tha, càng thêm dính mắc, muốn làm một việc mà các tà lực, các sa nhân, và các cư dân trái đất – các cư dân nguyên thủy của trái đất – không thể phớt lờ hay chối bỏ. Con thấy chăng, con yêu dấu, là nhiều người trong chúng ta, khi bị chấn thương nhập đời nguyên thủy và bị sa nhân và cư dân trái đất phớt lờ hay chê bai, đã tạo ra mong muốn có khả năng, ngay cả khả năng siêu nhiên, tạo ra một biểu hiện mà họ không thể phớt lờ, không thể chối bỏ.

Con thấy là ngay bây giờ vẫn có nhiều người tâm linh mong muốn thấy một biểu hiện không thể chối cãi chứng tỏ giá trị của cái nhìn tâm linh về đời sống, là đời sống có một khía cạnh tâm linh. Nhiều người mong muốn có được thần nhãn hay quyền năng siêu nhiên khác khiến họ làm được một chuyện mà con người không thể phớt lờ, chối bỏ, hay giải thích bẻ quẹo. Nhiều tín đồ tôn giáo cũng có mong muốn tương tự, như nói được ngoại ngữ lạ hay có khả năng chữa lành (bất kể điều này nghĩa là gì), hoặc Ki-tô trở lại trần thế như một biểu hiện không thể chối cãi trên không trung, khiến không ai có thể chối cãi là chuyện này đã xảy ra.

25.2. Nghi ngờ sự hiện hữu của Thượng đế

Qua các thời đại, nhiều người đã hỏi: “Tại sao Thượng đế không chứng minh là ngài hiện hữu, tại sao ngài không lấy đi sự tà ác và tăm tối khỏi trái đất?” Khi họ thấy là bóng tối tiếp tục tồn tại và Thượng đế dường như không có đó hay có vẻ cách biệt, thì họ bắt đầu nghi ngờ là một Thượng đế. Lẽ dĩ nhiên, đó là lúc sa nhân cảm thấy họ đã thực sự hoàn tất thành quả lớn nhất – khi họ khiến được một avatar nghi ngờ sự hiện hữu của Thượng đế. Quả thực, đây là điểm thấp nhất mà con có thể rơi xuống khi con là một avatar đã tới đây với nhận biết có cái một trong mọi sự sống, và mong muốn nâng mọi sự sống lên. Bây giờ thì con tới điểm nghi ngờ có một đấng tối cao, có một mục đích cao và con có mục đích khi tới đây.

Đó chính là điều sa nhân muốn đạt được. Họ muốn chúng ta rơi vào trạng thái đó, mà tất cả chúng ta đều đã rơi vào, như nhiều vị huynh đệ tôn quý của thày đã nói. Con yêu dấu, chính thày quả thực cũng đã rơi vào trạng thái đó. Thày đã rơi xuống một điểm thấp đến độ những ai có quan niệm tôn thờ Phật sẽ từ chối không chấp nhận. Họ sẽ nói là đây không phải là đức Phật thật đang nói là đức Phật đã rơi xuống trạng thái thấp như vậy, vì đức Phật chắc chắn đã sinh ra toàn hảo. Thày đã không sinh ra toàn hảo, trong kiếp đầu thai cuối hay trong bất cứ các kiếp trước. Con yêu dấu, thày đã phạm những lỗi lầm mà nhiều người trong các con đã phạm.

25.3. Nếu con có quyền năng siêu nhiên thì sao?

Thày cũng đã có mong muốn có được quyền năng sẽ thức tỉnh con người và khiến họ không thể chối bỏ khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Thày đã phải vượt qua mong muốn này trong kiếp đầu thai cuối của thày. Quả thực là khai ngộ cuối cùng mà thày phải đối mặt, khi thày bị Ma vương cám dỗ, đã là ý muốn dùng khả năng của tâm, mà thày đã đạt được, để phản ứng lại các cám dỗ của Ma vương. Khi đó thày đã đạt được một tầng tâm thức của quả vị Phật, nên thày quả thực có một số khả năng mà thày có thể dùng để phản ứng lại các cám dỗ của Ma vương. Nhưng con yêu dấu, thày lại làm vậy để làm gì? Thày đạt được kết quả gì? Nếu thày chứng minh các khả năng của thày, thì thày sẽ đạt được kết quả gì trong công việc giúp sự sống tiến triển?

Con cần tự mình ngẫm nghĩ điều này nếu con nhận ra là con có mong muốn có quyền năng siêu nhiên. Con cần xem xét con sẽ đạt được gì nếu con có quyền năng mà đôi khi con mơ tưởng mình có. Nếu con sử dụng quyền năng đó, thì con sẽ thực sự đạt được kết quả gì?   

Đầu tiên hết con cần nhận ra là sẽ có một số sinh thể, một số người, sẽ chối bỏ tức khắc là biểu hiện đã xảy ra, dù rằng họ đã thấy nó với chính mắt họ. Có những người đã thấy Giê-su đi trên nước và uống rượu mà trước đó Giê-su đã biến ra từ nước, và họ không tin những điều đó. Họ không tin những chuyện mà giác quan của chính họ đã trải nghiệm. Sau khi hiện tượng xảy ra, thì tâm lý trí, phân tích của họ bắt đầu nghi ngờ là chuyện đó đã thực sự xảy ra. Họ bắt đầu nghi ngờ là các hiện tượng đó là chỉ dấu Giê-su đã đạt được sự điều ngự tâm linh. Họ nghĩ rằng có sự gì gian trá bên trong. Họ nghĩ đó là những gian trá của ác quỷ và do đó Giê-su không phải là một vị thày tâm linh thật, thày không phải là đấng Cứu thế vân vân và vân vân. Lẽ dĩ nhiên, sa nhân lập tức tìm cách chống lại những chứng minh quyền năng cao của Giê-su bằng cách khiến con người tin rằng tà lực và ác quỷ đã đánh lừa họ, hay là chúng đã nhập vào Giê-su để thực hiện những trò bịp bợm đó.

Nếu con chuyển sang thời hiện đại, thì các nhà duy vật sẽ tức khắc nghi ngờ là những hiện tượng đó đã xảy ra. Nhiều nhà duy vật sẽ nói là tuy nhiều người đã thấy các biểu hiện bên ngoài đó, nhưng đó chỉ giản dị là tâm họ và tâm tập thể đã đánh lừa họ để họ nghĩ là họ đã thấy những hiện tượng đó, nhưng sự thực thì chúng không có thật. Nếu con suy ngẫm chuyện này, thì con nhận ra là không có bất cứ điều gì mà tâm vỏ ngoài (tâm xác thịt, tâm con người, tâm lý trí, phân tích, đường thẳng) không thể nghi ngờ.

Thực tế là, con yêu dấu, con không bao giờ có thể chứng minh bất cứ điều gì trên một hành tinh có vật chất dày đặc, có tâm thức dày đặc như trái đất. Tại sao vậy? Bởi vì chức năng cốt yếu của một hành tinh có vật chất dày đặc là cho con người một trải nghiệm trầm mình trong đó họ có thể trải nghiệm họ là một sinh thể tách biệt.

25.4. Mục đích của các hành tinh có vật chất dày đặc

Để có được trải nghiệm đó, con không thể có khung tham chiếu mà con có trên một hành tinh tự nhiên, là nơi con cảm thấy sự kết nối với một cái gì lớn hơn là ý niệm bản ngã hiện thời của con, con cảm thấy cái một trong mọi sự sống. Đây không phải là một hiểu biết bằng trí năng mà con có trên một hành tinh tự nhiên. Đây là một trải nghiệm, một trải nghiệm nội tại – mà ngày nay con gọi là “trực nhận” – nhưng trên một hành tinh tự nhiên nó được coi như một trải nghiệm tự nhiên. Nó tự nhiên như khi con mở mắt và thấy mặt trời.

Con không thể có khả năng này nếu con muốn có trải nghiệm trầm mình. Những người trong giai đoạn trầm mình không có ý niệm cái một trong mọi sự sống. Đó chính là lý do vì sao họ không có khung tham chiếu giúp họ có được cảm nhận không thể chối cãi là cuộc sống có cái gì cao hơn những gì họ trải nghiệm qua cái ngã tách biệt. Họ không thể thấy điều mà con thấy khi con thức tỉnh và nhận ra khía cạnh tâm linh của đời sống. Con yêu dấu, không có gì con có thể nói, không có gì con có thể làm, có thể giúp những người đang trong giai đoạn trầm mình trải nghiệm một thực tại cao hơn, như con đã trải nghiệm và nhiều người trong các con coi là đương nhiên, vì các con đã có trải nghiệm này từ quá lâu nên nó có vẻ đương nhiên với con.

Nhiều người trong các con đã có cảm nhận nội tại rằng mình nối kết với một cái gì lớn hơn trong suốt kiếp sống này. Ngay cả khi các con còn thơ ấu, con không thể hiểu vì sao người khác không có cảm nhận đó. Khi con lớn lên, con đã có khi tự hỏi làm sao con có thể nói người khác biết về khía cạnh tâm linh của cuộc sống vì nó quá hiển nhiên với con, nhưng người khác không thấu hiểu được. Họ không thấy điều này hiển nhiên, họ cảm thấy bị đe dọa và họ bác bỏ nó.

Ấy, con yêu dấu, con hiểu chăng là những người đang trong giai đoạn trầm mình bắt buộc phải bác bỏ tầm nhìn cao hơn của con. Vì nếu không họ không thể tiếp tục trầm mình, tiếp tục tự đồng hóa với trái đất và cái ngã vỏ ngoài. Lẽ tự nhiên, chúng ta biết là có nhiều người không tự nguyện ở trong giai đoạn trầm mình. Họ đã bị sa nhân lừa dối, họ đã bị sa nhân thao túng để chấp nhận những khuôn nếp phản ứng giữ họ trong trạng thái trầm mình.

Nếu con tưởng tượng một kịch bản lý tưởng, thì con có thể nói là tất cả những cư dân nguyên thủy của trái đất hiện đang đầu thai đáng lẽ đều đã thăng thiên. Tuy nhiên, vì có luật tự quyết, thì một kịch bản lý tưởng chỉ là một ước tính vì quyền tự quyết phải được phép tự trải bày. Con có thể nói là khi một hành tinh được tạo ra, khi một số dòng sống đầu thai lần đầu trên hành tinh đó, thì có thể có một kịch bản lý tưởng ước tính họ có thể tăng triển như thế nào. Vì có luật tự quyết, nên kịch bản lý tưởng không là thực tế nhất định, và do đó các chân sự thăng thiên sẽ không cho rằng mọi chuyện đã hoàn toàn thất bại nếu kịch bản lý tưởng không được hoàn thành. 

25.5. Chứng minh có chọn lựa khác

Các thày cho phép con người đi lạc vào những nẻo mà họ cần đi vào. Lẽ dĩ nhiên, tình trạng cũng có thể tới chỗ ta có thể nói là sa nhân đã khiến con người đi vào các khuôn nếp phản ứng đó. Con người không có cách cư xử nào khác khuôn nếp phản ứng, do đó ta có thể nói điều chính đáng là các avatar tới đầu thai ở đây để chứng minh là có chọn lựa khác. Con yêu dấu, mục đích của các thày khi trao truyền giáo lý (kể cả trong quyển sách mới) về việc các avatar tới đầu thai trên trái đất, là để nói với các con là các con không đến đây để thực hiện một thay đổi đặc thù trên hành tinh này. Con tới đây chỉ để chứng minh có chọn lựa khác.

Điều này có nghĩa là con cần cho phép những người chưa sẵn sàng hay chưa chịu bước ra khỏi giai đoạn trầm mình, chối bỏ con và bác bỏ những gì con nói. Thày muốn thêm vào những gì Giê-su đã nói, và nói ở đây là khi con xuống đây và gánh chịu chấn thương nhập đời nguyên thủy và tạo ra cái ngã gốc (cái ngã tách biệt đầu tiên mà con tạo ra) (primal self), thì nhiều người trong các con không hoàn toàn nắm vững thực tế của luật tự quyết. Con lúc đó không hoàn toàn chấp nhận là vai trò của con chỉ là nêu tấm ngương mà không thực hiện một thay đổi đặc thù. Con đã tạo ra ngã gốc vì con mong muốn thực hiện một thay đổi nào đó, và điều này đã khiến con mong muốn có được quyền năng đặc biệt thể hiện một biểu hiện đặc biệt mà con người không thể phớt lờ hay bác bỏ. Để hoàn toàn buông bỏ ngã gốc, để thấy là nó không thật, con cần nhận ra là vì có luật tự quyết, con đã có một mong muốn quá quắt, trái luật. Con có mong muốn ép buộc con người thức tỉnh vì như vậy tốt cho họ.

25.6. Làm gì và làm cách nào

Con yêu dấu, sa nhân có gì? Họ có mong muốn ép buộc con người không thức tỉnh vì đây là điều tốt cho họ, tốt cho sa nhân. Điều con cần nhận ra ở đây là, lẽ tự nhiên, trong cương vị một avatar con không nên có mong muốn ép buộc con người thức tỉnh vì như vậy tốt cho họ. Đó là lý do vì sao con tiến thêm bước nữa và nhìn vào ngã gốc mà con đã tạo ra và có mong muốn áp đặt một thay đổi nào đó trên trái đất, ép buộc con người thay đổi bằng cách nào đó, ép buộc họ thức tỉnh. Con cần nhận ra là dù mong muốn này phát sinh từ thiện tâm, nhưng nó cũng phát sinh từ một điều mà các thày đã giảng trước đây: đó là nhiều người hiểu cần làm gì, nhưng họ không có một cái nhìn thực tế là làm cách nào. Con đã tới đây với hiểu biết đúng đắn là trái đất cần thay đổi và con người nên rốt cuộc thức tỉnh. Nhưng con có một hiểu biết không thực tế về cách thực hiện chuyện này, kể cả nghĩ rằng vì sa nhân đã dùng bạo lực để ru ngủ con người, thì con được quyền dùng một bạo lực nhẹ hơn để thức tỉnh họ.

25.7. Một mong muốn vị tha để thỏa mãn cái ngã

Giờ đây, con cần tiến thêm bước nữa và xem xét cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra và nhận ra là tuy ngã tách biệt tin chắc là nó chỉ muốn thức tỉnh con người vì như vậy tốt cho họ, nhưng sự thực là ngã tách biệt muốn thức tỉnh con người vì như vậy tốt cho con, tốt cho . Nói cách khác, mong muốn thức tỉnh con người, sau khi con đã tạo ra ngã tách biệt, thực sự là để con cảm thấy con đã hoàn thành những gì con muốn hoàn thành khi tới trái đất này, nhưng con vẫn chưa hoàn thành được.

Con có thấy chăng là ngã tách biệt tin chắc là nó làm thế vì như vậy tốt cho mọi người, nhưng thực ra đó là vì như vậy tốt cho con, để con thực hiện được mục đích mà con đã tự định ra? Khi con còn nhìn đời qua ngã tách biệt, ngã gốc, thì con sẽ tiếp tục nghĩ là con muốn thức tỉnh con người vì như vậy tốt cho họ, nhưng đó là vì như vậy “tốt” cho con, vì con được cảm thấy thoải mái với việc mình đã tới trái đất.

Lẽ dĩ nhiên, điều này dễ hiểu, ta cũng có thể nói là “tự nhiên”, là khi con tới trái đất và gánh chịu chấn thương nguyên thủy, thì con bị chấn động rất mạnh và không thoải mái với việc mình ở đây, con không thoải mái với việc mình đã đến đây. Do dó, điều tự nhiên là con mong muốn tới được điểm con cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây, với việc mình đã đến đây. Con nghĩ rằng, khi con còn ngã tách biệt đó, cách duy nhất để con cảm thấy thoải mái với việc mình đã đến đây là thực hiện mục đích mà con đã định ra khi tới đây.

Điều được nói trong quyển sách mới, một cách vừa gián tiếp vừa tiềm ẩn, là con cần tới điểm nhận ra là hiểu biết, nhận biết mà con có khi con tới đây không phải là nhận biết cao nhất. Chắc chắn là lúc đó, con ở trạng thái tâm thức cao hơn đa số cư dân trái đất, nhưng con không có hiểu biết cao nhất về luật tự quyết và cách nó vận hành. Khi con còn nắm chặt viễn quan nguyên thủy đó, mục đích nguyên thủy đó, thì con không thể cảm thấy thoải mái với việc mình đã đến đây cho tới khi mục đích đó được hoàn thành. Vì bây giờ con nhận ra là mục đích đó không bao giờ hoàn thành được vì có luật tự quyết, thì có nghĩa là khi con còn nắm chặt mong muốn đó, thì con không thể nào cảm thấy thoải mái với việc mình ở trên trái đất.

Thay đổi mà các thày muốn trình bày cho con, mà con cần phải thực hiện, là con cần để cho cái ngã đó chết đi. Khi đó, con tới điểm chấp nhận, như Giê-su đã giảng một cách rất hùng hồn, là con tới đây để là người con là, để tỏa chiếu ánh sáng của con, để cho con người một tấm gương, một khung tham chiếu. Khi con xoay chuyển tầm nhìn, như tất cả các thày đã làm (hay ít ra là hầu hết các thày, trừ những người đã tạo ra một ngã gốc khác), thì con sẽ trút bỏ được gánh nặng cảm thấy không thoải mái với việc mình ở đây, cảm thấy nếu thay đổi này hay thay đổi kia xảy ra thì con sẽ cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây. Con cũng có thể trút bỏ hết gánh nặng trách cứ mình đã tới đây, cảm thấy: “Tôi đã quá ngu dốt khi tôi tình nguyện xuống một hành tinh như thế này”. Các cảm nhận này sẽ tan biến đi khi con trải qua tiến trình tuần tự cho tới khi con tới điểm con có thể rũ bỏ chúng. Lúc đó, con yêu dấu, con có thể cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây bằng cách giản dị là gì con là.

25.8. Cảm thấy thoải mái là người con là

Con yêu dấu, con thấy chăng là khi con tạo ra cái ngã muốn làm điều gì trên trái đất, thì con không thể là người con là. Đó không phải là người con là. Qua cái ngã đó, cho dù ngã đó cảm thấy nó đã hoàn thành mục đích của nó, con vẫn không thể nào cảm thấy thoải mái với chính mình hay với việc con ở đây. Con chỉ có thể cảm thấy thoải mái với việc mình ở đây khi con cảm thấy thoải mái với chính mình, và cảm giác này chỉ có thể tới từ bên trong. Nó không thể tùy thuộc bất cứ thành quả bên ngoài nào, bất cứ kết quả bên ngoài nào mà con có thể thực hiện trên hành tinh này hay bất cứ hành tinh nào khác. Ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, con không thể cảm thấy một cách tối hậu thoải mái với chính mình qua những thành quả bên ngoài của mình. Con phải phát triển cảm nhận từ bên trong cảm thấy thoải mái với chính mình giản dị dựa trên con là ai.

Điều này cho thấy gì về những người trong chúng ta đã chọn lựa là avatar? Nó cho thấy là chúng ta đã chọn tới một hành tinh thấp hơn vì chúng ta chưa hoàn toàn phát triển cảm nhận quý trọng mình là ai từ bên trong chính mình. Chúng ta vẫn còn nghĩ là phẩm giá của mình, cảm nhận thoải mái với chính mình, dính liền với các thành tựu, thành quả của mình. Đó là lý do vì sao chúng ta quyết định cho mình một mục đích khác, đặt mình vào một chu kỳ khác, và lần này đặt cho mình một mục đích khó hơn là đạt được điều không thể đạt được trên một hành tinh tự nhiên, đó là đem lại thay đổi trên một hành tinh không tự nhiên.

Thách đố mà chúng ta đối mặt để có thể thăng thiên là tới điểm hoàn toàn buông bỏ mong muốn cảm thấy thấy thoải mái với chính mình trên căn bản những thành tựu và thành quả của mình, trên căn bản những gì mình đã làm. Con cần tới điểm cảm thấy thoải mái với chính mình trên căn bản mình là ai, mình là , Sinh thể mà con là.

25.9. Khai ngộ sử dụng quyền năng siêu nhiên

Đây là khai ngộ mà thày giáp mặt khi ngồi dưới cội Bồ đề và bị Ma vương thử thách. Thày có thể dùng quyền năng siêu nhiên để làm điều gì, khiến ác ma chấn động và khâm phục. Thày bị cám dỗ trong một giây lát. và đã tới “gần kề” quyết định sử dụng quyền năng đó. Nhưng thày đã có thể tự kiềm chế, giữ tâm không dính mắc, và dùng thủ ấn chạm đất (động tác chạm đất với các ngón tay của một bàn tay) để chạm mặt đất và kêu lên: “Vajra (Kim cương)!” Thày có quyền ở đây mà không làm gì, và chỉ (mà không phải là chỉ) bằng cách là. Con cũng có thể tới điểm đó khi con buông bỏ mong muốn làm bất cứ điều gì trên trái đất.

Điều này không có nghĩa là con sẽ ngồi dưới một gốc cây phần còn lại của cuộc đời và không làm gì cả. Con rất có thể có một cuộc đời tích cực. Con cũng có thể, như Giê-su có nói, có một cuộc đời “bình thường” và biểu hiện bản thể cao của con qua cuộc đời thoạt trông bình thường đó. Con cũng có thể làm một số chuyện tạo được thành quả trong thế gian và cải thiện điều kiện sống trên trái đất, nhưng con không làm từ cái ngã tách biệt lúc nào cũng cảm thấy thiếu thốn, bất toại nguyện. Con chỉ là gì con là và để ánh sáng của Dòng sông sự Sống tuôn chảy xuyên qua con. Con để ánh sáng làm công việc của nó thay vì con làm với tâm vỏ ngoài cảm thấy phải làm việc này, hay cảm thấy chính mình đã hoàn thành việc này. Con nhận ra với Giê-su: “Tự ta, ta không làm được điều gì cả.”

Các con yêu dấu, các thày rất hân hoan được trao truyền các giáo lý này ở hội nghị này, sẽ giúp vị sứ giả hoàn thành một quyển sách là khía cạnh Omega của quyển sách mới. Các con có một số dụng cụ và giáo lý giúp con thiết lập một thủ tục từng bước tháo gỡ những dính mắc mà các avatar thường có. Điều này có nghĩa là con có thể dần dần tới điểm con ngồi yên, giáp mặt Ma vương, chế ngự cám dỗ hành động xuyên qua cái ngã tách biệt muốn làm, muốn người khác khâm phục, muốn ép buộc. Thay vào đó, con có thể trụ vào bên trong, chạm đất và tuyên bố quyền ở đây trong trạng thái tâm là thuần khiết, khác với “mong muốn làm” của tâm thức nhị nguyên.

Dù một số trong các con chưa trải qua tiến trình này và chưa hoàn toàn tới điểm này, nhưng thày muốn các con làm thực tập này với thày. Con hãy giơ bàn tay phải ra, chĩa xuống phía dưới, thày biết là các con không thể chạm mặt đất vì đang ngồi trên ghế, nhưng con hãy tưởng tượng, hình dung là ngón tay con chạm mặt đất. Sau đó, chúng ta cùng nhau nói: “Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra, Vajra,” và một lần cuối: “Vajra.” 

Như vậy, mọi chuyện đã tác thành và thày niêm phong con, niêm phong hội nghị này trong tình thương và niệm vui của Phật, mà TA LÀ.

22 | Giải thoát mình khỏi những ham muốn bất khả thi

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 2 tháng 12 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô và thày có mặt ở đây để trao cho các con bài giảng về lòng tự trọng đặc biệt dành cho những người trong các con mà các thày chọn gọi là avatar. Các thày đã chọn chữ này vì nhiều lý do, những lý do đã được các con biểu hiện khi phản ứng lại chữ này hay khái niệm này. Tất cả những điều các thày làm đều có mục đích nâng cao tâm thức con người, và đôi khi các thày phải làm chuyện này bằng cách khiêu khích, hay thách thức một số hình ảnh và niềm tin của con người. Thực vậy, con thấy thày đã làm điều này nhiều lần khi thày sống trên trái đất và gặp các thày thông giáo và Pha-ri-si và những cá nhân hay nhóm người khác có tâm khép kín.

Các con yêu dấu, quả thực các quốc gia trước kia nằm dưới gông cùm cộng sản cần làm điều gì đó để gia tăng lòng tự trọng của dân chúng, nhưng ở đây thày muốn đi xa hơn và nói với các con nào đã tới trái đất với một mục đích đặc trưng, không phải do nghiệp quả bắt con xuống đây hay vì hành tinh của con đã thăng thiên và con không thăng theo được. Con tới đây với một mục đích đặc trưng là con muốn là cánh cửa mở, là tấm gương chỉ cho mọi người thấy có một tâm thức khác, không phải là tâm thức đang ngự trị trên hành tinh này. Khi con tới đây, có thể là con có một ý định nào đó, một mục đích nào đó, một ý niệm nào đó về điều con muốn thay đổi trên trái đất.

22.1. Lòng tự trọng tương đối

Điều thày mong con nhận ra ở đây là khi các thày nói tới lòng tự trọng theo nghĩa vỏ ngoài, thì đối với người thế gian, lẽ dĩ nhiên, tất cả mọi người rất cần có lòng tự trọng vì họ thường hoạt động tốt hơn trong cuộc sống của họ so với khi họ không có lòng tự trọng hay có lòng tự trọng rất thấp. Bây giờ, ta có thể nói là mọi người đều có lòng tự trọng. Nó chỉ là chuyện họ thấy họ như thế nào, họ định nghĩa họ như thế nào. Họ định nghĩa họ một cách tích cực hay tiêu cực? Tuy nhiên, điều chúng ta có thể nói về hầu hết mọi người trên thế gian là họ có một lòng tự trọng tương đối vì nó liên quan tới một điều gì đó thuộc về thế gian. Nếu con là một lực sĩ nhảy xa, thì lòng tự trọng của con có thể liên quan tới chuyện con nhảy được bao xa. Nếu con là một thương gia, lòng tự trọng của con có thể liên quan tới số tiền con có hay số tiền con thu nhập.

Con thấy là nhiều người trên thế gian đã tạo ra lòng tự trọng tương đối dựa trên một thước đo liên quan tới thành quả nào đó của họ trong thế gian. Giờ đây, điều này không nhất thiết là sai trái hay dở. Đây là một giai đoạn cần thiết trong tiến trình phát triển của một sinh thể. Các thày có nói là một trong những mong muốn cơ bản của con người là họ nỗ lực làm điều gì đó và họ nhận lãnh kết quả tốt, hay một sự thưởng công cho cố gắng của họ. Con có thể nói là một biểu hiện của lòng mong muốn cơ bản này là con tạo ra lòng tự trọng dựa trên một thang điểm đo lường thành quả của con. Lẽ tự nhiên, thành quả của con càng cao trên thang điểm này, lòng tự trọng của con càng nhiều. Chúng ta có thể gọi nó là lòng tự trọng cao theo ý nghĩa thế gian.

Giờ đây, có những người khác có một dạng tự trọng thấp kém. Thay vì so sánh thành quả của họ với những mục đích mà họ đặt ra, họ luôn luôn so sánh mình với người khác. Họ thành công hơn hay kém hơn người khác? Họ có nhiều hơn hay ít hơn người khác? Ta có thể nhìn đây vẫn là sự biểu hiện của lòng mong muốn cơ bản nỗ lực làm việc và gặt hái sự thưởng công. Nhưng rõ ràng đây là lòng tự trọng thấp kém hơn so với trường hợp con làm việc và chỉ so sánh mình với mình, nhưng nó vẫn chưa phải là lòng tự trọng có tính cách phá hoại.

22.2. Lòng tự trọng và địa vị

Giờ đây con có một loại tự trọng khác không liên quan tới thành quả nhưng liên quan tới địa vị của con trong một thứ bậc giả tạo do con người dựng lên. Tỷ dụ, con có thể có ý niệm là vì con là hoàng đế hay vua, con cao hơn người khác vì con ở địa vị đó. Con có thể có ý niệm là vì con có chức vụ nào đó trong guồng máy nhà nước, con cao hơn người dân thường. Con thấy được là loại tự trọng này không gắn liền với thành quả mà gánh liền với địa vị.

Giờ đây, trong một số trường hợp, lẽ dĩ nhiên để đạt tới chức vụ đó con phải nỗ lực, nhưng tầng thấp nhất của dạng tự trọng này gắn liền với một chức vụ mà con ngẫu nhiên có được qua sự thừa hưởng, qua việc tự cho mình quyền lực, hay bằng cách dùng bạo lực, lừa dối hay cách nào khác. Một khi con đạt được địa vị đó, con nghĩ rằng không có điều gì có thể thách thức địa vị của con và những người ở dưới con không thể thách thức địa vị này. Con thấy là dạng tự trọng này là tự trọng của sa nhân. Lẽ tự nhiên, họ cũng có một ý niệm tự trọng vì họ có quyền lực lớn. Như vậy lòng tự trọng mà họ có liên quan tới thành tích của họ, nó vẫn rõ ràng là một nguồn tự trọng thấp kém khi thành tích của người đó được đo lường dựa theo khả năng dùng quyền lực áp chế người khác.

22.3. Mâu thuẫn trong chữ tự trọng

Nếu chúng ta vượt lên trên tầng mức này, chúng ta có thể thấy là khi chúng ta nói về các avatar, khi chúng ta nói về những người tâm linh đang đi một cách ý thức trên con đường tâm linh (con đường nội tâm chân chính dẫn tới thăng thiên), thì chúng ta cần chú ý tới ý nghĩa cao hơn của lòng tự trọng. Chúng ta cần tự hỏi phải chăng có sự mâu thuẫn trong chữ “tự trọng.” Giờ đây, như Chân sư MORE đã nói tối hôm qua: “Có thể nào con thực sự nóng giận một cách không đặc trưng, hay con cần một đối tượng?” Cũng vậy, con có thể nói: “Có thể nào con thực sự cảm thấy trọng điều gì đó nếu con không có đối tượng để trọng?”

Tự trọng là gì? Nhiều người chưa định nghĩa từ này. Họ nghĩ rằng họ hiểu nghĩa của nó. Con quý trọng mình. Con nghĩ con là người tốt hay người có khả năng. Con cảm thấy thoải mái về mình, bất kể cái mình đó là gì. Cái ta được coi trọng là ai? Là người tâm linh con có thể thấy rõ ràng là đối với hầu hết mọi người trên thế gian, cái ta đó không phải là bản thể nội tâm, cái Ta Biết, bản thể thật của họ đang được quý trọng vì lòng tự trọng liên quan tới điều gì đó trên thế gian, do đó cái ta được trọng không thể nào là cái ta thật của họ. Nó chỉ có thể là cái ngã vỏ ngoài, một phần của cái ngã vỏ ngoài.

Ví dụ, con có thể nói là người lực sĩ nhảy xa đã quy định và tạo ra một cái ngã và khi anh nhảy được xa, cái ngã đó cảm thấy thoải mái, cảm thấy nó có khả năng, cảm thấy nó cao hơn người, hoặc cảm thấy bất cứ điều gì – nhưng nó là cái ngã vỏ ngoài. Kỳ thực, chuyện con nhảy được bao xa ngoài sân vận động có tầm quan trọng tâm linh nào chăng? Con thấy rất đông người trong xã hội đã tạo ra những cái ngã vỏ ngoài, những cái ngã tương đối, những cái ngã liên quan tới một điều kiện đặc thù trên thế gian. Khi họ sống theo những điều kiện này tới một mức nào đó, họ có thể cảm thấy thoải mái về mình và họ có thể cảm thấy mình có một giá trị nào đó. Họ có lòng tự trọng nào đó trong tâm họ và có thể cũng được sự tôn trọng trong tâm người khác.

Lẽ tự nhiên, các thày không mong muốn các con là những đệ tử trực tiếp của các thày bị hạn chế bởi dạng tự trọng này. Các thày mong muốn các con đạt được một tầng cao hơn của lòng tự trọng thật sự đến từ nội tâm và không liên quan tới thành tích của con hay địa vị trên trái đất. Quả thật, khi con xem xét thông điệp trong cuốn sách mới nói về sự tương phản giữa một hành tinh tự nhiên và trái đất, thì con có thể thấy là nếu lòng tự trọng của mình liên quan tới bất cứ điều gì trên một hành tinh thấp như thế này thì quả thực đây không phải là một dạng tự trọng cao mà con có thể có được. 

22.4. Một dạng tự trọng tâm linh

Các thày mong các con vượt lên trên lòng tự trọng vỏ ngoài, tương đối, thế gian, và đạt một dạng tự trọng cao hơn. Bây giờ, lẽ tự nhiên là khi con bắt đầu tìm thấy con đường tâm linh, thì con không có viễn quan và hiểu biết hoàn toàn rõ ràng về mục đích của đường tu và nó dẫn con tới đâu. Trong nhiều trường hợp con chú tâm vào con đường vỏ ngoài nhiều hơn là con đường bên trong. Trong nhiều trường hợp, các đệ tử tâm linh tạo ra một dạng ngã vỏ ngoài khác. Thay vì liên quan tới điều gì đó trong thế gian vật chất, thì nó liên quan tới thành tích của họ trên con đường tâm linh theo cái hiểu của họ.

Bây giờ, một lần nữa, điều này không quá tiêu cực. Nó chỉ biểu hiện sự kiện là khi con bắt đầu tìm thấy con đường tâm linh, thì con dùng động lực này để nỗ lực và gặt hái thành quả để quy định thế nào là một đệ tử tốt, thế nào là tiến bộ trên đường tu, thế nào là nỗ lực để tinh tấn. Con dùng nó để quy định một cái ngã và một cách để lượng định con đang ở đâu trong thành quả của con, và sau đó con có thể cảm thấy thoải mái với mình hay không thoải mái lắm với mình dựa trên tiêu chuẩn này. Đây lẽ dĩ nhiên là một giai đoạn con cần đi qua và sau đó con vượt thăng lên một dạng tự trọng cao hơn.

22.5. Lòng tự trọng tiêu cực

Trước khi thày nói sang phần này, thày muốn nói tới sự kiện là cũng có những người đã quy định một cái ngã mà thày gọi là tiêu cực và điều này khiến họ có lòng tự trọng tiêu cực. Nói cách khác, con có thể có lòng tự trọng mà các thày gọi là tích cực trong đó thành quả của con có thể cao hay thấp, nhưng các con vẫn không phải là người hoàn toàn thất bại. Mặt khác, con thấy chăng, lẽ dĩ nhiên, trong thế gian có nhiều người đã quy định một ý niệm bản ngã tiêu cực trong đó họ thấy là có điều gì sai trái với họ. Đây không phải là chuyện cao hơn hay thấp hơn, đây là chuyện họ cảm thấy họ thấp hay thấp hơn nhiều.

Một trong những hệ quả của chế độ cộng sản là nhiều người có lòng tự trọng tiêu cực cho rằng họ chỉ có thể dở như vậy hay tệ hơn. Nhiều tín đồ Cơ đốc cũng như thế, họ cảm thấy họ là người tội lỗi và do đó họ quy định một ý niệm bản ngã tiêu cực. Một lần nữa, cảm nhận này cũng có thể có một thang điểm trong đó con có thể cảm thấy con là người tội lỗi, nhưng một số người tội lỗi tệ hơn người khác do đó có thể là con không tệ như những người kia đã làm chuyện này chuyện nọ. Điều này vẫn rất tương đối. Con thấy nhiều thí dụ như thế trên thế gian, nhưng điều thày muốn chỉ cho các con là một số trong các con là những avatar và người tâm linh cũng đã từng, thường khi là trong các kiếp trước, quy định một cái ta tiêu cực như thế trong đó các con cảm thấy mình có gì đó sai trái. Con cảm thấy là con đã phạm một lỗi lầm trong quá khứ hay có điều gì đó sai trái về mình, và do đó trên thang điểm này, con không thể thực sự cảm thấy mình ở quá điểm trung bình. Lúc nào con cũng ở trong phần tiêu cực và vấn đề chỉ là con thấp bao nhiêu, con cảm thấy mình sai trái bao nhiêu.

Nhiều người trong các con đã tạo ra những cái ngã này vì các con gặp những hoàn cảnh trong đó con cảm thấy mình đã thất bại không đạt được mục tiêu của mình. Nói cách khác, con có một mục tiêu nào đó nhưng con hoàn toàn thất bại không đạt được mục tiêu này và do đó con quyết định là tự thân con sai trái hay có khuyết điểm nào đó. Sau đó điều này tạo ra những ngã tiêu cực không thể cho con lòng tự trọng mà chỉ có thể cho con điều ngược lại. Lẽ dĩ nhiên con có thể tạo ra những ngã tiêu cực này qua nhiều cách, nhưng điều thày thực sự muốn nói tới là trong nhiều trường hợp, con đã tạo ra những ngã tiêu cực này vì con đã tương tác với các sa nhân. Đây là chỗ con cần hiểu mối tương tác giữa một avatar và một sa nhân như thế nào. Lẽ tự nhiên, cuốn sách mới mô tả đề tài rất, rất rõ và chi tiết, nhưng nó chưa đi sâu vào tâm lý, ít nhất là ở khía cạnh mà thày muốn nói tới ở đây.

22.6. Muốn được sa nhân chấp nhận

Giờ đây, ở một mức hời hợt hơn, chúng ta có thể nói là khi con ở trên một hành tinh tự nhiên, con chưa từng, chưa bao giờ gặp một ai chỉ trích con hay hạ thấp con. Con chỉ gặp những người khuyến khích con và cho con phản hồi tích cực. Điều này không có nghĩa là các vị thày hay ngay cả những người ngang hàng với con trên một hành tinh tự nhiên luôn luôn đồng ý với con về những gì con đang làm, hay nghĩ rằng điều đó là điều hay nhất có thể làm được. Họ luôn luôn cho con phản hồi là con có thể làm hay hơn như thế nào, họ không nói con hay điều con làm có gì sai trái. Con chưa bao giờ gặp chuyện như thế. Ở trên một hành tinh tự nhiên con đã xây dựng sự chờ đợi là khi con làm điều gì tích cực cho người khác, ít nhất là họ không tiêu cực về chuyện này, nhưng có nhiều xác suất là họ cảm kích về điều con làm cho họ. Nói cách khác, khi ý định của con tốt lành, họ không hạ thấp con vì họ nhận ra là con đã hành động với ý định tốt lành nhất.

Có thể nói là nó tạo ra cho con một chờ đợi và ngay cả một mong muốn là người khác sẽ tán thành con và chấp nhận con, và chấp nhận là con có ý định tốt. Có thể nói đây không thực sự là cái mà chúng ta gọi là “lòng mong muốn” trên trái đất. Đó chỉ là vì với những gì con trải nghiệm trên một hành tinh tự nhiên, con có một chờ đợi tự nhiên là khi con làm điều gì cho người khác với ý định tốt lành nhất (và lẽ dĩ nhiên là con chỉ có ý định tốt lành trên một hành tinh tự nhiên), thì họ sẽ chấp nhận con và chấp nhận nỗ lực của con một cách tích cực. Họ có thể đề nghị một cách làm hay hơn, nhưng họ sẽ không hạ thấp con hay chỉ trích con vì con đã có ý tốt lành.

Khi con tới một hành tinh như trái đất và con gặp các sa nhân, con cũng tới đây với ý định tốt lành nhất. Những gì con làm cũng được làm với ý định tốt lành nhất, nhưng khi đó con trải nghiệm là sa nhân không chấp nhận con, không chấp nhận ý định của con, không trân quý bất cứ điều gì con làm. Họ hạ thấp con khi con làm bất cứ điều gì, và ngay cả vì con là con. Dù con không bị hình thức tra tấn cùng cực đã được mô tả trong quyển sách, con vẫn trải nghiệm hiện tượng này. Con sẽ gặp sa nhân trên hành tinh và con sẽ trải nghiệm là họ không chấp nhận con, không tán thành con. Lúc đầu con sửng sốt. Con không thể hiểu được điều này, nhưng có một số avatar sau đó, có thể là trải qua một số kiếp sống, từ từ gày dựng ý muốn được sự tán thành của sa nhân. Con thấy chăng, con yêu dấu, Portia có nói là có một số ít nỗ lực trên trái đất này vô bổ hơn là đi tìm sự tán thành của cái ngã nam tính, nhưng có một nỗ lực vô bổ hơn, đó là nỗ lực tìm sự tán thành của sa nhân. Nhiều người trong các con có vết thương sâu thẳm khi đi tìm sự tán thành của sa nhân, không nhận được nó mà còn nhận được cái ngược lại. Trong nhiều trường hợp, nó càng khiến con hăng hái hơn muốn tìm sự tán thành của sa nhân, muốn hiểu họ. Làm sao con có thể thực sự làm cho họ hài lòng, làm sao con có thể làm điều gì mà họ tán thành, làm sao con có thể giúp họ?

22.7. Tìm cầu cái bất khả thi

Con có thể rơi vào vòng xoáy tìm cầu điều này và lúc đầu con không nhận ra sự tìm cầu này bất khả thi. Nó có thể mang lại cho con những vết thẹo và gánh nặng tâm lý sẽ từ lần phát triển thành những cái ngã tiêu cực. Cái ngã không đáp ứng một cách thuận lý nhưng nó phản ứng lại những cảm xúc bị hạ thấp lần nữa và lần nữa và lần nữa. Đây là một cái ngã đầy cảm xúc chỉ có thể có lòng tự trọng tiêu cực và vấn đề chỉ là nó tiêu cực đến chừng nào. Nói cách khác, có thể có những lúc sa nhân chỉ phớt lờ con và điều đó dẫn tới một mức tự trọng tiêu cực nào đó. Có những lúc khác sa nhân trực tiếp chỉ trích con, hạ thấp con hay giết con và điều này làm cho con bị một mức tự trọng sâu và thấp hơn trên thang điểm tiêu cực.

Nhiều người trong các con có những cái ngã này vẫn còn lởn vởn trong bốn thể phàm, thường là ở trong thể tình cảm. Đây có thể là những cái ngã rất thô, rất nhạy cảm. Con có thể thấy được trong kiếp này con đã rất nhạy cảm với chuyện người khác, cha mẹ, thày cô, anh chị em hay ai ai đó tán thành hay không tán thành con. Do đó, con đã bị tổn thương nhiều lần vì những gì người khác đã làm hay không làm đối với con. Có thể là con không gặp hay có gặp sa nhân trong kiếp này, nhưng họ không đối xử tàn ác khốc liệt đối với con như được mô tả trong quyển sách. Nhưng họ vẫn đã phớt lờ con hay hạ thấp con một cách nào đó. Những cái ngã này của con, lẽ dĩ nhiên, có thể bị tổn thương bởi những người khác không riêng gì sa nhân. Những cái ngã này rất nhạy cảm với sự tán thành của người khác cho nên bất cứ ai cũng có thể khuấy động chúng lên và khiến cho con có một niềm tự trọng tiêu cực.

Lẽ tự nhiên, mong muốn của các thày là giúp con khắc phục được điều này, buông bỏ các ngã này và nhận ra chúng chỉ là những ngã tách biệt. Chúng chỉ giản dị là những ngã vỏ ngoài đã được tạo ra và chúng không phải là con (như chân sư MORE đã nói). Khi con nhận ra chúng là những vật thể (con cũng có thể gọi chúng là những khía cạnh của tự ngã, con có thể gọi chúng là “phàm linh nội tại”, con có thể gọi chúng là những “cái ngã”, gọi tên gì không quan trọng), nhưng khi con thấy điều này và con có thể tách mình ra khỏi chúng, thì con có thể bắt đầu buông bỏ chúng.

Lẽ dĩ nhiên, có thể có năng lượng còn bị tồn đọng trong con và con có thể được lợi lạc khi đọc các bài thỉnh và bài chú để chuyển hóa năng lượng. Điểm mấu chốt là con cần tới điểm nhận ra các ngã này đã được tạo ra từ một ảo tưởng. Ảo tưởng nào của con đã dẫn con tới chuyện tạo ra những ngã này khi con phản ứng lại sa nhân? Ấy, ảo tưởng căn bản là chờ đợi mọi người chấp nhận con khi con làm điều gì cho người khác với ý định tốt lành nhất. Họ sẽ tán thành con, dù họ không tán thành tất cả mọi chuyện con làm.

22.8. Sa nhân sẽ không bao giờ tán thành các avatar

Con yêu dấu, con cần tới điểm nhìn nhận là trên cơ bản một sa nhân sẽ không thể nào tán thành một avatar. Điều này không thể nào làm được. Sa nhân sẽ không bao giờ chấp nhận hay tán thành một avatar ngày nào họ còn ở trong tâm thức sa ngã. Họ chỉ có thể thấy các avatar là mối đe dọa vì họ cảm thấy được trong tiềm thức là người avatar có nhiều ánh sáng hơn họ và vì thế họ cảm thấy bị đe dọa. Vì bản chất sa nhân là vậy nên họ phải cảm thấy bị đe dọa và do đó họ sẽ không bao giờ chấp nhận hay tán thành một avatar. Con cần tới điểm nhận ra là khuôn nếp con có ở các hành tinh tự nhiên và con mang theo tới trái đất giản dị là không thích hợp với một hành tinh như thế này. Do đó, con phải cố gắng một cách ý thức chấp nhận điều này và con sẽ giản dị buông bỏ mong muốn này, chờ đợi này khi con ở trên trái đất.

Sa nhân có tán thành con hay không thực sự không quan trọng ở tầm kích hoàn vũ (ở tầm kích sự tăng triển tâm linh và thăng thiên của con). Sa nhân tuyệt đối không có quyền năng gì trong sự thăng thiên của con. Việc họ không tán thành con không ngăn trở con thăng thiên. Việc họ tán thành con không giúp con thăng thiên. Việc họ không tán thành con có thể ngăn trở con thăng thiên nếu con chấp nhận nó, đem nó vào bên trong mình và nuôi cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra. Đây không phải là sa nhân quy định điều đó, đây chính là phản ứng của con đối với sa nhân. Không một sa nhân nào có thể ngăn trở sự thăng thiên của con một cách trực tiếp. Họ chỉ có thể làm được điều này nếu con cho họ quyền lực nào đó trên bản thể của con qua việc tạo ra những cái ngã phản ứng lại họ.

22.9. Những chờ đợi thiếu thực tế của con về trái đất

Khi con nhận ra điều này, con có thể thấy được là gần như con không thể tránh khỏi, như được mô tả trong quyển sách, là khi con ở trên một hành tinh tự nhiên và con nhìn trái đất và con quyết định tới trái đất, con sẽ có một số chờ đợi thiếu thực tế, không những về cuộc sống trên hành tinh này, mà cũng về phản ứng của con đối với trái đất. Con cần nhận ra đây là những chờ đợi thiếu thực tế và do đó con cần buông bỏ chúng. Chúng dựa trên cuộc sống trên một hành tinh tự nhiên. Trên một hành tinh tự nhiên chúng là những chờ đợi phải chăng nhưng con đâu sống trên một hành tinh tự nhiên, phải không con? Thày giả định là không một ai trong chúng con nghi ngờ chuyện này. Con có thể thấy là những mong chờ này không thực tế ở đây. Giản dị là con phải buông bỏ chúng, và con buông bỏ được khi con thấy một cách ý thức thực chất của chúng và con hiểu những giáo lý các thày đã trao cho các con, trong quyển sách cũng như trong các bài truyền đọc ở đây.

Đây là chuyện mong chờ thiếu thực tế là sa nhân sẽ phản ứng với con như thế nào. Bây giờ, có một tầng mong chờ khác vì lẽ dĩ nhiên con cũng có mong chờ là con sẽ phản ứng như thế nào với sa nhân và cuộc sống nói chung trên trái đất. Những mong chờ này vi tế hơn, và chúng liên quan tới điều mà thày nói trước đây là con có một mong muốn nào đó, một lý do nào đó để tới đây. Con muốn đem lại thay đổi tích cực trên hành tinh. Con thấy chăng, con yêu dấu, giống như những người đã tạo ra một thang điểm đo lường họ nhảy bao xa trên sân vận động và họ đã tạo ra một cái ngã để đo lường lòng tự trọng của họ dựa trên thành quả nhảy của họ, thì con như một avatar cũng có thể đã tạo ra một cái ngã đo lường thành quả của mình trong việc hoàn thành mục tiêu mà con có trong tâm trước khi con tới đây?

Ví dụ, nhiều người trong các con chờ đợi là dù con đã biết đây là một hành tinh thấp và ở đây có chiến tranh và tra tấn và đủ loại tàn sát và đảo điên, con vẫn có thể giữ tâm mình tích cực và con sẽ không rơi vào vòng xoáy phản ứng tiêu cực với sa nhân hay các điều kiện trên trái đất. Như Chân sư MORE đã nói, con nghĩ là con sẽ không nổi giận, sẽ không sợ, sẽ không phản ứng tiêu cực, sẽ không giao chiến với sa nhân, và vân vân. Vì, như Chân sư MORE đã nói, tất cả chúng ta khi tới trái đất đều đã rơi vào khuôn phản ứng lại sa nhận, đều bị sốc, thì có thể an toàn mà nói là tất cả chúng ta đều thất bại, dựa trên sự mong chờ đó. Chúng ta đều đã phản ứng khác với những gì chúng ta nghĩ chúng ta sẽ phản ứng trước khi tới đây – thày cũng vậy, hy vọng là cuốn sách đã chứng minh điều này.    

22.10. Các kỳ vọng của con khi tới trái đất 

Một lần nữa, con phải nhìn chuyện này và nói: “Đây rõ ràng là một chờ đợi thiếu thực tế và tôi cần buông bỏ nó.” Sau đó, còn sự chờ đợi vi tế hơn, liên quan tới điều con hy vọng sẽ hoàn thành, các kết quả con hy vọng thấy được trên trái đất, các thay đổi con hy vọng tạo ra được. Không thể tránh được chuyện con đã tạo ra một cái ngã cảm thấy nó đã thất bại vì không đạt được mục đích khi tới đây. Con không tạo được kết quả mà con hy vọng tạo được, con đã không thấy được một sự thay đổi tích cực.

Con có cái ngã một phần nào tương đương với cái ngã mà nhiều người trên thế gian có khi họ đo lường thành quả của họ dựa trên một tiêu chuẩn. Chỉ khác là tiêu chuẩn của con rất, rất khác. Con có thể nói là các chân sư thăng thiên muốn nâng cao trái đất và cách duy nhất để thực sự nâng cao trái đất là có một số avatar xuống đầu thai trên trái đất và giúp nâng cao tâm thức tập thể. “Vậy phải chăng chúng con có mặt ở đây để đem lại thay đổi tích cực? Phải chăng chờ đợi đem lại sự thay đổi tích cực là một chờ đợi thuận lý?”

Nhìn dưới một góc độ nào đó, các thày có thể nói: “Đúng, đúng, đúng, điều này thuận lý.” Vấn đề là nếu con đã tạo ra một cái ngã cảm thấy đã thất bại nếu chưa tạo ra sự thay đổi mà con mường tượng, thì lúc đó con có một cái ngã ngăn chận con đạt được lòng tự trọng thực mà các thày muốn con đạt được. Cái ngã này giản dị kéo con xuống một cái nhìn tiêu cực về mình, về trái đất, về lý do con tới đây, về thành quả của con ở đây và do đó con không thể đạt được lòng tự trọng thật sự. Thêm vào đó, ngày nào con còn có cái ngã này, con không thể rời hành tinh này vì con sẽ cảm thấy không thể rời nơi này với cái nhìn tiêu cực về lý do con tới đây. Cho tới khi con hoàn thành mục đích khi con tới đây, thì con không rời nơi này được.

22.11. Những chờ đợi ngăn chận con thăng thiên

Điều này co thể trở thành một vấn đề thật liên quan tới sự thăng thiên và tiến triển tâm linh của con vì sự thay đổi mà con hình dung trước khi tới đây nói chung là sự nâng cao tâm thức. Hầu hết các con cũng có một mục đích đặc thù là muốn trái đất thăng vượt một sự biểu hiện tiêu cực nào đó. Nhiều người trong các con muốn trái đất thăng vượt chiến tranh, nhiều người khác muốn trái đất thăng vượt tra tấn. Đối với mỗi biểu hiện tiêu cực, có một số avatar muốn tới đây và thấy trái đất vượt lên trên biểu hiện này.

Giờ đây con yêu dấu, con có thể nói: “Nhưng các chân sư thăng thiên muốn loại chiến tranh ra khỏi trái đất, đúng không?” Vâng, đúng – lẽ dĩ nhiên các thày muốn điều này. Nhưng các thày không nhìn tiến trình đó giống như các con có khuynh hướng nhìn khi các con đầu thai ở đây. Con thấy chăng, con yêu dấu, như các thày đã cố gắng giải thích, các thày tôn trọng quyền tự quyết. Các thày nhận ra rằng muốn loại chiến tranh khỏi trái đất thì phải bứng một số sa nhân ra khỏi trái đất. Các thày không thể bứng các sa nhân đi cho tới khi có đủ túc số cư dân nguyên thủy trên trái đất – những cư dân này khởi thủy đã mời sa nhân tới (một cách vô thức lẽ dĩ nhiên, nhưng họ đã mời sa nhân tới) – nâng cao tâm thức của họ và từ bỏ tâm thức đã khiến sa nhân tới đây vì lúc đó cửa được mở cho họ.

Các thày biết rất rõ là loại trừ chiến tranh khỏi trái đất cần tới chọn lựa tự do của nhiều người trong số các cư dân nguyên thủy trên trái đất. Các thày trao cho các con một giáo lý giúp các con nhận ra điều này và như vậy con thấy được một điều rất, rất giản dị. Thày đã nói là không thể nào làm cho sa nhân tán thành avatar, nhưng đồng thời cũng không thể nào làm cho sa nhân từ bỏ hành động hiếu chiến của họ. Con có thể thấy là nếu con muốn loại trừ chiến tranh trên trái đất, thật là vô bổ nếu con chờ đợi làm được điều này bằng cách thay đổi sa nhân.

Mặt khác, trước khi con tới đây con cũng đã thấy là hầu hết cư dân nguyên thủy trên trái đất có trình độ tâm thức thấp hơn con rất nhiều. Vậy con có thể thấy là khi con chờ đợi loại trừ chiến tranh khỏi trái đất, thì con để sự thành hay bại của sứ vụ của con lệ thuộc vào quyền tự quyết của những sinh thể ở tầng tâm thức thấp hơn con nhiều khi con tới đây. Con yêu dấu, làm như vậy có minh triết chăng? Có minh triết chăng khi con gắn liền thành quả của con, và do đó lòng tự trọng của con, với chọn lựa của ai khác không phải là con? Lẽ dĩ nhiên điều này thiếu minh triết.

Lòng tự trọng của con chỉ nên dựa trên những yếu tố bên trong con mà thôi. Những yếu tố này chính là cách con nhìn mình, cách con nhìn thành quả hay hành động của mình trên trái đất. Con thấy chăng, vì con tạo ra sự chờ đợi thiếu thực tế là con chỉ cần tới đây thì ngay lập tức con có thể nâng mọi người lên và đem lại thay đổi (hay đem lại bất cứ điều gì khác mà con mường tượng trong tâm mình), cho nên con không thể né tránh chuyện con thất vọng khi nhận ra rằng hành tinh này dày đặc hơn nhiều và không thể nào làm được chuyện con chỉ cần tới đây là có thể đem lại thay đổi, dù là con có ý định tốt lành nhất. 

Con thất vọng vì con đã gắn liền sự chờ đợi của con với quyền tự quyết của những người ở trong một trạng thái tâm thức rất thấp, rất nhị nguyên. Con không thể tránh được thất vọng và con cần thấy điều này để con có thể tách mình ra khỏi những cái ngã này và nói: “Tôi không thể cho phép lòng tự trọng của tôi tùy thuộc những cái ngã bị dính vào sự chọn lựa của những sinh thể ở một trạng thái tâm thức thấp. Tại sao tôi lại muốn lòng tự trọng của mình bị gắn liền với chọn lựa của những người trong tâm thức nhị nguyên?”

Lẽ dĩ nhiên, thày không chê trách con khi nói rằng con tạo ra những cái ngã đó bởi vì, như các thày đã nói nhiều lần, trong sứ vụ của các con, các con cần trải qua giai đoạn trầm mình và xác định mình là một con người. Trong tiến trình này, con không tránh được chuyện tạo ra những cái ngã đó. Điều con cần nhận ra là bây giờ con ở một tầng tâm thức cao hơn và con đang nghĩ tới chuyện có thể thăng thiên trong kiếp này, thì con cần xem xét những cái ngã này. Con cần nhìn thấy tại sao chúng được tạo ra, con cần nhìn thấy chúng dựa trên một ảo tưởng và một chờ đợi thiếu thực tế để con thấy được con không cần mang những loại ngã này theo con nữa. Con có thể dùng những dụng cụ để buông bỏ chúng, nhưng trước tiên hết, con cần nhận ra là chúng cần phải ra đi.

22.12. Lòng tự trọng đến từ con là ai

Con yêu dấu, lòng tự trọng thật sự là gì? Nó phải là lòng tự trọng không dựa vào bất cứ điều gì bên ngoài con. Như các thày đã nói nhiều lần, cái ta vỏ ngoài của con, bốn thể phàm của con không phải là cái ta thật của con. Dù rằng con có một số tình trạng, một số ngã trong bốn thể phàm của con, lòng tự trọng thật không thể dựa trên chúng. Lòng tự trọng đến từ đâu? Con cần thấy rằng thế gian có một cái nhìn về lòng tự trọng, một khái niệm về lòng tự trọng không phải là lòng tự trọng cao vì, như thày đã nói, nó liên quan tới điều gì đó trên thế gian. Ngay cả những cái ngã con đã tạo ra dựa trên những chờ đợi của con khi tới đây cũng liên quan tới thế gian này và liên quan tới những gì con đạt được hay không đạt được. Con cần nhận ra ở đây là một avatar như con, một đệ tử tâm linh đã đạt tới những giai đoạn đầu của quả vị Ki-tô, không thể cố gắng đạt được (con không thể chờ đợi là con phải có) loại tự trọng mà con người có trên thế gian.

Vậy thì con làm được gì? Ấy, con có thể tự hỏi: “Cái ta, cái ta thật, cốt lõi của bản thể của tôi là gì?” Các thày đã trao cho các con nhiều giáo lý về đề tài này. Các thày đã trao cho các con giáo lý thật hay trong sách của Guru Ma về tin tưởng những điều nguy hiểm (sách tên là Đừng Mù Quáng Tin Những Giáo Điều Nguy Hiểm, Don’t Drink Your Own Kool-Aid). Con có thể nghiền ngẫm và dùng những giáo lý này để từ từ nhìn lên trên ý niệm bản sắc, ý niệm bản ngã mà con đã tạo dựng trong thế gian này.

Con có thể tới điểm mà con đi vào thể bản sắc của mình và con bắt đầu tra vấn và thách thức ý niệm bản ngã mà con đã tạo dựng trong cuộc hành trình của con trên hành tinh này và con càng ngày càng nhận ra: “Đây không phải là cái ta thật của tôi, nó không phải là cái tôi thật sự là.” Rồi con tới điểm nhận ra con kết nối với cái gì khác, khi cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, như các thày đã nói nhiều lần. Con có thể bắt đầu nghiền ngẫm ý nghĩa của điều này và trong cuốn sách mới (Các Kiếp của Tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su) có nhiều chìa khóa quan trọng và như người sứ giả đã mô tả, những chìa khóa này đã giúp ông hiểu rõ hơn. Dù ông đã nhận được những giáo lý được trao truyền trước đó về đề tài này, trong sách vẫn còn những điều giúp ông nắm vững hơn.

Đích thực là cái ta thật không thể được quy định bằng bất cứ thứ gì trên thế gian này. Đó là lý do tại sao con có thể nhận ra là cái ta thật không cần bất cứ điều gì từ thế gian này – bất cứ sự tán thành nào, bất cứ thành quả nào, bất cứ kết quả nào – để cảm thấy thoải mái về mình. Cái ta thật, cái Ta Biết, có khả năng cảm thấy thoải mái về mình khi nó nhận ra nó là ai và nó là gì. Con là một nối dài của Hiện Diện TA LÀ, một sinh thể tâm linh, bất kể con có thể thấy được nó là gì ngay lúc này, bất kể con có thể mường tượng nó là gì. Thày biết điều này khó hiểu. Điều này khó hiểu bằng khái niệm, vì khi các thày cho các con khái niệm về cái Ta Biết, thì các thày muốn khiến tâm đường thẳng và phân tích của con bị bối rối vì nó không thể nghĩ ra được Cái Ta Biết là gì. Tâm đường thẳng không thể liên hệ cái Ta Biết với bất cứ điều gì nó quen thuộc trên trái đất này. Khi con nhận ra con không phải là bất cứ điều gì được quy định trên trái đất, con có thể thấy lòng tự trọng của mình không gắn liền với bất cứ điều gì trên trái đất, nó đến từ sự kiện con hiện hữu. Vì sự kiện con hiện hữu, con có giá trị. Con được quý trọng. Con xứng đáng được quý trọng. Con thấy chăng, con yêu dấu, lòng tự trọng thật không thể có mặt ngày nào con còn có một vật thể đối tượng, một cái ngã và con đang quý trọng vật thể đó.

22.13. Làm sao thỏa mãn một ước muốn

Do đó, chúng ta có thể nói rằng khi con tới được điểm nhận biết này, khái niệm lòng tự trọng phai mờ đi. Khi con thấy không còn cái ngã thì đâu cần lòng tự trọng nữa. Con chỉ trải nghiệm con như con là. Con còn không quan tâm tới bất cứ dạng tự trọng nào, bất cứ thang điểm cao và thấp nào, bất cứ so sánh nhị nguyên nào. Nó chỉ phai mờ đi.

Thày biết thày đang đặt cho các con một mục đích mà một số trong các con cần thời gian để nhận ra. Thày muốn con biết là không chỉ riêng lòng tự trọng mà nhiều khái niệm khác mà con có trên đường tâm linh, sẽ phai mờ đi khi con tới những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô. Chúng mất đi ý nghĩa vì con nhận ra chúng chỉ có ý nghĩa ở tầng tâm thức thấp hơn. Ở tầng tâm thức cao hơn, chúng không còn ý nghĩa đặc biệt nào, chúng không quan trọng gì cả, chúng không kéo hút con. Con có thể nói, một lần nữa để tâm đường thẳng bị bối rối, là cách duy nhất để đạt được lòng tự trọng thật là tới được điểm là con không cần lòng tự trọng nữa. Con không có nhu cầu được quý trọng.

Có thể nói là cách duy nhất để thỏa mãn những mong muốn của con là tới được điểm con vượt thăng những mong muốn đó và con không còn mong muốn nữa. Đây không phải là vấn đề thỏa mãn nó – đây là vấn đề vượt thăng nó. Điều mà sa nhân muốn con nghĩ – và đây là một trong những cách chính họ giam con trong một khuôn nếp phản ứng – là con mong muốn một điều gì và con cần đạt được điều con mong muốn. Nếu con mong có lòng tự trọng, con cần đạt được lòng tự trọng. Làm sao con đạt được lòng tự trọng? Bằng cách con nhảy xa hơn bất cứ ai khác. Khi tiêu chuẩn này đạt được, thì con sẽ có lòng tự trọng.

Đây không phải là sự thật. Con sẽ không bao giờ, không bao giờ cảm thấy lòng tự trọng thật bằng cách thỏa mãn bất cứ mong muốn nào – đích thực là con không bao giờ có thể thỏa mãn bất cứ mong muốn nào. Con chỉ thực sự trọn vẹn, cảm thấy thật sự thoải mái về chính mình, khi con thăng vượt mong muốn và con không còn cảm thấy mình thiếu thốn nữa. Con sẽ có lòng tự trọng khi con không còn kinh nghiệm mình thiếu lòng tự trọng nữa, nhưng điều này chỉ thành tựu được khi con thăng vượt lòng mong muốn, ngay cả mong muốn có một cái ta có thể được quý trọng.

Cái Ta Biết, khi nó nhận ra nó là nhận biết thuần khiết, không có nhu cầu được quý trọng nữa. Kỳ thực là nó không còn thấy nó là một cái ta nữa. Đúng đấy, thày đang cho con những khái niệm khó hiểu, tinh tế. Cách duy nhất để khắc phục điều này là làm cho tâm đường thẳng và phân tích bối rối để con thoát ra khỏi nó và con trải nghiệm được điều gì cao hơn. Đây là trải nghiệm thày muốn con có. Là một chân sư thăng thiên, lẽ dĩ nhiên thày muốn hướng dẫn con đi từng bước cho tới khi con sẵn sàng có trải nghiệm này vì các ảo tưởng đã từ từ phai mờ đi cho tới khi không còn ảo tưởng nữa và con vụt thoát ra khỏi ý niệm bản ngã giới hạn đó và nó chỉ không còn nữa.

Con yêu dấu, thày đã trao truyền cho con điều thày muốn trao truyền trong kỳ này nhưng thày muốn nói thêm nữa về một số chủ đề đã được nêu lên trong hội nghị này. Thày sẽ làm tròn lời hứa của Chân sư MORE là thày sẽ cho con một số ý tưởng về cách cho cái ngã chết đi. Chủ đề này thày sẽ dành cho ngày mai để con có thể xin, nếu con muốn, tới trung tâm nhập thất của vị chân sư nào con muốn, nhưng thày đề nghị con tới trung tâm ở trên Arabia. Thày sẽ hướng dẫn các đệ tử nào muốn tới đó kết hợp những khái niệm mà thày đã trao cho các con để con được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận những gì thày sẽ trao truyền ngày mai.

Thày chúc các con một buổi tối an lành và thày cám ơn các con đã luôn luôn chú tâm vui vẻ. Thày luôn luôn cảm thấy một niềm vui lớn lao khi tương tác với những đệ tử đầy lòng hăng hái học hỏi như các con.

20 | Vượt qua nỗi giận chính mình, 16 phần.

Chân sư Thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, ngày 1 tháng 12 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền tại một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên MORE, và thày là phương cách tối hậu để vượt qua tâm thức thiếu thốn. Khi con hòa điệu với ngọn lửa của thày, thì con sẽ biết là trong Bản thể của thày không có thiếu thốn. Do đó, nếu con cho phép mình nhận cái mà thày rất mong muốn trao cho con, thì con sẽ không thấy thiếu thốn trong con.

Con không phải là một sinh thể bất toàn! Tất cả các hệ thống tư tưởng đã lập trình điều gì vào tâm tập thể từ bao thiên kỷ nay? Đó là ý niệm con người tự bản chất hư xấu và bất toàn. Nếu con nhìn một cách trung thực, thì con sẽ thấy đó là thông điệp của tư tưởng Mác xít và Cộng sản, cũng như là của Giáo hội Công giáo và của tất cả các giáo đoàn Cơ đốc giáo khác cũng dựa trên cùng nền tảng. Con là tội đồ từ trong bản tánh, con vốn dĩ giới hạn, và tâm thức này từ đâu tới?

20.1. Nỗi giận của sa nhân

Ấy, lẽ dĩ nhiên là nó tới từ sa nhân. Ta có thể nói họ có nhu cầu khẩn thiết muốn cảm thấy hơn những người họ rất khó chịu phải chung sống ở đây. Họ tin rằng trái đất là một hành tinh rất thấp và họ đáng lẽ không sống ở đây. Họ đáng lẽ phải sống trên một hành tinh cao hơn nhiều, một hành tinh to lớn hơn nhiều, nơi họ có thể cảm thấy có nhiều uy quyền hơn.

Họ cảm thấy họ đã bị mất giá trị khi họ phải tới hành tinh này. Do đó, nhiều sa nhân có một nỗi giận ăn sâu trong tâm thức họ đối với những người sống trên hành tinh này, gồm cả các cư dân nguyên thủy và các avatar (sinh thể từ hành tinh tự nhiên xuống đầu thai trên trái đất) đã dám tới đầu thai ở đây để thách thức quyền trị vì của họ. Con không thể giải thích nỗi giận này (mà con có thể thấy rõ trong lịch sử, nếu con chịu nhìn) qua những hệ thống tư tưởng truyền thống. Vì sao vậy, con yêu dấu? Đó là vì những hệ thống tư tưởng do sa nhân tạo ra có nhu cầu, kế hoạch và thâm ý tối thượng là che giấu sự hiện hữu của sa nhân. Do đó, lẽ dĩ nhiên là các hệ thống đó không thể giải thích nỗi giận này. Chúng hoặc không đưa ra một lời giải thích, hoặc nêu lên vài ý tưởng mơ hồ là người này người nọ đặc biệt tà ác, hay những chuyện tương tự.

20.2. Sự giận dữ bắt nguồn từ thể bản sắc

Sư thực là sa nhân, lẽ dĩ nhiên, có một nỗi giận ăn sâu trong tâm thức họ, ta có thể nói là một nỗi giận hiện sinh đối với con người. Họ sẵn sàng có những hành động phi lý, nghịch lý để đả thương, phá hoại và tiêu diệt con người, giống như mọi nỗi giận lúc nào cũng có tính chất phi lý và nghịch lý. Sự giận dữ là một xúc động nhưng nó không phải chỉ là một cảm giác, nó hơn một cái gì trong thể tình cảm của con người. Rất, rất ít người tìm hiểu tâm lý học đã hiểu điều này.

Sự thực là sự giận dữ bắt nguồn trong thể bản sắc. Sa nhân có trong thể bản sắc của họ nỗi giận đối với Thượng đế. Nếu con suy nghĩ thêm thì con thấy họ thực sự có phần giận Thượng đế vỏ ngoài mà họ đã tạo ra, nhưng chính thực thì còn hơn thế nữa vì họ giận chính họ. Vì cho dù họ đã sa ngã, nhưng họ đã bắt đầu như một phần nối dài của đấng Sáng tạo, giống như tất cả chúng ta. Trong họ có một nỗi giận ở tầng bản sắc, có một mô thức tư tưởng phức tạp giải thích cơn giận đó và định hướng nó. Lẽ dĩ nhiên, cũng có một mô thức xúc cảm, thường thúc đẩy con người làm những chuyện khi giận dữ mà họ không bao giờ làm nếu họ suy nghĩ sáng suốt dựa trên lý trí. 

Con có thể nói là với đa số con người và avatar trên hành tinh này thì sự giận dữ chủ yếu là một hiện tượng xúc cảm, nhưng với sa nhân thì nó hơn thế. Đó là lý do vì sao, khi con phân tích tâm lý của những người như Hitler, Lê-nin, Stalin, Mao và các nhà độc tài khác trong lịch sử, thì con thấy là sự giận dữ của họ không đơn thuần là xúc cảm. Họ có một nỗi giận rất sâu trong thể lý trí và bản sắc của họ. Nó là một cái gì mà họ thường không làm chủ được – nó làm chủ họ. Con có thể thấy là có những lúc họ hành động không phải vì thịnh nộ mê cuồng mà với một nỗi giận có tính toán, dài hạn và có kế hoạch.  

20.3. Sự giận dữ có tính toán của sa nhân

Vì sao thày lại đề cập đến chuyện này? Áy, thày có một số lý do. Một lý do, lẽ dĩ nhiên, là con cần hiểu là điều đã xảy ra trong Khối Sô viết đưới chế độ Cộng sản, không thể được giải thích bằng sự giận dữ mà thôi. Con cần hiểu nỗi giận rất sâu của sa nhân đối với nhân loại, và ước muốn của sa nhân muốn hoặc kiểm soát nhân loại, hoặc tiêu diệt những ai họ không thể kiểm soát. Con yêu dấu, không phải là Stalin hay những người trong guồng máy Sô viết ở trong cơn thịnh nộ không thể kiềm chế khi họ gõ cửa nhà người dân lúc 4 giờ sáng và đày họ đi Siberia. Không có một cơn giận xúc cảm đằng sau các hành động này, tuy rằng trong một số trường hợp, các tên đồ tể thi hành những lệnh này phải đặt mình vào trong một trạng thái xúc cảm để có thể làm những chuyện này với người đồng hương của họ.

Khi con xem xét nhóm lãnh đạo và đặc biệt là người lãnh đạo tối cao, thì con thấy là trong họ không có nỗi giận xúc cảm. Con có thể thấy là khi Hitler nói một số bài diễn văn thì y có vẻ bị rơi vào trạng thái giận dữ xúc cảm. Nhưng khi y đối xử với các tướng lãnh và những người khác, thì y không xúc động, y rất tính toán – ta còn có thể nói là y hành xử hợp lý. Con chỉ có thể hiểu hiện tượng này khi xem xét tầng sâu hơn mà thày đã đề cập. Thày đang nói với các avatar trong hội trường này, và các con cần hiểu là tuy các cư dân nguyên thủy của trái đất ít khi có cơn giận đi quá tầng xúc cảm, thì một avatar quả thực có thể có một sự giận dữ như vậy.

Điều này không có nghĩa là các con có cùng nỗi giận như sa nhân. Con yêu dấu, khi con nhìn vào tâm lý của một số sa nhân (không phải tất cả, nhưng một số) và tâm lý của một số avatar (không phải tất cả, nhưng một số) thì con thấy là cả hai nhóm có sự giận dữ trong thể lý trí và bản sắc của họ. Nếu con xem xét kỹ hơn, thì con thấy một khác biệt cơ bản. Nỗi giận của sa nhân lúc nào cũng hướng ra ngoài. Trong nhiều trường hợp, nó cũng hướng lên trên, tức là về hướng Thượng đế. Sa nhân không bao giờ cảm thấy giận (một cách ý thức) chính mình. Nhưng, con thấy nơi nhiều avatar một nỗi giận ở tầng lý trí và bản sắc hướng về chính họ. Có nhiều lý do ở tầng lý trí. Ở tầng bản sắc cũng có một số lý do khác nhau, nhưng chúng đều xoay quanh một chủ đề, đó là con giận mình đã tình nguyện xuống hành tinh này. Con giận mình đã chọn lựa tới hành tinh này.

Cũng có một số avatar sau khi đến đây, sau khi đã đi vào nhị nguyên, đã tiếp nhận một số niềm tin vi tế mà sa nhân đã phổ biến. Họ có thể cảm thấy giận Thượng đế đã tạo ra một vũ trụ trong đó những đau khổ mà con thấy trên trái đất có thể xảy ra. Một số avatar có thể có cảm giác như vậy, nhưng nó không giống nỗi giận của sa nhân đối với Thượng đế. Một avatar không có cảm giác giống như sa nhân. Thày sẽ không mô tả ở đây cảm giác của sa nhân, nỗi giận của họ đối với Thượng đế, vì trong cương vị một avatar, con không cần để tâm đến việc này. Thày chỉ nói với các con là, dù con có cảm thấy giận Thượng đế, thì điều này không có nghĩa con là sa nhân.

Con không cần phải chê trách mình vì chuyện này. Con nhận ra rằng nó không phải là một nỗi giận mà con đã mang theo khi con xuống hành tinh này. Sa nhân mang nỗi giận Thượng đế theo họ khi họ tới hành tinh này, và ngay cả khi họ đi vào bầu cõi này. Con thì đã tiếp nhận nó trên trái đất, và như tất cả mọi thứ mà con đã tiếp nhận trên trái đất thì con có thể nhận ra nó, thấy nó không phải là con và buông bỏ nó. Con có thể nâng mình lên khỏi nó.

20.4. Nỗi giận đối với cõi Mẹ

Con cũng có thể cảm thấy giận cõi Mẹ (cõi vật chất) vì cõi Mẹ, Ánh sáng Mẫu-Vật, đã biểu hiện những điều kiện vật lý tạo ra sự đau khổ cùng cực đó. Nhiều avatar cảm thấy điều này, không phải vì những chuyện đã xảy ra cho chính họ, như Mẹ Mary đã nói, nhưng vì những chuyện mà họ đã thấy xảy tới người khác. Con khởi lên lòng từ bi và do đó có một sự giận dữ: “Vì sao vật chất lại để các chuyện này xảy ra, vì sao đá không kêu lên như Giê-su đã nói?” Vì sao các tảng đá không từ chối rơi xuống và đè bẹp con người, con đôi khi có cảm giác như vậy. Lý do là, lẽ dĩ nhiên, chúng ta đang nói những chuyện hơi khác nhau. Giê-su nói là đá kêu lên vì chúng nhận ra Ki-tô, dù con người không nhận ra. Chuyện này khác việc vật chất tạo ra những hậu quả vật lý khe khắt. Như các thày đã giảng, vật chất chỉ là một tấm gương và bắt buộc phải biểu hiện những gì được phóng chiếu lên nó. Con hiểu điều này bằng lý trí, thày hiểu như vậy. Thày chỉ đang nhắc nhở là con có thể cần học hay nghe bài truyền đọc này nhiều lần và suy ngẫm nó cho tới khi con thực sự thấy trong bản thân mình là con có nỗi giận này, và nó không phải là con nhưng chỉ là cái gì con đã tiếp nhận.

Có nhiều người trong các con, có nhiều người tâm linh, nhiều avatar đã đi vào tư duy (mà vị sứ giả này cũng đã nhận ra nơi chính ông) cho rằng một người tâm linh không được cảm thấy giận dữ. Do đó, con không chịu nhìn nhận cơn giận của mình, và như Phật Gautama đã giảng vào đầu năm nay, có khi con cần nhận ra những cảm xúc của mình để có thể tách mình ra khỏi chúng. Phật Gautama có trao cho các con một bài tập trong đó con đi tới một nơi cách biệt không ai có thể nghe thấy con, và con dùng lời để phát biểu cảm xúc của con đối với sa nhân, nhưng ngay cả với Thượng đế và cõi vật chất. Con có thể nói ra nỗi giận của mình, dùng ngôn từ để phát biểu nó. Khi con dùng ngôn từ để phát biểu nó, thì con dễ tách mình ra khỏi nó hơn, và thày sẽ cho con có một gợi ý đơn giản lý do vì sao lại như vậy, con yêu dấu.

20.5. Nói ra lời mình là ai

Con hãy tưởng tượng con đi tới một nơi cách biệt và con nói ra lời nỗi giận của mình. Tôi giận Thượng đế vì lý do này hay lý do khác. Một khi con đã làm xong chuyện này, khi con đã trút hết những gì trong con và không còn lời nào thốt ra nữa, thì thày muốn con làm một chuyện giản dị. Bây giờ thì con hãy nói ra lời con gì. Con thực sự là gì? Đúng, con có thể nói “Tôi là một con người, tôi là một sinh thể tâm linh,” hay là cái gì khác, nhưng con hãy mô tả nó. Con thực sự là gì? Con sẽ thấy là rất khó thêm vào những chữ sâu sắc hay nhiều ý nghĩa. Con có thể thêm vào một số chữ hời hợt dựa trên bất cứ giáo lý tâm linh hay nhân sinh quan nào mà con có, nhưng con sẽ rất khó nói rõ con thực sự gì.

Lý do vì sao rất giản dị. Cái con thực sự là là sự cá biệt neo trong Hiện diện TA LÀ của con, và sự cá biệt này hoàn toàn vượt lên trên ngôn từ. Ta không thể giảm thiểu nó bằng lời nói. Khi con nhận ra là nỗi giận của con có thể được diễn tả bằng lời nói nhưng Bản thể thực của con không thể được diễn tả bằng lời, thì con có thể dễ dàng xoay chuyển tầm nhìn và nhận ra rằng nỗi giận của con không phải là nỗi giận của Bản thể thực của con – nó không phải là nỗi giận của con. Nó chỉ là một điều mà con đã lấy vào ở đây trong bát cung vật lý của trái đất. Con yêu dấu, thày đã đầu thai trong một thời gian rất dài trên hành tinh này. Nếu con tưởng tượng ra bất cứ sự ngu xuẩn, thấp hèn, hư xấu, ngu si nào mà con người có thể làm, thì rất có thể là thày đã trải nghiệm nó.

Bất kể hình ảnh nào về thày đã được tạo ra bởi các giáo lý vỏ ngoài hay trong tâm của các đệ tử và tổ chức chân sư thăng thiên trước đây, thì thày có thể nói một cách rất thành thực, con yêu dấu, là thày đã trải nghiệm hầu như tất cả mọi chuyện có thể trải nghiêm được trên hành tinh này qua nhiều lần đầu thai của thày. Thày không phải lúc nào cũng đã là một vị đạo sư tâm linh có tiến hóa cao hay một vị vua hay một vị vua minh triết. Trong nhiều kiếp con có thể nói là thày rất là con người. Thày không nói điều này để tự hạ mình xuống. Thày nói vậy để giản dị giúp con nhận ra là con không thể tránh cảm thấy giận dữ vì những trải nghiệm của con trên hành tinh này.

20.6. Cảm giác và đồng-sáng tạo

Cách duy nhất để con có thể tới hành tinh này mà không cảm thấy giận dữ, là con không có khả năng cảm thấy bất cứ gì. Con không thể là một sinh thể có tự nhận biết và sáng tạo nếu con không cảm thấy gì, bởi vì làm sao con có thể là một đồng-sáng tạo nếu con không có khả năng cảm giác? Chính qua cảm thể mà con đem các tạo vật của con xuống cõi vật lý, không có cách nào khác.

Con có thể có một họa đồ cực kỳ tinh vi của một ngôi nhà trong thể lý trí của con, nhưng con không thể đem nó thẳng từ cõi lý trí xuống cõi vật lý. Con phải đi qua cõi cảm xúc, và đây là cách con sáng tạo bất cứ gì. Sự kiện con tới đây như một avatar chứng tỏ là con có khả năng cảm giác. Vì sao con lại tới đây nếu con không có lòng từ bi đối với những người sống trên trái đất? Khi con tới đây và trải nghiệm sự đau khổ cùng cực của những người ở đây, thì làm sao con không phản ứng một cách giận dữ?

Thày đã có nhiều kiếp sống trong đó thày đã phản ứng một cách giận dữ, và tất cả những sinh thể đã thăng thiên từ trái đất đã có những kiếp đầu thai như vậy. Một số đệ tử tâm linh có khuynh hướng duy trì hình ảnh tôn sùng El Morya, Saint Germain hay Giê-su, và cho rằng tuy các thày đã từng đầu thai trên trái đất, nhưng các thày lúc nào cũng điềm đạm, bình tĩnh và tự chủ. Các thày không làm gì có thể bị chê trách, không bao giờ làm gì sai trái, không bao giờ mất bình tĩnh, không bao giờ nổi giận. Con yêu dấu, có phải chăng là các thày đã giải thích là vai trò của chúng ta khi đầu thai xuống trái đất (tất cả chúng ta, các con hiện đang ở đây, và các thày đã ở đây trước kia nhưng nay đã thăng thiên) là để trải qua tiến trình trầm mình và thức tỉnh?

20.7. Con coi điều gì quan trọng?

Thày bảo đảm với con là tất cả chúng ta đã trải qua giai đoạn trầm mình đã đi vào đủ loại hành động, cảm xúc và tin tưởng mà con người thường có, và đó là chuyện không thể tránh được. Con tới một điểm nhận ra con là một sinh thể tâm linh, và con giản dị nhìn vào nỗi giận của con và nói: “Đúng rồi, tôi đã làm chuyện này, tôi đã cảm thấy thế này, tôi đã nghĩ những điều này, nhưng đây chỉ là những điều tôi đã lấy vào khi tôi phản ứng lại hành tinh rất khó khăn này.” Sau đó, con bước lui lại và nói: “Có điều gì trên hành tinh này mà tôi coi là quan trọng, có điều gì mà tôi cảm thấy có quyền lực trên tôi như một sinh thể tâm linh?” Con có thể được lợi lạc nếu con thử nhìn những sinh hoạt nhân gian trong thế giới, những sinh hoạt mà con người đang tham gia. Sau đó, con nhận ra trong chính mình: “Tôi có coi những chuyện này quan trọng không? Chúng có níu kéo tôi chăng? Chúng có quyền lực trên tôi chăng?”

Tỷ dụ, con có thể xem xét việc con người đang giao chiến với nhau tại một số vùng trên trái đất và đã giao chiến với nhau suốt nhiều thế hệ. Không ai biết vì sao họ đánh nhau, nhưng họ vẫn tiếp tục đánh nhau. Con có thể nói: “Tôi có coi chuyện này quan trọng chăng, chuyện này có níu kéo tôi chăng?” Con có thể nhìn một số sinh hoạt mà con người tham dự (trong nền văn hóa của con) và nói: “Tôi có coi việc tìm cách tích lũy vài tỷ đô-la là quan trọng chăng, nó có níu kéo tôi chăng?” Con sẽ khám phá là có rất nhiều chuyện trên thế gian con không coi là quan trọng. Con đã thăng vượt chúng, chúng không còn níu kéo con, chúng không còn níu kéo con ở thể tình cảm, lý trí hay bản sắc. Con chỉ cần giản dị nhìn chúng và nói: “Rồi sao, chuyện này không có nghĩa lý gì đối với tôi.” Sau đó, con có thể xem xét vì sao con lại coi chúng quan trọng, vì sao chúng níu kéo con, vì sao con cảm thấy giận điều gì. Nếu con phản ứng với tình cảm tiêu cực, thì tại sao, con yêu dấu, con lại thấy chúng quan trọng? Lẽ dĩ nhiên, con có thể coi chúng quan trọng vì lý do chính đáng, nhưng cũng có thể vì lý do không chính đáng.  

20.8. Khe khắt với chính mình

Lý do chính đáng là trên cương vị một người tâm linh đang đi trên con đường tu, trên cương vị một avatar, con luôn luôn xem xét chính mình. Con luôn luôn lượng định mình và con lúc nào cũng tìm cách làm tốt hơn. Điều này chính đáng, chúng ta ai ai cũng đều phải làm vậy. Các thày đã tìm cách giải thích bằng nhiều cách, có khi vi tế, nhưng nay thày nói thẳng thắn: Vì sao các con là những người tâm linh nhất, ít hung hãn nhất, không phải là người xấu tính theo bất cứ tiêu chuẩn nào, vì sao con lại quá khe khắt với mình như vậy?

Vì sao khuynh hướng tự nhiên và chính đáng xem xét chính mình và lượng định xem mình có thể làm tốt hơn không lại thường khi đi đôi với cảm giác hổ thẹn khi con làm một lỗi lầm, khi con làm một điều mà con nghĩ một người tâm linh không được làm? Vì sao lại thường có một cảm xúc rất mạnh, và ngay cả (nếu con nhìn kỹ) một phản ứng ở thể lý trí, và trong một số trường hợp ở phần thấp của thể bản sắc của con? Con có ý niệm là con không được làm chuyện đó, con không được nổi giận, con không được làm điều mà người thường vẫn làm. Con đáng lẽ phải đứng bên trên phản ứng đó. Tại sao con lại có ý niệm đó, vì sao lại có phán xét giá trị đặt lên trên việc lượng định tự nhiên và xây dựng?

Vì sao một số trong các con đã khắc phục được khuynh hướng đó, nhưng nhiều người thì chưa? Nhiều người, khi mới tìm ra con đường tâm linh, đã trải qua một giai đoạn đối phó với khuynh hướng này. Bỗng nhiên, giáo lý tâm linh trở nên một cách khác để họ lên án mình và cảm thấy là họ không làm tròn bổn phận. Đầu năm nay các thày đã nói là các thày là chân sư thăng thiên chỉ mong muốn một điều là các con cảm thấy thoải mái với chính mình, nhưng rất nhiều khi giáo lý mà các thày trao truyền lại khiến các con cảm thấy không thoải mái bằng trước khi nhận giáo lý.

Vì sao lại có cơ chế đó? Con yêu dấu, nó một phần do sa nhân gài vào. Họ đã đề ra những lý thuyết cầu kỳ cho rằng trong con có điều hư xấu, và con là thế này hay thế khác. Con yêu dấu, con hãy nhìn nhận là sa nhân không chỉ tạo ra, tỷ dụ, quan niệm tội tổ tông (original sin) cho rằng mọi con người đều hư xấu. Họ cũng đã tạo ra một số khái niệm rất, rất vi tế mà con không thể tìm ra trong các bản văn, nhưng vẫn hiện hành trong tâm thức tập thể. Họ nói là nếu con là một người tâm linh thì con không được nổi giận, vì đây là một điều rất, rất xấu. Nếu con nổi giận và mất bình tĩnh thì con phải cảm thấy rất hổ thẹn.

Ý tưởng này do sa nhân tạo ra, không phải – không phải – do chân sư thăng thiên tạo ra. Các thày không muốn các con phán xét mình kiểu đó. Vậy thì vì sao nhiều người trong các con là đệ tử chân sư thăng thiên lại làm theo sa nhân và những gì họ gài vào con, thay vì làm theo các thày, dù con đã biết các thày? Vì sao con vẫn còn cơ chế đó trong bốn thể phàm của mình (mà con không thể khắc phục hoàn toàn) khiến con cảm thấy hổ thẹn? Thày sẽ nói con vì sao! Đó là vì con giận chính mình. Trong rất, rất nhiều kiếp con đã hướng nỗi giận tới chính mình vì con vẫn giữ, hay con đã lấy lại khi con bắt đầu tiến lên trên con đường tu, cảm nhận là cách mọi chuyện đang trải bày trên trái đất không phải là cách duy nhất mà chúng có thể là.

20.9. Chấm dứt vòng xoáy đi xuống

Nhiều người trong các con đã tới từ hành tinh tự nhiên là nơi không có những biểu hiện mà con thấy trên trái đất. Do đó, không bao giờ có một điều kiện bên ngoài nào dữ dội đến độ khiến con cảm thấy giận dữ. Vì vậy, con đã giữ trong bản thể của con cảm nhận (hay con đã nối kết trở lại với cảm nhận đó trong bản thể của con) là con không được nổi giận. Như thày đã nói, mọi chuyện trên trái đất tệ hơn trên các hành tinh tự nhiên rất nhiều, do đó con không thể tránh cảm thấy giận dữ.

Vì con có khuynh hướng lượng định chính mình (là điều cần thiết, vì nếu không thì con không thể tăng trưởng), vì con có cảm nhận là con không được làm như vậy, nên con đã giận mình là đã nổi giận trước những điều kiện trên trái đất. Điều này tạo nên một vòng xoáy và cơn giận chính mình đã tích lũy trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc thấp của con. Điều này có nghĩa là trong kiếp đầu thai tới, khi con gặp một điều kiện dữ dội trên trái đất, con sẽ có khuynh hướng cảm thấy giận điều kiện đó. Sau đó, lẽ dĩ nhiên là con cảm thấy giận mình vì đã nổi giận, và vòng xoáy cứ mạnh thêm và mạnh thêm. 

Con yêu dấu, thày không có ý định – không có ý định – khiến con cảm thấy xốn xang hơn vì có vòng xoáy đó. Thày muốn con nhận ra là con có vòng xoáy đó và đã đến lúc vượt thăng nó. Vậy, con làm sao vượt thăng nó? Ấy, con yêu dấu, mỗi người trong các con có thể cần một tiến trình riêng. Nó bao gồm điều mà thày đã giảng: nhận ra rằng nó không phải là nỗi giận của con. Con không có nó khi con đến đây, con không giận chính mình khi con đến đây. Đây là một cái gì con đã lấy vào khi gặp những điều kiện trên trái đất. Con có thể cần làm bài tập mà thày đã trao cho các con liên quan đến việc nhìn các điều kiện trên trái đất và nói: “Chúng có còn níu kéo tôi nữa chăng? Vì sao tôi lại giận mình vì đã nổi giận trước những điều kiện này?” Con có thể nhờ vậy đi vào tiến trình dần dần buông bỏ một phần nỗi giận.

20.10. Nỗi giận không thể tự nó hiện hữu

Thày không muốn nói là có một chuyện con có thể làm và tức khắc loại bỏ nỗi giận. Con có thể tới điểm nhận ra là nỗi giận không phải là một cảm xúc hay một mô thức tư tưởng có thể tự nó hiện hữu. Các thày có nói tới các ước muốn thật và các ước muốn giả. Ta cũng có thể nói là có cảm xúc thật, cảm xúc giả, cảm xúc cao và cảm xúc thấp. Các thày có nói tới cảm xúc dựa trên tình thương và cảm xúc dựa trên sợ hãi. Ấy, con yêu dấu, sự khác biệt rất giản dị hay ít ra nó có thể được diễn tả một cách rất giản dị.

Một cảm xúc dựa trên tình thương có thể tự nó hiện hữu. Một cảm xúc dựa trên tình thương là một dạng năng lượng tâm linh xuất phát từ cõi cao và tuôn chảy xuyên qua con. Nó có thể hoàn toàn tự nó hiện hữu. Một cảm xúc dựa trên sợ hãi, và giận dữ là một cảm xúc dựa trên sợ hãi, không thể tự nó hiện hữu. Nó có thể tự nó phát triển và trở nên một tà thể (entity) hay ác quỷ (demon), nhưng nó không thể tự nó hiện hữu.

Nó bắt buộc phải có một đối tượng. Con không sợ một cái gì không xác định, con không sợ cái không là vật thể. Khi con sợ thì con phải sợ một cái gì đó. Đúng là giận dữ hay sợ hãi có thể trở nên một cảm xúc chung chung lấp đầy thể cảm xúc của con đến độ con không nhận ra là mình sợ cái gì, nhưng nỗi sợ bắt đầu bằng một nỗi sợ cái gì đó. Tương tự, giận dữ bắt đầu bằng nỗi giận một đối tượng. Có một lý do khiến con giận dữ, và đó là lý do vì sao thày nói con có thể khắc phục cảm xúc đó bằng cách sẵn sàng làm theo lời Giê-su: “Chúng ta hãy cùng nhau suy luận.” Đây là một châm ngôn của các chân sư thăng thiên: “Chúng ta hãy cùng nhau suy luận.”

20.11. Suy luận về sự giận dữ

Nếu con sẵn sàng thì con hãy chọn một vị chân sư thăng thiên. Thày tình nguyện làm việc này, nhưng con hãy chọn vị chân sư nào gần với con. Sau đó, con nói: “Chúng ta hãy cùng nhau suy luận về nỗi giận của con.” Nếu con sẵn sàng đi hết tiến trình này thì con có thể tới điểm dần dần thấy đối tượng nguyên thủy đã khiến con giận hành tinh này. Sau đó, con dần dần thấy là điều đó không còn quan trọng đối với con như lúc ban đầu. Như được giảng trong quyển sách mới, chấn thương nhập đời nguyên thủy, chấn thương đầu tiên của con, không thể được lặp lại vì con không thể cảm thấy lại sự tương phản giữa sự việc gây nên chấn thương và trạng thái ngây thơ của con lúc đó. Khi con nối kết lại với sự việc nguyên thủy đã khiến con giận trái đất, thì nó không còn quan trọng đối với con như lúc đầu nữa. Điều này có nghĩa là con tới điểm nói: “Đúng rồi, tôi có thể buông bỏ nó. Tôi không còn thấy giận chuyện này nữa.” Sau đó, khi con đã phần nào làm được việc này với những đối tượng đã khiến con giận trái đất, thì con có thể xin sự hướng dẫn của vị chân sư để nhận ra: “Tại sao con lại cảm thấy giận chính mình?”

Lúc đó, con sẽ nhận ra là, một lần nữa, có chuyện gì phi lý. Như thày có nói, con không dễ dùng ngôn từ để diễn tả con là gì, và con nhận ra rằng nếu con giận chính mình, thì con đã biến mình thành một vật thể. Con chỉ có thể giận một vật thể, tỷ dụ như con giận một số điều kiện trên trái đất hay con giận sa nhân. Nếu con giận chính mình, thì có nghĩa là có một vật thể mà con giận.

Vật thể đó là gì? Ấy, nó là cái mà các thày đã gọi (trong một số giáo lý mà các thày đã trao truyền) là một sắc thái của tự ngã, một phàm linh nội tại hay một cái ngã tách biệt. Con có thể tới điểm nhận ra con có một cái ngã cảm thấy là, trong cương vị một người tâm linh, con không bao giờ được giận dữ. Do đó, khi con cảm thấy giận dữ, cái ngã đó bắn một mũi tên vào thể cảm xúc của con và khiến con cảm thấy không thoải mái. Con cảm thấy không thoải mái một cách mơ hồ với chính mình. Con cảm thấy con kém cỏi, con thấp kém, con đã phạm một lỗi lầm, con không thể nào chuộc tội. Bởi vì cái ngã đó khiến con cảm thấy không thoải mái, nên con cảm thấy giận cái ngã đó. Sau đó, con nhận ra là đối tượng của nỗi giận chính mình thực ra không phải là con, mà là một cái ngã không phải là con.

Nó chỉ là một cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra để phản ứng lại các điều kiện trên trái đất. Lúc đó, con tách mình ra khỏi cái ngã đó, con nhận ra là nỗi giận với chính mình thực sự không khác nỗi giận mà con cảm thấy khi con thấy có người bị giết trong chiến tranh hay bất cứ điều gì khác mà con đã trải nghiệm trong quá khứ. Con có thể tách mình ra khỏi nỗi giận và nói: “Nhưng nếu có một số điều kiện trên trái đất mà tôi không còn cảm thấy giận nữa, thì tại sao tôi lại cảm thấy giận cái ngã đó? Tôi thấy cái ngã đó không thực, nó không thực sự là tôi, vậy tại sao tôi lại giận cái ngã đó?”

20.12. Một bài tập để giải trừ nỗi giận

Khi con nhận ra là cái ngã mà con giận tách biệt với con, thì con có thể làm một bài tập nhỏ khác. Dựa trên những gì con biết về khía cạnh tâm linh của đời sống và về chính con, thày muốn con hình dung là bây giờ con nhìn vào nỗi giận chính mình (cái ngã tách biệt) và con nói: “Đúng rồi, nhưng bây giờ tôi không muốn hướng nỗi giận về phía cái ngã tách biệt nữa, bây giờ tôi muốn hướng nó về phía cái ta thật của tôi. Vậy cái ta thật của tôi là gì, cái ta thật của tôi ở đâu, tôi muốn xác định nó là gì một cách chính xác.” Con sẽ thấy là nếu con làm việc này, thì tâm của con sẽ trống trơn. Con không thể tạo một hình tư tưởng hay một hình ảnh ngôn từ về cái ta thật của con, vì cái ta thật của con – mặc dù các thày đã gọi nó là Hiện diện TA LÀ và cho con một số khái niệm – vượt ra ngoài những gì con có thể hình dung hay tưởng tượng với tâm vỏ ngoài của con.

Tâm vỏ ngoài không thể hiểu Hiện diện TA LÀ. Cái Ta Biết có thể trong thoáng chốc trải nghiệm Hiện diện TA LÀ, nhưng tâm vỏ ngoài thì không thể. Cái Ta Biết không chĩa nỗi giận, mà là tâm vỏ ngoài, cái ngã vỏ ngoài. Khi con nhận ra là con không thể tìm ra cái ta thật để hướng nỗi giận tới, thì con cũng nhận ra là không phải cái ta thật đang giận dữ. Cái ta thật còn không giận cái ta tách biệt đã khiến con cảm thấy không thoải mái. Cái gì giận cái ta tách biệt? Ấy, đó lại là một cái ngã tách biệt khác.

Bây giờ thì con có một cái ngã tách biệt khiến con cảm thấy không thoải mái và một cái ngã tách biệt khác khiến con giận cái ngã tách biệt đầu. Khi con thấy điều này thì con thấy đây là một trò hề. Không phải là các ngã tách biệt này không có mặt. Con thực sự có thể thấy một nhân vật giống như một anh lùn giữ cửa (gnome) đang có vẻ bị gánh nặng quá tải và bất lực, đang phóng chiếu không ngừng là con phải hổ thẹn vì không toàn hảo. Và có một cái ngã nhăn nhó khác đang phóng chiếu là con phải giận cái ngã đầu. Con có thể thấy là hai cái ngã này có mặt. Lúc đó, con có thể thấy: “Chúng không phải là tôi. Chúng ở trong bốn thể phàm của tôi.” Quả thật là con đã tạo ra chúng, nhưng chúng không phải là con, và con có thể nói: “Tại sao tôi lại muốn kéo lê các ngã này theo tôi? Tại sao?”

Con yêu dấu, nếu con tìm ra được một lý do vì sao con muốn tiếp tục kéo lê các ngã này theo con, thì thày không có vấn đề gì. Thày tôn trọng quyền tự quyết của con. Nếu con muốn mang chúng theo con, thì con hãy làm chuyện này. Thày chỉ muốn cống hiến sự trợ giúp của thày nếu con muốn giải thoát mình khỏi chúng. Lúc đó, con chỉ cần giản dị lấy một quyết định. Con cần lấy quyết định gì? Đó là: “Tôi sẵn sàng để cho các ngã này chết đi.”

20.13. Hội chứng truyền giáo

Giờ đây điều thày nói sau đây có thể cần con suy ngẫm. Một lần nữa, thày tìm cách dùng cái trí của con, cái trí lý luận, lô-gíc, suy luận, để vượt qua khả năng suy luận của nó bằng cách giúp con thấy là đôi khi óc suy luận trở nên quá đáng vì nó tạo ra mâu thuẫn. Điều con cần nhận ra là điều Mẹ Mary đã nói trong bài truyền đọc của thày: “Trong cương vị một avatar con không có mặt trên trái đất để đem lại thay đổi vật lý đặc trưng.” Vì sao lại như vậy? Vì chuyện xảy ra trên trái đất không phải là trách nhiệm của con, mà là trách nhiệm của các cư dân nguyên thủy.

Nếu cần có thay đổi vật lý đặc trưng, tỷ dụ như loại bỏ chiến tranh và không còn chiến tranh trên hành tinh này nữa, thì con, như là một avatar, không thể lấy quyết định đem tình trạng này xuống cõi vật lý. Cần có đủ túc số cư dân nguyên thủy lấy quyết định này, và lúc đó nó sẽ hiện thực trong cõi vật lý. Điều con có thể làm là giúp họ lấy quyết định này. Con làm việc này như thế nào? Không bằng cách ép buộc họ, vì như vậy thì con chỉ làm đúng những gì sa nhân đã làm – con còn không thể ép buộc họ ở các tầng xúc cảm, lý trí và bản sắc.

Con cần nhận ra một điều mà rất rất nhiều người tâm linh hay sùng đạo (nhưng nhiều người tin vào một ý thức hệ chính trị cũng vậy) đã bị mắc bãy, đó là điều mà ta có thể gọi là “hội chứng truyền giáo”. Đây là khi con nghĩ con cần đi ra bên ngoài và cải đạo mọi người theo hệ thống tư tưởng của con bằng cách dùng cảm xúc, thể lý trí và ý niệm bản sắc của họ, để họ đổi ý và tin vào hệ thống tư tưởng của con. Họ lúc đó khoác hệ thống tư tưởng này như một áo choàng và nói: “Tôi bây giờ theo tôn giáo này và do đó tôi sẽ cư xử theo tôn giáo đó.” Đây không phải là lý do vì sao con đã tới đây như một avatar. Như các thày đã giảng, con tới đây để chứng minh tiến trình thức tỉnh khỏi sự tự đồng hóa mình với cõi vật chất. Con ở đây để cho mọi người thấy là bất cứ ai đều có thể nâng mình lên khỏi ý niệm bản sắc mình là một người phàm, và nhận ra là tất cả chúng ta đều là sinh thể tâm linh.

Con ở đây để chứng tỏ sự thức tỉnh, và dù con có thể, con yêu dấu, cải đạo người khác để họ theo một hệ thống tư tưởng – nhưng đó không phải là thức tỉnh. Nhiều người không dễ nhìn ra điều này, nhưng con thì có thể thấy. Nếu con có thể cải đạo tất cả mọi người trên hành tinh để họ trở nên tín đồ Công giáo thuận thành, thì điều này có nghĩa chăng là họ đã tới gần quả vị Ki-tô hơn? Ấy, lẽ dĩ nhiên con biết là không, vì giáo hội Công giáo đã tha hóa khái niệm quả vị Ki-tô.

Con có thể nói: “Nếu con có thể cải đạo mọi người để họ tin giáo lý chân sư thăng thiên, thì điều này có dẫn họ tới gần quả vị Ki-tô hơn chăng?” Ở đây thì ta có một câu hỏi lắt léo hơn vì chính thực là họ sẽ tới gần quả vị Ki-tô hơn, vì giáo lý chân sư thăng thiên có một giáo lý có giá trị hơn nếu con muốn nâng tâm thức mình lên. Con không thể thực sự hết lòng theo giáo lý chân sư thăng thiên mà không nâng tâm thức mình lên. Như các thày đã nói nhiều lần, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã chứng minh là con có thể theo giáo lý chân sư thăng thiên trong nhiều thập kỷ mà vẫn không thực sự hiểu thế nào là con đường tu nội tâm. Con có nhận ra điều thày nói chăng? Vấn đề không phải là khiến con người tin vào một giáo lý. Cách duy nhất để dẫn con người đến gần quả vị Ki-tô hơn, là con chứng tỏ bằng bản thân mình tiến trình thức tỉnh. Sau đó, lẽ dĩ nhiên con có thể giúp họ khóa chặt họ vào tiến trình đó, nhưng thức tỉnh không phải là chấp nhận một giáo lý vỏ ngoài với tâm vỏ ngoài. Nó là, như chúng ta đều biết, một tiến trình nội tâm. Con yêu dấu, khi con nhận ra điều này thì con nhận ra là con không tới đây để đem lại một thay đổi đặc trưng trên trái đất, và do đó hoàn toàn không có lý do gì để con tiếc nuối những gì con đã làm hay đặc biệt là đã không làm trong kiếp này hay các kiếp trước.

20.14. Không tiếc nuối

Giờ đây chúng ta đang ở Đông Âu, môt vùng đất trước đây ở dưới gông cùm Cộng sản. Mẹ Mary có nói là nhiều người dân Đông Âu cảm thấy không được nuôi dưỡng nhưng họ cũng cảm thấy đời họ là một cơ hội bị mất. Khi con nhìn vào các nước dưới gông cùm Cộng sản thì nhiều người có cảm tưởng là vì họ không có cơ hội biểu lộ sự sáng tạo của họ nên cuộc đời của họ đã là một cơ hội bị mất. Một số người trong các con cũng có thể cảm thấy như vậy, nhưng các con nên biết là nhiều người thuộc thế hệ cha mẹ các con đã cảm thấy như vậy. Cũng có những quốc gia (và chắc chắn nước Estonia này là một trong những nước đó) mà tâm thức quốc gia cảm thấy cơ hội bị mất vì họ nghĩ mức độ phát triển quốc gia của họ sẽ hơn nhiều nếu họ không bị Liên bang Sô viết áp chế.

Rất, rất nhiều avatar có thể có cùng cảm nhận mình đã đánh mất cơ hội. Trong khi nhiều người cảm thấy là có người khác, có một lực bên ngoài đã phá vỡ cơ hội của họ, thì nhiều avatar lại cảm thấy: “Chính tôi đã phá vỡ cơ hội vì tôi đã phản ứng như thế. Tôi đã giận dữ, tôi đã đi vào một vòng xoáy tiêu cực, tôi đã đánh nhau với sa nhân, tôi đã làm điều này, tôi đã làm điều nọ, và do đó tôi đã lãng phí quá nhiều kiếp sống.” Khi vị sứ giả này nhận truyền đọc quyển sách cuối, ông đã phải trải qua một giai đoạn trong đó ông suy ngẫm: “Nhưng nếu tôi cũng đã làm điều mà nhân vật trong quyển sách đã trải qua, là đánh nhau với sa nhân trong vòng một triệu năm, tôi đã lãng phí biết bao nhiêu thời gian trong cuộc đấu tranh nhị nguyên đó.” Con yêu dấu, khi con nhận ra điều thày đã nói: là con không tới đây để đem lại thay đổi vật lý đặc trưng, con ở đây để chứng tỏ tiến trình thức tỉnh, thì con thấy là nhìn từ một tầm nhìn cao, con không bao giờ đánh mất cơ hội. Con không thể nào đánh mất cơ hội, con yêu dấu. Con có thể nói: “Nhưng tôi đã không là người tâm linh trong kiếp sống này, tôi đã không làm việc tâm linh nào cả. Tôi chỉ làm việc tâm linh từ lúc tôi tìm ra giáo lý, nhưng suốt mấy chục năm trước tôi không làm gì tâm linh cả.” Thày sẽ nói: “Vậy vì sao sự việc này lại khiến con đánh mất cơ hội?”

20.15. Không bao giờ đánh mất cơ hội

Con tới đây để làm gì? Con tới đây để chứng tỏ là một người trong quá khứ không tâm linh nay đã thức tỉnh. Nếu trong quá khứ con đã là người tâm linh, thì làm sao con chứng tỏ cách thức tỉnh? Nếu con đầu thai với cùng trình độ tự điều ngự mà nhiều người trong các con nghĩ là Giê-su có khi thày đầu thai, thì họ sẽ làm với con điều họ đã làm với Giê-su: biến con thành một thần tượng. Các thày đã nói điều này và thày lại nói một lần nữa. Nếu một người chứng tỏ Tâm thức Ki-tô, thì sa nhân sẽ lập tức biến vị đó thành một ngoại lệ và nói: “Các người còn lại sẽ không đạt được điều này.” Nếu mười ngàn hay nhiều triệu người chứng tỏ tâm thức Ki-tô, thì sa nhân sẽ không làm được như vậy nữa, và đó chính là kế hoạch mà các thày đã đề ra cho thời đại này. Đây là kế hoạch mà Giê-su đã có 2,000 năm trước khi thày nói: “Những ai tin ta sẽ làm những chuyện ta đã làm và hơn thế nữa.”

Con yêu dấu, quả đúng là sự việc có thể xảy ra sớm hơn. Nhưng nó đã không xảy ra sớm hơn và giờ đây không quan trọng là nó đã không xảy ra sớm hơn, vì nó có thể xảy ra bây giờ nếu con sẵn sàng xoay chuyển tầm nhìn, và giản dị nhìn vào cái ngã giận dữ và nói: “Đây không phải là tôi, tôi sẵn sàng để cho nó chết đi.” Con có thể nhìn vào bất cứ ngã nào đang ngăn trở con, bất cứ ngã nào đang trì hoãn con và con có thể nói: “Tôi thấy đây không phải là tôi, tôi sẵn sàng cho ngã này chết đi.” Sau đó, con để cho nó chết đi, con yêu dấu. Làm cách nào con để cho nó chết đi? Ấy, thày sẽ nhường cho một đồng nghiệp tôn quý của thày diễn giải điều này, vì thày đã nói những gì thày muốn nói lúc này và thày đã trao cho các con những gì con có thể tiếp nhận, và nhiều hơn chút nữa, như thày luôn luôn làm.  

20.16. Chân sư MORE không tự coi mình quá quan trọng

Vì thày là Chân sư MORE, thì làm sao thày lại có thể không cho con nhiều hơn là những gì con có thể tiếp nhận? Bằng cách cho con nhiều hơn những gì con có thể tiếp nhận bây giờ, thì lần tới con có thể tiếp nhận nhiều hơn, và lúc đó thày lại có thể cho con nhiều hơn những gì con có thể tiếp nhận lúc đó. Thày chơi trò chơi này vì đây là ngọn lửa của thày. Con yêu dấu, trong một đợt truyền giáo lý chân sư thăng thiên trước, các đệ tử coi El Morya, như họ gọi thày lúc đó, rất quan trọng. Thày không bao giờ coi mình quan trọng bằng đệ tử coi thày. Vì sao vậy? Ấy, đó là vì các đệ tử chưa thăng thiên nhưng thày thì đã thăng thiên. Họ chưa thăng thiên vì họ coi thày và chính họ quá quan trọng. Thày đã thăng thiên vì thày đã ngưng coi thày và mọi chuyện trên trái đất quá quan trọng. Đó là cách duy nhất để thăng thiên, con yêu dấu.   

Khi nào còn điều gì trên trái đất mà con coi là quan trọng và nghĩ nó có quyền lực trên con (nó có quyền lực giữ con lại trái đất) thì con không thể thăng thiên. Thăng thiên có nghĩa là bỏ lại tất cả mọi chuyện trên trái đất đằng sau mình. Con chỉ có thể bỏ lại một chuyện đằng sau mình khi con tới điểm con có thể nhìn vào nó và con không coi nó quan trọng, nó không níu kéo được con. Con chỉ giản dị nói: “Ấy, rồi sao, chuyện này không có nghĩa lý gì với tôi, tôi đã thăng vượt nó. Trong quá khứ nó có nghĩa lý với tôi.” Việc có những chuyện có nghĩa lý với con là điều bình thường vì nó thuộc vào tiến trình trầm mình và thức tỉnh. Con trầm mình bằng cách coi một số chuyện quan trọng, và như vậy chúng có nghĩa lý với con. Con yêu dấu, con thức tỉnh bằng cách khắc phục khuynh hướng coi các chuyện trên trái đất quan trọng.

Con có thể nói là để thăng thiên, thì con cần coi con đường tu, Hiện diện TA LÀ của con và việc thăng thiên, là quan trọng. Làm sao con có thể coi Hiện diện TA LÀ quan trọng khi con không thể định rõ chính xác nó là gì? Một lần nữa, con coi một chuyện quan trọng vì đối với con nó đã trở thành một vật thể, nhưng con không bao giờ có thể hoàn toàn biến Hiện diện TA LÀ của con thành một vật thể. Con có thể, như một số đệ tử chân sư thăng thiên đã làm, tạo ra một khái niệm Hiện diện TA LÀ là gì và nó gần như đóng vai trò vật thể đối với con. Nếu con bắt đầu nhìn vào việc này, suy luận về nó, thì con sẽ thấy là con không thể biến Hiện diện TA LÀ thành một vật thể. Vì sao vậy? Bởi vì nó không ở bên ngoài con. Con có thể nói con có khái niệm về Hiện diện TA LÀ của con nhưng nó không phải là Hiện diện TA LÀ của con. Con có thể coi khái niệm đó quan trọng, nhưng đó không phải là Hiện diện TA LÀ của con. Con không thể biến cái gì không tách biệt khỏi con thành một vật thể, và con không thể thực sự nắm bắt Hiện diện TA LÀ của con khi con còn ý niệm tách biệt khỏi nó.

Thày đã không cưỡng được cám dỗ cho con nhiều hơn những gì thày đã nói thày muốn cho con. Bây giờ, thì thày sẽ cáo biệt và chúc lành các con vì thày  thực sự vui mừng khi tương tác với bản thể các con. Thày sẽ vui mừng tương tác với từng người trong các con ở mức độ cá nhân, khi con tinh tấn làm việc với thày.

Thày bày tỏ lòng tri ân, tình thương và ngọn lửa HƠN NỮA của thày.

16 | Một thông điệp cho tất cả những ai đã đến đây với sứ vụ giải cứu

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Sanat Kumara qua trung gian Kim Michaels, ngày 12 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Sanat Kumara. Thày đến đây với một thông điệp đa diện. Kỳ thực, các thông điệp của các thày luôn luôn đa diện vì chúng có thể hiểu được theo nhiều tầng cấp tâm thức khác nhau. Tuy thế, thông điệp của thày đặc biệt đa diện vì thày không chỉ giản dị nói dựa trên 144 tầng tâm thức có thể có trên trái đất. Thày nói cho nhiều người khác nhau đã đến trái đất để làm điều ta có thể gọi là một sứ vụ giải cứu.

Các con đều đã từng nghe câu truyện là có một điểm khi trái đất ở trong một trạng thái rất thấp và nhiều người trong số các thày cho rằng trái đất không thể tồn tại được. Lúc đó, thày và 144,000 dòng sống từ Kim tinh quyết định đến trái đất để giúp nâng cao hành tinh này. Điều này có nghĩa là 144,000 dòng sống đầu thai trên trái đất trong khi thày thì không đầu thai, nhưng thày có thành lập một tu viện ở đây bên trên sa mạc Gobi được gọi là Shamballa.

Giờ đây, như các thày đã nói trước đây, và thày sẽ nói lần nữa, là lẽ tất nhiên những dòng sống từ Kim tinh không phải là những dòng sống duy nhất tới trái đất để giúp nâng hành tinh này lên, vào lúc đó, hay sau đó. Trước đó và sau đó, đã có những dòng sống khác đã đến trái đất để giúp nâng nó lên vượt qua tầng mức nhị nguyên. Nhóm người Kim tinh là nhóm đơn nhất đông đảo nhất đã tới trái đất nhưng có những nhóm khác nhỏ hơn đã tới, có những cá nhân đã tới và họ có nhiều quá trình khác nhau.

16.1. Hành tinh tự nhiên và không tự nhiên

Các thày có gợi ý là con có thể chia hành tinh thành hai loại: hành tinh tự nhiên và không tự nhiên. Trái đất là một hành tinh không tự nhiên vì tâm thức tập thể dựa trên sợ hãi. Ở đây con có sa nhân đầu thai, con có chiến tranh, xung đột, con có tất cả những biểu hiện bên ngoài đó cho thấy rõ những điều này không thể nào tự nhiên, theo nghĩa chúng không được Thượng đế hay các chân sư thăng thiên sáng tạo hay thiết kế.

Đây là một hiện tượng do quyền tự quyết đem tới khi các sinh thể dùng quyền tự quyết của họ để đi vào nhị nguyên, xem mình là những sinh thể tách biệt. Do đó, họ tạo ra tất cả những biểu hiện mà con thấy trên trái đất, chỉ có thể xảy ra được khi con người quên đi nhân tính cơ bản có trong tất cả mọi người. Vì vậy, họ không thấy là tất cả mọi người là anh chị em tâm linh của họ. Họ nhìn tất cả mọi người như người “khác” và họ rơi vào ảo tưởng cho rằng họ có thể làm những điều đối với người khác mà không bị vũ trụ làm lại đối với họ, không bị tấm gương vũ trụ phản ánh lại họ.

Đây là một ảo tưởng chỉ có thể hiện hữu trên một hành tinh không tự nhiên. Ngược lại, có hàng tỷ hành tinh trong vũ trụ vật chất đang ở trong giai đoạn là hành tinh tự nhiên. Nhiều trong số các hành tinh này có mức tâm thức tập thể rất cao. Do đó chúng tạo ra một lực hút từ tính lớn lao kéo toàn thể vũ trụ lên, kể cả, lẽ dĩ nhiên, hành tinh trái đất. Khi lực kéo này gia tăng, chuyện xảy ra là các hành tinh không tự nhiên vẫn tiếp tục bị hút lên bởi lực hút kéo của toàn thể vũ trụ. Vì các hành tinh này có tầng mức tâm thức tập thể thấp, nguy cơ là sự cưỡng chống có thể tạo ra một sự khác biệt lớn giữa lực kéo lên của vũ trụ và lực cưỡng chống của hành tinh, đến độ hành tinh vật lý không thể tụ dính vào nhau và nó có thể bị vỡ tung ra, theo nghĩa đen.

Để tránh chuyện này xảy ra, cần có những dòng sống từ một số các hành tinh tự nhiên đến trái đất và đầu thai ở đây. Chỉ với sự hiện thân vật lý của họ, có thể nói họ là điểm neo cho hành tinh nhà của họ và các rung động của hành tinh nhà của họ. Đây là nỗ lực cuối cùng cần thiết để giúp giữ hành tinh này tụ dính vào nhau lâu hơn nữa với hy vọng có một ngày tâm thức tập thể được nâng cao để hành tinh không còn bị nguy cơ bị vỡ tung ra. Rất nhiều, rất nhiều dòng sống đã tới với nhiệm vụ như thế.

16.2. Đã tới lúc con biết tại sao con ở đây

Bây giờ con cần cẩn thận nhận ra rằng một mặt, thày muốn nói với các dòng sống này. Thày có một ý định muốn gửi một tín hiệu mạnh mẽ vào tâm thức tập thể, hay đúng hơn vào tâm thức cá nhân của tất cả các dòng sống này, là đã tới lúc các con phải tiến lên cao hơn. Đã tới lúc con ý thức nhận ra tại sao con ở trên hành tinh này: con ở đây không phải chỉ để làm một điểm neo, nhưng cũng để cống hiến một khung tham chiếu tích cực cho những cư dân khác của hành tinh. Thời gian đã chín mùi để con bắt đầu làm việc này.

Tuy thế, để làm tròn nhiệm vụ này, con cần nhận ra rằng tuy con đến từ một hành tinh tự nhiên, việc xuống đầu thai ở một hành tinh thấp như trái đất này không thể làm được khi con còn duy trì trọn vẹn cái biết con là ai và từ đâu đến. Như thày Hilarion đã giảng, con chỉ đầu thai được bằng cách mang vào một số ảo tưởng tương ứng với 144 tầng tâm thức. Đây giản dị là chuyện con phải xuống thấp tới đâu để có thể đầu thai ở đây, và con cần nhận ra là con đã mang vào những ảo tưởng này.

Con cũng cần nhận ra một sự kiện rất giản dị: việc con từ đâu đến và tâm thức con cao tới đâu trước khi con tới trái đất, không phải là điều quan trọng. Một khi con mang vào những ảo tưởng này, thì con sẽ nhìn đời trên trái đất qua phin lọc của các ảo tưởng đó. Điều này có nghĩa là giờ đây con ở trong cùng tình trạng như các cư dân khác trên trái đất. Con không cao hơn, con không khôn ngoan hơn, con không tưởng thành hơn họ vì con phải đối mặt cùng những khai ngộ.

Con có tiềm năng hạ tâm thức xuống, và quả thực một số dòng sống đến từ các hành tinh tự nhiên đã đi xuống thấp hơn tầng tâm thức 48. Nhiều người đã không đi xuống, hầu hết đã không đi xuống nhưng các con vẫn phải đối mặt cùng các khai ngộ. Con cần nhận ra rằng con không thể cho phép mình có ý niệm là con khác, con không thực sự thuộc về nơi đây, hành tinh này ban sơ, con không thể giao tiếp được với những người trên hành tinh và tất cả những chuyện tương tự. Có nhiều dòng sống tới đây với nhiệm vụ giải cứu đã cảm thấy xa cách hay cao hơn những người khác trên trái đất. Lý do rất giản dị. Khi con đi vào sự dày đặc của một hành tinh như trái đất, con mất đi sự kết nối với cái biết mà trong các bài truyền đọc gần đây các thày gọi là nhân tính cơ bản. Con bị cú sốc lớn khi xuống đây và bị những người ở đây đối xử (khi con bị bác bỏ một cách rất tàn bạo thường là ngay lần đầu thai đầu tiên trên hành tinh này) nên con tựa như đánh mất nhân tính cơ bản trong con. Hơn thế nữa, con không thấy được nhân tính cơ bản này nơi những người trên trái đất. Có thể nói là con không thấy được nhân tính cơ bản nơi những sa nhân đã làm con tổn thương một cách rất tàn bạo. Con cũng không thấy nó nơi người dân trung bình trên trái đất vì con thấy rất nhiều người không tăng triển, họ không muốn tăng triển.

Con cần nhận ra ở đây có một động lực rất rất quan trọng, là nhiều dòng sống, trên thực tế hầu hết dòng sống đã tới trái đất từ những hành tinh tiến hóa cao hơn, đã đi vào điều có thể gọi là một trạng thái tâm tiêu cực. Họ có khuynh hướng chê bai trái đất rất nhiều, họ có ý niệm là có lẽ chính vũ trụ vật chất chống lại sự tăng triển tâm linh của họ, vũ trụ vật chất dơ bẩn làm sao đó, con người trên hành tinh này ban sơ, các xã hội ở đây ban sơ. Con thường bị dính mắc vào sự chỉ trích chọn lọc này trong đó con nhìn một số nhóm người đặc thù như rất tiêu cực, lạc hậu hay không tăng triển, và vì sao đó, không xứng đáng để con kính trọng, thương yêu hay quan tâm.

16.3. Bị lừa bởi chủ thuyết Quốc xã

Điều sau đây có thể gây sốc nhưng là một sự thật. Nếu con nhìn vào Đức quốc xã, thì một số những dòng sống đến từ những hành tinh cao đã bị quyến rũ bởi ý thức hệ Quốc xã về dòng giống ưu việt và nhu cầu thanh tẩy dòng giống con người. Thực tế là họ cống hiến ánh sáng của họ để ủng hộ guồng máy Quốc xã đã rốt cuộc dẫn tới việc diệt chủng người Do thái (Holocaust). Thày không nói họ là những người lính canh ngục trong các trại tập trung hay họ đã đẩy người tù vào phòng hơi ngạt, nhưng họ phục vụ ở các cấp cao trong guồng máy Quốc xã. Ánh sáng của họ là một yếu tố giúp kéo dài guồng máy chiến tranh do Hitler tạo ra.

Nếu con nhìn một số dòng sống này, ngay cả qua hình ảnh hay phim xi nê của thời đó, thì con có thể thấy là họ có ánh sáng tâm linh. Họ là những người cao, tóc vàng, mắt xanh dương, thực sự có ánh sáng tâm linh nhưng họ đã bị quyến rũ để ủng hộ ý thức hệ Quốc xã. Họ nghĩ rằng, vì điều kiện thấp trên trái đất và đặc biệt là điều kiện thấp của một số nhóm người, có lẽ đã tới lúc dùng những biện pháp quyết liệt để nâng trái đất lên trên cái mà họ thấy là sự điên rồ đã bỗng nhiên bao trùm trái đất. Con cần nhìn nhận rằng khi con đầu thai trên trái đất (đặc biệt là khi con xuống, không nhất thiết là dưới tầng 48, nhưng chắc chắn là dưới tầng 96), dù con đến từ một hành tinh cao, nhưng con vẫn có thể dễ bị thu hút và say mê một ý tưởng, một lý tưởng. Thực tế là con có thể bị quyến rũ để nghĩ rằng để đẩy mạnh lý tưởng này, việc giết những người hành động chống lại điều mà con cho là lý tưởng cho hành tinh này là chuyện chính đáng.

Con yêu dấu, ở đây thày kêu gọi những ai trong các con đã đến từ hành tinh tự nhiên, là đã đến lúc các con nâng mình lên khỏi ảo tưởng này một cách vĩnh viễn. Con chỉ có thể làm điều này bằng cách nghe theo lời khuyên của các thày để: 1) Ngưng không coi cá nhân mình là trung tâm của cuộc đời và con đường tu của mình, và 2) Tìm ra cái mà các thày gọi là nhân tính cơ bản trong mình.

16.4. Nâng cao chính mình hay toàn thể

Bây giờ, tại sao các thày gọi nó là “nhân tính cơ bản”? Một số người sẽ nói tại sao không gọi là “bản sắc tâm linh?” Ấy, đó là vì có một lúc trên con đường tâm linh, như các thày đã nói nhiều lần, khi con cần nâng mình lên khỏi sức hút kéo xuống của tâm thức đại chúng. Các thày đã cố chỉ cho chúng con một con đường tu có hệ thống trong khóa học tự điều ngự trong đó con có thể nâng mình lên qua bảy tia sáng, từ tầng 48 tới tầng 96. Các thày cũng nói là khi con đạt tầng 96, thì con đối mặt một khai ngộ đặc thù, đó là con sẽ tiếp tục chú tâm vào việc nâng cao chính mình hay con sẽ xoay chuyển và bắt đầu chú tâm vào việc nâng cao tổng thể.

Làm sao con có thể xoay chuyển và chú tâm vào việc nâng cao tổng thể? Chỉ bằng cách nhận ra cái mà trong những lần giảng khác các thày đã gọi là tâm thức Ki-tô. Chỉ khi nào con bắt đầu nhận ra tâm thức Ki-tô trong chính con, và bắt đầu hiểu tâm thức Ki-tô là sợi dây nối kết mọi sự sống, thì con mới có thể thực sự nhận ra tại sao con ở đây.

Con yêu dấu, con không ở đây để nâng cao tâm thức mình lên một tầng cao hơn rất nhiều các cư dân khác trên trái đất để con có thể cảm thấy mình hơn họ. Con ở đây để nâng cao tâm thức của tổng thể. Con không thể làm được điều này nếu con dùng sự tiến bộ trên đường tu của mình để quyết định là, vì con đã tiến tới một tầng nào đó của con đường tâm linh và vì con đến từ một thế giới tốt đẹp hơn, nên con hơn những cư dân khác trên trái đất. Con cần khám phá yếu tố của tâm thức Ki-tô kết nối con với mọi sự sống, kể cả những cư dân trên trái đất, bất kể họ đang ở tầng tâm thức nào.

Đây là một yếu tố của tâm thức Ki-tô mà Giê-su đã mô tả khi thày nói: “Hễ các người làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta.” Nếu con nhìn vào đời của Giê-su, dù Thánh kinh chỉ ghi lại những đoạn rời rạc về đời thày, thì con có thể thấy là thày không coi mình hơn người khác. Thày không làm điều mà nhiều người Do thái đã làm thời đó: cảm thấy hơn những người khác đang sống trên mảnh đất đó, như người Xa-ma-ri-a và những người khác. Thày tiếp cận tất cả mọi người và đó là lý do vì sao các thày gọi đó là nhân tính cơ bản.

16.5. Tránh coi mình hơn người

Bây giờ, chúng ta đã nói tới nhu cầu là mọi người khám phá ra nhân tính cơ bản đó, họ có thể bắt đầu hợp tác với nhau dựa trên tin tưởng và quan niệm mọi người bình đẳng. Điều con cần nhận ra, trên cương vị một người tâm linh, là con cũng đối mặt với cùng khai ngộ đó, nhưng chỉ khác đi một chút. Thử thách chính của con không giống như thử thách của hầu hết mọi người trên trái đất. Thử thách của con trước tiên là tránh không coi mình hơn người khác. Làm sao con làm được điều này? Một phần bằng cách neo mình vào yếu tố của tâm thức Ki-tô hoàn toàn vượt lên trên ý niệm thứ bậc do con người tạo lập trên trái đất.

Khi con nhìn vào trái đất, con có thể nhìn trở lại lịch sử được biết và con sẽ thấy là tất cả mọi xã hội đều có ý niệm thứ bậc này. Một số người không những ở địa vị quyền uy hơn người khác, nhưng họ thường được xem là thuộc một giai cấp tách biệt vì họ trong bản chất giỏi hơn, cao cấp hơn người khác (ít ra là họ tự coi mình như thế nhưng người khác cũng thường coi họ như thế). Thậm chí một số người còn tin rằng họ được Thượng đế sinh tạo ra như thế. Đáng tiếc thay, nhiều người đến từ các hành tinh tự nhiên đã bị quyến rũ bởi những hệ thống tư tưởng này vì họ cảm thấy họ trưởng thành hơn, tinh tế hơn những cư dân của hành tinh này. Thày thách thức con phân biện, sự phân biện chỉ có thể làm được với tâm Ki-tô, là sự kiện con ở một tầng cao hơn trên con đường tu và ở một tầng tâm thức cao hơn, không khiến con hơn những người ở các tầng thấp hơn. Thật ra, con càng lên cao về hướng tầng 144 của tâm thức, thì con càng ít cảm thấy mình hơn người, con càng cảm thấy mình là một với mọi sự sống và con càng muốn nâng cao mọi sự sống. Con chỉ có thể vượt qua thử thách này nếu con hiểu được ý nghĩa của việc không coi cá nhân mình là trung tâm của cuộc đời mình. Con hoàn toàn không tìm cách đạt được một địa vị nào đó trong thứ bậc thế gian khiến cho người khác hay chính con nghĩ là con hơn người. Con cũng không đi trên con đường tâm linh, và có lẽ đạt được một địa vị nào đó trong một tổ chức chân sư thăng thiên, để được các chân sư thăng thiên công nhận. Con hiểu chăng, con yêu dấu, là khái niệm thứ bậc có giá trị là vì một thứ bậc trên cõi thăng thiên. Con yêu dấu, sinh thể thăng thiên cao nhất đang làm việc với cõi chưa thăng thiên này không cảm thấy mình cao hơn các sinh thể chưa thăng thiên đang sống trên trái đất. Không có sự cao hơn. Có thứ bậc theo nghĩa là có một số sinh thể giữ chức vụ cao, nhưng không hề có sự đánh giá giá trị, không hề có ý niệm cao hơn liên quan tới thứ bậc này.

16.6. Một thứ bậc giả

Con biết quá rõ là sa nhân rất thiện nghệ trong việc lấy một ý niệm có giá trị và tha hóa nó. Trên trái đất này, họ chỉ cần lấy khái niệm thứ bậc và tha hóa nó với sự phán xét giá trị của tâm nhị nguyên. Điều này dẫn tới hai chuyện. Một là những người ở trên đỉnh thứ bậc trên trái đất giỏi hơn những người ở các tầng thấp hơn. Con cũng có thể thiết lập điều kiện được thấy ở Đức quốc xã là nòi giống A-ri-an cao hơn các nòi giống khác. Con cũng có thể thấy ở Liên Xô là một số người cảm thấy những người cộng sản chân chính tại Liên Xô cao hơn những người trong các quốc gia không cộng sản hay ngay cả những người ở các nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa khác. Con có thể thấy nhiều, rất nhiều ví dụ như thế hiện nay và trong lịch sử. Con yêu dấu, con có thực sự tin rằng tâm thức này có thể sống sót trong Thời Hoàng kim chăng? Nó không thể nào.

Khía cạnh khác của tâm thức này là một khi con đã thiết lập thứ bậc, những người ở chóp bu không thể nào bị người ở cấp thấp hơn chất vấn hay phản bác. Lẽ tự nhiên điều này đã dẫn tới những hoàn cảnh quả thực điên rồ, ví dụ như khi con nhìn vào cuộc đời của Adolf Hitler, thì con sẽ thấy là trong nhiều trường hợp ông đã cố ý lờ đi lời khuyên của tướng lãnh của ông nói cho ông biết cuộc chiến đang diễn tiến ra sao. Ông nghĩ rằng họ quá tiêu cực và giới hạn và quân đội của ông có thể làm những điều mà các tướng lãnh cho là không thể làm được. Ở giai đoạn đầu của cuộc chiến, điều này quả thực đã xảy ra trong một số trường hợp. Các tướng lãnh lượng định một số điều không làm được, nhưng Hitler cứ ra lệnh tiến tới và kết quả đạt được. Ông tự ru ngủ mình trong tâm thức là ông không bao giờ cần lắng nghe lời khuyên của người khác và ông không cần biết chuyện gì thực sự xảy ra trên chiến trường. Ông chỉ cần đi vào nội tâm và có viễn kiến điều gì phải xảy ra và sau đó ông ra lệnh là nó sẽ xảy ra. Lẽ dĩ nhiên các con đều biết là ông tới điểm giản dị cạn kiệt động lượng tiến tới và mọi chuyện bắt đầu sụp đổ. Thay vì nhìn nhận chuyện này và làm những điều chỉnh cần thiết, ông cứ tiếp tục đi theo hướng cũ và vì vậy đã khuếch đại mức tai họa thật sự xảy ra.

16.7. Những thách đố của thời Song Ngư

Con yêu dấu, con cần nhận ra ở đây là các thày, các chân sư thăng thiên không muốn thiết lập loại thứ bậc này trên trái đất. Con có thể tự hỏi tại sao lại có một số tổ chức chân sư thăng thiên đã có đúng hệ thống thứ bậc đó? Một lần nữa, đó là vì các thày phải làm việc với trình độ tâm thức tập thể và các thày phải làm việc với trình độ của những người ở các tầng cao hơn và có nhiều tiềm năng theo học giáo lý của các thày hơn. Ai là người đã đưa ra ví dụ này: “Hễ các người làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta?” Đó chính là Giê-su và Giê-su là người khai sáng Thời Song ngư. Thách đố cần được vượt qua ở cuối thời Song ngư là gì? Nó chính là việc khắc phục trạng thái tâm thức đó, ý niệm mình cao hơn đó, ý niệm về cấp bậc, và khám phá ra nhân tính cơ bản gắn bó con với tất cả mọi người.

Có một điểm vào những năm 1900 các thày nhận ra đã tới lúc trao truyền một giáo lý trực tiếp hơn từ cõi thăng thiên và các thày được phép tấn phong sứ giả và trao truyền các bài truyền đọc trực tiếp. Các thày cũng nhìn nhận là tâm thức của các đệ tử nói chung, những người có tiềm năng theo học giáo lý của các thày, giản dị là chưa tới trình độ có thể vượt qua khai ngộ đó của thời Song ngư. Nhiều người trong số họ chưa sẵn sàng vượt qua khai ngộ đó vì họ vẫn còn mắc kẹt trong nhu cầu cảm thấy họ đang làm một việc quan trọng. Các thày luôn luôn phải đối mặt với tình thế khó xử là các thày muốn thu hút một nhóm người bằng cách trao truyền một giáo lý có thể đưa họ tiến lên cao hơn, nhưng để làm được điều này, các thày phải có một lượng định thực tế về trình độ tâm thức hiện thời của họ.

Các thày phải nhìn xem động cơ thúc đẩy họ chính xác là gì, và sau đó các thày phải cho họ điều gì đó hấp dẫn động cơ này – để khiến họ chấp nhận giáo lý của các thày và bắt đầu con đường mà các thày cống hiến. Các thày phải cho họ giáo lý mang những chìa khóa cần thiết sẽ giúp họ thăng vượt tầng tâm thức đó, nhưng vẫn còn một số yếu tố hấp dẫn động cơ muốn cảm thấy đang làm điều gì đó rất quan trọng để cải thiện hành tinh trái đất.

16.8. Bước lên một động cơ cao hơn

Điều thày đang nói là từ nhiều năm nay qua trung gian người sứ giả này, các thày đã trao truyền một giáo lý cao về nhị nguyên, về tư duy cuồng đại, về tự ngã và khắc phục khuynh hướng tự tôn xen lẫn tự ti. Đây thực sự là lời kêu gọi của thày gửi đến tất cả những dòng sống đã tới trái đất từ một hành tinh cao, là đã tới lúc các con thức tỉnh và vượt qua khai ngộ này, vượt qua điểm gay go này và bước lên một động cơ cao hơn. Con không đi theo con đường tâm linh hay theo một giáo lý tâm linh hay thực tập để nâng cao mình lên, để khiến mình cảm thấy hơn người khác, hay để củng cố ý niệm tự tôn mà con đã có sẵn, hay để cảm thấy mình thuộc thiểu số người đang cứu nguy hành tinh và đang làm một việc quan trọng cho các chân sư thăng thiên. Con nhận ra rằng đã đến lúc con vượt lên trên tầng tâm thức đó và hoàn toàn nhìn nhận đó không phải là lý do tại sao con ở đây. Do đó con cần làm điều mà các thày đã trao truyền giáo lý và các dụng cụ để con làm: con trở về và xem xét chấn thương nhập đời mà con phải gánh chịu khi con đầu thai trên trái đất và bị cú sốc khi thấy điều kiện sống ở đây.

Con cần nhìn nhận rằng kể từ lúc đó, con đã duy trì thái độ chỉ trích hành tinh này, con cảm thấy đây là một hành tinh thấp kém, những cư dân ở đây rất thấp so với con, họ không xứng đáng đón nhận ánh sáng và tình thương của con, và ngay cả cõi vật chất này là thù nghịch của sự tăng triển tâm linh của con. Con có thể đã nảy nở mong muốn thoát ra khỏi nơi đây. Đã tới lúc con nhìn nhận, con yêu dấu, là con tới trái đất để đem lại sự thay đổi tích cực, nhưng con không thể đem lại thay đổi tích cực khi con ở trong một trạng thái tâm tiêu cực. Con không thể đem lại thay đổi tích cực trên trái đất nếu con có một thái độ tiêu cực đối với hành tinh trái đất và những người sống trên đó.

Con cần nhìn nhận là đã tới lúc, thực ra con phải làm điều này từ lâu rồi, con vượt lên trên toàn bộ tâm thức đó và tới điểm con nhìn vào động cơ cá nhân nào thúc đẩy con đi trên con đường tâm linh. Con đã thấy được những yếu tố tiêu cực trong đó, những yếu tố muốn nâng mình lên trên người khác hay những yếu tố muốn thoát khỏi nơi đây. Con cần nhìn nhận, con yêu dấu, một sự thật giản dị, mà các thày khác đã nói trước đây, là chỉ khi nào con hoàn toàn bình an với sự kiện con ở trên hành tinh này, khi nào con hoàn toàn chấp nhận con đang ở trên hành tinh này và khi nào con cảm thấy thoải mái là con đang ở trên hành tinh này, thì con mới ra khỏi hành tinh này được.

16.9. Nghĩ rằng luật lệ không áp dụng cho con

Một số các con, các con yêu dấu, có một ý niệm rất vi tế (và thường thường là con không nhận ra) là vì con đến từ một hành tinh tự nhiên, nơi đó các luật thiên nhiên và ngay cả các luật tâm linh cũng khác, cho nên dù bây giờ con đang đầu thai trên một hành tinh không tự nhiên, nhưng con không phải theo những luật lệ hiện hành ở đây. Con nghĩ là đáng lẽ con có thể tới đây và quần áo của con không bị dơ bẩn, và con không phải đối mặt hậu quả của những chọn lựa của mình, con không phải chịu trách nhiệm những phản ứng của mình. Con yêu dấu, khi con chọn tới đây, con biết rõ là khi con đầu thai, con sẽ phải chịu những quy luật hiện hành trên hành tinh này. Con sẽ phải đối mặt cùng những khai ngộ như mọi người khác, và con sẽ phải làm cùng những việc như người khác để nâng cao tâm thức mình và hội đủ điều kiện thăng thiên.

Con hãy bước ra khỏi giấc mộng, mà một số các con có, là con có thể tìm ra một ngõ tắt, một công thức thần thông khiến con bỗng nhiên có thể thoát khỏi việc phải đi trên con đường tu giống như mọi người. Con hãy vứt nó đi! Nó không giúp con, nó không giúp con hoàn thành mục tiêu đã khiến con tới đây. Con hãy nhìn nhận, con yêu dấu, sự kiện là sa nhân đã thiết lập một tình trạng rất đặc thù trên hành tinh này. Các thày đã dạy về tâm thức nhị nguyên và tư duy cuồng đại, nhưng thày muốn trao cho con một giáo lý còn sâu xa hơn về đề tài này bởi vì một số trong các con đã sẵn sàng nhận nó.

16.10. Làm sao vượt lên trên nhị nguyên

Thày đã nói là sa nhân luôn luôn muốn thiết lập một thứ bậc và đặt họ ở chóp bu để không ai chạm tới họ được, không ai ở dưới phản bác hay thách thức họ được. Lẽ dĩ nhiên không ai ở trên họ có thể thách thức hay phản bác họ được vì họ đã cố ngăn chận mọi sự hiểu biết về các chân sư thăng thiên trên hành tinh này. Điều mà họ đã thực sự làm là dùng tâm thức nhị nguyên để tạo ra một số khái niệm rất vi tế. Điều các sa nhân muốn làm trên hành tinh này là đặt họ vào vị thế trở thành bất bại, bất khả xâm phạm. Giờ đây con có thể nghĩ là khái niệm này có một giá trị nào vì chắc chắn Đại thiên thần Michael bất bại và bất khả xâm phạm. Nhưng thày không bất bại theo cách nhị nguyên, thày bất bại vì thày vượt lên trên nhị nguyên. Câu hỏi đặt ra là: “Làm sao con vượt lên trên nhị nguyên?”

Thày có nói trước đây là một số người tới trái đất với nhiệm vụ giải cứu bị quyến rũ bởi ý thức hệ Quốc xã và ý thức hệ về một nòi giống ưu việt. Ấy, một cách để nâng mình lên trên sự khốn khổ, xung đột, đấu tranh, đau khổ trên hành tinh này là tìm cách khiến mình trở thành bất bại. Nhiều người trong số những dòng sống tiến hóa hơn đã tới đây đã bị quyến rũ nghĩ rằng họ nên dùng sự thành đạt tâm linh và uy lực của mình để đặt mình vào vị thế bất bại. Một số đã bị quyến rũ bởi truyền thống chiến sĩ, nghĩ rằng họ phải trở thành chiến sĩ bất bại, một số cố gắng đạt điều này bằng những cách khác. Một số còn tìm cách dùng con đường tu và giáo lý của các chân sư thăng thiên để đặt họ vào vị thế bất bại. Con yêu dấu, mục đích của con đường quả vị Ki-tô không phải là trở nên bất bại theo cách nhị nguyên. Giê-su có bất bại không? Ấy, nếu thày bất bại thì tại sao thày bị đóng đinh trên thập tự? 

Con phải nhận ra rằng khi con ở trên một hành tinh có nhị nguyên, thì con đường tâm linh có nhiều giai đoạn. Con tiến triển không phải chỉ bằng cách kéo mình ra khỏi nhị nguyên. Các thày có nói tới giai đoạn trầm mình và giai đoạn thức tỉnh. Con nhận ra rằng, khi con ở trong giai đoạn trầm mình, không phải con chỉ đi xuống thấp hơn trong tâm thức, con cũng có thể đi lên cao hơn, nhưng cách con đi lên cao hơn là trải nghiệm những tương phản cùng tột mà con tìm thấy trên trái đất. Một số người đã trải qua nhiều kiếp sống để mưu cầu mục đích bất bại hay hơn người. Họ đã cố gắng làm cho mình bất bại và đưa mình lên một địa vị nào đó trong thứ bậc thế gian khiến họ có vẻ cao hơn người khác, nhưng đây có thể trở thành một cái bẫy khó thoát ra. Làm sao con người có thể thoát ra khỏi cái bẫy này nếu họ không muốn một cách ý thức, nếu họ không muốn nhìn thấy ảo tưởng cao hơn và bất bại? Ấy, họ sẽ phải trải nghiệm một số kiếp sống trong đó họ ở đối cực hoàn toàn ngược lại là họ hoàn toàn không tự bảo vệ mình được và họ hoàn toàn thấp kém. Đây là một trong những lý do tại sao hành tinh này đã kết đọng hiện tượng nô lệ.

Nhiều lần, con sẽ thấy, ví dụ như trong xã hội La Mã, một linh hồn trong nhiều kiếp ở chóp bu của thứ bậc La Mã nhưng sau đó bỗng nhiên, linh hồn đó đi xuống và giờ đây đầu thai là một nô lệ trong một số kiếp sống. Qua sự trải nghiệm cả hai tương phản cùng tột này trên trái đất, rốt cuộc điều này sẽ khiến một số dòng sống nhận ra trong họ cái mà các thày gọi là nhân tính cơ bản. Họ nhận ra rằng dù họ ở một vị thế cao hay vị thế thấp, dù họ bất bại tối đa hay họ bất lực tối đa, vẫn có một phần trong họ không có gì thay đổi. Có một phần của con người họ là thật và phần đó sẽ tiếp tục tăng triển bất kể hoàn cảnh bên ngoài của họ. Có thể nói là các dòng sống này đã bắt đầu buông bỏ tính cá nhân của những tương phản cùng tột mà con thấy trên trái đất. Họ bắt đầu không đồng hóa mình với vở tuồng thế gian này và đấy là cách họ tìm ra cái hơn nữa, cái mà thày Gautama gọi là trung đạo không bị chi phối bởi tương phản. Đây là điều đã khiến tất cả các con tới được điểm mở tâm ra với giáo lý của chân sư thăng thiên. Điều thày trao truyền cho con bây giờ là thách đố con bước lên một tầng cao hơn của giáo lý bằng cách nhận ra trong chính mình là con đã đi giữa hai đối cực này như một phần không né tránh được trong sự tăng triển của mình.

Bây giờ đã tới lúc thăng vượt chúng, nhận ra rằng, con yêu dấu, không có sự an toàn tối hậu khi con bất khả xâm phạm trên trái đất, cũng như không có sự nhục nhã tối hậu khi con hoàn toàn không có khả năng bảo vệ mình. Con tới được điểm con nhận ra là khi so sánh với sự liên tục của bản thể của con, với nhân tính cơ bản hay với tâm Ki-tô trong bản thể của con, thì tất cả những điều kiện bên ngoài kia chẳng có gì quan trọng. Nếu chúng không quan trọng, thì tại sao con cứ phải tiếp tục đi trên đường tu của các chân sư thăng thiên với động cơ muốn cảm thấy mình cao hơn, giỏi hơn, có một cấp bậc hay nhiệm vụ quan trọng nào đó?

16.11. Một động cơ cao để đi trên con đường tu

Bây giờ, một số các con sẽ nói: “Nhưng làm sao chúng con có động cơ đi trên con đường tu khi chúng con không có ý niệm là chúng con đang làm một điều gì quan trọng để cứu trái đất hay đem lại thời hoàng kim?” Ấy, con yêu dấu, con có thể có động cơ tình thương – vì tình thương chính là động cơ khiến con tới đây. Con hãy nối kết lại với động cơ nguyên thủy đưa con tới đây, và sau đó con sẽ có thể tìm được một động cơ hoàn toàn mới để đi trên con đường tu. Con sẽ không bị lôi kéo tới chỗ này hay chỗ kia bởi các đối cực. Ví dụ, con sẽ không bị lôi kéo vào mấy lời tiên tri tiêu cực, nghĩ rằng con phải chú ý tới chúng.

Con sẽ tìm ra một sự tiến triển vững vàng đều đặn hơn, một sự phát triển vững vàng đều đặn hơn. Đây là một sự điều chỉnh mới cho con vì con sẽ không phải trải qua những kinh nghiệm cùng tột mà một số các con đã trải qua trên con đường tu. Có những tầng thấp trên đường tu khi con có thể có những trải nghiệm mà mọi người gọi là “trải nghiệm tột đỉnh.” Nhiều đệ tử quả thực đã bị mắc kẹt trong một dạng ghiền nghiện cứ mãi đi tìm trải nghiệm tột đỉnh cao hơn và cao hơn. Con chỉ có tột đỉnh khi con có thung lũng và con chỉ có kinh nghiệm cao khi con có sự tương phản của kinh nghiệm thấp. Khi con tìm ra con đường trung đạo thật, con vượt lên trên các cặp, các đối cực và do đó càng ngày con càng có bớt những tương phản trên đường tu.

Lúc đầu, con sẽ thấy chuyện này khó hiểu và gây bối rối cho mình. Khi con tiếp tục áp dụng những giáo lý mà các thày đã trao truyền, thì con có thể tới được điểm con vượt thăng nó được. Con không cần có động cơ cũ đó nữa, cái ý niệm cũ là mình quan trọng. Con là người con là, con đang làm cái con đang làm với động cơ dựa trên tình thương.

16.12. Sự kiên nhẫn vô biên và vô điều kiện

Điều này cũng có nghĩa là con phát triển một đức tính mà nhiều học viên tâm linh không phát triển, đó là tính kiên nhẫn vô biên và vô điều kiện. Nhiều người trong các con cảm thấy một sự thôi thúc phải đẩy mạnh trên đường tu cá nhân. Một lần nữa, chuyện này có giá trị trong một thời gian vì con cần nâng mình lên khỏi sức hút của tâm thức đại chúng. Nhưng sẽ tới một lúc, con yêu dấu, con cần vượt lên trên thái độ này. Con không tìm cách đặt ra tất cả những mục tiêu đó, hay đặt ra mục tiêu thấy một số chuyện xảy ra ở cấp hành tinh, hay lúc nào một điều kiện nào đó phải thay đổi. Một số các con đã bị ám ảnh bởi tầm quan trọng của chính mình đến độ con nghĩ rằng nếu con đọc rất nhiều bài cầu thỉnh và cầu chú trong một thời gian nào đó thì hành tinh phải thay đổi hay một số quốc gia đặc thù phải thay đổi. Nếu chúng không thay đổi, con trở nên thất vọng, con bắt đầu nghi ngờ không biết giáo lý có hữu hiệu không, và vân vân. Con có thể vượt thăng hết các chuyện này và nhận ra rằng con ở đây để tiếp tục nâng cao tâm thức mình, để làm điều mà trực giác bên trong bảo con làm, và con không dính mắc vào kết quả vật lý. Con vui mừng khi thấy chúng nhưng con không bất toại nguyện, nổi giận hay hoài nghi nếu không thấy chúng. Con nhận ra rằng con phải làm việc trong những giới hạn của quyền tự quyết, như các thày là chân sư thăng thiên đang làm.

Con yêu dấu, thày tới trái đất này từ xa xưa lắm. Nếu thày thiếu kiên nhẫn như nhiều người trong các con, thì thày đã tự tàn phá mình về mặt tâm lý từ xa xưa khi thấy trái đất không tiến triển. Các thày là chân sư thăng thiên có một tầm nhìn hoàn toàn khác. Như các thày mới đây có nói, mục đích của các thày không phải là tạo nên những thay đổi đặc thù bên ngoài nhưng mục đích là nâng cao tâm thức tập thể. Chuyện này chỉ làm được bằng cách làm việc với con người để họ tới được điểm họ có thể chọn lựa một cách ý thức, tự do là họ muốn lên cao hơn. Đấy là mục đích của các thày. Mục đích của các thày không phải là biểu thị những thay đổi bên ngoài mà nhiều đệ tử tâm linh đã bị dính mắc vào. Khi con có thể vượt lên trên các điều này, thường lôi kéo con vào trạng thái tâm tiêu cực, chỉ trích, thì con có thể tìm thấy sự bình an khi sống trên hành tinh này. Con có thể chấp nhận đang ở trên hành tinh này. Con có thể chấp nhận hành tinh này như nó là, không có nghĩa là con phải duy trì tình trạng hiện nay của nó, nhưng con chấp nhận nó như nó là: một trường học cho những dòng sống ở đây. Con có thể tôn trọng điều mà các thày đã dạy về quyền tự quyết và con chấp nhận cách nó vận hành. Vì vậy, con có thể tới được điểm con bình an với việc con đang ở đây. Con có thể cho phép mình cảm thấy thoải mái về chuyện con là một con người đang đầu thai ở đây, không vượt lên trên các luật lệ của hành tinh này, nhưng là một với mọi người. Con đồng hóa mình với họ ở mức tâm Ki-tô, con thấy nhân tính cơ bản của họ và con luôn luôn tìm cách nâng nó lên cao hơn.

Con yêu dấu, đây là món quà của thày cho các con ngày hôm nay. Như thày đã nói, thông điệp này đa diện và con nên học tập nhiều, nhiều lần để có thể rút ra hết giá trị của nó, nhiều khi hầu như chôn giấu giữa các hàng chữ. Con hãy đọc giữa các hàng chữ. Con hãy hòa điệu với Bản thể của thày vượt lên trên từ ngữ và thày sẽ cho con, khi con sẵn sàng muốn, điều không gói ghém được trong từ ngữ – ít nhất, không phải ở tầng mà tâm vỏ ngoài của con có thể hiểu được qua từ ngữ mà thôi.

Do đó, một lần nữa, thày cảm ơn các con, đã là những điện cực để lan tỏa thông điệp của thày đến tâm thức tập thể. Con hãy chắc chắn là con không luôn luôn coi xem những người ngoài kia cần phải thay đổi ra sao. Bài truyền đọc này đặt một tấm gương trước mặt con và nói: “Bây giờ con nhìn xem con cần thay đổi như thế nào.”

15 | Phân biện vi tế giữa Ki-tô và phản-Ki-tô

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 11 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày tới đây để trao truyền một giáo lý ít khi được trao truyền trên hành tinh này, ít khi được đệ tử các phong trào tâm linh hay tôn giáo hiểu thấu. Thày trao truyền bài giảng này vì các con là đệ tử khắp nơi trên thế giới đã đạt được một trình độ tâm thức giúp các con bắt đầu nghiền ngẫm chủ đề này trong tâm, và có thể thảo luận với nhau dựa trên kinh nghiệm của mình khi học một số giáo lý và tham gia một số phong trào tâm linh.

15.1. Biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô

Các con yêu dấu, thày bây giờ bắt đầu bằng cách hỏi các con nghĩ tới hình thức dày đặc nhất, khắc nghiệt nhất, cực đoan nhất của phản-Ki-tô mà con có thể tưởng tượng. Lẽ đương nhiên, nhiều người trong các con sẽ nêu lên những thể hiện của tà ác, như giết chóc quy mô hay một số hành động tàn bạo, mà con người đã kết đọng xuống trái đất. Lẽ dĩ nhiên, đây là một sự trải bày, một biểu hiện của tâm phản-Ki-tô, nhưng thực ra thì chúng không phải là biểu hiện khắc nghiệt nhất của tâm phản-Ki-tô.

Con yêu dấu, con thấy là khi nhiều người nghe nói về các khái niệm Ki-tô, quả vị Ki-tô hay tâm thức Ki-tô, thì họ làm một điều mà các thày đã nói tới nhiều lần: họ phóng chiếu hiểu biết hiện tại, tâm thức hiện tại của họ lên các khái niệm đó. Họ nhìn quả vị Ki-tô qua phin lọc của hiểu biết hiện tại của họ. Lẽ dĩ nhiên, đây là điều tự nhiên; con không thể làm gì khác. Những người trong các con đã sẵn sàng thì có thể bắt đầu nhận ra là Ki-tô là một nguyên lý chỉ có một mục đích duy nhất, đó là bảo đảm con không thể nào tách biệt khỏi cội nguồn của mình, khỏi đấng Sáng tạo, một cách thường trực hay tuyệt đối.

Ki-tô cần thiết vì con được ban quyền tự quyết. Như thày Lanello đã nói quá hay: “Quả là một sáng kiến thần tình của đấng Sáng tạo!” Bởi vì con được ban quyền tự quyết, nên con được cho cơ hội bước ra khỏi cái Một. Do đó, thực sự không có gì giới hạn con rời cái Một xa chừng nào. Một khi con đi vào tách biệt và tạo ra thế giới quan của mình (mà con tin là tuyệt đối) thì con sẽ cứ tiếp tục trôi theo vòng xoáy đi xuống, càng ngày càng ăn sâu vào thế giới quan của mình. Ki-tô là nguyên lý bảo đảm là khi con đã chán ngán kinh nghiệm đó, khi con mong muốn và sẵn sàng đi ngược trở lại (bắt đầu đi trở lại về hướng cái Một) thì Ki-tô sẽ có mặt dưới bất cứ hình thức nào mà con có thể thấu hiểu ở trình độ tâm thức mà con có khi con quay đầu và muốn trở về cái Một.

Điều này có nghĩa là Ki-tô là nguyên lý tăng triển, tăng triển liên tục. Như các thày đã nói nhiều lần, không có gì tối hậu trên trái đất, không có trạng thái tâm thức tối hậu trên trái đất. Ki-tô và tâm thức Ki-tô là một tiến trình liên tục mà chung cuộc là dẫn con tới thăng thiên, nhưng lẽ dĩ nhiên, con có thể tiếp tục tăng triển khi con ở trên cõi thăng thiên. Đây là điểm quan trọng nhất mà con nên hiểu về tâm thức Ki-tô: đó là sự liên tục của nó. Nó luôn luôn, đều đặn và dần dần kéo con thăng vượt tầng tâm thức hiện tại của mình cho tới khi con tới tầng tâm thức mà bước thăng vượt kế tiếp là thăng thiên.

Đây là một nguyên lý mà rất ít người đã hiểu. Đại đa số đệ tử tâm linh, kể cả đệ tử chân sư thăng thiên, chưa sẵn sàng hiểu thấu nguyên lý này. Nhiều người trong các con đã sẵn sàng, và đó là lý do vì sao thày trao truyền bài giảng này. Lý do khác là vì các con có khả năng giữ quân bình, có thể nói là các con có thể là điện cực giúp gửi nguyên lý này tới tâm thức tập thể. Có lẽ con nhớ câu chuyện đám đông đầy giận dữ sắp sửa ném đá chết một phụ nữ, và lúc đó thày lấy một cây gậy và vạch một đường trên cát. Ấy, có thể nói là qua bài giảng này thày cũng vạch một đường trên cát và nói: “Bây giờ là lúc bước qua đường này và tiến tới một hiểu biết cao hơn về quả vị Ki-tô.”

Để minh họa diều thày muốn nói, thì chúng ta hãy trở về ý niệm đâu là biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô trên trái đất. Khi thày nói “biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô” thì nay con có thể hiểu câu này thực sự nghĩa là: “Điều gì ngăn cản con người tăng triển, tiếp tục tăng triển?”

Con hẳn nhớ là trong Thánh kinh, có một câu nói được gán cho thày, như sau: “Ta mong con hoặc nóng hoặc lạnh, nhưng vì con âm ấm nên ta sẽ nhổ con ra khỏi miệng ta.” Có một số người đang đi về một hướng và họ đang tách rời khỏi cái Một. Có một số người khác đi ngược lại và họ đang đi về hướng cái Một, nhưng đa số con người trên trái đất không đi về hai hướng đó. Họ giản dị không di động và đây là biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô trên trái đất, khi con xem xét điều gì ngăn chặn sự tăng triển của con người.

15.2. Những người không di động

Bây giờ, thày Gura Ma có nói là con có thể có một số điểm cố định trong tâm khiến tâm con có thể chuyển động và con đang thu thập dữ kiện mới, nhưng con không chuyển đổi lên một tầng cao hơn, vì tâm con giống như một cỗ máy chạy bộ đang chuyển động (có lẽ rất nhanh) nhưng không đưa về đâu cả. Nó không di động khỏi chỗ nó đang đứng và đây là cách rất nhiều người trên trái đất bị mắc kẹt ở một điểm và không thực sự di chuyển. Bây giờ thì ta có thể nhìn sự kiện trên bình diện thế giới. Lẽ dĩ nhiên, ở nhiều khu vực trên thế giới, đa số dân chúng đang di động một cách nào đó. Không có nghĩa là họ đang đi trên đường quả vị Ki-tô một cách có ý thức, nhưng họ đang di động.

Lý do vì sao thày nói là việc con đang tách rời khỏi cái Một vẫn tốt hơn là nếu con đứng yên, là vì khi con di động thì lúc nào con cũng có thể đổi hướng. Nếu con đang tách rời khỏi cái Một nhưng đổi hướng đủ thì con sẽ bắt đầu đi ngược trở lại. Nếu con đứng yên thì con không thể đổi hướng vì con không đang đi về hướng nào cả – không có hướng đi nào cả.

Con yêu dấu, khi con nhìn vào hiện trạng trái đất thì con thấy là ở nhiều quốc gia trên thế giới có nhiều nhóm đông người đang ở trong trạng thái tâm thức không di động. Một cách để nhận ra điều này là nhìn vào những người sinh ra và lớn lên trong một nếp sống nào đó, một nền văn hóa nào đó, một quốc gia nào đó, sau đó họ tìm một việc làm (thường là một việc làm khá máy móc) và giản dị muốn tiếp tục làm việc đó cho đến hết đời. Họ thường sống trong cùng căn nhà, cùng chung cư, và họ làm rất ít để cải thiện môi trường bên ngoài của họ. Cuộc đời của họ giản dị ở thế bế tắc. Họ muốn một sự ổn định nào đó, họ muốn ở nơi họ cảm thấy thoải mái, và tiếp tục làm cùng một việc năm này qua tháng nọ.

Bây giờ, con yêu dấu, cuộc đời là một cơ hội quý báu. Nó là một cơ hội để con bảo đảm con rời bát cung vật lý với một tầng tâm thức cao hơn khi con đi vào. Có câu nói bình dân là con không thể đem gì theo mình, ý nói là con vào đời trần trụi và con lìa đời cũng trần trụi, và con không thể đem theo bất kỳ sở hữu vật chất nào. Điều này không đúng, con yêu dấu, vì con có thể mang theo sự tăng triển tâm thức. Con mang nó theo con khi đầu thai lần tới. Do đó, con có thể sinh ra trong hoàn cảnh tốt hơn, và có cơ hội tăng triển tốt hơn. Nếu con lại tận dụng cơ hội thì con sẽ tiếp tục đi theo vòng xoáy hướng thượng.

Bài giảng này không đặc biệt chú tâm vào nước Nga, nhưng vì chúng ta đang ở trên nước Nga nên thày sẽ lấy nó làm thí dụ. Nếu con đi ngược trở về thời kỳ trước cuộc cách mạng cộng sản, cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc, thì con thấy, như các thày có nêu lên, là vua Peter Đại Đế đã cố gắng nâng nước Nga lên một tầng cao hơn. Thời đó, có nhiều người trong giới quyền quý chống đối, nhưng cũng có nhiều người dân không tích cực chống đối – họ chỉ không động đậy. Họ không muốn động đậy. Con sẽ thấy đây là một trở ngại lớn cho sự tăng triển. Thày Lanello có bài giảng hùng hồn về vị Nga hoàng cuối và ông đã bỏ lỡ cơ hội ra sao, nhưng ta cũng phải nói là ông phải đương đầu với một tình hình rất khó khăn vì nhiều người trong dân chúng không chịu động đậy. Giống như là họ lớn lên để ở một đia vị nào đó trong xã hội, họ nghĩ họ phải giống cha mẹ họ, phải cố gắng làm một loại công việc nào đó và sống trong một căn nhà thuộc loại nào đó. Một khi họ đạt được điều này, thì họ sẽ tiếp tục ở đó cho đến cuối đời.

15.3. Ngay cả phản-Ki-tô cũng có thể đưa tới tăng triển

Con thấy là trên khắp thế giới có những thành phần đông đúc dân chúng không di động và không muốn di động. Bây giờ thì các con phải cẩn thận tìm một hiểu biết cao về điều thày đang giảng. Khi con có một dân tộc bị đóng băng (đóng băng vào một thời điểm), thì điều gì có thể kéo họ ra khỏi trạng thái cô-ma, trạng thái ngủ sâu mùa đông đó? Con yêu dấu, điều gì có thể kéo họ ra? Ấy, các chân sư thăng thiên và những người đại diện của các thày không thể làm chuyện này vì chúng tôi tôn trọng quyền tự quyết. Các thày sẽ không áp đặt người khác, các thày sẽ không xâm phạm họ. Lẽ tự nhiên, các thày có cho con hiểu là các thày không coi cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc là một phát triển tích cực, và chắc chắn là những gì xảy ra sau đó lại càng không tích cực. Nhưng con hãy lắng nghe kỹ. Khi con có một dân tộc đã bị đóng băng vào một thời điểm, thì ngay cả một thay đổi tàn bạo do sa nhân đề xướng cũng có thể trong một thời gian ngắn đem dân tộc đó tới gần quả vị Ki-tô hơn, hay ít ra là cho họ một cơ hội.

Con hiểu là khi một nhóm dân không di động, thì không ai có thể làm gì được. Họ không tiến tới gần cái gì cả. Bất cứ thay đổi nào bắt buộc họ phải đối diện một tình hình mới, lay động họ ra khỏi lối suy nghĩ cũ, và ngay cả bắt buộc họ thay đổi lối sống, thì quả thực là một cơ hội cho những người đó.

Bây giờ, thày không nói là Lê-nin và nhóm Bôn-sê-víc đại diện Ki-tô. Thày chỉ đang nói là họ đóng vai trò lay động người dân Nga nhiều hơn là Nga hoàng đã làm được, vì Nga hoàng không sẵn sàng giết nhiều đồng bào của mình bằng nhóm Bôn-sê-víc. Thày không thừa nhận sự giết chóc, thày không bào chữa cho nó. Thày chỉ muốn nói là trong một hệ thống khép kín, con người sẽ thu hút điều gì làm xập hệ thống – và điều này cho họ cơ hội để chuyển bước đi tiếp vì họ đã không sẵn sàng tự họ làm điều này.

Con cần nhận ra ở đây một nguyên lý rất quan trọng: đứng yên là kẻ địch tệ hại nhất của Ki-tô vì nó trái ngược với tăng triển. Điều này có nghĩa là có một số người đã phần nào hòa điệu được với nhu cầu thay đổi, và họ làm việc để đem lại thay đổi dựa trên tâm thức của họ và tâm thức tập thể của quốc gia đó. Trong sự hòa điệu dó – con hãy cẩn thận nghe kỹ – họ không đại diện Ki-tô, nhưng họ quả thực cùng hướng với tâm Ki-tô vì tâm Ki-tô cũng muốn mang lại thay đổi. Tâm Ki-tô dĩ nhiên không muốn đem lại thay đổi bằng vũ lực và bạo hành, nhưng khi con người không chịu đáp ứng, thì tâm Ki-tô sẽ đứng lui lại và để cho những người bị kẹt trong tâm phản-Ki-tô làm những chuyện mà họ lúc nào cũng muốn làm: đó là kiểm soát, gây xáo trộn hay tàn phá.

Đó không phải là vì tâm Ki-tô muốn thấy chuyện này xảy ra, nhưng là vì tâm Ki-tô luôn luôn tôn trọng quyền tự quyết của con người. Khi con người không chịu tự mình chuyển động bằng cách lấy chọn lựa của mình, thì tâm Ki-tô phải bước lui lại và để cho Quy luật thứ Nhì của Nhiệt động học hay Quy luật Nhân quả trải bày. Lúc đó, những người đó phải đối mặt một hoàn cảnh ép buộc họ ra khỏi hộp tư tưởng, ra khỏi sự ù lì, không muốn thay đổi của họ.

15.4. Cách mạng Bôn-sê-víc và Stalin

Có một khoảng thời gian trong đó những người đem lại cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc đã phần nào đứng cùng hướng với tâm Ki-tô. Thày biết điều này sẽ khiến nhiều người, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên, ngạc nhiên. Một lần nữa, con hãy cẩn thận: thày không nói là họ đại diện Ki-tô, nhưng họ cùng hướng với mục tiêu của Ki-tô, là đặt con người vào một hoàn cảnh khiến họ bị ép buộc phải tăng triển vì họ không chịu tự mình tăng triển. Điều con cần nhận ra là giai đoạn đó (khi họ cùng hướng với tâm Ki-tô) không kéo dài. Nếu con nghiên cứu lịch sử cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc thì con thấy là họ rất mau chóng tha hóa và càng ngày càng sẵn sàng dùng bạo lực, càng ngày càng sẵn sàng đàn áp con người, đàn áp chống đối, đàn áp mọi hình thức tự do ngôn luận. Họ đã làm những gì sa nhân luôn luôn làm: họ trở nên vô cảm với con người. Lẽ dĩ nhiên, điều này đưa tới tình trạng Lê-nin rơi vào một vòng xoáy hướng hạ khiến ông đau ốm và chết, và Stalin lên thay thế.

Đây là chỗ con cần phân biện: Stalin không bao giờ thẳng hàng với tâm Ki-tô. Stalin không bao giờ ép buộc dân chúng phải đối mặt một hoàn cảnh khiến họ phải suy nghĩ lại cách họ sống và nhìn cuộc đời. Stalin chỉ giản dị củng cố vòng xoáy hướng hạ mà người khác đã kéo dân tộc Nga vào, và ông đã thiết lập mình thành nhà độc tài tối hậu, và từ điểm đó thì không còn tăng triển nữa. Tiềm năng tăng triển không còn nữa vì ông tạo ra một triều đại khủng bố đã bóp nghẹt mọi ý muốn của người dân muốn xem xét lại, mọi óc phê bình chỉ trích, mọi ý muốn cải thiện nơi người dân. Đó là lý do vì sao con thấy là rất rất nhanh sau khi Stalin lên nắm quyền thì người dân lại rơi vào trạng thái ù lì. Ta có thể nói là trạng thái ù lì này sâu đậm hơn trước vì mọi người đều nghĩ rằng phản đối chế độ hoàn toàn không lợi ích gì vì mình sẽ chỉ bị giết. Sau đó, họ cũng lấy quyết định (dĩ nhiên là trong tiềm thức): cố gắng cải thiện bất cứ gì đều vô ích, vì cuộc sống sẽ giản dị không thay đổi. Họ nay sống trong Liên bang Sô viết và người dân bình thường không thể làm gì khác ngoài việc tìm cách để cuộc sống tạm chịu được.

Con thấy là Stalin đã ép người dân Nga vào một tình trạng cô-ma, ù lì sâu đậm hơn, khiến họ không muốn thay đổi, không muốn cải thiện bất cứ gì. Con thấy là hiện nay vẫn còn nhiều người Nga có thái độ đó. Con chỉ cần bước ra và nhìn các khu vực ở Nga có những chung cư hay nhà cửa không được bảo trì, là chỉ dấu rõ rệt là những cư dân ở đó đã bỏ cuộc. Họ còn không màng giữ sạch môi trường, họ không muốn làm đẹp hay cải thiện bất cứ gì. Họ đã chấp nhận là họ sống một cuộc đời bất di dịch, họ có một lợi tức bất di dịch và họ không thể làm gì để thay đổi sự kiện này – đó là điều họ nghĩ. Đây là một thí dụ của sự ù lì rất rất dày đặc, rất rất nặng nề đã khiến mọi nỗ lực thay đổi nước Nga bị kéo lại, bị kéo xuống.

15.5. Sự giải thể của Liên bang Sô viết

Bây giờ thì thày muốn tới giai đoạn Liên bang Sô viết giải thể. Đây lại là một diễn biến chấn động khác. May thay, lần này không có bạo động và đổ máu quy mô. Đối với nhiều người, đây là một diễn biến khiến họ bị sốc hơn là cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc vì quả thật có người nghĩ rằng Liên bang Sô viết sẽ tồn tại mãi mãi, ít ra là trong suốt cuộc đời họ. Do đó, họ nghĩ không có gì có thể giúp họ cải thiện điều kiện sống của họ và tìm cách cải thiện là chuyện vô ích – nên họ chỉ muốn sống một cuộc đời thoải mái trong khuôn khổ chế độ.

Bây giờ, lẽ dĩ nhiên là một số đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước đã nói Gorbachev là một sa nhân. Tuy nhiên, có một khoảng thời gian trong đó ông cùng hướng với tâm Ki-tô vì ông nhận ra nhu cầu thay đổi và tìm cách đem lại thay đổi. Thày không nói là ông đại diện Ki-tô, nhưng ông cùng hướng với tâm Ki-tô. Boris Yeltsin cũng cùng hướng với tâm Ki-tô khi ông giải thể Liên bang Sô viết. Một lần nữa, thày không nói là ông đạt được một tầng tâm thức Ki-tô nào đó hay đại diện Ki-tô. Thày chỉ nói là ông cùng hướng với tâm Ki-tô khi ông thấy nhu cầu thay đổi sẽ ép dân Nga ra khỏi trạng thái cô-ma.

Đúng thực là Yeltsin nhận ra một điều mà Gorbachev không bao giờ nhận ra, đó là dân Nga đang ở trong trạng thái cô-ma và chủ thuyết cộng sản đã quả thực có tác dụng đưa con người vào trạng thái cô-ma, khi ông nhận ra rằng người dân Nga không đang làm những điều mà người dân trung bình ở đa số các nước Tây phương đang làm. Họ đang tìm cách cải thiện đời sống vật chất của họ bằng cách làm việc nhiều hơn, cải thiện điều kiện sinh sống, nhà cửa, nhà chung cư, mua xe lớn hơn và điều này điều nọ. Ý tưởng này chắc chắn cùng hướng với tâm Ki-tô vì những người đó thấy nhu cầu thay đổi.

15.6. Nhóm tài phiệt

Bây giờ thì con hãy xem xét tình hình trong những năm ngay sau Liên bang Sô viết giải thể. Lúc đó một phần lớn dân chúng, đại đa số dân chúng, vẫn còn trong trạng thái cô-ma, và đã ở trong trạng thái cô-ma trong suốt thời kỳ Sô viết. Họ đã ở trong trạng thái này suốt đời họ. Lúc đó họ ở trong trạng thái bị sốc mạnh. Họ bị ép buộc phải suy nghĩ lại một số chuyện, nhưng họ ở trong trạng thái bị sốc mạnh đến độ họ vẫn chưa chuyển động và không biết phải hành xử ra sao trước tình thế mới. Con thấy gì lúc đó? Con thấy là có một số người nhận ra cơ hội tốt và họ bước ra thành lập một số thương vụ. Họ bắt đầu tiếp thu kỹ nghệ dầu khí, tạo ra những cơ sở thương mại càng ngày càng lớn, và trở nên nhóm được gọi là “nhóm tài phiệt”.

Con có thể xem xét tình hình và thấy là những người đó đã thu thập được tài sản đồ sộ, họ đã không đếm xỉa đến tình trạng khó khăn của người dân, họ tránh đóng thuế, họ dùng hối lộ khi họ muốn, và đặt mình vào thế thượng tôn như tiểu Nga hoàng không bao giờ bị trừng phạt. Nếu con trở lại những năm ban đầu đó, thì con thấy đa số người Nga không sẵn sàng có tinh thần sáng kiến chủ động có thể giúp nền kinh tế tiến lên. Những người trong guồng máy chính quyền cũng không làm được chuyện này vì (như sự việc nền kinh tế Liên bang Sô viết bị suy thoái đã chứng minh) nhà nước và những người trong guồng máy nhà nước không có khả năng cải tổ nền kinh tế và đẩy nó đi lên. Họ có đầy đủ quyền lực để làm chuyện này nhưng họ đã không làm được. Gorbachev nhận ra điều này, tìm cách thay đổi, mong có thể tạo nền móng ổn định cho nền kinh tế Liên bang Sô viết và tránh giải thể Liên bang Sô viết, nhưng điều này không thể làm được. Tuy nhiên, đây là một sự di động về một hướng nào đó, đó là một cố gắng khiến bánh xe chuyển động, nhưng ông không thành công, không khắc phục được sự chống đối trong guồng máy nhà nước, và không làm cho họ có sáng kiến chủ động được.

Tình hình lúc đó như thế nào? Người dân không có tinh thần sáng kiến chủ động. Nhà nước không có tinh thần sáng kiến chủ động. Cần có ai đó có tinh thần sáng kiến chủ động để làm nền kinh tế chuyển động, và một số người đã có khả năng làm việc này. Ngay cả nhóm tài phiệt cũng đã, trong một khoảng thời gian, cùng hướng với tâm Ki-tô vì họ đã mang lại thay đổi. Khi một dân tộc ở trong trạng thái cô-ma như vậy thì gần như bất cứ thay đổi nào cũng hơn là không thay đổi. Con lúc nào cũng có thể trở ngược lại và phân tích tình hình và nói: “Cách mạng Bôn-sê-víc có phải là một thay đổi tốt hay chăng?” Ấy, nó đúng là một thay đổi tốt trong một khoảng thời gian ngắn vì nó đem lại một sự hồi phục và ép mọi người phải suy nghĩ trở lại. Lẽ dĩ nhiên, sau đó nó đi vào vòng xoáy đi xuống và không còn là một thay đổi tốt nữa. Đây cũng là chuyện đã xảy ra với nhóm tài phiệt.

Có một khoảng thời gian trong đó họ đã giúp nền kinh tế tiến tới. Sau đó, họ sang giai đoạn cảm thấy họ kiểm soát được nền kinh tế. Đây là điều luôn luôn xảy ra với sa nhân hay những người bị mắc bẫy sa nhân: họ tìm cách củng cố tầm kiểm soát của họ. Thay vì chia sẻ tài sản với dân chúng, thì họ tìm cách củng cố sự kiềm tỏa nền kinh tế của họ. Lúc đó thì họ không còn cùng hướng với tâm Ki-tô nữa, và họ không còn phụng sự sự tăng trưởng của đất nước.

Điều may mắn là trong khoảng thời gian đó, có nhiều người trong dân chúng đã tiến lên tới điểm họ sẵn sàng và có khả năng lấy sáng kiến chủ động. Con thấy được sự chuyển động trong nền kinh tế nước Nga với một số thương vụ mới mọc lên, một số thương vụ tầm cỡ nhỏ mọc lên, vân vân. Nhưng sự chuyển động này vẫn chậm hơn tiềm năng, vì hai yếu tố. Một là sự ù lì của nhiều thành phần dân chúng, và hai là ảnh hưởng của nhóm tài phiệt. Nhóm này, sau thời gian đầu tạo tăng trưởng, đã quay về khuynh hướng muốn kiểm soát nền kinh tế và lúc đó đã thực sự ngăn trở sự tăng trưởng kinh tế.

15.7. Nhóm tư bản sơ khai

Con yêu dấu, con thấy là cùng chuyện đã xảy ra tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 19 khi cuộc cách mạng kỹ nghệ, những cải thiện kỹ thuật và phát minh mới, đã đem lại cơ hội mới để nâng nền kinh tế lên một mức cao hơn. Đa số những người lớn lên trong nông trại không có khả năng có sáng kiến chủ động. Nhà nước cũng không làm được vì trong thể chế chính trị Hoa Kỳ nhà nước không có quyền hạn đó. Một nhóm nào đó cần có sáng kiến chủ động, và nhóm này về sau được gọi là nhóm tư bản sơ khai.

Các con đều biết tên họ. Có lẽ các con cũng đều biết họ là sa nhân. Trong một khoảng thời gian, họ cùng hướng với tâm Ki-tô nhưng không đại diện tâm Ki-tô. Họ đem lại thay đổi bằng cách duy nhất có thể xảy ra lúc đó. Lẽ dĩ nhiên, sau đó tới giai đoạn nhóm tư bản này (giống y như nhóm tài phiệt ở Nga) muốn kiểm soát nền kinh tế. Họ muốn tạo ra thế độc quyền, mà từ lúc đó cho đến ngày nay, họ đã là một lực ngăn trở và kiềm giữ sự tăng triển kinh tế. Nhưng Hoa Kỳ cũng mau chóng tới điểm có nhiều người dân sẵn sàng có sáng kiến chủ động và đứng ra thành lập thương vụ của họ, và đây chính là yếu tố duy nhất giúp nền kinh tế không sụp đổ. Đây là điều đã duy trì sự tăng trưởng kinh tế mà các con đã thấy.

15.8. Nguyên lý Ki-tô là thay đổi

Điều thày muốn chỉ cho các con thấy ở đây là nguyên lý tâm thức Ki-tô không phải như đa số thường nghĩ, kể cả các đệ tử chân sư thăng thiên. Tâm thức Ki-tô là cái đem lại thay đổi ở một tầng nào đó. Đó là tâm thức Ki-tô. Nó đem lại thay đổi vì thay đổi cho con người cơ hội chọn lựa: họ muốn đi theo vòng xoáy đi lên, hay họ muốn lui về trạng thái cô-ma, và do đó phải củng cố nó và đi vào vòng xoáy đi xuống? Tâm thức Ki-tô phơi bày chọn lựa đó. Khi một nhóm người ở trong tình trạng bế tắc, thì tâm thức Ki-tô không thể làm điều này với những người đại diện tâm Ki-tô vì những người này không thể vi phạm quyền tự quyết. Do đó tâm thức Ki-tô chỉ có thể làm xuyên qua những người trong tâm phản-Ki-tô vì họ sẵn sàng vi phạm quyền tự quyết.

Con có thể nói: “Ấy, sao có thể nói là tâm Ki-tô đem lại thay đổi đó?” Như thày có nói, thực sự không phải là tâm Ki-tô làm điều này, nhưng tâm Ki-tô đứng lui ra và cho phép cơ chế mà các thày gọi là Quy luật Nhân quả hay Quy luật thứ Nhì của Nhiệt động học làm công việc của nó. Đây là cơ chế an toàn được thiết kế trong vũ trụ vật chất, chính là để con người không thể rơi vào tình trạng thoải mái và ở đó mãi mãi và không tăng triển. 

15.9. Đệ tử chân sư thăng thiên và quả vị Ki-tô

Bây giờ các con cần nhận ra một cơ chế áp dụng vào trường hợp các đệ tử chân sư thăng thiên. Từ lúc các thày bắt đầu giảng về chân sư thăng thiên, và đặc biệt về con đường quả vị Ki-tô, thì các thày đã giảng bài cho các đệ tử có một trình độ tâm thức cao hơn con người trung bình. Đệ tử của các thày không ở trong tình trạng cô-ma, họ không ở trong tình trạng ù lì khiến họ không muốn tăng trưởng. Nhưng điều này không có nghĩa, con yêu dấu, là con cần có một tâm thức cao để có thể nhận ra một giáo lý chân sư thăng thiên vỏ ngoài. Con cần có một trình độ tâm thức cao hơn trung bình, nhưng điều này không có nghĩa là con đã tới gần quả vị Ki-tô toàn vẹn. Các đệ tử sẽ nhìn khái niệm quả vị Ki-tô qua phin lọc của tầng tâm thức hiện tại của họ, và họ sẽ hiểu những gì họ có thể hiểu. Sau đó, họ sẽ tạo ra hình ảnh và phóng chiếu hình ảnh này lên nó.

Một trong những hình ảnh mà rất rất nhiều đệ tử đã tạo ra trong nhiều thập niên là quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo. Lẽ dĩ nhiên, điều này xảy ra một phần vì giáo hội Công giáo đã, như thày đã giảng nhiều lần, nâng thày lên địa vị người con duy nhất của Thượng đế, đã toàn hảo ngay từ lúc ban đầu, và do đó được đặt trên bệ cao ngoài tầm với của con người. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã tiếp thu khái niệm này, rõ ràng do sa nhân tạo ra, và phóng chiếu nó lên quả vị Ki-tô. Họ nghĩ rằng quả vị Ki-tô có tính chất có-không. Hoặc con không có quả vị Ki-tô, hoặc con có nó – và nếu con có nó thì con là người toàn hảo.

Ý kiến này thực sự không xây dựng vì hình ảnh của sự toàn hảo thông thường nhất trên trái đất là một cái gì không cần thay đổi. Tại sao một cái gì đã toàn hảo lại cần thay đổi? Điều này có nghĩa sự toàn hảo là một trạng thái bất động, và đó là lý do thày nói với các con: quan niệm toàn hảo này hoàn toàn không dính dáng gì đến quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô là sự tự thăng vượt liên tục, sự tự thăng vượt luôn luôn di động. Nó không bao giờ đứng yên. Tâm Ki-tô không bao giờ đứng yên và đó là lý do vì sao nó không tương hợp với khái niệm toàn hảo hiện tại. Bây giờ thì con có thể có một khái niệm khác của sự toàn hảo là khái niệm toàn hảo năng động, nghĩa là con luôn luôn sẵn sàng xem xét chính mình và thăng vượt trạng thái tâm thức của mình. Đó là cách con có thể, như tông đồ Paul có nói, “trở nên toàn hảo trong Ki-tô.” Điều quan trọng ở đây là quả vị Ki-tô không bao giờ, và sẽ không bao giờ đứng yên. Không có trạng thái quả vị Ki-tô tối hậu.

15.10. Đệ tử tâm linh không cùng hướng với Ki-tô

Tại sao hiểu chuyện này lại rất quan trọng? Ấy, đó là vì thày vừa khiến con nhận ra một sự kiện chấn động – ít ra là cho một số các con – là những người mà con cho là sa nhân có thể trong một số trường hợp cùng hướng với tâm Ki-tô. Bây giờ thì chúng ta cần đi sang đầu kia của quang phổ và xem xét sự kiện nhiều người đã đạt được một trình độ nhận biết tâm linh, và ngay cả đạt được một tầng nào đó của quả vị Ki-tô, nhưng trong một số trường hợp, lại có thể hoàn toàn không cùng hướng với tâm Ki-tô.

Nếu con sẵn sàng nhìn một cách trung thực thì con thấy là nhiều tổ chức tâm linh đã kết đọng (precipitated) nhiều sự tàn bạo đáng kể. Một lần nữa, chúng ta có thể trở lại trường hợp giáo hội Công giáo vì nó là một thí dụ hàng đầu. Sự việc quá hiển nhiên nên ta khó không đề cập tới nó. Phong trào Cơ đốc giáo đã có thời nào cùng hướng với tâm Ki-tô chăng? Có. Giáo hội Công giáo có thời nào đã cùng hướng với tâm Ki-tô chăng? Ấy, đây là một câu hỏi vi tế hơn. Điều ta có thể nói là giáo hội Công giáo đã từng kết đọng sự tàn sát người Cathars, tòa án dị giáo (inquisition), các cuộc thánh chiến, vân vân. Rõ ràng là những hành động này không cùng hướng với tâm Ki-tô. Vì sao một phòng trào do chính thày khởi xướng và lúc ban đầu cùng hướng với tâm Ki-tô, lại có thể tha hóa đến độ kết đọng những sự tàn bạo đó, hiển nhiên là biểu hiện của tâm phản-Ki-tô? 

Lấy thí dụ khác, làm sao có thể xảy ra chuyện có những đạo sư bỗng nhiên trở nên nổi tiếng, thu hút nhiều người theo, rồi bỗng nhiên phong trào của họ bắt đầu suy thoái, và nhiều hình thức bạo hành bị phơi bày? Nguyên một phong trào, chỉ vài năm trước đang lành mạnh và cường thịnh, có thể suy thoái và ngay cả hoàn toàn tan biến. Tại sao một tổ chức chân sư thăng thiên (sau khi đã được các chân sư thăng thiên bảo trợ, đã có đệ tử hăng say đi trên con đường quả vị Ki-tô) lại có thể tới điểm mà các chân sư thăng thiên phải ngưng bảo trợ, đứng lui ra và nhìn nó đi vào suy thoái? Nó trở nên càng ngày càng bảo thủ, càng ngày càng cứng ngắc, càng ngày càng chú trọng con đường vỏ ngoài, càng ngày càng chú trọng nghi lễ, quy tắc, luật lệ. Tình trạng tới chỗ đa số thành viên của tổ chức không còn tăng trưởng tánh Ki-tô của họ. Họ thoải mái, nhưng không tăng trưởng. Họ có thể tự coi mình thánh thiện hơn người khác và cảm thấy hơn những người không phải là đệ tử chân sư thăng thiên, nhưng họ không còn tăng trưởng tánh Ki-tô. Họ đã đình trệ, họ đã đứng yên.

Làm sao một người đã phần nào cùng hướng với tâm Ki-tô và, tỷ dụ, nhận ra nhu cầu thay đổi, lại một thời gian sau đó sẵn sàng dùng bạo lực để đem lại sự thay đổi đó? Con đã thấy trong lịch sử có nhiều nhà lãnh đạo đã thấy nhu cầu thay đổi, đã làm việc để đem lại thay đổi, nhưng sau đó lại xoay chuyển. Như thể là lúc đó họ sẵn sàng dùng vũ lực và uy quyền để củng cố địa vị khiến mọi chuyện bị hư hỏng và rơi vào một chu kỳ bạo lực ngày càng đi xuống.

Câu hỏi thực sự ở đây là: “Có thể nào một người đã đạt được một phần quả vị Ki-tô nhưng vẫn chọn lựa đi ngược lại, bắt đầu rơi vào vòng xoáy hướng hạ dẫn họ xuống thấp hơn rất nhiều tầng tâm thức mà họ đã đạt được? Câu trả lời là: “Có.” Cho tới lúc con thăng thiên, con vẫn có thể bắt đầu đi ngược lại.

15.11. Sinh thể Ki-tô bị phản-Ki-tô lừa

Thày có đề cập tới giai đoạn con tới tầng 96 và phải đối mặt một quyết định rất quan trọng, đó là con có thực sự tới điểm nhận ra: “Tôi không phải là trụ điểm.” Hoặc con bắt đầu phụng sự tổng thể với tinh thần vị tha; hoặc con chú tâm hơn vào chính mình, cố gắng tăng trưởng thêm bất cứ ước muốn nào mà con có, có thể là muốn cảm thấy mình đang làm việc gì quan trọng, hay cảm thấy mình lịch duyệt hơn người khác, hay bất cứ ước muốn gì khác. Chắc chắn là khi con đã lấy quyết định và hiểu rằng quả vị Ki-tô là khắc phục cái ngã vỏ ngoài, thì con khó đi giật lùi. Như thày có nói trong nhiều bài giảng (ở cả Hàn Quốc lẫn Hòa Lan), là từ tầng 48 đến tầng 96, con có thể đã đạt được một phần quả vị Ki-tô nhưng bỗng nhiên, vì một lý do cá nhân nào đó, con không muốn tăng triển nữa, con không muốn đi xa hơn nữa. Có một điểm cố định trong tâm thức mà con không chịu nhìn vào và tra vấn, và do đó con đình trệ. Con cũng có thể đi giật lùi.

Điều này cũng giải thích hiện tượng các lãnh tụ được xem là có sức lôi cuốn mà con thấy trong lịch sử. Nhiều người nhìn vào các nhà lãnh tụ đó và nghĩ: “Người này có cái gì đó. Người này có đôi chút Ánh sáng! Tôi nghĩ hào quang người này có cái gì chân chính.” Họ bị thu hút vì họ nhận ra người đó có cái gì chân chính. Sau đó, ta có thể thấy rõ là có một điểm người lãnh tụ đó bắt đầu đi xuống và dẫn thần dân xuống vực thẳm. Một số người đã hỏi, và nhiều người hơn phải hỏi: “Làm sao chuyện này có thể xảy ra?”

Ấy, con yêu dấu, chuyện này có thể xảy ra vì quả vị Ki-tô là sự liên tục, nhưng con có thể tới một tầng nào đó của quả vị Ki-tô và dùng những gì con đạt được để đem lại một hoàn cảnh bên ngoài dựa trên một viễn quan mà con có, tỷ dụ là nâng mình lên thành lãnh tụ một quốc gia hay một phong trào tâm linh. Lúc đó, vì con đã thiết lập mình vào địa vị đó nên con không còn sẵn sàng tăng triển nữa, con không sẵn sàng tiến bước. Có một điểm cố định trong tâm thức mà con không chịu nhìn vào. Lúc đó, điều đương nhiên xảy ra là trái đất được liên tục kéo lên bởi sự gia tốc của toàn thể vũ trụ và tâm thức tập thể được nâng lên.

Khi con đứng yên thì con phải đối mặt lực đang kéo con phải thay đổi đó, và nếu con không chịu thay đổi thì con phải chống kháng lực thay đổi đó. Điều này có nghĩa là thay vì đạt và biểu lộ một tầng quả vị Ki-tô, thì con lúc đó trở nên một hệ thống khép kín.

Lúc đó, con mất quả vị Ki-tô vì quả vị Ki-tô là sự kết nối với tổng thể, và tổng thể luôn luôn gia tốc. Khi con từ chối gia tốc, thì con phải bắt buộc mất sự kết nối với tâm Ki-tô. Con lúc đó đi vào vòng xoáy muốn bảo tồn quyền lực, bằng cách càng ngày càng cực đoan và cuồng loạn. Tình trạng này nhất thiết dẫn tới suy thoái. Sẽ có người cảm thấy được điều này và họ sẽ ra đi. Sẽ có người khác chống đối và một số chuyện có thể xảy ra. Con thấy hiện tượng này xảy ra nhiều lần nơi các phong trào tâm linh. Con cũng thấy hiện tượng này trong thế kỷ vừa qua nơi một số phong trào, kể cả một số phong trào chân sư thăng thiên. Con thấy một giai đoạn tăng triển ban đầu, sau đó mức độ tăng triển chậm lại một cách vi tế, và không lâu sau đó thì sự ù lì xảy ra. Ấy, ù lì là một từ khác để chỉ cái chết.

15.12. Xem xét các tổ chức chân sư thăng thiên

Đây là một bài giảng quan trọng cho những ai đang đi trên con đường tâm linh. Bài này đặc biệt quan trọng cho những ai đã và đang tham gia một tổ chức chân sư thăng thiên. Con có thể dùng bài giảng này để nhìn vào các tổ chức đó và suy ngẫm chuyện gì đã xảy ra, suy ngẫm kinh nghiệm riêng của mình và đạt được một tầm nhìn cao hơn. Con có thể dùng bài giảng này để giúp con tăng triển bằng cách quay lại, nhìn vào chính mình và nói: “Tôi có điểm cố định nào trong tâm thức của mình? Tôi đã có dùng giáo lý chân sư thăng thiên để củng cố các điểm cố định đó chăng?”

Như thày có giảng tại Hòa Lan, con tự hỏi: “Tôi có đang dùng giáo lý chân sư thăng thiên để củng cố quan niệm của tôi về các chân sư thăng thiên, lối hành xử tâm linh của tôi, và tôi đã bị mắc kẹt trong đó?” Sau đó, con có thể nhìn gương các tổ chức đó, các nhà lãnh đạo đó, và con nói: “Tôi bây giờ đã thấy chuyện gì xảy ra, và tôi không muốn rơi vào cạm bẫy đó. Tôi muốn tiếp tục tăng triển, và điều này đòi hỏi gì? Ấy, nó đòi hỏi tôi phải luôn luôn sẵn sàng  nhìn vào chính mình, nhìn vào các điểm cố định đó, nhìn vào những nơi tôi bị mắc kẹt, và tôi phải ngưng phóng chiếu là lỗi tại người khác. Tôi nhận lãnh trách nhiệm, và tôi nhận ra là tăng triển tâm linh của tôi, quả vị Ki-tô của tôi, là trách nhiệm của riêng tôi.”

“Tôi có thể có một vị đạo sư, tôi có thể có một vị thày nhưng vị thày không thể thay tôi chuyển đổi tâm thức của tôi – chỉ có tôi mới làm được chuyện này, do đó tôi không bị giới hạn bởi bất cứ vị đạo sư nào, bất cứ vị thày nào, bất cứ giáo lý nào, bất cứ tổ chức vỏ ngoài nào. Nếu tôi cảm thấy tôi đang không tăng triển, thì thay vì phóng chiếu là người khác chịu trách nhiệm về sự không tăng triển này, thì tôi có thể xoay chuyển, nhận trách nhiệm và nói: “Nhưng tôi không bị giới hạn bởi bất cứ ai hay bất cứ điều gì trên trái đất cả! Không có điều gì bên ngoài tôi có thể ngăn tôi xoay chuyển tâm thức của mình, chỉ cần tôi sẵn sàng nhìn vào chính mình.”

15.13. Quả vị Ki-tô và ảo tưởng toàn hảo

Điều này có nghĩa là con có thể bắt đầu chuyển đổi quan niệm về quả vị Ki-tô và không cố gắng đạt được trạng thái toàn hảo nào đó. Con yêu dấu, con hãy nghe thày tuyên bố một cách rất rất rõ ràng. Có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã trở nên rất chân thành, rất nghiêm túc trong việc tu tập, đọc bài chú, đọc bài thỉnh, đi những bước khác, rất chú tâm, rất nghiêm túc. Có một giai đoạn làm như vậy hoàn toàn cùng hướng với tâm Ki-tô vì con cần giải thoát mình khỏi tâm thức tập thể và sức hút của nó. Nhưng sẽ có lúc con tới giai đoạn khác khi sự chú tâm vào những công việc vỏ ngoài đó có thể ngăn trở con đi vào nội tâm, nhìn vào tâm lý của mình và nói: “Điều gì trong tôi cần thay đổi?”

Con có thể, tỷ dụ, quá chú tâm vào việc thay đổi thế giới, đến độ con không nhìn vào chính mình. Con hãy cẩn trọng và nhận ra là có nhiều đệ tử có viễn quan là có một trạng thái tâm thức cao hơn và họ chân thành cố gắng đạt được trạng thái đó, nhưng họ vẫn chưa buông bỏ ý niệm quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo.

15.14. Tinh thần sùng bái và cấp bậc trong các tổ chức tâm linh

Nhiều người trong số các người đó – như đã xảy ra trong nhiều tổ chức chân sư thăng thiên – đã tôn sùng người sứ giả, vì họ nghĩ là để trở thành sứ giả thì người đó phải đạt được một phần quả vị Ki-tô và do đó đã “hầu như toàn hảo trên mọi phương diện”. Ấy, con yêu dấu, chỉ có Mary Poppins mới hầu như toàn hảo trên mọi phương diện. Không có một người nào đã từng như vậy và sẽ không có ai như vậy. Con cần nhận ra vấn đề thực khi con tôn sùng vị sứ giả hay vị đạo sư, và ngay cả tôn sùng Giê-su, thì sự sùng bái đó duy trì hình ảnh quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo.

Các thày đã thấy rất rất nhiều đệ tử thành tâm cố gắng đạt quả vị Ki-tô, nhưng tự ngã của họ đã đánh lừa họ và khiến họ nghĩ là một khi họ đã đạt được một tầng nào đó của quả vị Ki-tô thì họ không còn cần nhìn vào chính họ và tâm lý của họ. Họ không cần thay đổi nữa, họ không cần nghe bất cứ ai thấp hơn họ. Họ nghĩ rằng khi họ đạt được một phần nào đó của quả vị Ki-tô thì họ được một cấp bậc, họ nghĩ rằng những ai đạt được một phần của quả vị Ki-tô bỗng nhiên hơn những người dưới họ và do đó không cần nghe những người này. Họ không cần chú ý tới những người này khi những người này cho họ biết những điều họ cần nhìn nơi chính họ.

Đây là lý do vì sao sự tăng triển của con ngưng lại, và bỗng nhiên sự ù lì đóng rễ vì lúc đó con đã tới một địa vị nào đó trong tổ chức tâm linh, hay ngay cả trạng thái trong tâm mình, khi con cảm thấy thoải mái và không nghĩ mình cần tăng triển nữa. Nhiều người đệ tử đó nhận ra là họ chưa đạt được trạng thái tối hậu của quả vị Ki-tô vì chỉ có vị sứ giả là đã đạt được trạng thái này. Họ đã tạo ra một niềm tin vi tế cho rằng: “Ồ, người sứ giả thuộc vào một thành phần khác, giống như Giê-su vậy.” Họ nghĩ họ sẽ không bao giờ đạt được mức đó, nhưng họ cũng đã đạt được một tầng nào đó và do đó họ chắc chắn cao hơn những đệ tử khác trong tổ chức.

Khi con có một cấp bậc nhân gian như vậy, thì một tổ chức có thể bị đứng dừng lại. Chỉ yếu tố này thôi cũng có thể khiến một tổ chức tâm linh đứng dừng lại, nếu nó không được nhận ra và giải quyết. Nó có thể khiến những người bên dưới cảm thấy không có chỗ để họ biểu lộ quả vị Ki-tô của họ. Họ có hai chọn lựa: hoặc họ ngưng tăng triển về hướng quả vị Ki-tô để không quấy rầy những người ở trên và gây khó khăn cho họ, hoặc họ rời tổ chức và biểu lộ quả vị Ki-tô của họ nơi khác. Nếu những người sẵn sàng biểu lộ quả vị Ki-tô rời tổ chức, thì tổ chức không thể tiếp tục tăng trưởng. Điều này rất đơn giản, và đã xảy ra với nhiều tổ chức được chân sư thăng thiên bảo trợ. Thày không cần nêu danh những tổ chức này vì những người trong các con đã từng tham gia một tổ chức chân sư thăng thiên có thể rõ ràng nhận ra mô thức nếu con muốn.

15.15. Định nghĩa quả vị Ki-tô bằng phản-Ki-tô

Vấn đề thực ở đây là ý niệm quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo đã đến từ tâm phản-Ki-tô. Ở mức độ cá nhân thì nó tới từ tự ngã của con, và lý do là vì các lực phản-Ki-tô luôn luôn tìm cách ngăn cản không cho con thăng thiên. Họ biết là họ có tiềm năng ngưng con lại mỗi tầng trước tầng 144. Họ luôn luôn tìm cách dẫn con tới điểm con nghĩ con không cần tăng triển nữa, con không cần thăng vượt nữa, con không cần tiến lên tiếp. Do đó, có điểm cố định đó trong tâm thức con, ảo tưởng cuối cùng, như Hilarion có nói, mà con không chịu nhìn vào. Nếu con không chịu nhìn vào nó, thì con không thể buông bỏ nó, và do đó con vĩnh viễn bị mắc kẹt trong ảo tưởng đó.

Con yếu dấu, con không được danh dự gì khi con đạt tầng tâm thức 143 và ngừng ở đó. Tình trạng này rất rất bi thương. Các thày chưa bao giờ thấy chuyện này, nhưng nếu nó xảy ra, thì tình trạng này rất bi thương. Thật ra nó cũng gần bi thương như tới tầng tâm thức 77 và ngừng ở đó. Điều các thày luôn luôn muốn là các con thăng thiên, mà con không thể thăng thiên từ tầng 77 hay tầng 143! Con chỉ có thể thăng thiên từ tầng 144, và ngay lúc đó con vẫn cần thăng vượt ảo tưởng cuối cùng đó.

Con yêu dấu, bài giảng này đã dài. Bài giảng này có thể đã khiến con bị sốc. Thày đã nói điều thày cần nói, và thày cảm ơn các con đã sẵn sàng là cánh cửa mở để tỏa sáng bài giảng này tới tâm thức tập thể. Con có thể nghĩ là thày đã không nói nhiều đến nước Nga, nhưng thày bảo đảm là thày đã tỏa sáng năng lượng và xung lực vào tâm thức tập thể của nước Nga, đủ để xoay chuyển nước Nga vào một vòng xoáy hướng thượng – nếu có đủ người sẵn sàng đứng cùng hướng với những xung lực đến từ tâm Ki-tô. Do đó, thày đã đóng góp vào vòng xoáy hướng thượng và việc thể hiện thời đại hoàng kim trong đất nước tươi đẹp và yêu dấu này.

Khắc phục nỗi sợ lấy quyết định

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary. Thật là một niềm vui lớn được nói chuyện với các con, nhưng hơn thế nữa là niềm vui được với các con trong buổi họp tuyệt vời của những trái tim tuyệt vời của các con ở nơi chốn tuyệt vời này. Các con yêu dấu, Đại thiên thần Michael đã ra lệnh cho chúng ta bắt đầu, nói theo nghĩa bóng. Do đó, thày muốn nói lên một số ý từ trái tim của thày và cho con một dụng cụ thực tiễn có thể giúp con khắc phục nỗi đau khi lấy quyết định.

13.1. Những quyết định né tránh

Trước kia ở đây trên nước Nga chúng ta có nói đến vấn đề lấy quyết định, đưa ra một số hướng dẫn đặc biệt cho người dân Nga, nhưng thày muốn cho các con một dụng cụ phổ quát cho tất cả. Thực tế là khi con nhận ra giáo lý rất cơ bản mà các thày đã trao truyền, là mọi sự trong toàn thể vũ trụ xoay quanh quyền tự quyết, thì con cũng nhận ra rằng mục đích căn bản của sa nhân (từ lúc họ xuống hành tinh này và thật vậy, từ lúc họ sa ngã), là khiến cho những dòng sống có tự nhận biết và chưa sa ngã lấy những quyết định mà sa nhân sau đó có thể dùng để chi phối họ bằng nhiều cách.

Đầu tiên hết, mục đích của họ, lẽ dĩ nhiên, là chứng minh là Thượng đế đã sai khi cho các con quyền tự quyết. Họ cũng muốn giam hãm con vào đủ loại vòng xoáy đi xuống khi con lấy một quyết định tạo cho con một nỗi đau thống thiết. Lẽ dĩ nhiên, nỗi đau không do quyết định của con nhưng do sự thao túng và phản ứng của sa nhân. Dù gì chăng nữa, họ khiến con lấy quyết định, họ làm cho con đau đớn và sau đó tìm cách dụ dỗ con rơi vào một vòng xoáy vô tận trong đó hoặc con tìm cách che giấu nỗi đau của quyết định đầu, tìm cách biện minh cho nó, tìm cách giải thích tại sao, hoặc con tìm cách tránh không lấy quyết định nữa. Lẽ dĩ nhiên, sa nhân rất giỏi trong chuyện dàn xếp để con rơi vào những hoàn cảnh thực tiễn trên trái đất khiến con phải lấy quyết định. Vì con muốn tránh không làm lại những quyết định đã khiến con đau đớn lúc đầu, nên họ tìm cách khiến con lấy những quyết định khác mà chúng ta có thể gọi là “quyết định né tránh”. Đây là những quyết định có mục đích, trong tâm con, né tránh lấy những quyết định đã tạo cho con nỗi đau quá lớn.

Con nghĩ rằng nếu con lấy những quyết định loại khác, thì con có thể né tránh nỗi đau. Lẽ dĩ nhiên, điều này dẫn tới những đau đớn loại khác và chẳng bao lâu con bị vướng trong một màng nhện trong đó con càng cựa quậy, con càng dính thêm và càng bị bao bọc bởi một chất nhựa, và càng mất khả năng cử động. Chẳng bao lâu, con ngồi yên như một con muỗi bị mắc bẫy trong màng nhện và tất cả những gì con làm được là kêu vo ve tại chỗ vì con thực sự không thể di động khỏi chỗ đó. Con có thể tiếp tục làm như thế trong khi sa nhân vắt lấy năng lượng của con hoặc là cho tới khi con quyết định như vậy là đủ rồi và đã tới lúc con tiến lên cao hơn trên con đường tâm linh.

13.2. Tránh không lấy những quyết định né tránh

Các con yêu dấu, các thày biết rõ hoàn cảnh của các con trên trái đất và các thày biết sống hiện thân trên trái đất khó khăn như thế nào. Các thày cũng biết cơ cấu dẫn tới những quyết định né tránh. Các thày biết khó tránh những quyết định né tránh, nhưng các thày cũng biết các con không thể nào đi vào con đường quả vị Ki-tô bằng cách lấy những quyết định né tránh.

Bây giờ con hãy nghe chăm chú. Con có thể bắt đầu con đường tâm linh khi vẫn còn bị mắc kẹt trong những quyết định né tránh này. Con có thể tiến bộ trên con đường tâm linh bằng cách học giáo lý tâm linh và thực hành những kỹ thuật tâm linh. Để có thể bước ra khỏi con đường mà ta có thể gọi là con đường vỏ ngoài (hay con đường tâm linh) để bước vào con đường nội tâm (hay con đường quả vị Ki-tô), thì con phải sẵn sàng lấy những quyết định không nhắm mục tiêu né tránh một quyết định lớn hơn, những quyết định không tìm cách né tránh nỗi đau. Chúng không phải là sự phản ứng lại hoàn cảnh bên ngoài trong đó con lấy quyết định đi theo một vị thày bên ngoài hay tuân thủ một nghi thức vỏ ngoài. Con thực sự làm như thế để tránh không phải lấy những quyết định sâu xa hơn, tỷ dụ như con là loại sinh thể nào, con muốn sống trong một thế giới như thế nào, con sẵn sàng muốn nhìn vào những gì trong chính mình để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài và để thay đổi hoàn cảnh nội tâm và để giải thoát mình khỏi những khuôn nếp trong tâm do sa nhân lập trình.

Giờ đây, như cả người sứ giả và Đại thiên thần Michael đều đã nói, các thày chỉ có mong muốn duy nhất là thấy con thoát khỏi bất cứ điều gì hạn chế con. Những giới hạn này, trong ngắn hạn ngăn trở con cảm thấy thoải mái với chính mình, và trong dài hạn ngăn trở con con hội đủ điều kiện để thăng thiên và biểu hiện quả vị Ki-tô. Tại Hòa Lan, các thày nói nhiều về chuyện cảm thấy thoải mái với chính mình và tầm quan trọng của nó. Ấy, con yêu dấu, thày có thể hỏi con một câu hỏi giản dị: “Con có nghĩ là một sinh thể Ki-tô không cảm thấy thoải mái với chính mình?”

Lẽ tự nhiên, nếu con nghĩ về điều này, thì con nhận ra rằng khi con càng ngày càng đi cao hơn trên con đường tu, con biểu hiện một tầng mức càng ngày càng cao hơn của quả vị Ki-tô. Con nhận ra rằng lẽ tự nhiên con phải cảm thấy càng ngày càng thoải mái hơn với chính mình. Dù gì chăng nữa, Giê-su đã nói gì? Thày nói: “Ta và Cha ta là một.” Đấy, nếu con là một với Cha, là Hiện diện TA LÀ của con, thì lẽ tự nhiên con sẽ cảm thấy thoải mái với chính mình vì Hiện diện TA LÀ của con không ở trong thế gian này hay không thuộc về thế gian này, và nó cảm thấy thoải mái với chính nó.

13.3. Một bài tập để phơi bày các quyết định gây giới hạn

Thày đã trao truyền một số câu chú và thỉnh nguyện để thanh tẩy các luân xa của con, và con nên đọc những câu chú và thỉnh này mỗi lần con làm bài tập sắp tới đây. Thày muốn con trụ vào trái tim của mình, đặt tư tưởng vào luân xa tim, và thày muốn con lấy quyết định là con có muốn thày hướng dẫn con để con khám phá ra quyết định nào đã làm nghẽn luân xa tim của con, đã ngăn chận ánh sáng không biểu lộ được trọn vẹn trong luân xa tim của con chăng?

Nếu con trả lời là “Có” thì Mẹ yêu cầu con hình dung Mẹ đang ngồi trên một chiếc ghế và con giống một trẻ thơ. Con đi lại gần Mẹ và con giơ hai cánh tay lên. Mẹ cúi xuống và bế con lên và đặt con vào lòng Mẹ và Mẹ ôm con trong vòng tay Mẹ. Bây giờ, con được hoàn toàn bảo bọc bởi vòng tay đầy tình thương của Mẹ, bởi hào quang đầy tình thương của Mẹ, bởi rung động đầy tình thương của Mẹ. Con được bảo vệ khỏi mọi hiểm nguy của thế gian này. Chắc chắn là Mẹ Thiêng liêng có thể bảo vệ con khỏi bất cứ điều gì trên thế gian này, vì thế gian đã được tạo ra từ Bản thể và bản chất của Mẹ Thiêng liêng. Trong khi con đang ở trong lòng Mẹ, Mẹ yêu cầu con đặt một câu hỏi giản dị: “Mẹ Mary, hãy chỉ cho con thấy quyết định nào đang làm nghẽn luân xa tim của con.” Sau đó, trong khi con làm tiếp bài tập này một mình, con có thể chậm rãi, con có thể mở nhạc làm nền, và con có thể thiền định về Hiện diện của Mẹ, mà không suy nghĩ trước, không suy nghĩ phân tích hay đường thẳng, không có câu chú hay nghi thức hay bất cứ điều gì khác trong tâm con. Con để tâm lắng yên xuống và chỉ giản dị lắng nghe. Trong hầu hết các trường hợp, Mẹ sẽ không gửi cho con ngôn từ, nhưng Mẹ có thể gửi cho con hình ảnh hay cảm nhận liên quan tới loại quyết định nào con đã lấy. Lẽ tự nhiên, con biết luân xa tim là biểu hiện của tình thương và như thế quyết định của cá nhân con, rất có thể sẽ liên quan đến chuyện con cảm thấy tình thương của mình đã bị bác bỏ và con quyết định là con sẽ không biểu lộ tình thương nữa trên hành tinh đen tối này.

Bây giờ, có thể là trong khi con làm bài tập này, thì con có thể nhận một xung lực mà con muốn quán chiếu hay khai triển. Con cũng có thể muốn Mẹ giúp con giải tỏa vấn đề này. Quả thực là con sẽ phải tới điểm thấy được vấn đề rõ ràng và con quyết định sẽ tháo gỡ quyết định ban đầu đó vì bây giờ con biết con đã tiến lên cao hơn trên con đường tâm linh, con đã tiến lên cao hơn trên con đường quả vị Ki-tô. Do đó, con sẽ không còn cảm thấy nỗi đau mà trước kia con cảm thấy khi tình thương của con bị bác bỏ. Nếu tình thương của con lại bị bác bỏ nữa, thì con cũng không cảm thấy đau đớn như xưa vì bây giờ con là một sinh thể khác và do đó con không cần cảm thấy sợ hãi khi nhìn lại quyết định của mình và thay đổi nó. Con không cần sợ biểu tỏ tình thương của con nữa.

Nếu con không có một cảm giác đặc thù, thì có thể con cần làm việc với một luân xa khác và do đó Mẹ đề nghị con tiếp tục tiến hành bài tập này. Khi Mẹ đi qua một luân xa, nếu con có phản ứng mạnh, thì con có thể tạm ngưng hay ngừng hẳn bài tập và chú tâm vào luân xa này. Con có thể đọc bài chú, bài thỉnh về nó, con có thể kêu gọi trái tim của Mẹ, con có thể nghe nhạc, hoặc làm bất cứ điều gì khác mà con cảm thấy muốn làm, con yêu dấu.

Bây giờ, Mẹ yêu cầu con hình dung con đi từ luân xa tim lên luân xa cổ họng. Con hòa điệu với luân xa cổ họng, con đi vào trong đó và con lại hỏi mẹ: “Mẹ Mary, xin giúp con thấy quyết định nào đã làm nghẽn luân xa cổ họng của con.” Lẽ dĩ nhiên, con biết luân xa cổ họng liên quan tới sự biểu lộ uy lực và ý chí. Đã có một thời con dám biểu lộ uy lực của con. Vì lý do nào đó, quyết định này khiến con đau đớn và con quyết định con sẽ không bao giờ biểu lộ uy lực nữa. Con sẽ không bao giờ biểu lộ ý chí mạnh mẽ như vậy, con sẽ bớt cả quyết hơn, bớt sẵn sàng đứng lên bảo vệ lập trường mình, nhưng con chịu uốn mình theo hoàn cảnh, theo bất cứ chuyện gì xảy ra cho con để con tránh né nỗi đau này. Một lần nữa, con có thể xin Mẹ hướng dẫn giúp con thấy quyết định này. Con có thể biết là con đã tiến lên cao hơn và do đó, một lần nữa, con có thể tới điểm thấy được quyết định và con quyết định: “Con sẵn sàng muốn biểu lộ uy lực Thượng đế của con, dùng ý chí của con để bảo vệ lập trường và nói: “Tới đây là đủ rồi, không được xa hơn nữa, từ đây con sẽ tiến lên phía trước.”

Kế tiếp, Mẹ yêu cầu con đi từ luân xa tim xuống đám rối dương (solar plexus). Một lần nữa, con đi vào luân xa rối dương và con hỏi Mẹ: “Mẹ Mary, xin giúp con thấy quyết định nào đã làm nghẽn luân xa rối dương của con.” Lẽ tự nhiên, luân xa rối dương liên quan tới an bình, liên quan tới phụng sự. Có thể đã có một thời điểm con quyết định đứng lên đòi hòa bình và sa nhân đã tìm cách nào đó để khiến con bị đau đớn. Có thể đã có một thời điểm con quyết định phụng sự đời sống và một lần nữa sự phụng sự của con bị bác bỏ và tạo ra trong con nỗi đau. Một lần nữa, con hãy thiền về tim của Mẹ, và xem có điều gì khởi lên trong con chăng. Con hãy áp dụng các dụng cụ và giáo lý cho tới khi con thấy rõ ràng quyết định cũ đó và con lấy quyết định sẵn sàng muốn phụng sự, sẵn sàng thực sự muốn bình an vì con biết rằng ngày nay sự bình an của con không dễ bị phá rối như trong quá khứ.

Sau đó, chúng ta lại tiến lên từ luân xa tim lên con mắt thứ ba, và con trụ vào trong đó và hỏi Mẹ: “Mẹ Mary, xin giúp con thấy quyết định nào đã làm nghẽn luân xa con mắt thứ ba của con.” Đây là luân xa của viễn kiến. Đây là luân xa của sự nhìn thấy sự thật và chân lý. Có thể con đã bảo vệ sự thật và sa nhân đã tìm cách làm tổn thương con. Có thể con đã biểu lộ một viễn kiến cao hơn và nó bị bác bỏ. Một lần nữa, khi con thấy được quyết định này, thấy nó như nó là, con có thể quyết định là con sẽ dám biểu lộ viễn kiến của mình, con dám đứng lên bảo vệ chân lý cao nhất mà con thấy được ngay bây giờ, tuy con vẫn biết là luôn luôn có một chân lý cao hơn nữa mà con sẽ thấy. Khi con buông bỏ được quyết định cũ, thì con cảm thấy một gánh nặng được trút khỏi người con. Con cảm thấy điều này mỗi lần con quyết định con sẽ dám biểu lộ trở lại ánh sáng của con xuyên qua một luân xa nào đó.

Bây giờ chúng ta đi từ luân xa tim xuống trung tâm của luân xa hồn, là luân xa liên quan tới sáng tạo, vui chơi và niềm vui của trẻ thơ. Con hãy nhìn hành tinh này và thấy những người có tâm hồn trẻ thơ đã thường bị sa nhân hà hiếp thô bạo và đập dí xuống đến độ họ không dám là trẻ em thơ ngây nữa. Thay vào đó, họ trở nên sợ sệt, lúc nào cũng chờ đợi sẽ có điều gì xấu xảy ra hay sợ sẽ bị trừng phạt vì lý do nào đó.

Phải chăng Giê-su có nói: “Trừ khi con trở lại như một trẻ thơ, con không thể nào đi vào vương quốc thiên đàng?” Trừ khi con dám để ánh sáng tuôn chảy qua trung tâm luân xa hồn của con thì làm sao con có thể thực sự tiến bộ trên con đường quả vị Ki-tô và dám biểu lộ chính mình? Một lần nữa con có thể hòa điệu vào Bản thể của Mẹ, xin mẹ giúp con thấy quyết định của mình. Nếu con nhận được một xung lực mạnh, con hãy thiền quán về nó, nghiền ngẫm nó. Con hãy dùng các dụng cụ cho tới khi con thấy được tại sao con quyết định đóng lại dòng chảy sáng tạo của con. Khi con quyết định thay đổi quyết định một cách có ý thức, thì một lần nữa, một gánh nặng khác được trút bỏ xuống.

Bây giờ chúng ta lên trở lại luân xa Đỉnh đầu, liên quan tới Tia thứ Hai của Minh triết Thượng đế. Nó cũng là luân xa giúp con kết nối với Hiện diện TA LÀ của con, với cõi tâm linh, với sự hiểu biết tâm linh. Một lần nữa, Mẹ yêu cầu con hòa điệu với luân xa đó và xin Mẹ giúp con thấy được quyết định nào đã làm nghẽn dòng chảy xuyên qua luân xa Đỉnh đầu của con. Phải chăng Giê-su có nói: “Đừng để ai lấy vương miện trên đỉnh đầu của con.” Lẽ dĩ nhiên, hầu như không thể nào hiện thân trên một hành tinh như trái đất mà không bị các sa nhân làm điều gì đó để tiêu trừ con hay tổn thương con khi con dám biểu lộ minh triết của con. Hay khi con dám nói lên trực giác là con biết điều gì đó là thật, dù là không có bằng chứng vật chất. Một khi con đã hòa điệu, một khi con muốn mở tâm và tim mình ra để đón nhận một xung lực từ Mẹ, thì con có thể thay đổi quyết định này một cách ý thức và do đó con lại cảm thấy một gánh nặng được nhấc khỏi con.

Bây giờ chúng ta đi tới luân xa cuối cùng là luân xa gốc, cũng được gọi là luân xa Mẹ, không phải vì nó liên quan tới phụ nữ hay người Mẹ, hay ngay cả tình dục. Nó thực sự là luân xa qua đó con biểu lộ nỗ lực sáng tạo của mình để sáng tạo hay biểu hiện điều gì đó trong bát cung vật lý (physical octave). Nó là luân xa cuối của một dây chuỗi khi con gán một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-vật và tìm cách biểu hiện nó trên cõi vật lý. Lẽ dĩ nhiên, đó là lý do tại sao sa nhân đã tìm cách, một cách rất hung hãn, làm tắt nghẽn luân xa này trong càng nhiều người càng tốt.

Con hãy xin Mẹ lần nữa giúp con thấy quyết định của con muốn biểu lộ hay biểu hiện điều gì đó và điều ấy bị bác bỏ, bị chê bai, bị chỉ trích, bị phán xét và cũng có thể là nó bị tiêu hủy một cách thô bạo ngay trước mắt con. Bằng cách hòa điệu với tim của Mẹ, bằng cách mở tâm và tim của con ra, con có thể nhận được một xung lực giúp con biết rõ ràng hơn và con có thể bắt đầu thay đổi quyết định đó.

13.4. Dùng bài tập

Giờ đây con yêu dấu, đối với hầu hết các con bài tập này không phải chỉ làm một lần và mọi luân xa đều được thanh tẩy. Đa số các con sẽ được lợi lạc khi làm đi lại nhiều lần. Lẽ dĩ nhiên, con có thể làm bài tập này chung với việc đọc các bài chú của thày để thanh tẩy luân xa, hay đọc một số bài nguyện và bài thỉnh khác nhau để thanh tẩy luân xa. Lẽ dĩ nhiên, con cũng có thể kết hợp bài tập này với Khóa học Tự Điều ngự trong đó con tiến lên qua bảy tia sáng và qua đó, con thanh tẩy luân xa tương ứng.

Do đó đây là một bài tập mà con có thể thu âm để dùng hay con có thể in ra để đọc và con đi qua các bước. Con cũng có thể đọc câu chú (mantra), bài chú hay bài thỉnh cho mỗi bước. Con có thể nghe nhạc, hay bất cứ điều gì con hứng thú muốn làm. Yếu tố chính yếu là con hòa điệu vào luân xa của con, con xin Mẹ giúp con thấy được quyết định của con và con mở tâm và tim càng nhiều càng tốt để nhận vào một xung lực từ Mẹ sẽ giúp con thấy rõ ràng hơn quyết định đã làm nghẽn một luân xa nào đó.

Đây là một bài tập có thể dùng chung với những bài tập khác mà Mẹ đã trao truyền cho các con, để chữa lành chấn thương nhập đời nguyên thủy và để chữa lành những khía cạnh khác của tâm lý của con.

13.5. Bắt đầu lấy quyết định trở lại 

Con thấy chăng, con yêu dấu, con sẽ tới điểm trên con đường tâm linh khi con cần lấy quyết định, con cần dám lấy một quyết định không phải là quyết định né tránh. Giờ đây, tất cả các con đã lấy những quyết định như thế (chúng ta có thể gọi chúng là quyết định Ki-tô), nếu không thì con đã không ở trên con đường tâm linh và con đã không đang ở đây. Tuy nhiên hầu hết các con vẫn còn những khuôn nếp đó, những tắt nghẽn trong luân xa của mình. Để tránh né nỗi đau mà con nghĩ dính liền với một quyết định, con lấy những quyết định khác – những quyết định né tránh – để né không phải lấy một quyết định thật. Con tìm cách né tránh những biểu hiện của mình sẽ bị người khác hay tà lực phán xét và chỉ trích.

Con yêu dấu, như người sứ giả và Đại thiên thần Michael đã nói trước đây, nếu con sẵn sàng muốn học hỏi từ một quyết định, thì nó không thể là một lỗi lầm. Tại sao vậy, con yêu dấu? Bởi vì mục đích cuộc sống trên trái đất là gì? Nó không phải là tuân theo một tiêu chuẩn toàn hảo nào đó do sa nhân quy định. Qua rất nhiều tôn giáo và triết lý tâm linh, sa nhân đã tìm cách bán cho con ý tưởng rằng cách duy nhất để lên thiên đàng là sống theo một tiêu chuẩn mà họ đã quy định trên trái đất. Đây là một sự gian dối hoàn toàn. Như đã nói, con không thể đi vào thiên đàng bằng cách sống theo bất cứ tiêu chuẩn nào của thế gian. Con phải vượt lên trên tất cả mọi tiêu chuẩn bằng cách lấy một quyết định Ki-tô từ bỏ ảo tưởng quy định mỗi tầng trong 144 tầng tâm thức, như thày Hilarion đã mô tả trong sách của thày. Con có thể quyết định là giờ đây con đã tìm thấy một giáo lý tâm linh, một con đường tu tâm linh, một nhóm tâm linh hay một vị thày tâm linh và con sẽ theo vị thày này, theo nhóm này. Con sẽ làm một số nghi thức, con sẽ học một số giáo lý, con sẽ học hỏi, con sẽ nỗ lực tu tập. Như thày có nói trước đây, con có thể được lợi lạc khi làm như thế, nhưng con vẫn có thể làm như thế trong khuôn khổ một quyết định né tránh. Ý tưởng cốt lõi của con đường tu vỏ ngoài đã len lỏi vào rất nhiều nơi trên trái đất, ngay cả trong các giáo lý tâm linh. Ngay cả một số những vị đạo sư hay những vị thày nhiều kinh nghiệm cũng chưa thấy rõ cơ chế này. Con người và ngay cả các đạo sư thường có khuynh hướng quy định một con đường tu vỏ ngoài và nói rằng nếu con đi theo con đường vỏ ngoài này, thì sẽ có một ngày con thăng thiên, đạt giác ngộ, đạt được một trạng thái tâm thức cao hay gì gì đó. Con yêu dấu, con sẽ tiến bộ khi đi theo nhiều đường tu như thế nhưng con sẽ không tiến bộ trên con đường quả vị Ki-tô cho tới khi nào con bắt đầu lấy những quyết định Ki-tô trong đó con không tìm cách né tránh nỗi đau hay né tránh lấy những quyết định mà con cho là nguy hiểm.

13.6. Gia nhập con đường quả vị Ki-tô

Quả thực là điều con cần làm để tìm ra con đường quả vị Ki-tô và đi trên con đường quả vị Ki-tô là con tìm ra cách, trong tâm con, tách rời tiến trình lấy quyết định ra khỏi nỗi sợ đau đớn. Bài thiền tập mà thày vừa mới trao truyền cho con là một dụng cụ để làm việc đó, nhưng con cũng có thể làm một sự chuyển hóa tổng quát trong tâm mình để nhìn nhận rằng mục đích thật của cuộc sống trên trái đất không phải là sống theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài. Mục đích thực sự là con hiện thân và đi qua tiến trình mà các thày mô tả là tiến trình trầm mình và thức tỉnh. Trước tiên con trầm mình vào bát cung vật lý, đồng hóa mình với thân thể và với bát cung vật lý và sau đó con tự thức tỉnh.

Để con có thể thức tỉnh mình, con phải nhìn thấy được là không có nỗi đau nào, không có sự hổ thẹn nào, không có sự lên án nào đến từ phía các thày đối với bất cứ điều gì con đang làm, con đã làm, bất cứ điều gì con có thể làm trong thế giới vật chất. Bất cứ điều gì con làm trong cõi vật chất đều được làm với năng lượng của Mẹ. Bất cứ điều gì con làm trong cõi vật chất có thể được tẩy xóa đi, chắc chắn là như thế. Con không bao giờ có thể làm một điều gì trong cõi vật chất mà con không thể gỡ bỏ bằng cách lấy một quyết định sáng suốt hơn, tỉnh thức hơn. Con nhận ra rằng, con yêu dấu, dù con đã lấy một quyết định đưa con xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn và khiến con đồng hóa mình với cõi vật chất (hay với thân thể của con, với bốn thể phàm của con, với cỗ xe linh hồn của con, với tự ngã của con, với nỗi đau của con), thì đây cũng chỉ là một phần của tiến trình đắm chìm và thức tỉnh.

Do đó, mỗi quyết định mà con làm khiến con trầm mình sâu hơn vào thế giới vật chất đều có thể được chuyển hóa thành một quyết định thực sự xây dựng quả vị Ki-tô của con và như thế giúp con thức tỉnh mình. Nó còn có thể giúp con tới được điểm mà con có thể bắt đầu biểu hiện Sứ vụ Thiêng liêng của con, bắt đầu là cánh cửa mở cho Hiện Hiện diện TA LÀ của con, vì bây giờ con biết con không muốn biểu hiện điều gì. Bây giờ, con biết có cái gì đó cao hơn, con biết con có thể là hơn điều này. Một khi con đã đồng hóa mình với điều gì đó trong thế giới vật chất và sau đó con thức tỉnh mình thoát khỏi sự đồng hóa đó, thì con biết con sẽ không bao giờ bị mắc bẫy trong giới hạn đó nữa. Con đã trải qua nó một lần và con không cần trải qua nó một lần nữa. Con có cái biết này trong căn thể (causal body) của con, con có thể tìm lại cái biết đó và do đó con có thể tránh không làm như thế nữa.

13.7. Đi vào nỗi đau

Con cũng biết rằng, con yêu dấu, đã có một lúc con bị cuộc đời làm tổn thương trên trái đất này và nó khiến con đau đớn. Như các thày đã nói trước đây, lần đầu tiên chuyện này xảy ra, cú sốc lúc ấy là lớn nhất. Do đó, khi con nhìn lại quyết định cũ, nỗi đau không thể nào to lớn bằng lúc con cảm thấy nó lần đầu và lấy quyết định nguyên thủy. Nỗi đau sẽ không bao giờ đau nhiều bằng lần đầu ấy. Con có thể bị đau đớn khi con nhìn lại quyết định con đã lấy, mà trong tâm vỏ ngoài của con, con xem quyết định này là một sai lầm, nhưng nó chỉ là một nỗi đau tạm thời. Một khi con đi vào nỗi đau đó và gỡ bỏ quyết định, con sẽ thoát khỏi nỗi đau. Nếu con không đi vào nỗi đau và gỡ bỏ quyết định, con sẽ kéo lê nỗi đau này với con như con đã làm qua nhiều kiếp sống.

Con thấy chăng, một lần nữa, sa nhân muốn con rơi vào khuôn nếp đó và sau đó họ muốn giữ con bị mắc kẹt ở đó đời đời. Các chân sư thăng thiên muốn con bước ra khỏi sự đồng hóa mình với bất cứ điều gì trong cõi vật chất để con được tự do, không còn gánh nặng, không còn sợ hãi và một lần nữa con dám là dưới này những gì con là Trên kia. Làm sao con có thể là dưới này tất cả những gì con là Trên kia nếu con không dám lấy quyết định?

13.8. Có nhiều chọn lựa đúng

Con yêu dấu, đôi khi có một tâm thức trong các đệ tử chân sư thăng thiên muốn các thày hay một vị đạo sư bên ngoài nói cho con biết con phải làm gì. Con nghĩ rằng nếu có một thẩm quyền cao, một sinh thể tiến hóa cao, bảo con phải làm gì thì điều ấy không thể nào sai. Con quá sợ mình làm một lỗi lầm nên con muốn biết trước là con đang lấy một chọn lựa đúng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Con thấy chăng, con yêu dấu, nghĩ rằng trong một tình huống đặc thù chỉ có một chọn lựa đúng duy nhất là một ảo tưởng. Có rất rất nhiều tình huống trong cuộc sống có nhiều chọn lựa đúng. Đây chỉ là vấn đề con muốn lấy chọn lựa nào mà thôi. Con có thể có mười người và đặt họ vào một tình huống rất giống nhau. Họ có thể lấy mười chọn lựa khác nhau nhưng mỗi chọn lựa đều đúng cho mỗi người cho nên cả mười chọn lựa đều đúng vì chúng đều đưa tới sự tăng triển.

Nếu con nhìn một cách trung thực hoàn cảnh mà thày phải đối mặt như một đại diện của Mẹ Thiêng liêng, thì con có thể nói là thày thường nhắc đi nhắc lại một chuyện, nói về cùng một đề tài, nói cùng một chuyện bằng nhiều cách khác nhau. Tại sao thày làm như vậy chứ? Một phần vì thày biết thày không thể giúp tất cả mọi người với một cách diễn tả nào đó, và thày quả thực mong muốn tất cả các con được tự do. Thày tìm cách trao truyền cho các con nhiều điều qua nhiều cách diễn tả khác nhau để nó thu hút nhiều người khác nhau. Con cũng cần trung thực và nhận ra rằng đối với nhiều người trong các con, lý do thày phải nhắc đi nhắc lại là vì con không thực sự chú ý lần đầu tiên thày nói, hay lần thứ nhì thày nói, hay lần thứ ba hay lần thứ tư hay lần thứ năm. Trong một số trường hợp, con chưa sẵn sàng, nhưng trong một số trường hợp con đã sẵn sàng, nhưng con chỉ chưa muốn mà thôi.

Con yêu dấu, con sẽ tới một điểm trên con đường tu khi con cần nhìn nhận là lúc con thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì không phải tự ngã đã thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng của con. Đó là chính con, ở trong một trạng thái tâm thức rất tỉnh thức, đã thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng cùng với các vị thày tâm linh của con và Hiện diện TA LÀ của con. Lúc ấy con quyết định con muốn tăng triển như thế nào trong kiếp đầu thai sắp tới. Con quên mất điều này khi con đầu thai, nhưng ý nghĩa của Sứ vụ Thiêng liêng vẫn vận hành trong ba thể phàm cao của con. Có đôi lúc tâm vỏ ngoài của con không hòa điệu được với Sứ vụ. Do đó, sự thực là con có thể đã sẵn sàng lấy một quyết định nào đó (vì con đã làm xong việc thanh tẩy ba thể phàm cao của con), nhưng tâm vỏ ngoài của con chưa bắt kịp. Tâm vỏ ngoài của con chưa sẵn sàng, tâm vỏ ngoài của con chưa muốn thấy là có nhu cầu lấy quyết định đó.

13.9. Tuôn chảy với Dòng sông sự Sống

Nếu con cảm thấy đã nghe thấy điều này trước đây rồi, thì con hãy xem xét vì sao con đã nghe nó rồi nhưng con chưa thực sự nghe thấy nó? Tại sao con chưa hành động, tại sao con chưa có thể hay chưa muốn lấy quyết định với tâm ý thức của con để bước ra khỏi sự hạn chế liên quan tới việc lấy quyết định. Khi con làm thế, thì con tạo cho mình tự do để tuôn chảy với Dòng sông sự Sống, con cho phép mình lấy quyết định và giản dị xem kết quả là một kết quả sẽ giúp con điều chỉnh hướng đi khi con tuôn chảy theo Dòng sông sự Sống. 

Trôi theo Dòng sông sự Sống không đồng nghĩa với lấy quyết định nhảy vào dòng sông và sau đó dòng sông kéo con xuống hạ lưu. Lúc nào con cũng đang thay đổi hướng đi. Con lấy một quyết định, con thấy kết quả, con thay đổi hướng đi cho thích ứng để con tuôn chảy theo đúng hướng mà con muốn tới, và con tiếp tục làm như thế. Đó là lý do tại sao, con yêu dấu, một khi con đã chuyển hóa như thế, con thấy là không có quyết định nào sai. Không có quyết định nào có thể cản con tuôn chảy với Dòng sông sự Sống với điều kiện là con không cố gắng bơi ngược trở lại tới điểm trên dòng sông nơi con đã lấy quyết định trong quá khứ và nghĩ rằng con phải tháo gỡ điều gì ở nơi đó. Điều con phải tháo gỡ là những khuôn nếp năng lượng trong bốn thể phàm của con. Sau đó, con phải thay đổi quyết định và con không thể thay đổi quyết định trong quá khứ, con chỉ thay đổi được nó trong hiện tại. Để có thể thay đổi nó trong hiện tại, con phải nối kết lại với quyết định trong quá khứ. Điều này không có nghĩa là con trở về quá khứ, nhưng có nghĩa là con nhìn quyết định này với nhận biết cao mà con có bây giờ và con thay đổi nó, con lấy một quyết định mà con không thể làm được với sự nhận biết mà con có trong quá khứ.

Khi con làm điều này, con chỉ giản dị thay đổi hướng đi của con trong dòng sông mà không ngừng lại. Con tuôn chảy liên tục và sau khi con đã làm điều này một số lần, con nhận ra rằng không có điều gì có thể ngăn con trôi theo Dòng sông sự Sống, bất kể quyết định nào con đã lấy và bất kể lỗi lầm có vẻ to lớn dưới nhãn quan người khác hay của sa nhân. Con cho phép mình càng ngày càng giống một trẻ thơ dám biểu hiện chính mình, dám nhìn cuộc đời không như một gánh nặng đè lên mình, không giống như đi bộ trên một bãi mìn là nơi bước trật một bước có thể gây ra hậu quả khủng khiếp. Cuộc đời là một trò chơi và con có thể tiếp cận cuộc đời như một trẻ thơ đang vui chơi. Bây giờ Mẹ yêu cầu con một lần nữa hình dung con đang ngồi trong lòng Mẹ. Mẹ đang ôm con trong vòng tay. Mẹ đang nhìn con, nhìn sâu vào mắt con và Mẹ tỏa rạng tình thương vô điều kiện của Mẹ Thiêng liêng cho cá nhân con. Mẹ yêu cầu con ngẫm nghĩ xem con có sẵn lòng muốn nhận tình thương này, chấp nhận là con xứng đáng nhận nó? Sau đó, con có sẵn sàng cho phép niềm vui của trẻ thơ dâng lên tràn ngập trong trái tim con chăng, con có sẵn sàng biểu lộ niềm vui đó chăng để Mẹ có thể đặt con xuống. Thay vì con đứng đó, lo sợ không biết bước kế tiếp đi đâu, con hân hoan chạy bay ra ngoài cánh đồng tươi đẹp, nghe chim hót, nhìn hoa nở, chơi banh, vui chơi trong bất kỳ hoàn cảnh nào con đối mặt trong đời, nhìn mỗi quyết định như một thử nghiệm sẽ chỉ có thể giúp con lấy quyết định tốt hơn trong tương lai.

Thày đã nói những điều thày muốn nói ở điểm này. Có thể thày sẽ trở lại đề tài này trong tương lai vì thày thực sự biết đây là một trong những điểm khó lãnh hội nhất trên con đường tâm linh. Nếu các con, các con yêu dấu, muốn tạo tác dụng tối đa qua hội nghị này và chuyển hóa tâm thức tập thể của nước Nga, thì thày yêu cầu con ngẫm nghĩ đề tài này trong đời sống cá nhân của con và dám cho phép mình lấy quyết định và vui chơi với cuộc đời giống như một em bé ngây thơ biết rằng em không thể bao giờ mất đi tình thương của Mẹ.

Con có tình thương của thày khắp nơi con đi. Thày sẽ không bao giờ quay lưng lại con, dù con quay lưng lại thày. Bất cứ lúc nào con cũng có thể quay lại và ôm thày. Thày sẽ hỗ trợ con vì đây là quyết định Ki-tô của thày.

18 | Liệu pháp tâm linh để khắc phục nỗi giận

Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 7 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Thày tới đây để trao truyền cho các con một bài giảng sẽ bổ túc bài giảng của Sanat Kumara với một số khía cạnh. Nhiều người tâm linh khắp thế giới, nhiều tín đồ tôn giáo khắp thế giới, nhiều học trò chân sư thăng thiên khắp thế giới đã tạo ra một loại cơ cấu trong tâm lý kiềm giữ họ trên đường tu.

18.1. Không tránh được chuyện phản ứng với trái đất

Các thày đã nói nhiều lần là khi con xuống đầu thai trên một hành tinh giống như trái đất, không tránh được chuyện con sẽ bị lôi cuốn vào một khuôn nếp phản ứng. Con yêu dấu, cũng không tránh được chuyện con sẽ có những cảm xúc khi con gặp một số hoàn cảnh mà con không né tránh được trên trái đất, như bạo lực, chiến tranh và nhiều hình thái khác của đấu tranh và hà hiếp.

Giản dị là con hầu như không thể tránh nổi giận hay oán trách những gì con trải nghiệm trên hành tinh này. Con có thể có nhận biết rất vi tế, rất trực nhận, mà con thường không hình thành ra lời, một nhận biết cuộc sống phải như thế nào. Điều này dựa trên ý niệm của con về cuộc sống trên một hành tinh tự nhiên. Trên một hành tinh tự nhiên, nổi giận và oán trách là những cảm xúc không tự nhiên. Trên một hành tinh không tự nhiên như trái đất, nói một cách khá thẳng thắn thì nổi giận và oán trách là “tự nhiên.” Làm sao con có thể hiện thân trên một hành tinh như thế này mà không cảm thấy phần nào nổi giận hay oán trách những chuyện đang xảy ra ở đây?

Tuy nhiên, dựa trên ý niệm vi tế của một số trong các con đã tới đây với sứ vụ giải cứu (ý niệm là cuộc sống phải như thế nào trên một hành tinh tự nhiên), con thường có ý niệm là con không được nổi giận hay oán trách. Các sa nhân đã khôn khéo củng cố ý niệm này trong nhiều phong trào tôn giáo và tâm linh. Nhiều người tâm linh, kể cả nhiều đệ tử chân sư thăng thiên, có ý niệm là một người tâm linh, một đệ tử chân sư thăng thiên không bao giờ được nổi giận hay oán trách. Con yêu dấu, quyết định chấp nhận với tâm lý trí của mình ý tưởng là người đệ tử chân sư thăng thiên không được nổi giận sẽ không giải quyết được nỗi giận đã có trong thể tình cảm của con và đã tồn đọng ở đó trong nhiều kiếp sống.

Do đó thày tới đây để trao cho con một dụng cụ và một số giáo lý giúp con giải quyết vấn đề này. Trước tiên, con cần nhận ra con tới đây, con yêu dấu, để trầm mình vào tâm thức của trái đất này. Nếu chính con không trầm mình thì làm sao con làm gương cho những người đã sống sẵn trên hành tinh này, làm sao con có thể kéo họ lên khỏi tâm thức tập thể? Con thấy chăng, con yêu dấu, là những dòng sống đã ở đây lâu hơn con nhiều coi nóng giận và oán trách là điều quá tự nhiên và không thể tránh đến độ họ không thấy được trạng thái nào khác? Để con có thể phụng sự như một tấm gương, con cần phải đi vào một khuôn nếp phản ứng, con cần phải cảm thấy nóng giận và oán trách và sau đó con cần vượt lên trên chúng. Lúc ấy, con phụng sự như một tấm gương. Con không thể giúp những người này nếu con không trải nghiệm những gì họ trải nghiệm.

18.2. Kéo tâm thức tập thể lên cao

Giờ đây, con yêu dấu, các thày đã nói nhiều, nhiều lần về chuyện kéo tâm thức tập thể lên cao hơn. Làm sao con làm được điều này? Ấy, con chỉ làm được nếu con là một phần của tâm thức tập thể. Điều này hoàn toàn hợp lý phải không? Trừ khi con đi vào và trầm mình trong tâm thức tập thể, phản ứng như mọi người trên trái đất phản ứng, con không tạo được mối dây thắt chặt mình với tâm thức tập thể để có thể kéo nó lên cao một khi con bắt đầu giai đoạn tỉnh thức và bắt đầu nâng mình lên khỏi tầng tập thể.

Nếu con chưa bao giờ nối kết với tâm thức tập thể, nếu con chưa bao giờ là một phần của nó, con sẽ chỉ là người khách lạ trên trái đất. Có thể là con đã tới đây, có thể là con tránh không đi vào khuôn nếp phản ứng, có thể con mãi mãi giữ mình thanh khiết, và có thể là con nâng tâm thức của con lên tới tầng thăng thiên, nhưng làm sao cuộc sống của con thành một tấm gương được, làm sao cuộc sống của con có thể nâng tâm thức tập thể lên được?

Con thấy chăng, đây chính là điều họ đã làm đối với Giê-su và một phần lớn đối với thày, họ đã mô tả hai thày là những người rất đặc biệt ngay từ khi sinh ra, đến độ hai thày không bao giờ thật sự là một phần của tâm thức tập thể. Như thế, họ đã tìm cách bác bỏ việc hai thày là tấm gương, nhưng họ còn tìm cách lan truyền ảo tưởng là hai thày không thể nào kéo tâm thức tập thể lên cao vì hai thày chưa bao giờ là một phần của nó. Ấy, hai thày thực sự một phần của tâm thức tập thể, con yêu dấu. Hai thày đã đi vào nhị nguyên, hai thày đã phản ứng, hai thày đã ở trong một trạng thái tâm thức thấp trong nhiều kiếp sống. Sau đó, hai thày tỉnh thức chính mình và hai thày nâng mình lên các tầng cao hơn và đó là lý do tại sao hai thày đã có thể kéo tâm thức tập thể lên cao.

18.3. Dòng chảy năng lượng trong bốn thể phàm của con

Bây giờ, có thể nói điều bí mật mà thày muốn trao cho con ở đây là một số các con (đặc biệt là khi con đạt tới các tầng cao hơn và con hòa điệu được nhiều hơn, có nhiều trải nghiệm trực giác hơn) có một ý niệm (và có thể là con chưa bao giờ hình thành nó ra lời nhưng nhiều người trong các con vẫn có ý niệm đó) là trên một hành tinh tự nhiên có dòng chảy tự nhiên của năng lượng xuyên qua bốn thể phàm của con. Nói cách khác, năng lượng từ Hiện diện TA LÀ của con tuôn vào thể bản sắc, rồi vào thể lý trí, rồi vào thể tình cảm và sau đó đi tới thể vật lý.

Con yêu dấu, trên một hành tinh tự nhiên con không bao giờ trải nghiệm dòng chảy ngược lại, con không bao giờ trải nghiệm có điều gì đó ảnh hưởng con ở tầng vật lý từ đó tạo ra một đáp ứng hay phản ứng nơi thể tình cảm, rồi phản ứng này ảnh hưởng tư tưởng của con và ngay cả ý niệm bản sắc của con. Nhiều người trong các con có ý niệm là con phải có dòng chảy từ trên xuống dưới và điều này có nghĩa là con phải làm chủ bốn thể phàm của mình. Thể bản sắc phải làm chủ thể lý trí, thể lý trí phải làm chủ thể tình cảm và thể tình cảm phải làm chủ hành động của con.

Lẽ dĩ nhiên, khi con tới trái đất, sa nhân đã rất thiện nghệ trong chuyện bắt con phải chịu chấn thương nguyên thủy đó, cú sốc nguyên thủy đó, khốc liệt đến độ, gây sốc đến độ con không sao tránh khỏi chuyện có phản ứng cảm xúc. Phản ứng cảm xúc mạnh đến độ nó đi lên thể lý trí, ảnh hưởng những niềm tin của con về cuộc sống trên hành tinh này. Thậm chí nó đi vào thể bản sắc của con và ảnh hưởng tầm nhìn của con về quan hệ giữa con với hành tinh này, điều gì con có thể làm và không thể làm trên hành tinh này, điều gì con được phép làm và không được phép làm trên hành tinh này. Điều con trải nghiệm sau chấn thương nguyên thủy là một dòng chảy ngược chiều qua bốn thể phàm của con. Tầng vật lý bắt đầu ảnh hưởng cảm xúc của con, cảm xúc ảnh hưởng suy nghĩ của con, suy nghĩ ảnh hưởng ý niệm bản sắc của con – thay vì theo hướng ngược lại.

18.4. Đè nén nỗi giận

Khi con tìm thấy con đường tâm linh, con yêu dấu, con thường tới điểm mà (dựa trên những giáo lý vỏ ngoài hay trực giác của con hay cả hai thứ gom lại) con có cảm nhận là con phải làm chủ bốn thể phàm của con. Do đó, con phải có thể quyết định: “Một đệ tử chân sư thăng thiên lý tưởng là một người không bao giờ nổi giận và do đó tôi không bao giờ được nổi giận.” Sau đó, khi con thấy thể tình cảm của con phản ứng không đúng ý con, con không biết phải làm gì. Rất nhiều tín đồ tôn giáo, hay người tâm linh và đệ tử chân sư thăng thiên, đã tạo ra một lập trình trong thể lý trí được thiết kế để đè nén những cảm xúc mà họ dán nhãn là “không muốn có.”

Bây giờ thì con có, như chúng ta đã đề cập tới trước đây, một lập trình phản ứng nào đó trong thể tình cảm khiến con phản ứng với sự giận dữ trong một số tình huống. Nhưng vì con quá sức muốn là một đệ tử chân sư thăng thiên tốt, con không dám nhìn nhận điều đang xảy ra. Ngay lập tức, con tìm cách khởi động lập trình trong thể lý trí, ngay cả đôi khi một lập trình trong thể bản sắc, để đè nén cảm xúc nóng giận. Điều này có nghĩa là có một số người làm vậy giỏi đến độ họ còn không nhận ra được một cách ý thức là họ cảm thấy nóng giận khi nó xảy ra.

Lẽ dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là nỗi giận không hiện hữu trong thể tình cảm. Có nhiều người (và con có thể tìm thấy những người đó trong tất cả các phong trào tôn giáo, tất cả các phong trào tâm linh và trong tất cả các phong trào chân sư thăng thiên) trên bề mặt trông có vẻ hoàn toàn tự chủ và rất hài hòa. Họ thường nói với giọng điềm đạm, chậm rãi, có thể là một cách hơi kẻ cả như họ đang nói với trẻ con. Con có thể cảm thấy được (nếu con hòa điệu với họ) là bên dưới họ có sự căng thẳng. Trong trường hợp một số những người này, nếu con thấy được hào quang của họ, con sẽ thấy giống như một núi lửa đang phun ra trong thể tình cảm của họ và chất macma nóng bỏng là năng lượng giận dữ của họ lúc nào cũng chực tuôn tràn ra khỏi bờ của miệng núi lửa.

Một cách nào đó, họ kiềm giữ được cơn giận trong hầu hết tình huống, nhưng trong một số hoàn cảnh họ không kiềm giữ được và cơn giận có thể trào ra và họ có thể biểu lộ cơn giận đó với những người mà họ xem là dưới họ theo thứ bậc mà họ đã thiết lập. Hoặc là họ có thể tới điểm họ cảm thấy quá giận vị đạo sư, vì vị đạo sư bỏ họ đi (như đã xảy ra trong một tổ chức trước mà con biết) nên họ công khai biểu lộ cơn giận.

Bây giờ thày muốn con nhận ra (vì con đang trở thành người đệ tử chân sư thăng thiên trưởng thành hơn) là con không khắc phục được nỗi giận bằng cách đè nén nó. Con không khắc phục được bất cứ điều gì bằng cách đè nén nó. Con cần nhận ra có một thời điểm (một lần nữa một giai đoạn trên đường tu) khi đè nén nỗi giận là điều xây dựng vì nó ngăn cản con không liên tục rơi vào các khuôn nếp phản ứng cứ càng ngày càng tạo thêm năng lượng giận dữ, hay càng ngày càng củng cố thêm khuôn nếp cho phép mình phản ứng một cách giận dữ.

Trong một thời gian, đè nén cơn giận với một lập trình trong thể lý trí của con là điều cần thiết và xây dựng. Nhưng cũng sẽ tới một điểm mà nó không còn xây dựng nữa. Nếu con không thay đổi, con sẽ đi vào chỗ bế tắc vì con không thể giải thoát mình khỏi năng lượng tình cảm. Con đang kéo lê nó theo con. Ngày nào con còn giận dữ, thì con không thể đi vào tâm trạng mà các thày đã đề cập: chấp nhận con ở đây, bình an với chuyện con ở đây, cảm thấy thoải mái là con ở đây.

18.5. Một bài tập để vượt lên trên nỗi giận

Con cần tới điểm nhận ra con đã đầu thai trên một hành tinh cực kỳ khó khăn. Nó rất không tự nhiên, nhưng chính vì nó quá sức không tự nhiên, nên điều “tự nhiên” là con cảm thấy một nỗi giận và oán trách nào đó về chuyện con ở đây, chuyện con phải trải nghiệm những gì con đã trải nghiệm và không từ bỏ được nơi này khi con đã cảm thấy quá chán ngán. Như Sanat Kumara đã nói, con phải chịu quy luật ở đây và con phải bước trên con đường tu ở đây.

Thày cần con làm bài tập nhỏ này nếu con muốn vượt qua trở ngại này. Thày cần con nhận ra là con cần khám phá xem con có còn chất chứa nỗi giận hay oán trách nào trong thể tình cảm của con không. Để biết được điều này, thày đề nghị con làm bài tập sau đây.

Con đi tới chỗ nào con biết không ai nghe được con. Nếu không phải là trong nhà của con thì con cứ đi nơi khác: vào trong thiên nhiên, hay lái xe đi tới chỗ nào đó nếu con có xe. Con hãy tìm một chỗ mà không ai nghe được con, dù con hét to tới đâu chăng nữa. Sau đó, thày muốn con hòa điệu vào tâm mình và tưởng tượng con đang nhìn hành tinh này từ ngoài không gian. Sau đó, thày muốn con cho phép tâm mình đi vào một trong những biểu hiện xốn xang nhất mà con thấy được trên hành tinh này. Điều gì làm cho con xốn xang nhất, làm cho con thật sự cảm thấy nó không được có mặt ở đây? Sau đó, thày muốn con nhận ra là vì con có cảm xúc mạnh mẽ về vấn đề này, nên rất có thể con đã trải nghiệm nó trong nhiều kiếp sống và con không thể tránh cảm thấy giận dữ.

Bây giờ thày muốn con tưởng tượng con đang nói chuyện thẳng với sa nhân hay những người hiện thân đã thị hiện vấn đề này. Sau đó thày muốn con cảm thấy được tự do nói bất cứ điều gì con muốn nói với họ và nói với họ bất cứ cảm xúc nào mà con có: giận dữ, oán trách, sợ hãi – bất cứ cảm xúc nào hiện lên trong con khi con nghĩ tới vấn đề này. Thày không quan tâm là con hét to bao nhiêu, thày không quan tâm con cần biểu lộ bao nhiêu ý tưởng và tình cảm. Thày cho con tự do để biểu lộ chúng vì thày muốn con hòa điệu vào cái gì đang ẩn náu trong thể tình cảm của con. Thày không nhất thiết bảo con làm điều này trong suốt mấy giờ đồng hồ. Đây không phải là liệu pháp gào thét ban sơ (primal scream therapy), nhưng mục đích là để con chạm vào điều mà con chưa thấy ra hay chưa thấy rõ trong thể tình cảm của con.

Một khi con đã nhìn nhận nỗi giận này, thì con cũng cần nhìn nhận là con đã tiến lên một tầng nào đó trên con đường tâm linh. Do đó, con có thể chuyển đổi tâm thức và thấy đây là một phản ứng hoàn toàn tự nhiên, con yêu dấu. Không có gì sai trái với nó, không có gì không tâm linh về nó. Không ai trong chúng ta có thể hiện thân trên trái đất mà không phản ứng một cách giận dữ, thày cũng thế – không phải ở trong kiếp cuối cùng của thày như là Phật, nhưng chắc chắn thày có nổi giận trong các kiếp trước đó. Con hãy nhìn Giê-su biểu lộ sự giận dữ đối với những người đổi tiền.

Con nhận ra là con đã tiến lên một tầng cao hơn trên con đường tu. Do đó, con không cần lên án mình vì con nổi giận hay vì bất cứ cảm xúc nào khác. Con chỉ cần nhận ra con có cảm xúc đó và bây giờ đã tới lúc con vượt lên trên nó.

Con có thể dùng những dụng cụ mà các thày đã trao cho các con, các bài chú để cầu thỉnh ánh sáng, con có thể dùng các bài thỉnh các thày đã trao cho các con. Trước tiên hết, thày muốn con đọc các bài chú bảo vệ mình, đọc bài thỉnh nào con cảm thấy muốn đọc, và khi con về nhà thì con hãy tìm một nơi con có thể ngồi yên lặng và con hãy dành thời gian yên tĩnh cho mình. Sau đó, một lần nữa con hãy tiếp xúc với nỗi giận của con và làm một điều mà nhiều người trong các con chưa từng làm trước đây.

Con thấy chăng, nhiều người tâm linh dựng lên một bộ mặt họ phải như thế nào ở bên ngoài. Do đó, họ không thấy được những gì ẩn náu dưới cái biết bề mặt. Một số người còn nghĩ rằng các chân sư thăng thiên không thấy nó, nhưng lẽ dĩ nhiên, đây là một niềm tin khá ngây ngô. Con cần tới điểm nhận ra rằng các thày đã thấy những gì ẩn náu trong tiềm thức của con. Con không cần hổ thẹn khi chính con nhìn thấy nó vì con nghĩ rằng nếu con thấy nó, thì bỗng nhiên các thày thấy nó và sau đó các thày sẽ lên án con.

Đối với các thày, bí mật đã lộ ra rồi. Con không thể giấu các thày bất cứ điều gì, con yêu dấu. Như Saint Germain đã nói về xã hội giám sát, con hãy tới điểm mà con giản dị chấp nhận: “Tôi không có nhu cầu che giấu bất cứ điều gì với các chân sư thăng thiên và do đó tôi không có nhu cầu che giấu bất cứ điều gì với chính mình. Vì tôi biết các chân sư sẽ không lên án tôi, nên tôi không cần lên án chính mình. Cho nên bây giờ tôi có thể bước một bước mà hầu hết mọi người sợ không dám làm, đó là tôi nối kết với nỗi giận, và thay vì không muốn nhìn nó, trốn chạy xa khỏi nó, che lấp nó đi, thì tôi có thể nhìn nhận nó có mặt và tôi có thể đi thẳng vào trong nó.”

18.6. Đối mặt với nỗi giận của con

Con từng nghe câu nói là cách duy nhất để khắc phục nỗi sợ là đối mặt với nỗi sợ. Con không thể làm điều này ở các tầng thấp trên đường tu vì con có thể chìm đắm trong cơn giận, con có thể bị choáng ngợp bởi nó vì con có thể còn đồng hóa mình quá nhiều với nó. Các con nào ở tầng cao hơn, sẵn sàng đón nhận lời dạy này, thì các con có thể làm được.

Con có thể bước vào cơn giận và trải nghiệm đứng giữa vũng nước xoáy của cơn giận. Sau đó, con có thể nối kết một cách ý thức với điều mà các thày gọi là nhân tính cơ bản của con. Nó thật sự là sự liên tục của bản thể con, là phần của bản thể của con vượt lên trên mọi thứ trên trái đất và không thể bị quy định bởi bất cứ điều gì trên trái đất. Nhân tính cơ bản này đã giúp cho một số người trong các trại tập trung duy trì phần nào ý niệm nhân bản của họ giúp họ tồn tại về mặt tâm lý và ngay cả có một cuộc sống tích cực sau đó. Con có thể nhận ra là bên trên nỗi giận là nhân tính cơ bản của con. Nó không bị thay đổi bởi nỗi giận và do đó con có thể nhìn vào cơn giận và nhận ra: “Đây không phải là tôi. Nó còn không phải là nỗi giận của tôi, nó là phản ứng của tự ngã của tôi.” Một lần nữa, phản ứng của con là chuyện tự nhiên, nhưng bây giờ con thấy là con đã tiến lên một ý niệm bản sắc cao hơn trong đó con không cần phản ứng như vậy nữa. Con thật sự có thể “buông bỏ” nó.

18.7. Thiết lập dòng chảy năng lượng tự nhiên

Con yêu dấu, thày đã nói là trên hành tinh trái đất, dòng chảy năng lượng có thể đi ngược chiều qua bốn thể phàm. Sa nhân có thể ép con vào những tình huống vật chất tạo phản ứng tình cảm đi ngược lên tầng bản sắc. Những phản ứng này đã không ảnh hưởng cái Ta Biết của con. Khi con nối kết với nhân tính cơ bản, với nhận biết thuần khiết, với ý niệm bản sắc như cái chấm, thì con có thể giải hóa nó. Một khi con giải hóa nó, thì sự xâm nhập của sa nhân vào bốn thể phàm của con bị tan biến.

Họ không còn có thể ép con phản ứng ở tầng vật lý từ đó đi ngược lên ba thể cao. Con vẫn có thể gặp những cảnh huống hay vẫn có thể phải đối đầu với một số điều kiện ảnh hưởng người khác, nhưng con có thể né tránh dòng chảy năng lượng đi ngược lên (khi con chứng kiến chuyện xảy ra trên trái đất hay trải nghiệm nó), dòng chảy này đi lên thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Thay vào đó, con có thể tái lập dòng chảy tự nhiên qua đó con làm chủ thể bản sắc, con làm chủ thể lý trí, con làm chủ thể tình cảm.

Bất kể điều gì xảy ra ở tầng vật lý, con có thể quyết định một cách ý thức sẽ phản ứng ra sao. Đây là quả vị Phật, đây cũng là những tầng cao của quả vị Ki-tô. Ở các tầng thấp của quả vị Ki-tô, con chưa làm được chuyện này. Khi con lên cao hơn, con cần tới điểm con sẵn sàng nhìn nhận những cảm xúc con có và con sẵn sàng xem xét với tâm trung hòa bất cứ cảm xúc nào trong thể tình cảm. Sau đó con cần khắc phục chúng và bỏ chúng lại đằng sau vì chỉ lúc đó con mới tránh không bị dòng năng lượng chảy ngược. Con có thể tái lập lại dòng chảy năng lượng tự nhiên cho phép con chọn một cách ý thức phản ứng của mình trước bất cứ điều kiện hay hoàn cảnh vật lý nào. 

Điều này có nghĩa là con có thể một cách ý thức chọn phản ứng với tình thương, ngay cả trong những hoàn cảnh mà hầu hết mọi người khác phản ứng với sợ hãi. Đây là cách con hoàn thành mục tiêu cao nhất của con khi con xuống đây, đây là cách con làm gương, đây là cách con kéo tâm thức tập thể lên. Dù con đã kéo mình lên khỏi tâm thức tập thể, con vẫn còn một cảm nhận nào đó, một ký ức nào đó, một sự kết nối nào đó với nó. Đây không phải là loại kết nối áp đảo con mà là loại kết nối cho phép con kéo tâm thức tập thể lên. Có thể nói, con là sợi thớ trong tấm thảm và khi con kéo mình lên, con kéo toàn thể tấm thảm lên theo.

Con yêu dấu, đây là tầm nhìn cao của việc áp dụng giáo lý của Sanat Kumara và của các thày khác để con tới được điểm con biết tại sao con ở đây và con biết con đang hoàn thành lý do vì sao con ở đây. Con bình an với chuyện con ở đây, con chấp nhận con đang đầu thai trên hành tinh này ở thời điểm này. Do đó, con cảm thấy thoải mái với chính mình nhưng hơn thế nữa, con cảm điều mà Phật cảm về Phật. Cảm nhận này vượt lên trên ngôn từ, vượt lên trên an bình, vượt lên trên sự tốt lành, vượt lên trên tình thương. Đây là một cảm nhận không cần mô tả thành lời, nhưng con có thể có cảm nhận này. Khi con có nó, con sẽ hiểu tại sao nó vượt lên trên ngôn từ.

Con yêu dấu, thày cũng gửi lòng biết ơn tới rất đông các con đã tới dự hội nghị này và sẵn sàng nâng cao tâm thức mình. Do đó, thày như là một vị Phật mà thày là, được hân hạnh và hân hoan niêm tất cả các con, từng cá nhân các con một, và thày niêm hội nghị này trong trái tim và sự an bình của Phật mà thày là. TA LÀ Gautama.

Lối hành xử tâm linh của con

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 4 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiêng Giê-su Ki-tô, và thày muốn bắt đầu bằng một lời thú nhận. Các thày, những chân sư thăng thiên có phần nào giống như những người bán xe cũ dùng một kỹ thuật bán hàng gọi là “dụ và chuyển”. Cách họ làm là trưng một tấm bảng lớn trong bãi đậu xe quảng cáo một kiểu xe đang bán rất rẻ, và sau đó, khi khách hàng tới hỏi thì họ nói: “Thật không may là chúng tôi đã bán chiếc xe cuối rồi, nhưng chúng tôi có một xe kiểu khác mà chúng tôi có thể bán cho quý vị với giá tốt.” Các thày có đôi phần phải làm như vậy, và thày muốn giải thích vì sao lại như vậy.

11.1. Vì sao ngày nay quá ít tín đồ Ki-tô giáo nghe lời Giê-su giảng

Bây giờ thì con có thể đặt một câu hỏi giản dị. Ở đây có một nhóm người không những tin thày là Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô đang nói qua trung gian một người sứ giả, nhưng các con còn trải nghiệm trong tim mình bằng chứng sống của sự việc đó. Vì sao lại không có hàng ngàn hay hàng triệu người tự coi là tín đồ Cơ đốc giáo chịu nghe Giáo lý Hằng sống của thày? Lý do là vì họ đã tạo nên nhiều hình ảnh, chờ đợi, điều kiện trong tâm khiến họ phải vượt lên trên các điều này để có thể chấp nhận là: 1) thày vẫn đang hiện hữu trên một cõi cao; 2) thày sẵn sàng nói chuyện với nhân loại; và 3) thày đang nói chuyện với nhân loại. Tuy nhiên, họ không chịu buông bỏ các điều kiện đó, và điều này có nghĩa là chúng tạo nên một phin lọc. Nếu thày muốn nói chuyện với họ, thì thày phải tuân theo các điều kiện này thì họ mới chấp nhận điều thày nói, và ngay cả là thày đang nói điều gì đó.

Lẽ tự nhiên, thày hoàn toàn không thể tuân theo các điều kiện của người Công giáo, Cơ đốc giáo cực truyền thống hay Lutheran mà vẫn nói được điều gì mới. Họ quá chú tâm vào quá khứ, vào điều mà họ tin là đã được nói trong quá khứ, vào những gì giáo hội của họ đã diễn giải suốt nhiều thế kỷ. Có quá nhiều lớp vỏ diễn giải, hay phải nói là bóp méo, những lời giảng và giáo lý nguyên thủy của thày nên đa số tín đồ Cơ đốc giáo đã bị mắc kẹt trong đó, và họ cho rằng nếu thày không làm theo những điều kiện mà giáo hội của họ đã quy định, thì thày không thể là Giê-su thật. Nếu thày phải tuân theo tất cả các điều kiện này, thì thày sẽ nói gì? Không một lời nào cả, con yêu dấu, vì họ không muốn và không cần thày nói bất cứ điều gì. Họ thỏa mãn với những diễn giải mà họ có. Con thấy chăng, đây là tình trạng khó xử căn bản mà các thày đối mặt trên trái đất.

Làm sao các thày, là chân sư thăng thiên, có thể giúp những người chưa thăng thiên? Nếu trình độ tâm thức hiện nay của con đủ để con vào thiên đàng, vào cõi tâm linh, thì các thày không cần làm gì cả. Nếu trình độ tâm thức hiện nay của con đã đủ để con vào thiêng đàng, thì tại sao con lại chưa ở trong thiêng đàng?

Sự kiện đơn giản là trình độ tâm thức hiện nay của con chưa đủ. Nếu các thày có thể giúp con thì các thày phải cho con một điều gì vượt quá hộp tư duy hiện tại của con, phin lọc hiện tại của con. Nếu con dùng phin lọc hiện tại của mình để bác bỏ bất cứ điều gì vượt quá phin lọc, thì các thày bị kẹt cứng. Các thày phải tuân thủ Luật Tự quyết. Các thày không thể ép buộc con.

Điều này thật sự có nghĩa là khi các thày tìm cách giúp nhân loại – và lẽ dĩ nhiên các thày tìm cách giúp tất cả mọi người bằng cách này hay cách khác – thì các thày cần nhìn vào một nhóm người và xem xét trình độ tâm thức của họ. Các thày cần xem xét hình ảnh mà họ có về thế gian, quan điểm của họ về thế gian. Các thày cần xem xét những chờ mong của họ và các thày không tìm cách trao cho họ chân lý cao nhất hay tối hậu. Các thày chỉ giản dị xem bước kế tiếp của họ là gì. Bước kế tiếp trong tiến trình tiến hóa của họ là gì, và các thày có thể làm gì để giúp họ nhảy vọt lên tầng kế tiếp?

Rất có thể là có 143 tầng tâm thức trên tầng tâm thức hiện tại của họ. Điều này không giúp ích gì cho họ vì họ không thể nhảy vọt từ tầng thứ nhất lên tầng thứ 144 – họ phải nhảy từ tầng thứ nhất lên tầng thứ hai, hay là từ tầng 48 lên tầng 49. Các thày phải để ý chuyện này, và đây là lý do vì sao thày so sánh với chiến thuật dụ và chuyển.

Các con hiểu rằng để bất cứ ai có thể làm điều gì mới, điều gì khác, để bất cứ ai có thể chấp nhận một giáo lý nào đó – về phương diện tâm linh, thần bí hay bất cứ gì khác – thì họ cần một động lực thúc đẩy. Động lực đó tùy thuộc trình độ tâm thức hiên tại của họ, cách họ nhìn thế giới, những gì họ chờ mong lúc đó. Điều gì thúc đẩy con người? Họ muốn được điều gì mà họ đang không hiện có? Các thày có thể dùng điều này để cho họ một ý tưởng, một giáo lý, có thể giúp họ đi bước kế tiếp chăng? Đây là điều mà các thày phải làm với tất cả mọi người, con yêu dấu.

Như Đức Khrisna có nói hôm qua, có những người chỉ sẵn sàng sùng kính, đi theo con đường sùng kính, do đó thày Krishna không tìm cách dạy họ một giáo lý mà họ không thể hiểu. Thày chỉ giản dị phản ánh lại sự sùng kính mà họ hướng tới thày, và trên đường dài điều này sẽ giúp họ tiến lên tầng kế tiếp. Sau đó, trong một kiếp tương lai nào đó, họ sẽ có thể hiểu một giáo lý cao hơn, nhưng các thày không tìm cách cho mỗi người hơn những gì mà các thày lượng định họ có thể tiếp nhận.

11.2. Đối phó với nghi ngờ trên con đường quả vị Ki-tô

Lý do vì sao thày nói với các con những chuyện này là vì con là đệ tử chân sư thăng thiên, và chúng sẽ giúp con đi trên con đường của quả vị Ki-tô. Khi con đã đi trên con đường tu một thời gian, thì con đã tiến triển, con đã nâng tâm thức mình lên trên trình độ mà con có khi con tìm ra giáo lý và bắt dầu áp dụng nó. Con sẽ tới điểm con sẽ được lợi lạc nếu con bước lùi lại, nhìn vào chính mình, nhìn vào con đường tu của mình, và nói: “Điều gì đã thật sự thúc đẩy tôi đi vào và áp dụng giáo lý của các chân sư thăng thiên? Tôi đã mong muốn điều gì, tôi đã mong chờ điều gì, tôi chờ đợi điều gì khi tôi bắt đầu đi vào con đường tu?”

Nếu con làm chuyện này, thì tất cả các con sẽ khám phá là mình có một thúc đẩy nào đó, có một điều nào đó mà mình muốn đạt được khi đi vào con đường tâm linh. Khi con tìm ra giáo lý lần đầu, thì có lẽ động lực thúc đẩy con không phải là thăng thiên hay biểu hiện quả vị Ki-tô. Con có lẽ có một động lực nào khác – có thể là tìm hiểu biết, có thể là tìm chữa lành, có thể là tìm quyền năng đặc biệt, có thể là tìm sự sung túc, hay điều nào khác. Con người có đủ loại động lực khác nhau, và thày chắc chắn không chỉ trích, hạ thấp hay ngay cả lượng giá những động lực đó. Con phải bắt đầu ở điểm con ở lúc đó, và dùng động lực mà con có lúc đó để học và áp dụng giáo lý. Sau khi con đã làm như vậy một thời gian, thì con có thể bước lui lại, nhìn vào chính mình và nói: “Động lực nguyên thủy của tôi là gì, tôi chờ đợi chuyện gì sẽ xảy ra?” Sau đó, con có thể nói: “Dựa trên hiểu biết cao hơn mà tôi có ngày nay, hiểu biết cao hơn về con đường tâm linh, dựa trên sự kiện là tôi ngày nay đã lên một tầng tâm thức cao hơn (và lẽ dĩ nhiên con cần nhìn nhận là con đã lên một tầng tâm thức cao hơn), thì bây giờ tôi nghĩ gì về động lực đã thúc đẩy tôi? Nó có phải là động lực mà tôi có bây giờ, hay là tôi nay đã phát triển một động lực cao hơn vì bây giờ tôi thấy là con đường tu có nhiều sắc thái hơn những gì tôi có thể thấy khi tôi bắt đầu? Có một mục đích khác, một mục đích cao hơn mà tôi bây giờ có thể thấy, mà lúc đó tôi không thể thấy.”

Lý do vì sao chuyện này trở nên quan trọng là vì nếu con không xem xét động lực của mình thì đâu đó trong bốn thể phàm của con vẫn còn một phàm linh nội tại, một khuôn đúc, một động lượng mang động lực nguyên thủy, chờ mong nguyên thủy của con. Sau một thời gian, điều có thể xảy ra cho một số đệ tử là họ bắt đầu nhận ra là động lực nguyên thủy của họ không phải là động lực cao nhất. Chính thực là động lực đó không thực tiễn vì nó không dựa trên tính chất thực của con đường tâm linh. Trong một phần nào đó của bản thể người đệ tử, họ nhận ra là động lực và chờ mong nguyên thủy là một giấc mơ không thể nào thành tựu được. Vì họ chưa xem xét phàm linh đó (phàm linh đang giữ chặt sự chờ mong đó, chờ để nó được thực hiện) nên họ chưa giải quyết được nó và buông bỏ nó.

Sẽ có một phàm linh bắt đầu cảm thấy chán nản, thất vọng và bất toại nguyện vì nó bắt đầu nghi ngờ là chờ mong nguyên thủy có thể sẽ không bao giờ thành tựu. Nó có thể khởi lên đủ loại suy nghĩ và ngờ vực, và lẽ dĩ nhiên các tà lực có thể nhân đó phóng chiếu nghi ngờ vào tâm con: “Con đường tâm linh có dẫn tới thành công chăng? Điều này có thực sự đúng không? Con có thể thành công trên con đường tâm linh không, hay chỉ có người khác thành công thôi? Hay chỉ có một số rất nhỏ thành công thôi? Phải chăng là những người tu thành công rất đặc biệt và điều này không áp dụng cho tôi?” Tất cả những ý tưởng đó có thể khởi lên.

Tất cả các con có lẽ đều đã có một hình thức nào đó của những nghi ngờ này phóng chiếu vào tâm mình. Điều con có thể làm là xem xét động lực nguyên thủy, chờ mong nguyên thủy của mình. Sau đó, con có thể thấy: “Động lực đó, chờ mong đó có thiết thực hay chăng, dựa trên những điều mà bây giờ tôi thấy, bây giờ tôi hiểu, dựa trên những gì tôi đã trải nghiệm, dựa trên sự kiện tôi bây giờ đã thấy một mục đích mới, và do đó tôi thực sự đã có một chờ mong mới cao hơn?” Sau đó, con có thể nhìn vào phàm linh nguyên thủy và nhận ra là nó vẫn còn đó. Khi con xem xét động lực của riêng con, thì con có thể thấy là nó hoặc không thiết thực hoặc có lẽ ấu trĩ hay thiếu sót. Con có thể tới điểm giải quyết vấn đề khi con nhận ra: “Nhưng tôi không còn nhìn con đường tâm linh như vậy nữa. Tại sao tôi lại chờ đợi kết quả đó trên con đường tu khi tôi bây giờ biết rất nhiều hơn về con đường tu?” Sau đó, con có thể cho phép mình đi vào phàm linh và xua đuổi nó một cách có ý thức. Con có thể nói: “Bớ Satan, hãy đứng ra đằng sau ta.” hay giản dị hơn: “Tôi không còn cần bạn trong cuộc đời tôi nữa.” Lẽ dĩ nhiên con có thể đọc chú đọc thỉnh tới bất cứ vị chân sư nào để xin việc này, khi con nhận ra nó: Astrea, Đại thiên thần Michael, hay chính thày, hay bất cứ vị chân sư nào khác để tiêu trừ thực thể đằng sau nó. Con có thể kêu gọi các thày giúp con thấy phàm linh, thấy chờ mong mà con có lúc trước, và thấy các điều đó cho biết gì về cách con nhìn con đường tâm linh lúc đó.

11.3. Giảng dạy cho nhiều trình độ tâm thức khác nhau

Tại sao việc này lại quan trọng? Nó quan trọng cho chính con, vì lẽ đương nhiên, khi con có một phàm linh nội tại đang giữ chặt một động lực không còn ứng dụng cho con nữa, thì tâm con có sự chia rẽ và nó sẽ kéo con lại. Điều quan trọng khác là đa số các con, trước khi con đầu thai ở kiếp này, đã đạt tới một tầng của con đường tu nơi con không còn hoàn toàn lo giải quyết các vấn đề cá nhân của mình nữa, mà có khả năng và ý muốn đảm đương một số vấn đề của tập thể.

Nhiều người trong các con đã chọn đầu thai vào một môi trường để mang vào một chờ đợi về Thượng đế, tôn giáo, và tâm linh là một khuôn nếp trong tâm thức tập thể. Lẽ dĩ nhiên, có một phàm linh hay quái vật đằng sau khuôn nếp đó, nhưng con đã chọn mang nó vào để, khi con nâng mình lên khỏi nó và giải quyết tâm thức, niềm tin, chờ đợi, thì con sẽ giúp nâng tâm thức tập thể lên. Lẽ đương nhiên, chỉ khi nào con nâng được tâm thức của mình lên khỏi khuôn nếp, thì con mới nâng được tâm thức tập thể lên.

Con có thể tiến thêm một bước nữa và nhận ra vì sao thày đã ví các chân sư thăng thiên với những người bán xe cũ. Khi các thày trao truyền một giáo lý, thì các thày nhắm vào một nhóm người nào đó. Các thày xem xét tâm thức của họ đang ở tầng nào: “Họ sẵn sàng nhận giáo lý nào, họ chờ đợi những gì, động lực nào thúc đẩy họ?” Các thày biết là muốn thu hút những người đó vào giáo lý, thì các thày phải cho họ cái gì khế hợp với động lực mà họ có ngay lúc này ở tầng tâm thức hiện tại của họ. Các thày cũng biết đây không phải là hiểu biết tối hậu về con đường tâm linh và con đường dẫn tới thăng thiên.

Đó là lý do vì sao các thày biết là các thày cần dẫn đệ tử vào và dần dần trao cho họ giáo lý cao hơn để họ có thể thích nghi và gia tốc, xoay chuyển tâm thức và dần dần nâng động lực lên. Lúc đó, họ nhận ra rằng điều đã dẫn họ vào giáo lý là điều họ có thể tiếp nhận lúc đó, nhưng bây giờ thì họ đã sẵn sàng nhận một cái gì cao hơn nhiều nữa, vì bây giờ họ hiểu biết nhiều hơn nhiều về con đường tâm linh. Khi con giải tỏa chờ mong ban đầu, con không cảm thấy thất vọng, con không cảm thấy bị lừa gạt. Con thực sự nhận ra nhu cầu dùng một phương pháp như vậy trên một hành tinh như trái đất, và do đó con chỉ giản dị nói: “Các chân sư đang muốn trao truyền điều gì cho tôi lúc này? Tôi sẵn sàng đón nhận điều gì lúc này?”

11.4. Lối hành xử tâm lý của con

Con có thể tiến thêm bước nữa và nhận ra một điều khác. Trong hệ thống đối phó nạn phạm pháp tại nhiều quốc gia, tỷ dụ như tại Hoa Kỳ, cảnh sát tìm cách phân loại những kẻ phạm pháp dựa trên điều mà họ gọi là “lối hành xử” (modus operandi) của họ. Lý do là họ đã khám phá là phạm nhân là những con người hành xử theo thói quen, và khi họ đã phạm một tội ác, thì họ có khuynh hướng gây tội theo cùng một kiểu. Khi cảnh sát nghe tới một tội ác đã diễn ra theo một lối hành xử nào đó, thì họ thường biết phạm nhân nào có xác suất phạm tội đó. Họ có thể tìm xem người đó ở đâu vào lúc đó, và họ có thể bắt được can phạm dựa trên điều tra đó. Bây giờ, lẽ dĩ nhiên các con không là phạm nhân, con yêu dấu, nhưng tất cả mọi người đều có một cái mà ta có thể gọi là lối hành xử tâm lý.

Lẽ đương nhiên, các thày đã đề cập đến chuyện này khi các thày giảng về tự ngã, về các phàm linh nội tại, nhưng thày sẽ chỉ giản dị giảng dưới một góc độ khác. Điều mà thày muốn con làm là (không nhất thiết là làm ngay bây giờ và ở đây, nhưng một khi con về nhà và thấm nhập những điều con học được từ hội nghị này) là bước lui lại và xem xét: “Tôi liên hệ như thế nào với vũ trụ vật chất, với cõi vật chất? Lối hành xử của tôi ra sao khi tôi liên hệ với cõi vật chất? Tôi chờ đợi những gì? Tôi nghĩ chuyện gì có thể xảy ra và không thể xảy ra? Tôi nghĩ chuyện gì phải xảy ra và không được xảy ra?” Nếu con sẵn sàng làm bài tập này, và nếu con muốn thì cũng thỉnh thoảng xin các thày giúp, thì con có thể thấy là con có một lối hành xử nào đó khi con liên hệ với thế giới vật lý. Khi con gặp một số hoàn cảnh trong thế giới vật lý, thì dường như con bị kích hoạt để đi vào lối hành xử đó, khuôn nếp phản ứng đó.

Vị sứ giả này có cho biết là ông ít khi nổi cáu, nhưng ông lại nổi cáu mỗi khi ông làm chiếu khán vào nước Nga hay khi ông bị phạt vì đậu xe trái phép. Điều này cho thấy ông có một số chờ đợi chuyện gì phải xảy ra cho ông trong vũ trụ vật lý. Khi một chuyện tương tự xảy ra, thì thay vì nhìn vào hoàn cảnh giống như ông bình thường nhìn vào đa số các hoàn cảnh, thay vì giữ tâm không dính mắc, thì ông mặc nhiên đi vào một phản ứng xúc cảm đặc trưng cho rằng chuyện này không được xảy ra, chuyện này quả thật không đúng, và ông đáng lý phải được quyền đậu xe ngoài một cửa tiệm trong vòng 10 phút mà không bị phạt. Con yêu dấu, sự chờ đợi này có thể rất phải chăng nhưng thực tế là nó thật sự giới hạn mối liên hệ của con với cõi mẹ.

Con lấy một số điều kiện trong xã hội, các điều kiện này có thể do con người tạo ra hay do sa nhân gây nên, và con phóng chiếu (tạo ra) một chờ đợi dựa trên những điều kiện đó. Con phóng chiếu lên cõi mẹ là cõi mẹ là như vậy, và kết quả này lúc nào cũng xảy ra. Phóng chiếu này có hậu quả gì? Nó ngăn trở con làm theo lời dạy của Saint Germain vì con không chấp nhận là một cái gì cao hơn có thể xảy ra. Con thực sự trở nên cái mà các thày đã nói tới: một tiên đoán tự trở thành hiện thực. Điều con chờ đợi nơi cõi mẹ là điều con gửi tới tấm gương hoàn vũ, và như các thày đã nói nhiều lần, tấm gương làm được gì khác ngoài việc phản ánh lại con điều con gửi tới nó? Con thấy là nếu con muốn tránh những hoàn cảnh như vậy, thì con phải xem xét lối hành xử của mình. Con liên hệ với cõi vật chất như thế nào? Sau đó, con cần khám phá con chờ đợi chuyện gì phải xảy ra và chuyện gì không được xảy ra. Sau đó, con cần tự hỏi con có muốn mang theo những chờ mong này với con hay không, khi con biết rằng chúng sẽ trở nên những tiên đoán tự trở thành hiện thực.

Điểm cốt yếu là: Con đang sống trong một vũ trụ thân thiện hay một vũ trụ thù địch? Con đang sống trong một vũ trụ đang tìm cách hại con hay con đang sống trong một vũ trụ trong đó ít nhất có một số lực đang hết lòng hỗ trợ con, hỗ trợ sự tăng trưởng của con, hỗ trợ hạnh phúc của con, và giúp con cảm thấy thoải mái với chính mình? Nếu con nghe bài vị sứ giả này phát biểu rằng ông cảm thấy cuộc sống tuyệt vời và có một chờ đợi tích cực về tương lai, thì con thấy là ông thường tin rằng ông sống trong một vũ trụ thân thiện. Nhưng khi ông xin chiếu khán vào nước Nga, thì ông không nghĩ nhân viên lo chiếu khán của nước Nga thân thiện với ông hay hỗ trợ ông, và đó là lý do vì sao ông thể hiện sự trục trặc mà ông gặp phải. Thày không nói là nước Nga có thủ tục cấp chiếu khán hợp lý. Nó thật sự quá phức tạp và chỉ có tác dụng gây tổn thương cho chính nước Nga, nhưng đây không phải là vấn đề. Vấn đề là vị sứ giả này đã có phản ứng như vậy vì ông, ở một tầng nào đó của bản thể của ông, tin rằng nước Nga không phải là một nước thân thiện. Điều này phần nào liên hệ đến một biến cố bi thảm mà ông gặp trong một kiếp trước, nhưng tuy vậy nó cho thấy là con có những lối hành xử về những gì mình chờ đợi. Bây giờ, liên quan đến chuyện bị phạt vì đậu xe trái phép, thì ông không chờ đợi là cơ quan công quyền hay thư lại thân thiện với ông hay có mặt để hỗ trợ ông. Ông chờ đợi là liên hệ với cơ quan thư lại không thoải mái và các cơ quan này hay gây khó dễ cho người dân một cách không cần thiết. Con yêu dấu, con có thể nói điều này đúng. Nhưng câu hỏi mà ta phải đặt cho vị sứ gỉả này là: “Ông có muốn mang theo chờ đợi này suốt đời hay không, hay ông muốn bỏ chúng lại đằng sau?” Câu hỏi mà con nên đặt ra cho mình là: “Tôi có lối hành xử nào? Tôi chờ đợi gì nơi vũ trụ vật lý? Nó có thân thiện chăng? Nó có đang hỗ trợ tôi chăng, hay có gì đang tìm cách hại tôi?”

11.5. Ảnh hưởng của tà lực

Lẽ đương nhiên thày hiểu là khi thày nói như vậy thì có thể gây hoang mang cho các con, vì các thày đã giảng về tà lực, và chúng đang tìm cách hại con, con yêu dấu. Nhưng đây không phải là điều thày muốn nói; thày muốn nói là con phải biết phân biệt. Con nhận ra là có tà lực, con nhận ra là có những người không có thiện ý, nhưng điều thày muốn nói là cách con nhìn cõi mẹ, vũ trụ vật lý nói chung. Điều thày muốn nói là: con đừng lấy sự kiện có sa nhân trên hành tinh này, con đừng lấy tất cả những khuấy động mà họ đã tạo ra, con đừng phóng chiếu những việc này lên cõi mẹ và nói: “Cõi mẹ là như vậy đó.” Con đừng nói là cõi mẹ đối xử với con như sa nhân đối xử với con. Các thày đã nói trước đây: Các con đừng nhìn các thày như các con nhìn sa nhân. Các con đừng nghĩ các thày nhìn các con như sa nhân nhìn các con. Các con đừng nghĩ các thày suy nghĩ giống như sa nhân. Con hãy làm giống như vậy với cõi mẹ. Con đừng đặt lên cõi mẹ những chờ đợi mà con có dựa trên những gì sa nhân đã làm.

Lẽ dĩ nhiên sa nhân vẫn còn ở đây, lẽ dĩ nhiên có nhiều chuyện không phải đang xảy ra trên trái đất, và các thày muốn các con đọc chú đọc thỉnh về các vấn đề này. Thày ở đây chỉ nói đến liên hệ cá nhân của con với cõi mẹ, với vũ trụ vật lý. Con đang sống trong một vũ trụ thân thiện hay con nghĩ trái đất tăm tối quá và vũ trụ, cõi vật lý, là kẻ thù địch của con? Thày có thể bảo đảm với con là dù hành tinh này có tăm tối đến đâu thì cõi mẹ vẫn sẵn sàng hỗ trợ con và hỗ trợ sự tăng triển của con. Cõi mẹ chỉ có thể phản ánh lại con những gì con phóng chiếu ra ngoài. Nếu con muốn nhận được phản hồi khác, thì con phải thay đổi điều con phóng chiếu ra. Không có cách nào khác.

11.6. Cách con liên hệ với các chân sư

Bây giờ thì con có thể tiến thêm bước nữa và xem xét lối hành xử của con khi con liên hệ với các chân sư thăng thiên. Con có thể trở về lần đầu tiên khi con nghe đến giáo lý chân sư thăng thiên, và xem điều gì đã thúc đẩy con tìm hiểu giáo lý đó. Động lực này nói gì về cách con nhìn các thày, cách con thấy tiềm năng của việc liên hệ với các thày hay không liên hệ với các thày? Sau đó, con có thể khám phá là con có một số chờ đợi, một số quan niệm về các thày. Nhiều người trong các con sẽ khám phá là quan niệm của con về các thày dựa trên cách một số tôn giáo mô tả Thượng đế. Nhiều người trong các con có quan niệm về các chân sư thăng thiên dựa trên cách tín đồ Cơ đốc đã thần tượng hóa thày và đặt thày lên một bệ cao, quá tầm với của con, như là người con duy nhất của Thượng đế. Lẽ dĩ nhiên, với đa số các con đây không phải là sự chờ đợi của riêng con. Đây là một điều mà con đã tình nguyện mang vào để giúp nâng tâm thức tập thể lên, nhưng để có thể nâng tâm thức tập thể lên, thì con phải giải thoát tâm mình khỏi quan niệm đó. Con có thể vẫn còn một số chờ đợi, một số phàm linh nội tại, mà con chưa nhận ra và loại bỏ.

Điều này lại liên quan đến chiến thuật dụ và chuyển. Các thày biết con người chờ đợi những gì; các thày biết họ có thể nhìn các thày như thế nào. Khi các thày trao truyền một giáo lý chân sư thăng thiên, thì các thày phải thích nghi nó với những động lực và chờ đợi của con người, và do đó các thày tự bày tỏ mình một cách nào đó. Một số trong các con biết là trong thế kỷ vừa qua các thày đã bảo trợ một số tổ chức và trao truyền một số giáo lý, vậy nếu các con trở về tìm hiểu các giáo lý đó, thì các con sẽ thấy là lúc ban đầu các thày đã bày tỏ mình một cách nào đó. Cách các thày bày tỏ mình đã theo một tiến trình qua các phong trào và giáo lý. Điều mà các thày trao truyền ngày nay là một trình độ hiểu biết cao hơn, vì các thày muốn cho các con thấy là khoảng cách giữa các con và các thày nhỏ hơn điều mọi người thường nghĩ.

Trong một số tổ chức trong quá khứ, các đệ tử đã đặt các chân sư thăng thiên lên một bệ cao hơn họ rất nhiều. Lẽ đương nhiên, các thày hiểu nhu cầu của con người, các thày hiểu những chờ đợi của họ. Các thày hiểu là nhiều người muốn tiến tới gần cõi tâm linh nhưng không gần quá. Vì lẽ gì mà 1.3 tỷ tín đồ Cơ đốc không muốn nghe Giáo lý Hằng sống của thày mà chỉ muốn nghe đức Giáo hoàng? Ấy, đó là vì họ không thực sự muốn lại gần sinh thể tâm linh hằng sống mà thày là. Họ không muốn giáp mặt Bản thể của thày vì như vậy họ sẽ phải thay đổi. Các thày cũng biết là nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã tới một tầng tâm thức khiến họ sẵn sàng đón nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên. Họ muốn học giáo lý của các thày, họ muốn trải nghiệm các bài truyền đọc, nhưng họ không muốn các thày tới gần họ quá.

Dường như là các đệ tử đó muốn giữ một khoảng cách và họ nói: “Con muốn ngồi ở cuối lớp và học các thày từ xa xa.” Điều họ thực sự nói là: “Con muốn giữ một khoảng cách vì con không muốn thày tới và nhìn vào con. Con không muốn thày thấy con như con đang là ngay bây giờ. Thày hãy để con ngồi trong bóng tối để con có thể giả vờ là thày không thấy được con.” Đây là tất cả những gì họ sẵn sàng làm, và thày đang khôi hài, nhưng thày thật sự không hề muốn chê bai họ. Thày hiểu nhu cầu của họ; thày tôn trọng nhu cầu của họ. Thày cũng đang trao truyền một giáo lý cho những đệ tử đã sẵn sàng tiến lên cao hơn, đây là những người sẵn sàng nhìn vào lối hành xử của mình đối với các chân sư thăng thiên, cách họ liên hệ với các thày, điều họ chờ đợi và không chờ đợi, điều họ chờ đợi sẽ xảy ra và không xảy ra.

Nếu con xem xét chuyện này, thì con sẽ nhận ra là con thực sự đã có một hiểu biết cao hơn về con đường của quả vị Ki-tô. Do đó, động lực nguyên thủy của con, cách con nhìn các chân sư thăng thiên lúc ban đầu, nay là một gánh nặng mà con đang kéo lê theo mình. Nó không còn thích ứng với trình độ hiểu biết hiện tại của con. Nếu con thấy nó thì con có thể loại bỏ nó, và con không còn sự chia rẽ trong bản thể mình khi có điều gì kéo con về phía các thày và điều gì khác kéo con ra khỏi các thày. Sau đó, con tiến lên một bước nữa và liên hệ với các thày một cách mật thiết hơn.

Vị sứ giả này mô tả là ông đã theo học giáo lý chân sư thăng thiên và thực hành miên mật trong hơn 15 năm, và một ngày kia ông bỗng nhiên tới điểm nhìn hình ảnh các thày và nói: “Con muốn nhiều hơn nữa. Con muốn liên hệ mật thiết hơn với các thày. Con muốn tương tác trực tiếp với các thày.” Các con đều có tiềm năng lấy một quyết định tương tự. Thày không muốn con lấy quyết định đó với tâm vỏ ngoài, nhưng thày muốn con, với tâm vỏ ngoài, xem xét mình đang ở đâu trên con đường tu. Con sẵn sàng làm điều gì? Con có sẵn sàng tiến lên một tầng cao hơn chăng? Con có sẵng sàng tới gần hơn một chút và nói: “Giê-su, thày có thể thỉnh thoảng nhìn con. Thày có thể tới nói con một số điều, nhưng thày đừng nói nhiều quá, quá mức mà con có thể chịu đựng.” Thày bảo đảm với con là các thày sẽ đáp ứng nguyện vọng này, vì thật ra các thày làm gì khi các thày có đệ tử, có một liên hệ thày-trò với một đệ tử? Con đường tâm linh, con đường của quả vị Ki-tô là gì? Nó hoàn toàn là tiến trình đi vào hợp nhất.

11.7. Con Đường Hợp nhất

Rốt cuộc thì con đường tu là cái Ta Biết đi vào hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Như một bước chuyển tiếp, các thày cống hiến một con đường trên đó khi con có một giáo lý vỏ ngoài con có thể hiểu các thày dễ dàng hơn là con hiểu Hiện diện TA LÀ. Con đường thực sự của các chân sư thăng thiên là con nhập một với các thày, hay ít ra là với vị thày gần tim con nhất. Con thấy là khi con lần đầu tìm ra giáo lý, thì con có thể vẫn còn mang theo khuynh hướng thờ kính của Cơ đốc giáo muốn đặt vị thày lên một bệ cao. Do đó, con có thể đã nghĩ là để liên hệ được với một vị thày cao xa đó thì con phải tới được một trình độ toàn hảo nào đó. Con cảm thấy là con chưa đạt tới trình độ đó, và đó là lý do vì sao con chỉ muốn ngồi ở cuối lớp để vị thày không thể nhìn thấy con và con có thể lẩn trốn vì con sẽ cảm thấy điều gì đó – nhục nhã, tội lỗi, hổ thẹn, hay bất cứ cảm giác nào khác – khi vị thày thấy các bất toàn của mình. Lẽ đương nhiên các thày cho phép con làm như vậy, nhưng nhiều người trong các con đã tới điểm có thể xoay chuyển tâm thức. Con nhận ra là con không bị đau đớn khi các thày nhìn vào con và chỉ cho con thấy vài điều. Các thày luôn luôn chỉ làm vậy với mục đích giúp con tăng triển và được tự do hơn. Nếu con tự do hơn thì chuyện gì xảy ta? Con cảm thấy thoải mái hơn với chính mình.

Khi con còn ngồi ngoài xa xa và muốn giấu giếm điều gì với các thày, thì con cũng giấu giếm cái đó với chính con.Nếu con giấu giếm điều gì đó với chính mình thì con không thể khắc phục nó. Điều mà con giấu giếm sẽ khiến con cảm thấy không vui với chính mình một cách nào đó. Chỉ khi nào con nhìn vào nó và khắc phục nó thì con mới sẽ thoải mái với chính mình. Đây là điều giản dị, là lô-gíc giản dị.Thày biết rằng 99.999999 phần trăm con người trên trái đất không nghĩ điều này giản dị, nhưng nó thực sự giản dị, ít ra là khi con đã tới tầng tâm thức hiện tại của con. Con có thể tới điểm con nhìn lối hành xử của mình và con thấy là con vẫn còn mong muốn giữ khoảng cách với các chân sư. Con có thể nói với nó: “Tôi không cần bạn nữa. Tại sao bạn vẫn còn lẩn quẩn ở đây. Tránh xa ra!”

Sau đó, con có thể xoay chuyển và bắt đầu hỏi mình một câu đơn giản: “Tôi muốn theo loại chân sư nào? Một chân sự thân thiện hay một chân sư thù địch?” Lúc đó, con nhận ra là hình ảnh mà sa nhân đã phóng chiếu lên tâm thức tập thể từ mấy ngàn năm nay là Thượng đế là một Thượng đế thù địch. Do đó, bất cứ ai trên cõi tâm linh và là đại diện Thượng đế chắc chắn phải là một sinh thể thù địch. Ngay cả trong một số tổ chức chân sư thăng thiên quá khứ, con có quan niệm là, tỷ dụ, thày El Morya hay Serapis Bey là người trọng kỷ luật nghiêm khắc. Họ giống như các thày giáo cổ lỗ chỉ tìm cớ để phát mông học trò. Thày El Morya không cầm trong tay một cây gậy để đánh đệ tử. Thày chưa bao giờ làm vậy, và sẽ không bao giờ làm vậy.

Con thấy chăng, hình ảnh trong tâm thức tập thể của một người thày giáo thù địch chỉ chực kỷ luật con (hay phơi bày những tật xấu của con hay khiến con cảm thấy tội lỗi vì có điều gì bất toàn) không phải là điều các thày thực sự là. Nó hoàn toàn xa vời sự thực các thày là. Khi con nhận ra hình ảnh này trong chính mình, thì con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó. Con có thể đứng lui lại và thấy nó, và sau đó con thực sự buông bỏ nó.

Con sẽ tới điểm – con có thể cần đọc một số bài thỉnh và cầu thỉnh sự chuyển hóa năng lượng, con có thể cần xin các thày trợ giúp để thấy nó – con chỉ giản dị buông bỏ nó. Con cảm thấy tức khắc nhẹ nhàng hơn và bỗng nhiên nhận ra là các thày không phải là thù địch. Các thày không chực bắt lỗi con. Các thày không chực phơi bày con. Các thày không chực hạ nhục con.

11.8. Vì sao con sợ các chân sư

Thày biết là một số người sẽ lấy bài giảng này và cảm thấy là thày đang phơi bày điều gì không phải trong tâm lý của họ. Một lần nữa, họ sẽ phóng chiếu hình ảnh là thày đang chực phơi bày điều gì đó trong con. Lẽ đương nhiên, có thể nói là thày đang làm chuyện đó, nhưng thày đang không phơi bày một chuyện để khiến con cảm thấy nhục nhã hay hổ thẹn. Thày chỉ muốn giải thoát con. Đây là lúc con có thể tiến lên một bước nữa, và khi con nhìn vào hình ảnh mà con có về các vị thày tâm linh và con chờ đợi họ sẽ làm gì và không làm gì, thì con có lẽ sẽ nhận ra khía cạnh tiêu cực của cái nhìn đó. Tỷ dụ, con có thể nghĩ là các thày sẽ phơi bày điều gì đó trong con, và con có thể xem xét con có nỗi sợ nào liên quan đến việc đó.

Nếu thày lôi một trong các con lên đây và nói là con có khuynh hướng nào đó trong tâm lý của con, thì con sẽ cảm thấy thế nào? Bây giờ, tất cả các con hãy lấy vài phút để thử làm bài tập này. Con hãy tưởng tượng mỗi người trong các con bị lôi lên đây đứng trước một nhóm người, và thày nói rất thẳng là con có khuynh hướng nào đó trong tâm lý của con. Con sợ điều gì? Con cảm thấy thế nào? Con có cảm thấy nhục nhã không? Con có cảm thấy hổ thẹn không? Cảm giác của con là gì? Ấy, con yếu dấu, cảm giác đó chính là điều đang kềm giữ con trên con đường tu. Đó chính là một phần của cái đang ngăn cản con tương tác với các thày. Điều thày muốn nói ở đây là: Con có thể bước lui lại và nói: “Tôi đang cảm thấy như vậy, hay đây là một phàm linh nội tại quy định lối hành xử của tôi, cách tôi liên hệ với các chân sư thăng thiên, cách tôi nhìn các chân sư, cách tôi nghĩ tôi có thể liên hệ với họ như thế nào? Đây là phàm linh cảm thấy như vậy, hay đây là tôi cảm thấy như vậy?” Con có thể nhận ra: “Nhưng đây không phải là tôi, đây là phàm linh!” Sau đó, khi con đuổi phàm linh đi và đọc bài thỉnh về việc này, thì con có thể chuyển đổi tâm mình.

Thí dụ, nếu con cảm thấy hổ thẹn nếu một chân sư thăng thiên phơi bày một bất toàn trong tâm lý của con, thì con có thể nói: “Tại sao tôi lại phải cảm thấy hổ thẹn? Tại sao tôi lại phải làm vậy? Đây là phàm linh cảm thấy như vậy, vậy tại sao tôi lại tiếp tục nhìn vị chân sư và hy vọng là vị ấy sẽ không tới và khiến tôi hổ thẹn? Tôi không cần cảm thấy hổ thẹn về việc này, hay nhục nhã, hay sợ hãi, hay bất cứ gì khác. Tại sao tôi lại cần cảm thấy như vậy?” Sau đó, con có thể dần dần chuyển đổi tâm thức tới điểm con nhận ra là các thày không chực làm con hổ thẹn. Các thày chỉ chực giải thoát con để con cảm thấy thoải mái với chính mình. Lẽ dĩ nhiên, con không cảm thấy thoải mái với chính mình khi con lúc nào cũng sợ bị hổ thẹn.

11.9. Con chờ đợi dược điều gì

Sau đó, con có thể tiến thêm bước nữa và xem xét là con có lẽ cũngchờ đợi được một số điều khi con trở thành một đệ tử của chân sư thăng thiên. Rất, rất nhiều đệ tử chờ đợi là sẽ được các chân sư thăng thiên bằng một cách nào đó vinh danh, công nhận hay tuyên dương. Trớ trêu thay, có trường hợp đệ tử của một tổ chức chân sư thăng thiên về trước đặt các chân sư lên trên một bệ rất cao và lại có một mối liên hệ với các thày dựa trên sợ hãi. Cùng lúc, rất rất nhiều đệ tử có mong muốn không cưỡng được muốn đựơc các thày vinh danh và công nhận trước công chúng.

Đây là một trạng thái tâm lý rất phức tạp trong đó con vừa sợ hãi vừa hy vọng được vinh danh. Có hợp lý chăng khi con vừa sợ một người vừa muốn được người đó vinh danh? Xác suất người đó vinh danh con so với xác suất người đó làm chuyện con sợ nhất và chê bai con như thế nào? Mối liên hệ giữa người đệ tử đó và các thày trở nên rất, rất giả tạo và các thày hầu như không thể tới được họ vì các thày không thể lại gần họ một cách trực tiếp. Các thày không thể cho họ một trải nghiệm, các thày không thể cho họ hướng dẫn nội tâm vì họ bị mắc kẹt trong thế kéo-đẩy đó. Lẽ dĩ nhiên, nếu con vào nhiều giáo đoàn Cơ đốc hấy đó là cách họ nhìn Thượng đế, đó là cách họ nhìn thày. Đó là lý do có nhiều tín đồ Công giáo nghĩ rằng họ liên hệ với Mẹ Mary thoải mái hơn là với thày vì Mẹ Mary không có vẻ đe dọa như thày. Con cũng thấy điều này nơi nhiều tôn giáo khác.

Một lần nữa, nếu con là đệ tử chân sư thăng thiên và con nhận ra khuôn nếp này nơi con, thì tại sao con lại có nó? Nó có phải của con chăng? Rất có thể là con đã tiếp nhận nó từ tâm thức tập thể. Con hãy xem xét nó, làm việc trên nó, tiến tới điểm con vừa không sợ giáp mặt trực tiếp một chân sư thăng thiên, vừa không hy vọng được giáp mặt trực tiếp để được thêm hãnh diện và để tự ngã cảm thấy đặc biệt. Khi con tới điểm có thể liên hệ với các thày mà không chờ đợi phía này hay phía kia, không chờ đợi dựa trên sợ hãi hay dựa trên hãnh diện, thì con có thể trung hòa. Con có thể mở lòng ra. Không có chờ đợi nào ngăn trở con. Khi con chỉ mở lòng ra, thì con sẽ trải nghiệm Hiện diện của các thày trực tiếp hơn rất nhiều bất cứ gì con trải nghiệm trước đó, và lẽ dĩ nhiên, đây là điều các thày mong muốn nơi con.

11.10. Làm sao Thánh linh có thể tuôn chảy xuyên qua con

Bây giờ là dịp lễ Hạ trần (Pentecost) và các con đều biết câu chuyện là, sau khi thày rời bỏ cõi vật lý, các tông đồ của thày đều rất hoang mang, không biết phải làm gì, không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đó. Lúc đó, họ hội họp và bỗng nhiên có sự chuyển đổi trong tâm thức họ, và họ tới tình trạng được mô tả là “hiệp ý ở cùng một nơi”. Họ thực sự tới điểm mà thày vửa mô tả, tức là thay vì có những chờ đợi dựa trên sợ hãi (là mọi chuyện kết thúc ở đây và không có gì sẽ xảy ra sau đó) và những chờ đợi dựa trên kiêu mạn (là họ sẽ được nâng lên và sẽ là những người lãnh đạo phong trào), thì đa số (không phải tất cả, nhưng đa số) tới điểm chỉ trung hòa, chỉ mở lòng ra. Chính điểm trung hòa đó, điểm không chờ đợi đó, đã là cửa mở cho cái được mô tả là Thánh linh tuôn xuống.

Bây giờ, một lần nữa con có thể hỏi: “Các thày đã làm gì với giáo lý mà các thày đã trao truyền qua vị sứ giả này?” Các thày đã tháo gỡ những hình ảnh mà con người có về các chân sư thăng thiên dựa trên các đợt truyền giáo trước. Các thày đã thực sự lấy mình xuống khỏi bệ cao. Các thày đã tìm cách giảm thiểu khoảng cách giữa các con và các thày. Lẽ dĩ nhiên, các thày đã không tìm cách làm điều này một cách vật lý. Các thày đã tìm cách giảm thiểu khoảng cách trong tâm các con, khoảng cách mà con nghĩ có đó, mà con phóng chiếu là có giữa các con và các thày. Lẽ dĩ nhiên các thày vượt quá không gian và thời gian, do đó thày lúc nào cũng ở bên con nếu con muốn thày, nếu con đặt chú tâm của con vào thày. Vấn đề không phải là con cần vượt qua một khoảng cách vật lý. Vấn đề cũng không phải là vì thày ở quá cao trên con trên phương diện khoảng cách hay ngay cả rung động, lẽ dĩ nhiên là thày cao hơn con, nhưng thày vẫn ở bên con. Vấn đề không phải là con cần vượt qua vực thẳm đó. Con chỉ cần giản dị loại bỏ tất cả những hình ảnh và chờ đợi trong tâm con.

Các thày có đệ tử chân sư thăng thiên đang đứng, nói một cách biểu tượng, với đôi mắt dán vào ống viễn kính khổng lồ vì họ nghĩ các thày ở rất, rất xa đâu đó trong không gian. Họ cần chiếc ống viễn kính khổng lồ để thấy được các thày, và chiếc ống viễn kính khổng lồ đó là sự hiểu biết cầu kỳ bằng trí năng mà họ có về giáo lý. Điều các thày đang làm là các thày đợi họ rời mắt khỏi ống viễn kính rồi nói: “Ồ, các thày đang ở đây!”. Thày đã ở đây suốt 2000 năm qua bên cạnh họ mà họ không thèm để ý tới vì họ đã tìm thày ở ngoài xa, xa kia. Lẽ dĩ nhiên, đây là điều các thày mong muốn nơi tất cả các con, là những người đã đi theo con đường của các thày từ rất lâu, là những người đã dấn thân đi vào con đường của quả vị Ki-tô.

11.11. Quả vị Ki-tô và phép lạ

Một lần nữa, chúng ta hãy hạ những chờ đợi xuống. Các con có nghe các câu chuyện là khi thày hiện thân thì thày đã làm nhiều phép lạ. Con có nhân loại trong 2000 năm đã tạo ra những phàm linh tập thể rất rất dũng mãnh và rất rất cầu kỳ là được sống vào thời Giê-su quả là một sự kỳ diệu đặc biệt. Nếu con trở ngược về thời đó và xem xét thực tại lúc đó, thì con sẽ thấy là đa số các tông đồ của thày lúc đó giống như những người đang dán mắt vào ống viễn kính. Tuy họ theo thày và tương tác với thày mỗi ngày, họ ít khi trực tiếp để ý tới thày vì họ nhìn thày với quá nhiều chờ đợi. Con thấy một thí dụ nơi câu chuyện liên quan đến Peter khi thày nói: “Bớ Satan, hãy đứng sau lưng ta.” Thày lúc đó muốn tạo một cú sốc để Peter ra khỏi các chờ đợi của ông và thực sự liên hệ với thày một cách trung hòa. Đa số những người mà thày gặp gỡ hồi đó còn không để ý sinh thể nào đang đứng bên cạnh họ. Họ không nhận ra là thày có một trạng thái tâm thức cao hơn.

Điều thày muốn nói là hình ảnh hoang tưởng mà tín đồ Cơ đốc giáo đã tạo ra là thời đó đặc biệt tuyệt vời như thế nào, ấy, chuyện ấy không bao giờ có thực. Có rất nhiều người không để ý, thí dụ là có cả những người đã thấy thày đi trên nước nhưng sau đó họ không tin điều họ đã chứng kiến. Như các thày đã nói, tâm thức tập thể thời đó dày đặc đến nỗi cần một diễn biến kỳ diệu để họ chú ý.

Một lần nữa, nếu con xem lại tình hình vào dịp lễ Hạ thân, thì nhiều tín đồ Ki-tô giáo đã tạo nên hình ảnh cầu kỳ là nhiều tông đồ đã nói với những ngôn ngữ lạ. Họ bỗng nhiên dùng những ngôn ngữ khác để người khác có thể hiểu họ. Ngay cả các đệ tử chân sư thăng thiên cũng nhìn biến cố này như một diễn biến kỳ diệu. Họ nghĩ, giống như những người theo phái Hạ thân (Pentecostal), là các tông đồ lúc đó dùng ngôn ngữ của thiên thần. Hay họ nghĩ, như một số tín đồ Cơ đốc khác, là có người bị Thánh linh làm té ngã và người họ bị lay động mạnh và họ phải được khiêng ra ngoài, hay những chuyện tương tự. Các đệ tử chân sư thăng thiên vẫn còn lối hành xử đó, phàm linh tập thể đó, khiến họ mơ ước thấy một diễn biến kỳ diệu.

Có người mơ ước thấy một diễn biến kỳ diệu xảy ra trong cuộc đời họ, họ mơ ước có một cuộc gặp gỡ kỳ diệu với các thày sẽ thay đổi mọi chuyện. Một số mơ ước có một diễn biến kỳ diệu sẽ khiến người khác nhìn họ là người đặc biệt. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên trong các thập niên qua đã mơ ước có một diễn biến kỳ diệu qua đó các thày xuất hiện trên trời hay chính các đệ tử nhận được Thánh linh và họ có thể khiến người khác té ngã hay họ có thể chữa lành người khác. Họ có thể làm tất cả những chuyện này để có bằng chứng vật lý là các chân sư thăng thiên có thật, và qua đó hàng triệu người sẽ cải đạo và tin vào chân sư thăng thiên. Lẽ dĩ nhiên, các đệ tử đó là những người đã đem lại việc đó và do đó họ sẽ được nâng lên và tuyên dương. Các đệ tử chân sư thăng thiên cũng mang theo tư duy đã được tín đồ Ki-tô giáo tạo ra suốt 2,000 năm qua khi họ mơ ước là họ đặc biệt và sẽ được nâng lên. Các con đã lấy tư duy này, chuyển nó sang các chân sư thăng thiên và phóng chiếu lên các thày. Các con nghĩ là nếu các con nhận được Thánh linh thì một diễn biến kỳ diệu sẽ xảy ra. Có thể là sẽ có một diễn biến trong đó mọi người bỗng nhiên nói ngôn ngữ lạ, và tất cả bỗng nhiên có khả năng nhận bài truyền đọc, hay bất cứ điều gì khác mà họ tưởng tượng. Một đàng thì thày không muốn đặt giới hạn vào chuyện có thể xảy ra. Thánh linh có thể biểu hiện nhiều cách, nhưng thày muốn các con có một nhận định thiết thực. Trong thời đại tân thời này, các thày không làm phép lạ vì nhân loại đã tiến lên một tầng tâm thức khiến các thày có thể khiến họ chú ý bằng cách khác. Các thày không muốn cải đạo tất cả mọi người và khiến họ công nhận các chân sư thăng thiên. Các thày sẽ không tạo ra một biểu hiện không thể chối cãi được vì Luật Tự quyết đã rõ ràng: con người phải có quyền chối bỏ với lý do khả tín. Con người phải có thể dễ dàng chối bỏ sự hiện hữu của các thày, do đó các thày sẽ không thể hiện một bằng chứng không thể chối cãi được.

11.12. Con có Thánh linh chăng?

Ngay cả chuyện Thánh linh sa xuống, các thày sẽ không tạo ra một diễn biến ngoạn mục, con yêu dấu. Các thày mong muốn là mỗi người trong các con đều trải nghiệm là mình có Thánh linh. Con có nhiều xác suất trải nghiệm điều này khi con nói chuyện với người khác về một đề tài mà con thật sự coi là quan trọng, một đề tài gần kề với tim mình. Con có thể nhận thấy là có lúc giọng nói của con thay đổi đôi chút, rung động của con thay đổi, và con nói với rất, rất nhiều chân thành. Con yêu dấu, con lúc đó cũng trong trạng thái tâm trung hòa. Con không đang tìm cách cải đạo người khác một cách hung hãn, con không mong muốn được công nhận để con không phải cảm thấy bị ruồng bỏ. Con chỉ giản dị nói từ một tầng cao của bản thể của mình, và đó là một biểu hiện của Thánh linh.

Bây giờ thì câu chuyện các tông đồ nói bằng ngôn ngữ lạ mà trước đó họ không biết, chính thực không có thật. Đây là điều mà con người chỉ có thể phóng chiếu lên diễn biến đó với tâm đường thẳng của họ. Sự thực sâu thẳm hơn là một số tông đồ được thấm đẫm bởi Thánh linh và do đó họ có thể diễn đạt ý tưởng Cơ đốc giáo là gì qua một cách khiến người có quá trình khác nhau có thể hiểu các khái niệm và ý tưởng. Đây là một trong những biểu hiện chính của Thánh linh mà thày muốn các con cố đạt được. Con có thể đi vào trạng thái tâm trung hòa và có khả năng nói chuyện với nhiều người có quá trình khác nhau. Thay vì cho họ một chân lý tuyệt đối, mà với tâm vỏ ngoài con nghĩ là họ cần biết, thì con cho họ đúng những gì họ cần để tiến bước kế tiếp trên con đường tu của họ. Con có thể không biết điều này với tâm vỏ ngoài của mình, con có thể không biết vì sao con lại nói điều đó với họ, con chỉ cảm thấy dòng chảy và con tuôn theo dòng chảy.

Đây là một biểu hiện Thánh linh lợi ích hơn một trình diễn ngoạn mục rất nhiều. Bây giờ thì con có thể nói: “Vậy thày đang không làm một trình diễn ngoạn mục hay sao?” Ấy, điều này cũng có phần đúng. Nhưng điều thày đang làm có ngọan mục như nhiều đệ tử chân sư thăng thiên chờ đợi, hay nhiều tín đồ Cơ đốc giáo chờ đợi chăng? Không, không đâu. Các thày đang cố cho các con một cái gì vượt quá trình độ tâm thức bình thường, nhưng không vượt quá xa đến độ nó củng cố nơi con ý niệm xa cách. Các thày biết là bất cứ điều gì các thày làm cũng sẽ củng cố ý niệm xa cách nơi một số người, nhưng con hãy để ý xem có bao nhiêu giáo lý mà các thày bao năm qua đã trao truyền qua vị sứ giả này đã được thiết kế đặc biệt để giảm thiểu sự xa cách mà các con phóng chiếu là có giữa các thày và các con.

11.13. Vị chân sư nào gần với con nhất?

Thày sẽ luôn luôn ở bên conconconconcon, mỗi người và tất cả các con. Thày luôn luôn ở bên con, và vị chân sư thăng thiên nào gần tim con nhất cũng vậy. Vị chân sư nào gần tim con nhất? Con yêu dấu, thày không có ganh tỵ, thày không mong muốn độc quyền. Sự việc có một vị chân sư khác gần tim con hơn không khiến thày cảm thấy bị tổn thương. Tại sao vậy? Vì thày và vị chân sư đó là một.

Con hãy tìm ra vị chân sư gần tim mình nhất. Con hãy bước lui khỏi cuộc sống bận rộn thường nhật của con. Con hãy bước lui khỏi những bận rộn của con trong việc tu tập, với việc học giáo lý, đọc cầu thỉnh. Con hãy dành thì giờ để ngồi xuống và xem xét: “Tôi đang liên hệ với các chân sư thăng thiên như thế nào? Đây là vị thày mà tôi cảm thấy gần nhất. Làm sao tôi có thể tìm ra một cách mới để liên hệ với vị chân sư đó để tôi có thể giảm thiểu khoảng cách, lại gần hơn, có một trải nghiệm trực tiếp hơn?” Con cũng có thể tự hỏi: “Tôi có sẵn sàng để có một trải nghiệm trực tiếp hơn với một chân sư thăng thiên chăng?” Nếu con chưa sẵn sàng, thì một lần nữa thày không chỉ trích, thày không phán xét, thày không lên án. Thày hoàn toàn hiểu là ai nấy đều cần có thời gian trước khi sẵn sàng. Con thấy chăng, con yêu dấu, con đang ở đây vì khi con trải nghiệm một bài truyền đọc, thì con có một ý niệm hiện thực là các chân sư thăng thiên có thật. Các thày có thể nói chuyện với con. Thày chỉ muốn con xoay chuyển tâm mình để nhận ra rằng vì các thày có thật và có thể nói chuyện xuyên qua một sứ giả, nên các thày cũng có thể tương tác trực tiếp với con, với riêng con, trong tâm và trái tim của con.

Nếu con đã sẵn sàng làm chuyện này, thì có lẽ đã đến lúc con mạnh dạn bước ra, thẳng thắn hơn và tìm một cách khác để liên hệ với các thày. Có lẽ con xem xét lối hành xử của mình, như thày đã nói ở đầu bài, khi con liện hệ với các thày. Con có thể tự hỏi: “Dựa trên những chờ đợi hiện tại của tôi, thì tôi nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra khi một chân sư thăng thiên tới gần tôi hơn?” Con sẽ thấy là nhiều khi có một phần tâm con, một phần tự ngã của con, thực sự sợ những thay đổi mà con sẽ phải đối mặt khi chuyện đó xảy ra, và đây có thể là một lãnh vực mà con có thể cần thì giờ để giải quyết vấn đề.

11.14. Con cần phải từ bỏ cái gì?

Đối với đa số các con, đây không phải là một điều mà con có thể giải quyết trong năm phút. Khi con tới một mức nào đó, thì điều lợi ích là con suy nghĩ và chiêm nghiệm về điều này: “Tôi nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra trong cuộc đời của tôi?” Sẽ có một phần bản thể của con sợ một số thay đổi vỏ ngoài sẽ phải xảy ra, một số chuyện mà con phải từ bỏ, và những điều tương tự. Nếu con nhìn những việc này một cách trung thực thì con dần dần sẽ bắt đầu thấy các nguyên nhân đằng sau, thấy những chờ đợi tiềm ẩn của con. Con có thể bắt đầu xem xét chúng. Con có thể bắt đầu bằng cách so sánh chúng với giáo lý của các thày. Con có thể bắt đầu suy ngẫm xem là con có mang chờ đợi đó từ tâm thức tập thể, hay đó là một phần của tự ngã của con. Con có thể dần dần tới điểm con thấy rõ con đang đứng ở đâu vào lúc này. Con có thể nhận ra rằng: Đúng là có một phần tự ngã đang sợ hãi và không muốn thay đổi vì có một phần nào đó trong cuộc đời của con mà con không muốn từ bỏ.

Bây giờ thày muốn cho con một thí dụ đơn giản. Có một vị đệ tử ở Hàn Quốc hỏi là vị ấy có thể là một đệ tử chân sư thăng thiên mà vẫn tham dự họp mặt ăn uống và uống rượu khi tụ họp chăng. Vị đó không chịu từ bỏ những chuyện này vì uống ượu khi hội họp là một phần quan trọng của gia đình và nền văn hóa của vị ấy. Đây chỉ là một thí dụ của một chờ đợi mà con có thể có. Nếu con muốn, thì con có thể xem xét nó. Con có thể nhìn vấn đề từ nhiều phía. Con cũng có thể tới điểm con nhận ra con không mất mát gì khi từ bỏ chuyện đó vì con thực sự đã sẵn sàng tiến lên một tầng khác.

Một số người trong các con đã tới điểm có quyết định tự phát từ bỏ uống rượu, nhưng đây chỉ là một thí dụ. Con đừng đặt hết tâm trí vào việc này vì có nhiều chuyện khác mà con có thể nghĩ con cần từ bỏ. Con yêu dấu, con lúc nào cũng có thể tìm ra một cách khác để nhìn vấn đề mà không bị bắt buộc phải từ bỏ một sinh hoạt vỏ ngoài.

Thày muốn cho con một thí dụ khác là trong các đợt truyền giáo trước, có nhiều đệ tử cảm thấy là sau khi họ đã theo học giáo lý chân sư thăng thiên, thì họ không thể liên hệ với những người không theo giáo lý. Nhiều người gặp khó khăn liên hệ với người phối ngẫu của họ, và rất nhiều vụ ly dị đã xảy ra vì lý do này. Các thày không bao giờ muốn thấy chuyện này xảy ra, nhưng đó là nền văn hóa của tổ chức đó. Lý do là vì họ có một cái nhìn trắng-đen hơn về con đường tu: con hoặc ở trong hoặc ở ngoài. Hoặc con hoàn toàn ở trong, và con phải theo tất cả các luật lệ của tổ chức, hoặc con ở ngoài. Nếu con có một người phối ngẫu không chịu ở trong, thì con không thể liên hệ với vị đó, và từ đó xung đột nảy sinh. Thực tế là nếu con xoay chuyển tâm thức, nếu con thay đổi cách nhìn trắng-đen về con đường tu và về các chân sư đầy lòng phán xét, thì con có thể dễ dàng, hoặc ít ra là với thời gian con có thể tìm một cách để liên hệ với người phối ngẫu đang không đi trên con đường tâm linh hay đang không theo học giáo lý chân sư thăng thiên.

11.15. Lối hành xử của con liên quan đến tình dục

Con có thấy chăng, vấn đề không chỉ giản dị là nghĩ hay nhận ra là có một phần tự ngã của mình đang nghĩ: Nếu tôi lại gần các chân sư hơn, thì liệu tôi có sẽ phải từ bỏ điều này hay điều nọ. Nhiều người trong các con có thể sợ phải từ bỏ tình dục, chẳng hạn. Thành thật mà nói thì đây có lẽ là nỗi sợ lớn nhất của các đệ tử trên con đường tâm linh.

Một cách nhìn khác là luôn luôn xem xét chính mình, xem xét lối hành xử của mình liên quan đến tình dục. Con hãy xem xét lối hành xử của con liên quan đến tình dục, và xem nó tương tác ra sao với lối hành xử của con liên quan đến con đường tâm linh. Con có thể thấy là con có hai phàm linh đang chống đối nhau. Sau đó, con hãy nhận ra là có một phàm linh đang phóng chiếu là khi con tiến cao hơn trên con đường tâm linh, thì con phải từ bỏ tình dục. Và có phàm linh kia thét lên rằng: “Không, bạn không thể làm vậy!” Sau đó, con có thể tới điểm nhận ra là chúng chỉ là phàm linh, chúng không phải là con – và con có thể thăng vượt chúng, con yêu dấu. Con có thể thăng vượt cả hai phàm linh đó, và nhận ra rằng khi con xoay chuyển tâm, thái độ của con về tâm linh và thái độ của con về tình dục và sự tương tác giữa hai thái độ đó, thì con có thể vẫn vui hưởng tình dục vừa theo đuổi con đường tâm linh.

11.16. Hãy chấp nhận ở đây trước khi con rời nơi này

Con có thể tới điểm con gần hội đủ điều kiện để thăng thiên nhưng con đã đi theo con đường tu khổ hạnh và rút lui khỏi sinh hoạt trần thế. Nếu con không hoàn toàn chấp nhận con đang ở trong thân thể vật lý, nếu con không vui hưởng những sinh hoạt mà con có thể có với thân thể vật lý, thì con không thể bỏ trái đất lại đàng sau, con thực sự không thể thăng thiên. Con có thể nói là thực sự có nhiều tà lực, tà thể hay ác quỷ đang tìm cách dùng động lực tình dục để dụ dỗ con người vào nhiều vòng xoáy hướng hạ để hút năng lượng của họ. Chắc hẳn là có một lúc ta phải áp dụng kỷ luật để không bị lôi kéo vào những vòng xoáy tiêu cực đó. Đó là lý do vì sao các phong trào tâm linh truyền thống đã nói rằng người tâm linh phải từ bỏ tình dục. Một số trong các con đã làm điều này trong các kiếp trước và đã có nhu cầu tuân theo kỷ luật này. Lúc nào con cũng có thể tiến lên một tầm nhìn khác và nói: “Tôi đang sống trong loại thân thể nào? Một thân thể thân thiện hay thù nghịch?”

Con sẽ thấy là rất rất nhiều người tâm linh thực sự nghĩ rằng thân thể vật lý là thù nghịch của sự tăng triển tâm linh của họ. Sau đó, con có thể làm việc trên đề tài này, xem xét nó, và con có thể tới điểm chấp nhận là con đang sống trong một vũ trụ thân thiện, con đang sống trong một thân thể thân thiện. Khi con đang ở trong thân thể này, thì có một số sinh hoạt con có thể làm với thân thể đó, và thực sự không tội lỗi hay phản-tâm linh khi con vui hưởng các sinh hoạt đó. Sinh hoạt này có thể là có tình dục, hay ăn một bữa cơm ngon, hay tương tác với người không theo một giáo lý tâm linh nhưng vẫn là người tốt. Họ thuộc vào gia đình của con và con vui hưởng ở gần họ. Đâu có lý nào chuyện này là phản-tâm linh khi con nhìn nó từ một góc độ trung hòa và không bị mắc kẹt trong lối suy nghĩ trắng-đen?

Con cũng có thể tiến thêm bước nữa và xem xét sức khỏe vật lý của mình, và có thể bắt đầu tự hỏi: “Tôi đang sống trong một thân thể thù nghịch hay thân thiện?” Nếu con đang bị một căn bệnh dằn vặt thì con vẫn có thể (nếu con muốn) làm việc trên thái độ mà con có đối với thân thể vật lý. Lối hành xử của con là gì? Con chờ đợi chuyện gì có thể xảy ra và không thể xảy ra? Con thực sự nghĩ gì về thân thể vật lý này, đặc biệt là liên quan đến sự tăng triển tâm linh của mình? Con có thể tới điểm chấp nhận là con đang sống trong một thân thể thân thiện có khả năng và mong muốn hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con. Một số trong các con sẽ thấy là điều này có thể đem lại sự chữa lành của một số căn bệnh mà trước đó con không thể khỏi được. Một số khác có thể không được chữa lành trên mặt vật lý nhưng có thể tìm ra cách để làm hòa với căn bệnh để nó không cản trở sự tăng triển tâm linh của mình.

11.17. Cách dùng bài truyền đọc này

Một lần nữa, đây lại là một trong những bài truyền đọc trong đó các thày đưa ra rất nhiều ý để các con suy ngẫm. Lẽ đương nhiên, các thày làm như vậy vì các con không hay tụ tập như một đám đông. Các thày cũng làm vậy vì nhiều người trong nhóm này đã tới một trình độ trên con đường của quả vị Ki-tô khiến con sẵn sàng đón nhận giáo lý này hay ít ra là một phần trong đó. Một lần nữa, con không cần về nhà và đọc lại bài truyền đọc và xem xét từng điểm mà thày trao truyền, và nghĩ rằng con phải học tập và áp dụng tất cả mọi điểm cùng một lúc. Con cần tìm ra một điều gì, một điều trong bài giảng hấp dẫn con ở tầng hiện tại của con. Sau đó, con dùng nó, con thể nhập với nó và con dùng nó để tiến lên một tầng cao hơn. Sau đó, con có thể đọc lại bài giảng và tìm xem có điều gì khác cho con chăng.

Bây giờ, thày khuyến khích học tập bài truyền đọc mà thày trao truyền ở Hàn Quốc về quả vị Ki-tô và bài truyền đọc của Phật Gautama ở Hàn Quốc (hai chương trước chương này) và thấy là hai bài đó tạo nên phần alpha trong khi bài này là phần omega, một cái nhìn thực tiễn và thiết thực hơn.

11.18. Giữ trung hòa để Tánh linh tuôn chảy

Điều thày muốn nói trước khi chấm dứt bài này là: Thánh linh thổi nơi nó muốn, như có nói trong Thánh kinh. Câu này thực ra không thể hiện cái nhìn cao nhất về đề tài này. Thánh linh không thổi nơi nó muốn; nó chỉ thổi, nó thổi không ngừng và nó tuôn chảy không ngừng. Lý do vì sao câu nói đó được trao truyền lúc đó là vì nhiều người thời đó không hiểu được tại sao có lúc một người nhận được dòng chảy của Thánh linh, có lúc là một người khác, và có lúc không ai nhận được. Họ không hiểu tại sao vì họ nhìn vấn đề với tâm vỏ ngoài.

Ngay cả các tông đồ của thày có khuynh hướng dùng tâm vỏ ngoài và tạo ra một cấp bậc trong nhóm tông đồ, một loại xếp hạng ai cao nhất, ai là người tinh tiến nhất. Điều không may là Peter thường nghĩ ông là người cao nhất, trong khi sự thực ông là người có tâm thức thấp nhất trong các tông đồ. Những lượng giá vỏ ngoài này quả thực đã ngăn chận dòng chảy của Thánh linh vì chìa khóa để nhận dòng chảy của Thánh linh là giữ tâm trung hòa, mà các con đều có thể trau dồi và đều đã có trải nghiệm trong một thoáng. Nó gần giống như khi con đứng yên và không có gì kéo con về bất cứ hướng nào. Con có thể gọi đây là trạng thái nhận biết thuần khiết, nhưng con trung hòa. Con đang tương tác với người khác, nhưng con không phán xét là người đó phải được nghe gì và phải chấp nhận cái gì. Con không mong muốn cải đạo người đó. Con còn không có cả mong muốn giúp người đó. Con không có chờ đợi cá biệt nào về điều gì phải được nói ra, chuyện gì phải xảy ra, và người kia phải phản ứng ra sao. Con chỉ trung hòa và đó là lúc con là cánh cửa mở. Đó là lúc Thánh linh có thể tuôn chảy xuyên qua con, con yêu dấu.

Khi con xem xét hiện tượng truyền đọc và số đông những người tiếp xúc với cõi trên (channeller), thì con thấy là những người không giữ tâm trung hòa chỉ hòa điệu được với các cõi thấp – cõi cảm xúc, cõi lý trí, phần thấp của cõi bản sắc. Những điều được trao truyền qua họ có thể có vài ý niệm chân chính, nhưng cũng có những ý niệm méo mó và không có rung động giải thoát con người. Một người sứ giả hay một người tiếp xúc với cõi trên càng trung hòa thì thông điệp có thể truyền qua họ càng thuần khiết. Khi con nghe hay đọc một bài truyền đọc, tâm con càng trung hòa thì các lóe sáng hiểu biết mà con nhận được càng sâu sắc.

Một sắc thái khác của Thánh linh là con không nhất thiết nói nhưng con cũng nhận một số lóe sáng hiểu biết rõ ràng bắt nguồn từ phần cao của tâm con hay từ các thày. Đây là một hình thức dòng chảy bên trong của Thánh linh và khi con nói ra thì đó là phần chảy bên ngoài của Thánh linh, nhưng cả hai khía cạnh đều thuộc vào con đường tu của con.

Như các thày đã nói, sẽ có một điểm khi quả vị Ki-tô mà không được thể hiện thì không phải là quả vị Ki-tô. Con phải tiến lên cao hơn và thay vì chỉ học hỏi và hội nhập giáo lý, thì con bắt đầu ban phát nó ra. Đó là lúc con trải nghiệm dòng chảy alpha và omega của Thánh linh, là khi con nhận được lóe sáng hiểu biết và con dùng chúng để giúp người khác. Con sẽ nhiều lần thấy rằng khi con nói chuyện với người khác, con bỗng nhiên có một số ý tưởng mà trước đó con không có. Con bỗng nhiên có một lóe sáng hiểu biết mà trước đó con không có. Đó là dòng chảy của Thánh linh. Nó không phải là một biểu diễn ngoạn mục. Nó không phải là một biến cố kỳ diệu. Nó chính thực là điều gì mà tất cả các con đều đã trải nghiệm. Thày chỉ giản dị nói rằng khi con nhận ra chúng một cách có ý thức, khi con theo những gợi ý mà thày giảng trong bài này, thì con có thể gia tăng những lúc con có trạng thái tâm trung hòa.

11.19. Con có cần phải có ý kiến không?

Một số các con có thể phải làm việc để đạt tâm trung hòa vì nó đòi hỏi con giải thoát mình khỏi một số chuyện bên ngoài đang tìm cách lối kéo con vào một khuôn nếp phản ứng. Có thể là một số các con cần đi qua một tiến trình trong đó con xem xét một điều rất đơn giản: “Trên cương vị một con người, tôi có cần có ý kiến không?” Đa số các con được dạy dỗ là con phải có ý kiến. Con phải có ý kiến về đảng phái chính trị này hay đảng phái kia, về vấn đề này hay vấn đề kia. Con có thể tới điểm con nhận ra là đại đa số ý kiến con người đến từ các phàm linh nội tại của họ, và các phàm linh này chịu ảnh hưởng của các phàm linh tập thể.

Con thấy có rất nhiều trường hợp hai người có ý kiến đối ngược về một vấn đề, nhưng đây chỉ giản dị là có hai phàm linh đang tranh luận qua hai người đó. Con có thể tới điểm con tự hỏi: “Đây có phải là cách tôi muốn tương tác với người khác chăng, bằng cách luôn luôn bày tỏ ý kiến của mình và tìm cách thay đổi ý kiến người kia? Có thể nào tôi tới điểm tương tác với người khác nhưng tâm tôi trung hòa và do đó tôi mở lòng ra để nói một điều không phải là ý định đã định trước, nhưng là một điều tới từ một nguồn cao hơn, có thể sẽ khai ngộ tôi và có thể khai ngộ người kia, nhưng không đến từ một ý định từ tâm có ý thức của tôi. Tôi chỉ để cho chuyện đó xảy ra?”

Đã có nhiều người qua các thời đại đã dùng nhiều nỗ lực, nhiều nghi thức để nhận được Thánh linh. Có những phù thủy đen đã tìm cách tạo ra một phương pháp, hoặc một dụng cụ có thể giúp họ nhận được một cách máy móc dòng chảy của Thánh linh. Họ chưa bao giờ nhận được dòng chảy của Thánh linh. Họ có thể nhận được dòng chảy của một số phàm linh tập thể có vẻ rất dũng mãnh, nhưng đó không phải là Thánh linh. Con không thể ép Thánh linh. Đó cũng là lý do vì sao có câu nói là Thánh linh tuôn chảy nơi nó muốn. Con yêu dấu, con không thể ép nó, nhưng con có thể nhận nó.

Mấu chốt là muốn nhận nó thì phải có khoảng trống. Nếu tâm con chứa đầy ý kiến thì có thể không còn chỗ để Thánh linh biểu hiện. Thày muốn giải thoát các con. Thày muốn cho phép con được tự do khỏi mọi ý kiến nhân gian. Con thực sự có thể cảm thấy là khi con buông bỏ những ý kiến đó, thì giống như con được giải thoát khỏi một máy chạy bộ cứ lôi cuốn con đi. Bỗng nhiên tâm con không cần phải cảm thấy là ý kiến này luôn luôn bị đe dọa và con cần phải đề phòng các mối đe dọa. Khi con đọc điều gì trên mạng Internet có thể đe dọa ý kiến đó thì con cảm thấy bất an. Hay khi con gặp người nào có ý kiến khác thì con phải đi vào một cuộc tranh luận và tìm cách khiến họ đổi ý. Bất thình lình con không cảm thấy bị mất năng lượng nữa và con cảm thấy thoải mái hơn với chính mình là đã buông bỏ ý kiến nhân gian đó.

Thày có thể bảo đảm là con có lẽ sẽ gặp một người quen con từ lâu nhìn con và nói: “Bạn sao kỳ vậy, tại sao không còn ý kiến gì nữa?” Con hãy xem họ cảm thấy thế nào về chính họ và con cảm thấy thế nào về chính mình, và nói: “Tôi muốn mình ở đâu, trong tâm người đó hay trong tâm mình?” Sau đó, con sẽ dễ dàng buông bỏ tất cả các ý kiến đang không khiến con thoải mái với chính mình, không khiến con thoải mái với thế gian. Chúng không giúp con cảm thấy con đang sống trong một vũ trụ thân thiện, chúng không giúp con cảm thấy con đang tương tác với các chân sư thân thiện, chúng không giúp con cảm thấy con đang sống trong một thân thể thân thiện.

Con hãy nghĩ xem: nếu mục đích của con là cảm thấy thoải mái hơn với chính mình, với các chân sư thăng thiên, với thế giới vật chất và với thân thể vật lý của mình, thì con hãy xem xét những gì đang lôi kéo sự chú ý của con và tự hỏi chúng có đang giúp con cảm thấy thoải mái hơn hay không. Nếu nó không khiến con cảm thấy thoải mái hơn, thì thày cho phép con buông bỏ nó. Thày bảo đảm là nếu một điều gì không giúp con cảm thấy thoải mái hơn với chính con, với thế giới nơi con sống và với các chân sư, thì điều đó không giúp con tăng triển tâm linh. Nó không giúp con tiến về hướng quả vị Ki-tô.

Con yêu dấu, nếu con nhận thấy là con đang nhấp nhỏm một chút trên ghế và cảm thấy khó ngồi yên, thì đó giản dị là vì chúng ta đã tới điểm thày đã trao truyền cho con tối đa mà con có thể nhận. Mặc dù thày mong thày có thể tiếp tục nói thêm một hay hai tiếng nữa, thày nhận ra sự kiện đơn giản là vũ trụ vật lý đặt ra một số giới hạn cho sự tương tác kiểu này giữa chúng ta. Vũ trụ vật lý không đặt giới hạn lên cách con và thày, hay một vị chân sư khác, có thể tương tác trực tiếp trong tâm của con. Các thày không muốn các đệ tử chân sư thăng thiên mãi mãi nghĩ rằng cách duy nhất mà họ tương tác với các chân sư thăng thiên là xuyên qua một vị sứ giả hay một giáo lý vỏ ngoài. Các thày muốn tất cả các con tới được điểm có tương tác trực tiếp với các thày trong trái tim mình và trong tâm mình,

Tới đây thì thày cảm ơn các con, thày cảm ơn các con từ đáy lòng đã hội họp nơi đây nhân ngày lễ Hạ thiên này. Thày bảo đảm với các con là những lời kêu gọi của Mẹ Mary là các hội nghị này quan trọng không vô ích, là điều Mẹ Mary có thể sẽ nói với các con sau khi các con đã giải quyết nhu cầu của thân thể vật lý.

Do đó, con yêu dấu, thày cảm ơn các con một lần nữa. Thày bảo đảm với con là thày tri ân và rất vui mừng có một nhóm đệ tử sẵn sàng để cho thày nói một cách tự do và cởi mở như thế này. Nếu thày đã làm được chuyện này trong 2000 năm vừa qua thì thế giới thật sự đã khác ngày nay.

Một thực tập để chữa lành dùng Tình thương Thiêng liêng

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Hiện diện Tình thương qua trung gian Kim Michaels, ngày 2 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ Hiện diện Tình thương. Các con để ý là khi các con nhận một bài truyền đọc từ một chân sư thăng thiên, thì các vị ấy thường tự giới thiệu mình là: TA LÀ Chân sư Thăng thiên tên. Thày đương nhiên là một Sinh thể trên cõi thăng thiên, nhưng thày chọn không nhận diện mình như một chân sư thăng thiên, vì thày không thăng thiên từ trái đất và ngay cả từ bầu cõi trong đó con đang hiện hữu. Thày thăng thiên từ một bầu cõi trước, và do đó thày giữ một chức vụ trong thứ bậc hoàn vũ cao hơn các vị chân sư thăng thiên đã thuyết giảng cho các con từ trước tới nay.

Thày nói điều này để các con biết vị trí của thày trong thứ bậc hoàn vũ. Điều này giúp con hiểu rằng, trong khuôn khổ điều mà các thày gọi là tiết lộ tuần tự, sẽ có lúc một đợt truyền giáo đặc trưng nào đó, qua đó các chân sư thăng thiên trao truyền ánh sáng xuống trái đất, đã đạt được môt trình độ. Khi đó, các đệ tử của đợt truyền giáo đó đã học hỏi và áp dụng giáo lý tới mức họ có thể tiếp nhận giáo lý từ một tầng của thứ bậc hoàn vũ cao hơn những gì đã được trao truyền trước kia trên trái đất.

Thày tới đây như một sự công nhận là đã có rất nhiều người tiếp thu được giáo lý được truyền dạy trong đợt truyền giáo này về nhị nguyên và bất nhị, về tư duy cuồng đại, về tự ngã, về tình thương, về tình thương vô điều kiện và tình thương có điều kiện. Thày tới đây như một sự công nhận là đã có đủ số người áp dụng những giáo lý này, đã chân thành nhìn vào chính họ, đã nhìn vào những điều kiện mà họ đang có, đã vật lộn với những điều mà tất cả các sinh thể thăng thiên đã trải qua: tức là vật lộn để nhận ra cái gì thật, cái gì không thật, cái gì là tự ngã, cái gì không là tự ngã. Các sinh thể đặt ra các câu hỏi này là điều tự nhiên, nhất là trên một hành tinh tăm tối như trái đất.

7.1. Phản-tình thương là gì?

Vì sao trái đất lại tăm tối như vậy? Ấy, phần lớn là vì trái đất đã bị ảnh hưởng nhiều bởi phản-tình thương. Các con yêu dấu, vậy phản-tình thương là gì? Ta có thể nói là ở đây chúng ta chạm phải giới hạn của trái đất, các giới hạn này do trái đất đã xuống một tầng tâm thức thấp đến độ ngay cả ngôn ngữ cũng đã mang điện từ của nhị nguyên, cũng đã bị thấm đẫm bởi nhị nguyên. Khi con nghe cụm từ “phản-tình thương”, thì con nghĩ nó phải là đối ngược của tình thương.

Lẽ dĩ nhiên, không thể có gì đối ngược với tình thương thật sự. Nó không có đối ngược. Các chân sư thăng thiên đã dạy các con là quan niệm tình thương có đối ngược là một ảo tưởng. Sa nhân đã tạo ra nó vì họ muốn quy định một đối ngược của tình thương và họ gọi đó là phản-tình thương, nhưng “tình thương” là tình thương, là tình thương thật sự. Lẽ dĩ nhiên, khi con quy định một đối ngược, thì con không quy định một đối ngược mà con quy định hai đối ngược. Cái mà đa số con người, đại đa số con người trên trái đất, gọi là tình thương, không phải là Tình thương Thiêng liêng. Nó là đối ngược của phản-tình thương, và cả hai đều do tâm thức nhị nguyên và sa nhân quy định.

Thày tới đây không phải chỉ để trao truyền một giáo lý, mà còn trao truyền một dụng cụ tâm linh và một cách thực tập qua đó thày cống hiến sự trợ giúp của thày cho những ai hướng dẫn thực tập, nghe bài truyền đọc, đọc bài truyền đọc và làm thực tập. Thày sẽ có mặt bên con bất cứ lúc nào con làm những việc này, vì lẽ tự nhiên thày không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Mục đích của bài thực tập là giúp con chuyển hóa tâm mình để con thoát khỏi một vấn đề lớn mà con người gặp phải trên trái đất. Đây là một vấn đề phức tạp, nhưng nó xoay quanh tình thương của Thượng đế Cha.

7.2. Hình ảnh cha của Thượng đế

Nhiều người trong các con đã lớn lên trong một nước Tây phương nơi Thượng đế luôn luôn được mô tả như một người nam, thường là một ông già, thường là một nam nhân đầy giận dữ và phán xét ngồi trên một ngai trên trời, sẵn sàng xử tội con phải vĩnh viễn chịu cực hình trong địa ngục nếu con không vâng lệnh ngài. Con có thể nào thương yêu một vị Thượng đế như vậy với tất cả trái tim, tâm và hồn của mình? Ấy, có người trong phong trào Cơ đốc giáo tuyên bố là con phải thương yêu được Thượng đế đó, và nếu con không thể thương yêu Thượng đế đó, thì ngài có thể đày con xuống địa ngục.

Những người đó không chịu nhìn nhận là hình ảnh Thượng đế mà họ đưa ra không phải là hình ảnh mà Giê-su đã dạy họ. Hình ảnh đó đến từ sa nhân. Họ đã tạo ra hình ảnh một Thượng đế trên trời đầy giận dữ và phán xét như một phương tiện để khiến con người dưới trần gian tuân lệnh họ. Con người sợ bị Thượng đế đầy giận dữ trừng phạt đến độ họ sẵn sàng khuất phục sa nhân đang đầu thai và ngay cả những sa nhân trên ba cõi cao. Đó là lý do vì sao con có một hình ảnh hoàn toàn sai lạc về Thượng đế.

Con yếu dấu, sự thực là gì? Trong bài thỉnh tuyệt vời mà các con vừa đọc [INV05 Bài thỉnh thương yêu chính mình], con có khái niệm Thượng đế Cha và Thượng đế Mẹ. Như các chân sư thăng thiên đã giảng cho các con,Thượng đế Cha là đấng Sáng tạo, là Sinh thể đã tạo ra thế giới hình tướng này. Do đó, vì ngài là đấng Sáng tạo, là sinh thể từ đó toàn thể thế giới hình tướng nảy sinh, ngài là sinh thể đã để một phần Bản thể của ngài vào toàn thể thế giới hình tướng, nên ngài là nguyên lý sinh động theo nghĩa đấng Sáng tạo là vị đã khởi đầu toàn thể thế giới hình tướng. Do đó, khi con áp dụng quan niệm hai cực nam/nữ, là điều mà con người có thể hiểu được trên trái đất, thì Thượng đế Sáng tạo là nguyên lý cha.

7.3. Một cái nhìn thiết thực về Thượng đế

Đấng Sáng tạo có thương yêu con chăng? Ấy, chuyện đầu tiên là con cần nhận ra là đấng Sáng tạo không phải là vị Thượng đế được mô tả trong giáo lý chính thức của Ki-tô giáo, Do thái giáo hay Hồi giáo. Vị ấy cũng thực sự không phải là vị Thượng đế được mô tả trong bất cứ tôn giáo nào khác, kể cả Brahma của Ấn giáo. Tất cả các tôn giáo đều mô tả Thượng đế như một thần linh xa cách. Thượng đế có xa cách không? Có một nơi nào trên cõi cao nhất là nơi Thượng đế ngồi trên một ngai màu trắng và từ trên cao nhìn xuống tạo vật của ngài? Không có đâu, con yêu dấu. Làm sao lại có được? Thày là Hiện diện Tình thương. Thày hiện hữu trong một bầu cõi không những cao hơn trái đất, mà còn cao hơn tất cả mọi sắc thái của vũ trụ vật chất hay bốn cõi của bầu cõi này, là nơi con đang sống. Thày có thể nói với con là dưới mắt thày có một khoảng cách rộng lớn giữa độ rung của trái đất và độ rung của nơi thày ở, hay đúng hơn là bầu cõi nơi thày ở. Từ nơi thày ở cho tới đấng Sáng tạo, thì khoảng cách còn lớn hơn thế nữa.

Thày không muốn cho con cảm giác là đấng Sáng tạo rất xa cách con, nhưng thày muốn cho con một lượng định thiết thực là trái đất có một tâm thức tập thể rất thấp so với độ rung của đấng Sáng tạo. Do đó, nếu ánh sáng của đấng Sáng tạo tập trung thẳng vào trái đất, thì không những là trái đất sẽ nổ tung bởi cường độ của ánh sáng, mà cả vật chất, tức là các nguyên tử và phân tử của mọi thứ trên trái đất, đều bị tiêu hủy vì độ rung của chúng được tức khắc nâng lên. Tất cả những khuôn đúc đã được đặt lên trên Ánh sáng Mẫu-Vật để tạo ra trái đất trong hình thức hiện tại sẽ bị phá tan ngay tức khắc và ánh sáng sẽ được trả tự do.

Như vậy thì con hiểu là đấng Sáng tạo không thể tự biểu hiện trên trái đất. Điều này có nghĩa là con nên lượng định một cách thiết thực là tuyệt đối không có hình ảnh nào mà con có thể tạo ra trên trái đất có thể mô tả đấng Sáng tạo một cách chính xác và thích nghi. Con yêu dấu, đó là lý do vì sao thày nói là không có một nơi nào có đấng Sáng tạo ngồi với một hình tướng có thể nhận diện được. Đấng Sáng tạo là nguồn gốc của mọi hình tướng, do đó hoặc ngài không có hình tướng hoặc ngài có mọi hình tướng. Con có thể thấy nỗi khó khăn khi con mang tâm đường thẳng của trái đất áp dụng vào đấng Sáng tạo.

Con cảm nhận là có cái gì cao hơn trái đất. Con người đã phóng chiếu là phải có một tiến trình tuần tự nào đó, và tiến trình này chấm dứt ở điểm cao nhất, giống như hình ảnh một kim tự tháp. Phải có một điểm, một điểm duy nhất ở trên cao nhất, là nơi đấng Sáng tạo ngồi và từ đó nhìn xuống mọi thứ bên dưới. Thực sự thì đây chỉ là những hình ảnh mà con có thể hiểu được với tư duy đường thẳng đang ngự trị trái đất. Chúng hoàn toàn không dính dáng đến đấng Sáng tạo. Điều thày muốn các con chiêm nghiệm, không những chỉ ngay lúc này mà một cách chung chung, là đấng Sáng tạo không có hình tướng, và tuyệt đối không có hình tướng nào trên trái đất có thể mô tả được đấng Sáng tạo. Không có hình ảnh nào mà con có thể tưởng tượng với tâm thức mà con có trên trái đất có thể mô tả đấng Sáng tạo.

7.4. Đấng Sáng tạo hơn bất cứ mọi hình tướng

Thày cũng muốn các con chiêm nghiệm điều có thể coi là một bí ẩn, là đấng Sáng tạo là nguồn gốc của mọi hình tướng. Khi đấng Sáng tạo tạo ra một hình tướng, thì ngài không trở thành hình tướng đó, nhưng hình tướng được tạo ra từ Bản thể của ngài. Đấng Sáng tạo ở trong hình tướng. Mỗi hình tướng bắt buộc phải có giới hạn vì nó được quy định, và tuy rằng đấng Sáng tạo có thể tạo ra một hình tướng được quy định, nhưng điều này không có nghĩa là Bản thể của đấng Sáng tạo bị giới hạn bởi hình tướng đó. Vì đấng Sáng tạo là tất cả những gì đang là và vì đấng Sáng tạo đã tạo ra mọi chuyện từ Bản thể của ngài, do đó đấng Sáng tạo là hình tướng nhưng cũng hơn hình tướng. Ngài không bị quy định bởi hình tướng, tuy rằng ngài đã quy định hình tướng.

Con yêu dấu, đây chính là nguyên tắc cốt yếu của sự sáng tạo. Con tạo ra một hình tướng. Bản thể của con ở trong hình tướng nhưng bản thể của con không bị gò bó vào hình tướng vì bản thể của con hơn thế. Con yêu dấu, đây cũng là nguyên tắc cốt yếu của sự đồng-sáng tạo khi con là một dòng sống cá biệt được tạo ra từ Bản thể của đấng Sáng tạo. Tuy con không do đấng Sáng tạo trực tiếp tạo ra, nhưng con thuộc một dòng xuất phát từ Tâm Một của đấng Sáng tạo. Đó là lý do vì sao các thày nói là các con đồng-sáng tạo trong bầu cõi đã được đấng Sáng tạo quy định. Tuy con đồng-sáng tạo, nhưng nguyên tắc cũng áp dụng vào sự đồng-sáng tạo của con.

7.5. Con đã sáng tạo cái gì

Con quy định một hình tướng. Để thị hiện nó, con phải phú cho nó một phần bản thể của con. Do dó, con – bản thể của con – ở trong hình tướng nhưng bản thể của con hơn hình tướng. Nó không phải là hình tướng. Nó không bị gò bó vào hình tướng. Con yêu dấu, hình tướng mà con đã tạo ra là gì vậy? Nó có phải là xác thân vật lý của con chăng? Không phải đâu, nó là bốn thể phàm của con; không phải là phần vật lý mà là tâm. Tâm trong cõi bản sắc, tâm trong cõi lý trí, tâm trong cõi cảm xúc, và tâm dính liền với thể vật lý. Đó là tạo vật của con.

Con đã tạo ra nó trong nhiều kiếp sống. Nhiều người trong các con đã ở những nơi khác trái đất, nhưng nhiều người trong các con đã ở trên trái đất trong nhiều kiếp. Con đã tạo ra bốn thể phàm, cỗ xe hồn (soul vehicle), cái ta giúp con sinh hoạt trên trái đất, liên hệ với trái đất. Nó cũng giúp con ở đây mà không bị phát điên, vì đây là một hành tinh có thể khiến các sinh thể bị phát điên.

Thày muốn cho con hình ảnh là con đã tạo cỗ xe phàm của con từ bản thể của con. Bản thể của con ở trong nó, nhưng bản thể của con không phải chỉ là nó. Bản thể của con hơn thế. Con yêu dấu, điều đã xảy ra là với thời gian, và đặc biệt vì hành tinh này tăm tối, con đã bị sa nhân lừa đảo và thao túng.

Thày muốn cho con hình ảnh là khi con xuống đầu thai lần đầu tiên trên trái đất, toàn bộ bản thể của con không đổ dồn vào bốn thể phàm của con. Điều thày nói ở đây không áp dụng cho các dòng sống đã được tạo ra từ sơ thủy để đầu thai trên trái đất. Thày đặc biệt nói tới những dòng sống đã tới trái đất sau khi trái đất rơi vào nhị nguyên. Những dòng sống ở trên trái đất lúc đó đã trở nên đồng hóa với bốn thể phàm của họ. Hầu hết các con đã tới đây với cái mà ta có thể gọi là một nhiệm vụ cứu nguy, trong đó con tình nguyện tới đây để nâng trái đất lên.

Khi con tới đây, con tạo ra từ bản thể của con một cỗ xe là bốn thể phàm của con. Ta có thể nói là bản thể của con lúc đó có một lượng tâm thức, lượng này tùy thuộc các kinh nghiệm mà con có. Điều mà thày nói ở đây không phải là một khái niệm tuyệt đối; nó phần nào là một khái niệm giả tạo. Thày nói ra điều này để giúp con hiểu là khi con xuống trái đất lần đầu, con yêu dấu, con chỉ đầu tư một phần nhỏ của lượng tâm thức của bản thể của con vào việc tạo ra bốn thể phàm. Con phải đầu tư một phần của bản thể của con vào việc tạo dựng cỗ xe hồn vì con không thể tạo ra bất cứ gì mà không tạo từ bản thể của mình, và do đó con cần đầu tư một phần bản thể của mình trong hình tướng mà con tạo ra.

Khi một phần tương đối nhỏ của bản thể của con được đầu tư vào bốn thể phàm, thì con có thể dễ dàng nhận ra là con không phải là bốn thể phàm của mình. Con hơn bốn thể phàm của mình, và do đó con không hoàn toàn tự đồng hóa mình với chúng. Con không hoàn toàn nhập vào việc trải nghiệm và coi trọng mọi chuyện xảy ra với bốn thể phàm, mọi chuyện xảy ra trên trái đất. Con ở trong thế gian, nhưng con không thuộc về thế gian. Con biết con ở đây và con biết là sa nhân không thể kiểm soát được con. Họ không thể tiêu diệt con. Con không thể bị tiêu diệt bởi bất cứ điều gì trên trái đất. Con biết sự kiện này.

7.6. Chấn thương nhập đời hoàn vũ

Khi con trải qua điều mà Mẹ Mary đã goi là chấn thương nhập đời hoàn vũ (cosmic birth trauma) thì con bị một cú sốc lớn, vì sa nhân đã hành hạ con một cách quá khắc nghiệt, và để đói phó với cú sốc đó, con đã phải tạo ra bốn thể phàm phức tạp hơn. Con đã phải tạo ra một số cấu trúc trong thể bản sắc của con. Con đã phải tạo ra một số cấu trúc trong thể lý trí và thể xúc cảm của con. Điều đó cũng đã ảnh hưởng cách con liên hệ với thân thể vật lý, và đã khiến con, trong các kiếp sống kế tiếp, thấy nhu cầu tạo ra một thân thể vật lý dày đặc hơn để có thể chịu đựng các năng lượng trên trái đất. Sau chấn thương nhập đời đó, con bắt đầu tạo ra một cỗ xe hồn phức tạp hơn để phản ứng lại những điều mà con phải trải qua trên trái đất.

Con yêu dấu, không ai chê trách con cả. Các thày hiểu đó là một phản ứng không thể tránh được trước những gì con phải trải qua. Điều thày muốn chỉ cho con thấy là để tạo ra cỗ xe hồn phức tạp đó, con đã phải đầu tư vào đó một phần lớn hơn của bản thể của mình. Khi con đầu tư càng nhiều bản thể của mình vào cỗ xe hồn, thì ý niệm bản sắc của con bị chú tâm vào đó nhiều hơn. Con càng ngày càng tự đồng hóa mình hơn với cỗ xe hồn, và do đó, so với trước kia, con không còn nhận ra, con không còn ý thức là con không phải là cỗ xe hồn, con hơn cỗ xe hồn, con là một sinh thể tâm linh đến từ một cõi cao hơn. Tức là con không bị mắc kẹt vào trái đất, con không bị mắc kẹt vào nhị nguyên, và con không bắt buộc phải phản ứng lại nhị nguyên. Con yêu dấu, con có thấy chăng là sa nhân đã cố ý và dần dần hành hạ con đến độ, để đối phó với tình trạng này, con đã phải tạo ra một cỗ xe hồn càng ngày càng phức tạp. 

Các thày đã cho con hình ảnh, hay đúng hơn các chân sư thăng thiên đã cho con hình ảnh, là có một lằn ranh phân chia vũ trụ vật chất và cõi tâm linh. Ở trên lằn ranh đó là Hiện diện TA LÀ của con, và ngay lằn ranh là một điểm chấm duy nhất. Có một dòng chảy năng lượng hình số tám từ phần phía trên, tức là Hiện diện TA LÀ, xuyên qua điểm chấm đó và xuống bốn thể phàm. Khi con nhân năng lượng lên bằng tình thương, thì dòng năng lượng chảy ngược trở lên và do đó, con nhận được nhiều hơn.

Điều mà các thày đã trao truyền là con có một cái Ta Biết. Ý nghĩa thực của giáo lý đó là để giúp con thấy được là, bất kể cỗ xe hồn mà con đã tạo ra có phức tạp đến đâu, thì con vẫn có khả năng bước ra ngoài nó và nối kết lại với Hiện diện TA LÀ của con. Cái Ta Biết là điểm nối kết mà con không bao giờ mất. Bây giờ, con có thể nói là với nhiều người trên trái đất, cái Ta Biết chỉ là một cái chấm nhỏ. Nó là một điểm nhận biết, môt điểm nối kết, nhưng đó là vì con đã tạo ra cỗ xe hồn rất phức tạp đã thu hút mọi sự chú ý của con, mọi ý niệm bản sắc của con, nên chẳng còn lại bao nhiêu sự chú ý để dành cho Hiện diện TA LÀ.

7.7. Hiểu rõ dòng chảy hình số tám

Bây giờ, con yêu dấu, con có thể nói là lúc đầu tiên khi con xuống trái đất và tạo ra bốn thể phàm (trước khi con bị sa nhân hành hạ), thì dòng chảy hình số tám giữa Hiện diện TA LÀ và bản thể thấp của con đã thấp hơn hiện nay. Có một phần của Hiện diện TA LÀ của con, một phần của cái ta cao của con, ở trong bát cung bản sắc. Nó gần con hơn nhiều, và do đó con có thể kết nối với nó dễ dàng hơn nhiều. Con dễ biết là con hơn bốn thể phàm của mình. Khi con tạo ra cỗ xe hồn phức tạp hơn và bắt đầu tự đồng hóa mình nhiều hơn với nó, thì con mất mối liên lạc có ý thức với Hiện diện TA LÀ. Đó là lý do vì sao ta có thể nói là Hiện diện TA LÀ đã phải rút lui trở lên để nó không bị ảnh hưởng bởi những gì xảy ra cho con trên trái đất. Đó là lý do vì sao trung tâm điểm của dòng chảy hình số tám ngày nay ở ngay lằn ranh giữa cõi tâm linh và bầu cõi nơi con đang chú tâm.

Điều thực sự có thể xảy ra là, khi con đi trên con đường tu, con mở ra lối để Hiện diện TA LÀ có thể bắt đầu đưa một phần của nó xuống các tầng cao của thể bản sắc của con, và ngay cả dần dần xuống sâu hơn nữa. Đó là cách để con trở thành một với Hiện diện TA LÀ của mình. Thày biết là các chân sư thăng thiên đã truyền cho các con một số hình ảnh trong quá khứ, nói rằng con trở thành một cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ và Hiện diện TA LÀ biểu lộ chính nó qua con. Khái niệm này có giá trị, nhưng nó vẫn là một khái niệm đường thẳng. Con cũng có thể nói là vì con là cánh cửa mở, nên Hiện diện TA LÀ có thể đưa một phần của nó xuống bốn thể phàm, càng lúc càng xuống sâu hơn cho tới khi nó phần nào điều khiển được cả xác thân vật lý.

Con yêu dấu, các cách mô tả tiến trình này không mâu thuẫn nhau. Đây chỉ là những cách khác nhau, một cách thì thích ứng hơn cho tư duy đường thẳng, trong khi cách thày trình bày có tính cách quả cầu hơn, ít đường thẳng hơn. Do đó, con cần chiêm nghiệm một chút nếu con vẫn còn dính vào lối nhìn mọi chuyện một cách đường thẳng.

Con yêu dấu, con thấy chăng là khi các thày tiết lộ một giáo lý, các thày cần thích nghi nó cho trình độ tâm thức và điều này có nghĩa là các thày phải tiết lộ giáo lý cho tư duy đường thẳng đang ngự trị trái đất. Khi các thày tiến triển việc tiết lộ tuần tự, thì các thày sẽ càng ngày càng dùng ít khái niệm đường thẳng, và nhiều khái niệm quả cầu hơn. Các giáo lý này hướng về những ai đã bắt đầu bước ra khỏi khuynh hướng tự đồng hóa với tư duy đường thẳng và nhận ra rằng họ không phải là tâm đường thẳng, và không phải mọi chuyện đều có thể được giải thích bằng một kiểu mà tâm đường thẳng có thể hiểu.

7.8. Hiện diện TA LÀ là gì?

Nó quả thực là môt bí ẩn. Quả thực là khái niệm Hiện diện TA LÀ là một thách đố. Hiện diện TA LÀ chính xác là gì? Nó liên hệ với con ra sao? Ta có thể đem hình ảnh của Thượng đế xa cách và chuyển nó sang Hiện diện TA LÀ, như nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã làm. Ta cũng có thể vượt qua hình ảnh này và nhận ra là ta không thể thật sự hiểu Hiện diện TA LÀ với tâm đường thẳng. Con yêu dấu, tại sao lại như vậy? Đó là vì tâm đường thẳng tạo ta hình tư tưởng và phóng chiếu các hình này lên hiện tượng mà con đang tìm hiểu. Khi con muốn hiểu Hiện diện TA LÀ thì tâm đường thẳng của con tạo ra một hình tư tưởng. Nó chỉ biết có cách đó mà thôi. Tâm vỏ ngoài của con, tâm đường thẳng của con, tạo ra một hình tư tưởng và sau đó phóng chiếu hình này lên Hiện diện TA LÀ và nói: “Hiện diện phải như thế này.”

Đây là cách con người và sa nhân hành xử với ý tưởng. Con tạo ra một ý tưởng và phóng chiếu nó lên thực tại. Sau đó, con tìm hiểu thực tại qua phin lọc của ý tưởng, như vậy thực sự có nghĩa là con muốn thực tại phải tuân theo viễn quan của con, phải chứng thực viễn quan của con. Con yêu dấu, các thày không trao truyền cho các con khái niệm Hiện diện TA LÀ để các con tìm hiểu nó từ bên ngoài và tìm cách hiểu nó bằng tâm đường thẳng. Các thày đã trao truyền khái niệm đó với mục đích giúp các con tới điểm có thể trực tiếp trải nghiệm Hiện diện TA LÀ và giải tỏa bí ẩn của tâm đường thẳng.

Cái Ta Biết cũng là một khái niệm mà các thày đã trao truyền. Nó cũng là một bí ẩn. Cái Ta biết chính xác là gì? Khi ta nói nó là nhận biết thuần khiết thì có nghĩa gì? Ấy, nói một cách giản dị, thì có nghĩa là nó không nhị nguyên. Nó không phải lúc nào cũng quan niệm có hai đối cực và do đó phải giải thích mọi chuyện với tư duy nhị nguyên. Nó có tiềm năng nối kết với Hiện diện TA LÀ, với các chân sư thăng thiên, với tâm không đường thẳng, với tâm không nhị nguyên. Nó có thể trực tiếp trải nghiệm điều này – và con có thể trực tiếp trải nghiệm thực tại không đường thẳng.

Các con đã nói đến điều gì khi đề cập đến giao tiếp từ trái tim? Nó không phải là giao tiếp đường thẳng. Nó không đường thẳng. Nó có tính chất quả cầu vì nó kết nối thay vì chia rẽ. Suy nghĩ đường thẳng chỉ có thể chia rẽ vì suy nghĩ đường thẳng muốn quy định một hình tướng bằng cách tách nó ra khỏi các hình tướng khác.

7.9. Suy nghĩ đường thẳng và đồng-sáng tạo

Vậy khác biệt giữa suy nghĩ đường thằng và đồng-sáng tạo là gì? Có phải chăng là thày đã nói ở trên là con đồng-sáng tạo bằng cách hình dung một hình tướng và phú cho nó một phần của bản thể của mình? Có khác biệt gì chăng? Ấy, có đó. Khác biệt có vi tế chăng? . Nó có dễ hiểu chăng? Không, nếu ta dùng tâm đường thẳng! Con không thể hiểu nó. Nhưng tuy con tạo ra một hình tướng hiện hữu trong không gian và thời gian và do đó bị giới hạn vào một cái gì có vẻ đường thẳng đối với con, nhưng hình tướng không được tạo ra bởi tâm đường thẳng. Con yêu dấu, con thấy chăng là con có một thể lý trí. Hầu hết các con cho rằng mình suy nghĩ với thể lý trí. Do đó, con sẽ nói là tâm đường thẳng của con là một phần tự nhiên của thể lý trí. Đó là giới hạn. Tâm đường thẳng không phải là một phần tự nhiên của thể lý trí. Tâm đường thẳng là một sản phẩm của việc sa ngã vào nhị nguyên. Tâm đường thẳng chỉ có thể thấy thời gian và không gian như hiện tượng đường thẳng. Đó là lý do vì sao con thấy thời gian vận chuyển từng phần một theo một hướng nhất định không đảo ngược được. Đó là lý do vì sao con thấy không gian, và con có thể đi từ một nơi này tới một nơi khác trong không gian. Bây giờ, tâm đường thẳng không tà ác. Chỉ duy có điều là tâm đường thẳng bị giới hạn vào lối suy nghĩ đường thẳng, và do đó, nó xếp mọi thứ tách biệt khỏi mọi thứ khác. Nó chỉ có thể quy định hình tướng bằng sự khác biệt.

Bây giờ, con hãy nghe kỹ điều thày nói ở đây. Tâm đường thẳng cần thấy sự khác biệt giữa một hình tam giác và một hình tròn để có thể tách hai hình đó ra và nhận diện chúng. Cho tới đây thì mọi chuyện vẫn tốt. Vốn dĩ không có vấn đề gì với tiến trình này. Khi con tạo ra một hình tướng, con cần tách hình tướng đó ra khỏi các hình tướng khác và phú cho nó một phần bản thể của mình. Con thấy chăng, khi con không ở trong nhị nguyên thì con biết là hình tướng đã được tạo ra từ bản thể của mình, và bản thể này là một phần của Bản thể rộng lớn hơn của Tâm Một của đấng Sáng tạo và của mọi sự sống. Do đó, hình tướng không tách biệt khỏi cội nguồn của nó. Đối với tâm đường thẳng, cội nguồn duy nhất, tâm một không có, và do đó, tâm đường thẳng thấy hình tướng khác biệt.

Con yêu dấu, khi con đồng-sáng tạo lần đầu, con không tạo ra từ tâm đường thẳng. Thể lý trí của con, trước khi con rơi vào nhị nguyên, không suy nghĩ theo lối đường thẳng, không có cái mà bây giờ con gọi là tâm đường thẳng. Tâm đường thẳng hiện ra sau khi con rơi vào nhị nguyên, và điều này có nghĩa là có nhiều hiện tượng trên trái đất đã bị ảnh hưởng bởi tâm đường thẳng. Thày không nói là chúng do tâm đường thẳng tạo ra, vì không phải như vậy. Tâm đường thẳng không thể sáng tạo, nhưng nó có thể là một phin lọc mà con dùng để hình dung một số hình tướng, sau đó con phú cho chúng một phần bản thể của mình và khiến chúng thị hiện trong cõi vật lý.

Nhân loại đã tạo ra một số hiện tượng bị ảnh hưởng bởi tâm đường thẳng. Lẽ dĩ nhiên, đây là điều, như các chân sư thăng thiên đã giảng cho các con, đã khiến vật chất dày đặc hơn – đã tạo ra rất nhiều biểu hiện bất hài hòa, bất quân bình đấu đá lẫn nhau, phá vỡ lẫn nhau – sinh ra bệnh tật và cái con người gọi là thiên tai. Tất cả những biểu hiện bất quân bình này đều bị ảnh hưởng bởi tâm đường thẳng, nhưng tại sao vậy? Vì sao có xung đột giữa một số hình tướng trên trái đất? Vì sao có xung đột giữa các nhóm người? Đó là vì tâm đường thẳng chỉ thấy được sự khác biệt, và sau đó nó quy định là một hình tướng tách biệt khỏi hình tướng khác. Cái tâm cao, tâm quả cầu, lẽ đương nhiên thấy sự khác biệt giữa các hình tướng. Trên cõi thăng thiên, các thày có thấy sự khác biệt giữa một hình tam giác và một hình tròn. Các thày cũng thấy là chúng không phải là hình tướng tách biệt bay lơ lửng trong không gian, vì chúng có cùng nguồn cội. Chúng được phú cho cùng một tâm thức, và đây là điều kết hợp mọi chuyện.

7.10. Đồng hóa mình với cỗ xe hồn

Khi con người bắt đầu tạo ra những cỗ xe hồn phức tạp hơn, thì họ đầu tư càng ngày càng nhiều bản thể của họ vào trong những cỗ xe hồn đó, và bỗng nhiên họ tự đồng hóa họ với cỗ xe hồn. Các cỗ xe hồn bị ảnh hưởng bởi tư duy đường thẳng vì sa nhân đã thành công trong việc khiến tư duy dường thẳng ngự trị trái đất. Con tạo ra cỗ xe hồn để đáp ứng lại tư duy đường thẳng của sa nhân, và đó là lý do vì sao khi cỗ xe hồn đã trở nên phức tạp (khi phần lớn lượng bản thể của con được đầu tư vào đó), con đã chuyển hóa và bắt đầu tự coi mình là một sinh thể đường thẳng.

Đó là lý do vì sao con người đã tự đồng hóa mình với những phân chia mà con thấy trên trái đất: hai giới tính, nam và nữ, các chủng tộc, các nhóm sắc tộc, các tôn giáo, các đảng phái chính trị, các quốc gia. Đó là lý do vì sao con người đã đầu tư quá nhiều vào các phân chia vỏ nên không thể giao tiếp ở tầng trái tim. Họ không thể hiểu nhau; họ không thể chấp nhận được nhau. Họ chỉ có thể thấy xung đột, và do đó không thể có sự hợp nhất thực sự.

Vậy, đâu là yếu tố duy nhất có thể bắc nhịp cầu, có thể vượt qua trạng thái đó? Đó là tình thương. Đó là tình thương theo nghĩa Thiêng liêng. Các thày đã gọi nó là tình thương vô điều kiện để phân biện nó với tình thương nhị nguyên của tâm nhị nguyên, tình thương nhị nguyên do sa nhân quy định. Họ đã quy định nó khi họ nói: “Đây là tình thương thật sự.” Và sau đó: “Đây là cái đối ngược của tình thương, đây là phản-tình thương.” Đây là tình thương, và đối ngược là gì? Là hận thù. Ấy, cả hai tình thương và hận thù do sa nhân quy định từ tâm thức nhị nguyên không dính dáng gì đến Tình thương Thiêng liêng.

Cái Ta Biết của con có thể trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng, bất kể cỗ xe hồn của con phức tạp thế nào, bất kể con đã đầu tư bao nhiêu phần bản thể của mình vào nó, bất kể con đã tự đồng hóa bao nhiêu với nó. Con có thể bước ra ngoài cỗ xe hồn, dù chỉ là trong một khoảnh khắc, và trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng. Khi con trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng, thì nó sẽ chuyển hóa con. Nó sẽ chuyển hóa cách con nhìn mọi chuyện, con yêu dấu.

7.11. Sự tương đồng giữa tất cả mọi người

Cách duy nhất giúp Châu Âu đạt được hợp nhất cao (là hợp nhất thực sự, chứ không phải hợp nhất ép buộc mà các con đang cố tạo ra), là càng ngày càng có nhiều người nối kết được với tình thương đó. Qua đó, họ nhận ra rằng: “Tuy chúng ta đã lớn lên trong những quốc gia khác nhau, chúng ta có những điểm tương đồng. Chúng ta cùng có một cái gì tương đồng.” Nhiều người gọi đó là “nhân tính” (humanity). Ấy, bất kể con người gọi nó là gì, điều quan trọng là họ nhận ra: “Chúng ta có điểm tương đồng, và cái tương đồng đó quan trọng hơn những phân chia vỏ ngoài.” Tại sao vậy? Vì khi con trải nghiệm cội nguồn bên trong mình, khi con đã chính mình kết nối với cội nguồn đó, và khi con gặp một người đã kết nối với cội nguồn của người đó, thì con sẽ cảm thấy có cái gì xảy ra giữa hai người khi các con hội tụ. Đột nhiên, có cái gì hơn nữa.

Có một câu ngạn ngữ cổ nói rằng khi con người gặp nhau, thì một bản nhạc êm ái trổi lên. Con nhận ra là khi con hiệp lại với nhau thì trong sự hiệp nhất đó có cái gì nhiều hơn so với khi các con đơn lẻ. Tác dụng là gì? Con cảm thấy thoải mái hơn và con cảm giác thoải mái hơn về chính mình. Đó là lý do vì sao con người muốn trải nghiệm nó. Như Mẹ Mary đã nói, càng lúc càng có nhiều người nhận ra giá trị của điều này, nhận ra nó một cách có ý thức. Họ muốn sự kết nối chân thực với cái gì cao hơn, bất kể họ thấy hay gọi cái đó là gì. Họ muốn nó, và quả thực đây là một sự biểu hiện tình thương: đây là tình thương biểu lộ. Nó vượt quá tầng của tâm thức, của ý niệm bản ngã mà con người đang có, và bỗng nhiên họ trải nghiệm cái gì hơn nữa. Đây là điều con trải nghiệm khi con mở lòng ra với Hiện diện của các chân sư thăng thiên và của các thành viên khác tại một hội nghị như thế này.

7.12. Trải nghiệm tình thương của Thượng đế

Khi con nối kết với tình thương đó, thì con vượt lên trên tâm đường thẳng, và do đó con không cần phải nhìn đấng Sáng tạo xuyên qua tâm đường thẳng. Con không cần nhìn tình thương xuyên qua tâm đường thẳng. Do đó, con có thể bắt đầu giải tỏa các bí ẩn mà thày đã nói ở trên. Đấng Sáng tạo có thương yêu con không? À, con yêu dấu, đấng Sáng tạo có thương yêu con với tình thương vô điều kiện và vô hạn, nhưng con thấy chăng, đấng Sáng tạo đã ban cho con quyền tự quyết và đấng Sáng tạo tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết của con. Do đó, đấng Sáng tạo sẽ không bao giờ áp đặt ý chí của ngài lên con. Con có thể trải nghiệm Bản thể của đấng Sáng tạo, tình thương yêu của đấng Sáng tạo, nhưng con phải mở lòng ra đón nhận nó.

Vị sứ giả này đã trải nghiệm điều này, như ông có mô tả, và đó là vì ông đã mở lòng ra đón nhận trải nghiệm. Sau đó, ông đã thấm nhập trải nghiệm đó và tới điểm vượt qua được cái nhìn đường thẳng về Thượng đế, cái nhìn đường thẳng về tình thương, và do đó chấp nhận được là điều ông trải nghiệm là tình thương yêu của đấng Sáng tạo. Qua đó, ông cũng hiểu và trải nghiệm là tình thương yêu của đấng Sáng tạo là tình thương yêu mình, nhưng từ tầm nhìn của con, con sẽ trải nghiệm nó như một tình thương không có cá nhân tính. Không phải là đấng Sáng tạo không chú ý tới từng cá nhân, nhưng đó là cách duy nhất mà con có thể trải nghiệm tình thương yêu của Thượng đế khi con còn ở trong môi trường dày đặc và trong bốn thể phàm trên trái đất.

Tuy rằng con có thể trải nghiệm Bản thể của đấng Sáng tạo và trải nghiệm là con nối kết với đấng Sáng tạo (con từ đấng Sáng tạo sinh ra và đấng Sáng tạo thương yêu con), nhưng vì những hạn chế của trái đất nên con sẽ trải nghiệm là tình thương của Thượng đế không có cá nhân tính. Đó là lý do vì sao, như có ghi trong bài Cầu thỉnh thương yêu chính mình, các thày đã cho con hình ảnh là Thượng đế Mẹ ban tình thương cho cá nhân con, tình thương nuôi dưỡng. Lẽ dĩ nhiên, Thượng đế Mẹ là gì? Ấy, ta có thể nói là tất cả là Mẹ, là phân cực của đấng Sáng tạo là nguyên lý Cha. Đối với con, tuy con là một sắc thái của tính Mẹ, nguồn của Tình thương Thiêng liêng cho con trước hết và chủ yếu nhất là các chân sư thăng thiên đang làm việc với trái đất. Các vị đó sẵn sàng ban cho con Tình thương Thiêng liêng, có nghĩa là một Ngọn lửa Mẹ là tình thương cá nhân cho con, một tình thương nuỗi dưỡng cho cá nhân con. Như thày có nói, vì những hạn chế của trái đất nên con không thể trải nghiệm tình thương của đấng Sáng tạo như cái gì dành cho cá nhân con, cho cá nhân con, nhưng con có thể trải nghiệm tình thương của một vị chân sư thăng thiên như một tình thương rất cá nhân, gửi cho chính con. Như một người đã phát biểu ngày hôm qua, con có thể tạo một mối liên hệ như vậy với một vị chân sư thăng thiên, và vị chân sư này sẽ trở nên như một người tâm lý trị liệu của riêng con. Con có thể nói chuyện với vị chân sư về mọi vấn đề và đặt đủ loại câu hỏi. Con sẽ có một câu trả lời, nhưng con phải nhớ rằng vị chân sư sẽ không trả lời câu hỏi đúng y như câu con hỏi, vì con thường đặt câu hỏi với tâm đường thẳng. Mục đích của vị chân sư là giải thoát con khỏi tâm đường thẳng và sự tự đồng hóa với bốn thể phàm. Đây là những loại trả lời mà con sẽ nhận được: những câu trả lời giải thoát con. Những câu đó không nhất thiết trả lời câu con hỏi một cách đường thẳng. Nhiều khi, khi vị chân sư thăng thiên trả lời câu hỏi một cách đường thẳng, thì câu trả lời chỉ củng cố tư duy đường thẳng và sự tự đồng hóa với bốn thể phàm của con.

7.13. Khái niệm tâm linh không theo đường thẳng

Có lẽ điều quan trọng là nhiều người trong các con nên hiểu là mục đích tìm hiểu giáo lý tâm linh không phải là để mình hiểu các khái niệm tâm linh với tâm đường thẳng. Rất, rất, rất nhiều đệ tử chân sư thăng thiên trong nhiều thập niên vừa qua đã bị mắc kẹt trong ý nghĩ cho rằng họ cần học giáo lý với tâm đường thẳng để họ có thể hiểu, phân loại và dán nhãn giáo lý. Họ lúc nào cũng có thể nhớ lại một câu trong các bài giảng và đọc ra cho các bạn nghe, và câu này dường như thích hợp với mọi hoàn cảnh. Đây chính thực là một ngõ cụt trên con đường tâm linh. Lối tu này không giúp con và thực sự lại có thể dẫn con vào đường tu giả, tức là khiến con nối kết với các thày giả trên cõi tư tưởng. Các thày giả này sẽ rất hoan hỷ cho con cảm giác con là một trong những đệ tử tâm linh xuất sắc nhất trên trái đất vì con có khả năng hiểu các khái niệm đó với tâm đường thẳng.

Mục đích thật của giáo lý chân sư thăng thiên không phải là để cho con hiểu biết, mà là để giúp con có một trải nghiệm trực tiếp: trải nghiệm trực tiếp Hiện diện TA LÀ, Hiện diện của một chân sư thăng thiên hay Hiện diện của đấng Sáng tạo, trải nghiệm thực tại không đường thẳng vượt lên trên trái đất. Trải nghiệm đó chính là tình thương. Đó là một trải nghiệm khiến con chuyển hóa. Con có thể thấy là khi một số người gặp gỡ và cảm thấy có tình thương với nhau, thì họ chuyển hóa và bỗng nhiên họ có thể giải quyết các vấn đề và xung đột bên ngoài mà trước kia họ không giải quyết được.

7.14. Một thực tập để chữa lành

Các con yêu dấu, thày biết là thày đã thử thách sức chịu đựng của các con, nhưng thày vẫn chưa xong bài giảng. Thày tin rằng các con sẽ có thể tiếp tục chú tâm khi thày trình bày một thực tập mà thày thực sự muốn trao truyền cho các con. Thày sẽ có mặt bên con mỗi khi con làm thực tập này. Con có thể được kết quả tốt hơn nếu, trước khi con bắt đầu thực tập, con đọc lại bài truyền đọc này vì những khái niệm mà thày trình bày trong đó, lẽ dĩ nhiên, không phải là chuyện tình cờ. Các khái niệm đó là bối cảnh để con thực tập thành công.

Con yêu dấu, thày muốn con suy ngẫm là mục đích của con là cảm thấy thoải mái với chính mình. Lẽ tự nhiên, con có thể nhìn vào trái đất và áp dụng một số mô thức mô tả hiện trạng của trái đất. Con có thể áp dụng một mô thức và nói rằng nguyên do của tất cả mọi vấn đề trên trái đất, tất cả mọi xung đột giữa con người, đều do con người không cảm thấy thoải mái với chính họ. Và để bù đắp lại cảm giác đó, thay vì sửa đổi chính họ và bản thể nội tại của họ, thì họ lại tìm cách thay đổi thế gian và thay đổi người khác. Khi con người khẩn thiết muốn được thoải mái với chính họ bằng cách kiểm soát môi trường, thì đó là đầu mối của tất cả mọi xung đột.

Con cũng thể nói là điều này cũng áp dụng cho sa nhân, vì khi họ sa ngã, họ không cảm thấy thoải mái với chính họ tuy một số trong họ có lòng kiêu hãnh tâm linh lạ thường. Nếu con thực sự nhìn vào một sa nhân, thì con thấy là họ không thoải mái với chính họ. Họ đã thành công trong việc chế ngự trái đất bằng cách khiến con người cảm thấy không thoải mái với chính mình. Nhìn từ góc độ nào đó thì đây là vấn đề duy nhất trên trái đất.

Mục đích của bài này là giúp con cảm thấy thoải mái với chính mình và mục đích của bài thực tập là giúp con trải nghiệm phần quả cầu của bản thể của con. Làm sao con thực sự cảm thấy thoải mái với chính mình? Không phải bằng cách hoàn thành một điều kiện nào đó trên trái đất, nhưng bằng cách nối kết với con người thật của mình, với cái ta cao của mình. Hiện diện TA LÀ của con không thể nào khiến con cảm thấy không thoải mái với chính mình. Con không thể nào cảm thấy không thoải mái với chính mình khi con trải nghiệm Hiện diện của một chân sư thăng thiên. Con không thể nào cảm thấy không thoải mái với chính mình khi con trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng. Con có thể sau đó có một phản ứng, và nó khuấy động điều gì đó trong tâm lý của con, và điều này được phơi bày ra khiến con cảm thấy không thoải mái với chính mình, nhưng đó không do sự trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng, vì khi con ở trong đó thì con cảm thấy thoải mái vì cái ta vỏ ngoài tan biến đi. Mục tiêu là con cảm thấy thoải mái hơn với chính mình, hơn những gì con đang cảm thấy hiện nay.

7.15. Một bài hình dung

Thày muốn con hình dung là con đang đi xuyên qua một khu rừng. Có nhiều cây rậm rạp hai bên nhưng con không để ý đến chúng. Có một con đường mòn trước mặt con. Con đi xuyên qua khu rừng. Con tới một khoảng trống trong khu rừng và ở đó có một cái tháp quan sát giống như con có thể thấy ở một số nơi, con có thể trèo lên đỉnh tháp đó và con sẽ ở cao hơn các ngọn cây và có thể nhìn phong cảnh khắp chung quanh. Con bây giờ đang đứng ở dưới chân tháp và tháp đó có nhiều tầng. Có những bậc thang dẫn tới một mặt phẳng. Từ mặt phẳng đó, có những bậc thang khác đi lên trên. Con hiện đang đứng trên mặt đất. Trước mặt con là những bậc thang đưa lên mặt phẳng thứ nhất. Con đừng nên quan tâm tới đỉnh tháp. Con chỉ nhìn lên mặt phẳng thứ nhất. Có một vị chân sư thăng thiên đang đứng trên mặt phẳng đó. Vị chân sư đó là ai tùy theo mỗi cá nhân con. Vị nào mà con cảm thấy gần gũi nhất với tim mình, thì vị ấy đang đứng trên mặt phẳng thứ nhất. Vị chân sư đang mở hai vòng tay chào đón con. Con biết là nếu con bước lên mặt phẳng đó, thì vị chân sư sẽ ôm con và con biết con sẽ cảm thấy thoải mái hơn với chính mình khi con được một vị chân sư thăng thiên ôm vào lòng.

Vì lý do nào đó, con không nâng bàn chân lên khỏi mặt đất được. Con cố gắng hết sức, nhưng hai bàn chân vẫn dính chặt vào mặt đất. Con nhận ra lý do là vì con đang mang trên mình một gánh nặng. Con đang mang trên mình một gánh nặng và nó đang ngăn cản con bước lên bậc thang. Thày không muốn con nhìn vào chi tiết của gánh nặng đó. Con có thể có một ý niệm nó là cái gì, hay con không có; nhưng con đừng tốn năng lượng tư tưởng cố tìm hiểu nó là cái gì. Con chỉ giản dị hòa điệu với sự kiện có một cái bị đeo trên vai đang khiến con bị nặng chĩu.

Con yêu dấu, bây giờ thì con nhìn lên vị chân sư và con phải lấy một quyết định: “Tôi có muốn bước lên cầu thang và ôm vị thày chăng? Vì nếu vậy thì tôi cần lấy cái bị trên vai tôi và giản dị để nó tuột khỏi vai tôi và rơi xuống mặt đất.”

Bây giờ thì con nhận ra là con quả thực có đủ uy lực để làm chuyện này. Con có thể đẩy cái bị ra, trùng vai xuống, đẩy quai bị và để nó tuột xuống cánh tay của con và nó rơi xuống mặt đất. Bây giờ thì con có thể bước lên cầu thang thứ nhất.

Nếu con muốn thì con có thể cảm thấy đã trút bỏ gánh nặng, và con nắm thành cầu thang và bước lên những bậc thang, và trên đầu cầu thang có vị chân sư ôm chầm lấy con. Con ôm vị thày và con cảm thấy tình thương của vị thày. Con cảm thấy tình thương đó bao phủ toàn thân con, và ngay lúc này, không có chuyện gì hệ trọng nữa.

Nếu con làm thực tập này ở một lúc khác, thì con có thể chọn ở lại tầng này. Không có gì sai trái với việc ở lại tầng thứ nhất này, và ôm vị thày bao lâu cũng được. Con có thể làm thực tập này nhiều lần và vẫn đi tới tầng thứ nhất và ôm vị thày này.

Để tiếp tục bài thực tập, thày bây giờ muốn con nhận ra là con đang ở trên mặt phẳng và có một cầu thang khác dẫn tới mặt phẳng thứ hai bên trên con. Khi con bước tới cầu thang này, thì con thấy có một vị chân sư thăng thiên khác, một lần nữa vị này là ai tùy theo mỗi người trong các con, đang mở rộng vòng tay chờ đón con. Một lần nữa, con cảm thấy bị dính vào mặt phẳng nơi con đang đứng vì con có một cái bị khác đang đè lên vai con.

Một lần nữa, con nhận ra là nếu con muốn, con có uy lực để nhẹ nhàng đẩy nó ra để nó tuột xuống cánh tay con, rơi xuống mặt đất, và con lại tự do đi lên cầu thang. Ở trên đó, có vị chân sư thăng thiên thứ hai ôm chầm lấy con. Một lần nữa, con cảm nhận tình thương của vị thày. Con cảm thấy thoải mái với chính mình. Con cảm thấy tình thương nuôi dưỡng của Mẹ tỏa ra từ vị thày và bao trùm toàn thân con. Dù con thấy vị thày là vị thày nam hay nữ, thì vẫn là tình thương nuôi dưỡng của Mẹ đang tỏa tới con. Con cảm thấy tình thương này dành cho cá nhân con.

Vị thày này biết con, thương yêu con, không phán xét hay chỉ trích con, thương yêu con đúng như con là ngay lúc này. Không có điều kiện nào, ngoại trừ con có ý muốn ôm chầm vị thày của con, và con muốn, ít nhất là trong một khoảng thời gian ngắn, trút bỏ gánh nặng mà con vẫn thường mang theo mình, để con có thể mở lòng ra cho vị thày ôm mình. Vì sao con lại cần mở lòng mình ra? Bởi vì nếu không, thì con không thể cảm thấy tình thương yêu của vị thày. Không phải là vị thày không tỏa ra tình thương, mà chỉ vì con không thể cảm được nó.

Một lúc sau thì con nhận ra có một cầu thang nữa, dẫn tới một mặt phẳng thứ ba và một vị chân sư khác. Một lần nữa. có một gánh nặng mà con có thể trút xuống. Thày không nói các gánh nặng này là gì vì chúng tùy mỗi cá nhân các con. Khi con làm thực tập này, gánh nặng cũng có thể chuyển đổi. Nó có thể khác đi. Con có thể có một viễn quan ngày càng rõ hơn, hay cũng có thể một viễn quan khác. Đó là lý do thày không cho con một viễn quan rõ rệt về nó. Nó chỉ giản dị là một gánh nặng mà con cảm thấy ngay lúc này, và nó ngăn cản con không bước lên được cầu thang thứ ba, và con để nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang, và một lần nữa con ôm chầm vị thày ở đó.

Sau một thời gian trong vòng tay vị thày, thì con lại nhận thấy có một cầu thang thứ tư dẫn tới một mặt phẳng thứ tư và nơi đó có vị thày thứ tư đang đợi con. Một lần nữa, con nhận ra là con có một gánh nặng và con chỉ giản dị để nó rơi xuống, vì nay việc này đã dễ làm hơn. Con để cho nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang và con ôm chầm vị thày. Đúng, nếu con muốn, con có thể xem các vị thày này tương ứng với các tia ánh sáng, nhưng con không cần phải đi theo đường thẳng như vậy. 

Một lần nữa, tùy con cảm thấy thế nào lúc thực tập (và cũng có thể là vị thày khác nhau mỗi lần thực tập), con bước lên cầu thang và con ôm chầm vị thày thứ tư và cảm thấy tình thương yêu của vị thày đó. Con bắt đầu nhận ra là mỗi vị thày có một đặc tính riêng của Tình thương Thiêng liêng. Mỗi vị thày cho con một cái gì khác, mỗi thứ này đúng những gì con cần để chữa lành một sắc thái nào đó của tâm lý của con. Trong một lúc, con cảm thấy hạnh phúc trong vòng tay ôm của vị thày; và khi con tự mình thực tập, thì con có thể ở mỗi tầng bao lâu con muốn.

Sẽ có một lúc con nhận ra là có một cầu thang khác dẫn lên tầng thứ năm. Một lần nữa, con có một gánh nặng. Con nhận ra nó. Con để nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang và con ôm chầm vị thày. Một lần nữa, vị thày này cho con một tính chất hơi khác của Tình thương Thiêng liêng, một hình thức nuôi dưỡng hơi khác. Một lần nữa con cảm thấy thoải mái hơn, nhẹ nhàng hơn, được thương yêu nhiều hơn, được chăm lo nhiều hơn.

Sau một thời gian ở tầng thứ năm, thì lại có cầu thang thứ sáu, và con lại có một gánh nặng. Con để cho nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang. Bây giờ thì con ở trên tầng thứ sáu, con ôm chầm vị thày đang cho con một tính chất độc đáo của tình thương nuôi dưỡng của Mẹ Thiêng liêng. Con cảm thấy được thương yêu nhiều hơn nữa, trọn vẹn hơn nữa, đang được ôm chặt hơn nữa trong cảm nhận là không những chỉ có một người chăm lo cho con, mà thực sự là cả vũ trụ đang chăm lo cho con, cho riêng cá nhân con.

Con bắt đầu cảm thấy là toàn thể vũ trụ, toàn thể cõi Mẹ muốn nuôi dưỡng con, cá nhân con, và cho con điều con thực sự cần để con đi con đường mà con đã vạch ra cho mình trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con cảm thấy sự nuôi dưỡng đó. 

Con cảm thấy Mẹ không phải là địch thủ của mình. Mẹ đích thực muốn cho con những gì con cần. Vũ trụ muốn cho con những gì con cần – không nhất thiết là những gì tự ngã hay cái ta vỏ ngoài của con nghĩ nó cần, tỷ dụ như một chiếc xe mới bóng nhoáng, hay điều này điều nọ – nhưng vũ trụ muốn cho con những gì con cần để tăng trưởng.

Sau một thời gian chấp nhận là con thực sự đang sống trong một vũ trụ thân thiện, con nhận ra là có một cầu thang thứ bảy. Con lại cảm thấy có một gánh nặng, và con lại để nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang. Có một vị chân sư đang đợi con, nhưng vị thày không đứng ở ngay trên bực thềm cuối vì nay mặt phẳng rộng lớn hơn. Khi con lên tới tầng này, con bỗng nhiên nhận ra là con đã ở cao hơn các ngọn cây. Con ở trên tất cả những chuyện trên trái đất có vẻ khiến con quan tâm. Con gần như có cảm tưởng là con không còn ở trên trái đất. Con đang ở trong một cõi hoàn toàn khác.

Con nhìn xuống trái đất từ rất cao và con thấy trái đất bên dưới. Con thấy bốn thể phàm của mình. Con thấy cuộc đời của mình. Con thấy tất cả những người và những hoàn cảnh chung quanh con từ quãng xa. Con bỗng nhiên nhận ra: “Ồ, có đúng là những người và chuyện này không có tầm quan trọng gì cả nếu ta nhìn từ góc độ hoàn vũ? Có đúng chăng là mọi chuyện con đang trải qua và đang đè nặng lên vai con, và có vẻ rất quan trọng đối với con – có đúng chăng là chúng không quan trọng gì cả nếu nhìn từ góc độ cao này?”

Nếu con muốn, con có thể cho phép mình cảm thấy bỗng nhiên có vô số làn sóng năng lượng đang lớp lớp tràn lên con, và tâm thức của con được mở rộng và mở rộng và mở rộng ra thêm nữa. Con nhận ra là những gì xảy ra trên trái đất – những chuyện có vẻ rất quan trọng đối với con nhìn từ góc độ thường nhật của con – chẳng quan trọng gì cả khi nhìn từ góc độ hoàn vũ. Chúng không quan trọng một cách lạ thường. Không phải là chúng không có nghĩa lý gì, nhưng chúng không quan trọng khi so sánh với cái con là thực sự. Các điều kiện trên trái đất có quá ít ảnh hưởng trên Bản thể thực của con, trên con người mà con thực sự là. Chỉ vì con tự đồng hóa mình với hoàn cảnh nên chúng mới trở nên quan trọng và chúng mới có quyền lực trên con. Nhìn từ góc độ của Hiện diện TA LÀ thì chúng hoàn toàn không có quyền lực gì hết trên Hiện diện TA LÀ. Chúng hoàn toàn không quan trọng, chúng hoàn toàn không có khả năng quy định con.

Sau đó, con nhận ra là có một khoảng cách khủng khiếp giữa tầm nhìn từ Hiện diện TA LÀ và tầm nhìn của con khi con ở trong bốn thể phàm. Con nhận ra là Hiện diện TA LÀ cảm thấy rất thoải mái với chính nó và với con. Con cảm thấy rất thoải mái với chính mình khi con nhìn sự việc từ tầm nhìn của Hiện diện TA LÀ. Con muốn cảm giác đó. Con thực sự muốn giữ được ít nhất là một phần của cảm giác đó khi con trở về bốn thể phàm của mình, và con nghĩ: “Làm sao tôi làm được chuyện này? Làm sao tôi có thể bắc nhịp cầu qua khoảng cách? Làm sao tôi có thể có được một chút cảm giác mà Hiện diện TA LÀ có, khi tôi ở trong thân thể của tôi?”

7.16. Hãy mở lòng ra đón nhận

Lúc đó, con nhận ra là có một vị chân sư thăng thiên đang đứng trên mặt phẳng, giơ ngón tay và nói: “Thày có thể giúp con chăng? Con có cho phép thày giúp con giải tỏa bí ẩn này chăng?” Nếu con muốn, thì con có thể quay về phía vị thày và nói: “Xin thày giúp con thấy những gì trong tâm lý của con, trong thái độ của con, trong các niềm tin của con, trong bốn thể phàm của con, đang ngăn cản không cho con mang theo một phần nào những cảm nhận, tầm nhìn, của Hiện diện TA LÀ khi con trở về bốn thể phàm của con.” Tùy theo con mở lòng tới mức nào, vị thày sẽ cho con một xung lực. Có thể nó không phải là một hiểu biết trí năng, đường thẳng, dùng lý trí. Tùy con mở lòng tới mức nào, vị thày sẽ cho con một xung lực.

Bất cứ điều gì con nhận được từ vị thày, thì lúc ban đầu con khó hiểu thấu. Chắc chắn là tâm đuờng thẳng của con sẽ khó hiểu thấu vì vị thày đang tìm cách giúp con trải nghiệm tầm nhìn từ Hiện diện TA LÀ, và Hiện diện TA LÀ không nhìn cuộc đời với tâm đường thẳng. Vị thày không thể cho con hiểu biết hay khái niệm đường thẳng vì tâm đường thẳng, khi con trở về bốn thể phàm của mình, sẽ chỉ dùng nó để tạo ra một hình tư tưởng khác. Vị thày đang tìm cách trao cho con một cái gì mà con có thể hiểu và có thể mang theo mình. Thày muốn con mở lòng ra đón nhận bất cứ điều gì vị thày trao cho con, và gìn giữ nó, và mang nó theo con khi con đi trở xuống các bậc cầu thang.

Lúc ban đầu, con có thể chỉ muốn đi xuống các bậc thang mà không chú ý đến các vị thày, và trở về bốn thể phàm của mình. Khi con đã quen thuộc hơn với thực tập này, thì con có thể khám phá ra là con có thể ngừng ở mỗi tầng và mỗi vị thày sẽ cho con một cái gì sẽ giúp con.

Con đang đi xuống những bậc thang của tháp, và nay con đã xuống tới mặt đất. Bây giờ thì con đã trở về bốn thể phàm của mình. Con bước trở ra về phía khu rừng, và khi con bước xuyên qua khu rừng thì con dần dần trở về bốn thể phàm của mình, và bây giờ thì con đang ngồi trong chiếc ghế với tâm ý thức bình thường của mình.

7.17. Một tầm nhìn khác

Thày mong rằng con giữ được điều gì đó từ thực tập vừa rồi, và nó sẽ giúp con có được một tầm nhìn khác. Nó sẽ giúp con bắt đầu tiến trình giải quyết vướng mắc trong tâm lý để con dần dần tới điểm con có được tầm nhìn của Hiện diện TA LÀ khi con còn đang sống trong bốn thể phàm của mình. Qua đó, không có gì trên trái đất có uy quyền trên con nữa. Không có gì quy định được con. Con không hoàn toàn tự đồng hóa mình với bất cứ gì. Không có gì con thấy quan trọng đến độ con cảm thấy bị bó buộc phải phản ứng lại nó, và lúc nào cũng phải phản ứng cùng một kiểu.  

Con nhận ra con có thể chọn lựa phản ứng của mình. Con có thể chọn lựa không phản ứng. Con có thể tới điểm con đã vượt thăng những yếu tố trong tâm thức khiến con phản ứng lại một số người hay một số hoàn cảnh. Thày bảo đảm với con là một khi con đã thăng vượt một tầng tâm thức nào đó, con sẽ không còn thu hút những người hay hoàn cảnh khiến con phản ứng. Lúc đó, vì con không còn bị mắc kẹt trong những khuôn nếp phản ứng nên con sẽ dễ dàng hơn hòa điệu với Hiện diện TA LÀ, với các chân sư thăng thiên, và cảm thấy tình thương vượt lên trên trái đất, và do đó, thực sự khiến mọi chuyện trên trái đất trở nên không quan trọng bằng trải nghiệm và biểu lộ tình thương đó.

7.18. Tình thương Thiêng liêng là tầm nhìn tối hậu

Một khi con đã thoáng thấy Tình thương Thiêng liêng, thì không có gì trên trái đất có thể quan trọng khi so sánh với Tình thương Thiêng liêng. Không phải là có điều gì trên trái đất có thể so sánh với Tình thương Thiêng liêng, nhưng cảm giác mà con có khi con trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng vượt lên trên bất cứ điều gì con có thể trải nghiệm trên trái đất. Điều này sẽ lôi kéo con muốn trải nghiệm nó càng ngày càng nhiều hơn, và con càng trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng, thì con càng tách mình ra, không còn tự đồng hóa mình với bốn thể phàm nữa.

Điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là lúc đó con đã rút một phần bản thể của mình không đầu tư vào bốn thể phàm nữa, vì con đang làm tan đi cái ta mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại thế gian, khiến một phần của bản thể của con bị mắc kẹt trong bốn thể phàm. Khi con rút một phần bản thể của mình ra khỏi bốn thể phàm, thì con bắt đầu có nhận biết rõ hơn rất nhiều về Hiện diện TA LÀ. Con bắt đầu có một mối liên hệ hoàn toàn khác với Hiện diện TA LÀ. Hiện diện TA LÀ không còn ở trên kia và con thì ở dưới này, nhưng chắc chắn là đôi khi con có cảm tưởng mình bay bổng lên và đôi khi con cảm thấy Hiện diện TA LÀ đi xuống nơi con ở. Bỗng nhiên những hàng rào chắn bắt đầu rơi xuống, và ngay cả khái niệm dòng chảy hình số tám không còn là dòng chảy từ cõi này xuống cõi khác nữa. Nó thực sự còn không phải là một dòng chảy nữa. Nó giản dị là một nhận biết, ý niệm là một. Dòng chảy chỉ hiện ra khi con là cánh cửa mở để năng lượng chảy tới người khác, và do đó, con là Tình thương Thiêng liêng đang hành động.

Con yêu dấu, thày biết chắc là con nhận ra là khi một sinh thể ở tầng của thày phát biểu, thì thày không có giới hạn không gian và thời gian. Thày không để ý đến những giới hạn của thân thể vật lý của các con và thày biết là bài giảng này đã rất dài. Thày biết ơn là các con đã sẵn sàng chịu đựng, là các con đã sẵn sàng là cánh cửa mở tỏa chiếu năng lượng và khái niệm từ Bản thể của thày, từ Hiện diện của thày, đến tâm thức đại chúng. Thực sự, điều này đang đặt nền móng cho một sự hợp nhất lớn hơn giữa con người và giữa các dân tộc.

Chắc chắn đây là một điều kiện để mang lại Thời Hoàng kim của Saint Germain. Chắc chắn là thời hoàng kim mà Saint Germain hình dung không thể bị áp đặt. Nó chỉ có thể được đem tới bằng tình thương. Nó chỉ có thể được đem tới khi con người chọn lựa nó vì nó khiến con người thoải mái hơn tình trạng hiện nay.

Quả thực là có bao nhiêu người cảm thấy thoải mái với tình trạng chính trị và kinh tế hiện hành? Mục đích thực sự là gì? Có phải chăng là thay đổi các điều kiện bên ngoài? Không đâu, mục đích là thay đổi cảm giác nội tâm để con người nhận ra là có những điều kiện, có những viễn quan có thể khiến họ cảm thấy thoải mái hơn. Điều này trở nên động cơ thúc đẩy – không phải là một động cơ thúc đẩy đường thẳng, vỏ ngoài, vị kỷ. Nó trở thành động cơ thúc đẩy để: “Tôi muốn cảm thấy thoải mái với chính mình và tôi muốn người khác cũng cảm thấy như vậy. Khi tất cả chúng tôi đều cảm thấy thoải mái với chính mình và chúng tôi hiệp lại, thì chúng tôi sẽ cảm thấy thoải mái hơn là khi chúng tôi riêng rẽ.” Đó chính là cách chân thực để thể hiện một thời đại hoàng kim.

Thày biết ơn và thày chấp nhận từng cá nhân các con, bất kể con là ai, bất kể con ở đâu, bất kể con nhìn mình như thế nào. Thày không thấy con như con thấy chính mình. Thày thấy toàn bộ bản thể của con và thày chấp nhận mỗi sắc thái của bản thể của con, mỗi sắc thái của con người con ngay lúc này và tiềm năng trở nên hơn nữa của con.

Giải tỏa bí ẩn của con đường quả vị Phật

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 6 tháng 5 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Phật, tên ta là Gautama. Thày muốn nhân cơ hội này trình bày một số đề tài có vẻ không nói tới Hàn Quốc. Tuy không nói gì về Hàn Quốc, thày vẫn nói điều gì đó về Hàn Quốc cho những ai có thể hiểu được.

Nếu con tìm hiểu bài giảng tuyệt vời của Giê-su về Con đường Quả vị Ki-tô, con sẽ thấy, con yêu dấu, là có một số giai đoạn trên con đường này. Đặc biệt là khi con tới gần và vượt qua tầng 96, con sẽ phải đối mặt một số thách đố, con phải đối phó với chúng để có thể tiến lên cao hơn tới tầng 144. Chúng ta có thể xem những thách thức này giống như một số nghịch lý, một số bí ẩn, mà con phải giải quyết trước khi con có thể vươn cao lên tới một tầng cao hơn của đường tu. Có một số bí ẩn như thế, nhưng thày sẽ không đi vào tất cả mà chỉ bình luận một số.

10.1 Thấy mâu thuẫn hay nhìn vượt quá chúng

Bây giờ, con thấy chăng con yêu dấu, khi các thày là chân sư thăng thiên tiếp cận với nhân loại chưa thăng thiên để trao truyền một giáo lý, các thày đối mặt một khó khăn đặc thù mà ít người đang hiện thân hiểu được. Sự thực là khi con là một chân sư thăng thiên, con đã thăng vượt tâm đường thẳng, nhị nguyên và phân tích. Do đó, con có một sự nhận biết quả cầu hơn; con không nhìn mọi sự qua phin lọc của hai cực, của cực đoan, của phê phán giá trị và một thang giá trị. Con không có cái tâm đường thẳng so sánh lời này với lời kia và có thể nó thấy có mâu thuẫn vì hai câu có vẻ như không nói cùng một chuyện.

Lẽ dĩ nhiên các thày biết là trên thực tế những người chưa thăng thiên ở trong trạng thái tâm dễ nhìn thấy mâu thuẫn vì họ tìm cách giải thích mọi chuyện với tâm đường thẳng. Họ nghĩ phải hiểu lời này theo nghĩa đen, phải hiểu lời kia theo nghĩa đen; và khi con lấy nghĩa đen của hai lời nói thì chúng có vẻ mâu thuẫn. Giờ đây con yêu dấu, có nhiều học viên tâm linh đã bắt đầu học hỏi giáo lý tâm linh hay cũng như vậy, học hỏi giáo lý của các tôn giáo, và họ thấy, theo nhận thức của họ, là có những mâu thuẫn. Nhiều người trong thế giới Tây phương đã dùng những điều có vẻ mâu thuẫn trong kinh sách tôn giáo để lý luận theo khoa học hay chủ nghĩa duy vật là mọi tôn giáo đều là chuyện giả dựng và không nói lên điều gì thực sự hợp lý.

Lẽ dĩ nhiên đây là hậu quả cùng cực khi sử dụng tâm đường thẳng. Ngay cả nhiều người mộ đạo hay tâm linh cũng tìm thấy mâu thuẫn, thường là giữa hai giáo lý tâm linh khác nhau. Điều này khiến họ nghĩ là họ phải suy luận rằng một trong hai cái là đúng và cái kia là sai. Còn có cả những người bắt đầu thấy mâu thuẫn ở trong một giáo lý tâm linh và điều này làm họ hoang mang, và ngay cả bỏ con đường tu. Mục đích của thày ở đây là đưa ra một số nhận xét có thể giúp con vượt quá giai đoạn này, vì quả thực đây là một giai đoạn trên đường tu. Có thể nói là con đã vươn lên trên tâm đường thẳng nhưng con chưa đột phá một cách ý thức và chưa giải thoát tâm ý thức của mình khỏi lối suy nghĩ đường thẳng. Con chưa thấy được một cách ý thức những giới hạn của lối suy nghĩ đường thẳng và do đó con vẫn bị xáo trộn bởi những điều trông có vẻ mâu thuẫn kia.

Nhìn một cách rất tổng quát, con yêu dấu, thì thày có thể nói với con rằng, lẽ dĩ nhiên, có thể có một số trường hợp có một số lời dạy mâu thuẫn. Các thày, khi trao truyền giáo lý qua một sứ giả chưa thăng thiên, không thể bảo đảm là không có một số sai sót len lỏi vào và có thể có một ít mâu thuẫn ở chỗ này chỗ kia. Khi con tới một mức chín chắn hơn trên con đường tu, thì con sẽ không để một sai sót hay một mâu thuẫn khiến con bác bỏ phần còn lại vẫn có giá trị của giáo lý. Tuy thế, trong đại đa số trường hợp, điều có vẻ là mâu thuẫn chỉ có vẻ mâu thuẫn vì nó được nhìn qua phin lọc của tâm đường thẳng. Khi con thấy một mâu thuẫn, phản ứng xây dựng hơn là con nói: “Tôi cần nâng tâm thức mình lên để tôi có thể có một cái nhìn cao hơn về vấn đề. Chắc phải có điều gì đó tôi chưa thấy, chưa hiểu. Khi tôi thấy nó rồi, nó sẽ giải quyết điều mà hiện giờ trông có vẻ mâu thuẫn.” Sau đó, con mở tâm ra đón nhận sự hướng dẫn trực tiếp và trực giác từ các chân sư thăng thiên, từ Hiện diện TA LÀ của con, từ cái Ta Ki-tô của con để giải tỏa bí ẩn. Hoặc con học hỏi thêm giáo lý vì con nhận ra rằng có thể có những phần giáo lý khác có thể giúp con giải tỏa bí ẩn.

10.2. Hiểu lầm về không dính mắc

Một ví dụ mà nhiều người coi là mâu thuẫn là sứ vụ của chính Phật. 2500 năm trước đây, thày giảng là mục tiêu giáo lý của thày là cho các con một con đường tu giúp các con vượt lên trên trạng thái tâm thức bình thường bằng cách đạt được sự hoàn toàn không dính mắc. Tuy thế, con yêu dấu, nếu cá nhân thày đã đạt được sự hoàn toàn không dính mắc, thì tại sao thày lại bỏ công đi giáo hóa?

Nói cách khác, nhiều người hiểu khái niệm không dính mắc có nghĩa là không quan tâm tới chuyện gì xảy ra trên trái đất. Hó lý luận rằng nếu Phật thật sự không dính mắc, thì Phật không quan tâm đến chuyện xảy ra cho người khác và nếu thế thì đâu cần bỏ công đi vào thế gian và giảng dạy một giáo lý có thể giúp họ thoát khổ? Tại sao Phật không chỉ giản dị không dính mắc và tiến lên các tầng cao hơn, và để con người khám phá những điều mà Phật đã khám phá và nhờ vậy tự giải thoát nếu có thể. Nếu họ không tự giải thoát được, thì Phật cứ để họ tiếp tục đi theo bánh xe của luân hồi và đau khổ cho tới khi họ chán ngán và tự thức tỉnh.

Con thấy chăng, con yêu dấu, không dính mắc không đồng nghĩa với không quan tâm. Tuy nhiên nó không phải là sự quan tâm của người phàm. Nó không dựa trên sợ hãi. Nó không muốn ép buộc người khác hay áp lực thế gian phải thay đổi. Không dính mắc không có nghĩa là con chọn không làm gì hết. Nó có nghĩa là con có thể chọn làm gì đó để giúp người khác, hay con có thể chọn làm chuyện khác. Nếu con chọn giúp người khác, thì con không hành động như người phàm phu muốn thấy một kết quả đặc thù. Thực ra, con không giảng dạy để đạt một mục tiêu đặc thù nào cả, con không tìm cách đạt một kết quả đặc thù từ sự giảng dạy của con. Con giảng dạy vì con muốn chia sẻ điều con đã khám phá, con muốn chia sẻ cái con là. Do đó, con không tìm cách ép buộc người khác; con cống hiến họ một trạng thái tâm thức khác với trạng thái tâm thức đang thịnh hành trên trái đất.

Một số người có thể coi sự phân biệt ở trên quá vi tế, hay có thể còn vô lý nữa. Thày công nhận điều này. Thày không thể giúp con giải tỏa những nghịch lý này nếu con chưa tới trình độ sẵn sàng làm điều mà thày vừa mô tả và nâng cao tâm thức của mình. Nếu con lúc nào cũng phóng chiếu là vấn đề “ở ngoài kia”, vấn đề ở trong giáo lý hay ở vị thày, thì con không thể giải tỏa các nghịch lý này. Lúc ấy con phải đi vào Trường đời Cay đắng và nhận đủ lượng cay đắng cho tới khi con sẵn sàng nói: “Có thể tôi mới là người phải thay đổi, có thể sự ngăn trở nằm ngay trong tâm thức của tôi thay vì là lỗi của vị thày, của giáo lý, của người khác hay của thế gian?”

10.3. Thấy được hạn chế của tâm đường thẳng

Một số các con biết câu truyện về cuộc đời của thày là sau khi thày đắc quả vị Phật, sau khi thày nhập Niết bàn và dự tính ra khỏi Niết bàn để đi giáo hóa, thì thày phải đối mặt sự chống đối của toàn bộ lực của thế gian này, nói rằng chuyện đi giáo hóa của thày thật vô ích. Trạng thái tâm thức mà thày đạt được quá khác, trong nền tảng, trạng thái tâm thức của mọi người, nên họ không thể hiểu giáo lý của thày. Nói cách khác, sự giáo hóa của thày sẽ không đem lại thay đổi nào.

Câu trả lời của thày là: “Sẽ có một số người hiểu.” Trong 2500 năm qua, một số đã hiểu nhưng chỉ có một số ít. Tuy nhiên, chúng ta đang ở một thời điểm mà nhiều người hơn đã sẵn sàng hiểu và đây là lý do vì sao bây giờ thày xuất hiện như một chân sư thăng thiên, như một trong nhiều chân sư thăng thiên khác và cố gắng trao truyền cho các con một giáo lý thích ứng với thời hiện đại.

Một lần nữa, trước khi thày quyết định làm việc này, thày phải đối mặt với lực đó và nó không phải là một sinh thể có ý thức. Lý do giản dị là, khi thày, như một chân sư thăng thiên, muốn xét xem thày làm được gì cho nhân loại chưa thăng thiên, thì thày cần hòa điệu với trình độ tâm thức hiện thời của nhân loại. Lúc đó, thày phải đối diện với sự khác biệt giữa tâm thức đại chúng và tâm thức của chính thày và có lúc thày cảm thấy như không thể nào bắc được nhịp cầu qua khoảng cách đó. Do đó, thày phải đối phó với sự việc này, thày phải tìm một cách giải quyết trong tâm mình. Thày nhìn xem con người đang ở đâu trong tâm thức và thày tìm cách giúp họ vượt lên trên mức đó và hòa điệu với một khía cạnh nào đó của Hiện diện của thày, Bản thể của thày.

Bài truyền đọc này là một biểu hiện của việc làm này, các bài truyền đọc khác của thày và của tất cả các chân sư thăng thiên cũng vậy. Điều thày muốn làm ở đây là giúp con thấy được các hạn chế của tâm đường thẳng vì tâm đường thẳng, duy lý, phân tích quả thực chiếm ưu thế trong thế giới ngày nay nhiều hơn 2500 năm trước đây.

10.4. Khi giác ngộ ngăn cản giác ngộ

Thày muốn cho con một ví dụ khác. Một khái niệm mà thày trao truyền cho thế gian hồi đó là bát chánh đạo có thể đưa con tới một trạng thái tâm thức cao mà thày gọi là giác ngộ. Thời đó, thày cố gắng giảng cho mọi người làm sao đạt được giác ngộ, và tránh đừng để khái niệm giác ngộ ngăn chận sự giác ngộ của mình. Rất ít người đã hiểu được điều này và đặc biệt là trong thời hiện đại này cũng rất ít người hiểu được, chính là vì ảnh hưởng của tâm đường thẳng.

Con thấy chăng, con yêu dấu, các thày đã trao truyền cho các con khái niệm con đường tâm linh. Các thày đã nói về 144 tầng tâm thức, nói là con có thể bắt đầu một cách ý thức con đường tu ở tầng 48 và con có thể phác họa hành trình của mình để tiến lên đến tầng 96. Con có thể đi theo một số bước hợp lý giúp con dần dần nâng cao tâm thức theo một tiến trình đường thẳng. Các thày cũng có nói là con có thể đi quá tầng 96 và một lần nữa con đi qua một số bước cho tới khi con tới tầng 144. Cách này lẽ dĩ nhiên là một tiến trình đường thẳng, nhưng con đường tâm linh hay tiến trình đạt giác ngộ không nhất thiết phải mô tả theo cách đường thẳng. Ta có thể mô tả nó theo cách quả cầu. Điều giản dị là những gì các thày trao truyền trong thời đại này thích ứng với sự kiện là các con suy nghĩ theo lối đường thẳng. Lẽ dĩ nhiên các thày đã thích nghi giáo lý, thiết kế chúng theo một cách để giúp các con dần dần thoát khỏi sự mù lòa của tâm đường thẳng và vượt lên trên nó bằng cách dám đi theo trực giác, vì trực giác không theo đường thẳng.

Thày vẫn muốn đưa ra ở đây một số ý về khái niệm giác ngộ. Để có thể hiểu nó trọn vẹn, chúng ta cần bước lui về một chút. Thày cố trao truyền giáo lý này 2500 năm trước, nhưng trao truyền nó vào thời ấy quả thực khó khăn hơn. Con có thể nói điều trớ trêu là nó khó khăn hơn vì con người thời đó không suy nghĩ theo đường thẳng giống như con người thời nay.

Con yêu dấu, không phải là thời trước tốt hơn, hay người thời trước đón nhận giáo lý tâm linh hơn người thời nay. Thày cũng không muốn nói ở đây là sự phát triển của tâm đường thẳng đã là một thoái hóa. Nó chỉ là một thoái hóa khi nó được dùng một cách cùng cực. Sự phát triển của tâm đường thẳng trong dạng cao của nó quả thực được thiết kế bởi các chân sư thăng thiên. Nó là một bước tiến hợp lý sau lối suy nghĩ thần thoại, thần thông của con người trước thời hiện đại. Chính là vì con có tâm đường thẳng hơn mà các thày có thể trao truyền một cách nhìn mới về giác ngộ và tại sao khái niệm của con về giác ngộ có thể ngăn chận sự giác ngộ của con.

10.5. Những hạn chế của sự hiểu biết

Các con có, trong tư duy hiện đại, khái niệm về sự hiểu biết (understanding) một điều gì. Con có ý niệm là có một mức hiểu biết thấp khi con chưa có đủ kiến thức và tầm nhìn thấu suốt (insight). Sau đó, con có thể đi theo một tiến trình thu thập càng ngày càng nhiều hiểu biết và tầm nhìn thấu suốt cho tới khi con thấy được điều mà trước đó con không thấy được khi con chưa có đủ kiến thức cao. Điều này giúp các thày dễ trình bày hơn một con đường tu hợp lý, theo đó các thày có thể khiến hành giả trụ vào lòng mong muốn tiến triển của họ. Các thày có thể trao truyền cho họ một tiến trình rất tuần tự, đi từng bước để tăng triển kiến thức và sự hiểu biết của họ về khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Tuy thế con cũng có thể hiểu được ở đây, ngay cả với tâm đường thẳng, là hiểu biết có nhiều tầng mức. Điều này dễ nhìn thấy.

Một vài trăm năm trước đây, ngay cả các nhà khoa học cũng chỉ có một hiểu biết giản dị và sơ khai về vũ trụ vật chất so với ngày nay. Ngày hôm nay, họ có một hiểu biết tinh xảo hơn, chi tiết hơn, sâu sắc hơn. Ở đây có sự tiến bộ, nhưng con có thể chuyển đổi cách hiểu của tâm đường thẳng và thấy rằng tăng triển kiến thức không phải chỉ bằng một cách hay chỉ ở trong một hệ thống.

Con yêu dấu, ta có để đưa ra ví dụ giản dị của khái niệm nguyên tử. Tất cả vật chất được tạo ra từ nguyên tử và ngay cả nguyên tử cũng được tạo ra từ những phần nhỏ hơn, gọi là hạt cơ bản. Thày vừa trình bày kiến thức này cho con bằng ngôn từ rất giản dị nhưng các nhà khoa học đã mất mấy thế kỷ để khai triển kiến thức này. Ngay đây, thày vừa trình bày kiến thức này cho con bằng một ngôn ngữ là Anh ngữ, nhưng con cũng có thể trình bày kiến thức này bằng tiếng Hàn, tiếng Tàu hay tiếng Pháp hay bất kỳ ngôn ngữ nào khác. Đó là cùng kiến thức đó nhưng được phát biểu với những từ ngữ khác.

Con cũng có thể thấy với tâm đường thẳng là khoa học nói chung tìm cách mô tả sự vận hành của vũ trụ vật chất, nhưng không phải chỉ có một ngành khoa học. Thí dụ, con có ngành vật lý học và con ngành hóa học. Khi con dùng cái nhìn của vật lý học về cách vận hành của vật chất, thì con mô tả cách vận hành này theo một cách. Khi con dùng cái nhìn của hóa học, thì con lại mô tả một cách khác.

Không phải là hai cách nhìn loại trừ nhau hay không tương hợp. Chúng là những cách khác nhau để mô tả cùng một hiện tượng. Sau đó, con có thể nhìn rộng hơn và thấy điều mà con gọi là sự sống trên trái đất hơn khía cạnh vật chất vật lý. Cũng có cái mà con gọi là sự sống sinh học được mô tả bởi khoa sinh vật học. Sinh vật học không tương phản với vật lý học hay hóa học. Nó có thể xem xét những hiện tượng hơi khác một chút nhưng điểm chính là nó mô tả sự sống một cách khác. Rồi con có thể tiến xa hơn nữa và thấy là có nhiều khoa vật lý đã tìm cách diễn tả những khám phá của họ bằng ngôn ngữ toán học. Bây giờ thì con thấy có ngôn ngữ thường ngày mà con người sử dụng để giao tiếp trong đời sống hàng ngày của họ, và có ngôn ngữ toán học mà các nhà khoa học dùng để mô tả một số hiện tượng vượt quá những gì con người chạm trán trong đời sống bình thường.

Thực sự con không thể nói là ngôn ngữ toán học tương phản với ngôn ngữ hàng ngày. Đây là hai cách khác nhau để mô tả, trong nhiều trường hợp, cùng một hiện tượng. Lẽ dĩ nhiên, toán học có thể mô tả một số hiện tượng hay mô tả chúng chính xác hơn ngôn ngữ hàng ngày. Mặt khác, con yêu dấu, ngôn ngữ hàng ngày rất hữu ích cho nhiều ứng dụng thực tế. Một ví dụ ngớ ngẩn, con yêu dấu, là con hãy thử vào một tiệm McDonald’s và gọi mua một cái bánh thịt hambua (hamburger) bằng cách dùng một công thức toán và ai biết con sẽ nhận được món hàng gì. Con thấy ở đây là với tâm đường thẳng mà con người có ngày nay, con có thể thấy được là những ngành khác nhau của khoa học là những cách song song để mô tả cùng một hiện tượng.

Con cũng có cả khái niệm, đã được một số người khai triển dựa trên những khám phá của khoa học, là có những thực tại song song, những vũ trụ song song, những chiều kích song song có thể hiện hữu lồng trong nhau. Con bây giờ có ngành vật lý học tiến bộ nhất gọi là học thuyết dây (string theory), nói về những sợi dây li ti rung động hiện hữu trong 11 chiều kích. Con bắt đầu thấy là ngay cả tâm đường thẳng cũng có thể dùng để mở rộng sự hiểu biết của con người về các khái niệm tâm linh khi con nhận ra là một giáo lý tâm linh (không nhất thiết là một tôn giáo giáo điều nhưng là một giáo lý tâm linh toàn vũ hơn) chỉ giản dị là một ngôn ngữ. Nó không chỉ là một ngôn ngữ với ngôn từ mà là một ngôn ngữ với khái niệm. Khi khoa học mô tả một hiện tượng như một sợi dây rung động và khi một giáo lý tâm linh mô tả nó như một sinh thể cơ bản, thì đây không phải là hai lối mô tả tương phản nhau mà là những lối mô tả song song của cùng một hiện tượng. Có thể khoa học không chấp nhận điều này nhưng những ai cởi mở với giáo lý tâm linh có thể thấy là có nhiều cách mô tả cùng một hiện tượng. Một số cách khiến con chú tâm vào một số khía cạnh của hiện tượng và những cách khác khiến con chú tâm đến những khía cạnh khác.

10.6. Giác ngộ không phải là một khái niệm

Thày đã bắt dầu bài giảng dài dòng này bằng cách nói rằng thày sẽ giải thích vì sao trao truyền khái niệm về giác ngộ có thể ngăn chận sự giác ngộ của con. Bây giờ chúng ta cần dùng các nhận xét của thày để đi tới được điểm nhận ra rằng khi khoa vật lý học mô tả vật chất một cách và khoa hóa học mô tả một cách khác và giáo lý tâm linh mô tả một cách thứ ba, thì cả ba lối giảng dạy này, con yêu dấu, có cùng chung một điểm là chúng cho con một khái niệm mà tâm con có thể dùng để tạo ra một hình ảnh nội tâm về hiện tượng. Con không thể nào thấy được hạt nguyên tử với mắt vật lý cho nên khi con đọc lời mô tả hạt nguyên tử của vật lý học, lời mô tả này không cho con một trải nghiệm trực tiếp về hạt nguyên tử. Nó giúp con tạo ra một hình tư tưởng về hạt nguyên tử. Bây giờ, hình tư tưởng này có thể hữu dụng vì nó cho con cảm giác là con hiểu hiện tượng. Nó cũng có thể hữu dụng trên mặt thực tiễn vì nó có thể cho phép con làm một số việc trong đời sống hàng ngày.

Tại sao thế giới hiện đại đã tạo ra được một nếp sống vật lý thoải mái tiện nghi hơn khiến con người ngày nay làm được một số điều thường nhật mà con người một ngàn năm trước không thể mơ tưởng được? Đó là vì khi tâm đường thẳng phát triển và khi tư duy khoa học đem lại cho con người một sự hiểu biết nào đó về thế giới, thì con đã có thể giải quyết những vấn đề mà con người năm trăm năm hay một ngàn năm trước không giải quyết được với sự hiểu biết của họ lúc đó. Điều này đã hữu dụng vì con người đã làm được một số chuyện trong thế giới thực tiễn và nhờ vậy họ đã tạo được một mức sống cao hơn cho đại đa số.

Đó chính là lý do vì sao Saint Germain đã bảo trợ rất nhiều công nghệ dựa trên kiến thức khoa học. Nó đã giúp con người tạo được một nếp sống thoải mái tiện nghi hơn để tâm họ được tự do theo đuổi phần tâm linh của đời sống thay vì toàn bộ năng lực bị cuốn hút trong chuyện kiếm sống. Con yêu dấu, đây rõ ràng là một sứ tiến bộ nhưng mọi chuyện trong vũ trụ vật chất đều có cái giá phải trả (ít ra là khi rất đông người còn bị mắc bẫy trong ý niệm tách biệt, trong tâm thức nhị nguyên). Như người ta thường nói, cái gì cũng có mặt trái. Mặt trái là con người quá dính mắc vào khái niệm khoa học nên không thấy được là khái niệm mô tả hiện tượng không phải là hiện tượng. Đây là một giới hạn rất quan trọng. Nhiều người trong thế giới hiện đại đã đánh mất ý niệm (mà ít nhất một ít người có thời trước) rằng tâm có những khả năng vượt quá khía cạnh đường thẳng và phân tích của tâm. Các thày đã giảng là tâm thức luôn luôn đi trước sự biểu hiện vật lý. Mỗi hiện tượng vật lý hiện hữu trong thế giới vật chất đều có một khuôn đúc tâm thức hiện hữu trong các cõi bản sắc, lý trí và tình cảm. Tâm vỏ ngoài của con, giác quan vật lý của con, phần của tâm dính chặt vào giác quan vật lý chỉ kinh nghiệm được hiện tượng vật chất, mà không trải nghiệm được tâm thức đằng sau nó.

Có những khía cạnh khác của tâm có tiềm năng trải nghiệm tâm thức đằng sau bất cứ hiện tượng vật lý nào. Khi con trải nghiệm tâm thức đó, con có được một trải nghiệm trực tiếp về toàn bộ hiện tượng. Nhưng con yêu dấu, điều này không có nghĩa là con không cần hiểu biết đường thẳng nữa. Để có thể sống trong đời sống thường nhật thực tiễn, con cần hiểu biết đường thẳng. Như một đệ tử tâm linh, con cần nhận ra là khi các thày, những chân sư thăng thiên, trao truyền một khái niệm về một hiện tượng tâm linh nào đó, thì tâm đường thẳng của con sẽ tức khắc tạo ra một hình tư tưởng trong nội tâm về hiện tượng đó.

Đây là điều mà Giê-su mô tả một cách khác trong bài truyền đọc của thày về quả vị Ki-tô khi thày nói là khi con ở tầng tâm thức 48, con hình thành một khái niệm về quả vị Ki-tô nhưng nó không thể nào là quả vị Ki-tô trọn vẹn. Do đó, con không thể nào vươn lên các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô nếu con không sẵn sàng vượt lên trên khái niệm hiện nay của con về quả vị Ki-tô và trải nghiệm một thực tế cao hơn. Thày Giê-su cũng nói là khi con đi quá tầng 96, con không còn quan tâm dùng tâm đường thẳng để hiểu nữa mà chú tâm hơn vào việc trải nghiệm. Tiến trình giác ngộ cũng đúng như vậy.

Khi thày trao truyền khái niệm giác ngộ, thày cố gắng diễn tả điều này và biết là có ít người hiểu được. Con thấy chăng, con yêu dấu, khái niệm giác ngộ chỉ là thế: nó chỉ là một khái niệm. Đối với tất cả những người ở trạng thái tâm thức thấp, thì nó chỉ có thể là một khái niệm. Họ hình thành một hình tư tưởng về giác ngộ, họ muốn thành lập một số tiêu chuẩn vỏ ngoài. Họ muốn thiết lập một con đường tu máy móc nói rằng: “Nếu tôi đi theo những bước này và làm hết mọi chuyện y như mô tả, thì rốt cuộc tôi phải tự động được giác ngộ. Khi tôi giác ngộ, khi một người giác ngộ, người đó có đặc tính này và đặc tính kia. Người đó cư xử như thế này, không cư xử như thế kia, người đó nói như thế này, không nói như thế kia.” Tâm đường thẳng muốn làm như vậy.

Con yêu dấu, như vậy thì tâm đường thẳng không hữu dụng trên con đường tu chăng? Lẽ dĩ nhiên không đúng. Như Giê-su cũng đã mô tả, ở một điểm nào đó con cần đi theo một con đường tu rất đường thẳng, rất hợp lý. Tâm đường thẳng có thể rất, rất là hữu ích vì nó giúp con người nhận ra rằng cuộc sống có một khía cạnh tâm linh, và họ thấy một con đường tu đường thẳng có một số giai đoạn, một số sáng ngộ càng ngày càng cao hơn, giúp cho họ dần dần nâng cao tâm thức. Con đường tu đường thẳng quả thực nâng cao tâm thức của con, nhưng một con đường tu đường thẳng đi lên từng bước chỉ có thể đưa con tới một mức nào đó. Nó có thể dẫn con quá tầng 96 nhưng con yêu dấu, con hãy cẩn thận lắng nghe.

Các thày có nói là có 144 tầng tâm thức do đó, điều hợp lý là khi con tới tầng tâm thức 139, thì con cần bước thêm một bước để lên tầng 140. Sau đó con bước thêm bước nữa và con ở tầng 141 và cứ tiếp tục như thế. Con thấy chăng, con yêu dấu, tính chất đường thẳng chặt chẽ mà con thấy ở giữa tầng 48 và 96 càng ngày càng bớt quan trọng khi con đi quá tầng 96.

Có thể nói là khái niệm con đường tu bớt quan trọng đối với con. Con không còn chăm chú lượng định: “Tôi đang ở tầng nào đây? Tôi phải trải qua sáng ngộ nào để lên tầng kế tiếp, người ở tầng đó có những đặc tính gì?” Con giản dị không còn quan tâm con đang ở đâu bởi vì bây giờ, thay vì chú tâm vào từng bước đơn lẻ, con chú tâm vào tiến trình. Ta có thể nói là, thay vì chú tâm vào hình ảnh tĩnh của dòng sông, thì con chú tâm vào sự chuyển động của dòng sông, vào chính tiến trình.

Điều thày muốn nói là khi con còn mang trong tâm khái niệm về một con đường tu sẽ dẫn con từng bước một tới niết bàn hay giác ngộ, thì con sẽ không bao giờ đạt mục đích này. Thoạt nghe có vẻ mâu thuẫn khi thày nói là để đạt giác ngộ, con phải đi theo một con đường tu tuần tự nhưng khi con còn khái niệm của con đường tu đó, thì con không thể đạt giác ngộ. Con yêu dấu, lý do là vì giác ngộ không phải là một hiện tượng đường thẳng, nó không phải là một hiện tượng vật lý, nó còn không phải là một trạng thái tâm thức. Không thể nói là khi con ở tầng 143 con chưa giác ngộ, nhưng tới tầng 144 thì con đã giác ngộ. Thật ra có một tầng thấp hơn ở một tầng nào đó trên tầng 96, thì con đạt một trạng thái có thể gọi là giác ngộ vì lúc này con hiểu được là điều quan trọng duy nhất là con giải thoát tâm mình khỏi mọi khái niệm dựa trên các điều kiện của thế gian. Đó cũng là lúc con nhận ra rằng khái niệm về giác ngộ của con chỉ là thế: chỉ là một khái niệm, không phải là một trải nghiệm. Do đó, con có thể xoay chuyển tâm để thay vì cố gắng hoàn thành các tiêu chuẩn được định ra bởi khái niệm giác ngộ của con, thì con thoát khỏi hình ảnh, thoát khỏi khái niệm. Do đó, con trải nghiệm điều thày gọi là giác ngộ, là một cách nhìn khác khi tâm của con không đồng hóa với chính khái niệm của nó về hiện tượng vật chất.

Có một số hiện tượng trong thế giới vật chất không chỉ do tâm của con tạo ra. Như các thày có nói trước đây, mọi hiện tượng vật chất được tạo ra bởi một tâm, lúc khởi đầu bởi tâm của các Elohim. Từ khi nhân loại bắt đầu đầu thai trên hành tinh, thì nhân loại đã đồng sáng tạo một số hiện tượng hiện hữu ngày nay. Khi con còn ở các tầng tâm thức thấp, thì con không trải nghiệm thế giới vật chất như nó là, con trải nghiệm nó qua các khái niệm của tâm, các khái niệm mà con đã tạo ra trong tâm mình. Tâm của con, tâm cá nhân của con không tạo ra các hiện tượng vật chất, nhưng nó đã tạo ra các hình tư tưởng của con, các khái niệm của con về các hiện tượng này; chúng là gì, chúng vận hành ra sao, con làm gì được với chúng, con không làm gì được với chúng.

Nói cách khác, tâm của con quy định cách con nhìn khả năng hạn chế tâm con của thế giới vật chất. Con hiểu chăng, con yêu dấu? Có một số hiện tượng vật chất, nhưng điều hạn chế con không phải là hiện tượng vật chất mà là các hình ảnh, các khái niệm trong tâm con. Con đường đạt được điều mà các thày gọi là tâm làm chủ vật chất là giải thoát tâm con khỏi khái niệm, do tâm tạo ra, đã giới hạn sự trải nghiệm vật chất trực tiếp của con.

Trạng thái giác ngộ không phải là một trạng thái toàn hảo. Nó còn không phải là trạng thái cuối cùng. Con có thể có trạng thái mà thày, như là Phật, đã gọi là giác ngộ mà vẫn chưa ở tầng 144, vẫn còn phải đi qua những tầng giác ngộ nữa trước khi thăng thiên. Có thể nói là tầng giác ngộ thấp nhất là khi con ngừng đồng hóa mình với những hình ảnh và khái niệm mà chính tâm con đã tạo ra. Con nhận ra rằng mọi thứ con có trong tâm con liên quan tới thế giới vật chất (và cũng vậy, đại đa số những thứ con có trong tâm con liên quan tới thế giới tâm linh) chỉ là những khái niệm do tâm tạo ra. Bằng cách không dính mắc vào các khái niệm này, không dính mắc vào các hình ảnh này, không đồng hóa mình với các hình ảnh này, con có thể giải thoát tâm con khỏi những hạn chế do các hình ảnh này quy định.

10.7. Tâm làm chủ vật chất

Nhiều người trong các con đã chấp nhận những hình ảnh rất vi tế là tâm con không thể thay đổi vật chất. Ngày nào con còn tin vào, còn đồng hóa mình với, còn dính mắc vào các hình ảnh này, thì tâm con không thể nào thay đổi vật chất. Khi con giải thoát tâm con khỏi các hình ảnh này, thì tâm con có thể bắt đầu thay đổi vật chất. Khi ấy, tâm con bắt đầu nhận ra là các hiện tượng vật lý là biểu hiện của các khuôn đúc của tâm thức ở ba tầng cao. Tâm con quả thực khả năng ảnh hưởng các khuôn đúc tâm thức này.

Như vậy, tâm con không bị mắc kẹt trong hiện tượng và không bị mắc kẹt trong những hình ảnh của con về hiện tượng. Điều này khế hợp với điều thày nói lúc bắt đầu vì con có thể nhìn vào những sự mâu thuẫn hay có vẻ mâu thuẫn ngay trong những giáo lý mà các thày đã trao truyền trong hai ngày hội nghị này. Ví dụ, con có tất các bài truyền đọc của các chân sư chỉ cho con thấy đây là một vấn đề cá biệt nào đó trong xã hội mà con cần đọc lên trong các bài thỉnh, để cầu thỉnh ánh sáng của các chân sư thăng thiên và như thế các chân sư có thể can thiệp và đem lại thay đổi trong xã hội. Mặt khác, con có bài truyền đọc của thày trong hội nghị vừa qua nói rằng con hãy chú tâm vào hiện tại và trân quý hiện tại, đừng lúc nào cũng quan tâm đến quá khứ và vị lai. Con có thể nói: “Ủa, phải chăng là có một sự mâu thuẫn ở đây?” Con thấy chăng, con yêu dấu, muốn giải tỏa điều có vẻ nghịch lý này, thì con cần nhận ra sự khác biệt giữa cái nhìn dựa trên sợ hãi và nhị nguyên của con người và cái nhìn dựa trên tình thương và bất nhị của các chân sư thăng thiên.

Thật đúng, con yêu dấu, là các chân sư thăng thiên muốn thấy một sự thay đổi đường thẳng và tuần tự sẽ cải thiện điều kiện sống của con người trên trái đất. Tuy nhiên điều này không xung khắc với tâm thức của Phật. Thày rời niết bàn để giáo hóa con người vì thày cũng mong muốn thấy một sự cải thiện đường thẳng và tuần tự trong điều kiện sống trên trái đất. Điều khác biệt là các thày không dính mắc vào những thay đổi đặc thù ở một thời điểm đặc thù. Các thày, như đã nói trước đây, không chú tâm vào một thay đổi đặc thù vì mục đích toàn bộ của các thày là nâng cao tâm thức của các người anh chị em chưa thăng thiên, để các con có thể bắt đầu ý thức hơn về tiến trình đồng-sáng tạo.

Con thấy chăng, con yêu dấu, thày không bảo con đừng quan tâm đến những gì xảy ra trong tương lai. Thày không bảo con lờ đi chuyện quá khứ. Con cần ý thức những gì đã xảy ra trong quá khứ để hiểu những cơ chế đã tạo ra một số vấn đề, và các vấn đề này đã tạo ra một số giới hạn trong xã hội. Con cần nhận ra tâm thức bên dưới để con có thể giải thoát mình khỏi nó và giúp người khác tự giải thoát khỏi nó.

Khi thày bảo các con hãy chú tâm hơn vào hiện tại, thì thày không nói là con phải ép buộc tâm con lờ quá khứ, lờ vị lai. Thày bảo các con khắc phục những vết thương mà con có trong quá khứ để khắc phục sự dính mắc của con vào quá khứ, để quá khứ không thể lôi kéo con vào những khuôn nếp phản ứng quả thực sẽ ngăn chận con 1) thưởng thức giây phút hiện tại và 2) được tự do lấy một quyết định sẽ thay đổi hướng đi của cuộc đời mình trong tương lai.

Thày cũng bảo con giải tỏa tâm lý của mình để không bị vướng kẹt trong khuôn nếp lúc nào cũng tìm cách trốn chạy giây phút hiện tại, để đi vào một tương lai tưởng tượng nào đó nơi đó con nghĩ mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn. Nói cách khác, thày bảo con đừng cố gắng hướng tới tương lai mà trốn chạy việc giải quyết các vấn đề tâm lý của mình, đó chính là lý do vì sao rất nhiều người bị mắc kẹt trong những mơ tưởng về một tương lai tốt đẹp hơn. Thày bảo con hãy thực sự giải thoát mình khỏi sự trốn chạy vào mơ tưởng về một tương lai tốt đẹp hơn, và thay vào đó, con chú tâm vào chuyện giải tỏa tâm lý của mình để con có thể chú tâm vào hiện tại. Chỉ trong hiện tại con mới lấy được những quyết định ý thức thực sự giúp con, cho con quyền lực để đồng-sáng tạo một tương lai tốt hơn.

10.8. Đạt được tự do tâm trí khỏi quá khứ

Nếu con xem bài giảng cuối của thày, thì con thấy là thày đưa ra ví dụ là khi con mắc kẹt trong một khuôn nếp phản ứng, thì con có cảm tưởng là cuộc đời của con chỉ có một hướng đi. Rất nhiều người bị mắc kẹt trong những khuôn nếp khiến họ cảm thấy bị hoàn cảnh bên ngoài giam chặt trong một cái hộp, và họ chỉ còn một chọn lựa duy nhất trong hoàn cảnh hiện tại của họ. Chọn lựa của họ sẽ có một hậu quả không thể tránh, và nó đem tới một hoàn cảnh khác cho họ một lần nữa cảm tưởng chỉ có một chọn lựa mà thôi. Điều này tạo ra một hậu quả khác và đây là điều được gọi là Biển Luân hồi hay bánh xe trầm luân bởi vì con lúc nào cũng có cảm tưởng là chỉ làm được một điều. Con không có chọn lựa nào khác, con không có tự do chọn lựa. Bất cứ con làm gì cũng đều tạo ra hậu quả là cuộc đời của con thêm căng thẳng, thêm đau khổ và cho con cảm tưởng mình bị giam chặt hơn nữa trong cái hộp. Đây là lý do vì sao, như một số các nữ chân sư đã nói, nhiều người trong văn hóa Á châu (do sự quy định rõ ràng về vai trò của người nam và người nữ) cảm thấy là khi đám cưới xong và niềm vui hưng phấn lúc đầu đã tan, thì họ cảm thấy cuộc đời bị khóa lại như bánh xe lăn trên con đường rày và họ chỉ có một chọn lựa duy nhất là lăn trên con đường rày. Cảm giác này khiến họ căng thẳng và đau khổ nhưng họ không nhìn ra lối thoát. Trong bài giảng cuối, thày không nói là con chú tâm vào hiện tại như một cách để chạy trốn, nhưng con cần giải quyết những khuôn nếp của quá khứ và thăng vượt lòng mong ngóng một tương lai tốt đẹp hơn, để con được tự do trong tâm lý và thấy rằng không bao giờ có hoàn cảnh nào mà con chỉ có một chọn lựa. Lúc nào con cũng có chọn lựa nhìn vào các khuôn nếp phản ứng của mình và thay đổi cách con phản ứng với hoàn cảnh. Một khi con thay đổi phản ứng của mình, khắc phục sự dính mắc, thì con sẽ có thể thấy được là ít nhất con có hai chọn lựa. Có thể là con không có chọn lựa vô hạn nhưng con có được thêm một chọn lựa khác ngoài chọn lựa mà trước kia con xem là duy nhất. Khi con chọn chọn lựa mới này, thì con vẫn tạo ra hậu quả nhưng chúng sẽ không nghiêm trọng hay giới hạn con như trước đó.

Điều này có nghĩa là trong hoàn cảnh mới của con, con lại có thể xem xét phản ứng của mình. Khi con khắc phục một khuôn nếp phản ứng, thì con sẽ thấy mình có ba chọn lựa trong hoàn cảnh mới. Khi con chọn chọn lựa cao nhất trong số đó, thì con sẽ đưa mình vào một hoàn cảnh trong đó con có thêm chọn lựa với hậu quả bớt nghiêm trọng hơn. Đó là cách con dần dần đạt được tự do và lúc ấy, như thày đã nói trong bài giảng trước, con thấy mình đang đứng giữa một cánh đồng mở rộng và con có thể chọn bất cứ hướng đi nào.

10.9. Mọi chuyện đều là dáng vẻ

Điều này, con yêu dấu, là mức tự do tâm trí mà con đạt được trên tầng 96. Nó vẫn chưa phải là giác ngộ, tuy rằng khi con đạt được mức tự do tâm trí này, thì chuyển đổi lên trạng trái giác ngộ dễ hơn hẳn. Khi con đạt được tự do trong tâm, thì điều gì tạo nên tự do đó? Đó là vì con ngưng đồng hóa mình với những hình tư tưởng mà chính tâm con đã tạo ra cho rằng thế giới như thế này và thế giới hạn chế con ra sao. giúp con dễ chuyển hóa tâm để tới điểm nhận ra (như thày đã cố gắng giải thích rất nhiều năm về trước) rằng mọi chuyện trên thế gian chỉ là một hiện tượng. Nó là một dáng vẻ (appearance), nó không phải là thực tại bị đóng cứng trong đá hay trong nguyên tử.

Mọi sự đều là sản phẩm của một khuôn đúc trong tâm thức. Đó là điều thày cố giải thích rất nhiều năm về trước nhưng cảm thấy khó giải thích vì con người lúc đó còn chưa có khái niệm về tâm thức hay về các thực tại song song hay về các ngôn ngữ khác nhau mà thày đã giảng trong bài này. Khi con nhận ra rằng mọi chuyện đều là hiện tượng, đều là một dáng vẻ có thể thay đổi được (khi con hòa điệu vào tâm thức đằng sau hiện tượng và làm việc để thay đổi các khuôn đúc trong cõi tình cảm, lý trí và bản sắc), thì con sẽ đạt được một cái nhìn hoàn toàn mới về cuộc sống. Con cũng có thể đạt được một cái nhìn hoàn toàn mới về những gì các thày đã giảng.

Con yêu dấu, các thày đã nói gì với con lần trước? Saint Germain đã nói gì về khuynh hướng nhìn cuộc đời rất nghiêm nghị trong văn hóa Á châu? Saint Germain có nói là con sẽ không tạo ra Thời đại Hoàng kim bằng cách làm việc cực nhọc hơn mà bằng cách chơi nhiều hơn. Đồng-sáng tạo là một hành động vui chơi, không phải là một hành động xem cuộc đời nghiêm nghị đến độ con muốn kiểm soát mọi khía cạnh của cuộc đời.

10.10. Thái độ quá nghiêm nghị đối với giáo lý

Trong những tổ chức chân sư thăng thiên trước đây, các thày thấy học viên có khuynh hướng rõ ràng dùng giáo lý để bỗng nhiên nhìn cuộc đời, con đường tâm linh và chính họ một cách rất nghiêm nghị. Họ bỗng nhiên nhận ra là có một tiềm năng tạo ra một thời đại tốt đẹp hơn nhiều trên thế giới. Trong một tổ chức trước đây (khi họ vẫn còn bị mắc kẹt trong suy nghĩ nhị nguyên), thì họ nghĩ rằng mục tiêu của một đệ tử chân sư thăng thiên là ngăn ngừa một tai họa lớn lao nào đó, tỷ dụ như chiến tranh nguyên tử. Họ rất chú tâm vào sự nghiêm trọng của tai họa này và chỉ có họ mới ngăn ngừa được nó. Do đó họ phải xem trách vụ này như một việc cực kỳ nghiêm trọng và họ phải đọc chú suốt ngày và phải cư xử đúng theo một bộ quy luật rất nghiêm ngặt.

Con yêu dấu, khuynh hướng này đi xa tới điểm họ mất hết niềm vui trong cuộc đời và con có thể chắc chắn là họ hạnh phúc và yêu đời hơn rất nhiều trước khi họ đi theo học giáo lý các chân sư thăng thiên. Nhiều người trong họ có người thân thấy được điều này và cố gắng nói cho họ biết, nhưng họ còn không chịu lắng nghe vì họ coi “việc cứu thế gian cho Saint Germain” là chuyện cực kỳ nghiêm trọng.

Con yêu dấu, lẽ dĩ nhiên, các thày không muốn thấy các con lặp lại những khuôn nếp này và đó là lý do vì sao các thày cố cho các con một viễn quan cao hơn (có thể là con phải đọc giữa các dòng chữ, nhưng thày đã cố gắng nói khá thẳng trong bài giảng này). Điều thày muốn con thấy là con có thể chuyển đổi tâm để nhận ra rằng, lẽ đương nhiên, các thày chân sư thăng thiên muốn con đọc cầu thỉnh, các thày muốn con nâng cao tâm thức của mình và các thày quả thực thấy con là chìa khóa để cải thiện đời sống trong xã hội. Con có thể đọc bài thỉnh để cho các thày thẩm quyền gỡ đi một số các lực tà ác và năng lực đen tối, sẽ giúp người khác thức tỉnh và đón nhận các ý mới này.

Các con quả thực quan trọng đối với các thày, nhưng con yêu dấu, chính vì các con quan trọng đối với các thày, nên các thày không muốn các con bị đè nặng hay bị căng thẳng về chuyện này. Các thày muốn các con chuyển đổi tâm mình để nhận rằng đây không phải là một trách nhiệm hay một bổn phận mà các thày đặt lên con. Đây là một phần của Sứ vụ thiêng liêng mà con đã chọn trước khi đầu thai, và các thày không muốn con xem việc này nghiêm trọng đến độ chẳng còn chỗ cho chút niềm vui nào. Các thày muốn con xem đây là một hành động vui chơi. Chuyển đổi không khó lắm đâu, dù là nó cần một tiến trình, một phần là vì con cần đối phó với tư duy tập thể trong phần thế giới nơi con sống, là nơi mà mọi người xem mọi thứ đều cực kỳ nghiêm trọng.

Các thày muốn con nhận ra ở đây, con yêu dấu, là con có thể thực hiện sự chuyển đổi này bằng cách không dính mắc vào việc tạo nên kết quả đặc thù trong xã hội của con. Dĩ nhiên, các thày đã phác họa một số mục tiêu mà các thày muốn thấy được thay đổi tại Hàn Quốc. Lẽ dĩ nhiên, các thày có muốn thế. Ai lại không muốn thấy những mục tiêu này, những tiến bộ này được thực hiện? Các thày không dính mắc vào việc muốn những tiến bộ này được thành hình theo một cách đặc thù nào đó, ở một thời điểm đặc thù nào đó, qua những người đặc thù nào đó. Các thày lúc nào cũng tôn trọng quyền tự quyết. Nói cách khác, các thày không muốn áp đặt điều này lên người dân Hàn Quốc. Như các thày đã nói rất nhiều lần, các thày muốn giải thoát họ để họ có thể tự nhiên bừng tỉnh và bỗng nhiên thấy rằng hiển nhiên đấy là bước kế tiếp và đấy là điều họ thực sự mong muốn.

Sự chuyển đổi mà các thày muốn con làm trong tâm là nhận ra vai trò của con là thỉnh cầu để cho phép các thày nhập cuộc và làm công việc của các thày. Khi con thỉnh cầu xong, con không cần dính mắc vào những gì xảy ra trong xã hội, vào những gì người khác làm. Con để họ tự do bởi vì các thày để họ tự do. Các thày không tìm cách ép buộc ai hết. Các thày cũng giải thoát con và muốn con tự giải thoát mình và nhận ra rằng công việc con làm không phải là một gánh nặng khiến con căng thẳng và ngăn chận con làm tròn những bổn phận hàng ngày trong đời sống hay cản trở con vui hưởng cuộc sống hàng ngày của mình.

Các thày kêu gọi con luôn luôn tìm sự vui hưởng trong phụng sự và đời sống hàng ngày. Đây thật sự là bát chánh đạo mà thày cố giảng cho mọi người cách đây 2500 năm nhưng nhiều người không hiểu vì đối với họ giác ngộ hay con đường tu trở thành một bổn phận khác, một mục tiêu đeo đuổi khác. Nó trở thành một nguồn căng thẳng bởi vì họ cảm thấy họ không đủ khả năng làm tròn công việc, hoặc họ cảm thấy họ rất xa mục đích, hoặc họ cảm thấy họ phải cố gắng thêm rất nhiều, hoặc họ cảm thấy vì họ đã cố gắng rất nhiều rồi nên họ rõ ràng cao hơn mọi người khác và họ trở nên kiêu mạn.

10.11. Cái bẫy trên mỗi giai đoạn của đường tu

Điều thày nói với con ở đây có thể được diễn tả một cách rất giản dị, đó là con đường tâm linh có những giai đoạn và các tà lực không muốn con tiến từ giai đoạn này lên giai đoạn tới. Ở mỗi giai đoạn, họ đã đặt ra cho con một cái bẫy. Họ muốn con rơi vào bẫy này và đứng yên ở tầng đó. Do đó, các thày giản dị cho con khái niệm là con đường tâm linh có thể xem như một trò chơi. Ở mỗi giai đoạn, con biết là tà lực có giăng một cái bẫy. Con chỉ cần tỉnh giác và để ý tìm cái bẫy bằng cách nhìn vào các phản ứng của mình, nhìn vào phản ứng của những người tâm linh khác và nói: “Ồ, bây giờ tôi thấy cái bẫy đây và tôi sẽ không đặt chân mình vào đó.”

Khi con nhận ra điều này, con nhận ra là con cũng chẳng cần nhìn tà lực với thái độ nghiêm trọng, bởi vì con có thể thấy được cái bẫy của họ, nhưng họ thì không thấy. Họ bị mắc kẹt trong trí tưởng tượng giới hạn của chính họ. Con không bị mắc kẹt trong trí tưởng tượng giới hạn và khi con có giáo lý của các thày và áp dụng chúng, thì tránh bẫy không khó lắm. Cho nên, con có thể tới điểm con đường tu không là nguồn căng thẳng; nó là nguồn vui thú. Con đi trên đường tu một cách vui thú và nếu con làm một lỗi, thì có sao đâu, con yêu dấu? Con đã học hỏi từ lỗi lầm này, và sau đó con giản dị tiến tới từ điểm đó. Con nhận ra rằng quả thực, như các thày đã nói trước đây, là con không thể làm một chọn lựa khiến con bị mắc kẹt đời đời. Bất cứ chọn lựa nào cũng có thể tháo gỡ được bằng cách lấy một chọn lựa sáng suốt hơn, một chọn lựa tỉnh thức hơn.

10.12. Giác ngộ không phải là một mục tiêu

Điều thày muốn nói để kết thúc là giác ngộ không phải là một giai đoạn trên con đường của 144 tầng tâm thức. Giác ngộ không phải là mục tiêu tối hậu của bát chánh đạo. Giác ngộ không phải là một mục tiêu, nó không phải là một khái niệm, nó không phải là một hình tư tưởng. Nó là một trải nghiệm không bị mắc kẹt vào các hình tư tưởng. Cách duy nhất đạt được giác ngộ là đi ra khỏi các hình tư tưởng và cho phép mình trải nghiệm. Con trải nghiệm giác ngộ ở đâu? Không phải trong quá khứ, không phải trong tương lai, mà chỉ ở trong hiện tại. Con có thể trải nghiệm giác ngộ trong bất cứ hiện tại nào có thể hiện ra cho con. Con hãy giữ trong tâm những khái niệm này cho tới khi có một giây phút hiện tại khi nó bỗng nhiên trở nên hiển nhiên với con và con nói: “Bây giờ thì tôi ở đó rồi!” Con còn không nói: “Bây giờ thì tôi thấy nó” bởi vì con đang không thấy nó như một khái niệm cách xa con. Con trải nghiệm nó như một thực tại mới của con.

Con yêu dấu, một lần nữa đây là một bài giảng dài có thể thách thức khả năng ngồi trên ghế cứng của thân thể con. Nó có thể thách thức khả năng của cảm thể con muốn né tránh không phản ứng lại một điều nào đó mà thày nói. Nó có thể thách thức khả năng của trí thể con bắt nó tiếp tục chú tâm vào những khái niệm phức tạp mà thày đưa ra. Nó có thể thách thức bản sắc thể của con khiến con tự hỏi: “Ấy, dựa trên những điều Phật nói, tôi là ai đây? Tôi là loại sinh thể nào đây?” Lẽ dĩ nhiên, con yêu dấu, đây là thách đố tối hậu bởi vì bất kỳ ý niệm bản sắc nào con có trong thế gian này chỉ là một hình tư tưởng. Nó không có thực tại tối hậu và con không đem nó theo con vào trạng thái thăng thiên được. Con chưa cần buông bỏ ý niệm bản sắc của con bây giờ, con buông bỏ nó từng phần một. Con chỉ buông bỏ lần cuối cùng khía cạnh cuối cùng của bản sắc thế gian của con khi con sẵn sàng thăng thiên. Nếu không như thế, thì cái gì giữ con lại trong thân thể? Cái gì giữ con chú tâm vào việc phụng sự đời sống – là một phần rất lớn của con đường tu của con?

Con đừng tin, con yêu dấu, là đường tu chỉ có chuyện nâng cao tầng tâm thức của mình và loại bỏ cái ta vỏ ngoài. Con chọn đi vào thế giới này vì con muốn có một số kinh nghiệm và con muốn đồng-sáng tạo một thế giới tốt đẹp hơn. Con muốn đóng góp vào sự tiến triển đi lên của thế giới này.

Con yêu dấu, không đúng là việc con phụng sự đời sống, cách con biểu hiện đời sống, việc con vui hưởng đời sống, việc con trải nghiệm đời sống, đi ngược lại tiến triển tâm linh. Đó là lý do vì sao nhiều năm trước đây thày nói giác ngộ giống như tâm thức không giác ngộ. Khi con giải thoát mình khỏi khái niệm tạo nên tâm thức không giác ngộ và giải thoát mình khỏi khái niệm giác ngộ, thì lúc đó con nhận ra là thế gian không phải là kẻ thù của tiến triển tâm linh; nó là cỗ xe dẫn con tiến triển tâm linh. Con đường quả vị Phật của con không bị ngăn trở khi con đi vào một trạng thái tâm thức thấp vì đây là một phần của trải nghiệm mà con cần có trong thế gian này. Nó cho con nền móng để biết những điều kiện nào con muốn thay đổi trong khi con tham gia vào tiến trình đồng-sáng tạo một thế giới tốt đẹp hơn.

Cho nên, con thấy là khi con đạt tới một giai đoạn nào đó, con không hối tiếc bất cứ điều gì con đã làm hay đã trải qua. Con không có cảm giác có sự phân chia giữa điều tâm linh và không tâm linh và ngay cả phản-tâm linh. Bỗng nhiên con bắt đầu nhận ra không có hiện tượng nào trên thế gian có thể chống lại sự phát triển của con, chống lại đường tu của con. Ngay cả tà lực, dù chúng có hiện hữu tạm thời, khi con thấy chúng như chúng là, chúng không chống lại sự phát triển của con. Chúng không có quyền lực trên tâm con khi con giải thoát mình khỏi sự phân biệt giữa “các cặp” – là cái tên mà thày dùng cách đây 2500 năm, nhưng ngày nay thì các thày gọi là hai cực nhị nguyên. Chúng không có thực tại, chúng không có quyền lực và do đó con có thể nhìn hiện tượng thế gian mà không thấy chúng qua phin lọc của những đối cực nhị nguyên này và những phán xét giá trị của chúng. Con thấy rằng mỗi khía cạnh của cuộc sống, mỗi khía cạnh của thế gian, là phương tiện cho con phát triển, cho con biểu đạt chính mình, cho tiến trình và khả năng đồng-sáng tạo của con.

Con yêu dấu, có thể con từng nghe nói khái niệm rằng “đối với Phật, không có thời gian” và có thể con nhận ra rằng thày có thể tiếp tục nói như thế này vô hạn định, vì thày rất vui mừng khi trao truyền cho con những khái niệm này. Thày cũng nhận ra rằng con chưa tới điểm thấy không có thời gian. Thày ghi nhớ điều này nên thày sẽ chấm dứt dòng tâm thức được biểu hiện qua từ ngữ ở đây và một lần nữa biểu lộ sự biết ơn của thày và của các thày đối với sự họp mặt tuyệt vời giữa các thày Ở Trên và các con Ở dưới. TA LÀ Phật, tên ta là Gautama.

Hiểu tại sao con không thể hiểu quả vị Ki-tô

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 5 tháng 5 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày đã không có ý định nói trong hội nghị này vì lần trước thày đã có dịp nói ý mình. Nhưng vì các con đã hỏi vị sứ giả nhiều câu hỏi về quả vị Ki-tô, nên thày quyết định là các con sẽ được lợi lạc nếu thày thuyết giảng về đề tài này.

9.1. Mối đe đọa lớn nhất cho tà lực

Các con yêu dấu, điều đầu tiên hết mà chúng ta cần nhìn nhận là quả vị Ki-tô cá nhân, tức là khi con mang vào mình tâm thức Ki-tô, là mối đe dọa lớn nhất cho tà lực và các thày giả trên hành tinh này. Do đó, họ đã làm tất cả mọi điều mà họ có thể nghĩ được để ngăn chặn con người biết về quả vị Ki-tô, thấy là đạt quả vị Ki-tô là một điều thiết thực mà họ có thể làm được, và hiểu tiến trình thành tựu quả vị Ki-tô và nó nghĩa là gì.

Tà lực đã làm mọi điều mà họ có thể nghĩ ra để tạo ra đủ loại mưu mô làm lạc hướng, dựng lên những mục đích tâm linh khác có thể dẫn tới một trạng thái nhận biết cao hơn nhưng không đe dọa họ nhiều bằng quả vị Ki-tô. Họ cũng đã làm mọi điều mà họ có thể nghĩ ra để định nghĩa quả vị Ki-tô theo cách khiến người hành giả muốn đạt được hay cố gắng đi tới một mục đích tối hậu và rồi bỗng nhiên nghĩ rằng họ đã đạt được mục đích và không cần tiến xa hơn nữa.

9.2. Không có trạng thái tối hậu

Con yêu dấu, điều quan trọng nhất mà con có thể nhận ra về quả vị Ki-tô là nó là một tiến trình liên tục. Con có thể đạt quả vị Ki-tô khi còn đang hiện thân, nhưng không có một trạng thái quả vị Ki-tô tối hậu mà con có thể đạt khi đang hiện thân. Chúng ta có thể nói không có một trạng thái quả vị Ki-tô tối hậu theo nghĩa là không có trạng thái tâm thức nào tối hậu, có thể ngoại trừ tâm thức của đấng Sáng tạo, nhưng ngay cả nó cũng thăng vượt chính nó khi nó sáng tạo. Con cần nhận ra ở đây là không có một trạng thái tối hậu.

Cuộc sống, sự nhận biết, sự tự nhận biết là một tiến trình liên tục. Khả năng tự thăng vượt lúc nào cũng có. Chưa từng có – chưa từng có – một trạng thái bất động trong thế gian. Chưa từng có một trạng thái bất động trong thế gian và sẽ không bao giờ có. Chưa bao giờ có cái khởi đầu và sẽ không bao giờ có cái chấm dứt. Có thể có một khởi đầu và chấm dứt của một chu kỳ, nhưng không có cái khởi đầu tối hậu mà trước đó không có gì cả. Có cái khởi đầu của thế giới hình tướng của chúng ta khi đấng Sáng tạo hiện hữu trong chính ngài nhưng đấy không phải là cái khởi đầu tối hậu, bởi vì chưa bao giờ đã có cái khởi đầu tối hậu. Sẽ không bao giờ có cái chấm dứt tối hậu.

9.3. Con không thể hiểu quả vị Ki-tô

Đây là điều mà tâm đường thẳng thấy rất khó lãnh hội và đó là lý do vì sao con cần hiểu là con không thể hiểu quả vị Ki-tô. Tuy nhiên, con có thể tới chỗ hiểu được là con không thể hiểu quả vị Ki-tô. Khi con hiểu là con không thể hiểu quả vị Ki-tô và tại sao con không thể hiểu quả vị Ki-tô, thì lúc ấy con có thể bắt đầu nắm được đôi chút thoáng biết quả vị Ki-tô là gì.

Con cần nhận ra ở đây là đa số con người trên trái đất đã bị lập trình để suy nghĩ qua tâm đường thẳng, tâm phân tích và duy lý. Tâm này không thể hiểu, nắm bắt và xử lý quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô vượt lên trên những gì tâm đường thẳng có thể xử lý. Đó là lý do vì sao con cũng cần hiểu là cách con nhìn quả vị Ki-tô ngay bây giờ không phải là cách tối hậu nhìn quả vị Ki-tô. Dù thày là một chân sư thăng thiên, thày vẫn không thể cho con một bài thuyết trình tối hậu về quả vị Ki-tô vì quả vị Ki-tô là một tiến trình nâng cao tâm thức dần dần.

Các thày đã cho các con kiến thức về 144 tầng tâm thức có thể có được trên trái đất. Như vậy chúng ta có thể nói quả vị Ki-tô là tiến trình qua đó con bắt đầu từ tầng 48 và dần dần nâng tâm thức lên tầng 144. Khi tới tầng 144 thì con đạt được mức cao nhất của quả vị Ki-tô mà có thể đạt được trên trái đất trong tình trạng hiện nay.

Điều này có nghĩa là, con yêu dấu, khi con bắt đầu ở tầng 48 thì con có thể có một hiểu biết nào đó về quả vị Ki-tô, nhưng đó không phải là hiểu biết trọn vẹn. Khi con tăng triển tới các tầng tâm thức cao hơn thì sự hiểu biết và trải nghiệm của con về quả vị Ki-tô sẽ thay đổi. Con sẽ không nắm biết được trọn vẹn quả vị Ki-tô cho tới khi con đạt tầng 144. Do đó, con thấy được là không thể đưa ra một định nghĩa về quả vị Ki-tô mà những người ở nhiều tầng tâm thức khác nhau từ 48 tới tầng 144 có thể hiểu được.

Tại sao thày nói là bắt đầu từ tầng 48? Bởi vì những người ở dưới tầng 48 không thể hiểu được quả vị Ki-tô. Lẽ dĩ nhiên họ có thể nghe tới khái niệm quả vị Ki-tô. Họ cũng có thể quyết định là họ muốn đạt quả vị Ki-tô, nhưng họ không thể hiểu quả vị Ki-tô thực sự nghĩa là gì. Do đó, họ có thể tạo một nhận thức lý trí, duy lý, đường thẳng về quả vị Ki-tô là gì. Họ còn có thể nghĩ rằng họ đang tiến triển trên đường tới mục đích đó nhưng không phải vậy đâu, con yêu dấu. Con có thể nâng cao tâm thức từ tầng thấp nhất lên tới tầng 48, và như vậy con đang tiến bộ theo nghĩa tâm linh nhưng con còn chưa bắt đầu tiến trình mang vào quả vị Ki-tô.

Lý do là vì con còn quá dính chặt vào tâm vỏ ngoài. Tâm này nghĩ rằng nó có thể hiểu mọi chuyện bằng cách tạo nên những nhãn hiệu, và sau đó thêm phán xét giá trị vào nhãn hiệu mà họ đã tạo ra dựa trên tư duy nhị nguyên. Rồi sau đó họ nghĩ họ có thể định nghĩa quả vị Ki-tô dựa trên một số tiêu chuẩn vỏ ngoài. Họ nghĩ họ có thể lập ra một danh sách và nói rằng: “Khi tôi hội đủ một tiêu chuẩn thì tôi sẽ đánh dấu là đã làm xong. Sau đó tôi sang tiêu chuẩn tới, và đánh dấu đã làm xong. Khi tôi đến cuối danh sách và đã đánh dấu hết mọi tiêu chuẩn, thì tôi đạt được quả vị Ki-tô.” Đó là lý do duy nhất những người ở dưới tầng tâm thức 48 có thể nhận định về quả vị Ki-tô.

Có nhiều thày giả trên thế giới chỉ cho con một con đường tu dẫn tới một mục đích nào đó. Họ có thể không gọi đó là quả vị Ki-tô, họ có thể gọi đó là nhận biết cao, tâm thức toàn vũ, giác ngộ hay bất cứ gì khác. Nhưng đấy là một con đường tu máy móc, con đường tu vỏ ngoài. Qua việc thực hành một số bài tập hay nghi lễ, hay học giáo lý, nhớ thuộc lòng, họ nghĩ rằng họ có thể hội đủ điều kiện để lên thiên đàng khi họ làm tròn một số tiêu chuẩn được quy định trên trái đất.

9.4. Bắt đầu quả vị Ki-tô

Giờ đây, con yêu dấu, khi con đi cao hơn tầng tâm thức 48, con có thể bắt đầu tiến trình quả vị Ki-tô. Có thể lúc đó con vẫn còn nhiều hiểu lầm về quả vị Ki-tô nhưng để có thể đi quá tầng 48, con đã có đức tính cốt yếu để bắt đầu tiến trình quả vị Ki-tô, đó là sự sẵn sàng lắng nghe trực giác của mình, ngay cả khi tâm duy lý, đường thẳng nói với con điều gì khác. Nói cách khác, chuyện xảy ra ở tầng 48 là con bắt đầu nghe theo trực giác của mình trong một số tình huống và do đó, con phớt lờ, bỏ qua một bên hay vô hiệu hóa tâm duy lý, đường thẳng, suy luận, lý trí và phân tích của mình.

Tất cả các con đang ở đây sẽ thấy – và tất cả các con đều ở trên tầng tâm thức 48 vì nếu không thì các con không ở đây – là con đã lấy quyết định đi vào con đường tâm linh. Bạn bè và gia đình con khó thông cảm con vì họ suy luận một cách duy lý, đường thẳng là con không nên làm điều con đang làm, con không nên tin hay chấp nhận những điều con đang chấp nhận. Có thể là con không thể cho họ một hiểu biết duy lý và đường thẳng mà họ có thể chấp nhận, vì sao con đang làm những chuyện con đang làm. Con giản dị biết đây là chuyện đúng cho con.

Như thế, đây là cốt yếu của quả vị Ki-tô giữa tầng 48 và 96. Con nâng tâm thức bằng cách dùng Bảy Tia Sáng như các thày đã mô tả trong khóa học tự điều ngự, là một con đường tuần tự do các Thượng sư hướng dẫn. Khi con tu như vậy thì con gia tăng trực giác, thực sự là sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con và với các chân sư thăng thiên. Điều này có nghĩa là con càng ngày càng muốn lờ đi tâm duy lý của mình, cũng như những thúc đẩy, phóng chiếu đến từ bên ngoài, như từ người khác (như gia đình hay bạn bè), xã hội, tâm thức đại chúng, tà lực hay bất cứ gì khác.

Khi con lên cao hơn, sẽ có nhiều phóng chiếu hơn nhưng con càng ngày càng giỏi hơn trong việc không để chúng ảnh hưởng mình. Khi con tiến về hướng tầng 96, con gia tăng khả năng đọc sự rung động, đọc mức độ năng lượng của một người đang nói chuyện với con, của một ý tưởng đến với con hay ngay cả những phóng chiếu mà các lực thấp đang phóng tới con. Con tiến bộ hơn trong việc đọc mức độ rung động, và con giỏi hơn trong việc cảm nhận nó ở dưới một mức nào đó hay ở trên mức đó.

9.5. Học cách đọc rung động

Bây giờ, con yêu dấu, điều thày đang nói với con ở đây là khi con đi lên trên tầng tâm thức 48, thì con đã thiết lập được trong chính bản thể của mình, trong tim mình, một sự rung động nào đó mà con biết là cao hơn sự rung động dựa trên sợ hãi của thế gian. Đây là sự rung động cao nhất mà con có thể nhận ra với tầng mức tâm thức của con. Tỷ dụ như ở tầng 48, con có một mức rung động nền nào đó mà con có thể nhận ra. Do đó, con nhận ra được là có một số thứ rung động rõ ràng ở dưới mức này và một số thứ khác rung động trên mức này. Cũng có thể con thấy khó nhận ra các rung động quá cao trên mức này. Cũng có thể, con gặp khó khăn phân biệt giữa rung động nền của con và các rung động thấp hơn nó một chút, nhưng con có thể cảm nhận rõ ràng sự khác biệt giữa rung động nền của con và rung động rất thấp dưới nó.

Bây giờ khi con lên các tầng cao hơn hướng tới tầng 96, con có thể nhận ra những rung động cao hơn. Điều này có nghĩa là giờ đây con có thể nhận ra những rung động càng ngày càng cao hơn. Lẽ dĩ nhiên, con không quên rung động nền mà con có ở tầng 48 và do đó bây giờ con có thể nhận ra một dải rung động cao ngày một rộng hơn. Điều này cũng có nghĩa là con giỏi hơn trong việc phân biệt những rung động thấp hơn tầng 48 một chút, và do đó tà lực càng lúc càng khó lừa được con.

Con sẽ tới một điểm đạt tới tầng 96, khi ấy con đạt được khả năng đọc bất kỳ rung động nào mà sa nhân phóng tới con từ dưới tầng 48. Nói cách khác, con không thể bị lừa bởi một rung động ở dưới tầng 48, dù nó được ngụy trang tài tình đến đâu chăng nữa. Con có thể tự mình nhận ra rung động đó. Điều này không có nghĩa là con đã đạt được trọn vẹn quả vị Ki-tô. Thực sự thì đây là giai đoạn sơ bộ của quả vị Ki-tô, và tiến trình thực sự đạt quả vị Ki-tô cá nhân – trở thành Ki-tô Hằng sống (Living Christ) – bắt đầu trên tầng 96.

9.6. Khai ngộ tại tầng 96

Tuy nhiên ở tầng 96, con đối mặt với một khai ngộ quyết định, và con thấy thày trải qua khai ngộ này khi thày bắt đầu sứ mệnh của thày. Thánh kinh không mô tả rành rọt sự việc này nhưng con thấy hoàn cảnh bữa tiệc cưới ở Cana, khi mẹ của thày phải thúc đẩy thày biến nước thành rượu và như thế ra mặt khởi sự sứ mệnh công chúng của thày. Trong Thánh kinh cũng có một số ám chỉ khác, như lễ rửa tội do Giăng Báp-tít (John the Baptist), và một số ám chỉ vi tế khác.

Điều thày muốn nói ở đây là khi con tới tầng 96, con đối mặt với một quyết định hệ trọng. Con có thể tiếp tục theo đuổi sự tăng triển tâm linh để nâng mình và trạng thái tâm thức của mình lên cao hơn, hay con có thể chọn lựa là kể từ điểm này trở đi, con theo đuổi sự tăng triển tâm linh không phải để tự nâng mình lên mà để phụng sự và nâng toàn thể lên.

Sự khác biệt trông có vẻ vi tế. Nó có vẻ vi tế vì nó thực sự vi tế. Trên thực tế, hầu hết mọi người ở dưới tầng 96 sẽ không hiểu được sự vi tế này và những người dưới tầng 48 thì sẽ không hiểu được gì cả. Họ còn không thể thấy được tại sao phải có chọn lựa đó. Con yêu dấu, quả vị Ki-tô ở các tầng cao của tâm thức không chú trọng vào việc nâng cao tâm thức của mình, nâng cao cái ta của mình. Con hiểu chăng, con yêu dấu, là giữa tầng tâm thức 48 và 96, con nâng cao cá thể của mình, như con thấy nó lúc đó, vượt lên trên sức hút của tâm thức đại chúng?

Như tình trạng tâm thức đại chúng hiện nay trên trái đất, không cách chi con có thể biểu hiện một trạng thái tâm thức cao nếu con bị ảnh hưởng bởi tâm thức tập thể. Do đó ở tầng 48, con nhận ra là con có tiềm năng, với tư cách một cá nhân, nâng mình lên cao hơn tâm thức đại chúng. Ở tầng 48, con có một ý niệm bản ngã nào đó, một ý niệm bản sắc nào đó, một hiểu biết trí năng mình là ai, một hiểu biết tình cảm mình là ai và một hiểu biết vật lý có ý thức mình là ai. Như con thấy mình là ai ở tầng 48, đó là cái ta mà con bắt đầu nâng lên.

Giờ đây, lẽ dĩ nhiên, cái ta này thay đổi khi con tiến về hướng tầng 96, nhưng trên căn bản con vẫn còn xem mình là một cá thể đang đi trên con đường tâm linh và đang nâng cao tâm thức của mình. Đây là điều không tránh được, đây là điều cần thiết – và điều này không có gì sai trái – là con có một động cơ thúc đẩy con muốn nâng mình lên cao hơn, muốn con đạt được một tầng tâm thức cao hơn.

Tuy nhiên, điều này cũng tạo cơ hội để các thày giả ảnh hưởng con một cách vi tế. Họ đã làm điều này, ví dụ bằng cách mô tả quả vị Ki-tô, giác ngộ hay tâm thức toàn vũ như một trạng thái siêu nhiên giúp con đạt được quyền năng siêu nhiên, như biến nước thành rượu, đi trên nước hay làm người chết sống lại – hoặc bất kỳ điều gì khác. Họ khiến con nghĩ con sẽ trở thành một siêu nhân với quyền năng siêu nhiên. Có nhiều người mong muốn có quyền năng như thế và mong muốn bước ra ngoài chứng minh những quyền năng này với người khác. Họ có thể có thiện ý muốn thu hút người khác vào con đường tâm linh, nhưng đằng sau đó luôn luôn có thúc đẩy vị kỷ muốn nâng mình lên cao hơn người khác. Nói cách khác, khi con đi trên con đường tu từ tầng 48 lên 96, thì lúc nào con cũng còn một yếu tố vị kỷ.

Khai ngộ mà con đối mặt ở tầng 96 là: Con có sẵn sàng buông bỏ ham muốn tăng trưởng đến từ cái ta không? Con có sẵn sàng bước lên một động lực cao hơn và nhận ra rằng mục đích thật sự của sự thăng thiên là bây giờ con sẽ bắt đầu tháo dỡ cái ta mà con đã sử dụng như cỗ xe để tiến lên từ tầng 48 tới tầng 96?

Bây giờ con có thể so sánh điều này với hỏa tiễn không gian có hai tầng, con yêu dấu. Tầng đầu có động cơ với một bình nhiên liệu vĩ đại cần thiết để đưa hỏa tiễn vượt khỏi hấp lực của trái đất. Con cần có cái ta đó giữa tầng 48 và tầng 96. Thày không khiển trách ai hết. Việc này không có gì sai trái cả. Việc này cần thiết, nhưng như con thấy với trường hợp hỏa tiễn, một khi đã đi vào không gian, thì nó không cần động cơ khổng lồ và bình nhiên liệu đó nữa bởi vì chúng chỉ cần thiết để đưa tới giai đoạn thứ nhì. Do đó, hỏa tiễn phải tách ra và để chúng rơi xuống.

Sự khác biệt cốt yếu ở tầng 96 là sự khác biệt giữa những người hiểu được điều này và những người không hiểu. Có những người ở tầng 96 tiếp tục tìm cách nâng mình lên. Và có những người thấy được nhu cầu buông bỏ cái ta mà họ có ở tầng 96. Điều này không có nghĩa là họ có thể buông bỏ nó ngay tức khắc bởi vì con luôn luôn cần một sự liên tục nào đó để sinh hoạt trong cõi vật chất. Do đó, điều mà thày muốn nói là một khi con tới tầng 96 và hiểu được giai đoạn cao của quả vị Ki-tô là gì, thì con đi vào một tiến trình dẫn con từng bước một từ tầng 96 lên tầng 144. Tiến trình này không có mục đích nâng cao chính mình, cho mình một số khả năng đặc biệt nào đó, nâng mình lên cao hơn người khác. Nó thực sự là tiến trình tháo dỡ cái ta chia cách con khỏi người khác.

9.7. Cái nhìn cấp tiến về quả vị Ki-tô

Con thấy chăng, con yêu dấu, việc con cần một cái ta để kéo mình lên trên tâm thức đại chúng có vẻ là một sự mâu thuẫn. Vì sau đó, một khi đã làm xong điều này, thì con lại cần tháo dỡ cái ta đó và cố gắng hợp nhất với tất cả mọi người. Sự thực là khi con còn bị ảnh hưởng bởi tâm thức đại chúng, thì con không hợp nhất với người khác, con không hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con, con không hợp nhất với các chân sư thăng thiên. Con chỉ giản dị ở trong trạng thái máy móc trong đó các sa nhân tìm cách khiến cho mọi người đều giống nhau. Trạng thái đó, con yêu dấu, không phải là hợp nhất.

Trạng thái đó có thể gọi là giống nhau, nhưng nó không là hợp nhất. Con thấy chăng, hợp nhất theo nghĩa tâm linh là khi con nhận ra cá thể tâm linh thiêng liêng của con nhưng cá thể tâm linh này không kéo con tách biệt khỏi người khác. Các thày là chân sư thăng thiên nhìn nhận cá thể của mình. Thày nhìn nhận cá thể của mình khác với cá thể của thày MORE hay cá thể của thày Saint Germain, nhưng các thày không xung đột hay ganh đua với nhau. Các thày đạt được một mức hợp nhất mà con không thể nào hiểu được trong trạng thái chưa thăng thiên. Nhưng con có thể bắt đầu hiểu được khi con tiến gần tầng 144.

Có hai giai đoạn chính của quả vị Ki-tô và đó là lý do vì sao khi con ở dưới tầng 96, con có một cái nhìn nào đó về quả vị Ki-tô, một hiểu biết nào đó về quả vị Ki-tô. Một khi con lên trên tầng 96, con bắt đầu nhận là nó nhiều hơn thế nhiều. Nó thực sự là cái gì đó hoàn toàn khác với cái con nghĩ ở tầng tâm thức trước đó của con. Điểm cực kỳ – cực kỳ – quan trọng là khi con đang ở bất cứ tầng nào, thì con, một cách có ý thức, lấy thái độ là ở tầng hiện tại của con, con không thể hiểu trọn vẹn quả vị Ki-tô là gì. Do đó, con không nhìn một định nghĩa hay quan niệm đặc thù nào về quả vị Ki-tô và nói: “Đây là quả vị Ki-tô” và do đó con đóng tâm lại với cái nhìn cao hơn, hiểu biết cao hơn, trải nghiệm cao hơn.

Trong khi con ở dưới tầng 96, con sẽ vẫn còn nghĩ quả vị Ki-tô là cái gì con có thể hiểu được. Thày yêu cầu con ý thức là dù con có thể có một hiểu biết nào đó về quả vị Ki-tô, con sẽ tới một điểm mà hiểu biết này cần phải đào thải. Bây giờ, thay vì hiểu quả vị Ki-tô, con chú tâm vào việc trải nghiệm nó. Có sự khác biệt giữa hiểu và trải nghiệm theo nghĩa là khi con hiểu một điều gì, con nhìn nó từ bên ngoài. Con nói: “Quả vị Ki-tô ở trên kia và tôi hiểu nó là cái gì, và tôi đang hiểu làm sao tôi có thể lại gần nó.” Điều này ngụ ý là con chưa tới chỗ đó.

9.8. Trải nghiệm quả vị Ki-tô

Khi con đi tới tầng 96 và con lấy quyết định một cách ý thức là con xoay chuyển khỏi sự chú tâm vào chính mình, để chú tâm vào cái gì vượt quá cái ta, thì lúc ấy con bắt đầu trải nghiệm quả vị Ki-tô. Một lần nữa điều này không có nghĩa là con trải nghiệm trọn vẹn quả vị này, nhưng con trải nghiệm quả vị Ki-tô ở một giai đoạn nào đó. Đây là lúc, như sứ giả này đã mô tả, con cần tới điểm sẵn sàng chấp nhận một cách ý thức là con đã đạt được một mức nào đó của quả vị Ki-tô. Nếu con không chấp nhận điều này thì con thực sự không thể nào bắt đầu tiến trình trải nghiệm những biểu hiện ngày càng cao hơn của quả vị Ki-tô.

Con có thể nghĩ con là Ki-tô ở dưới tầng 96, và các thày luôn luôn thấy một số đệ tử nghĩ rằng họ có thể tuyên bố là họ đã đạt được quả vị Ki-tô trong khi họ vẫn còn dưới tầng 96 hay ở tầng 96. Con yêu dấu, họ tuyên bố như thế với tâm vỏ ngoài và đây không phải là điều thày đang nói ở đây. Thày nói tới một sự chuyển hóa vi tế không dựa trên tâm vỏ ngoài. Đây không phải là việc quyết định với tâm vỏ ngoài nhưng là nhận ra rằng con cũng không thể chối bỏ quả vị Ki-tô.

Con nhận ra rằng lúc nào trong tự ngã con người cũng có sự tương tác giữa cảm nhận tự ti và tự tôn. Con nhận ra rằng có một khuynh hướng, có một yếu tố trong tự ngã muốn thổi phồng tầm quan trọng của nó. Do đó, con nhận ra là những người bị ảnh hưởng bởi khía cạnh này của tự ngã sẽ tuyên bố họ là Ki-tô trước khi họ thực sự sẵn sàng cho quả vị đó, trước khi họ quyết định ngừng tập trung vào cái ta. Họ tìm cách dùng quả vị Ki-tô như một cách để nâng cái ta tách biệt lên một vị thế tối hậu nào đó.

Mặt khác con cũng thấy có những người bị kẹt trong khía cạnh tự ti của tự ngã và nghĩ rằng họ không được công nhận là họ đã đạt được một giai đoạn nào đó của đường tu. Họ phải khiêm cung, họ không được gây chú ý tới họ. Họ quá quan tâm cần tránh kiêu mạn đến độ rơi vào đối cực là rất khiêm cung và không tuyên bố mình đã đạt được bất cứ giai đoạn nào. Con thấy chăng, kiêu mạn có thể biểu hiện dưới cả hai dạng tự ti tự tôn.

9.9. Công nhận quả vị Ki-tô

Khi con nhận ra điều này, con nhận ra rằng con cần xem xét mình, xem xét tâm lý mình, xem xét cả hai khía cạnh của tự ngã, khía cạnh tự ti, khía cạnh tự tôn, để nhận thấy chúng đã ảnh hưởng cái ta của con ra sao. Và khi con đi qua tiến trình phơi bày động lực này của tự ngã, thì con sẽ tới một điểm con nhìn thấu suốt và con nhận ra con hơn nó. Đây không phải cái con là, nó không quy định con. Rồi con nhận ra là con thực sự muốn hoàn toàn vượt lên trên động lực của tự ngã vì con muốn là một với Hiện diện TA LÀ của con, con muốn là một với vị chân sư thăng thiên thân thiết nhất trong tim con. Con muốn điều này hơn bất kỳ vị thế nào con có thể có được trên trái đất.

Đó là lúc con tới được sự nhận biết nội tâm tự phát là con không thể nào tuyên bố mình có quả vị Ki-tô quá sớm, nhưng con cũng không thể chối bỏ nó, phớt lờ nó, quá tầng tâm thức thực sự của con. Lúc đó, con nhận ra rằng con cần công nhận là con đã tiến bộ trên con đường tâm linh, con đã đạt được một tầng tâm thức nào đó. Con đã đạt một tầng của quả vị Ki-tô ở trên tầng 96 bởi vì con nhận ra rằng con không còn chú tâm tới cái ta tách biệt. Con còn một số khía cạnh của cái ta này nhưng con không chú tâm tới chúng. Nó không quy định con, nó không quy định con đường tu của con.

Đó là lúc con công nhận con đã đạt được một tầng nào đó của quả vị Ki-tô, nhưng con cũng công nhận đó không phải là mức cao nhất của quả vị Ki-tô. Con nhận ra rằng giữa tầng 96 và 144, có một tiến trình không giống điều nhiều người nghĩ. Đây không phải là giai đoạn con đạt được khả năng siêu nhiên nào đó. Khả năng siêu nhiên không phải là một phần cốt yếu của quả vị Ki-tô. Có những người đã đạt quả vị Ki-tô, đã hội đủ tư cách để thăng thiên nhưng chưa bao giờ biểu lộ bất kỳ khả năng siêu nhiên nào, chưa bao giờ có ai nhận ra họ. Những người dưới tầng 48 còn không thể nào nhận ra người ở các tầng cao hơn, và hầu hết những người dưới tầng 96 cũng không thể nhận ra họ một cách dễ dàng.

Ở giai đoạn này, con không chú tâm vào thế gian theo nghĩa là con không chú tâm vào việc sống theo hình ảnh hay chờ đợi nào đó của thế gian. Con không tìm cách khiến thế gian nể phục. Con không đi tìm sự công nhận của thế gian. Con đã đạt được cái mà con có thể gọi là một ý niệm cao về sự tự túc tâm linh khi con không cần sự công nhận hay chứng thực của người khác hay của thế gian. Con không cần người khác chứng thực vì con có sự chứng thực từ bên trong qua trải nghiệm hợp nhất cao hơn so với trước kia. Con vẫn còn nhớ cảm nhận khi con chưa trải nghiệm mình là một với Hiện diện TA LÀ của con, hay với các chân sư thăng thiên, và cảm nhận hiện tại khi con có sự hợp nhất này. Do đó con không nhìn mức độ hợp nhất như một mục tiêu lý thuyết mà con nhìn từ phía xa. Con đang trải nghiệm sự hợp nhất này và con trải nghiệm rằng khi con tiếp tục xem xét mình và thấy thêm những hạn chế, thêm những tin tưởng hạn chế và con buông bỏ chúng, thì khi đó con đạt được một mức độ hợp nhất cao hơn.

9.10. Liên tục quan sát mình

Con nhận ra rằng con đường từ tầng 96 lên tới tầng 144 thực sự là con đường liên tục quan sát mình. Trong mọi hoàn cảnh, con quan sát phản ứng của mình. Mỗi khi con nhận thấy một phản ứng mà con biết rung động thấp hơn tầng rung động nền mà bây giờ con đã nhận ra, thì con xem xét nó với tâm cởi mở và chân thật. Con không tìm cách che giấu nó với chính mình, con không tìm cách biện minh cho nó. Con cũng chẳng lên án mình vì con đã vượt quá nhu cầu lên án mình theo bất cứ kiểu nào. Con không tìm lỗi của người khác, con không tìm lỗi của chính mình, con không phán xét với sự phán xét giá trị nhị nguyên. Con chỉ giản dị quan sát. Con quan sát là ở đây đang có cái gì hạn chế con và con nhìn xem nó là gì cho tới khi con khám phá ra cách nó vận hành. Sau đó con nhận ra con đã cho cái ta đó chết đi như thế nào và con vươn lên một tầng cao hơn.

Con thấy chăng, con yêu dấu, ở dưới tầng 96, con cố gắng đạt quả vị Ki-tô dựa trên một cái nhìn của cái ta vỏ ngoài. Nó dựa trên việc nâng mình lên khỏi sức hút của tâm thức đại chúng. Giờ đây khi con đi quá tầng 96 và trên thực tế, để có thể đi quá tầng 96, con cần đạt được khai ngộ mà thày đã mô tả khi thày nói là nếu con muốn cứu mạng sống của mình thì con sẽ mất nó, nhưng những ai sẵn lòng chịu mất mạng sống của mình để phụng sự thày thì họ sẽ tìm được nó. Câu này có nghĩa là giờ đây con bắt đầu buông bỏ một số khía cạnh của đời sống của mình, nghĩa là cái ta vỏ ngoài, cái ta đã đưa con tới tầng 96. Con cần để cho một số yếu tố của cái ta này chết đi vì con trải nghiệm (con cảm nhận, con thấy) là chuyện quan trọng hơn là con tiến một bước cao hơn trong tiến trình hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con, hay hợp nhất với vị chân sư thăng thiên nào thân thiết nhất trong tim con. Vị này có thể là thày; vị này có thể là một chân sư nào khác mà con muốn. Đây là một tiến trình hợp nhất và con chỉ đạt được hợp nhất với cái ta cao của con, với Hiện diện TA LÀ của con, bằng cách cho cái ta vỏ ngoài chết đi từng bước một, từng yếu tố một, từng phần nhỏ một.

9.11. Chết liên tục

Ta có thể nói đây là một tiến trình chết liên tục vì con đang chết đi khỏi thế gian. Con đang cho phép cái ta thế gian chết đi để khi ông hoàng của thế gian tìm đến, thì y sẽ thấy trong con càng ngày càng ít chuyện để nắm, cho tới khi cuối cùng thì y không tìm thấy bất cứ gì nữa. Con đã cho phép cái ta thế gian này chết đi, và nó không còn gì nữa hết. Ở điểm đó, chẳng còn gì giữ con hiện thân và đó là lý do vì sao con đi vào tiến trình thăng thiên. Điều quan trọng mà con cần ghi nhớ là vấn đề là cho cái ta vỏ ngoài chết đi.

Bây giờ con yêu dấu, thày gọi nó là một hình thức chết vì hầu hết mọi người xem cái chết như một giai đoạn cuối cùng khi cái gì đó biến mất, cái gì đó chết đi, cái gì đó không còn nữa. Đây đúng là điều xảy ra cho cái ta vỏ ngoài của con: nó chết đi. Có một cái ta nào đó, một yếu tố nào đó của nó, và như thày Hilarion đã giải thích trong sách của thày (Khai ngộ Thần bí về Viễn quan) có một ảo tưởng nào đó ở mỗi tầng tâm thức. Chúng ta cũng có thể nói là có một cái ta mà con cần cho chết đi tại tầng 96 để con có thể lên tầng 97. Sau đó có một cái ta ở tầng 97 mà con cho phép chết đi để có thể lên tầng 98 và tiếp tục như vậy. Điều này có tính chất chung cuộc.

Bây giờ, lẽ dĩ nhiên con cũng làm điều này giữa tầng 48 và tầng 96, nhưng con không ý thức về nó trong hầu hết trường hợp. Khi con đi quá tầng 96 và lấy quyết định đầu tiên cho cái ta chết đi, thì con càng ngày càng ý thức tiến trình đó. Con thấy là có cái gì đó thật sự chết đi. Nó không còn nữa, con buông bỏ nó hoàn toàn. Ở điểm này, con bắt đầu nhận ra là cái chết không phải là điều gì xảy ra tới con mà con không kiểm soát được. Cái chết thực sự là do con ý thức buông bỏ cái ta không còn giúp ích con nữa. Nó là một tiến trình mà con kiểm soát được, con yêu dấu. Con để cái ta đó chết đi một cách có ý thức và con thấy đây là hành động chung cuộc vì cái ta không còn nữa sau khi con buông bỏ nó.

9.12. Hình ảnh mỹ lệ về quả vị Ki-tô

Con thấy chăng con yêu dấu, có nhiều người nghe hay đọc bài giảng này và cảm thấy thất vọng vì bỗng nhiên những điều thày mô tả về quả vị Ki-tô nghe không mỹ lệ như họ đang mường tượng. Điều này chứng minh là con đã phần nào chấp nhận một trong những hình ảnh giả mà các thày giả đưa ra về ý nghĩa của các trạng thái tâm thức cao.  

Có một khía cạnh mà thày đặc biệt muốn con lưu ý. Một điều điển hình của các phong trào tâm linh (hoặc là các tôn giáo lớn hay các phong trào tâm linh nhỏ hơn xoay chung quanh một vị đạo sư) là họ thường tôn vinh người lãnh đạo phong trào như một người cao hơn những người khác. Ví dụ con có thể thấy một số tổ chức tâm linh hiện đại do một người nào đó khởi xướng và những người trong phong trào nghĩ rằng người này đã giác ngộ. Họ thường có một cái nhìn không được rõ ràng về thế nào là giác ngộ, nhưng họ nghĩ rõ ràng là người giác ngộ cao hơn những người khác.

Nếu giác ngộ có một ý nghĩa nào đó như một khái niệm, thì nó đồng nghĩa với quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô là gì? Nó là, khi con càng ngày càng tới gần tầng 144 hơn, con bắt đầu nhận ra là bên dưới mọi hiện tượng thế gian là cái một. Điều này có nghĩa là trước tiên con thấy con là một với Hiện diện TA LÀ của mình, và một với các chân sư thăng thiên ở trên con. Con thấy con là một phần của dòng năng lượng tuôn chảy không ngừng từ Tánh linh – phần trên của hình số tám. Sau đó, khi con càng tới gần điểm nối ở giữa hình số tám, thì con bắt đầu thấy con là một với tất cả những gì ở dưới, không phải là với sa nhân, với tâm thức nhị nguyên, nhưng là một với những nối dài có tự nhận biết của Thượng đế, những đứa con trai con gái của Thượng đế. Con thấy con là một với tất cả mọi người. Khi con tiến gần hơn tới trạng thái là một, thì mọi phê phán giá trị, mọi so sánh hoàn toàn phai mờ đi, con yêu dấu.

Nghĩa là, chúng ta cần nói là khi con tiến gần tầng tâm thức 144, thì lẽ dĩ nhiên con ở một tầng tâm thức cao hơn những người đang ở tầng 48 chẳng hạn. Lẽ tự nhiên, nhờ quyết chí nỗ lực con đã nâng mình lên, cao hơn tầng 48 rất nhiều. Điều này không có nghĩa là giờ đây con xem mình hay hơn hay quan trọng hơn người khác. Ngược lại, những phán xét giá trị của con phai mờ đi và chuyện so sánh mình với người chẳng còn ý nghĩa gì. Trên thực tế, ngay cả việc so sánh mình theo bất cứ thang giá trị nào cũng trở nên vô nghĩa. Con càng lúc càng không chú ý tới chuyện mình đang ở đâu trên thang tâm thức. Con chỉ giản dị chú tâm mình là chính bản thể mình, biểu lộ Sứ vụ Thiêng liêng của mình vì con bắt đầu thấy nó rõ hơn và con phụng sự người khác, phụng sự đại nghĩa nâng cao mọi sự sống của các chân sư thăng thiên. Đây là chú tâm của con.

Con hiểu chăng, con yêu dấu, một người càng giác ngộ thì càng không muốn người khác xem mình đã giác ngộ vì người khác sẽ xem người đã giác ngộ cao hơn họ. Con nhận ra là nếu người khác xem con cao hơn họ, họ không thể xem con là một tấm gương mà họ theo được. Họ thấy có một khoảng cách giữa con và họ và vì thế con không thể cho họ cảm hứng trọn vẹn để họ đi theo con đường mà con đã đi. Con thấy chăng, con yêu dấu, khi một người đặt mình cao hơn người khác một cách cơ bản, thì người đó không thể nào đã giác ngộ. Nếu người đó đã giác ngộ, thì người đó sẽ không muốn người khác đặt họ lên trên bệ cao. Thay vào đó, người giác ngộ sẽ làm tất cả đủ mọi điều để tránh mọi người thấy có khoảng cách. Người giác ngộ muốn mọi người thấy rằng tất cả đều có tiềm năng đi theo cùng con đường tu và đạt được những tầng tâm thức cao. Ở đây, tất cả mọi so sánh, tất cả mọi phê phán giá trị, phai mờ đi và kết quả là con đạt được bình an nội tâm càng ngày càng lớn hơn. Con không phải đáp ứng chờ đợi nào của thế gian. Con không phải cố gắng đạt được điều gì. Con không phải lên án mình vì điều gì mình đã làm. Con không phải phê phán hay đánh giá người khác.

Con thấy chăng, con yêu dấu, khi thày nói: “Ta đến đây để phán xử,” thì thày không muốn nói là thày đến để phê phán và đánh giá và chỉ trích người khác. Câu đó có nghĩa là thày đến để cho phép người khác phán xử chính họ qua cách họ đối xử với thày. Phán xử tối hậu là họ đã giết xác thân vật lý của thày qua đó họ tìm cách giết Ki-tô Hằng sống.

Ngày nay may thay, chúng ta sống trong một thời đại mà sa nhân thấy giết Ki-tô Hằng sống càng ngày càng khó khăn hơn, và do đó lẽ dĩ nhiên con không phải trải qua kinh nghiệm này – thày thành thật hy vọng điều đó cho con. Con hiểu ý ở đây là thày không đến để phê phán và chỉ trích và đánh giá bất cứ ai, như nhiều người nghĩ. Như các thày có nói trước đây, các thày là chân sư thăng thiên không ngồi ở trên này để theo dõi từng hành động, từng lời nói, từng ý nghĩ và cảm xúc của các con. Các thày không chỉ trích, lên án, đánh giá và phê phán con, con yêu dấu. Các thày chỉ tìm cách nâng con lên.

9.13. Nâng người khác thay vì chính mình

Đây là điều con làm khi con tiến càng ngày càng gần tầng 144. Con càng ngày càng bớt quan tâm đến việc tạo cảm tưởng là con cao hơn người khác. Con thực sự càng ngày càng quan tâm đến việc giúp người khác nâng cao tâm thức của họ. Con quan tâm chuyện nâng người khác lên hơn là nâng cao chính mình, và do đó con làm những gì con làm được để tránh chuyện người khác đặt con lên bệ cao.

Con yêu dấu, đây là những ý nghĩ của thày cho lần này. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là giáo lý cuối cùng về quả vị Ki-tô, nhưng đây là những điều mà thày xét sẽ hữu ích cho các con, dựa trên những câu hỏi của các con và của nhiều người trên thế giới. Do đó, thày cảm ơn các con đã lắng nghe và đã là cánh cửa mở, vì một lần nữa, thày có thể dùng luân xa các con để lan tỏa một xung lực đi vào Hàn Quốc và thế giới – đi vào tâm thức đại chúng của thế giới – để tới những ai có tiềm năng đứng ra và nhìn nhận quả vị Ki-tô của mình và bắt đầu bước lên các giai đoạn cao hơn tầng 96.      

Các con yêu dấu, thày muốn nói lên lòng biết ơn sâu xa của thày đối với các con ở Hàn Quốc, đã học giáo lý của các thày, đã đọc các bài thỉnh và đã là công cụ hữu hiệu mang lại những thay đổi mà các con đã thấy trong mười tháng vừa qua kể từ lần hội nghị trước và lẽ dĩ nhiên ngay cả trước lần hội nghị đó. Các thày biết ơn các con và các con yêu dấu, các thày quả thực ghi nhận nỗ lực của các con. Lẽ dĩ nhiên, các thày không tìm cách khiến các con cảm thấy mình hơn người khác nhưng các con yêu dấu, các con hiểu là khi các con đã vượt qua động lực tự ti-tự tôn, thì chuyện nhìn nhận các con đã nỗ lực, và nỗ lực ấy tạo ra thành quả và các con đã đem lại sự thay đổi trong đất nước của các con qua những gì các con đang làm, là chuyện có giá trị. Do đó, lẽ dĩ nhiên, các con có thể tiếp tục đem lại thay đổi. Khi các con vươn lên các tầng tâm thức cao hơn, các con có thể đem lại nhiều thay đổi hơn nữa. Lẽ dĩ nhiên, khi các con đi lên về hướng tầng 96, thì các con càng ngày càng là cánh cửa mở cho xung lực và năng lượng của Hiện diện TA LÀ của các con và các chân sư thăng thiên. Chính dòng năng lượng tuôn chảy xuống này sẽ đem lại sự thay đổi tối hậu nâng trái đất vào thời đại hoàng kim.

Con có thể nói rằng khi con tiến càng ngày càng gần quả vị Ki-tô trọn vẹn ở tầng 144, thì con càng ngày càng là cánh cửa mở để lan tỏa tâm thức của thời đại hoàng kim vào thế giới. Trong nhiều trường hợp, điều này có nghĩa là có thể con càng ngày càng cần làm ít đi ở bên ngoài và đó là lý do vì sao con thấy một số người đã rút về hang động và ngồi đó để giữ quân bình tâm linh. Lẽ dĩ nhiên, trong thời đại này, điều rất quan trọng là hầu hết những người đang cố gắng đạt quả vị Ki-tô cần tích cực tham gia vào xã hội và như thế, các con trở thành những tấm gương. Như các thày đã nói nhiều lần, khuôn đúc có một người được xem là tấm gương là một hiện tượng của thời Song ngư và trong thời Bảo bình chúng ta cần nhiều người làm gương.

Đó là lý do vì sao một tổ chức của thời đại Bảo bình không tôn vinh một người lãnh đạo lên vị thế tối cao nhưng thấy rằng tất cả mọi người đều có tiềm năng làm gương và làm cánh cửa mở. Vì thế, con yêu dấu, thày biết ơn các con đã chịu làm cánh cửa mở để thày truyền xuống ánh sáng ngày hôm nay.

Nhìn quá bức màn của vật chất, 15 đoạn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 19/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Thầy rất vui mừng khi thấy học viên đến tầng này của khóa nhập thất vì họ đã sẵn sàng đón nhận khai ngộ cuối cùng mà thày cống hiến trong khóa tự điều ngự này. Đây dĩ nhiên là sáng ngộ do năng lượng của Tia thứ Năm phối hợp với năng lượng của tự do.

Vậy khai ngộ mà con sẽ gặp ở tầng này là gì? Đó là con cần giải thoát tâm, giải thoát viễn kiến của mình khỏi ảo tưởng cơ bản rất tinh tế của sa nhân. Ảo tưởng này có nhiều tầng lớp. Thày có nói về điều này trong các bài giảng trước, đặc biệt là trong bài trước khi thày nói về việc giải thoát tâm mình khỏi ảo tưởng cho rằng vật là vật, chúng khó thay đổi vì vật chất rắn đặc và không thay đổi được bằng tâm.

16.1. Nhìn quá tấm màn vật chất

Con cần phải khởi sự làm điều gì? Khi con tới dự khóa nhập thất của thày trong các thể thanh thoát hơn của con, dĩ nhiên là thày dạy con cách nhìn quá tấm màn của vật chất. Có thể nói là tà ma là một tấm màn năng lượng vì các lực bóng tối, các sa nhân đã tạo ra ảo tưởng rằng vật chất rắn đặc và không thay đổi được. Con yêu dấu, điều này là một ảo tưởng hay chúng ta cần tìm hiểu thêm? Nó một ảo tưởng do sa nhân tạo ra, nhưng ta cũng nên tìm hiểu thêm vì có một sự tương ứng giữa sự dày đặc của vật chất và khả năng của các giác quan vật lý của con.

Điều rõ ràng là khi con còn sống trên một hành tinh có độ dày đặc như trái đất, con cần biết cách cảm nhận vật chất. Con cần phải đi lại trong vật chất và do đó giác quan vật lý của con phải có khả năng cảm nhận vật chất ở mức rung động hiện nay của nó. Nếu con xem đôi mắt chẳng hạn, con sẽ thấy là đã có lúc trái đất có một mức rung động cao hơn ngày nay. Mắt của những người sống trên trái đất lúc đó giản dị là không có khả năng thấy được những rung động dày đặc có mặt trên trái đất ngày hôm nay. Nếu con lấy những người thời đó và đem họ tới trái đất thời nay, họ sẽ không có khả năng nhìn thấy những gì con dễ dàng thấy là vật chất vì con mắt của họ không được điều chỉnh để tiếp nhận những rung động thấp đó.

Chuyện đã xảy ra là vì vật chất đã trở nên dày đặc hơn, vì cơ thể con đã trở nên dày đặc hơn, cặp mắt của con đã nới rộng phạm vi hoạt động và thấy được các rung động thấp hơn trước. Thực ra thì điều này tự nó không tạo ra tấm màn năng lượng, rào cản nhãn quan. Mắt vật lý của con vẫn có khả năng nhận ra các rung động cao hơn bên ngoài quang phổ vật lý. Một số trong các con thấy được hào quang chung quanh người khác. Mọi người đều biết là hào quang có thật và có một số người đã, theo như câu ngạn ngữ, “mở con mắt thứ ba” và có thể thấy hào quang và các luân xa. Hoặc họ có thể thấy được cõi trung giới (astral plane) hay các cõi cao hơn, và ngay cả chân sư thăng thiên.

16.2. Vì sao con không thấy được hào quang người khác

Con biết rằng điều này có thể làm được. Câu hỏi là: tại sao con không thấy được các rung động bên ngoài cõi vật chất? Có rất, rất nhiều người tin rằng lý do là vì con mắt vật lý không thấy được các rung động này; trên phương diện vật lý con không có khả năng để thấy được. Thày nói là điều này không đúng, và đây là sáng ngộ mà con sắp trải qua.

Thày có thể chỉ cho con thấy ở tầng ê-the là điều này không đúng. Thày có thể đơn giản chỉ cho con thấy phạm vi khả năng của con mắt vật lý. Thày có thể chỉ cho con thấy màn võng mạc (retina) trong con ngươi hoàn toàn có khả năng tiếp nhận tia ánh sáng của các rung động do hào quang người khác phát ra. Trên phương diện vật lý, con có khả năng thấy được hào quang.

Vậy tại sao con không thấy được hào quang một cách ý thức? Đó là vì con có một số phin lọc trong não bộ của con, trong vùng vỏ não thị giác, và ngay cả trong các thể cảm xúc, tư tưởng và bản sắc. Có phin lọc nhận thức tự nó không có gì sai trái, vì nếu con nhận hết tin tức mà mắt con có khả năng phát hiện thì tâm ý thức của con có thể bị choáng ngợp. Các phin lọc nhận thức có một chức năng chính đáng vì chúng giúp con chú tâm vào những điều quan trọng nhất cho con. Con sống trong thời đại Internet và tin học và nếu con lên trên mạng Internet và đọc hết những thông tin sẵn có thì con mau chóng bị choáng ngợp và tâm bị phân tán đến độ con không thể chú tâm vào điều gì. Con biết là con cần lọc lựa tin thông tin, nếu không con sẽ mau chóng bị choáng ngợp.

Đương nhiên là sa nhân biết điều này rất rõ. Nếu con nhìn lại lịch sử, con thấy là châu Âu trong khoảng thời gian dài non một ngàn năm đã ở trong giai đoạn được gọi là Thời kỳ Tăm tối. Lý do là vì Giáo hội Công giáo đã ngăn chặn mọi thông tin mà họ không ưng thuận. Họ đốt sách, họ cấm sách, họ ngăn không cho sách lưu hành và do đó chỉ có một số thông tin giới hạn tới tay quần chúng. Đó là một cách mà sa nhân dùng để hạn chế tự do của con. Nếu con có quá ít thông tin, con không thể làm được một số lựa chọn.

Khi thời kỳ hiện đại tới gần và càng ngày càng có nhiều công nghệ để phân phối thông tin, thì sa nhân nhận ra là họ không thể giữ chặt thông tin nữa. Ít nhất là có nhiều thông tin mà họ không thể kềm giữ. Do đó, họ thay đổi chiến thuật và tìm cách khiến con bị choáng ngợp bởi quá nhiều thông tin, đồng thời tung ra vô số thông tin lố lăng khiến mọi người bắt đầu nghi ngờ hết mọi thứ khác thường.

16.3. Phin lọc nhận thức chính đáng

Đó là cái Alpha và Omega của sa nhân, chiến lược đẩy và kéo của họ, hoặc ít quá hoặc nhiều quá. Bất cứ ai sống trên một hành tinh như trái đất cần một số phin lọc để loại đi những gì không xây dựng. Thày muốn nói gì khi thày nói “xây dựng”? Đương nhiên là thày muốn nói là con cần lọc bỏ đi bất cứ điều gì khiến con sao lãng việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con có thể thấy là khi con biết con có một Sứ vụ Thiêng liêng, khi con cảm nhận Sứ vụ Thiêng liêng của con là gì, thì con nhận ra là con cần một phin lọc nhận thức để loại bỏ những thông tin chỉ khiến con sao lãng và không chú tâm vào các khía cạnh cốt yếu của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Điều thày muốn nói là: Con có một số phin lọc loại bỏ một số thông tin đến giác quan của con. Có một phin lọc loại bỏ ấn tượng thị giác đến từ hào quang hay trường năng lượng của người khác. Lý do là vì một số người có thể bị choáng ngợp khi thấy thông tin này. Có những người đã mở con mắt thứ ba, và bỗng nhiên họ thấy được các phàm linh và ác quỷ trong trung giới và bị chấn động mạnh mẽ. Con cần phải được huấn luyện trong một thời gian để dần dần làm quen với những cảnh này.

Tuy nhiên, con cũng cần nhận ra là vì con có thể tới điểm con thấy được hào quang người khác, không có nghĩa là điều này có trong Sứ vụ Thiêng liêng của tất cả mọi người tâm linh. Thày có thể nói với con là đại đa số những người tâm linh không có trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ khả năng thấy được hào quang, vì khả năng này không cần thiết cho việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của họ.

Điều thày muốn nói qua lời giảng dông dài này là con cần nhận ra là có một số phin lọc nhận thức chính đáng. Nhưng cũng có một số không chính đáng vì con đã được dạy dỗ để chấp nhận một số phin lọc nhận thức không giúp con hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Một trong những phin lọc chủ yếu ngăn trở Sứ vụ Thiêng liêng của con là phin lọc nhận thức khiến con nghĩ vật chất là vật chất, vật chất rắn đặc, vật chất không thay đổi được.

16.4. Phin lọc nhận thức không chính đáng

Lý do vì sao phin lọc này rất tai hại vì nó khiến con nhìn hoàn cảnh trên trái đất và nghĩ rằng khi một chuyện có một hậu quả vật lý, vật chất, thì hậu quả này không thể thay đổi được ngoại trừ qua một hành động ở tầng cấp vật lý. Điều mà thày đã giảng trong các bài trước là thực tế về đời sống trên trái đất, về hoàn cảnh trên trái đất, là mọi thứ đều là năng lượng. Năng lượng rung động không ngừng. Năng lượng luôn luôn uyển chuyển và dù nó có hình tướng nào đối với giác quan và tâm vỏ ngoài của con, năng lượng lúc nào cũng thay đổi được.

Chuyện xảy ra là sa nhân đã tạo ra (và đã lừa đa số nhân loại cùng tạo ra) phin lọc nhận thức khiến con người nghĩ vật chất không phải là năng lượng, mà là một chất tách biệt. Nó rắn đặc, khó thay đổi và chắc chắn tâm không có quyền năng thay đổi được nó.

Con được dạy dỗ để có một phin lọc nhận thức tạo ra một lằn ranh giả tạo. Con biết và con cảm thấy có năng lượng chung quanh mình vì con thấy ánh sáng mặt trời và cảm thấy nhiệt độ. Con biết những cái này là làn sóng năng lượng, là rung động. Nhưng phin lọc nhận thức của con nói rằng năng lượng khác với các vật được tạo nên từ vật chất. Đó là lý do vì sao con đã bị lập trình để nghĩ rằng một khi một hoàn cảnh có một hậu quả vật lý, con không thể thay đổi hậu quả này ở tầng cấp năng lượng, mà chỉ thay đổi được ở tầng cấp vật chất.

Một thí dụ là bệnh tật. Các nhà y giới thực sự đã nhận ra là 90% các chứng bệnh là bệnh tâm thể, tức là chúng có một nguyên do tâm lý. Thực ra thì 100% các chứng bệnh là bệnh tâm thể vì chúng đều có một thành phần tâm lý. Con hãy thử nghĩ là giới y học đã nhận ra điều này nhưng chưa có một cuộc cách mạng khiến khoa học gia nghiên cứu tâm thức và ảnh hưởng của nó trên vật chất. Như thày có nói, các nhà vật lý lượng tử đã từ non thế kỷ nay nhận ra là có một mối tương quan mật thiết giữa tâm và các hạt cơ bản.

16.5. Thấy vật chất là năng lượng

Tuy vậy, các khoa học gia Tây phương vẫn chưa dồn năng lực và chú tâm vào việc nghiên cứu tâm thức và mối tương quan với vật chất. Họ vẫn giữa chặt ảo tưởng, do sa nhân tạo ra, cho rằng có một sự phân chia cơ bản giữa tâm và vật chất. Đây là ảo tưởng mà con cần phá vỡ ở đây. Thày có thể làm điều này rất dễ dàng ở tầng ê-the bằng cách đơn giản cho con thấy năng lượng được hạ độ rung dần dần từ tầng rung động tâm linh xuống tầng bản sắc, tầng tư tưởng, tầng tình cảm và tới tầng vật lý.

Thày có thể, bằng một số dụng cụ mà thày có ở khóa nhập thất, chỉ cho con thấy trực tiếp trên một màn ảnh làm sao độ rung của một khối năng lượng được hạ xuống. Thày có thể chỉ cho con thấy cách một khuôn đúc tư tưởng được đặt lên trên khối năng lượng này và dần dần nó mang một hình tướng khi năng lượng hạ độ rung.

Thày lấy một tảng đá làm thí dụ, và thày có thể chỉ cho con thấy làm sao tảng đá được tạo ra từ năng lượng. Do đó, ngay cả khi tảng đá xuống tới tầng vật lý, nó vẫn là năng lượng. Thày có thể cho con thấy làm sao ta có thể hướng một tia, một dòng năng lượng có tần số cao vào tảng đá và thay đổi nó. Hay đúng hơn, tia năng lượng giải thoát năng lượng bị giam trong khuôn đúc tảng đá làm cho nó bắt đầu rung ở tần số cao hơn và do đó dần dần làm tan cái khuôn đúc tảng đá đã giam giữ năng lượng trong đó. Năng lượng được giải thoát, trở nên lỏng, và có thể tuôn chảy để trở nên một chất khác hoặc trở về cõi tình cảm, tư tưởng, bản sắc và rốt cuộc cõi tâm linh.

Con có thể trực tiếp thấy các điều này ở khóa nhập thất của thày, và điều thày muốn con suy ngẫm ở tầng vật lý, với tâm ý thức, là con cũng có thể cảm nhận điều này với tâm ý thức. Có thể con không thấy được điều đó với con mắt vật lý, nhưng con có thể bắt đầu huấn luyện tâm con nhìn vật chất một cách khác. Con không cần cố gắng thấy bằng mắt vật lý rung động năng lượng đằng sau vật chất. Nhưng con cần nỗ lực, cần tập trung nỗ lực trong một thời gian, để huấn luyện tâm con thấy tất cả là năng lượng. Con cần biết trong tâm là đằng sau hình tướng rắn chắc mà con thấy là tảng đá, thật ra là năng lượng đang rung động. Bên trong nó, là năng lượng đang rung động; nó đang rung động, nó có thể thay đổi, nó là chất lỏng, nó có thể trở nên lỏng và tuôn chảy thành một hình tướng khác.

16.6. Một cách nhìn mới về thân thể

Con yêu dấu, con thấy chăng là trò lừa dối của sa nhân có nhiều hệ quả, nhưng để minh họa chúng ta hãy nhìn vào thân thể vật lý. Chắc con biết là nhiều chứng bệnh một phần là bệnh tâm thể vì chúng có nguyên nhân trong tâm. Như một người tâm linh, con hiểu được điều này. Tuy nhiên, một khi con đi khám bác sĩ và bác sĩ chẩn một triệu chứng vật lý, con dễ dàng chấp nhận lời phán xét của vị bác sĩ rằng một căn bệnh vật lý với một triệu chứng vật lý chỉ có thể chữa được ở tầng cấp vật lý. Một lần nữa, thày không nói là con không nên đi khám bác sĩ, là con không nên nghe lời khuyên của bác sĩ. Điều thày muốn nói là con vẫn có thể đi khám và nghe lời bác sĩ nhưng vẫn giữ trong tâm hình ảnh là thân thể con không phải là một chất vật lý, không phải là một vật. Nó là năng lượng rung động và do đó nó có thể thay đổi được. Cùng lượt với việc chữa trị bằng cách vật lý, con vẫn có thể thỉnh cầu năng lượng vào tình huống.

Con hiểu là ở tầng này của con đường tới tầng tâm thức 144, thày không muốn con (và thày không chờ đợi là con) có thể thay đổi sự vật chỉ băng quyền năng của tâm. Đó là lý do thày không muốn tới điểm mà con nói: “Được rồi, thày Hilarion có nói tôi là vật chất chỉ là năng lượng và do đó tâm có thể thay đổi nó. Bây giờ tôi đang phải đối phó với hoàn cảnh vật lý này nhưng tôi sẽ không làm gì ở tầng cấp vật lý, tôi sẽ chỉ ngồi xuống và tập trung tư tưởng để thay đổi nó bằng quyền năng của tâm.” Thày không muốn con làm vậy.

Lý do chính thày không muốn con làm vậy, vì các thày đã từng thấy nhiều học viên có trạng thái tâm tương tự và không thể hiện được những thay đổi vật lý mà họ muốn thể hiện. Sau đó, họ nản chí và chìm sâu xuống tầng thấp hơn khi họ bắt đầu.

Có những quyển sách và khóa học trên thế gian cho rằng họ có thể dạy học viên cách thể hiện sự vật, vật đó có thể là vàng hay tiền hay bất cứ gì họ muốn thể hiện. Họ nói là con có thể thể hiện một cái gì đó từ hư vô, từ không khí. Đây không phải là điều các thày dạy con trong khóa học này vì các thày không muốn con nản chí. Thày không nói là việc đó không thể làm được. Điều thày muốn nói là thày không chờ đợi con làm được điều này ở tầng tâm thức hiện nay của con. Do đó thày không muốn con đặt mục tiêu làm được điều này. Thày không muốn con đi vào con đường dẫn tới thất vọng. Điều thày muốn nói ở đây là, ở giai đoạn này của con đường tu, con nên thực tiễn theo một cách hành xử song song, vừa dùng biện pháp vật lý và vừa dùng dụng cụ tâm linh để thay đổi hoàn cảnh.

16.7. Làm cách nào thay đổi hoàn cảnh vật lý

Bất kỳ hoàn cảnh nào con phải đối phó trong cuộc đời, con đều dùng biện pháp vật lý để thay đổi hoàn cảnh đó. Cùng lúc, con theo một tiến trình trong tâm, trước hết nhận ra là ông hoàng của thế gian sẽ đến dụ dỗ con trong mọi hoàn cảnh. Hắn sẽ đến và dụ con chấp nhận là hoàn cảnh này bây giờ là một hoàn cảnh vật lý; nó có một hậu quả vật lý chỉ có thể giải quyết ở tầng cấp vật chất. Con theo những biện pháp vật lý thực tiễn mà con có thể theo được, nhưng con không chấp nhận là hoàn cảnh bất di bất dịch, không thể thay đổi được ngoại trừ ở tầng cấp vật lý. Con giữ tâm con trụ vững chắc vào hình ảnh là hoàn cảnh này là sự tương tác giữa các trường năng lượng, giữa các sóng năng lượng.

Dù hình tướng vật lý thế nào chăng nữa, dù nó có vẻ rắn đặc thế nào chăng nữa, đây vẫn là tương tác giữa các trường năng lượng. Điều thày muốn con làm là con nỗ lực (và nỗ lực kéo dài suốt khóa học này và ngay cả quá tầng tâm thức 96) huấn luyện và giáo dục lại tâm của con để lúc nào con cũng nhìn quá hình tướng vật lý, nhìn quá tấm màn che của vật chất, như có ghi trong bài chú mới của thày, và đi tìm thành phần năng lượng bên trong.

Sau đó, thày muốn con làm một việc thứ nhì với tâm ý thức. Thày muốn con quyết định là ở thời điểm này con sẽ không tìm cách tạo ra một thay đổi vật lý mà chỉ dùng quyền năng của tâm hay trực tiếp qua quyền năng của tâm. Như thày có nói, con dùng bất cứ biện pháp vật lý thực tiễn nào cần dùng trong hoàn cảnh, dù là trong việc chữa lành hay trong cách đối xử với người khác. Con cũng trụ tâm của con vững chắc vào sự thực rằng đây là một tương tác năng lượng và mục đích chính của con là nâng cao năng lượng của hoàn cảnh càng cao càng tốt. Mục đích chính của con không phải là tạo ra một kết quả vật lý đặc thù. Mục đích của tâm con là trở thành cánh cửa mở cho dòng năng lượng tâm linh tuôn chảy vào hoàn cảnh và thay đổi hoàn cảnh theo bất cứ cách nào mà năng lượng sẽ làm.

Nói cách khác, thày muốn con chơi một trò ảo thuật với chính mình bằng cách cố ý tách tâm mình khỏi ham muốn tạo ra một thay đổi vật lý. Con vô hiệu hóa ham muốn tạo ra một thay đổi vật lý đặc thù. Con chú tâm vào thành phần năng lượng, khía cạnh năng lượng của hoàn cảnh, và con trụ tâm con vào mục đích nâng cao năng lượng. Sau đó, con để ánh sáng mà con cầu thỉnh được tự do làm bất cứ điều gì nó muốn làm trong hoàn cảnh, mà con không trụ tâm mình vào một kết quả đặc thù.

16.8. Những gì con có thể và không thể thay đổi

Thày có nói trong bài giảng trước là con cần làm cho tâm con lỏng ra và quyết định rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào, mục đích của con là tăng trưởng, thăng vượt và xuôi theo Dòng Sông sự Sống. Làm sao con làm điều này? Tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống có nghĩa gì? Vật chất không phải là điều quan trọng. Con không tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống bằng cách đối phó liên tục với các điều kiện vật chất. Con tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống bằng cách làm việc liên tục với các điều kiện năng lượng.

Khi con hiện thân ở một hành tinh dày đặc như trái đất, thì sẽ luôn luôn có những điều kiện vật lý mà con không thể thay đổi bằng quyền năng của mình. Thày có nói trước đây: bởi vì người khác có quyền tự quyết. Ngay cả Giê-su cũng không thay đổi được một số chuyện mà tâm thức đại chúng đã quyết định; Giê-su không có quyền làm chuyện này. Sẽ luôn luôn có điều kiện vật chất mà con không thể thay đổi. Điều con có thể thay đổi là thành phần năng lượng của hoàn cảnh và khi con làm thế, hai chuyện có thể xảy ra. Thứ nhất là ngoại cảnh có thể trở nên lỏng đủ để thay đổi vật lý có thể xảy ra. Có thể tất cả những gì con mong muốn sẽ không xảy ra, nhưng một số thay đổi có thể xảy ra. Chuyện nữa có thể xảy ra là người khác có thể được giải thoát khỏi tấm màn năng lượng của họ, khỏi gánh nặng năng lượng của họ, và bắt đầu lấy những quyết định khác làm thay đổi hoàn cảnh.

Đây là những chuyện xảy ra bên ngoài con khi con tập trung vào việc nâng cao năng lượng. Khi con chú tâm là cánh cửa mở để nâng cao năng lượng và đọc bài thỉnh, tạo hình ảnh trong tâm, và để cho năng lượng chảy vào hoàn cảnh, con có thể khiến hoàn cảnh bên ngoài lỏng ra phần nào. Điều này có thể đem tới một số thay đổi nơi ngoại cảnh, nhưng khi con làm vậy con cũng khiến tâm con lỏng ra. Con sẽ làm lỏng hoàn cảnh năng lượng bên trong con. Khi con làm vậy, con sẽ thấy được những điều mà hôm nay con không thể thấy. Con sẽ thấy là có một hướng phản ứng khác với hoàn cảnh. Con bỗng nhiên có một tầm nhìn khác, bỗng nhiên hoàn cảnh trước kia trông quá nghiêm trọng, quá tàn khốc, quá khó thay đổi nay trở nên không còn nghiêm trọng, không còn tàn khốc, không còn khóa cứng trong một khuôn đúc.

Bỗng nhiên con bắt đầu thấy là dù con không thay đổi được hoàn cảnh, chắc chắn là con có thể tiếp tục cuộc đời mình, và bỗng nhiên tảng đá trong dòng sông dã ở đằng sau con và con đang xuôi theo Dòng Sông sự Sống. Có thể vẫn còn lại một hoàn cảnh vật lý chưa thay đổi, nhưng con đã tiếp tục tiến lên. Con đang xuôi theo Dòng Sông sự Sống. Thày muốn con biết một cách ý thức đây là mục đích mới của con.

Thày cần con lấy quyết định một cách ý thức đây là mục đích mới của con. Thày biết là trong các con có những người đang đối mặt một số điều kiện đặc trưng, như một bệnh trong cơ thể, một hoàn cảnh với người khác, hay điều kiện tài chính, hay việc làm, hay các vấn đề khác. Thày biết là các hoàn cảnh này có vẻ rất khó thay đổi. Điều hoàn toàn tự nhiên là khi con tham dự khóa học này, con có hy vọng là một ngày kia sẽ có một chuyển đổi và con có thể thay đổi các điều kiện đó.

16.9. Không có kết quả vật lý đặc trưng

Mặt khác, cũng có thể là con sẽ tới điểm con có thể thay đổi các hoàn cảnh đó. Một số học viên đã thay đổi hoàn cảnh trong khi tham dự khóa học này. Điều thày muốn nói là ở điểm này, thày muốn con chuyển đổi tâm thức một cách ý thức và nói: “Đồng ý, con sẽ bỏ qua bên mong muốn đạt được một số thay đổi vật lý đặc trưng và tham gia thí nghiệm này, như thày Hilarion đã giảng, qua đó con chú tâm nâng cao năng lượng của hoàn cảnh. Con sẽ chỉ chú tâm vào điểm này. Con chú tâm là cánh cửa mở cho năng lượng trên cao tuôn chảy vào hoàn cảnh và con trả tự do cho hoàn cảnh, con trả tự do cho năng lượng.

Con yêu dấu, sau đây là điểm quan trọng: “Con giải thoát con khỏi ám ảnh muốn đạt một kết quả vật lý đặc trưng. Con cho phép Thượng đế bước vào hoàn cảnh và làm bất cứ điều gì Tánh linh muốn làm phù hợp với viễn kiến của Ki-tô, viễn kiến có thể cao hơn những gì con có thể thấu hiểu ngay lúc này. Do đó, con sẽ bình an với bất cứ kết quả nào. Con biết là dù không có thay đổi vật lý, con đã nâng cao năng lượng và con sẵn sàng nhìn vào tâm mình và thấy nâng cao năng lượng đã giúp con nhìn hoàn cảnh khác như thế nào, con đối phó với hoàn cảnh khác như thế nào so với trước kia.”

Con yêu dấu, nếu con chịu làm như thày nói và mở tâm ra, thì con sẽ nhận được một viễn quan mới về hoàn cảnh. Con yêu dấu, con có thấy chăng: có những người nghiên cứu thuật kết đọng (precipitation), thuật thể hiện, thuật chuyển hóa vật chất. Nhiều người trong số này có ước muốn mà ta có thể gọi là thiếu chín chắn, muốn thể hiện sự vật từ hư không để có thể làm người khác chóa mắt và để họ cảm thấy họ có khả năng điều ngự vật chất. Đây không phải là mục đích của khóa học này. Mục đích của các thày là giúp con tới điểm con có thể điều ngự ngoại cảnh trong cuộc sống, điều ngự hoàn cảnh sống của con và các mối tương tác giữa con và người khác.

Nói cách khác, mục đích của các thày không phải là dẫn con tới điểm con thể hiện được một sự vật đơn giản, tỷ dụ như một thỏi vàng. Điều đó lợi ích gì cho con nếu con chưa thực sự thay đổi tâm thức? Mục đích của các thày là dẫn con tới điểm con thấy được điều gì cần thay đổi và điều gì không cần thay đổi trong một hoàn cảnh vì người khác có quyền tự quyết hay vì có điều kiện chính đáng khác. Con thấy điều gì có thể thay đổi được và điều gì không thể thay đổi được, và con chấp nhận điều không thay đổi được và con làm điều tốt nhất trong tình huống.

Dĩ nhiên con có thể thay đổi những gì có thể thay đổi được, nhưng điều các thày mong muốn là dẫn con tới điểm con thay đổi được ngoại cảnh của con thay vì thể hiện một sự vật đơn giản. Thày bảo đảm với con ngày cả khi con thể hiện được một vật đơn giản, không có nghĩa là con đã thay đổi được ngoại cảnh của mình.

16.10. Mơ ước thiếu chín chắn

Các thày muốn các con biết thuật biến hóa huyền bí (alchemy) liên quan đến cách sống trên trái đất, chứ không phải để biểu diễn những biến hóa giống như trò ảo thuật. Con yêu dấu, học viên có nhiều mơ ước khi bắt đầu khóa học này. Nhiều người, nhiều đệ tử tâm linh, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã bị quyến rũ bởi thuật biến hóa huyền bí, và các huyền thoại về thày Saint Germain như khả năng điều chỉnh các tỳ vết của kim cương, hay khả năng đột nhiên xuất hiện từ hư không, hay các chuyện khác. Con yêu dấu, thày Saint Germain là một chân sư thăng thiên đã được đặc miễn để xuất hiện đưới hình tướng thân thể vật lý (thày không nói là thày Saint Germain có một thân thể vật lý) và do đó thày đã biểu diễn những kỳ công này trong một số hoàn cảnh đặc biệt nhằm chuyển đổi tâm của một số người có tâm rất khép kín.

Điều này không có nghĩa là trong thời đại này các thày muốn đệ tử có khả năng làm những kỳ công như vậy để làm chóa mắt người khác. Có những đệ tử nghĩ rằng nếu họ biểu diễn được những kỳ công như vậy, thì chắc chắn sẽ thu hút hàng triệu đệ tử tới giáo lý chân sư thăng thiên, sẽ thuyết phục mọi người là giáo lý này chân chính và sẽ là tôn giáo mới của thời đại sắp tới. Điều này hoàn toàn không phải là mục tiêu của các thày. Mục tiêu của các thày là dạy con thành người luyện đá hóa kim thực tiễn, có khả năng chứng minh cho mọi người thấy một cách sống thành công, bình an, hữu ích, tích cực trong hoàn cảnh rất phức tạp, rất rắc rối của trái đất này.

16.11. Chuyển hóa xung đột

Thày có nói là tâm con có định kiến là vật chất rắn đặc và khó thay đổi. Bây giờ con hãy đi xa thêm một bước nữa. Con hãy đứng lui lại và không nhìn vào vật chất, tỷ dụ như tảng đá mà thay đã dùng làm thí dụ. Con hãy nhìn vào sự kiện toàn hành tinh được cấu tạo bằng vật chất. Con có bảy tỷ người mang xác thân vật chất đã xây dựng nên xã hội và văn minh tân tiến.

Sau đó, con hãy nhìn vào cách họ đã tương tác với nhau, tỷ dụ có nhóm người đã giữ chặt hình ảnh là một nhóm người khác đã bạo hành họ trong quá khứ. Mặc dù thời gian đã trôi qua và hậu quả vật lý của những việc xảy ra nhiều năm trước đây đã biến mất, nhưng những người này vẫn giữ trong tâm họ khuôn đúc đó. Họ mang nó theo trong tâm họ và cho phép lòng oán giận về việc quá khứ đó ảnh hưởng cách họ cư xử trong hiện tại đối với nhóm người kia.

Con hãy nhìn sự kiện có những nhóm người mang theo lòng oán giận từ nhiều thế kỷ nay. Con yêu dấu, điều này ảnh hưởng ra sao cách cư xử vật lý của họ? Con có nhận ra là đằng sau đại đa số những xung đột trên trái đất này là con người giữ chặt một hình tư tưởng họ đã tạo ra trong quá khứ xa xôi nhưng lại cho phép nó ảnh hưởng hành động vật lý của họ trong hiện tại?

Con hãy tưởng tượng con có khả năng thay đổi khía cạnh năng lượng của hoàn cảnh để năng lượng được nâng lên tới điểm con người vượt qua sự dính mắc tình cảm-tư tưởng vào những hình ảnh cũ xưa này? Con hãy tưởng tượng, thay vì nghĩ người Ả Rập luôn luôn có thái độ tiêu cực về người Do Thái và ngược lại, bỗng nhiên năng lượng thay đổi và con người có thể bắt đầu tự hỏi: “Tại sao chúng ta cứ lặp đi lặp lại những khuôn nếp cũ này? Chúng ta có thật sự thích kết quả này không? Chúng ta có thích tiếp tục xung đột như thế này không? Chúng ta đã được dạy dỗ để nghĩ rằng chúng ta không làm gì để thay đổi tình hình được vì những người kia có lỗi và do đó họ là những người cần thay đổi. Và họ cần phải bị trừng phạt trước khi họ được phép thay đổi. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta nhận ra là chúng ta có thể làm gì đó để thay đổi tình hình, chúng ta không cần thay đổi những người kia, chúng ta chỉ giản dị thay đổi chính mình và sống tiếp cuộc đời mình?”

“Chúng ta thật sự không quan tâm về những người kia và việc họ có thay đổi hay không, chúng ta chỉ quan tâm về chính mình và chúng ta muốn tiến lên với cuộc đời mình. Chúng ta muốn đi ra khỏi xung đột này vì chúng ta nhận ra chúng ta bị nó ảnh hưởng, và những người kia cũng vậy. Chúng ta bị nó đè nặng lên vai, và tại sao chúng ta lại truyền lại cho con cái chúng ta những gì mà cha mẹ chúng ta đã để lại cho chúng ta? Tại sao chúng ta không chất vấn cả tiến trình này và bắt đầu thay đổi cách cư xử của mình dù những người kia chưa thay đổi cư xử của họ?”

16.12. Cách duy nhất để thay đổi hoàn cảnh

Con có thấy chăng đây là cách duy nhất để thay đổi một hoàn cảnh? Con yêu dấu, con hãy nhìn tình hình ở Trung đông. Con hãy nhìn vào những gì xảy ra tại Syria trong những năm vừa qua. Con có thực sự nghĩ là có ai có thể làm điều gì để tạo một thay đổi vật lý có thể dẫn tới hòa bình? Con có nghĩ là nếu cộng đồng thế giới (dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc hay nhóm nào) họp nhau lại và nói: “Bây giờ chúng ta sẽ tập họp một đạo quân lớn đủ để vào Syria và tái lập hòa bình ở đó.” Con có nghĩ là điều này sẽ có kết quả gì chăng? Con có nghĩ là sẽ có hòa bình chăng?

Chắc con cũng thấy là hành động này có lẽ sẽ chỉ tạo thêm xung đột. Con có thấy chăng là tại Syria, nhiều năm trước đây đã có những nhóm chống đối đã bắt đầu giai đoạn nổi loạn chống chính quyền? Một số nước Tây phương muốn hạ bệ chính phủ vì họ nghĩ Tổng thống Assad là một nhà độc tài. Họ quyết định ủng hộ một số những nhóm ở Syria mà họ cho là “ôn hòa”. Họ huấn luyện các nhóm này và cho họ tiền bạc và vũ khí, và sau đó các nhóm ôn hòa này bắt đầu một cuộc chiến bạo động chống lại Tổng thống Assad. Con yêu dấu, con hãy tự hỏi: “Làm sao một người ôn hòa lại có thể sẵn sàng giết người khác?”. Thày biết là con có thể nói là những nhóm như ISIS hay IS cuồng tín hơn những nhóm “ôn hòa”, nhưng làm sao một người sẵn sàng dùng bạo lực lại có thể gọi là ôn hòa?

Con có thấy chăng là có tư duy con người (không những chỉ ở Trung đông, mà cũng ở các nước Tây phương) bị khóa kín và do đó chỉ tạo thêm càng ngày càng nhiều xung đột? Con có thấy chăng là các nước Tây phương có thể đi vào Syria, không với viễn kiến hạ bệ Tổng thống Assad, nhưng với viễn kiến sau đây: “Chúng tôi muốn nâng tâm thức người dân Syria lên để họ có thể tự họ cải thiện tình hình”. Con hãy tưởng tượng xem hậu quả sẽ là gì. Thày đồng ý là ban đầu kết quả có thể rất giới hạn, nhưng trên đường dài thày bảo đảm với con là thái độ này sẽ có một kết quả tích cực hơn là tình trạng rối beng hiện nay.

Làm sao con có thể coi là dân chủ và tự do đã chiến thắng khi con có một quốc gia trong đó đa số nhà cửa bị tàn phá bị bom đạn? Làm sao đây có thể là một chiến thắng của bất cứ điều gì? Làm sao đây có thể là tiến bộ?

Con có thấy chăng là nếu chúng ta nhìn vượt lên trên các chính quyền và tưởng tượng là có đủ số người tâm linh trên thế giới quyết định chú tâm nâng cao khía cạnh năng lượng của tình hình tại Syria, thì kết quả sẽ ra sao chăng? Thày bảo đảm với con là việc này có một kết quả tích cực hơn rất nhiều so với tình hình hiện nay. Con có thấy chăng là đằng sau tình hình Syria là tư duy mà thày đã nói tới, là tư duy ma vương, tư duy sa ngã? “Đây là tình hình ở Syria; nó có một số thành phần vật lý mà chúng ta coi là không đúng. Do đó, chúng ta là các nước dân chủ tự do cảm thấy cần phải làm cái gì. Chúng ta có thể làm gì? Chúng ta chỉ có thể dùng biện pháp vật lý để thay đổi hậu quả vật lý, do đó chúng ta phải viện trợ vũ khí cho những nhóm nổi loạn để họ có thể dùng bạo lực vật lý để loại trừ nhà độc tài.” Con yêu dấu, như các thày có nói nhiều lần, người lãnh đạo một nước là biểu hiện của tâm thức tập thể của nước đó. Tình hình tại Syria hiện nay cho con thấy điều gì? Tâm thức tập thể ở Syria giản dị không cao đủ để loại trừ ông Assad. Tình hình vật lý sẽ không thay đổi nếu tâm thức tập thể chưa thay đổi. Con hãy tưởng tượng nếu mọi người chú tâm vào việc nâng cao tâm thức tập thể của người dân Syria và cho nó thì giờ cần thiết tới khi họ sẵn sàng có một chính quyền khác hơn những gì họ đã có. Thày bảo đảm với con là nếu tiến trình này được phép diễn ra thì bây giờ đã có sự thay đổi mà nước Syria không bị đội bom trở về thời kỳ đồ đá.

16.13. Giải thoát khỏi điều kiện vật chất

Thày biết là điều này, thoạt trông không dính dáng đến một khóa học tự điều ngự, nhưng thày dùng nó như một thí dụ để cho con thấy là nếu con thay đổi tâm thức và chú tâm vào việc chuyển đổi năng lượng của một hoàn cảnh, thay vì thay đổi các khía cạnh vật lý, thì cuộc đời và con đường tâm linh của con sẽ có ý nghĩa hoàn toàn mới. Đây là tầng thứ bảy của khóa nhập thất của thày. Con đang đối mặt với năng lượng của Tia thứ Bảy của Tự do. Thày cống hiến gì cho con? Thày đang cống hiến con cơ hội giải thoát tâm khỏi sự ám ảnh vào điều kiện vật chất, vật lý.

Con có nhận ra trò lừa đảo của sa nhân là làm con quên bẵng con là sinh thể tâm linh? Làm sao chúng đã khiến con quên điều này? Bằng cách khiến con chủ yếu chú tâm vào các hoàn cảnh vật lý, vật chất. Con yêu dấu, con có thấy chăng là nếu con đi trên con đường tâm linh, con học khóa tự điều ngự, nhưng vẫn còn mục tiêu thay đổi điều kiện vật lý (tức là con điều ngự điều kiện vật chất) thì con thật sự đang đi trên con đường tâm linh với tư duy do sa nhân áp đặt lên con. Con đường tâm linh mà các chân sư thăng thiên cống hiến, được cống hiến từ tâm thức chân sư thăng thiên – không phải từ tâm thức sa ngã.

Nếu con đang lê theo mình những yếu tố của tâm thức sa ngã, con nghĩ con sẽ thành công chăng trên con đường dẫn tới tâm thức thăng thiên và được dựa trên tâm thức thăng thiên? Con sẽ thành công đến mức nào? Con có sẽ thành công chăng nếu con giải quyết một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã gây ra vấn đề đó? Như thày đã nói trong các bài giảng trước, sa nhân muốn con nghĩ rằng vật chất là cái quan trọng nhất, thậm chí chỉ có vật chất hiện hữu.

Các chân sư thăng thiên muốn con nhận ra là không phải chỉ có vật chất hiện hữu và vật chất không quan trọng lắm. Điều quan trọng hơn nhiều là những gì xảy ra trong toàn thể bốn tầng cấp của vũ trụ vật chất, không chỉ riêng ở tầng cấp vật lý. Con yêu dấu, có rất, rất nhiều người trong lịch sử hành tinh này, ngay cả khi nó trở thành dày đặc như ngày hôm nay, đã thành công trên con đường tâm linh và hội đủ điều kiện thăng thiên nhưng họ vẫn mang một số căn bệnh thân thể, khiếm tật hay ở trong một hoàn cảnh vật lý rất giới hạn.

Một lần nữa con nhìn thí dụ cuộc đời Giê-su, như thày đã giảng. Con có thể nhìn dưới góc độ duy vật và nói rằng Giê-su đã thất bại vì thày bị giết. Thày còn không tránh được bị giết. Giê-su hội đủ điều kiện thăng thiên bằng cách kinh qua hoàn cảnh vật lý đó, và lý do là dù chuyện gì xảy ra ở tầng cấp vật lý, Giê-su đã dùng mỗi hoàn cảnh để thay đổi tâm thức của thày. Giê-su thay đổi thể tình cảm, thể tư tưởng, thể bản sắc của thày. Một khi con chuyển đổi những thành phần của ba thể cao, con có thể sẵn sàng thăng thiên bất kể những hoàn cảnh con đối đầu ở tầng cấp thân thể vật lý của con. Điều đó không quan trọng.

Những gì xảy ra với vật chất không quan trọng vì thăng thiên là một tiến trình tâm linh. Con hội đủ điều kiện thăng thiên ở các tầng tình cảm, tư tưởng và bản sắc, không phải ở tầng vật lý. Dĩ nhiên, con không thể giết người và hội đủ điều kiện thăng thiên. Con cần thay đổi một số chuyện ở tầng vật lý, nhưng không có điều kiện toàn hảo nào ở tầng vật lý mà con phải hội đủ để thăng thiên.

Điều này được chứng minh rất rõ bởi Giê-su, cho những ai có tai để nghe và mắt để thấy, và thày biết đây là trường hợp của con khi con tới tầng này của khóa học. Thày biết là con nghe và thấy rõ trong các thể thanh thoát hơn của con khi con dự khóa nhập thất của thày. Do đó, thày biết con cũng sẽ làm được ở tầng ý thức khi con chuyển hóa tâm, như thày muốn con làm.

16.14. Vượt qua ham muốn thấp

Con hãy bỏ qua bên mọi ham muốn thực hiện những thay đổi vĩ đại trong cuộc sống cá nhân hay chứng minh điều gì vĩ đại cho người khác. Con hãy bỏ qua bên mọi ham muốn đạt được kết quả vật lý nào đó. Con hãy chú tâm nâng cao năng lượng trong mọi hoàn cảnh con gặp. Con hãy chú tâm nâng cao năng lượng của thân thể vật lý, và điều này, dĩ nhiên, đòi hỏi con cũng phải nâng cao năng lượng nơi ba thể cao hơn của con. Con hãy giản dị chú tâm làm việc này.

Thày không nói là con sẽ không bao giờ tới được điểm có thể tạo thay đổi vật lý. Điều thày muốn nói là chú tâm vào năng lượng sẽ rút ngắn thời gian tới điểm có thể tạo thay đổi vật lý. Điều thày muốn nói là chính Giê-su cũng không có ý định tạo thay đổi vật lý. Có nhiều đệ tử không hiểu điều này, nên thày sẽ giải thích thêm.

Con hãy nhìn trường hợp Giê-su gặp một người có cánh tay bị teo lại. Như thày đã nói trong bài giảng trước, Giê-su không có tư duy tức khắc đánh giá tình trạng này sai, tình trạng này đáng lẽ không được xảy ra. Khi nhìn cánh tay bị teo, Giê-su cũng không có tư duy cho rằng: “Ồ, đây là một hậu quả vật lý chỉ có thể thay đổi ở tầng vật lý, và vì không ai biết cách thay đổi ở tầng vật lý, nên điều này không thể làm được.”

Giê-su không chấp nhận tình trạng cánh tay teo này là thường trực, nhưng thày cũng không đánh giá tình trạng này sai và phải chữa lành cánh tay bằng mọi giá. Thày không bước vào hoàn cảnh với ý định chữa lành cánh tay bị teo. Giê-su bước vào hoàn cảnh với ý định nâng cao năng lượng của hoàn cảnh, nâng cao tâm thức của người kia để y chuyển hóa tâm thức. Mục đích của Giê-su không phải là chữa lành cánh tay nhưng thày muốn giải thoát người kia khỏi trạng thái tâm thức mà y có khi gặp Giê-su. Giê-su không có viễn kiến định sẵn là tâm thức người kia sẽ thay đổi ra sao, vì thày biết điều này tùy thuộc quyền tự quyết. Thày bước vào hoàn cảnh để truyền năng lượng cao vào đó và cho người kia có một cơ hội thay đổi tâm thức mà y không có trước đó.

Trong trường hợp này, người có cánh tay bị teo sẵn sàng chuyển đổi tâm thức và y cảm được luồng năng lượng cao đến từ Giê-su. Y sẵn sàng chuyển đổi tâm đến mức cánh tay của y có thể được chữa lành ở tầng vật lý. Điều này chính yếu là do y sẵn sàng mở tâm ra. Nó ngoài tầm kiểm soát của Giê-su, và chỉ tùy thuộc quyền tự quyết của người kia. Do đó, Giê-su chỉ có thể là cánh cửa mở để năng lượng cao tuôn chảy vào hòan cảnh, thày không có chủ đích đặc trưng nào. Thày không muốn chứng tỏ điều gì cả, thày không muốn làm một phép lạ khiến thày nổi danh. Thày chỉ giản dị là cánh cửa mở, không hơn không kém. Khi cánh tay của người kia được chữa lành, thực sự là Giê-su đã ngạc nhiên, không phải vì thày nghĩ chuyện này không thể xảy ra, nhưng thày ngạc nhiên là y đã chấp nhận và làm được sự chuyển đổi tâm thức đã khiến sự chữa lành xảy ra.

Giê-su đã hành xử tương tự với nhiều người khác nhưng họ không kinh nghiệm được chữa lành thân thể vì họ không chấp nhận hay không làm được sự chuyển đổi tâm thức dù họ đều cảm được luồng năng lượng cao đến từ Giê-su. Thời nay có người đến gặp những người có khả năng chữa lành bằng đức tin và đã trải nghiệm chữa lành vật lý, nhưng sau một thời gian, căn bệnh tái xuất hiện. Lý do là vì khi họ cảm thấy trường năng lượng cao thì họ chuyển đổi tâm thức và chấp nhận là chữa lành có thể làm được. Nhưng khi họ trở về đời sống bình thường, họ dần dần lún sâu trở lại vào trình độ tâm thức bình thường của họ. Họ không thường trực chuyển đổi tâm thức và do đó căn bệnh tái xuất hiện, hay đúng hơn tâm họ tái tạo căn bệnh vì họ chưa thay đổi những hình ảnh trên ba thể cao hơn mà họ phóng chiếu vào năng lượng vật lý.

16.15. Là cánh của mở cho năng lượng cao hơn

Con là một đệ tử tâm linh. Con có khả năng cảm nhận năng lượng tâm linh cao hơn. Con đã cảm thấy năng lượng trong các bài truyền đọc của các thày. Con đã cảm thấy năng lượng khi con đọc bài chú bài thỉnh và cảm thấy năng lượng tuôn chảy qua con. Con biết khi nào con là cánh cửa mở cho năng lượng hơn nữa. Đây là điều thày muốn con làm: con hãy chuyển đổi tâm một cách tương tự trong mọi hoàn cảnh trong cuộc sống. Con sẽ chú tâm vào bên trong; con hãy chú tâm là cánh cửa mở cho năng lượng tâm linh tuôn chảy vào hoàn cảnh.

Con yêu dấu, là cánh cửa mở nghĩa là gì? Cửa mở. Làm sao mở cánh cửa? Là cánh cửa mở có nghĩa là không có màn chắn trước cửa, là màn chắn trong tâm mong chờ cái phải xảy ra hay không được xảy ra, và phán xét hoàn cảnh dựa trên cái phải là hay không được là.

Con càng tháo gỡ được màn chắn thì con càng mở rộng cửa và năng lượng tâm linh càng hữu hiệu hơn trong việc thay đổi hoàn cảnh. Đây là tiềm năng cao nhất của con ngay lúc này. Thày không nói đây là tiềm năng cao nhất của con trong suốt phần còn lại của kiếp sống này. Nhưng đây là tiềm năng cao nhất của con ngay lúc này. Con hãy chú tâm vào việc này và đừng bận tâm muốn thay đổi vật lý, con hãy đừng dính mắc vào thay đổi vật lý. Con hãy tìm cách thay đổi năng lượng. Con hãy cho người khác cơ hội cảm nhận năng lượng cao hơn và nhờ vậy lấy được một chọn lựa khác. Con hãy cho mình cơ hội cảm nhận một năng lượng cao hơn và chọn lựa mình sẽ độc lập với điều kiện vật lý, sẽ giữ tâm bình an, sẽ chú tâm xuôi theo Dòng Sống sự Sống bất kể điều kiện vật lý như thế nào.

Con yêu dấu, từ nhiều thế kỷ và thiên kỷ, có rất nhiều người tâm linh đã nhận ra họ có khả năng hướng năng lượng tâm linh vào một hoàn cảnh. Rất nhiều lần họ đã nghĩ rằng nếu một thay đổi vật lý xảy ra thì họ có thể là cánh cửa mở. Con thấy chăng là Giê-su đã chứng minh là bất kể điều kiện vật lý như thế nào, con vẫn có thể là cánh cửa mở nếu con không để tâm bị dính mắc vào hoàn cảnh vật lý. Chỉ có sự không dính mắc mới có thể giúp con là cánh cửa mở, đưa con tới điểm con là cánh cửa mở. Do đó, con cần sẵn sàng nhìn vào những dính mắc của mình trong mọi hoàn cảnh, những dính mắc vào một kết quả đặc thù nào. Có thể là viễn quan của con về kết quả không phải là viễn quan của Tánh linh trong hoàn cảnh đó? Con đang tự nói với mình: “Nhưng người này đang bị bệnh, không lẽ Tánh linh không muốn người này được chữa lành?” Như thày có nói trong bài giảng trước, có khi bệnh là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của người đó. Ngoài ra, bệnh cũng có thể do nghiệp tạo ra và do đó Tánh linh không có viễn quan là bệnh đó phải được chữa lành ngay bây giờ. Hoặc cũng có thể là Tánh linh không thấy bệnh này nên được chữa nếu người đó chưa chuyển đổi tâm thức.

Con có thấy chăng là trong rất, rất nhiều hoàn cảnh sống, đúng ra là trong mọi hoàn cảnh sống, những điều kiện khiến hoàn cảnh biểu lộ rất phức tạp vì nó liên quan đến tâm của nhiều người. Mỗi người là một sinh thể rất phức tạp đã có nhiều tiền kiếp trong quá khứ. Người đó đã tạo ra một số khuôn nếp trong bốn thể phàm từ rất lâu trong quá khứ, và người đó chỉ tiến triển khi thay đổi được những khuôn nếp đó.

Như thày đã nói, mọi chuyện đúng y như nó phải là vì điều kiện trong cuộc sống của một người biểu hiện trạng thái tâm thức của người đó. Chính vì người đó không chịu lắng nghe hướng dẫn của nội tâm, nên cần thấy một chứng minh bên ngoài của trạng thái tâm thức của mình để có cơ hội chất vấn và thay đổi trạng thái tâm thức đó. Nếu con bước vào hoàn cảnh như một học viên tâm linh và khởi lòng từ bi muốn chữa lành người đó và gỡ đi điều kiện vật lý, thì hành động của con có sẽ giúp người đó tăng trưởng hay không? Người đó sẽ chỉ đơn giản nói: “Ồ, bây giờ tôi đã được giải thoát khỏi giới hạn, từ nay tôi sẽ sống hạnh phúc và không cần xem xét trạng thái tâm thức của mình.”

Nhiều người đã cư xử như vậy sau khi được chữa lành. Chính Giê-su đã chữa lành một số người và họ đã phản ứng như vậy. Điều con cần nhận ra là mọi hoàn cảnh con gặp trong cuộc sống có nhiều lớp phức tạp gần như vô hạn, nhiều lớp hơn những gì con có thể hiểu với tâm ý thức. Đó là lý do vì sao thày nói là có phin lọc nhận thức hữu ích vì nó giúp con không bị choáng ngợp bởi số lượng thông tin. Chúng ta hãy lấy thí dụ con nhìn vào một hoàn cảnh và lượng định: Người này có nên được chữa lành hay không? Nếu con muốn biết bằng tâm ý thức mọi chuyện liên quan đến một hoàn cảnh, con sẽ bị choáng ngợp và sẽ cần bỏ ra rất nhiều thì giờ và năng lượng nếu con muốn hiểu thấu. Tại sao con lại cần biết mọi chuyện một cách ý thức? Con không cần biết mọi chuyện một cách ý thức.

Con cũng có thể thấy là nếu con không thể biết được bằng tâm ý thức những dữ kiện liên quan tới một hoàn cảnh, tại sao con lại phải phán xét bằng tâm ý thức điều phải xảy ra hay không được xảy ra trong hoàn cảnh đó? Có đúng chăng là sẽ xây dựng hơn nhiều nếu con cho phép mình là cánh cửa mở, cho phép năng lượng của Tánh linh tuôn chảy vào hoàn cảnh và làm những gì nó muốn làm, mà con không cần có ý kiến từ tâm ý thức về điều nó phải làm và không được làm. Con hãy để Tánh linh tự do hành động theo viễn quan của nó, và con giải thoát mình khỏi mọi dính mắc vào hoàn cảnh hay kết quả.

Không dính mắc vào kết quả vật lý là dấu ấn của một để tử tâm linh đã tới tầng cuối của Tia thứ Năm. Đó cũng là chìa khóa đưa tới quả vị Phật, thày đoán đây là một mục đích mà con cố đạt được và thấy mình thực sự có tiềm năng đạt được. Có lẽ không phải ngày mai, nhưng chắc chắn một ngày trong tương lai.

Con yêu dấu, thày cảm thấy hân hoan và được đặc ân hướng dẫn con ở khóa nhập thất của thày và thấy con vượt qua bảy tầng của khóa nhập thất. Thày rất hân hoan nói với con: “Con đã làm rất tốt!” Thày rất hân hoan đưa con tới thày Nada yêu dấu để thày hướng dẫn con qua bảy tầng của Tia của An bình. Chắc chắn là điều thế giới cần nhất hiện nay là bình an. Vậy con hãy bình an và biết rằng con là Thựơng đế, Thượng đế sẽ thành.

Hilarion TA LÀ, và trong niền hân hoan to lớn, thày tiễn con đi tiếp con đường của mình.

Là một người chữa lành chân chính

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 18/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Khi con tới tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày, con đối mặt với một sự sáng ngộ sẽ diễn ra liên tục trong tâm ý thức của con. Điều này không ngăn cản con tiếp tục tiến lên trong khóa học, nhưng có nghĩa là con phải làm việc với sáng ngộ con đối mặt ở đây trong một thời gian. Sáng ngộ này đưa con vượt quá cái lập trình vi tế và rất bền bỉ mà con tiếp xúc, rất có thể trong nhiều kiếp, trong nhiều trường hợp trong suốt thời gian con đã hiện thân trên trái đất.

Bây giờ con thấy chăng, con yêu dấu: Thày đã làm gì trong các bài giảng này? Thày đã nói với con rằng con cần thấy là con dùng uy lực của viễn kiến để phóng chiếu một hình ảnh ra bên ngoài. Con có một hình ảnh thế giới phải như thế nào, hay thế giới như thế nào, và con phóng chiếu hình ảnh này ra ngoài tâm con. Trong bài giảng trước, thày dẫn con tới điểm con nhận ra con cũng có một hình ảnh về con phải như thế nào như một người tâm linh, hay như một con người, và con phóng chiếu viễn kiến này lên chính con.

14.1. Thấy thế giới như nó là

Khi con bắt đầu loại bỏ những viễn kiến mà con phóng chiếu, khi con ngừng phóng chiếu với tâm của mình, con có thể tiến tới giai đoạn mà, thay vì thấy thế giới như con nghĩ nó là hay như con muốn nó là, con có thể thấy thế giới như nó là. Trong nhiều thế kỷ, các triết gia đã biết ảnh hưởng của tri giác trên cái thấy của con người. Đáng tiếc thay, các triết gia Tây phương đã không chịu nhìn vào chính tâm con người và vì vậy họ không khám phá ra chân lý tương đối giản dị mà các thày đã trao truyền cho các con về bốn tầng của tâm. Nếu một người triết gia muốn hiểu những gì con người có thể và không thể thấy, đáng lý y nên nghĩ rằng y nên xem xét chính tiềm thức của mình trước khi bắt đầu đưa ra kết luận vĩ đại về cách vận hành của vũ trụ.

Tuy nhiên thày không có ý định giảng một bài triết học ở đây, nhưng thày chỉ muốn giúp con nhận ra là có một cách để thấy thế giới khác với cách mà con được dạy dỗ để thấy và khác với cách mà đại đa số con người thấy thế giới. Các thày đã nói tới các định luật thiên nhiên phụ thuộc và cách sa nhân chế ra một cái gì vận hành máy móc để họ có thể kiểm soát nó mà không phải thay đổi tư duy tách biệt căn bản. Do đó, tách biệt là bản chất của tư duy sa ngã.

Điều con cần nhận ra ở đây là vũ trụ cho phép con làm nhiều chuyện nhưng luôn luôn có một cái giá phải trả. Sa nhân đã thay đổi được cách vũ trụ vận hành trong cõi năng lượng của hành tinh trái đất vì họ đã khiến cho vật chất dày đặc hơn. Vật chất càng dày đặc, thì nó càng vận hành theo những định luật không phải là vĩnh cửu và bất biến, nhưng kéo dài một thời gian dài. Các định luật thiên nhiên mà các nhà khoa học quan sát hiện nay đã vận hành trên hành tinh này trong một thời gian rất dài so với một kiếp con người. Tuy nhiên chúng không phải lúc nào cũng vận hành như thế trên trái đất này.

14.2. Tránh định luật thiên nhiên

Con cần nhận ra là khi sa nhân đã thành công trong việc kéo đa số nhân loại vào tâm thức nhị nguyên, tâm thức tập thể bắt đầu tạo ra những định luật thiên nhiên phụ thuộc này, là hậu quả của vật chất trở nên dày đặc hơn. Con cũng cần nhận ra là chính sa nhân cũng đã phải chịu ảnh hưởng của những định luật này.

Bây giờ, họ nghĩ rằng họ đã tìm ra cách tránh các định luật này và làm được những chuyện như quy tụ về một cá nhân quyền lực lớn lao và của cải đồ sộ. Như thày đã nói, điều này có thể duy trì trong một thời gian ngắn. Nhưng sa nhân không nhận ra là chính họ cũng chịu ảnh hưởng của tư duy cơ bản đã tạo ra những định luật thiên nhiên phụ thuộc, vì họ không thể nhìn quá tư duy này. Dù rằng họ đã có thể tác động lên vật chất một cách nào đó, họ không thể đi quá một giới hạn. Họ không thể làm những điều mà con thấy Giê su đã làm như đi bộ trên nước, chữa lành bàn tay bị teo hay những chuyện tương tự khác. Những điều này vượt quá khả năng của họ với tầng cấp viễn kiến mà họ có.

Con có thể tạo ra một tình trạng giống như trên trái đất là nơi vật chất dày đặc hơn tình trạng tự nhiên, nhưng làm sao con tạo ra tình trạng này? Con tạo ra bằng cách phóng chiếu một viễn kiến hạn chế lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Con phóng chiếu viễn kiến đó như thế nào? Con chỉ làm được khi con có viễn kiến đó trong tâm. Con giữ được viễn kiến đó bao lâu trong tâm khi con đầu thai nhiều kiếp, nếu con không tự đồng hóa với nó và nghĩ rằng nó là viễn kiến thật duy nhất? Con không thể thấy quá viễn kiến đó vì không có gì bên ngoài nó. Đây là điều đã xảy ra cho sa nhân trên trái đất; đây là điều đã xảy ra cho đại đa số nhân loại.

Qua nhiều kiếp sống con đã phóng chiếu viễn quan là vật chất dày đặc (và do đó nó hạn chế những gì con làm được), và con tin viễn quan này. Đại đa số con người tin rằng vật chất dày đặc, vật chất thật sự hạn chế khả năng sáng tạo của họ và cách duy nhất để vượt qua những giới hạn này là dùng công nghệ dựa trên vũ lực để tác động lên vật chất và ép buộc nó phải tuân theo mình.

14.3. Sa nhân kiểm soát vật chất như thế nào?

Con yêu dấu, chúng ta hãy nhìn vào ví dụ của một người đã thu thập được tài sản đồ sộ. Y đã thành lập một công ty mướn cả ngàn người và bán một sản phẩm nào đó. Làm cách nào y quy tụ được tiền của về cho y? Một phần là y dùng quyền năng của tâm của y, quyền năng kiểm soát người khác. Con thấy chăng, sa nhân nói chung đã không phát triển quyền năng kiểm soát vật chất trực tiếp. Họ đã phát triển quyền năng kiểm soát người khác và khiến người khác làm việc cho họ. Trong những bài giảng trước, thày gọi đó là tự điều ngự giả, và đây là điều sa nhân đã đạt được.

Người nhà giàu đó đã có thể khiến người khác chịu làm việc cho y với một đồng lương thấp hơn rất nhiều giá trị sản phẩm của sức lao động của họ. Y có thể gặt hái phần lớn thành quả lao động của mọi người và do đó, tập trung của cải vào tay mình thay vì chia sẻ cho nhân viên của mình. Con thấy chăng, của cải đó được tạo ra từ sức làm việc, sức làm việc vật lý của người nhân viên. Rất, rất nhiều người đã làm công việc vật lý đó để tạo ra và tập trung của cải về tay một người.

Giải pháp khác để trải nghiệm có của cải đồ sộ là y chú tâm học cách mở rộng khả năng của tâm để tạo ra của cải một cách trực tiếp bằng cách đem năng lượng của cõi tâm linh xuống quang phổ vật chất. Con hiểu là có hai cách để tạo ra của cải? Cách đầu, như thày đã mô tả, là con chấp nhận những điều kiện của vũ trụ vật chất và con khiến người khác làm việc cho con và con lấy của cải mà họ sản xuất ra. Cách khác để tạo ra của cải, mà không làm việc với vật chất và không tạo thêm từ vật chất, là con làm việc với khả năng của tâm có thể là cánh cửa mở cho ánh sáng tâm linh được tải xuống xuyên qua bốn tầng cho tới khi nó được biểu hiện ở tầng vật chất.

Con thật sự có thể thị hiện của cải thông qua quyền năng thuần túy của tâm, nhưng đây không phải là cách sa nhân đã làm. Họ bị kẹt vào lòng ham muốn có quyền lực trên người khác, ngay cả trên vũ trụ, hay thậm chí là có quyền lực trên Thượng đế. Họ đã chấp nhận là vật chất có một độ dày đặc nào đó. Đó là lý do vì sao họ sẽ làm mọi chuyện để bảo đảm là không ai thách thức điều này. Đó là lý do vì sao họ làm việc chống lại bất cứ ai bắt đầu biểu hiện một mức nào đó của quả vị Ki-tô. Họ cố gắng bằng mọi cách đánh lừa con để con không dám chấp nhận quả vị Ki-tô nghĩa là gì và quả vị Ki-tô có thể cho con khả năng tâm làm chủ vật chất.

14.4. Làm sao để là người chữa lành chân chính?

Bây giờ, con yêu dấu, một khía cạnh của Tia thứ Năm là chữa lành. Thày biết là một số các con đang đợi thày đề cập tới chữa lành, nhưng có lẽ là con không nhận ra là thày đã nói về chữa lành trong suốt các bài giảng vừa qua, dù thày không dùng hai chữ đó. Con yêu dấu, con chữa lành bằng cách nào? Ấy, con chữa lành qua uy lực của viễn kiến.

Nếu con không giải thoát viễn kiến của con khỏi ảo tưởng của sa nhân, con không thể chữa lành. Chuyện rất giản dị như vậy. Thày đã nói gì? Vũ trụ cho phép con làm một số điều, tỷ dụ như khiến vật chất dày đặc hơn, nhưng mọi thứ đều có giá phải trả. Khi con làm cho vật chất dày đặc, con cũng làm dày đặc các thể mà con đang mang và các thể dày đặc này sẽ phải tuân theo một số định luật. Điều con không nhận ra là khi con bắt đầu tạo ra những định luật thiên nhiên phụ thuộc, thì Luật Tự quyết cho phép con làm như thế. Cái giá con phải trả là tạo vật của con phải chịu ảnh hưởng của cái mà các thày thường gọi là định luật thứ hai của nhiệt động học. Định luật này quy định là khi con tạo ra cái gì đứng bên ngoài định luật thiên nhiên cơ bản, thì bất cứ cái gì con tạo ra sẽ bắt đầu phân hủy. Ngay khi con vừa tạo ra cái gì, thì có một lực sẵn có trong tạo vật của con sẽ phân hủy nó theo thời gian. Đây là một cơ chế an toàn để con không thể tạo ra một hoàn cảnh sẽ giam con mãi mãi trong tạo vật của mình.

Hy vọng là khi con có một kinh nghiệm nào đó, sau một thời gian con sẽ chán ngán và từ bên trong con dâng lên lòng mong muốn cái gì hơn nữa và vì vậy con sẵn sàng mở rộng tâm mình. Nếu con người không tới điểm đó, thì cái mà các thày gọi là định luật thứ hai của nhiệt động học (hay cơn thịnh nộ của Shiva) sẽ bắt đầu phân hủy điều con sáng tạo. Đây là lý do chính vì sao có bệnh tật trong thân thể con người. Vật chất dày đặc đến độ bất cứ cái gì được sáng tạo ở mức dày đặc này đều có những lực phân hủy sẵn có trong nó. Đây là lý do tại sao thân thể già nua, tại sao bệnh tật biểu hiện.

Bây giờ, con yêu dấu, sa nhân muốn con tin rằng con hoàn toàn bất lực trước chuyện này. Họ muốn con tin rằng vật chất là vật chất và vật chất có một độ dày đặc nào đó. Vật chất vận hành theo các định luật thiên nhiên phụ thuộc và con không thể vượt quá các định luật này. Đó là lý do tại sao họ muốn con tin rằng thân thể vật lý của con là một tạo vật hoàn toàn vật chất. Nó vận hành theo một số định luật máy móc, vật chất. Thân thể con là một cơ chế sinh học, nó là một nhà máy hóa học hay điều gì khác mà họ muốn con tin.

Họ muốn con tin rằng một khi một căn bệnh hiện ra, căn bệnh này phải có một nguyên nhân vật lý và do đó, một trị liệu vật lý phải được nghĩ ra và áp dụng, tuy trị liệu này có thể chưa được tìm ra. Nếu một trị liệu vật lý chưa được tìm ra, thì con không thể trị căn bệnh này được, và chỉ có thể hy vọng là trong tương lai, các khoa học gia duy vật sẽ tìm ra nguyên nhân và cách chữa.

Bây giờ, như thày đã giải thích nhiều lần, con có bốn thể phàm. Điều thể hiện nơi thân thể vật lý là sự phóng chiếu những điều kiện trong ba thể cao của con. Một căn bệnh vật lý bắt đầu ở các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc và sau đó được phóng chiếu lên thân vật lý. Lẽ tất nhiên, pháp trị liệu cũng phải bắt đầu nơi ba thể cao này.

Điều thày muốn con nhận ra ở đây là sa nhân cũng có lý khi họ nói con không thể thay đổi một số điều kiện trong vật chất. Thày sẽ phải giải thích điều này một cách gián tiếp vì nó là một điểm vi tế.

14.5. Tại sao một số người không thể chữa lành bằng tâm

Con yêu dấu, các thày có thể nói rằng, nếu cái Ta Biết hoàn toàn tập chú vào tầng vật chất (lúc ấy con hoàn toàn tin con là một con người, con bị hạn chế bởi khả năng của thân thể và của công nghệ đã được sáng chế ra), thì con không thể thay đổi vật chất, con không thể vượt quá các định luật thiên nhiên phụ thuộc. Như vậy, các thày nói rằng nếu con sinh hoạt ở tầng vật lý, thì sa nhân nói đúng: Con bị mắc kẹt trong vũ trụ vật chất và con phải tuân theo những định luật của nó.

Do đó, con không thể chữa lành một căn bệnh vật lý bằng uy lực của tâm. Con chỉ có thể tìm những phương tiện vật lý để tiêu diệt căn bệnh hay thay đổi tiến trình của nó. Con có nhận ra chăng, đây là một cách nhìn rất thô thiển về chữa lành? Cách nhìn cơ bản có vẻ ăn sâu trong tư duy của giới thẩm quyền y học trong thế giới hiện đại là có một tình trạng sức khỏe bình thường. Thỉnh thoảng, một căn bệnh nào đó biểu hiện và nó bất thường. Đây là một tình trạng bất thường. Nó được gây ra bởi một cái gì đó bất thường, chẳng hạn như một vi khuẩn. Sau đó, chúng ta cần tìm ra vi khuẩn này và tìm cách tiêu diệt nó. Nếu làm được như vậy, chúng ta có thể chữa khỏi bệnh.

Cái gì đó đang phá hủy thân thể con, và để chữa bệnh, con cần phá hủy nó. Con có thấy chăng là con đang tìm cách chữa sự phá hủy với một hình thức phá hủy khác và trên đường dài làm như vậy chỉ có thể đem lại thêm vấn đề? Tàn phá không chữa được tàn phá. Con không thể chữa một vấn đề với cùng tư duy đã tạo ra vấn đề đó.

Điều này kết nối với điều thày đã giảng, là con cần ngưng phóng chiếu với tâm mình. Con cần ngưng phóng chiếu điều gì? Lớp phóng chiếu đầu tiên là một loại phê phán, là có điều phải xảy ra và điều không được xảy ra, có điều đúng và sai. Khi con nhìn vào một căn bệnh, con tức khắc đi vào tư duy phê phán căn bệnh là sự trục trặc trong thân thể, nó đáng lẽ không được xảy ra.

Bây giờ, tư duy của giới thẩm quyền y học trên thế giới hiện đại là gì? Con yêu dấu, tư duy đó là khi có điều gì trục trặc với thân thể, thì chúng ta phải tìm ra nguyên nhân và tiêu diệt nguyên nhân đó ở tầng vật lý, tầng máy móc. Sâu bên dưới tư duy đó là gì? Đó là họ không muốn nhìn vào tâm, nhìn vào tâm thức, nhìn quá tầng vật lý.

Con đi tìm nguyên nhân nơi tầng vật lý mà thôi, nhưng như thày đã nói, tầng vật lý chỉ là cái ngọn nhỏ của tảng băng. Tầng vật lý chỉ là sự phóng chiếu từ ba tầng cao hơn. Sa nhân không chịu nhìn vào các thể cao của chính họ và họ không muốn bất cứ ai dưới họ làm điều này. Họ biết rằng nếu con người bắt đầu nhìn vào ba thể cao hơn của họ, thì họ có thể giải thoát khỏi những những giới hạn của tầng vật lý và do đó cũng thoát khỏi quyền lực của sa nhân. Con sẽ không là nô lệ của người khác trên trái đất khi con biết con là một sinh thể tâm linh và con có thể làm chủ phản ứng của mình. Con không cần sợ ai hết trên trái đất.

Tư duy thật đằng sau phương cách trị liệu hiện đại là gì? Con yêu dấu, đó là con nhìn bệnh tật như điều gì trục trặc trong thân thể. Rồi con muốn gỡ đi các triệu chứng mà không chịu nhìn vào và thay đổi tâm con người. Con muốn tiếp tục làm những gì con đang làm mà không thay đổi chính mình. Con muốn thay đổi thế giới mà không chịu thay đổi chính mình. Đây là dấu ấn của sa nhân.

Thày có nói là một số sa nhân đã chịu nhìn vào một số khía cạnh của tâm họ và đạt được một loại “điều ngự” nào đó (thày tạm dùng chữ điều ngự này) trên tâm của họ. Họ không sẵn sàng đi thật sâu và nhìn vào ý định của họ, ý niệm tách biệt của họ, ham muốn giành quyền lực về cho mình và hại cho người khác. Họ không sẵn sàng vượt quá khuynh hướng vị kỷ xem mình là trung tâm, vượt quá ý niệm cơ bản xem mình là sinh thể tách biệt và có quyền lực như một sinh thể tách biệt. Những điều này, họ không sẵn sàng đối mặt.

Đây là tư duy đã thâm nhập xuống phương pháp chữa lành trong thế giới hiện đại. Con không kêu gọi người bệnh xem xét trạng thái tâm của họ khi họ đi gặp bác sĩ. Người bác sĩ đi tìm một nguyên nhân vật lý và tìm cách giải quyết nguyên nhân vật lý này. Có bao giờ người bác sĩ ngồi lại với bệnh nhân và nói: “Có thể là quý vị nên xem xét lối sống của mình, có thể là quý vị nên xem xét trạng thái tâm của mình, có thể là quý vị nên gặp một tâm lý gia, có thể là quý vị nên làm điều này, nên làm điều kia?”

Con thấy chăng, nếu con bị mắc kẹt trong tư duy này, nếu đây là quan niệm của con về thân vật lý và cách chữa lành, thì con không đạt được quyền năng chữa lành bằng tâm. Chuyện này không thể làm được.

14.6. Chúng ta nhìn sự vật như thế nào

Bây giờ thày muốn giảng điều này một cách khác một chút vì chúng ta cần đi sâu hơn nữa về cách con nhìn vật chất. Thày có nói là lớp phê phán đầu tiên là con phê phán có điều đúng và có điều sai. Có sức khỏe tốt là đúng, có bệnh tật là sai. Có một tầng sâu hơn nữa là khi tâm con chấp nhận sự vật chỉ là vật, không thay đổi được, không thể thay đổi được bằng tâm.

Thày muốn con hình dung là trước mặt con có một cái bàn và trên đó có một hòn đá. Con có thể cầm hòn đá, con có thể cảm thấy nó cứng. Hòn đá tròn nhưng cứng. Con không thể bóp nát hòn đá, con không thể nặn nó bằng tay. Con không thể thay đổi nó bằng những phương tiện bình thường. Lẽ dĩ nhiên, con có thể chế ra một cái máy nghiền hòn đá hay đánh nhẵn nó. Tuy nhiên, với sức mạnh của bàn tay, con chẳng làm được mấy với hòn đá. Với quyền năng của tâm, con còn làm được ít hơn nữa, đó là điều con đã được dạy dỗ.

Điều thày muốn con nhận ra là khi con nhìn một vật giản dị như hòn đá, có một lập trình trong tâm con (và thực ra lập trình này bắt đầu ở vỏ não thị giác), lập trình này ngay lập tức phân loại và dán nhãn đây là một hòn đá. Bây giờ con đã phóng chiếu lên cái vật đó là nó là hòn đá và tâm của con cho hòn đá đó một số đặc tính. Những đặc tính đó không phải chỉ là những đặc tính riêng của hòn đá, mà cũng có thêm ý niệm con làm được gìkhông làm được gì với hòn đá.

Con có nhận ra chăng là có một tầng trong tâm của con dán nhãn mọi chuyện theo thứ loại? Con dán nhãn mọi thứ là vật. Con yêu dấu, khi con nhìn vào hòn đá, con có nhận ra chăng là chữ “hòn đá” chỉ là một chữ đã được chọn (hay có thể đã được chọn một cách vô thức) và chữ này được liên kết với vật mà con gọi là hòn đá? Con cũng đã có thể gọi nó là trái táo. Nếu từ thời xa xưa, con người đã dùng chữ “táo” để chỉ hòn đá, thì ngày hôm nay con sẽ gọi hòn đá là “táo”. Điều này không có nghĩa là con sẽ nghĩ rằng hòn đá là cái gì mềm có thể ăn được. Điều thày cố giúp con thấy là “hòn đá” chỉ là một chữ mà thôi. Khi con nhận ra “hòn đá” chỉ là một chữ, thì con có thể nói: “Nhưng có gì khác về hòn đá không, ngoài những đặc tính mà tâm chúng con đã chọn và liên kết với hòn đá?”

Con thấy là tâm con người nghĩ ra chữ hòn đá và liên kết chữ này với một vật. Con người cũng có thể chọn một chữ khác. Họ cũng nghĩ ra những đặc tính của hòn đá. Nó cứng, nó khó thay đổi, con không thể nặn nó với hai bàn tay – tất cả những thứ đó. Đây chỉ là những đặc tính do tâm quy định – do tâm quy định. Đây chỉ là một cách nhìn hòn đá.

14.7. Nhìn vượt quá vật

Có thể một cách khác nhìn hòn đá chăng? Con có thể dùng quyền năng của viễn quan để nhìn phía sau, nhìn vượt lên trên viễn quan của hầu hết mọi người khi họ nhìn hòn đá chăng? Con hãy để cho thày dẫn con đi một hành trình dựa trên những bài khoa học ở nhà trường. Hòn đá phải chăng chỉ là hòn đá? Con biết vì con được học ở nhà trường là hòn đá được cấu tạo bởi những phân tử là những đơn vị nhỏ không thấy được bằng mắt vật lý. Có môt cách nhìn khác về hòn đá, không phải ở tầng cấp một vật. Con có thể nhìn hòn đá như là một tập hợp của nhiều phân tử, giản dị như thế.

Con biết là con có thể lấy nhiều hòn đá nhỏ và dùng keo dán chúng lại vào nhau để làm thành một quả banh. Bây giờ con có một quả banh, to như một hòn đá to, nhưng nó được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn nhiều. Con cũng có thể lấy cát, hạt cát, và nặn chúng lại thành một quả banh, nhưng con có thể thấy được đây không phải là một hòn đá lớn và rắn chắc. Nó được cấu tạo bởi những mảnh nhỏ mà con có thể tách ra được. Con có thể cho nó một hình dạng khác nếu con có thể thay đổi vị trí của những mảnh nhỏ đó.

Điều thày muốn giúp con nhận ra ở đây là con có thể vượt quá cái thấy hòn đá là một vật rắn đặc. Con có thể đi vào một tầng cấp sâu hơn để thấy được hòn đá được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn được gom lại thành một hình dạng mà con gọi là hòn đá – và con nhìn hòn đá này như một vật thuần nhất không dễ thay đổi.

Bây giờ, lẽ dĩ nhiên con biết được theo khoa học là phân tử được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn, gọi là nguyên tử. Có thể con được học ở nhà trường hay không được học ở nhà trường (nhưng biết được sau này nhờ đọc sách), là nguyên tử được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn nữa, gọi là hạt cơ bản. Nếu con có học chút xíu khoa vật lý lượng tử, con sẽ thấy là bản chất các hạt cơ bản này có hai mặt, ít nhất theo cái nhìn hiện nay của các nhà khoa học. Một hạt căn bản đôi khi sẽ cư xử như một hạt truyền thống (là một vật rắn đặc), và đôi khi nó cư xử như một sóng, một sóng năng lượng rung động. Con nhận ra rằng ngay cả khi con chỉ lấy những gì khoa học hiện nay công nhận, con có một cách nhìn hòn đá khác đi? Con có thể bắt đầu ở tầng cấp sự vật, là hòn đá. Ở tầng cấp này, con thấy nó là một đơn vị thuần nhất. Nếu con đi vào các tầng cấp càng lúc càng sâu hơn, con thấy nó không còn thuần nhất nữa vì nó được tạo ra từ những đơn vị nhỏ hơn. Tại sao ở tầng cấp sự vật con lại thấy nó là một đơn vị thuần nhất? Sự thuần nhất từ đâu tới? Nó hoàn toàn tới từ tâm con. Nó là một hình tư tưởng do tâm con phóng chiếu ra.

Hòn đá không thuần nhất chút nào. Nó được cấu tạo bởi phân tử, phân tử được cấu tạo bởi nguyên tử, nguyên tử được cấu tạo bởi hạt cơ bản, chính thực là sóng năng lượng. Không những hòn đá không thuần nhất, nhưng khi con đi vào các tầng nhìn sâu hơn, con cũng thấy là hòn đá càng lúc càng bớt vẻ rắn đặc. “Hòn đá” là một đơn vị rắn đặc vì tâm của con thấy nó là rắn đặc. Khi con tới tầng cấp phân tử, con nhận ra nó được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn có thể di chuyển vị trí so với nhau, hay một số có thể bị tháo gỡ đi.

Con thấy chăng, ở tầng cấp hòn đá, chuyện tác động lên hòn đá hay thay đổi nó có vẻ như vô phương hay ít nhất là cực kỳ khó khăn? Nếu tâm của con có thể đi vào tầng phân tử và bắt đầu tác động lên chúng, thì tâm của con có thể tác động lên những đơn vị nhỏ này dễ hơn là lên hòn đá. Nếu con có thể đi vào tầng nguyên tử còn nhỏ hơn nữa thì chuyện gì sẽ xảy ra? Con tác động lên chúng còn dễ hơn nữa nếu con biết cách. Bây giờ nếu con có thể đi vào tầng hạt cơ bản mà thực chất là sóng năng lượng thì sẽ ra sao?

14.8. Tâm có thể tác động lên sóng năng lượng

Con yêu dấu, thày đồng ý là tâm con không thể tác động lên hòn đá, nhưng tại sao tâm không thể tác động lên hòn đá? Bởi vì hòn đá là một khái niệm do tâm tạo ra, và tâm con không vượt quá được khái niệm mà chính nó đã áp đặt lên hòn đá. Khi con còn tin vào khái niệm này, khi con chưa chất vấn nó, khi con còn tin khái niệm này không tránh được, không thay đổi được, thì tâm con không thể tác động lên hòn đá.

Con yêu dấu, tâm con là gì? Phải chăng nó là một trường năng lượng? Hòn đá là gì? Nó được cấu tạo bởi phân tử, được cấu tạo bởi nguyên tử, được cấu tạo bởi hạt cơ bản mà thực chất là sóng năng lượng. Nếu tâm của con là một trường năng lượng, thì tại sao nó lại không thể tác động được các trường năng lượng cấu tạo ra các hạt cơ bản, cấu tạo ra các nguyên tử, cấu tạo ra các phân tử cấu tạo ra hòn đá?

Nếu con có thể dùng tâm để đi vào một tầng sâu đủ, thì đâu có lý do gì con không tác động được lên hòn đá? Hay đâu có lý do gì con không chữa lành được thân thể với tâm khi con nhận ra thân thể cũng được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn? Trong thân thể có những bộ phận nhưng mọi thứ trong thân thể được cấu tạo bởi phân tử. Mọi thứ được cấu tạo bởi nguyên tử. Mọi thứ được cấu tạo bởi hạt cơ bản mà thực chất là sóng năng lượng.

Tâm của con là một sóng năng lượng. Thân thể của con là một sóng năng lượng. Tại sao tâm của con lại không thể đạt được khả năng tác động lên các sóng năng lượng cơ bản cấu tạo nên thân thể con và từ đó thay đổi thân thể con ở tầng cấp vật lý? Con thấy chăng, con không thể làm điều này nếu tâm con còn dính chặt vào khái niệm “vật”, vào hình ảnh mà con đã áp đặt lên thân thể vật lý. Con nhìn thân thể là một vật, một đơn vị thuần nhất. Con có thể nhận ra là nó có những thành phần như bộ phận, tế bào và các thứ khác, nhưng hầu hết mọi người vẫn coi thân thể là một đơn vị thuần nhất.

Lúc đó, khi có chuyện trục trặc với thân thể, con yêu dấu, họ tức khắc chấp nhận là có điều gì trục trặc với thân thể. Nếu có điều gì trục trặc với thân thể ở tầng cấp vật lý, thì tâm họ cũng chấp nhận là chỉ có thể chữa được ở tầng cấp vật lý. Nếu nguyên nhân không ở tầng vật lý vì thân thể là sự phóng chiếu từ ba thể cao hơn, thì tại sao con lại không thể thay đổi những gì ở trong ba thể cao để thay đổi sự biểu hiện vật lý?

Con yếu dấu đây chỉ là lý luận giản dị. Nó không giản dị chút nào khi tâm con bị dính chặt muốn thấy mọi thứ là “vật”. Ngày nào con còn thấy thân thể là một vật, một đơn vị thuần nhất, con không thể chữa lành thân thể với quyền năng của tâm. Tâm không thể thay đổi khái niệm “vật” mà chính tâm đã áp đặt lên thân thể. Con hiểu ra điều này chăng? Con hiểu ra nó quan trọng như thế nào chăng?

Chính tâm đã áp đặt hình ảnh “vật” lên thân thể. Ngày nào tâm chưa chất vấn hình ảnh này, chưa thấy nó như nó là, chưa thấy nó chỉ là một hình ảnh và chưa nhìn quá hình ảnh đó, thì tâm không thể chữa lành thân thể. Nếu con giải thoát tâm con khỏi khuynh hướng nhìn mọi vật là vật, con có thể bắt đầu chữa lành thân thể con bằng quyền năng của tâm. Con yêu dấu, lẽ dĩ nhiên đây là điều thày mong muốn cho con.

14.9. Niệm tinh khôi

Rõ ràng là con có một Sứ vụ Thiêng liêng. Có những điều con cần làm. Rõ ràng là trong một số trường hợp, mang bệnh và ứng phó với bệnh là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Trong trường hợp khác, có một thân thể khỏe mạnh là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Lẽ tất nhiên, thày muốn con tới được điểm mà con biết được bệnh tật là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con, hay con biết cách thăng vượt căn bệnh để tiếp tục với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Để tới điểm này, con cần nhận ra một số điều.

Bây giờ có một khái niệm mà các thày đã dùng từ ít lâu nay, và khái niệm này khởi thủy do Mẹ Mary đưa ra. Đó là khái niệm giữ niệm tinh khôi. Lẽ dĩ nhiên, đây là một cách chơi chữ với quan điểm “thụ thai tinh khôi” cho rằng Giê-su được thụ thai tinh khôi không cần có yếu tố con người xen vào. Nói cách khác, không có người nam nào cho tinh dịch để trái trứng thụ thai – thụ thai là do Thánh Linh thực hiện. Lẽ đương nhiên, như các thày đã giải thích, chuyện không xảy ra như vậy.

Ý thày muốn nói là Mẹ Mary đã khai triển ý tưởng là Mẹ có thể giữ một niệm tinh khôi. Mẹ giải thích là chính mẹ đã giữ niệm tinh khôi về Giê-su từ lúc thày sinh ra và cho tới khi thày lớn lên. Con yêu dấu, bây giờ con hãy nhìn kỹ hơn vào hoàn cảnh này.

Đây là một người phụ nữ sanh một con trai. Bây giờ, bất kể đứa con được thụ thai như thế nào, bất kể viễn kiến của bà về người con ra sao, phải chăng là bà sẽ có tình cảm bình thường của người mẹ đối với con trai dựa trên văn hóa của bà? Con hãy nhìn chuyện gì xảy ra cho người con trai này là Giê-su. Cậu bé lớn lên thành một thanh niên khỏe mạnh và có khả năng nhưng ở tuổi thanh xuân, Giê-su bị giới chức trách bắt giam, tra tấn, đóng đinh trên thập tự và chết. Có thể nào một người mẹ bình thường có viễn kiến như vậy về con trai mình chăng?

Khi con xem xét sự việc này, con nhận ra là nếu Mẹ Mary giữ niệm tinh khôi về Giê-su, điều này không có nghĩa là từ lúc Giê-su sinh ra, bà có viễn kiến một ngày kia Giê-su sẽ bị bắt, bị tra tấn và hành quyết. Vậy thì bà giữ niệm tinh khôi cho Giê-su nghĩa là gì? Bà nhận ra rằng Giê-su không phải là một đứa con trai bình thường, Giê-su sẽ không có một cuộc sống bình thường, nhưng niệm tinh khôi của bà là gì? Trước tiên, bà giữ khái niệm Giê-su sẽ tiếp tục tăng triển tâm thức và thăng vượt tâm thức cho tới khi Giê-su đạt được tầng mức quả vị Ki-tô cho phép thày hoàn thành sứ vụ của thày. Niệm tinh khôi có hai khía cạnh. Nó là viễn kiến tăng triển liên tục và nó là viễn kiến mỗi người có một sứ vụ, một Sứ vụ Thiêng liêng, và giữ viễn kiến là người đó sẽ hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng.

Lẽ dĩ nhiên con có thể làm điều này cho chính mình. Nếu con giữ niệm tinh khôi cho chính mình, con giữ cả hai khía cạnh Alpha và Omega này. Trước tiên, con nhận ra ý nghĩa sự sống là tăng triển, là thăng vượt. Con giữ niệm tinh khôi là con sẽ tiếp tục tăng triển, đạt các khai ngộ và đạt tầng tâm thức cao nhất có thể đạt được trong kiếp này. Sau đó con giữ viễn kiến là con ở đây để làm điều gì đó trong kiếp này. Con giữ viễn kiến là con sẽ hoàn thành các điều trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Bây giờ, đây là lúc con cần đứng lùi lại và nhận ra khi con giữ niệm tinh khôi cho mình, như thày đã giải thích, rất có thể nó sẽ rất khác với những gì hầu hết mọi người mường tượng về cuộc sống bình thường của một người. Thậm chí nó có thể rất khác những gì con thấy về cuộc đời mình cho tới lúc này.

14.10. Không có điều gì không được xảy ra

Con yêu dấu con nhận ra chăng là khi con lớn lên trong xã hội hiện đại, có sự phóng chiếu lên con từ mọi hướng là cuộc sống của con phải thế này hay không được thế kia? Sự phóng chiếu có thể đến từ cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thày cô, mỗi người mà con gặp, chính xã hội, sa nhân và tà lực và các thứ khác. Suốt cuộc đời con, có rất nhiều sự phóng chiếu hướng về con nói rằng cuộc sống phải thế này và không được thế kia. Ở điểm này, thày muốn nói: “Nếu con thật sự muốn sống cuộc đời mình, con phải xem xét chuyện phóng chiếu này và nói: “Con có bao nhiêu ý tưởng về điều phải xảy ra và không được xảy ra cho con?”

Rồi con cần tự hỏi mình: “Phải chăng trước giờ tôi đã nghĩ rằng giữ niệm tinh khôi cho mình có nghĩa là cuộc sống của tôi theo con đường bị ảnh hưởng từ bên ngoài cho rằng điều này phải xảy ra hay không được xảy ra cho tôi? Phải chăng tôi đã nghĩ rằng giữ niệm tinh khôi là tôi lượng định mỗi hoàn cảnh dựa theo ý tưởng điều phải xảy ra và điều không được xảy ra và ngay lập tức phán xét rằng điều mà tôi nghĩ không được xảy ra là điều sai? Phải chăng đây là cái nhìn của tôi về giữ niệm tinh khôi? Phải chăng đây là cách tôi đang nhìn cuộc đời mình?

Con thấy chăng đây là những gì con được dạy dỗ. Những phóng chiếu này dựa trên tầng cấp vật hay sự việc, tức là có một số sự việc phải xảy ra và một số sự việc không được xảy ra trong một cuộc sống bình thường,. Con phải làm một số việc và con không được làm một số việc. Đây là tầng cấp vật, hay sự việc. Sứ vụ Thiêng liêng của con đòi hỏi con tăng triển về tâm thức. Để có thể thăng vượt một tầng tâm thức thì con phải nhìn thấy tâm thức này.

Điều con nhận ra ở đây là đối với một người đang hiện thân, nhận ra điều hạn chế mình rất khó, rất tinh tế. Có những lúc con đọc một cuốn sách tâm linh và con thấy được: “Ồ, cái này hạn chế tâm của tôi và tôi cần buông bỏ nó.” Tất cả chúng ta, những người đã từng đầu thai, đều nhận ra rằng chúng ta không thể học hết mọi thứ bằng cách đó. Có những trường hợp cách học duy nhất là trải nghiệm một hoàn cảnh bên ngoài. Chúng ta giản dị là như thế vì chúng ta đang sống trong một môi trường dày đặc như trái đất. Đôi lúc chúng ta tỉnh giác qua giáo lý dùng ngôn từ nhưng có lúc khác, chúng ta tỉnh giác qua kinh nghiệm trực tiếp của giác quan, thân thể và tâm. Con yêu dấu, con thấy chăng, con cần một số kinh nghiệm trong cuộc sống.

Bây giờ con làm được gì đây? Con có thể nhìn vào cuộc sống mình và nói: “Có lợi ích gì chăng khi tôi lượng định cuộc sống mình theo một tiêu chuẩn được áp đặt lên tôi, tiêu chuẩn quy định cái phải xảy ra, hay cái không được xảy ra? Tôi có thể nào lùi lại một bước, nhìn cuộc sống mình và nói: ‘Không có cái phải là, không có cái không được là. Mọi chuyện xảy ra trong cuộc sống của tôi đã xảy ra vì vũ trụ đang tìm cách đánh thức tôi khỏi một ảo tưởng.’”

14.11. Thông điệp là gì?

Bây giờ, thay vì cưỡng lại điều đang xảy ra, thay vì tìm cách thay đổi những triệu chứng ở tầng vật lý, con có thể bắt đầu nghĩ: “Thông điệp ở đây là gì? Có điều gì trong này mà trước giờ con không thấy?” Chúng ta hãy nói về bệnh tật trở lại. Khi lớn lên, con được dạy dỗ để nghĩ rằng sức khỏe bình thường là tự nhiên và khi có bệnh là trục trặc. Do đó, con phải coi đây là một sự trục trặc và phải đi gặp bác sĩ, xem bác sĩ có tìm ra nguyên nhân vật lý không và tiêu hủy nguyên nhân vật lý này.

Con yêu dấu, thày không nói là con không nên đi bác sĩ để cứu mạng mình. Điều thày nói là: Điều gì ngăn trở con lùi lại một bước và đáp ứng một cách khác, và nói: “Có thể nào căn bệnh là một thông điệp cho con? Vũ trụ có đang tìm cách dạy con một điều gì? Căn bệnh có đang tìm cách chỉ cho con một ảo tưởng nào đó, một tâm thức nào đó mà con phải thăng vượt? Phải chăng khi con thăng vượt nó, con sẽ tiến gần hơn việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình?” Như thày đã nói ở trước, trong một số trường hợp, con đã chọn mang một căn bệnh vì con muốn chứng minh cho người khác thấy con có thể là một người hạnh phúc, toại nguyện và an bình dù là con bị bệnh hạn chế. Một số các con đã chọn mang một căn bệnh để chứng minh con có thể vượt qua căn bệnh, con có thể chữa lành nó, con có thể vượt thăng nó?

Con thấy chăng, nếu con đã chọn mang một căn bệnh vì con muốn chứng minh điều gì cho người khác, hay vì con muốn vượt qua nó hay vì nó là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con vì con tìm cách giúp mình thấy một tâm thức nào đó, thì chống lại căn bệnh đâu có nghĩa lý gì? Tại sao con cho phép tâm mình dính chặt vào tầng cấp của vật khiến con nghĩ thân thể này là một vật và bây giờ cái vật này xảy ra cho thân thể con và con cần tiêu diệt cái vật này? Tại sao con không vượt quá điều này và nhìn nó một cách khác? Có điều gì ngăn cản con làm như thế? Lẽ dĩ nhiên đâu có gì ngăn cản con ngoại trừ tâm thức sa ngã nói với con là con không bao giờ nên nhìn vào chính bản thân mình.

14.12. Thăng vượt tâm thức

Con hiểu ra giữ niệm tinh khôi cho mình thật sự nghĩa là gì chăng? Sa nhân không muốn thay đổi chính họ. Con là người tâm linh đã định ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình chung với các chân sư thăng thiên, điều con muốn làm lẽ dĩ nhiên là thay đổi chính mình. Sứ vụ Thiêng liêng của con xoay quanh việc con thay đổi chính mình, thăng vượt các tầng tâm thức và bước lên càng nhiều bước càng tốt trên 144 tầng cấp trong kiếp sống này. Đây là điều trọng yếu trong Sứ vụ Thiêng liêng của con: tăng triển tâm thức.

Cốt lõi của sự sống, cốt lõi của con đường tâm linh đối với con là thăng vượt tâm thức. Cốt lõi của sự chống đối của sa nhân là chống lại thăng vượt tâm thức. Khi con nhận ra điều này, con có thể nói: “Tại sao con phải sống cuộc đời mình dựa trên tư duy của sa nhân? Con muốn sống cuộc đời mình dựa trên tư duy của các chân sư thăng thiên là thăng vượt không ngừng.” Con có thể chuyển đổi tâm thức, nhiều người đã đến tầng cấp này mà chưa chuyển đổi tâm thức một cách có ý thức. Do đó, họ vẫn còn bị kẹt chỉ thấy mọi sự ở tầng cấp của vật, chỉ thấy ở tầng cấp khái niệm, và phán xét mọi chuyện dựa trên cái phải xảy ra hay không được xảy ra.

14.13. Làm hòa với cuộc đời của con

Con yêu dấu, trong bài giảng này và ở tầng này của khóa nhập thất của thày, thày thật sự mong muốn thấy con thoát khỏi những phán xét ở tầng cấp của vật (chúng chỉ là những khái niệm mà tâm con và tâm tập thể đã gán lên mọi chuyện xảy ra trong vũ trụ). Thày thật sự muốn con có khả năng nhìn vào cuộc sống mình và thoát khỏi mọi phán xét về cái phải xảy ra hay không được xảy ra.

Thày biết rằng nhiều người trong chúng con đã lớn lên trong những điều kiện rất khó khăn. Con đã lớn lên trong những hoàn cảnh gia đình rất khó khăn. Đây là trường hợp của rất rất nhiều người trên con đường tâm linh. Con đã chọn những hoàn cảnh này vì một lý do. Nó là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Có chuyện gì đã xảy ra mà đáng lẽ không được xảy ra chăng? Có phải chăng đây là cơ hội để con nhìn thấy điều gì bên trong con và để chứng minh cho người khác thấy con đã lớn lên trong một hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn vượt lên trên được? Con có thể tới một điểm con nhìn vào cuộc đời mình và nói: “Có cách nào khác nhìn vào cuộc đời mình ngoài cách nhìn ở tầng cấp sự thể và phán xét mọi sự dựa theo tâm thức cái phải là và không được là?” Thày đã nói với con là con có thể nhìn hòn đá và thấy nó có nhiều thành phần khác nhau. Phải chăng con cũng có thể nhìn một hoàn cảnh trong đời và thấy nó có nhiều thành phần khác nhau? Thay vì nhìn cuộc đời ở tầng cấp sự thể mà thôi, dựa trên phán xét cái phải là và cái không nên là, con có thể lùi lại một bước và nhìn hoàn cảnh với nhiều sắc thái vi tế hơn, phức tạp hơn. Biết đâu tuổi thơ khó khăn của con là cách nhanh nhất để con cân bằng nghiệp từ kiếp trước mà con có với cha mẹ và các anh chị em? Biết đâu nếu con học xong bài học và làm chủ phản ứng của mình trước hoàn cảnh, con đã cân bằng được nghiệp đó và bây giờ con được tự do đi tiếp cuộc đời, không những thoát khỏi những người này mà con cũng thoát khỏi tâm thức mà họ biểu trưng? Biết đâu con chọn lựa ở trong một hoàn cảnh rất khó khăn vì con cần học bài học là con không thể thay đổi người khác, con chỉ thay đổi được mình thôi? Do đó, khi con tập trung vào việc thay đổi mình, và con tha thứ những người khác và cho phép họ là chính họ và cho phép họ biểu hiện tâm thức của họ, thì con được tự do tiến tới những khía cạnh khác của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

14.14. Làm hòa với người khác

Con yêu dấu, con thấy chăng, khi con đang hiện thân, con lớn lên bên cạnh nhiều người và họ có ảnh hưởng lớn trên đời con. Một điều thiết yếu trong khóa tự điều ngự là con tới được điểm hiểu ra rằng nếu con ngừng đánh giá những tương tác giữa con và người khác dựa trên tâm thức cái phải là và cái không được là, tâm con sẽ bình an với diễn tiến của sự tương tác. Con sẽ tới điểm nhận ra nếu hành động của con là sản phẩm của trạng thái tâm thức của con, thì hành động của họ là sản phẩm của trạng thái tâm thức của họ. Con cũng hiểu ra là họ có toàn quyền tự quyết. Công việc của con không phải là thay đổi người khác. Có thể một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con là cho họ cơ hội thấy có một cách hành động khác, một cách đáp ứng khác, một cách nhìn đời khác.

Con thấy chăng, con yêu dấu, công việc của con là cho người đó một cơ hội bằng cách chứng minh có một cách đáp ứng khác. Công việc của con không phải là ép buộc người đó phải chọn lựa chấp nhận bài học. Đây là lý do con không nhìn hoàn cảnh với ý tưởng cho rằng họ phải học bài học đó và họ phải học điều mà con nghĩ họ phải học. Không có cái phải là và cái không được là. Công việc của con là cho họ cơ hội chọn lựa, không phải là chọn giùm cho họ.

Khi con đã cống hiến cơ hội đó, con đã làm xong việc của mình. Có nghĩa là bây giờ con đã thoát khỏi hoàn cảnh đó, nhưng con không thể thoát khỏi hoàn cảnh nếu con còn phán xét dựa trên cái họ phải làm hay cái họ không được làm. Khi ấy con lại buộc con vào họ và tạo một nghiệp mới cho mình. Có nghĩa là con có thể phải trở lại đầu thai với họ trong một kiếp sống khác cho tới ngày con rốt cuộc được tự do và cho họ được tự do là chính họ. Con được tự do là gì con là mà không cần biết họ chọn lựa ra sao.

Con nhận ra là, nếu con nhìn vào tất cả các mối tương tác và dính dáng giữa con và người khác, con có thể áp dụng phương pháp trên chăng? Con nhìn vào điểm: Con cần làm gì để tới được điểm mà trong tâm con, con hoàn toàn tự do khỏi người này? Trọng tâm không phải là thay đổi người kia vì tự do của con không tùy thuộc vào hành động và trạng thái tâm người kia. Nó tùy thuộc vào trạng thái tâm của con.

Con sẽ tự do khi con tự do trong tâm của con. Thày đã nói với con điều này trong suốt các bài giảng trước và đặc biệt trong bài giảng này. Con nhìn vào quan hệ của con với người khác như một sự thể vì con nhìn vào nó với viễn kiến nhìn mọi thứ là vật thể hay sự thể. Con thường nhìn người khác và nghĩ: Ồ y là như thế và như thế và không ai có thể làm gì để thay đổi được. Sau đó con nghĩ quan hệ của con với người đó không thay đổi được cho tới khi người đó thay đổi, nhưng vì y sẽ không thay đổi, con không thấy cách chi quan hệ có thể thay đổi được. Làm như thế là con tước đi uy lực của mình.

Khi con lấy lại uy lực của mình, con nhận ra rằng không cần biết người kia như thế nào hay người kia có sẽ thay đổi hay không, điều quan trọng là con thay đổi cách con nhìn người kia để người kia không ảnh hưởng được con. Giê-su nói: “Ông hoàng thế gian tới và chẳng tìm thấy gì trong ta để ảnh hưởng được.” Con có thể xem là bất cứ con gặp ai, người đó có thể là một công cụ của ông hoàng thế gian. Ông đang giản dị tìm mọi cách để khiến con phải phản ứng một cách tiêu cực, dựa trên sợ hãi để ma quỷ ảnh hưởng được con.

14.15. Bị kẹt vào xung đột giữa người và người

Con yêu dấu, cách giản dị nhất để ngăn cản con làm những phần tích cực trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là gì? Đó là khiến con bị kẹt vào những xung đột với người khác làm con mất hết thì giờ, sự chú ý và năng lượng. Con không thể nào đi quá một tầng nào đó của con đường tâm linh nếu con còn bị kẹt trong những quan hệ cá nhân làm tiêu hao rất nhiều sức của con.

Con cần tới một điểm vượt lên trên tầng cấp của vật và con nói: “Con có một Sứ vụ Thiêng liêng và một phần của Sứ vụ Thiêng liêng là con thăng vượt một tầng tâm thức nào đó, một tầng ảo tưởng nào đó. Có thể chăng là người khiến con bực mình quá sức đang làm chuyện đó vì y đang lợi dụng cái ảo tưởng mà con không thấy được trong con?” Có thể chăng là người đang làm con bực mình quá sức thật ra là một Sứ giả Thiêng liêng? Y được gửi đến để chỉ cho con thấy điều mà cho tới nay con chưa thấy được và điều mà con cần vượt qua trong chính mình để có thể vươn lên tầng tâm thức cao hơn và bắt đầu thể hiện những khía cạnh tích cực của Sứ vụ Thiêng liêng của con – là cống hiến món quà của con?

Một phần Sứ vụ Thiêng liêng của con là vượt qua những giới hạn của mình nhưng thường đây không phải là phần hào hứng của Sứ vụ Thiêng liêng. Phần hào hứng của Sứ vụ Thiêng liêng là con có một món quà tích cực cho trái đất và con bắt đầu tặng món quà đó. Tại sao con lại cho phép những tranh chấp nhỏ mọn với người khác ngăn cản con thực thi khía cạnh hào hứng của Sứ vụ Thiêng liêng của con, khi con chỉ cần chuyển đổi viễn quan của mình và nói: “ Bài học ở đây là gì? Con cần học điều gì trong mối quan hệ của con với người này? Nó chỉ cho con thấy những dính mắc nào vào những chuyện phải là và không được là?”

Nếu con phân tích bất kỳ quan hệ thiếu hài hòa nào, con sẽ nhận ra là người kia khiến con bực mình vì con có một hình ảnh cho rằng người khác không được làm thế, không được cư xử như thế, không được nói những câu như thế với nhau. Nếu con nhìn vào bề sau, con sẽ thấy rằng tất cả những cái phải là và không được là trong tâm con sẽ ngăn cản con hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Nó cũng ngăn cản con đạt được viễn kiến mà thầy muốn dẫn con tới.

14.16. Đạt được viễn kiến bất nhị

Thày đang hướng dẫn con tới một viễn kiến không nhị nguyên, không dựa trên sự phán xét với hai đối cực. Nó là viễn kiến trong sạch, viễn kiến rõ ràng nhìn mọi vật như là nó là. Con có thể tới điểm mà con nhìn mọi cảnh huống mà không phán xét. Con yêu dấu, đó là lúc con có thể neo mình vào cái mà các thày gọi là Dòng Sông sự Sống và thấy cuộc sống của con là một dòng chảy liên tục.

Con xét xem đa số nhìn hoàn cảnh sống như thế nào. Họ nghĩ; “Tôi có quan hệ với người này đang làm tôi bực mình quá và chuyện này ngăn cản tôi tăng triển. Chuyện này ngăn cản tôi làm những gì tôi muốn làm trong đời mình.” Con thấy là đa số nhìn cuộc đời như một tiến trình ngừng-lại-và-đi-tiếp. Họ muốn đi tới chỗ nào đó trong cuộc sống nhưng luôn luôn có một điều gì ngừng họ lại, không cho phép họ đến nơi đó.

Khi con chuyển đổi viễn kiến của mình, con có thể thoát khỏi viễn kiến ngừng-lại-và-đi-tiếp và con bắt đầu thấy là mỗi hoàn cảnh con gặp chỉ là cách giúp con tiến lên với cuộc sống. Khi con nhìn một dòng sông chảy, có thể có vách đá hai bên dòng sông và tảng đá trong lòng dòng sông. Khi nước đụng vào đá, nó có ngừng chảy không? Nước có ngừng lại và nói: “Tảng đá này không được ở đây, ai đó phải dời nó đi để tôi chảy tiếp?” Không đâu, nước chỉ việc chảy chung quanh tảng đá. Đúng là dòng nước bị tảng đá làm đổi hướng nhưng nó không bị ngưng lại. Dòng nước chỉ việc chảy quá tảng đá và chẳng bao lâu sau nước lại tuôn chảy như chưa từng có tảng đá nào. Đây là cách con phải nhìn các hoàn cảnh trong cuộc sống của con. Thày xin lỗi thày dùng chữ “phải”, nhưng đây là cách con nhìn cuộc sống mình khi con đạt được viễn kiến cao mà thày đề cập.

Con có thể tới điểm mà con nhận ra bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời không phải là chướng ngại cho sự tiến bộ của con. Nó chỉ là thông điệp chỉ cho con thấy cách đi vòng quanh chướng ngại và tiếp tục tiến lên. Khi con làm như vậy, con đã tiến bộ.

14.17. Cho phép tâm giống như nước

Lúc đó con nhận ra một điều mà sa nhân không muốn con biết, là tâm giống như nước. Nước là một chất kỳ diệu, con yêu dấu. Con có thể lấy cái búa to nhất mà con có thể nâng lên được, và con đập nó vào dòng sông. Con làm nước bắn tung tóe nhưng chuyện gì xảy ra sau vài giây? Dòng nước lại chảy tiếp giống như chưa hề có điều gì ảnh hưởng nó. Tâm con cũng có khả năng đó. Con nhận ra bất cứ chuyện gì xảy ra trong cuộc đời của mình, dù nó làm nước bắn tung tóe, tâm con vẫn có thể tiếp tục chảy. Khi con tha thứ, khi con buông bỏ, tâm con sẽ chảy tiếp, nước sẽ nhập lại với nhau, tâm con sẽ toàn vẹn và con sẽ tiếp tục tuôn chảy như không có gì đã xảy ra.

Khi tới điểm này của khóa nhập thất của thày, thày muốn con nhận ra một cách ý thức là con có thể làm cho tâm con lỏng như nước. Thày không nói rằng con có thể làm cho tâm con hoàn toàn lỏng như nước ở điểm này. Thày muốn con nhận ra là điều này làm được và con cần đặt mục đích này cho mình. Con làm cho tâm mình lỏng như nước, và muốn đạt được điều này, con cần sẵn lòng nhìn vào cuộc sống mình và nhận ra: Có sự việc nào đã làm cho tâm con cứng đặc chung quanh một chấn thương, một nỗi đau, hay một cái nhìn cho rằng chuyện này không được xảy ra? Tâm con có bị cứng đặc chung quanh quan điểm người khác phải thay đổi hay vũ trụ phải thay đổi, hay người khác không được thế này hay vũ trụ không được thế kia? Tâm con đã cứng đặc chung quanh điểm nào?

Và con nhận ra rằng mỗi hoàn cảnh khiến tâm con cứng đặc ở một thời điểm trong quá khứ, trong hành trình trên hành tinh này, đã buộc chân con lại không sống theo Sứ vụ Thiêng liêng. Nó ngăn cản con xuôi theo Dòng Sông sự Sống. Đây là lúc con có sự thúc đẩy mới muốn nhìn vào các ảo tưởng mà con đã chấp nhận. Đây là điểm mà con nhận ra thực là chẳng có gì phải xảy ra hay không được xảy ra.

Bây giờ con nhận ra rằng thực chẳng có cái gì phải xảy ra hay không được xảy ra bất cứ đâu trong vũ trụ, nhưng thái độ này đặc biệt quan trọng trên một hành tinh dày đặc như trái đất. Con đang sống trên một hành tinh rất khó khăn nơi có sa nhân đầu thai, và có sa nhân trong cả ba cõi cao hơn. Họ đã khiến con người tranh chấp với nhau, vì vậy con có những nhóm người liên tục xung đột với nhau. Lớn lên trong một môi trường như vậy rất là khó. Đầu thai nhiều kiếp trên hành tinh này cực kỳ khó. Điều thày muốn chỉ cho con thấy ở đây là cách duy nhất để sống trên một hành tinh như trái đất, để không để bị kẹt trong những cãi vã nhỏ mọn buộc sự chú ý của mình, cách duy nhất là con làm cho tâm mình lỏng như nước để con không bao giờ cho phép nó cứng đặc lại chung quanh bất cứ điểm nào trong quá khứ. Con giữ tâm con như một khối nước xuôi theo Dòng Sông sự Sống.

14.8. Duy trì dòng chảy

Mục đích này không dễ đạt, con yêu dấu. Thày không nói là con phải đạt nó ngay bây giờ hay trong năm phút. Con yêu dấu, con có thể đạt mục đích này, và con không cần mất cả quãng đời còn lại để đạt nó. Thật ra, con có thể đạt mục đích này trong một sự chuyển đổi tâm thức lớn và sau đó con dần dà quét dọn sạch sẽ bằng cách đọc các bài thỉnh để tiêu trừ những năng lượng bị trói trong các sự việc quá khứ. Cũng có thể, con cần xem xét một số hoàn cảnh cá biệt, một số người và nhận ra: “Con cần học bài học gì ở đây để con có thể tha thứ người này, để con buông bỏ ý niệm về cái phải là hay không nên là.”

Có thể con cần quét dọn rất nhiều, nhưng con có thể chuyển hóa tâm rất nhanh và nhận ra rằng tâm con lỏng. Tâm con như nước. Có một trở ngại đằng trước. Có cách nào để con đi vòng quanh nó và trở về xuôi theo Dòng Sông sự Sống mà không hề bị cản trở, bị chắn lối, bị ảnh hưởng bởi bất cứ điều gì?

Con tới một điểm, con yêu dấu, mà con không còn thấp thỏm chờ cuộc khủng hoảng kế tiếp, sự cản trở kế tiếp, hay chướng ngại kế tiếp. Con không dính mắc vào bất cứ hoàn cảnh cá biệt nào, tranh đấu chống người khác hay chống lại cả vũ trụ. Con luôn luôn tuôn chảy và con chỉ quan tâm tìm cách duy trì dòng chảy. Có đây một chướng ngại nhưng con cũng chẳng nhìn vào chướng ngại này và con không hề gợn lên ý tưởng nó phải hay không được ở chỗ đó. Con nhìn vào điều sau: “Làm sao con chảy chung quanh chướng ngại được? Bên kia chướng ngại là gì?” Và sau đó con đã qua được bên kia và con lại tuôn chảy, và giống như là chướng ngại chưa bao giờ có đó. Có thể con học được bài học từ chướng ngại đó nhưng bây giờ con thể nhập bài học và con không cần nghĩ tới nó nữa. Con tiến tới bài học kế tiếp.

Con hiểu chăng, con yêu dấu? Con có thể nhìn vào một hoàn cảnh và nhiều người tâm linh làm điều này và nói: “Bài học cho con là gì? Con cần học điều gì?” Con hiểu rằng khi con đã học trọn vẹn bài học, khi con đã hoàn toàn thăng vượt một trạng thái tâm thức nào đó, một tầng tâm thức nào đó thì con không cần băn khoăn về nó nữa. Con không cần nghĩ về nó nữa. Con tiếp tục chảy và bây giờ con tìm bài học kế tiếp hay việc phụng sự kế tiếp.

Cuộc sống có thể thành một tiến trình trong đó con thoát khỏi mọi phê phán cái này phải xảy ra hay không được xảy ra. Chẳng có cái phải, chẳng có cái không được. Chỉ có niềm vui biết mình đang tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống. Con liên tục tiến tới điểm đi vào hợp nhất với nguồn cội tâm linh của con – với Hiện diện TA LÀ của con – trong nghi lễ thăng thiên huy hoàng.

TA LÀ Hilarion, thày hài lòng con có mặt với thày ở tầng này của khóa nhập thất của thày. Thày mong giảng cho con bài học cuối cùng mà thày phải truyền cho con.

Làm sao ngưng phóng chiếu vào tâm mình

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 16/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Con sẽ gặp gỡ gì ở tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày? Như thày đã nói, con gặp gỡ nhu cầu nhìn vào những gì con phóng chiếu vào chính mình.

Chúng ta hãy bắy đầu với sự kiện là đa số những học viên trong khóa học này đã đi trên con đường tâm linh một thời gian rồi. Có lẽ con đã học nhiều giáo lý tâm linh, có thể đã gia nhập nhiều tổ chức và tu tập với nhiều đạo sư. Có lẽ con đã đọc nhiều quyển sách được các người tâm linh ưa thích. Kết quả của tiến trình này là gì? Kết quả là con đã nhận một số ý tưởng, một số niềm tin vi tế và con đã dùng chúng để tạo ra một hình ảnh trong tâm quy định thế nào là một đệ tử tâm linh, thế nào là đi theo con đường tâm linh. Nhiều người đã theo giáo lý chân sư thăng thiên từ mấy chục năm và họ đã tạo ra một hình ảnh thế nào là một đệ tử chân sư thăng thiên tốt.

12.1. Hình ảnh của con về một đệ tử tâm linh tốt

Một lần nữa, thày đã nói gì nhiều lần? Điều này không có gì sai trái vì con không thể làm gì khác ở một tầng nào đó của con đường tu. Vấn đề không phải là điều con đã làm là sai. Thày không ở đây để nói với con là điều đó sai. Điều thày muốn nói ở đây là bây giờ là lúc nhìn vào sự việc này và nhận ra là cần buông bỏ một số những ý tưởng đó. Khi con hoàn tất khóa tự điều ngự này, thày có thể bảo đảm với con là con sẽ phải buông bỏ tất cả mọi ý tưởng của con.

Vì sao thày lại có thể nói như vậy? Con có thể đã theo một giáo lý chân sư thăng thiên nói về những gì cần làm để đi con đường tâm linh. Vậy phải chăng điều tự nhiên là con dùng giáo lý này để xây dựng một hình ảnh thế nào là một đệ tử tâm linh? Đúng vậy, con yêu dấu, đó điều tự nhiên, nhưng con có bắt đầu thấy chăng là con đường tự điều ngự là vượt qua cái ta vỏ ngoài, cái ta tách biệt? Con có nhận ra chăng là để đạt được tự điều ngự, trọng tâm không phải là cưỡng ép cái ta vỏ ngoài hay cho nó những khả năng đặc biệt nào đó.

Mục đích của con đường tự điều ngự không phải là khiến cái ta vỏ ngoài được Thượng đế chấp nhận và cho phép nó vào nước trời. Đây là điều mà các sa nhân mong muốn và họ đã phóng chiếu ra ngoài qua các thày giả đang đầu thai ỡ cõi trần hay ở các cõi cao. Con sẽ không đạt được tự điều ngự bằng cách kiện toàn cái ta vỏ ngoài, cái ta tách biệt – vì không thể kiện toàn nó được.

Con sẽ đạt được tự điều ngự bằng cách sử dụng quyền năng sáng tạo của con mà không chịu ảnh hưởng của cái ta vỏ ngoài. Con thoát khỏi cái ta vỏ ngoài để con không phải là “người đang làm” nhưng Hiện diện TA LÀ của con là người đang làm thông qua cái Ta Biết và bốn thể phàm của con. Đây là một điểm vi tế vì đi lên tầng 96 không có nghĩa là con không có ước muốn gì hết. Nó nghĩa là ước muốn cá nhân của con thuận với những ước muốn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, những ước muốn mà chính con đã chọn lựa trước khi con đầu thai. Chúng cũng thuận với cá tính của Hiện diện TA LÀ của con, cá tính mà con đã góp phần xây dựng qua những kiếp trước của con.

12.2. Sư sáng tạo và cái ta tách biệt

Điều con cần nhận ra là vì con đã đi trên con đường tâm linh cho tới điểm này, con đã nhận vào một số ý tưởng và con đã dùng chúng để hình thành trong tâm hình ảnh một đệ tử tâm linh phải như thế nào. Trong đó có ý tưởng là con phải biểu hiện sự sáng tạo như thế nào khi con là một đệ tử tâm linh. Lý do con phải xem xét điều này rất giản dị. Ở mỗi giai đoạn của con đường tu, ở mỗi tầng trên con đường tu, con có (như thày đã nói) một số ảo tưởng. Không tránh được là khi con hình thành hình ảnh một người tâm linh phải như thế nào, hình ảnh đó sẽ kết nạp những ảo tưởng mà con còn có trong tâm, những ảo tưởng mà con chưa buông bỏ.

Một lần nữa, điều này không có gì sai trái, đó giản dị chỉ là cách con đường tu vận hành trên một hành tinh dày đặc như trái đất. Thày có nói với con là khi con nâng tâm thức về hướng tầng 144, ở mỗi tầng tâm thức con có một ảo tưởng mà con cần vượt qua. Có nghĩa là khi con tới tầng 96 và hoàn tất khóa học tự điều ngự, con vẫn chưa vượt qua tất cả mọi ảo tưởng. Nhưng ta có thể hy vọng là trong điều kiện lý tưởng, con đã tới điểm vượt qua được những ảo tưởng khiến con biểu hiện sự sáng tạo qua cái ta tách biệt.

Con có thể đang nghĩ điều này không quan trọng lắm ở tầng hiện nay của con, nhưng con sẽ càng ngày càng thấy rõ tầm quan trọng của nó khi con tiến xa hơn trong lớp học này. Những Thượng sư ở trên thày sẽ giải thích điều này và giúp con càng ngày càng giải thoát khỏi các hình ảnh vi tế mà con có. Thày không chờ đợi là, ở tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày, con buông bỏ được hết các hình ảnh mà con có về thế nào là một đệ tử tâm linh. Có một khía cạnh của hình ảnh này mà thày muốn con nhận ra một cách ý thức ở tầng này. Sự thực là con cần phải nhận ra nó để đạt được khái ngộ ở tầng này và đi lên được tầng tới.

12.3. Con phải như thế nào?

Bây giờ thày muốn con làm điều này với tâm ý thức khi con đang đọc hay nghe bài giảng này. Dĩ nhiên là thày đã giúp con trải qua điều này ở khóa nhập thất, nhưng thày đang tìm cách giúp con mang xuống tâm ý thức. Thày muốn con giữ tâm yên tĩnh, thư giãn tâm và hướng về bên trong, chú tâm vào luân xa tim. Sau đó, thày muốn con, trong lúc con đọc hay nghe bài giảng này, con không có một định kiến nào hết, nhưng thày muốn con nhận ra phản ứng đầu tiên khi thày nói câu tới. Phản ứng đầu tiên của con khi thày nói: “Như một đệ tử tâm linh tốt, con phải là….” Điều gì hiện ra trong tâm con? Có hai khía cạnh ở đây. Con có thể có một ý tưởng thực tiễn con phải như thế nào, nhưng điều thày thực sự muốn con nhận ra là khi thày nói: “Như một đệ tử tâm linh tốt, con phải là….” có một cái gì đó kéo con. Nói cách khác, có một khía cạnh của viễn quan của con về đệ tử tâm linh được dựa trên ý niệm con phải như thế nào đó.

Điều này không ngạc nhiên nếu con nhìn vào lịch sử của trái đất. Con hãy nhìn vào các tôn giáo trên trái đất và thấy bao nhiêu tôn giáo đã quy định những quy tắc vỏ ngòai về cách cư xử khi là thành viên của tôn giáo đó. Con có thể thấy là một số tôn giáo đã đem quan niệm này tới cực điểm và quy định hầu như mọi khía cạnh đời sống người theo đạo. Ý tưởng này xuất phát từ sa nhân và nó rất giản dị. Nó cho rằng nếu con sống theo một số quy luật trong cõi vật chất, con có thể hội đủ điều kiện để vào cõi tâm linh.

Con yêu dấu, một lần nữa lại có một điểm vi tế. Thày không nói là có một số quy luật sống là điều hoàn toàn sai. Con có thể thấy là Giê-su, chẳng hạn, trong bài Thuyết giảng trên Đỉnh núi và một số bài giảng khác, đã đưa ra một số quy luật về cách con người phải cư xử, phải đối xử với nhau. Chắc con cũng biết là các quy luật này chủ yếu nhắm vào những người ở dưới tầng tâm thức 48?

Khi con ở dưới tầng tâm thức 48, con rất tập trung vào cái ta tách biệt và con sẵn sàng dùng vũ lực để bảo vệ cái ta tách biệt và thỏa mãn những ham muốn của nó. Con sẵn sàng dùng vũ lực, tuy cường độ vũ lực mà mỗi người dùng có thể khác nhau. Dĩ nhiên, khi con dùng vũ lực thì con tạo nghiệp. Do đó, đối với những ở người ở trạng thái tâm thức này, điều cần thiết là quy định một số luật lệ để, nếu họ tuân theo các luật lệ này thì họ sẽ ít tạo nghiệp cho họ. Con cũng biết là sa nhân sẽ tìm cách hủ hóa bất cứ điều gì được công bố trên hành tinh này? Điều mà sa nhân đã làm là họ nói các quy luật vỏ ngoài không chỉ áp dụng cho người ở dưới tầng tâm thức 48, nhưng áp dụng cho mọi người và mọi người phải tuân theo chúng. Sau đó, sa nhân đã đưa ra ý tưởng là khi làm theo các quy luật vỏ ngoài đó (thường có nghĩa là tuân theo giới thượng lưu quyền lực gồm các sa nhân đang đầu thai, tỷ dụ như các thày tu giả hay một lãnh tụ thế quyền) thì con được bảo đảm sẽ đủ điều kiện vào thiên đàng. Lời gian dối chính là ở đó.

12.4. Con sẽ không lên thiên đàng

Lời gian đối này có nhiều tầng. Con yêu dấu, con sẽ không lên thiên đàng. Con hãy suy nghĩ câu nói này. Con sẽ không lên thiên đàng. Có hai lý do vì sao. Lý do thứ nhất là cái “ta” mà con hiện đang là không hội đủ điều kiện để thăng thiên. Khi con đi lên về hướng tầng 144 của tâm thức, thì cái “ta” mà con có hiện nay sẽ chết đi. Cái “ta” kế tiếp mà con mang vào cũng sẽ chết đi. Con sẽ tiếp tục cho phép từng cái “ta” một chết đi cho tới khi con đến tầng 144, và lúc đó con để cho tàn dư của cái ta tách biệt chết đi và con thăng thiên trong hợp nhất. Lý do thứ hai là con sẽ không bao giờ vào thiên đàng nếu con nghĩ con cần đi đến chỗ nào khác chỗ con đang ở.

Khi con đi về hướng tầng 144, không phải là con càng ngày càng đi gần tới thiên đàng. Đúng hơn là con dần dần vượt qua ảo tưởng cho rằng có khoảng cách giữa con và thiên đàng. Con tới điểm, ở tầng 144, con không đi lên thiên đàng mà đúng hơn là con chấp nhận con đang ở thiên đàng. Con có thấy chăng là sẽ có một điểm – mà điểm này là ngay bây giờ – con cần nhận ra điều này để có thể đạt được tự điều ngự?

Con cần nhận ra là ngay cả trên con đường tâm linh, con có thể dùng một giáo lý tâm linh để củng cố cái ta tách biệt. Khi con làm thế, sẽ tới một lúc điều này sẽ ngưng sự tiến bộ của con. Thày có nói trong bài giảng trước là thày có nhiều thí dụ những người đã theo giáo lý chân sư thăng thiên từ nhiều chục năm nhưng họ đã ngưng tiến triển, và đó là lý do. Họ không nhận ra nhu cầu nhìn vào hình ảnh mà họ đã áp đặt lên chính họ là một đệ tử chân sư thăng thiên phải như thế nào – một đệ tử chân sư thăng thiên tốt phải như thế nào.

Không nhất thiết là tất cả khía cạnh của hình ảnh này đều sai. Con cần nhận ra là con cần buông bỏ dần dần hình ảnh này cho tới khi con tới điểm không còn hình ảnh nào nữa quy định con phải như thế nào. Con đã vượt qua ý niệm một đệ tử tâm linh phải như thế nào đó.

Con yêu dấu, con có thấy chăng là dù con đang học một giáo lý tâm linh, giáo lý đó vẫn trình bày ý tưởng đến với con từ bên ngoài? Mục đích của giáo lý (nếu đó là một giáo lý tâm linh chân thật phát xuất từ chân sư thăng thiên) là đưa con tới điểm con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con. Có thể là để khiến con tới được chỗ đó, con cần có trong một thời gian hình ảnh một đệ tử tâm linh phải như thế nào, và con cố sống theo hình ảnh đó. Con có thấy chăng là khi con làm vậy, con vẫn đang củng cố một khía cạnh nào đó của cái ta vỏ ngoài, và cái ta đó ngăn chặn con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ?

12.5. Tuân theo một ý tưởng trong tâm

Thày muốn con bước lui lại và xem xét con đang làm gì trên mặt tâm lý khi con có ý tưởng một đệ tử tâm linh phải như thế nào. Cách vận hành này chính là bản chất của cái ta vỏ ngoài. Nó là (như thày đã giảng trong bài trước) nỗ lực khiến vũ trụ tuân theo một ý tưởng trong tâm, tâm vỏ ngoài, cái ta tách biệt. Thay vì tìm cách khiến vũ trụ tuân theo, con đang tìm cách khiến chính con tuân theo.

Con đang muốn bắt cái ta nào phải tuân phục? Một phần đó là cái ta vỏ ngoài. Dĩ nhiên là cái ta vỏ ngoài chấp nhận hình ảnh thế nào là một đệ tử tâm linh toàn hảo. Cái ta vỏ ngoài thường rất sốt sắng sống theo hình ảnh đó vì nó tin rằng khi đó, nó sẽ được các chân sư thăng thiên chấp nhận và cho phép nó vào cõi thăng thiên.

Nhưng cái ta khác mà con cũng muốn ép phải tuân theo hình ảnh đó là cái Ta Biết, mà các thày đã nhiều lần nói gì? Cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết. Cái Ta Biết không phải là cái ta vỏ ngoài, nó chưa bao giờ là và nó sẽ không bao giờ là cái ta vỏ ngoài. Cái Ta Biết không xuống thế gian với cái ta vỏ ngoài. Nó cần cái ta vỏ ngoài để biểu hiện trong thế giới này, nhưng con không cần cái ta vỏ ngoài để thăng thiên, để trở về cõi tâm linh. Thực ra con cần buông bỏ cái ta vỏ ngoài để trở về cõi tâm linh.

Con có thấy chăng là cái ta vỏ ngoài chỉ có thể là một chướng ngại cho sự tiến bộ tâm linh của con? Trong điều kiện lý tưởng, cái Ta Biết là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, không hơn không kém. Do đó, khi con cưỡng ép cái Ta Biết phải tuân theo một hình ảnh do cái ta vỏ ngoài dựng lên thì con không phải là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con.

Con yêu dấu, thủ đoạn đánh lừa của sa nhân là khiến con tin rằng con không thể là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con. Con không được phép là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ, là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ là sai, biểu hiện ánh sáng tâm linh là sai, biểu lộ khả năng sáng tạo là sai bởi vì con phải luôn luôn tuân theo quy luật. Thủ đoạn đánh lừa của sa nhân là khiến con tin rằng thay vì con sáng tạo và biểu lộ sự sáng tạo của Hiện diện TA LÀ, con phải bắt dòng sáng tạo chảy qua phin lọc của cái ta vỏ ngoài. Cái phin lọc này, dĩ nhiên, được tạo ra trên căn bản các điều kiện trong cõi vật chất. Nếu con cho phép dòng sáng tạo chảy qua phin lọc này, sẽ có một số điều kiện trong cõi vật chất mà con không bao giờ vượt qua được. Con sẽ không bao giờ dám biểu lộ bất cứ điều gì thách thức hay thăng vượt những hạn chế này của cõi vật chất.

12.6. Vượt quá những gì con người cho là khả thi

Con nghĩ vì sao Giê-su, hai ngàn năm trước đây, phải biểu diễn một số phép lạ? Những việc này được chính thức gọi là phép lạ, nhưng chúng không phải là phép lạ. Giê-su chỉ giản dị cho phép Hiện diện TA LÀ của thày hành động qua thày; thày là cánh cửa mở. Hiện điện TA LÀ có thể làm bất cứ điều gì nó muốn trong thế giới vật chất, nói cách khác nó có thể đi quá điều mà thày Serapis Bey đã gọi là định luật thiên nhiên phụ thuộc. Định luật thiên nhiên phụ thuộc không giới hạn được Hiện diện TA LÀ, và đây là điều Giê-su muốn chứng minh khi thày biểu diễn những việc được gọi là phép lạ.

Thày làm những việc phá tan những gì con người cho là khả thi. Bây giờ thì chúng ta sống vào một thời đại khác và do đó không cần làm những loại phép lạ đó nữa. Bây giờ là lúc giúp con người thấy được quyền năng nội tại của họ, và điều này có ý nghĩa khác hẳn trong thời đại này. Điều thày muốn nói là sa nhân đã quy định các định luật thiên nhiên phụ thuộc và họ đã làm vậy vì hai lý do. Một phần là để cho họ một số quyền lực khi họ đạt được điều mà thày gọi là “điều ngự bên ngoài” khi họ chế ngự được định luật thiên nhiên phụ thuộc. Họ cũng đặt ra những định luật này vì chúng giới hạn tất cả các người khác và do đó cho phép sa nhân khống chế được người khác.

Khi con nhìn kỹ hơn, con sẽ thấy là chưa bao giờ có môt sa nhân đã chứng minh quyền năng lớn trong thế giới vật chất mà không bóc lột người khác. Thày có nói về các nhà tỷ phú đã có khả năng biểu hiện đúng những điều kiện bên ngoài mà họ muốn. Họ cũng làm vậy vì họ khiến người khác làm đa số công việc hộ họ, hoặc bằng cách ép buộc hoặc bằng cách mua dịch vụ. Họ không biểu hiện những điều kiện này do quyền năng của họ nhưng bằng cách điều khiển người khác. Các định luật thiên nhiên phụ thuộc được đặt ra một phần để khiến con người tin rằng họ không có quyền năng quá một mức nào đó. Con có thấy chăng là nếu con thấy con phải sống theo một hình ảnh đệ tử tâm linh nào đó, thì con không thể là cánh cửa hoàn toàn mở cho quyền năng sáng tạo của Hiện diện TA LÀ của con?

Con yêu dấu, vị sứ giả này đã theo một giáo lý chân sư thăng thiên trong nhiều năm. Đó là một giáo lý chân chính. Lúc đó nhóm đó là một tổ chức sinh động và ông đã được hưởng nhiều lợi lạc. Nếu ông hoàn toàn chấp nhận hình ảnh đệ tử chân sư thăng thiên do tổ chức đó đề ra, thì ông đã không bao giờ dám trở thành một sứ giả của chân sư thăng thiên. Ông sẽ tiếp tục là một đệ tử, và nếu vậy ông đã không làm đúng theo những gì trong Sứ vụ Thiêng liêng của ông. Con có Sứ vụ Thiêng liêng của con, và điều duy nhất mà thày muốn là con sẽ không cho phép hình ảnh của một đệ tử tâm linh tốt ngăn cản sự hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con.

12.7. Sứ vụ Thiêng liêng của con quan trọng như thế nào?

Khi con tới điểm này, dĩ nhiên là con cần quyết định một cách ý thức điều gì quan trọng nhất cho con. Thày biết là hiện nay có lẽ con không thấy rõ Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con có thể thấy rõ điều con nghĩ là một đệ tử tâm linh tốt. Dĩ nhiên, chọn một viễn kiến rõ dễ hơn là chọn một viễn kiến không rõ. Tuy nhiên, bản chất của con đường tâm linh là con sẵn sàng bước đi bước kế tiếp ngay cả khi con không thấy rõ nó dẫn con đi đâu. Thày muốn hỏi con xem xét điều gì quan trọng nhất cho con: Hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con (mà con và các chân sư thăng thiên đã thiết lập trước khi con đầu thai), hay là tiếp tục sống theo hình ảnh hiện nay của con về người đệ tử tâm linh tốt? Con yêu dấu, con thấy chăng, con không thể làm cả hai việc.

Con có thể nghĩ là nếu con có một viễn kiến chính đáng về người đệ tử tâm linh tốt, thì nếu con sống theo hình ảnh đó, thì một ngày nào đó con sẽ, như một phép lạ, hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình, nhưng điều này không đúng. Con không thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con nếu con giữ chặt hình ảnh hiện nay về cách cư xử của con. Con không thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con bằng cách ép buộc mình phải sống theo một hình ảnh được quy định trong thế giới này. Con cần tới điểm con hoàn toàn cởi mở để Hiện diện TA LÀ biểu hiện điều nó muốn qua con.

Con yêu dấu, con hãy để thày trở ngược lại điều thày đã nói ở trên, là đằng sau phản ứng nghĩ rằng, như một đệ tử tâm linh, con phải cư xử cách nào đó, là một cơ chế khiến con cảm thấy con cần phải sống theo một hình ảnh nào đó. Điều thày muốn con thấy ở đây là mỗi khi con có cảm giác con phải như thế này, con phải làm điều này, con phải hành xử như thế này, thì điều đó tới từ cái ta tách biệt, cái ta vỏ ngoài, tự ngã, kẻ đứng trên ngưỡng cửa. Nó là lực hút, mở con ra với sa nhân.

Thày biết rõ là có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên cho rằng các thày, chân sư thăng thiên, muốn áp đặt điều gì lên con, đòi hỏi con làm điều gì, hầu như đe dọa con phải tuân theo giáo lý của các thày. Thày đã nói gì trong suốt các bài giảng trước về phin lọc nhận thức? Con yêu dấu, các thày là chân sư thăng thiên, các thày là như các thày là. Các thày biết là khi một đệ tử tìm ra giáo lý của các thày, người đệ tử đó có một phin lọc nhận thức và do đó không thể thấy các thày như các thày là. Do đó, các thày cho phép đệ tử dần dần rũ bỏ phin lọc nhận thức để bắt dầu thấy các thày như các thày là.

Ở điểm này của khóa nhập thất của thày, con cần nhận ra là các thày không ép buộc con làm bất cứ điều gì. Ý tưởng các thày muốn ép buộc con là một ý tưởng đến từ sa nhân. Nó được đưa ra bởi nhiều tôn giáo và triết lý và ý tưởng thuộc nhiều phong trào tâm linh và Thời đại Mới.

12.8. Vượt qua một nền văn hóa dựa trên sợ hãi

Các thày đã thấy trong nhiều tổ chức chân sư thăng thiên trước đây là nhiều người đã đến với hình ảnh dựa trên sợ hãi về thày tâm linh. Trong một số tổ chức, họ đã tạo ra một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, đưa ra quan niệm là các thày rất trọng kỷ luật, rất đòi hỏi, ảnh hưởng con bằng sợ hãi, nghi ngờ, hổ thẹn hay mặc cảm tội lỗi. Có những tổ chức được các thày bảo trợ và đã đem lại nhiều bài truyền đọc chân chính, nhưng tuy nhiên đệ tử trong các tổ chức này đã xây dựng một nền văn hóa dựa trên sợ hãi và mặc cảm tội lỗi. Con có biết hậu quả tai hại nhất của văn hóa này là gì chăng? Nó khiến những người chịu ảnh hưởng văn hóa đó nghi ngờ những nhắc nhở trực giác đến từ Hiện diện TA LÀ của họ. Họ tìm cách tuân theo văn hóa vỏ ngoài thay vì theo trực giác của họ.

Khi con khiến một người khác nghi ngờ trực giác của họ, thì đó cũng là cách nhanh nhất để con tạo nghiệp. Một lần nữa, thày không muốn gây sợ hãi khi thày nói vậy. Điều thày muốn trình bày là con có thể có một sứ giả chân chính đem lại những bài truyền đọc chân chính và đã tạo ra một tổ chức được các thày bảo trợ, nhưng những người trong tổ chức đó vẫn xây dựng được một nền văn hóa dựa trên sợ hãi. Một lần nữa, điều này không sai trái một cách vĩ đại vì việc mỗi người tới với phin lọc nhận thức của họ là một điều dễ hiểu. Lý do là sa nhân đã phóng chiếu ý tưởng này lên tâm thức đại chúng suốt một quá trình lịch sử dài. Dĩ nhiên là có một lý do vì sao các thày chỉ có thể bảo trợ trong một thời gian một tổ chức có văn hóa dựa trên sợ hãi và không chịu buông bỏ nó. Đó là lý do vì sao ở điểm này thày tìm cách giúp con nhận ra là đã đến lúc con buông bỏ hình ảnh dựa trên sợ hãi về cách con phải cư xử như một đệ tử tâm linh.

12.9. Tiếp nối so với sáng tạo

Con yêu dấu, điều thày nói ở trên dẫn ta tới một điểm, một đề tài rất vi tế. Ý tưởng đằng sau quan niệm định luật thiên nhiên phụ thuộc là chúng đem lại sự tiếp nối, vì chúng không thay đổi theo thời gian. Mơ ước của sa nhân là tạo ra một vũ trụ máy móc. Con có hiểu chăng điều họ thực sự muốn làm, dù ngay cả đa số họ cũng không ý thức điều này? Điều họ muốn làm là chế ra một con đường máy móc đưa tới cứu rỗi để họ có thể vào cõi thăng thiên mà không phải buông bỏ mọi tàn dư của cái ta tách biệt, mọi tàn dư của tâm thức sa nhân. Họ muốn ăn gian hay xông vào thiên đàng.

Dĩ nhiên là điều này không thể làm được. Tuy nhiên, để Luật Tự quyết có thể tự trải bày, các thày đã cho phép một số nhỏ hành tinh có độ dày đặc vật chất khiến gây ra cảm tưởng là có một số định luật thiên nhiên phụ thuộc không thay đổi theo thời gian. Các thày đã cho phép điều này vì như vậy không những sa nhân mà các sinh thể khác cũng được cơ hội sống hết ước muốn kiểm soát cho tới khi họ tới điểm nhận ra đây là một sự phù phiếm, hoặc họ giản dị chán ngán.

Có nhiều đệ tử tâm linh đã dùng một giáo lý tâm linh chân chính để củng cố niềm tin vi tế cho rằng con cần theo một số bước máy móc để hội đủ điều kiện thăng thiên (hoặc đạt được giác ngộ hoặc bất cứ mục tiêu nào khác). Con có thể nói là tất cả giáo lý mà các thày đã trao truyền có thể bị dùng cho mục tiêu này. Các thày đã cho con khái niệm 144 tầng tâm thức. Các thày đã cho con một khóa học có cấu trúc về tự điều ngự dẫn con đi từng bước một. Con có thể dùng các điểm này để củng cố tư duy máy móc khiến con nghĩ rằng con chỉ cần thực hành một số bước. Nhưng có phải chăng là các thày đã nói nhiều lần (nếu con thực sự chú ý nghe) là khóa học này không phải là một khóa học máy móc?

Dĩ nhiên là con có thể theo khóa học này một cách máy móc. Con có thể bắt đầu bằng quyển sách thứ nhất, đọc bài truyền đọc của bước thứ nhất, đi từ tầng tâm thức 48 lên tầng 49. Con có thể đọc bài thỉnh của bước đó mỗi ngày trong 9 hay 33 ngày hay bao nhiêu ngày mà con chọn. Nhưng điều này không có nghĩa là con sẽ tự động đi từ một tầng lên tầng kế tiếp.

Các thày lúc nào cũng nói là khóa học là một khóa học sáng tạo. Nó đòi hỏi con phải nhận ra một hiểu biết mới và nó đòi hỏi con phải lấy quyết định. Điều tối thiểu là con phải chấp nhận hiểu biết mới và qua đó buông bỏ ảo tưởng đã bị hiểu biết đó thay thế. Đây không phải là một tiến trình máy móc.

12.10. Mơ ước của sa nhân

Con đường vươn lên qua 144 tầng tâm thức đòi hỏi con dần dần buông bỏ những khía cạnh của cái ta tách biệt. Điều sa nhân mong muốn là được vào thiên đàng mà không cần buông bỏ cái ta tách biệt. Con yêu dấu, điều họ mơ ước là nếu họ gian lận vào được thiên đàng, thì họ đột nhiên có được tất cả quyền năng và do đó có thể biểu hiện quyền năng đó qua cái ta tách biệt và hoàn toàn làm chủ thế giới.

Dĩ nhiên là điều này không thể nào xảy ra vì khi con còn bất cứ ý định ép buộc người khác hay ép buộc thế giới, thì con không thể thăng thiên, con yêu dấu. Con cần phải hoàn toàn bất hung hãn, bất bạo động để có thể bước vào cõi tâm linh. Sa nhân tìm cầu điều không thể có, và ở tầng này con cần nhận ra là điều này không thể xảy ra.

Con cần tới điểm (con cần làm bất cứ điều gì con làm được với tâm ý thức để tới điểm này) con thực sự thấy điều này một cách ý thức và cảm thấy trong con có sự buông bỏ. Hiểu bằng trí năng và quyết định buông bỏ ảo tưởng bằng tâm đường thẳng và lý trí, không đủ. Con cần làm việc, nghiên cứu bài giảng này, nghiên cứu các bài giảng trước của thày, đọc bài thỉnh, nhìn mọi khía cạnh, xin thày trợ giúp, để con cảm thấy đây không phải là một quyết định vỏ ngoài. Đây không phải là một quyết định của tâm vỏ ngoài; nó tự phát từ bên trong tâm con. Có một quyết định, nhưng không phải một quyết định của ý chí, nó là một quyết định tự phát. Nó không phải là một quyết định dựa trên sợ hãi; nó là một quyết định dựa trên tình thương. Con thấy là con không còn muốn đi theo con đường giả này, con không còn muốn sống hết cuộc đời mình dựa trên ý tưởng vỏ ngoài là con phải như thế nào. Con muốn con là người con là ở mỗi lúc.

12.11. Sự sống còn của cái ta vỏ ngoài

Con yêu dấu, con thấy chăng là cái ta vỏ ngoài khẩn thiết muốn sống còn. Nó biết nó sẽ chết, nhưng nó muốn tạo ra cảm tưởng là nó có thể bất tử. Nó nghĩ để trở nên bất tử thì nó phải giữ nó bất biến với thời gian. Con có thấy chăng đây là mơ ước của sa nhân và mơ ước đằng sau các định luật thiên nhiên phụ thuộc? Họ muốn chế ra cái gì trường tồn, cái gì bất biến với thời gian. Con yêu dấu, là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ có nghĩa gì? Có nghĩa chăng là con luôn luôn như cũ? Không phải vậy đâu, điều này có nghĩa là con không bao giờ như cũ, vì bất kỳ Hiện diện TA LÀ muốn biểu hiện điều gì xuyên qua con trên trái đất, thì con cho phép điều đó xảy ra. Khi Giê-su đi trên trái đất 2,000 năm trước đây, thày không đi và suy nghĩ với tâm vỏ ngoài: “Ta là Ki-tô Hằng sống, ta phải xử sự đúng theo tiêu chuẩn này khi làm bất cứ điều gì.” Khi thày gặp một hoàn cảnh nào, thày không suy nghĩ với tâm vỏ ngoài: “Ta phải hành xử như thế nào trong hoàn cảnh này?” và sau đó ép buộc mình phải hành xử như vậy.

Không đâu, thày ở trong hoàn cảnh. Tâm vỏ ngoài của thày bị vô hiệu hóa, bất cứ tàn dư nào của tâm vỏ ngoài mà thày có bị vô hiệu hóa. Điều thày làm trước hoàn cảnh bên ngoài đó là thày đi vào nội tâm và một cách giản dị, trở nên hoàn toàn trung dung, hoàn toàn cởi mở. Lúc đó, Hiện diện sẽ hành động xuyên qua thày một cách tự do. Con có thể thấy là Giê-su (nếu con có thể đi cùng với thày) có thể gặp một người bị tật nguyền, chẳng hạn như có một cánh tay bị teo lại, và Giê-su chữa lành cho người đó. Hai tuần sau, thày lại gặp một người khác có tay bị teo lại, mà nếu con áp dụng tâm thức sa ngã thì con sẽ nói: “Giê-su sẽ chữa lành người này như thày vừa làm với người kia.”

12.12. Mỗi hoàn cảnh đều phức tạp

Điều con không thể thấy với tâm vỏ ngoài là tất cả sự phức tạp của một hoàn cảnh nào đó. Hiện diện TA LÀ của Giê-su biết hoàn cảnh nghiệp quả phức tạp của người đầu với cánh tay bị teo. Do đó, nó có thể thấy việc chữa lành cánh tay đó sẽ giúp hành tinh và người đó tiến triển. Cũng như vậy, Hiện diện TA LÀ có thể thấy là trong trường hợp người thứ nhì, chữa lành cánh tay không phải là điều hữu dụng.

Nếu con nhìn vào những hoàn cảnh này và phân tích mọi khía cạnh, con có thể lượng định, phân tích, giống như những gì khoa học gia có thể làm, để giải thích vì sao người đầu được chữa lành và người sau thì không. Con yêu dấu, vấn đề là lời giải thích này rất phức tạp và sẽ mất rất nhiều thì giờ để tìm ra nó. Con có thấy điều thày muốn nói ở đây là gì chăng?

Con sống trong đời và con gặp nhiều hoàn cảnh khác nhau. Giả thử con gặp một hoàn cảnh và con muốn dùng tâm vỏ ngoài để biết rõ con phải hành xử ra sao và vì sao lại làm vậy. Giả thử con được một lời giải thích viết thành một quyển sách dày 1500 trang, do đó con cần nhiều ngày để đọc xong quyển sách đó. Dĩ nhiên là khi con đọc xong quyển sách và hiểu bằng tâm vỏ ngoài là con phải hành xử ra sao, thì hoàn cảnh đã thay đổi và lúc đó đã quá trễ để hành động.

Nếu con muốn nhìn một cách cùng cực hơn, giả thử con đang đi trong rừng rậm và con nghe thấy tiếng động xào xạc dưới bụi cây. Con muốn hiểu tình hình với tâm vỏ ngoài và con cần năm phút để hiểu tình hình. Lúc đó, con sư tử đã vồ lấy con và ăn thịt con.

Con có thể thấy cách hành xử trên không đúng theo tinh thần của một sinh thể Ki-tô. Là một sinh thể Ki-tô không có nghĩa là con có một lời giải thích bằng tâm vỏ ngoài phải hành xử như thế nào trong mọi hoàn cảnh. Không có nghĩa là con biết hết mọi chuyện, mọi khía cạnh của một hoàn cảnh. Là một sinh thể Ki-tô có nghĩa là con luôn luôn hòa điệu với Hiện diện TA LÀ và con tuân phục xung lực đến từ Hiện diện TA LÀ trong mỗi cảnh huống.

Con không tìm cách ép buộc con phải hành động y như những gì con đã làm trong quá khứ trong cùng cảnh huống. Con không áp đặt bất cứ cái phải là nào lên trên một hoàn cảnh. Con không tìm cách hành động một cách bất biến. Con tìm cách hành động tự phát trong mọi tình huống. Đó là ý nghĩa của quả vị Ki-tô.

12.13. Tự phát mà không phân tích

Có một số học viên đã xây dựng ý tưởng rằng con đường tâm linh có nghĩa là càng ngày càng biết và hiểu nhiều hơn với tâm vỏ ngoài, trí đường thẳng, trí năng. Họ nghĩ rằng rốt cuộc họ sẽ tới điểm mà họ biết mọi thứ và có thể giải thích mọi thứ. Do đó, trong mọi cảnh huống, họ có thể biết điều gì đúng để làm.

Sau đó, con cũng có cùng những học viên đó, sau khi họ hành động trong hoàn cảnh nào đó, họ phân tích hành động của mình một cách chi tiết tỉ mỉ và hay “dằn vặt mình” vì kết quả không bao giờ tốt đủ. Con yêu dấu, con thấy chăng là khi con hành xử dựa trên ý tưởng con phải làm như thế nào đó, điều gì sẽ tất nhiên xảy ra? Sau khi con đã hành động và đối mặt với kết quả của việc mình làm, con sẽ phải phán xét mình và kết quả của việc mình làm.

Hành động của con có đạt được yêu cầu của hình ảnh toàn hảo mà con phải noi theo? Có bao nhiều lần hành động của con đạt được yêu cầu của hình ảnh toàn hảo? Con bước vào tiến trình phải đối phó với nỗi đau đã không làm đúng theo hình ảnh toàn hảo, phải giải thích điều này một cách nào đó, phải phân tích nó, phải coi nó như một cơ hội học hỏi và ép buộc mình phải học từ đó.

Chắc con cũng hiểu là khi con tiến tới quả vị Ki-tô, cách vận hành này sẽ tan biến đi? Con không phân tích vì con biết con đã hòa điệu với Hiện diện. Đây là điều Hiện diện muốn làm trong hoàn cảnh đó và dù hậu quả là gì chăng nữa, đây là điều tốt nhất có thể xảy ra trong hoàn cảnh đó. Điều này không có nghĩa là con, như một sinh thể Ki-tô, lúc nào cũng làm được điều mang lại kết quả lý tưởng hay toàn hảo. Nếu con nhìn vào đời của Giê-su, con sẽ thấy là có lúc thày đã không đạt được kết quả tối hảo trong một cảnh huống. lý do là vì những người khác liên hệ đến cảnh huống đó đã không phản ứng một cách cao nhất. Giê-su đã làm điều thày có thể làm bằng cách hòa điều với Hiện diện TA LÀ của thày. Thày cho những người khác cơ hội thăng vượt trình độ tâm thức của họ và vươn lên cao hơn, nhưng họ chọn không lấy cơ hội đó và do đó kết quả kém hơn lý tưởng. Tuy nhiên, Giê-su không quay vào bên trong, phân tích và dằn vặt mình về chuyện đó vì thày biết một cảnh huống không đứng yên với thời gian. Cuộc sống là một tiến trình luôn chuyển động. Một sinh thể Ki-tô không có mục tiêu tạo ra một kết quả vỏ ngoài nào đó và duy trì nó với thời gian.

12.14. Quả vị Ki-tô và sự trường tồn

Một sinh thể Ki-tô không đi tìm sự trường tồn, bất biến, liên tục. Một sinh thể Ki-tô luôn luôn tìm cách đẩy cho tiến trình sự sống tuôn chảy. Vị ấy biết sự sống là một dòng sông luôn tuôn chảy. Khi con có một tình cảnh, bất kể kết quả là gì, dòng sông sẽ vẫn tuôn chảy. Điều quan trọng không phải là phân tích xem kết quả có phải như vậy hay không nên như vậy. Điều quan trọng là nói: “Bây giờ kết quả là thế này, bước kế tiếp là gì đây? Làm sao chúng ta có thể đẩy tình cảnh tiến tới để chúng ta tiếp tục tiến lên với tiến trình sự sống?”

Sa nhân lúc nào cũng làm việc để đạt kết quả mà họ hình dung. Một sinh thể Ki-tô không đi tìm một kết quả cuối cùng, có thể ngoại trừ sự thăng thiên của một hành tinh hay sự thăng thiên của mọi người trên hành tinh. Đúng thực là một sinh thể Ki-tô nhìn cuộc sống như tuôn chảy theo dòng sông, giúp mọi người thăng vượt hoàn cảnh hiện nay của họ, trạng thái tâm thức hiện nay của họ và tiếp tục tiến triển.

Con có thấy chăng là điều sa nhân đã làm với định luật thiên nhiên phụ thuộc là tìm cách ngưng không để Dòng Sông sự Sống tuôn chảy? Họ đã tìm cách tạo ra một tình trạng trong đó họ có thể duy trì một trạng thái nào đó lâu dài. Thí dụ, con thấy là họ đã mơ ước tạo ra một nền văn minh, như Đế quốc La mã, hay Liên bang Sô viết, hay thể chế tư bản, và có thể duy trì một trạng thái mãi mãi. Con yêu dấu, đó lúc nào cũng là một trạng thái trong đó sa nhân đóng vai trò lãnh đạo và tất cả mọi người làm nô lệ. Họ nắm quyền kiểm soát, họ có địa vị quyền lực và đặc quyền. Bất biến là điều sa nhân mong muốn.

Thăng vượt là điều các chân sư thăng thiên mong muốn. Thăng vượt liên tục là điều các thày mong muốn. Con yêu dấu, con thấy chăng là ở điểm này của con đường tu của con, thày muốn con xem xét: Hình ảnh con có về chính mình nói gì về mục tiêu mà con muốn đạt được? Con có viễn kiến con đường tâm linh sẽ dẫn con tới đâu? Con đang làm việc để đạt được mục tiêu tối hậu nào?

Con có chăng một hình ảnh cố định trong tâm về mục tiêu mà con muốn đạt được khi con hoàn tất khóa học tự điều ngự này và đạt được tầng tâm thức 96? Con có chăng một hình ảnh cố định thế nào là một sinh thể Ki-tô? Con có chăng một hình ảnh cố định thế nào là một chân sư thăng thiên? Nếu thế thì thày muốn con xem xét một cách ý thức là những hình ảnh đó không phù hợp với thực tại vì đường tu là sự thăng vượt liên tục. Con yêu dấu, nó không bao giờ chấm dứt.

12.15. Bất toại nguyện với chính mình

Nếu con đang cố gắng đạt một mục tiêu cố định, thày có thể bảo đảm với con là con sẽ không bao giờ tới đó và điều này có nghĩa là con sẽ mãi mãi bất toại nguyện với chính mình. Thày không muốn con bất toại nguyện với chính mình và sự tiến triển của mình. Thày muốn con cảm thấy và chấp nhận là con đang ở đúng chỗ con cần ở vào lúc này. Thày muốn con cảm thấy hoàn toàn bình an biết rằng con đang ở đúng chỗ con cần ở. Con cũng sẽ tiến lên tầng kế tiếp và con sẽ hài lòng ở nơi đó. Vì sao con phải suốt đời bất toại nguyện với chính mình?

Con yêu dấu, con có thấy chăng là nhiều đệ tử tâm linh hài lòng hơn, an bình hơn với cuộc đời mình trước khi tìm ra con đường tâm linh? Từ khi con tìm ra con đường tu, con có một mục tiêu mà con cảm thấy phải cố gắng đạt được. Con biết là con chưa tới đó và do đó con cảm thấy có khoảng cách, có sự trống vắng. Thày biết là lúc này con chưa sẵn sàng vượt qua sự trống vắng đó. Thày biết là con đã sẵn sàng để có một ý tưởng gieo vào trong tâm là sẽ có một lúc con sẽ sẵn sàng đối mặt nó và vượt qua nó. Điều này không cần thiết, nhưng nó là sản phẩm không thể tránh của ý tưởng rằng con phải là cái gì đó.

Con yêu dấu, con có thấy chăng hình ảnh mà con đang áp đặt lên chính mình ngay lúc này, quy định thế nào là một đệ tử tâm linh? Con có thấy nó chăng? Nếu con không thấy, con hãy xin thày giúp, và thày sẽ giúp con trong lúc con tiếp tục học bài này. Khi con thấy nó, con có thể nào buông bỏ nó và cho phép mình hơn là hình ảnh đó?

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Bây giờ thày hơn là khi thày bắt đầu bài truyền đọc này. Con có hơn là khi con bắt đầu đọc hay nghe nó chăng?

Làm sao ngưng phóng chiếu ra ngoài

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 15/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Con gặp gì khi con tới tầng thứ tư của khóa nhập thất của thày? Con gặp nhu cầu đối phó với một ảo tưởng vi tế khác, một ảo tưởng rất khó vượt qua, một khai ngộ khó khăn khác. Thày có nói là con có thể đã theo con đường tâm linh trong nhiều năm, ngay cả học giáo lý chân sư thăng thiên trong nhiều năm, nhưng vẫn còn một số ảo tưởng về điểm cốt yếu của con đường tâm linh.

Con yêu dấu, con có thể có hai cách nhìn. Dĩ nhiên con biết câu chuyện cũ về ly nước nửa đầy hay nửa vơi. Cũng giống vậy, một số đệ tử tâm linh, khi nhận ra là họ đã có một ảo tưởng hay đã làm việc gì không được cao cả nhất, có khuynh hướng nhìn khía cạnh tiêu cực và thấy là họ đã làm gì sai. Có nhiều cảm xúc liên hệ, như sợ hãi, hổ thẹn, hay tội lỗi.

Một số đệ tử khác nhìn sự việc một cách tích cực hơn và nhận ra mình đã nắm chặt một ảo tưởng là một điều tốt. Vì như vậy họ được giải thoát để lên tầng cao hơn của đường tu. Thái độ này, dĩ nhiên, là điều thày muốn con đạt được khi con tới tầng này của khóa nhập thất của thày.

10.1. Một ảo tưởng ở mỗi bước trong số 144 bước

Nếu con lùi lại và nhìn vào con đường tâm linh, thì con thấy là các thày có nói là con cần đi qua 144 tầng trước khi con sẵn sàng thăng thiên. Các thày cũng có nói là ở mỗi tầng có một trạng thái tâm thức tương ứng với tầng đó. Gắn liền với trạng thái tâm thức ở mỗi tầng là một ảo tưởng nào đó. Ảo tưởng này không nhất thiết là một ảo tưởng tiêu cực.

Khi con ở dưới tầng tâm thức 48, con nắm chặt ảo tưởng cho rằng con là một sinh thể tách biệt và con sẽ không bị hậu quả nếu con cư xử xấu với người khác hoặc con có quyền cư xử xấu với người khác. Khi con lên trên tầng 48, con có một loại ảo tưởng khác nhằm giữ con ở một trình độ nào đó. Những ảo tưởng này không nhất thiết hung hãn hay phá hoại, do đó không có lý do cảm thấy tiêu cực vì có chúng.

Con có thể nói là ở tầng tâm thức hiện nay của con, việc con không nhìn ra ảo tưởng tương ứng với tầng tâm thức đó là điều không thể tránh được. Nếu con đã nhìn ra ảo tưởng đó, con đã thăng lên tầng kế tiếp rồi. Con có thể nhìn con đường tâm linh như một tiến trình qua đó, từng bước một, con nhận ra ảo tưởng nào đó, và do đó buông bỏ và vượt qua nó.

Có thể nói con đường tu là như thế, và do đó con có thể tới điểm mà con không xem chuyện này là tiêu cực. Con không ngần ngại nhận ra ảo tưởng. Con cởi mở; con sẵn sàng nhận ra ảo tưởng. Trên thực tế, con tìm xem ảo tưởng kế tiếp là gì: “Ở bước này, ảo tưởng mà con cần vượt qua là gì?” Rồi khi con bắt đầu thấy nó, con vui mừng là bây giờ con thấy được nó và chuyện tu gần giống như một trò chơi thể thao.

Con có những trò chơi vi tính trong đó con đi trong đường hầm và có một số quái vật nhảy ra và con phải bắn giết chúng. Con có thể nhìn con đường tu một cách tương tự: con đi trên đường tu và ở mỗi tầng có một ảo tưởng nhảy ra trước mặt con, đó là cơ hội để con thấy nó, nhìn kỹ nó, thấy bản chất thật của nó, và sau đó buông bỏ nó và vượt qua nó.

10.2. Khiến con đường tu dễ dãi hơn cho con

Nếu con có thái độ này, thì phần còn lại của khóa học này và của con đường tu cho tới khi con sẵn sàng thăng thiên sẽ dễ dàng hơn cho con rất nhiều. Con không phải gánh chịu phản ứng không tránh được của tự ngã (hay là kẻ đứng trên ngưỡng cửa) muốn con dính mắc vào ảo tưởng ở mỗi tầng.

Con yêu dấu, con hãy tưởng tượng con duyệt qua những ảo tưởng từ tầng hiện nay của con đến tầng thứ 144 và ở mỗi bước con phải đánh nhau với tự ngã và kẻ đứng trên ngưỡng cửa. Tại sao con lại phải làm vậy khi con có thể khiến mọi chuyện dễ dãi cho con hơn bằng cách đứng lui lại và lấy thái độ coi đường tu cốt yếu là để thấy và vượt qua từng ảo tưởng một? Giống như chơi một trò chơi vi tính tương đối vô hại trong đó con tuần tự tiến lên qua một số tầng, thì trên con đường tu con có thể có cảm giác tương tự giống như khi con trong môi trường ảo của trò chơi vi tính. Thày không nói là những gì con người làm trên trái đất không có hậu quả hệ trọng hơn một trò chơi vi tính. Nhưng con có thể tránh đi vào phản ứng tiêu cực. Thày hy vọng là con tới điểm con không còn xem các bước sáng ngộ trên con đường tu hệ trọng đến độ mỗi bước trở thành một gánh nặng lớn và một bi kịch vĩ đại đối với con.

10.3. Chân lý là gì?

Ở tầng này của khóa nhập thất của thày, con phải đối phó với ảo tưởng nào? Có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên (trong đó có người đã học giáo lý của các thày từ nhiều chục năm) đã có niềm tin – và đây là điều dễ hiểu – là giáo lý các thày dạy cho con chân lý; chân lý cao nhất. Dĩ nhiên là con cũng biết là một khía cạnh của Tia thứ Năm là Chân lý. Như Pontius Pilate có hỏi Giê-su: “Chân lý là gì?”. Đây chính là một câu hỏi mà nhiều học viên đã không xem xét, và con cần xem xét câu hỏi này ở tầng này của khóa nhập thất của thày.

Chân lý là gì? Chúng ta hãy tạm thời đứng lui lại và hỏi một câu khác: “Có cái gì thật sự là chân lý chăng?” Với hầu hết mọi người, trong khái niệm chân lý cũng có khái niệm phản chân lý, khái niệm dối trá. Chân lý tương phản với dối trá, và đây là cái gì? Hai đối cực dính liền với nhau, con yêu dấu, đây chính là nhị nguyên, phải không con?

Dĩ nhiên là thày biết là tâm nhị nguyên có thể lấy bất cứ trạng thái nào và tạo ra một hoàn cảnh mới trong đó có hai đối cực. Các thày có thể nói là một chân lý không nhị nguyên. Nó có mặt ở đây. Trong cõi thăng thiên, các thày biết chân lý. Thày ở trên Tia thứ Năm và thày biết chân lý rất rõ vì thày mỗi lúc trải nghiệm chân lý như một thực tại hằng sống, một ngọn lửa tâm linh. Chân lý mà thày trải nghiệm trên cõi thăng thiên không có cái đối nghịch. Nó không tương phản với một cái đối nghịch. Nó không tương phản với phản chân lý hay dối trá.

Điều con cần nhận ra ở tầng này của khóa nhập thất của thày là có sự khác biệt giữa chân lý không nhị nguyên và chân lý nhị nguyên. Chân lý nhị nguyên có cái đối nghịch, do đó con nhận ra cái mà đại đa số con người trên trái đất xem là chân lý quả thực là một khái niệm nhị nguyên vì nó có cái đối nghịch. Tỷ dụ, con sẽ thấy là những người theo đa số các tôn giáo hay đạo sư Thời đại Mới, cho rằng tổ chức của họ có chân lý, giáo lý tâm linh cao nhất, và tất cả những giáo lý khác thấp hơn hay thậm chí còn là phản chân lý.

10.4. Khác biệt giữa sự thật và “Chân lý”

Con yêu dấu, ở tầng này của khóa nhập thất của thày, không có gì có thể gọi là chân lý. Con có thể nghĩ là nếu con nhìn vào tất cả các tôn giáo và triết lý tâm linh, con có thể xếp chúng trên một thang điểm và nói là có cái có một mức độ chân lý thấp và có cái có mức độ chân lý cao. Thày sẽ không phủ nhận là điều này không thể làm được vì dĩ nhiên là có một số triết lý do sa nhân trực tiếp tạo ra và do đó bao gồm nhiều hơn những ảo tưởng vi tế của họ.

Con cần nhận ra là ngay cả một giáo lý hoàn toàn do sa nhân tạo ra cũng có một số khái niệm mà đa số người tâm linh xem là thật. Nếu không như thế thì con người đã không bị giáo lý đó lừa gạt. Sa nhân không tạo ra một giáo lý trong đó mọi thứ đều sai hay đều là dối trá. Họ tạo ra một giáo lý trong đó có nhiều điều mà chúng ta có thể gọi là thật, nhưng có một số khái niệm sai lầm trộn vào. Con người chấp nhận giáo lý đó vì những điều mà họ nhận ra là thật, nhưng sau đó họ cũng chấp nhận những khái niệm sai lầm, và điều này dẫn họ theo con đường giả.

Con yêu dấu, con có thấy chăng là trong đoạn vừa rồi (nếu con chú ý) chính thày là chân sư thăng thiên, cũng gặp khó khăn dùng từ “sự thật” hay “chân lý” mà không đi vào một lượng định nhị nguyên tương phản nó với phản sự thật. Chúng ta hãy tạm để vấn đề này qua một bên. Điều mà thày muốn chúng ta chú tâm vào là nếu chúng ta lấy tất cả các tôn giáo và triết lý tâm linh và tạo ra một thang điểm xếp hạng chúng theo mức độ sự thật, thì các đệ tử chân sư thăng thiên sẽ có khuynh hướng nói rằng giáo lý chân sư thăng thiên được công bố như bài truyền đọc qua một sứ giả được bảo trợ, có mức độ sự thật cao nhất. Điều này vừa đúng vừa không đúng.

Dĩ nhiên, đúng là giáo lý các thày được trao truyền với mục đích duy nhất là giải thoát các con. Giáo lý không có những điểm sai cố ý nhằm đánh lừa con, như giáo lý của sa nhân. Nhưng con cần nhận ra rằng tuy các thày cho con một giáo lý thật, các thày không cho (và không tìm cách cho con) “Chân lý”. Chúng ta hãy phân biệt ở đây sự khác biệt tinh tế giữa chân lý“Chân lý”.

Chân lý, hay sự thật, là một khái niệm nói chung. Một điều nào đó có thể chất chứa nhiều hay ít sự thật. Nhưng trong tâm thức đại chúng có một khái niệm về cái gì gọi là “Chân lý”. Đây là ý niệm có một giáo lý cao nhất, một sự thật tuyệt đối. Tỷ dụ, con thấy là nhiều người tín đồ Cơ đốc coi Thánh kinh là Lời của Thượng đế, tuyệt đối và không thể sai. Đối với họ, Thánh kinh là “Chân lý”, là thiên khải tuyệt đối cao nhất có thể trao truyền trên hành tinh này.

10.5. Các chân sư không trao truyền “Chân lý”

Con yêu dấu, các chân sư thăng thiên không bao giờ mong muốn đệ tử coi giáo lý của các thày, dù được trao truyền qua một sứ giả được bảo trợ, giống cách người Cơ đốc cực chính thống coi Thánh kinh của họ. Nếu con làm vậy, con đã hụt mục đích chính trong giáo lý các thày. Các thày không tìm cách cho con “Chân lý”, một giáo lý tuyệt đối cao nhất và do đó toàn hảo, sẽ không thay đổi theo thời gian, và không bao giờ cần khai triển hay nới rộng. Đây không phải là mục đích của các thày. Mục đích của các thày là gì?

Mục đích của các thày là gặp gỡ con ở tầng tâm thức nơi con có thể thấu hiểu giáo lý của các thày (tất cả mọi khía cạnh của giáo lý) và sau đó trao cho con điều giúp con bước lên cao hơn. Các thày không tìm cách trao truyền một giáo lý tuyệt đối, không thể sai và không bao giờ thay đổi. Các thày lúc nào cũng tìm cách giúp con tiến lên như một cá nhân để con có thể tới tầng 144 và hội đủ điều kiện thăng thiên. Các thày cũng muốn nâng tâm thức đại chúng, và con cần nhận ra một sự kiện giản dị. Với tầng tâm thức đại chúng hiện nay, những gì các chân sư thăng thiên có thể trao truyền bị hạn chế dù là các thày truyền qua một người sứ giả được các thày đỡ đầu.

Các thày không có tự do nói bất cứ điều gì vì nếu điều các thày nói quá cao so với tâm thức đại chúng thì rất ít người hiểu được. Trong thời đại này các thày không muốn chỉ đi đến một số ít người. Các thày cũng không muốn đi đến tất cả mọi người, nhưng các thày đang tìm cách đi đến nhiều người hơn trước kia. Nếu con nhìn vào các tổ chức mà các thày đã bảo trợ trong thế kỷ vừa qua, con sẽ thấy là lúc ban đầu các thày trao truyền một giáo lý rất khó tiếp nhận, dùng ngôn từ cổ điển, và do đó chỉ thu hút một số nhỏ. Sau đó, các thày dã dần dần trao truyền giáo lý dễ hiểu hơn và do đó thu hút được nhiều người hơn. Điều này dĩ nhiên các thày sẽ tiếp tục làm vì tâm thức đại chúng đang được nâng lên.

Vì tâm thức đại chúng được nâng lên, các thày có thể làm hai chuyện. Điều thứ nhất là các thày có thể trao truyền một giáo lý cao hơn những gì các thày đã làm trước kia, nhưng điều thứ hai là các thày cũng có thể tác động khía cạnh Omega bằng cách đem tới một giáo lý có thể thu hút một cử tọa rộng lớn hơn. Dĩ nhiên là các thày sẽ làm cả hai chuyện đó khi tâm thức đại chúng được nâng lên trong vòng mấy thập niên và thế kỷ tới khi chúng ta càng ngày càng đi sâu vào Thời Hoàng kim.

10.6. Hãy cân nhắc chuyện tham gia vào các tổ chức

Điều con cần nhận ra ở tầng này của khóa nhập thất của thày là mục tiêu của các thày không phải là trao truyền “Chân lý”. Tất cả những gì các thày làm chỉ có một mục đích, đó là giúp những người đang ở một tầng tâm thức nào đó thăng vượt tầng này và tiến lên cao hơn. Con cần xem xét điều này với tâm ý thức của con.

Khi con tới khóa nhập thất của thày trong ba thể cao của con, con không thể tiến lên tầng kế tiếp nếu con không hiểu ra điều này. Điều rất quan trọng là sự nhận biết này (mà con có thể có rất dễ dàng ở tầng ê-the) thấm xuống tâm ý thức của con. Điều quan trọng khác là con sẵn sàng, trong tâm ý thức, dùng lý trí phê bình để xem xét thái độ của con đối với các giáo lý tâm linh cho tới thời điểm này.

Thày biết đây là một việc khó khăn, có thể đau lòng, đối với một số người. Con cần nhìn vào chính mình và thái độ đối với con đường tu, dù có thể đau lòng, và làm những điều chỉnh cần thiết. Khi con làm xong những điều chỉnh này, thày bảo đảm với con là con sẽ cảm thấy giải thoát ˗ giải thoát khỏi gánh nặng đã đè lên con từ ngày con bước chân trên con đường tu. Con sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn, và con sẽ sẵn sàng đón nhận một quan niệm hoàn toàn mới về con đường tâm linh.

10.7. Vì sao không có chân lý tuyệt đối

Con yêu dấu, chúng ta hãy xem xét trở lại khái niệm “Chân lý”. Thày có nói là các thày không thể đem xuống một giáo lý tuyệt đối vì con người không thể tiếp nhận nó ở tầng tâm thức hiện nay của họ và ở tầng tâm thức đại chúng hiện nay. Đó chỉ là một phần lý do vì sao các thày không đem xuống một giáo lý tuyệt đối. Phần kia của lý do là các thày nhận ra là không thể đem một giáo lý tuyệt đối xuống một bầu cõi chưa thăng thiên.

Trái đất dĩ nhiên không phải là hành tinh có tâm thức cao nhất trong vũ trụ vật chất. Có hành tinh có tâm thức cao hơn trái đất rất nhiều. Ở các hành tinh đó, các thày có thể đem xuống một giáo lý cao hơn rất nhiều những gì các thày có thể đem xuống trái đất. Tuy nhiên, nếu bầu cõi chưa thăng thiên, đó vẫn không phải là một chân lý tuyệt đối không bao giờ thay đổi. Con có thể nói là không có một chân lý tuyệt đối không bao giờ thay đổi vì trên cõi thăng thiên cũng có sự tiến bộ liên tục, tăng trưởng liên tục, thăng vượt liên tục. Khi toàn thể vũ trụ tự nâng lên, tự thăng vượt thì chân lý tiếp tục lên cao hơn. Chân lý cũng có tính thăng vượt, và nó chuyển đổi khi tâm thức được nâng lên. Chuyện này cứ tiếp tục như thế cho tới khi con đạt Tâm thức đấng Sáng tạo. Điều con cần làm ở tầng tâm ý thức là nhìn vào điều này và nhận ra là nếu con đi vào con đường tâm linh với ham muốn tìm ra chân lý tuyệt đối, thì con phải buông bỏ ham muốn đó vì nó là một cái gông quanh cổ sẽ trì kéo con lại. Ở trình độ hiện nay của con, con không nên đặt mục tiêu thấy được các đám mây sẽ tẽ ra và con sẽ khải ngộ chân lý tuyệt đối. Các đám mây rất có thể sẽ tẽ ra và con có kinh nghiệm nội tại về cõi tâm linh. Như các thày đã nói nhiều lần, cái Ta Biết thực sự có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm và kinh nghiệm Hiện diện TA LÀ, các tầng tâm thức cao hơn, ngay cả cõi tâm linh. Con cũng có thể kinh nghiệm chính đấng Sáng tạo như một trạng thái Sinh thể thuần khiết. Điều con nhận ra, khi con có những trải nghiệm thần bí như vậy, là chúng không thể diễn tả bằng lời. Nếu con tìm cách mô tả chúng bằng lời, con giảm thiểu sự trải nghiệm.

10.8. Chân lý không thể diễn tả bằng lời

Các thày trước đây có đưa thí dụ khi con gặp một người chưa bao giờ nếm trái táo, rất khó để mô tả cho người đó hương vị trái táo vì đó là một trải nghiệm toàn bộ. Điều thày muốn nói là không thể trình bày “Chân lý” bằng ngôn từ.

Con không thể diễn tả một sự thật tuyệt đối bằng lời nói. Thày đã nói về các hành tinh có trình độ tâm thức đại chúng cao hơn, nhưng điều đó có nghĩa cư dân các hành tinh không giao tiếp với nhau bằng ngôn từ, hay ít nhất là chỉ bằng ngôn từ. Điều này có nghĩa là các thày có thể đem xuống đó một giáo lý tòan diện hơn bao gồm một số khía cạnh không diễn tả bằng ngôn từ, và điều này giúp các thày cho cư dân nơi đó một trải nghiệm đày đủ hơn về sự thật.

Con hiểu rằng điều các thày muốn đạt được là dẫn con tới chỗ con có kinh nghiệm thần bí. Con nhận ra có một trải nghiệm cao hơn những gì được diễn tả bằng ngôn từ. Các thày muốn con có trải nghiệm này và đó là mục tiêu của các thày khi con tới khóa nhập thất. Các thày cũng hy vọng là các quyển sách này cùng với giáo lý và các bài thỉnh sẽ giúp con mở tâm (bốn tầng của tâm) ra để con có những trải nghiệm này. Ngôn từ chỉ là phương tiện để đạt một cứu cánh, phương tiện để đưa tới trải nghiệm.

10.9. Phải hành xử ra sao với kinh nghiệm thần bí

Bây giờ, dĩ nhiên, chúng ta gặp một ảo tưởng vi tế khác mà con cần nhìn thấy. Thày có nói về những người Cơ đốc giáo cực chính thống coi Thánh kinh là Lời Thượng đế. Khi con đi vào tâm của những người này, con thấy là có một số người thực sự tin chắc như vậy vì họ đã có một trải nghiệm mà con có thể gọi là trải nghiệm thần bí. Họ đã trải nghiệm tâm thức họ lên một tầng cao hơn bình thường và họ thốt nhiên “thấy”là Thánh kinh là Lời Thượng đế và Giê-su là con đường duy nhất dẫn tới cứu rỗi. Họ trải nghiệm điều này như một kinh nghiệm nội tâm toàn bộ tạo nơi họ một cảm giác choáng ngợp mà họ cảm thấy hoàn toàn thật.

Con yêu dấu, làm sao lại có thể có (khi con biết là Thánh kinh không phải là Lời nguyên văn của Thương đế) một trải nghiệm Thánh kinh là Lời Thượng đế và cảm thấy trải nghiệm này hoàn toàn thực? Ấy, điều này có thể xảy ra vì lý do giản dị là con ở một tầng tâm thức nào đó trong số 144 tầng tâm thức. Như thày đã nói, ở mỗi tầng tâm thức có một ảo tưởng liên quan tới tầng đó. Con có thể bước ra ngoài ảo tưởng đó và thấy cái gì cao hơn, và khi con làm thế, con cảm thấy điều mình thấy rất thật. Trong quá trình lịch sử, hàng triệu người đã có trải nghiệm thần bí. Con yêu dấu, các trải nghiệm này đa phần là chân thật. Những người có trải nghiệm này cảm thấy chúng rất thật. Nhưng sự thực là họ cảm thấy chúng rất thật vì chúng vượt quá tầng tâm thức hiện tại của người trải nghiệm. Chúng không chỉ cho họ thực tại tuyệt đối, cao nhất có thể đạt được.

10.10. Ảo tưởng của sự thực tuyệt đối trong lịch sử

Vấn đề là con người không thể thấy điều này ở các tầng tâm thức thấp. Thày Serapis Bey không giảng đề tài này như thày giảng cho con, vì con chưa sẵn sàng khi con tham dự khóa nhập thất của thày Serapis Bey. Khi con tới tầng thứ tư của khóa nhập thất của thày thì con sẵn sàng thấy với tâm ý thức của con. Đó là lý do vì sao thày giảng điều này. Con yêu dấu, con thấy chăng là ngay lúc này, con đang có một ảo tưởng, và ảo tưởng này có thể là con nghĩ phải có một chân lý cao nhất. Con bây giờ đã sẵn sàng để nhìn quá ảo tưởng này.

Bây giờ chúng ta hãy nhìn lịch sử thế giới để xem xét ảo tưởng này đã tạo ra những gì. Ngay lúc này, trong lúc thày đang truyền đọc bài giảng này, ở Trung đông có một phong trào gọi là ISIS hay IS. Họ là những người Hồi giáo cực đoan cảm thấy giết người không theo đạo Hồi là điều hoàn toàn chính đáng, và giết luôn cả những người Hồi giáo mà họ nghĩ đang không đi theo con đường chân thật duy nhất. Đa số con người, dĩ nhiên, có thể thấy đây là hình thức cuồng tín. Nhiều người ở Tây phương tự nghĩ: Tại sao lại có người tin như vậy, tại sao họ lại có thể cư xử như vậy? Con nên hiểu là đa số những người cư xử như vậy đã có một trải nghiệm nội tâm mà họ cảm thấy rất thật. Với họ, kinh nghiệm nội tâm này chứng thực niềm tin là truyền bá đạo Hồi là điều cần thiết, ngay cả dùng bạo lực cũng được, và Thượng đế sẽ thưởng họ khi họ làm vậy. Con hãy nhìn suốt chiều dài lịch sử thế giới và thấy đã có bao nhiêu lần con người đã gây chiến tranh với tư duy cuồng tín, tin rằng có một đại nghĩa quan trọng đến độ giết người khác trở nên chính đáng. Con yêu dấu, điều này đã lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong lịch sử. Thày biết là con đã vượt lên trên tầng tâm thức cho rằng giết người để xiển dương một đại nghĩa nào đó là điều chính đáng. Điều thày muốn con làm là con đi bước cuối cùng trong việc buông bỏ hạt giống cuối cùng của tâm thức cuồng tín đó. Đó là khi con, với tâm ý thức, nhận ra và nhìn nhận là không có một đại nghĩa nào trên trái đất biện minh cho việc giết người khác.

Con yêu dấu, chân lý không đáng để chúng ta bỏ mạng và giết người. Lý do rất giản dị. Chân lý là một khái niệm tùy thuộc vào trạng thái tâm thức hiện thời của con. Khi con còn ở trên trái đất, và đúng thực là ngay cả ở cõi thăng thiên, lúc nào con cũng có thể nâng tâm thức mình lên và thấu hiểu một biểu hiện chân lý cao hơn điều mà con có thể hiểu hiện nay.

Giết một mạng người (cũng như là hại mạng mình khi mình tham dự chiến tranh với tư duy cuồng tín và bị giết) là một hành động tuyệt đối vì nó vĩnh viễn chấm dứt cơ hội đặc trưng của kiếp sống đó. Đúng là linh hồn không chết và sẽ đầu thai trở lại, nhưng nó không thể nào đầu thai trở lại trong cùng hoàn cảnh bên ngoài. Do đó, cơ hội đặc trưng của kiếp sống đó bị chấm dứt vĩnh viễn khi người đó bị giết. Trong khi đó, chân lý không tuyệt đối, không vĩnh viễn. Vậy con có thể thấy: làm sao việc bảo vệ một chân lý không vĩnh viễn có thể biện minh cho một hành động tuyệt đối, vĩnh viễn là việc giết người?

10.11. Vượt qua tư duy cuồng tín

Có đệ tử chân sư thăng thiên vẫn giữ trong mấy chục năm niềm tin là cứu cánh biện minh cho phương tiện. Đúng là họ thấy trong thời Đức Quốc Xã hay thời Cộng sản là những chủ nghĩa đó không biện minh cho việc giết chóc. Nhưng họ vẫn nghĩ là có thể có một chính nghĩa quan trọng đến độ việc giết người có thể chính đáng. Con yêu dấu, điều này giản dị không đúng. Con cần thấy điều này bằng tâm ý thức, buông bỏ ảo tưởng một cách ý thức vì nó là cái gông trên cổ con. Nó là một lỗ hổng cho sa nhân xâm nhập và khuynh loát con một cách vi tế. Con không thể tiến xa hơn tầng này của con đường tu nếu con không buông bỏ một cách có ý thức niềm tin này.

Tư duy cuồng tín đã biểu lộ một cách hiển nhiên trên hành tinh này. Dĩ nhiên là những phong trào cuồng tín hiển nhiên, như Đức quốc xã hay Cộng sản, đã do sa nhân khởi xướng. Như các thày đã tìm cách giảng cho con, có nhiều trình độ sa nhân. Một số sa nhân thô thiển hơn và một số khác tinh vi hơn. Chắc con cũng nhớ, dĩ nhiên, là Thánh kinh nói rắn là ác thú xảo quyệt nhất. Con thấy là các hình thức cuồng tín hiển nhiên, như ISIS, Đức quốc xã hay Cộng sản, luôn luôn do sa nhân thô thiển khởi xướng. Con có thể nhìn vào Hitler và con thấy là tuy rằng y có khả năng thu hút quần chúng nhưng y không thực sự là một nhà tư tưởng lớn. Đây cũng là trường hợp của, tỷ dụ, Lê Nin và Marx và một số người khác đã khởi xướng các phong trào cuồng tín. Họ không phải là nhà tư tưởng lớn vì họ đã rơi vào tư duy cuồng tín khiến họ bị mù lòa.

Con yêu dấu, nếu con đứng lui lại và nhìn những biểu lộ hiển nhiên của tư duy cuồng tín, thì con thấy có một cơ chế tâm lý đằng sau chúng. Sa nhân đã khôn khéo sử dụng cơ chế tâm lý này. Khi con có một biểu lộ hiển nhiên của tư duy cuồng tín, tỷ dụ như chủ nghĩa Quốc xã, thì sa nhân nói đó là định nghĩa của tư duy cuồng tín. Những hình thức cư xử hay hệ thống tư tưởng khác không cực đoan bằng chủ nghĩa quốc xã thì không coi là cuồng tín. Điều thày muốn làm được ở đây là mở rộng sự nhận biết có ý thức của con là tư duy cuồng tín vi tế và bao quát hơn con nghĩ.

10.12. Say mê ý tưởng

Thế nào là tư duy cuồng tín? Hình thức thông thường nhất, phổ quát nhất của cuồng tín là tình yêu say đắm. Khi con yêu say đắm một người khác thì chuyện gì xảy ra? Con có một cái nhìn lệch lạc về sự việc. Con có một cái nhìn lệch lạc về người kia. Con chỉ nhìn thấy những gì chứng thực niềm tin rằng người đó là người bạn đời lý tưởng, và con từ chối thấy những chuyện gì khác. Đây chính là điểm cốt yếu của cơ chế tâm lý khi con yêu say đắm. Con nhấn mạnh những điều chứng thực cái nhìn cơ bản của con về hoàn cảnh và con phớt lờ hay chối bỏ những điều không chứng thực cái nhìn của con về hoàn cảnh. Đây cũng là cơ chế tâm lý đằng sau tư duy cuồng tín.

Bây giờ, chúng ta phải đi thêm bước nữa và nhận ra rằng con người có khuynh hướng say mê ý tưởng. Con cần cẩn thận suy ngẫm điều này với tâm ý thức của con. Khi con tuần tự trải nghiệm các sáng ngộ ở khóa nhập thất của thày, đa số học viên dễ dàng hiểu điều này ở thể bản sắc của họ. Nhưng có nhiều người gặp khó khăn để hiểu biết này thấm xuống tâm ý thức, vì chính họ đang say mê một ý tưởng. Thông thường, những người đọc quyển sách này đã theo con đường tâm linh vì họ say mê một số ý tưởng.

Thày đã nói gì khi bắt đầu những bài giảng này? Ở mỗi tầng của con đường tu, có những ảo tưởng cần thiết. Đó chính là điều quy định tầng đó. Một lần nữa, thái độ của con cho tới điểm này không có gì sai trái. Thày không muốn khiến con cảm thấy là những gì con làm cho tới nay hoàn toàn sai và do đó con cần cảm thấy mình dở. Ngược lại, thày chỉ giản dị muốn giúp con thấy là để tiến lên cao hơn nữa, con cần buông bỏ thêm một ảo tưởng nữa. Con cần buông bỏ nó một cách có ý thức để có thể tiến lên tầng kế tiếp. Đây là điều cần xảy ra ở mỗi tầng của con đường tu.

Ở đây, vấn đề thực là sa nhân đã nhét được ý tưởng này vào tâm thức đại chúng. Họ đã làm điều này rất, rất lâu trước đây khi họ tới hành tinh này. Họ đã làm vậy trên những hành tinh khác trước khi họ tới hành tinh này, ngay cả trong các bầu cõi trước. Do đó, họ tin rất chắc là quan niệm của họ đúng. Nhưng con, dĩ nhiên, là một đệ tử tâm linh. Con đang đi trên con đường tự điều ngự, và nếu con muốn điều ngự cái ta thì con phải vượt qua ảo tưởng này.

10.13. Ảo tưởng nguy hại nhất về ý tưởng

Ảo tưởng này là gì? Con yêu dấu, ảo tưởng này là vũ trụ vận hành theo những ý tưởng mà tâm nhị nguyên có thể hiểu được. Sa nhân đã đi vào nhị nguyên. Họ không biết là họ đã đi vào nhị nguyên. Con hãy cẩn thận lắng nghe điều thày sắp nói.

Thày có nói là có những sa nhân rất tinh vi, rất tinh tế. Nếu con, như một đệ tử chân sư thăng thiên, gặp một trong những sa nhân đó và bắt đầu tranh luận với họ, con sẽ thấy, như chính Giê-su đã nhìn nhận, là con khó tranh luận hơn họ. Khi con theo lối suy luận dùng tâm đường thẳng, phân tích, nhị nguyên của họ, con không thể tranh luận hơn họ. Họ có động lực làm việc này từ rất lâu nên con không thể tranh luận hơn họ. Con không thể làm cho họ thấy là sự suy luận của họ bị giới hạn. Họ sẽ luôn luôn tìm được một cách để phản bác bất cứ lập luận nào của con. Nếu con tìm cách tranh luận hơn họ, con chỉ càng ngày càng chìm sâu vào tư duy đó.

Thày nói điều này để giúp con nhận ra là tranh luận không đạt được mục đích gì. Tranh luận về điều này không lợi ích gì, và lý do là mỗi sinh thể tự nhận biết có quan niệm riêng của mình về thế giới. Một sa nhân nhìn thế giới từ một góc độ nào đó. Họ nhìn thế giới qua một phin lọc nhận thức nào đó, như chính thày và các thày khác đã giảng nhiều lần.

Con con thể đưa ra một lập luận cho sa nhân đó, và đối với con lập luận của con hoàn toàn tin được. Con có thể thấy lập luận của sa nhân hiển nhiên là sai, mâu thuẫn và không có giá trị bằng lập luận của con. Lý do vì sao điều này hiển nhiên với con là vì con nhìn vào lập luận với phin lọc của tâm thức của con, nhưng sa nhân không nhìn vào lập luận với phin lọc của tâm thức của con, họ nhìn với phin lọc của tâm thức của họ. Do đó, họ không thấy những gì con thấy.

Tìm cách áp lực người khác thấy điều con thấy quả thực vô ích. Con không bao giờ có thể ép người khác thấy điều con thấy vì người đó không bao giờ có thể nhìn một hoàn cảnh từ bên trong tâm của con. Người đó sẽ nhìn hoàn cảnh từ bên trong tâm của y. Vì sao con cần hiểu điều này một cách ý thức? Vì con cần nhìn vào đời mình, và nhận ra là có những lúc con có thể đã tìm cách áp đặt ý tưởng của mình lên người khác.

10.14. Áp đặt ý tưởng lên người khác

Con chắc cũng biết là thời xưa có khái niệm gọi là “mắt tà ma”. Người ta tin rằng có người có khả năng nhìn người khác và phóng ra một bùa ngải khiến người khác bị tai họa. Có thời mà những người bị coi là đã đặt mắt tà ma lên người khác bị ném đá chết hay bị đốt chết. Ở nhiều nơi trên thế giới người ta vẫn tin chuyện này, và ngày nay vẫn còn những nơi có người bị giết chết hay bị tảy chay vì dân chúng cho rằng họ đặt con mắt tà ma lên người khác.

Có một phần sự thật đằng sau những câu chuyên này. Thày không nói là những người cổ sơ hoàn toàn có lý, hay hành hạ người khác vì lý do này là điều chính đáng. Điều thày muốn nói là tất cả mọi người đều có khả năng, như thày đã giảng, dùng viễn quan của mình như một lực chủ động bằng cách phóng chiếu viễn quan của mình lên người khác. Họ có thể làm việc này với một năng lượng linh hồn cao đến độ có thể ảnh hưởng thể bản sắc, tư tưởng và cảm xúc của người khác, và như vậy ảnh hưởng người đó ở tầng vật lý.

Dĩ nhiên đây là điều con cần ngưng không làm nữa ở điểm này của con đường tu. Con cần nhìn một cách trung thực vào cuộc đời mình và xét xem liệu con đã có làm điều này chưa. Sau đó, con cần nhìn nhận con đã làm như thế mà không chê trách mình. Một lần nữa, con có thể làm gì khác chăng? Con có thể làm gì khác chăng ở những tầng tâm thức thấp trên trái đất này? Những gì con đã làm không quan trọng. Vấn đề chính là: Con sẽ làm gì kể từ nay trở đi? Đây là điều thày muốn biết. Ở khóa nhập thất của thày, thày không mang con vào một căn phòng và bắt con phải đối mặt với tất cả những gì con đã làm sai trong quá khứ. Thày có thể cho con vài nhận xét về những gì con đã làm để con thấy nhu cầu thăng vượt chúng và để con thấy cơ chế vận hành đằng sau các hành động này.

Cơ chế vận hành đằng sau việc phóng chiếu một viễn quan lên người khác là gì? Đó chính là tâm thức, do sa nhân đề xướng, say mê ý tưởng và bắt đầu nghĩ vũ trụ vận hành theo ý tưởng của mình. Hay đúng hơn, vấn đề là con bắt đầu nghĩ vũ trụ phải vận hành theo ý tưởng của mình. Đây chính là nguyên nhân của tư duy cuồng tín. Con người say mê một ý tưởng, nghĩ rằng nếu vũ trụ vận hành theo ý tưởng này thì mọi chuyện sẽ hài hòa, sẽ có thiên đàng trên trái đất. Sau đó, họ nhìn chuyện đang xảy ra trên thế giới và thấy là thế giới đang không vận hành theo ý tưởng của họ.

Con yêu dấu, ở điểm này điều lý tưởng nên xảy ra là người đó phải nói: “Chờ chút, nếu tôi có thể quan sát là thế giới không vận hành theo ý tưởng của tôi, thì phải chăng tôi cần xét lại ý tưởng của mình để chúng giải thích được cách thế giới thực sự vận hành, thay vì cứ nắm chặt một lý tưởng cho rằng thế giới phải vận hành sao đó?

Nhưng thay vào đó, con người đã làm gì? Họ đi vào tư duy cuồng tín và nói: “Lý do vì sao thế giới không vận hành đúng theo ý tương của tôi là vì con người không hành xử đúng theo ý tưởng của tôi. Do đó, công việc của tôi là khiến họ hành xử đúng theo ý tưởng của tôi và sau đó chúng ta sẽ có thiên đàng trên trái đất.”

Đó chính là bản chất của tư duy cuồng tín. Nó không khác nhiều lắm trạng thái mà con người trải nghiệm khi họ yêu say đắm. Nó không khác nhiều lắm. Con cần tới điểm nhận ra con đã có khuynh hướng quan niệm đường tâm linh dựa trên khuôn nếp đó. Con đã có ý tưởng cho rằng con đường tâm linh phải vận hành như thế nào rồi con tìm cách áp lực chính con phải tuân theo ý tưởng đó. Con có thể cũng đã tìm cách áp lực người khác phải tuân theo ý tưởng đó.

10.15. Nó ngừng ở đây

Thày muốn con làm hai chuyện một cách ý thức. Thày muốn con, sau khi con đọc bài thỉnh liên quan đến bài giảng này, bỏ ra chút thì giờ nhìn lại đời mình và nói: “Tôi đã tìm cách áp đặt ý tưởng của tôi về con đường tâm linh lên người khác như thế nào?” Dĩ nhiên con có thể xin thày giúp con nhìn thấy điều này với tâm ý thức. Thày bảo đảm với con là ở khóa nhập thất của thày con thấy rõ điều này với các thể cao của con. Ở khóa nhập thất của thày, con thấy được điều này mà không cảm thấy đau đớn, không kháng cự, không miễn cưỡng.

Thày đang ngồi với con và thày đang dẫn con tới điểm con ở trong trạng thái tâm sẵn sàng thấy điều đó. Sau đó, chúng ta nhìn vào nó và con thấy nó. Khi con thấy nó, con không cảm thấy mình tội lỗi, con không lên án mình. Con giản dị nói: “Nó ngừng ở đây. Nó ngừng ở đây. Nó ngừng ngay bây giờ. Tôi thấy những gì tôi đang làm và tôi sẽ không làm nữa.”

Đây là một sự chuyển đổi, và khi con chuyển đổi ở tầng tâm ý thức, thì con đạt được khai ngộ ở tầng này của khóa nhập thất của thày. Khai ngộ ở tầng này thực sự là ngưng phóng chiếu viễn kiến của con về chân lý lên người khác hay thế giới bên ngoài con. Đó là khai ngộ mà con cần vượt qua. Thầy cần con xem xét điều này một cách có ý thức vì con không thể tiếp tục khóa học tự điều ngự này nếu con chưa ngưng phóng chiếu viễn kiến của con ra ngoài tâm con.

10.16. Mục đích của con đường tu

Con yêu dấu, con có thấy chăng mục đích của con đường tu? Chúng ta đã nói về giai đoạn trầm mình và giai đoạn tỉnh giác. Con làm gì khi trầm mình vào vật chất? Thày có nói là con bắt đầu ở tầng tâm thức 48 để có thể hiện thân trên trái đất. Con làm gì khi con bắt đầu hiện thân trên trái đất?

Con ở trên cõi ê-the, cõi bản sắc. Hiện diện TA LÀ của con đã tạo ra cái Ta Biết từ bản thân nó. Nó gửi con xuống tới một điểm con có thể hiện thân trong một bầu cõi chưa thăng thiên, trên một hành tinh có độ dày đặc của trái đất lúc đó.

Con phải làm gì để có thể nhập vào một thân thể vật lý? Cái Ta Biết không thể trực tiếp nhập vào thân thể vật lý. Nó cần phải tạo ra một cỗ xe, là bốn thể phàm, là linh hồn. Con tạo ra cỗ xe này như thế nào? Để bắt đầu, con vào tầng 144. Sau đó, con nhận lãnh ảo tưởng của tầng đó. Sau đó, con xuống tầng 143, nhận lãnh ảo tưởng của tầng đó, sau đó xuống tầng 142, vân vân. Con tiếp tục nhận lãnh từng ảo tưởng một cho tới khi con xuống tới tầng 48.

Các ảo tưởng mà con nhận lãnh là gì? Các ảo tưởng này khiến con có thể tin được là con đang thật sự là một con người trong một thân thể vật lý trên trái đất. Con thấy chăng, các ảo tưởng này cần thiết để cho con cảm nhận con thật sự là một con người.

Thày có nói ở trên về sự kiện con có thể có một trải nghiệm thần bí khi con thấy một điều gì vượt lên trên tầng tâm thức hiện nay của con, và trải nghiệm đó cảm thấy rất thật. Khi con đi xuống hiện thân, con giản dị đảo ngược tiến trình này. Con có một trải nghiện phản-thần bí khiến con cảm thấy rất thật là mình là một con người hiện thân trên trái đất. Đây là giai đoạn trầm mình; đây là kinh nghiệm trầm mình. Mục đích là con trầm mình vào cuộc đời mà trái đất cống hiến. Con có những loại trải nghiệm có thể có trên hành tinh này cho tới khi con chán ngán chúng và bắt đầu mong ước một cái gì hơn nữa.

Con bắt đầu ở tầng tâm thức 48 và con có chọn lựa đi lên trên tầng 48 hay đi xuống dưới tầng 48. Khi con đi xuống dưới tầng 48, con làm gì? Con nhận vào thêm ảo tưởng. Như thày có giảng, ảo tưởng mà con nhận vào là dùng vũ lực là điều chấp nhận được và chính đáng. Tìm cách áp lực người khác, tìm cách áp lực vũ trụ vật lý phải tuân theo ý tưởng của mình, là điều chấp nhận được.

Con cần gì để tỉnh giác? Con cần đảo ngược tiến trình, và bây giờ, từng ảo tưởng một, con bắt đầu đi lên trở lại. Con buông bỏ một ảo tưởng, con đạt tầng tâm thức cao hơn, rồi con buông bỏ ảo tưởng kế tiếp và tiếp tục như thế.

Con đang theo khóa học tự điều ngự này. Con đang không ở tầng tâm thức cao nhất. Con chưa sẵn sàng thăng thiên. Do đó, con còn nhiều ảo tưởng con cần buông bỏ trước khi con thăng thiên. Không có gì bất tự nhiên về chuyện này. Đây giản dị là cách cuộc sống vận hành trong một bầu cõi chưa thăng thiên.

Con cần nhận ra điều này với tâm ý thức và thấy rằng đã tới lúc con ngừng phóng chiếu ra ngoài viễn kiến của con về chân lý; ngừng phóng chiếu nó lên người khác và ngừng phóng chiếu nó lên chính vật chất. Con cần có thái độ ý thức là con sẵn sàng nhìn vượt quá viễn kiến hiện nay của con về chân lý. Con sẵn sàng nhìn quá ý tưởng của con là thế giới phải vận hành ra sao. Con sẵn sàng xem xét thế giới thực sự vận hành ra sao. Khi con thấy thế giới thực sự vận hành khác với ý tưởng của con về thế giới, con sẵn sàng nói: “Vậy thì tôi phải điều chỉnh ý tưởng của tôi. Chính ý tưởng của tôi bị thiếu sót.”

10.17. Tìm cách ép thế giới tuân theo ý tưởng

Dĩ nhiên là lúc này là lại gặp một điểm tế nhị khác. Nhiều người khó vượt qua được điểm tế nhị này. Họ càng đi trên đường tu lâu năm thì họ càng khó vượt qua ảo tưởng này. Dĩ nhiên là con nghĩ vì con đã đi trên con đường tâm linh, vì con đã thực tập nhiều pháp tu, vì con đã nghiên cứu giáo lý tâm linh (ngay cả giáo lý chân sư thăng thiên), nên con đã dần dần nâng cao viễn kiến của mình, gia tăng hiểu biết của mình về chân lý. Do đó, con nghĩ là điều con thấy bây giờ là một chân lý cao hơn điều con thấy 10 hay 20 năm về trước. Điều này đúng – dĩ nhiên là đúng. Nhưng con yêu dấu, nó không phải là chân lý tối hậu.

Vẫn có một chân lý cao hơn điều con đang thấy ngay bây giờ. Con cần chấp nhận một cách ý thức là con sẵn sàng thấy chân lý cao hơn đó. Con sẽ không bám víu vào chân lý hiện nay của con. Con sẽ không tìm cách chứng thực nó, con sẽ không tìm cách khiến nó được công nhận.

Con cần quyết định một cách ý thức là con sẽ ngừng dùng giáo lý của chân sư thăng thiên (hay giáo lý tâm linh khác) để biện minh cho viễn kiến hiện nay của con về chân lý. Con cần sẵn sàng nhìn chân lý cao hơn. Để thấy được nó, con cần sẵn sàng nhìn xem thế giới không chứng thực viễn kiến hiện nay của con ở điểm nào. Sau đó, con cần nhận ra rằng chính viễn kiến của con cần thay đổi, chứ không phải thế giới và người khác cần thay đổi. Tìm cách thay đổi thế giới và người khác chỉ là cái cớ để không thay đổi mình, không thay đổi viễn kiến của mình. Chuyện giản dị vậy đó, con yêu dấu!

Sẽ tới một lúc – là lúc đó là ngay bây giờ – con cần phải chạm trán thực tại này một cách ý thức. Con cần nhìn ra nó. Con cần nhận ra có một khía cạnh trong tâm lý của con (có thể gọi là tự ngã, kẻ đứng trên ngưỡng cửa, hay phàm linh nột tại) không cho phép con thăng vượt lòng khao khát thế giới chứng thực chân lý của con.

Sa nhân không muốn con làm điều này. Họ không muốn con chiến thắng được điểm đó. Họ đang hò hét về hướng con ngay lúc này, dùng tất cả ảnh hưởng mà họ có để khiến con chối bỏ điều thày nói, và bám víu vào một ý tưởng như: “Dĩ nhiên là có một viễn kiến cao nhất là thế giới phải như thế nào, vì hiển nhiên là thế giới hiện nay không đang là như nó phải là”. Con yêu dấu, con có thấy chăng là thế giới ngay lúc này đang đúng y như điều nó phải là.

10.18. Vì sao thế giới đang là như nó phải là

Thày không muốn nói là một số điều kiện đang có mặt trên trái đất đều chính đáng, đúng và thật dựa trên một tầm nhìn cao hơn, không nhị nguyên. Dĩ nhiên là có nhiều điều kiện nhị nguyên, nhưng con có hiểu chăng điều các thày đã giảng trong giáo lý và các khóa học này?

Trái đất là một trường học. Có hai cách học. Hoặc con lắng nghe lời chỉ dẫn cao của các chân sư thăng thiên hay con đi vào Trường đời Cay đắng. Khi con ở trong Trường đời Cay đắng, con không thể học bằng cách nghe lời dạy của các chân sư thăng thiên hay bất cứ vị thày tâm linh nào khác. Con phải học bằng cách thấy các điều kiện vật lý thể hiện trạng thái tâm thức của mình cho tới khi con bị quá nhiều cay đắng đến độ con chịu nói: “Ồ, có phải chăng là tâm thức của tôi cần thay đổi nếu tôi muốn ngưng trải nghiệm các sự cay đắng này?”

Con có hiểu chăng điều thày đang muốn giảng? Thế giới, và tất cả mọi chuyện đang xảy ra trong thế giới, là sự thể hiện của tâm thức đại chúng. Thế giới đúng y như nó phải là. Thế giới phải thể hiện những bất quân bình trong tâm thức đại chúng, và dĩ nhiên, đó là vì tấm gương vũ trụ phản chiếu lại điều mà tập thể con người đang phóng chiếu vào nó.

Như một đệ tử tâm linh, con cần nhận ra là thế giới ngay lúc này đang đúng y như nó phải là vì nó thể hiện tâm thức của quần chúng. Do đó, con nhìn những việc đang xảy ra trong thế giới và con nói: “Công việc của con không phải là dùng áp lực để khiến thế giới và người khác tuân theo viễn kiến của con. Công việc của con là nâng cao tâm thức mình và đạt được tự điều ngự. Con không đạt được tự điều ngự bằng cách áp lực người khác hay thế giới. Con cũng không đạt được tự điều ngự bằng cách áp lực chính mình. Con đạt được tự điều ngự bằng cách buông bỏ ảo tưởng kế tiếp của con. Khi con liên tục buông bỏ ảo tưởng này tới ảo tưởng kia, con sẽ đạt được trạng thái tâm thức tự điều ngự. Đúng thực là mỗi lần con tiến lên một bước, mỗi lần con vượt qua một ảo tưởng, con đạt được một mức tự điều ngự cao hơn vì chính ảo tưởng lấy đi sự tự điều ngự của con, chớ không phải con thiếu tự điều ngự.

10.19. Vì sao con đường tu không máy móc

Một lần nữa, như thày đã từng nói, có người nghĩ rằng con đường tâm linh là một tiến trình máy móc đạt được một số khả năng. Họ nghĩ tự điều ngự cũng là một khả năng mà ta đạt được. Giống như một nhà lực sĩ cứ luyện tập một số động tác và qua đó tập cho cơ bắp càng ngày càng rắn chắc và có thể hoàn thành động tác giỏi hơn người khác. Đây không phải là con đường tâm linh.

Điều quan trọng không phải là dùng áp lực và áp lực chính mình để có khả năng điều ngự. Đây là điều thày gọi là con đường giả mà sa nhân đeo đuổi. Con đường của con là con đường tự điều ngự bằng cách buông bỏ, vứt bỏ ảo tưởng.

Vì sao, ở điểm này, con cần buông bỏ ảo tưởng khiến con phóng chiếu viễn kiến của mình ra ngoài? Con yêu dấu, đó là vì trước khi con phóng chiếu điều gì ra ngoài tâm mình, con phải phóng chiếu điều đó vào trong tâm mình, lên chính mình. Con chỉ có thể phóng chiếu lên người khác những gì con đã phóng chiếu lên chính mình trước.

Khai ngộ kế tiếp ở khóa nhập thất của thày là con bắt đầu thấy những điều con phóng chiếu lên chính mình, và những cố gắng mà con đã làm để ép mình tuân theo viễn kiến thế nào là một đệ tử tâm linh tốt của mình. Thày biết là con đã có quá đủ những gì con có thể hấp thụ với tâm ý thức trong một bài giảng này.

Thày cho con thời giờ để tiêu hóa bài giảng này trước khi chúng ta học bài tới, đối với nhiều người sẽ khó hơn bài này về nhu cầu ngưng phóng chiếu ra ngoài. Phóng chiếu vào trong vi tế hơn nhiều và khó thấy hơn nhiều. Do đó, khai ngộ này rất cần thiết. Thày tin rằng khi con có ý muốn và khi con đã theo khóa học này cho tới điểm này, thì con cũng có thểsẽ đạt khai ngộ này.

Hilarion TA LÀ

Đi từ một viễn kiến thấp đến một viễn kiến cao hơn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 12/1/2017.

TA LÀ chân sư thăng thiên Hilarion. Ở tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày, con đối mặt với khai ngộ của Tia thứ Năm phối hợp với Tia thứ Ba của Tình thương. Khi con tới khóa nhập thất của thày và tham dự các lớp học ở tầng này, thày tìm cách giúp con kết nối lại với tình thương nguyên thủy đã khiến con đầu thai ở kiếp này. Các vị thượng sư khác, dĩ nhiên, đã giúp con làm cùng việc. Thày đặc biệt tìm cách giúp con thấy là có một viễn kiến thuộc Sứ vụ Thiêng liêng của con, và con yêu viễn kiến này hơn là mọi viễn kiến mà con đã có trên con đường tâm linh.

8.1. Cách gian nan hay cách dùng tình thương

Con yêu dấu, con thấy chăng là có hai cách để buông bỏ điều gì đó trên trái đất: cách gian nan và cách dùng tình thương. Cách gian nan là khi con tới điểm nhận ra là con bị đau khổ vì có một ảo tưởng, con có ảo tưởng đó trong tâm, và nó giản dị không phù hợp với điều mà nhiều người cho là thực tại. Dĩ nhiên, thực tại là một khái niệm mơ hồ vì điều mà nhiều người gọi là thực tại chỉ là một biểu hiện tạm thời có mặt vì trái đất đã chìm quá sâu so với tầng nguyên thủy của nó.

Tuy nhiên, nhiều người đã có kinh nghiệm tỉnh ngộ hay va đầu vào tường hay đột nhiên nhận ra là điều họ tin là thật không thật chút nào. Đây là cách gian nan để buông bỏ điều gì đó. Các thày chân sư thăng thiên không chống chuyện học viên buông bỏ một cách gian nan vì buông bỏ điều gì và tiến bước tốt hơn là nắm giữ một ảo tưởng. Nhưng các thày không muốn con buông bỏ một cách gian nan; các thày muốn con buông bỏ bằng cách kết nối trở lại với tình thương trong con người con để con có thể buông bỏ trong vị thế thương yêu vì con biết có cái gì hơn nữa. Khi con buông bỏ một cách gian nan thì con có cảm tưởng là con đã mất đi một cái gì đó. Con cảm thấy trống vắng, con cảm thấy thế gian sụp đổ. Con cảm thấy trong con có khoảng trống không và con không biết điều gì sẽ lấp đầy nó.

Điều thày hy vọng giúp con đạt được ở tầng này của khóa nhập thất của thày là kết nối với lòng thương yêu viễn kiến cao hơn và con thấy rằng viễn kiến cao hơn này hơn rất nhiều những gì con đã thấy cho tới nay. Do đó, con muốn thấy viễn kiến này và buông bỏ viễn kiến cũ không khó khăn vì con biết con sẽ được nhiều hơn rất nhiều thay vào đó. Điều này rất dễ thực hiện ở tầng ê-the trong thể bản sắc ở khóa nhập thất của thày. Dĩ nhiên là mang nó xuống tâm ý thức của con là điều khó khăn hơn, và đây là mục đích của thày khi thày có bài giảng này để con có thể đọc và nghiên cứu. Các thày, dĩ nhiên, không mong muốn giúp con đạt được một tâm thức cao hơn trong thể bản sắc ở các khóa nhập thất, nhưng điều này không truyền sang các tầng tư tưởng, xúc cảm và vật lý, nơi tâm ý thức của con. Con có thể làm gì để kết nối ở tầng tâm ý thức với những gì con trải nghiệm ở khóa nhập thất của thày? Con có thể dùng bài giảng trước của thày trong đó thày nói là con có một viễn kiến cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, và đi xa thêm nữa. Con cũng có thể nhận ra một điều khác mà thày cũng đã nói, đó là để hiểu được một viễn kiến cao hơn, con cần sẵn sàng buông bỏ viễn kiến hiện thời của con. Ở đây chúng ta gặp một vấn đề đặc biệt.

8.2. Ước muốn cảm thấy mình quan trọng

Có người đã bắt đầu con đường tâm linh, hay ngay cả khóa học tự điều ngự này, với một viễn kiến, một mục tiêu, một ham muốn đặc thù nào đó. Tỷ dụ, họ ham muốn là một người quan trọng đang làm điều gì quan trọng để giải cứu trái đất hay nâng cao tâm thức nhân loại hay đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain. Đây là một viễn kiến tích cực. Tự nó không có gì sai trái, nhưng pha trộn vào đó là ham muốn của tự ngã muốn cảm thấy mình đặc biệt hơn so với người khác vì mình đang học giáo lý của các chân sư thăng thiên, hay học với một vị đạo sư nào đó hay học một giáo lý vỏ ngoài nào đó.

Con đang làm nhiều chuyện, như đọc bài chú bài thỉnh, giải quyết các vấn đề trong tâm lý, làm chuyện này chuyện kia. Trong đó có một phần là ham muốn của tự ngã muốn cảm thấy mình đã làm điều gì đặc biệt, làm điều gì có kết quả quyết định. Vì vậy con tâm linh hơn, con thuộc một hạng người đặc biệt. Và đây là điểm vi tế: con nghĩ là Thượng đế hay các chân sư thăng thiên phải đặc biệt chú ý tới con hay phải thưởng con một cách nào đó.

Con rất có thể tạo ham muốn là con đường tâm linh sẽ đưa con tới một mục tiêu khiến con có thể biểu hiện một hoàn cảnh bên ngoài nào đó. Thày có nói là có người có mục tiêu biểu hiện một nhà đẹp, một người phối ngẫu toàn hảo và rất nhiều tiền. Nhiều người tâm linh có mục tiêu được thế giới công nhận, được các chân sư thăng thiên công nhận, hoặc cảm giác là họ đã làm điều gì quyết định để đem lại một thời đại mới trên trái đất.

Con có thể nói: “Ham muốn như vậy có gì sai trái chăng?” Con yêu dấu, đây là điểm vi tế. Con hiểu rằng các chân sư thăng thiên có mục đích tiếp cận con người ở bất kỳ tầng tâm thức nào họ đang có. Nếu một người ở tầng tâm thức thấp nhất được phép có trên trái đất có thể hòa điệu với các thày, thì các thày sẵn sàng làm việc với người đó. Các thày sẽ tiếp cận người đó ở tầng tâm thức của họ và tìm cách giúp người đó lên tầng cao kế tiếp. Đây là phương pháp mà các thày dùng để giúp con người trên trái đất. Dĩ nhiên là trong thực tế có một rào cản khiến nhiều người ở dưới tầng tâm thức 48 không thể kết nối với các thày và do đó các thày không thể làm việc trực tiếp với họ. Một khi một người có thể hòa điệu với các thày bằng cách nào đó, dù chỉ chợt thoáng, thì các thày sẵn sàng làm việc với người đó, và do đó các thày dĩ nhiên phải tiếp cận người đó ở tầng tâm thức của họ.

8.3. Buông bỏ viễn kiến thấp

Khi học viên bắt đầu khóa học tự điều ngự này, đa phần bắt đầu ở tầng thứ 48. Một số bắt đầu ở dưới tầng 48, và do đó các thày biết là chuyện tự nhiên, không tránh được và hoàn toàn thỏa đáng là con cần một động lực để bắt đầu con đường tâm linh, bắt đầu khóa học này. Dĩ nhiên là động lực của con dựa trên các ước muốn của con, dựa trên viễn kiến mà con có ở tầng tâm thức đó. Một lần nữa, không có gì sai trái với điều này. Con không thể tiếp nhận một viễn kiến cao hơn tầng tâm thức của con. Điều tự nhiên là cách con nhìn cuộc đời và những ước muốn, tham vọng và mục tiêu của con dựa trên và bị ảnh hưởng bởi viễn kiến con có ở tầng đó.

Các thày cũng muốn giúp con thấy là con cần liên tục bước lên cao hơn. Nhiều học viên tới tầng này của khóa nhập thất của thày và họ đã theo khóa tự điều ngự cho tới điểm này, nhưng họ chưa buông bỏ ham muốn mà họ có khi bắt đầu. Họ vẫn giữ trong tâm ý tưởng là khi họ tiến bước trong khóa học này, họ phải xây dựng được khả năng tự điều ngự khiến tâm họ làm chủ được vật chất và giúp họ biểu hiện hoàn cảnh bên ngoài mà họ mong muốn khi họ bắt đầu học khóa này.

Con yêu dấu, thày không nghĩ là con có thể hoàn tất khóa học này mà vẫn giữ cùng viễn kiến và ước muốn khi con bắt đầu khóa học. Thày bảo đảm với con là nếu điều này xảy ra, thì con đã không tốt nghiệp khóa học. Chuyện xảy ra là khi con tới tầng 96 của khóa học (thày nhấn mạnh là thày nói tầng 96 của khóa học chứ không phải tầng tâm thức thứ 96), con sẽ dùng tất cả động lực mà con thu thập trên con đường tu để thể hiện hoàn cảnh bên ngoài mà con ao ước. Lúc đó, thay vì đưa con về hướng tầng 144 và quả vị Ki-tô, nó sẽ bắt đầu kéo con xuống thấp hơn. Con sẽ bắt đầu dùng vũ lực để thể hiện viễn kiến đó và do đó con sẽ bắt đầu đi về các tầng tâm thức thấp hơn.

Con yêu dấu, con thấy chăng là yêu cầu tuyệt đối để đạt những khai ngộ của khóa học này là con sẵn sàng buông bỏ viễn kiến cũ và tiếp nhận viễn kiến cao hơn, ước muốn cao hơn, mục tiêu cao hơn. Đây là chỗ, ở tầng này của khóa nhập thất của thày, con cần nhìn vào cách con sử dụng viễn kiến.

8.4. Làm sao con sử dụng hay lạm dụng viễn kiến một cách tích cực

Thày có nói là viễn kiến không phải là một khả năng thụ động; nó cũng có khía cạnh tích cực. Đúng là với đa số con người trên trái đất, viễn kiến chủ yếu thụ động vì họ chỉ nhận vào. Họ không phóng chiếu ra bao nhiêu vì họ không chịu nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời họ. Họ còn không chịu nhìn nhận là họ có quyền năng trong tâm họ để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài. Họ chấp nhận rằng họ không làm gì được để cải đổi hoàn cảnh sống của họ, và do đó họ không dùng khía cạnh tích cực nhất của viễn kiến của họ là phóng chiếu ra ngoài.

Dĩ nhiên là họ sử dụng viễn kiến một cách tích cực khi viễn kiến của họ ảnh hưởng những cảm giác khi nhận tín hiệu bên ngoài. Thày có giảng vì sao phin lọc trong ba thể cao (và ngay cả ở tầng não bộ vật lý) bóp méo tri giác của con, bóp méo những gì con thấy. Chuyện xảy ra là các phin lọc này sẽ loại đi tất cả những gì thách đố viễn kiến của con về đời sống. Nếu viễn kiến này cho rằng con không thể làm gì để cải đổi hoàn cảnh sống, thì phin lọc sẽ loại đi những gì đi quá niềm tin này. Do đó, con sẽ thấy là thế giới hạn chế khả năng thay đổi của con.

Khi con là một người tâm linh và chấp nhận là con có thể thay đổi hoàn cảnh sống của con bằng cách thay đổi tâm thức của mình, thì con bắt đầu sử dụng uy lực của viễn kiến một cách tích cực hơn. Ở khóa nhập thất của thày, thày có một dụng cụ có thể gọi là dụng cụ công nghệ có thể cho con thấy những gì con không thấy được bằng tâm ý thức. Thày có thể chỉ cho con thấy những phóng chiếu, những xung lực mà con gửi đi từ bốn thể phàm. Thày làm điều này một cách tuần tự, vì đa số học viên bị chấn động khi họ thấy số lượng những thứ mà họ liên tục phóng chiếu ra, do đó thày phải đi rất từ từ. Thày muốn giúp con thấy là những gì con phóng chiếu luôn luôn có hậu quả vì, như thày có nói, nó sẽ đi vào tấm gương vũ trụ. Trong tấm gương vũ trụ, nó có thể trở nên vô hiệu hay giảm thiểu do lực chống kháng của tâm thức tập thể nhưng nó vẫn có tác động trên con.

Con yêu dấu, con thấy chăng là khi con phóng chiếu ra điều gì, con biết trong tiềm thức là thế giới dựa trên nguyên tắc hành động và phản ứng. Nếu con nắm chặt một viễn kiến nào đó (tỷ dụ ước muốn được nhìn nhận bởi thế gian), thì con phóng chiếu từ tiềm thức một xung lực và chờ đợi một kết quả nào đó. Dù con có cảm thấy có sự trả về hay không, nó vẫn ảnh hưởng tiềm thức của con. Nếu con không cảm thấy sự trả về, trong tiềm thức con nghĩ con không để đủ sức lực vào sự phóng chiếu, và do đó con gia tăng sức lực. Điều này khiến con càng lúc càng dùng nhiều năng lượng để phóng chiếu. Trong tâm ý thức, điều này cũng có thể khiến con có một thúc đẩy gần như không cưỡng nổi phải làm nhiều hơn bất cứ điều gì con đang làm.

Con thấy nhiều người tâm linh tìm ra một giáo lý dạy một số thủ tục và giờ đây họ gần như bị ám ảnh phải làm các thủ tục đó. Thủ tục này có thể là thiền, yoga, đọc bài chú, đọc bài thỉnh. Họ làm càng ngày càng nhiều vì trong tiềm thức họ chờ đợi sẽ nhận trả về một kết quả bên ngoài mà họ mong muốn. Khi họ không thấy kết quả này, họ nghĩ: “Ồ, tôi phải làm nhiều hơn nữa”.

Mặt khác, khi học viên cảm thấy có sự trả về, thì nhiều người nghĩ: “Nhưng tôi phải làm nhiều hơn, vì tôi nhận về chưa đủ.” Học viên có thể trải qua giai đoạn thực hành thủ tục càng ngày càng nhiều. Có lẽ đa số các con, khi nhìn lại đời mình, sẽ nhìn nhận là đã trải qua hay đang trong giai đoạn gần như bị ám ảnh phải làm một thủ tục vỏ ngoài. Thày không nói điều này để chỉ trích hay lên án con. Khi thày chưa thăng thiên, chính thày đã trải qua giai đoạn đó trong nhiều kiếp sống, khi thày rất, rất cố gắng thực hành một thủ tục nào đó.

Một lần nữa, điều này không có gì sai trái, nhưng đó là một giai đoạn trên con đường tu của con, và nay đã đến lúc con bước lùi lại và xem xét vấn đề. Đã đến lúc con nhận ra là nếu con có nhu cầu không cưỡng nổi phải làm một thủ tục tâm linh nào đó, điều đó sẽ ngăn chặn viễn kiến của con. Nó sẽ ngăn chặn khả năng trụ vững chắc vào viễn kiến trong Sứ vụ Thiêng liêng của con vì con nghĩ (trong bốn thể phàm) làm thủ tục đó quan trọng hơn mở tâm ra với viễn kiến.

8.5. Hai chức năng cơ bản của tâm

Con có thấy chăng nguyên lý mà thày đang muốn con nhận ra? Tâm con người là một dụng cụ rất tinh vi, rất tế nhị nhưng nếu con quy nó lại những chức năng cơ bản nhất, thì nó có hai chức năng cơ bản. Điều này minh họa điều mà Mẹ Mary đã gọi là lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ.

Đây là một điểm vi tế không dễ hiểu, và thày đã thấy nhiều học viên gặp khó khăn hiểu thấu. Thày vừa nói là một khía cạnh của tâm là phóng chiếu, và vì nguyên lý Cha là lan ra, con có thể nghĩ là khi con phóng chiếu ra, con sử dụng khía cạnh Cha của tâm. Điều này không đúng. Con yêu dấu, con thấy chăng là nguyên lý Cha là lực lan ra, và trong trường hợp này có nghĩa là Hiện diện TA LÀ. Hiện diện TA LÀ giống như mặt trời luôn luôn tỏa ánh sáng. Nó cũng là cánh cửa mở để các chân sư thăng thiên tỏa năng lượng, ánh sáng và viễn kiến xuống con. Nguyên lý Mẹ của tâm là bốn thể phàm, và dĩ nhiên, cũng là cái Ta Biết. Bây giờ, các thày đã giảng gì về cái Ta Biết? Nó là nhận biết thuần khiết. Các thày cũng có nói là cái Ta Biết có khả năng tập trung sự chú ý vào, hay xuyên qua bốn thể phàm, và cũng có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm và như vậy mở ra với Hiện diện TA LÀ. Con không thể làm cả hai điều này cùng một lúc.

Đây là điều mà nhiều học viên không thấu hiểu. Họ không có kinh nghiệm “ngộ” ở tâm ý thức khi họ thấy điều này. Con biết là con không thể cho ra và nhận vào cùng một lúc, con không thể hướng sự chú ý vào hai chỗ cùng một lúc. Chuyện xảy ra là, khi cái Ta Biết đồng hóa với bốn thể phàm và chú tâm vào việc tự biểu hiện trong thế giới vật chất, con đang dùng lực co lại của Mẹ để tập trung năng lượng và sự chú ý vào bốn thể phàm.

Quả thực là khi con có viễn kiến về một mục tiêu nào đó, con hướng ánh sáng ra ngoài. Có thể nói là con dùng nguyên lý Cha để hướng ánh sáng ra ngoài. Điều thày muốn giảng là để có thể hướng ánh sáng ra ngoài, con cần hướng ánh sáng xuyên qua cái gì đó, con cần một khuôn đúc tư tưởng, một khuôn đúc viễn kiến để con hướng ánh sáng xuyên qua. Để tạo ra khuôn đúc này, để tập trung năng lượng của con xuyên qua khuôn đúc này (chớ không phải hướng ra mọi phía), con phải tạo ra một sự co lại, một sự tập trung nơi bốn thể phàm của con.

8.6. Con phóng chiếu ra bao nhiêu năng lượng

Phần lớn tiến trình này xảy ra nơi tiềm thức. Điều thày muốn nói là khi con tập trung như vậy vào bốn thể phàm, nó sẽ thu hút sự chú ý của cái Ta Biết. Do đó, con không thể bước ra ngoài bốn thể phàm và nhận viễn kiến cao hơn, viễn kiến từ Sứ vụ Thiêng liêng, từ Hiện diện TA LÀ của con. Con yêu dấu, con không thể làm cả hai việc cùng một lúc; chuyện này không thể làm được. Hoặc con chú tâm vào một mục tiêu, hoặc con mở tâm ra đón nhận một viễn kiến mới từ bên trên. Điều mà thày giúp học viên thấy qua dụng cụ mà thày có ở khóa nhập thất là các khuôn đúc trong tiềm thức đang thu hút sự chú ý của họ.

Học viên thường ngạc nhiên vì họ không biết một cách ý thức là họ có các khuôn đúc này. Họ không ngờ là có bao nhiêu năng lượng chảy qua các khuôn đúc tiềm thức này. Họ ngạc nhiên vì thày có thể minh diễn cho họ, thày có thể chỉ trên một màn ảnh có bao nhiêu năng lượng đến từ Hiện diện TA LÀ, bao nhiêu năng lượng đi vào thể bản sắc, và ở tầng thấp nhất có bao nhiêu năng lượng đi ra từ hào quang của họ ở tầng ý thức. Thày có thể chỉ cho họ thấy là có một khối năng lượng đi vào và có một khối năng lượng đi ra (mà họ có thể điều khiển một cách ý thức). Đa số học sinh rất chấn động khi thấy khác biệt giữa năng lượng đi vào và năng lượng mà họ có thể sử dụng một cách ý thức.

Tỷ dụ, nếu con thấy có một số lượng năng lượng chảy vào từ Hiện diện TA LÀ thì lý tưởng đây là năng lượng sáng tạo mà con có thể sử dụng ở tầng ý thức để biểu hiện một mục tiêu nào đó. Nếu con thấy là con chỉ có 10 phần trăm có thể dùng ở tầng ý thức, thì tự nhiên là con tự hỏi 90 phần trăm kia, hay bất cứ tỷ lệ nào thích ứng với tình trạng riêng của con, đi đâu. Thày có thể chỉ cho con thấy ở đâu con có sự tập trung, có khuôn đúc trong một trong ba thể cao đang hút năng lượng của con. Năng lượng này chảy vào khuôn đúc, nhưng vì con không biết đến nó một cách ý thức và do đó con không điều khiển nó được trong ý thức. Lý do thày nêu lên điểm này là để con nhận ra cách nhanh nhất con có thể tiến bộ ở tầng này của khóa nhập thất của thày, là con sẵn sàng nhìn một cách ý thức vào các mục tiêu, cách con tiếp cận, cách tiếp cận cơ bản của con về con đường tâm linh.

8.7. Xem xét động cơ thúc đẩy con

Động cơ nào thúc đẩy con đi con đường tâm linh từ trước tới nay? Nếu thày hỏi con câu đó, con nghĩ đến điều gì trước tiên? Động lực cơ bản nào thúc đẩy con đi con đường tâm linh? Con hy vọng đạt được gì cho chính mình? Con hy vọng đạt được gì cho thế gian và điều này cho thấy con hy vọng đạt được gì cho chính con?

Có nhiều học viên sẽ trả lời tức khắc: “Con muốn nâng cao tâm thức, con muốn giải thoát con người, con muốn giúp đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain, con muốn giúp các chân sư thăng thiên.” Khi con trung thực hơn và nhìn kỹ hơn, thì con nhận ra là quả thực đây là những mục tiêu vỏ ngoài, và nếu các mục tiêu này được thể hiện, thì con sẽ có cảm nhận biết mình đã đóng góp vào việc thể hiện mục tiêu đó. Đây là động cơ cá nhân của con, nghĩa là điều con hy vọng đạt được cho chính mình.

Con tìm trải nghiệm gì khi con đi trên con đường tâm linh? Đối với nhiều học viên, tìm ra câu trả lời rất khó khăn. Thày biết là ở tầng tâm ý thức, con rất khó tìm ra câu trả lời vì con đã nhiều năm đi trên con đường tâm linh, học giáo lý, thực hành một số thủ tục. Như thày có nói, đa số học viên tới điểm này, là một điểm khá cao trên con đường tâm linh, đã bỏ ra nhiều thì giờ và nhiều nỗ lực thực hành một số thủ tục. Điều đáng tiếc là hậu quả của sự nỗ lực này là khuôn đúc tiềm thức (là khuôn đúc của điều con muốn đạt được khi con đi trên con đường tâm linh) càng ngày càng được củng cố. Con đã đổ năng lượng vào đó; có lúc con đã củng cố viễn kiến của nó.

8.8. Cửa sổ kính màu của tiềm thức

Con hãy để thày minh họa một cách thô thiển điều xảy ra trong tiềm thức. Nó thô thiển vì không có minh họa nào liên quan đến điều vật lý lại có thể bao hàm đầy đủ điều xảy ra nơi trường năng lượng, nhưng nó vẫn giúp nhiều học viên. Con hãy tưởng tượng trường năng lượng của con là một không gian khép kín và để thể hiện bất cứ điều gì, bất cứ hoàn cảnh nào trong thế giới vật chất, con cần phải gửi ra ánh sáng và năng lượng, con phải hướng và phóng chiếu ánh sáng và năng lượng ra khỏi trường năng lượng của con. Dĩ nhiên là con không muốn hướng ánh sáng một cách ngẫu nhiên, con muốn ánh sáng có một hình dạng nào đó, và do đó con không chỉ phóng chiếu ánh sáng mà con phóng chiếu một khuôn đúc.

Chúng ta hãy tưởng tượng trường năng lượng của con giống như một thánh đường cổ có cửa sổ kính màu. Các cửa sổ này gồm nhiều mảnh kiếng màu được sắp xếp theo một mô thức tinh xảo. Con đã tạo trong trường năng lượng của con những cửa sổ tròn như thế, chúng có một khuôn đúc và màu sắc, một hình dạng và màu sắc, và chúng uốn nắn ánh sáng mà con phóng chiếu ra. Bây giờ thì con dùng những khuôn đúc đó để phóng chiếu ra thế giới. Khi thày chỉ cho con thấy là có khuôn đúc trong tiềm thức hút nhiều năng lượng của con, thì khi con xem xét kỹ hơn thì con thấy nó giống như các cửa sổ trong thánh đường, một cửa sổ tròn với nhiều mảnh kính màu sắp xếp tinh xảo. Khi con nhìn kỹ thì con nhận ra là khi con đi trên con đường tâm linh cho tới lúc này, đã nhiều lần giáo lý và các thủ tục tâm linh đã củng cố khuôn đúc đó. Con đã làm cho cửa sổ chắc chắn hơn, con đã khiến cho lớp kính dày hơn, các sợi dây chì giữ các mảnh kính đã trở nên rắn chắc hơn, màu sắc nồng hơn, dày đặc hơn. Kết quả là con càng khó buông bỏ khuôn đúc này hơn.

Con yêu dấu, một khuynh hướng tự nhiên (mà chúng ta ai ai đều có) là khi ta bỏ nhiều nỗ lực làm điều gì, thì ta cảm thấy phải có một kết quả trở lại từ vũ trụ. Chúng ta càng phóng chiếu ra nhiều, thì chúng ta càng mong muốn nhận trở lại cái gì tương xứng với cái mà chúng ta phóng chiếu ra. Điều lạ lùng là những người làm điều được cho là “xấu” thực sự muốn bị trừng phạt vì những gì họ đã làm.

Dù con người làm điều mà họ nghĩ là tốt hay làm điều mà họ nghĩ là xấu, trong tiềm thức họ muốn nhận dòng trả về từ vũ trụ. Tại sao vậy? Vì mục đích của thế giới vật chất là con thử nghiệm dùng các quyền năng sáng tạo của mình. Con gửi ra ngoài một điều gì, và nếu không có gì gửi trả về, làm sao con biết được mình đã gửi ra điều gì và hậu quả là gì?

8.9. Khám phá những động lực vị kỷ

Điều mà thày muốn chỉ rõ ở đây là khi con tới điểm này của khóa nhập thất của thày, con cần dùng óc suy xét để nhìn vào sự tu tập tâm linh của con, con quan niệm con đường tâm linh như thế nào, và động lực nào thúc đẩy con đi trên đường tâm linh. Nhiều học viên ở tầng này của khóa nhập thất của thày đã bị chấn động khi họ nhìn vào những điểm này. Họ chấn động khi thấy rằng điều họ tin chắc (với tâm ý thức) là động lực hoàn toàn vị tha thật ra là một động lực rất vị kỷ. Họ chỉ giản dị dùng con đường tâm linh để được thế giới công nhận. Ít ra là họ hy vọng được thế giới công nhận.

Thày biết là con sẽ chấn động nếu con nhận ra điều này với tâm ý thức của con. Thày cũng biết rằng nếu con không nhận ra điều này, con không thể tiến bước trong việc nâng cao tâm thức. Con không thể vượt qua chướng ngại lớn nhất trên đường tâm linh. Một lần nữa, điều này rất vi tế và thoạt trông có vẻ là mâu thuẫn.

Thày vừa nói là mục đích cuộc đời, mục đích của việc đầu thai, là để thí nghiệm với khả năng sáng tạo. Con tạo ra một khuôn đúc trong tâm, con hướng năng lượng sáng tạo và ánh sáng xuyên qua đó và con đợi xem tấm gương vũ trụ gửi trả về điều gì. Dựa trên những gì được trả lại, con điều chỉnh khuôn đúc trong tâm và lại hướng năng lượng xuyên qua nó. Con tiếp tục làm như vậy và tiếp tục sửa sang khuôn đúc cho tới khi con nhận được đúng những gì con muốn từ vũ trụ – ít ra là con nghĩ như vậy.

Con yêu dấu, con thấy chăng là mọi chuyện đều có giai đoạn. Có một điểm con làm những điều thày vừa mô tả là điều hoàn toàn chuẩn, hoàn toàn đúng, hoàn toàn xây dựng. Trong giai đoạn đó, điều tự nhiên và không thể tránh là con có ý tưởng rất vi tế là con phải trở nên càng ngày càng giỏi trong việc tạo ra khuôn đúc. Con nghĩ con phải gày dựng càng ngày càng nhiều động lượng trong việc hướng ánh sáng xuyên qua các khuôn đúc, hầu đạt được điều ngự và có thể biểu hiện bất cứ hoàn cảnh vật chất nào mà con mong muốn. Con có ý tưởng này là điều tự nhiên, nhưng như thày có nói ở trên, chỉ có sa nhân mới gày dựng được đủ động lượng để ép buộc vũ trụ vật chất tuân theo viễn kiến của chúng (tuy họ cũng chỉ thành công tạm thời).

Con là một người tâm linh; con không đi con đường tả đạo của sa nhân và đoàn chưởng giáo giả. Con đang đi con đường của quả vị Ki-tô, con đường của chân sư thăng thiên. Mục đích của con đường này là đưa con tới điểm con nhận ra là ước muốn kiểm soát vũ trụ vật chất không phải là mục tiêu thực của con.

Như các thày có giảng, mục đích của việc đầu thai vào cõi vật chất là con có hai giai đoạn. Giai đoạn đầu là giai đoạn trầm mình, trong đó con hoàn toàn trầm mình vào đời sống của hành tinh nơi con đầu thai. Con trầm mình trong cuộc sống; con tìm cách hiểu cuộc sống, hiểu cuộc sống vận hành ra sao. Con tìm cách mở rộng sự nhận biết của mình, và con cũng tìm cách mở rộng khả năng biểu hiện hoàn cảnh bên ngoài. Sau đó, con bắt đầu giai đoạn tỉnh giác, và những ai theo học khóa học này đã từ lâu bắt đầu giai đoạn tỉnh giác.

Mục đích của giai đoạn tỉnh giác không phải là đạt được khả năng làm chủ hoàn toàn việc biểu hiện vật chất để con có thể biểu hiện bất cứ hoàn cảnh vật chất nào mà con mong muốn. Mục đích của giai đoạn tỉnh giác là con nhận ra con là một sinh thể tâm linh chứ không phải một sinh thể vật chất. Do đó, như thày có nói trong bài giảng trước, mục tiêu của con không liên hệ đến vật chất. Mục đích thật sự trong Sứ vụ Thiêng liêng của con không phải là biểu hiện một số hoàn cảnh vật chất trong kiếp sống này. Mục đích thật sự của con là chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô, nơi đó con trở nên độc lập với hoàn cảnh vật chất.

8.10. Một thách đố lớn trên con đường tâm linh

Con có thấy chăng là con có thể đi con đường tâm linh trong nhiều năm nhưng vẫn còn trong tiềm thức khuôn đúc cho rằng nếu con đạt được trạng thái tâm thức tâm linh cao nhất (bất kể con định nghĩa trạng thái này là gì), con sẽ có thể hoàn toàn kiểm soát vật chất và biểu hiện bất cứ hoàn cảnh vật chất nào con mong muốn. Con yêu dấu, có nhiều học viên đã bị quyến rũ hay ta có thể nói là bị ám ảnh bởi quan niệm biến hóa thần bí (alchemy) hay biểu hiện. Họ đã bỏ ra nhiều công sức để tới điểm có thể biểu hiện, tỷ dụ, vàng hay ngọc thạch anh, hay bất cứ vật gì họ muốn. Có người đã tìm cách bẻ cong thìa sắt hay biểu diễn những kỳ công tương tự. Tất cả những việc này chỉ củng cố khuôn đúc tiềm thức. Khuôn đúc này càng mạnh thì nó lại càng thu hút sự chú ý của cái Ta Biết. Sự thu hút này càng mạnh thì cái Ta Biết lại càng bị ngăn chặn không bước ra ngoài bốn thể phàm và mở cửa hoàn toàn đón nhận viễn kiến của Sứ vụ Thiêng liêng.

Con yêu dấu, con có bắt đầu thấy thày muốn dẫn con tới đâu chăng? Thày muốn dẫn con tới điểm nhận ra là chìa khóa của viễn kiến không phải là tập trung mà là cởi mở. Dĩ nhiên là câu nói này cần được giảng rõ. Con sống trong một thế giới có một trạng thái tâm thức đại chúng rất hỗn độn, có nghĩa là bốn thể phàm của hành tinh trái đất (trong đó bốn thể phàm của con hiện hữu) rất hỗn độn. Quả đúng là nếu con mở tâm đón nhận tất cả những ý tưởng và viễn kiến đang hiện hành thì sự chú tâm của con sẽ bị kéo về mọi hướng và con sẽ không hoàn thành được điều gì. Do đó, con có thể nói một cách đúng đắn là muốn hoàn thành một việc nào đó, con cần chú tâm, con cần tập trung. Con cần ngăn chặn tất cả những điều tới từ cõi vật chất. Có học viên đã nói với thày: “Nhưng thày Hilarion, làm sao con đã tiến triển tới mức này của con đường tâm linh nếu con không chú tâm vào nó?” Điều này hoàn toàn đúng. Con cần phải chú tâm vào nó, nhưng bất cứ điều gì trên trái đất cũng cần quân bằng.

Khi con làm điều gì thái quá, con tạo một bất quân bằng và sẽ có lúc sự bất quân bằng đó sẽ gây trở ngại trên con đường tu của con. Đây là điều thày muốn nói con. Con đã tới điểm thày không nói con mở tâm đón nhận những viễn kiến khác đang hiện hành trong bốn thể phàm của vũ trụ vật chất chung quanh trái đất. Thày muốn con mở tâm ra đón nhận Hiện diện TA LÀ của con và viễn kiến trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Để làm việc này, con cần nhìn vào khuôn đúc tiềm thức mà con đã tạo ra, khuôn đúc đã thúc đẩy con, đã kéo con đi trên con đường tâm linh cho tới điểm này. Con cần nhận ra những giới hạn của nó. Con cần bắt đầu nhìn nhận một cách ý thức những giới hạn đó, và sau đó con phải tới điểm quy hàng, như Mẹ Mary mô tả. Con nhận ra là những gì con đã làm đã dẫn con tới điểm này, nhưng chúng không thể dẫn con đi xa hơn nữa. Do đó, con đã tới điểm cởi mở và con nói: “Bước kế tiếp của con là gì? Điều gì trước kia con chưa làm mà bây giờ con cần làm? Điều gì trước kia con chưa thấy mà bây giờ con cần thấy?” Con càng cởi mở thì viễn kiến con nhận được sẽ càng sáng tỏ hơn.

8.11. Thẩm định phương pháp tu của con

Con yêu dấu, có học viên gặp rất nhiều khó khăn mới để hiểu điều này. Có khi thày phải nói họ ngưng phương pháp tu mà họ đã theo đuổi cho tới nay. Thày không nói là điều này nhất định áp dụng cho con. Thày biết là có học viên đã thực tập cầu thỉnh ánh sáng tâm linh từ mấy chục năm nay. Điều thày muốn con làm là xem xét phương pháp tâm linh con đang thực tập và tự hỏi: “Nếu con ngừng nó ngay bây giờ, con sẽ phản ứng ra sao?”

Ý tưởng nào, cảm xúc nào dâng lên trong con khi con suy ngẫm việc ngưng phương pháp tu tập, tạm nghỉ một thời gian? Con có cảm thấy sợ hãi, con có cảm thấy hốt hoảng? Phải chăng có đủ loại tư tưởng nổi lên, biện minh là con không nên làm thế, vì sao con cần tiếp tục điều con đang làm? Ý tưởng càng mãnh liệt, phản ứng càng mãnh liệt, thì dính mắc của con vào phương pháp tu đó càng nặng. Dính mắc càng nặng, con càng bị ngăn chặn không thấy được viễn kiến mới. Con yêu dấu, không thể có cách nào khác hơn.

Con thấy chăng, sẽ có một điểm trên con đường tu khi con phải nhận ra một sự kiện giản dị. Thày gọi nó là giản dị, nhưng dĩ nhiên, rất khó để hiểu nó thấu đáo, và con cần hiểu thấu nó qua nhiều giai đoạn. Điều này được biểu trưng qua câu nói của Giê-su: “Tự ta, ta không làm được điều gì cả.” Thày cũng nhận xét thêm: “Cha ta ở trong ta là người làm việc”. Sẽ có một điểm trên con đường tâm linh nơi con không thể đi xa hơn với tâm vỏ ngoài.

Khi con bắt đầu con đường tâm linh, trong giai đoạn đầu con cần nâng mình lên khỏi từ lực hút (magnetic force)của tâm thức đại chúng, tâm thức tập thể. Điều này cần chú tâm, quyết tâm. Nó đòi hỏi điều mà con đã làm cho tới nay, tức là tập trung vào việc thực hành một phương pháp mà không nhìn trái nhìn phải. Con không suy ngẫm xem con có cần thực hành phương pháp đó hay không vì con đã quyết định làm vậy. Con cần tiếp tục làm để gây dựng động lượng. Nhưng sẽ tới một điểm con đã nâng mình ra khỏi từ lực hút của tâm thức tập thể, và lúc đó con không cần làm như trước nữa. Con cần làm một cái gì khác hơn ở tầng cao hơn. Nếu tâm vỏ ngoài của con không sẵn sàng chấp nhận điều này, sự tiến triển của con sẽ bị ngăn trở. Có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã đọc chú từ quá lâu đến độ tiến bộ tâm linh của họ bị ngăn trở. Không có nghĩa là họ cần ngưng hoàn toàn, nhưng họ cần thay đổi cách họ thực tập. Họ không thể nhận viễn kiến đó nếu họ không chịu xem xét có nên từ bỏ phương pháp cũ hay không. Con yêu dấu, con có thấy chăng là trong giai đoạn con nâng mình ra khỏi sức hút của tâm thức tập thể, có đủ loại tà lực (và lực của những người khác và của chính tâm thức tập thể) lôi kéo con để con bỏ phương pháp tu, để con bỏ ý tưởng có thể nâng mình lên trên tâm thức tập thể. Họ nói con phải giống như mọi người khác.

Sau đó, sẽ tới một điểm, là nơi con đã tới bây giờ, con cần buông bỏ phương pháp tu của con, nghĩa là buông bỏ để tiến lên cao hơn về phía Hiện diện TA LÀ của con. Con cần sẵn sàng nói với Hiện diện TA LÀ của con: “Con buông bỏ sự chú tâm bằng tâm vỏ ngoài vào điều con nghĩ con phải làm, con sẵn sàng hoàn toàn cởi mở và lắng nghe TA LÀ. Xin TA LÀ chỉ cho con thấy con cần làm gì để lên cao hơn trên con đường tu.” Đây là buông bỏ để lên cao hơn, và con yêu dấu, con đường tới quả vị Ki-tô sẽ đòi hỏi con làm điều này nhiều lần. Buông bỏ viễn kiến con có ngay bây giờ để nhận được một viễn kiến cao hơn.

8.12. Nguyên lý buông bỏ để hướng về trên

Mỗi bước con tiến tới, con đã buông bỏ một cái gì. Điều thày muốn con làm lúc này là ghi khắc trong tâm ý thức nguyên lý buông bỏ để hướng lên cao, buông bỏ điều con thấy với tâm vỏ ngoài, với tâm ý thức, điều con đang chú tâm vào. Con cần buông bỏ những khuôn đúc trong tiềm thức. Ta có thể nói là xin được viễn kiến cao có hai khía cạnh. Con cần xin Hiện diện TA LÀ hay một chân sư thăng thiên (mà con cảm thấy con đang làm việc với) chỉ cho con thấy khuôn đúc trong tiềm thức mà con đang cần giải quyết ngay bây giờ vì nó đang ngăn chặn không cho con tiến bước kế tiếp trên con đường tu. Con đang tập trung năng lượng vào phàm linh nào, tự ngã nào, khuôn đúc nào?

Con cần sẵn sàng nhìn nó và thấy những giới hạn của nó. Sau đó, con cần hỏi khuôn đúc cao hơn là gì, viễn kiến cao hơn là gì? Lúc đó con có thể có hành động Alpha và Omega. Con cần gì để làm được việc này? Con cần tình thương. Thày có nói là có cách gian nan và cách của tình thương. Thày không muốn con tiếp tục đi trên con đường tâm linh bằng cách gian nan qua nhiều lần tỉnh giác chấn động.

Con có thể đi từ tầng tâm thức 48 đến tầng tâm thức 96, và ở mỗi tầng con trải nghiệm một kinh nghiệm chấn động như vậy. Cách đi này khả thi, và có người đã làm như vậy, nhưng đi cách nhẹ nhàng có phải hay hơn chăng? Muốn vậy, con cần trau dồi ý muốn luôn luôn (không cần phải ở mọi lúc nhưng đều đặn mỗi khi con cảm thấy cần thiết) đứng lùi lại và xin có viễn kiến: “Giới hạn là gì, viễn kiến cao hơn là gì?”

Để làm điều này, con cần biết một cách ý thức động lực thật sự thúc đẩy con đi trên con đường tâm linh. Thày có nói là con có một động lực đã thúc đẩy con cho tới lúc này. Khi con thiết lập Sứ vụ Thiêng liêng của con cho kiếp sống này, con có một động lực cao hơn và con cần phải trụ trong đó nếu con sẵn sàng làm điều mà thày đã giảng: mở tâm ra đón nhận nó. Thày dĩ nhiên sẽ giúp con, Hiện diện TA LÀ của con sẽ giúp con, các chân sư khác sẽ giúp con – con chỉ cần hỏi.

Khi con đọc bài thỉnh đi đôi với bài giảng này, khi con đọc xong, con hãy ngừng giây lát, trụ vào tim càng vững càng tốt, và hỏi. Đầu tiên, con hãy xin cho con thấy động lực thật khiến con đi trên con đường tu, con thật sự ước mong hoàn tất điều gì trong kiếp sống này. Sau đó, xin cho con thấy giới hạn mà con cần giải quyết ngay lúc này, khuôn đúc trong tiềm thức mà con cần giải quyết ngay lúc này. Sau đó, xin cho con thấy viễn kiến cao hơn sẽ nâng con lên quá giới hạn đó để con có thể giản dị buông bỏ nó mà không cảm thấy phải ép buộc mình, hay phải tiêu trừ nó, hay phải lên án mình.

8.13. Con sẽ có một viễn kiến giới hạn

Con yếu dấu, con có thấy chăng là thày Serapis Bey đã có nỗ lực tuyệt vời giúp con thấy được những gì con cần thấy và chỉ việc tiếp tục tiến bước đi. Thày biết tiến trình này có nhiều giai đoạn, và đó là lý do thày cũng giúp con tới điểm nhận ra là việc có một viễn kiến giới hạn không đáng hổ thẹn.

Thày là chân sư của viễn kiến. Mục tiêu của thày là cho con một viễn kiến cao hơn viễn kiến con hiện có. Nếu con đã có viễn kiến cao nhất, thì thày đâu còn việc gì để làm? Thày biết con có viễn kiến giới hạn khi con tới khóa nhập thất của thày, vì nếu không con đã không tới. Tình thương thúc đẩy thày giúp con đạt được một viễn kiến cao hơn. Thày không chú tâm vào sự kiện con có một viễn kiến giới hạn. Thày không tìm cách chỉ viễn kiến đó ra, phân tích nó và mổ xẻ với dao giải phẫu. Thày tìm cách giúp con thấu hiểu viễn kiến cao hơn và sau đó buông bỏ, một cách không cố gắng và với đầy tình thương, viễn kiến giới hạn và đón nhận viễn kiến cao hơn.

Thày chú tâm vào viễn kiến cao hơn chứ không chú tâm vào viễn kiến thấp. Tuy nhiên có trường hợp con cần thấy một số khía cạnh của viễn kiến thấp, thấy vì sao nó giới hạn mình trước khi con có thể buông bỏ nó. Không có gì phải hổ thẹn. Thày không chỉ trích con đâu. Thày chỉ luôn luôn chú tâm vào viễn kiến cao hơn. Khi con chú tâm vào viễn kiến cao hơn, tại sao con lại quan tâm về viễn kiến thấp, về việc mình có viễn kiến thấp? Chính việc con thấy mình có viễn kiến thấp đã là nền móng để chấp nhận viễn kiến cao hơn. Thấy mình có một viễn kiến giới hạn là dụng cụ để vượt qua nó và tiến lên tiếp. Vì sao cần kháng cự điều này? Vì sao cần chỉ trích mình? Vì sao cảm thấy không vui?

Con yêu dấu, tình thương không phải là cái màu hồng mà người ta gán lên nó. Con có thể nói là một khía cạnh của tình thương là thấy một giới hạn và thương mình thoát ra khỏi nó. Điều lý tưởng là con nhận ra điều này một cách có ý thức ở tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày. Sau đó, con trụ vững chắc vào viễn kiến dựa trên tình thương của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Có thể là con chưa thấy điều này một cách rõ ràng lúc này, nhưng con sẽ thấy là để đi trên con đường riêng tới quả vị Ki-tô (mà con có tiềm năng hoàn thành trong kiếp sống này), con cần đi rất xa quá viễn kiến của con đường tâm linh mà con đang hiện có.

Con cần phải vươn lên rất cao hơn những gì con đã làm cho tới nay, và con sẵn sàng làm điều này. Con đang háo hức chờ mong bước lên những bậc thang cao hơn đó. Thày đang háo hức chờ mong dẫn con bước lên những bậc thang cao hơn đó, và do đó thày bây giờ niêm con trong tình thương, trong viễn kiến đầy tình thương, mà thày LÀ. Hilarion TA LÀ.

Đạt kết quả qua nỗ lực tâm linh

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 11/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Ở tầng thứ nhì của khóa nhập thất của thày, con đối mặt với Tia thứ Năm phối hợp với Tia thừ Hai của Minh triết. Thánh kinh có câu: “Minh triết là điều chính, và với tất cả những gì con có, hãy đi tìm hiểu biết”. Vậy chúng ta hãy tìm cách đạt được hiểu biết về viễn kiến.

Để bắt đầu thày muốn hỏi con xem xét phản ứng của mình khi con đọc hay nghe bài giảng đầu của thày. Đặc biệt là thày muốn con nhớ lại phản ứng của con khi thày nói vũ trụ là một tấm gương và nó sẽ phản chiếu lại con đúng những gì con phóng chiếu ra. Con có chăng một phản ứng tựa như: “Nhưng tôi đã thử phóng chiếu ra một viễn kiến và tôi đã không nhận được đúng những gì tôi phóng chiếu ra”.

6.1. Vì sao con không đạt được kết quả

Ở tầng thứ nhì của khóa nhập thất của thày, điều rất quan trọng là con hiểu thật đúng vũ trụ vận hành ra sao và viễn kiến vận hành ra sao. Điều này đặc biệt quan trọng cho những ai đã đi trên con đường tâm linh một thời gian dài. Thày có nhiều học viên đến tầng này của khóa nhập thất và nói với thày khi có dịp thảo luận thân mật: “Thày Hilarion, con đã đi trên con đường tâm linh từ 30 hay 40 năm nay. Con đã đọc không biết bao nhiều bài chú. Con đã cầu thỉnh ngọn Lửa Tím. Con đã học giáo lý của các chân sư thăng thiên. Con đã làm việc với tâm lý gia. Con đã làm việc để giải quyết tâm lý của con. Con đã làm bản đồ tìm kho tàng. Con đã làm viễn kiến. Con đã đọc các lời khẳng định tích cực. Nhưng con vẫn không có được những hoản cảnh bên ngoài mà con mong muốn.”

Có nhiều người chưa đi trên con đường tâm linh lâu như vậy nhưng họ đã đến với thày và đã theo học một số phương pháp phiến diện thịnh hành trong xã hội (tỷ dụ như Thái độ Tâm lý Tích cực, khẳng định tích cực, bản đồ tìm kho tàng, vân vân), nhưng họ nghĩ họ có thể mau chóng phóng chiếu một viễn kiến và thể hiện viễn kiến đó. Nhưng họ đã thất vọng, tới tìm thày và nói với thày: “Phương pháp này có thực sự hiệu quả hay không? Và nếu nó có hiệu quả, thì tại sao con không đạt được những kết quả mà con mong muốn?”

Đây là điểm chúng ta cần xem xét một cách sâu sắc cuộc sống vận hành ra sao. Trong bài giảng đầu thày đã nêu lên một vài điều kiện khi thày nói là nếu con phóng chiếu một viễn kiến với tâm ý thức nhưng không chú ý tới tiềm thức, thì con có thể phóng chiếu một viễn kiến không rõ ràng, không thuần nhất, và ngay cả những viễn kiến đối nghịch từ tâm ý thức và tiềm thức.

Đây dĩ nhiên là một lý do vì sao con không nhận được từ vũ trụ những gì con mong muốn. Con không có cách nào giải quyết vấn đề này ngoài cách duyệt qua một cách có hệ thống các tầng lớp trong tiềm thức của con và bứng gốc tất cả những viễn kiến không đưa đến những gì con muốn biểu hiện. Đây dĩ nhiên là điều con làm khi con theo học bảy tầng của khóa tự điều ngự này và sử dụng các bài giảng khác của các thày và các dụng cụ tâm linh, đặc biệt là dụng cụ để chữa lành chấn thương nhập đời vũ trụ của con và một số chấn thương sâu đậm mà con đã gánh chịu trong những kiếp trước.

Tuy nhiên, dù con đã tới điểm trong lọc bốn thể phàm đủ để ngưng phóng chiếu những viễn kiến đối nghịch, con sẽ thấy là con vẫn không nhất thiết nhận lại đúng những gì con phóng chiếu ra. Lúc đó, con có thể nói với thày, như một số học viên đã nói: “Nhưng thày Hilarion, thày nói là vũ trụ hoạt động hầu như máy móc vì tấm gương vũ trụ phản chiếu lại đúng những gì con phóng chiếu ra.” Ấy, như mọi chuyện khác, lúc nào cũng có một hiểu biết sâu sắc hơn.

Vũ trụ sẽ phản chiếu lại con đúng những gì con phóng chiếu ra, nhưng không nhất thiết là đúng theo những gì con nghĩ con đang phóng chiếu ra từ tâm ý thức. Để bắt đầu, chúng ta hãy xem xét đại đa số những nguời đang đầu thai trên trái đất. Hầu hết những người này không ý thức lắm về sức mạnh của viễn kiến và họ cũng không ý thức lắm về viễn kiến của họ về cuộc đời vận hành ra sao. Họ thường không chịu nhận lãnh trách nhiệm về đời họ. Họ không chịu nhìn nhận là hoàn cảnh bên ngoài có liên hệ với trạng thái tâm thức của họ.

Họ phóng chiếu ra điều gì? Họ vẫn có một viễn kiến (dù họ không có ý thức điều này) và họ phóng chiếu viễn kiến này lên tấm gương vũ trụ. Viễn kiến này mơ hồ, không rõ ràng, và điều mà họ thực sự phóng chiếu là họ không muốn nhận lãnh trách nhiệm về đời họ, và họ không muốn có ý thức rõ ràng về mọi chuyện họ đang làm. Họ nhận lại từ tấm gương vũ trụ điều gì? Họ nhận lại đúng những gì họ phóng chiếu ra: một hoàn cảnh trong đó họ cảm thấy bị hạn chế bởi nhiều hoàn cảnh bên ngoài đến độ họ có rất ít khả năng làm chủ cuộc đời của họ. Điều này giúp họ trốn tránh tinh thần trách nhiệm, trốn tránh ý niệm họ lúc nào cũng phải lượng định một cách ý thức trạng thái tâm thức của họ. Như vậy là họ nhận lại từ tấm gương vũ trụ đúng những gì họ phóng chiếu ra.

Trong số những người đó, dĩ nhiên là nhiều người mong muốn trong tâm ý thức một hoàn cảnh khác, tỷ dụ như một cuộc sống thoải mái, và họ không nhận được viễn kiến đó, viễn kiến ý thức đó. Nhưng con thấy không, họ quả thật (theo tầm nhìn này) nhận đúng những gì họ phóng chiếu ra. Dĩ nhiên là điều này cũng có thể áp dụng cho con, là một người tâm linh.

6.2. Viễn kiến và Sứ vụ Thiêng liêng của con

Với một người tâm linh, ta cần xem xét một số yếu tố khác. Yếu tố quan trọng nhất là một người tâm linh (sẵn sàng đón nhận giáo lý của chân sư thăng thiên trong kiếp sống này) chắc chắn đã tạo ra một Sứ vụ Thiêng liêng trước khi xuống đầu thai. Phải chăng là thày đang nói là không phải ai cũng có một Sứ vụ Thiêng liêng. Đúng, đó chính là điều thày nói. Đa số những người sống một cuộc sống không ý thức và đã làm vậy trong nhiều kiếp giản dị là không ở tầng tâm thức khiến họ có thể và muốn làm việc trực tiếp với các chân sư thăng thiên giữa hai kiếp đầu thai để tạo ra một Sứ vụ Thiêng liêng cho kiếp sống tới. Những người tâm linh (và dĩ nhiên trong số này thày bao gồm nhiều người đang không theo giáo lý của chân sư thăng thiên) chắc chắn đã tạo ra một Sứ vụ Thiêng liêng trước khi đầu thai. Sứ vụ Thiêng liêng này chủ yếu tập trung vào các mục đích tâm linh của con. Nếu con đã theo học bốn tầng đầu của khóa tự điều ngự này, thì Sứ vụ Thiêng liêng của con chắc chắn bao gồm khả năng biểu hiện quả vị Ki-tô. Mục đích của khóa tự điều ngự, dĩ nhiên, là để dẫn con tới tầng tâm thức 96 là nơi con có thể chọn lựa đi tiếp và thực sự tu tập để thể hiện và biểu lộ quả vị Ki-tô, và điều này có trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Đây là lúc con cần nhận ra là rất có thể con có với tâm ý thức ước muốn đạt được một hoàn cảnh bên ngoài nào đó (thường do nền văn hóa nơi con khôn lớn tạo ra), nhưng những ước muốn này đi ngược lại Sứ vụ Thiêng liêng của con. Ít nhất là chúng không giúp con hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng trong thể bản sắc của con, con có một sự nhận biết nào đó về Sứ vụ Thiêng liêng của con (dù con chưa biết với tâm ý thức), và sự nhận biết này sẽ phá hoại những mục đích ý thức của con. Chính con thực sự sẽ ngăn chặn con, không cho thể bản sắc gửi đủ sức mạnh cần thiết vào các mục đích trong tâm ý thức, để chúng không được phóng chiếu với đầy đủ sức mạnh để có thể quay trở về và thể hiện thành hoàn cảnh.

Thày sẽ tạm để sang bên chưa trả lời vì sao như vậy, vì thày muốn chú tâm vào chuyện tâm ý thức của con có một viễn kiến, một mục đích, một ước muốn. Con tạo viễn kiến này trong tâm con, bằng kỹ thuật bản đồ tìm kho tàng hay bằng cách khác. Con giữ trong tâm hình ảnh một hoàn cảnh vật chất mà con muốn thể hiện và con đặt sự chú ý có ý thức của con vào hình ảnh này và con dùng năng lượng linh hồn (cảm xúc, tư tưởng và bản sắc) để phóng chiếu viễn kiến này vào vũ trụ, vào tấm gương vũ trụ.

6.3. Vì sao một viễn kiến không thể biểu hiện

Thày đã xem xét vấn đề viễn kiến có trọn vẹn hay không. Nó có thuần nhất không? Có điều gì đối nghịch nó trong thể cảm xúc hay thể tư tưởng của con không? Đó là một vấn đề có thể ngăn chặn sự biểu hiện của nó. Viễn kiến có rời rạc chăng?

Giả thử con có một viễn kiến khá tập trung và con phóng chiếu nó ra. Điều mà ta cần xem xét tiếp theo là: con đặt vào sự phóng chiếu này bao nhiêu sức mạnh? Điều này tùy thuộc nhiều yếu tố. Thày có nói trong bài giảng trước là có nhiều sa nhân đã tạo dựng được một động lực lớn trong việc biểu hiện một số hoàn cảnh vật chất. Họ đã tạo dựng được một động lực lớn trong việc dùng vũ lực để biểu hiện những gì họ mong muốn. Họ có quyền năng tâm hồn (psychic power) rất lớn mà họ đã tạo dựng qua rất nhiều kiếp và do đó họ có thể hướng quyền lực lớn lao này vào viễn kiến của họ trong kiếp này.

Nếu con là một người tâm linh có thể chấp nhận khóa học này, thì xác suất con là sa nhân rất thấp. Thày không nói là không thể có sa nhân nào theo học được khóa này tới điểm này, nhưng xác suất rất thấp. Điều này có nghĩa là con không có động lực mạnh trong việc hướng năng lượng tâm hồn. Ngay bây giờ, sức mạnh con dùng để phóng chiếu viễn kiến vào tấm gương vũ trụ bị giới hạn.

Thêm vào đó, có thể là chính con đang trực tiếp hạn chế sức mạnh mà con dùng để phóng chiếu. Con làm như thế ở tầng thể tư tưởng hay thể bản sắc vì, như thày có nói, con có cái biết là viễn kiến trong tâm ý thức của con không giúp sự hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Do đó, thí dụ ở tầng bản sắc, con từ chối không gửi đủ sức mạnh mà con có ở tầng này, và do đó con chỉ có sức mạnh mà con có ở tầng ý thức, vật lý. Sức mạnh mà con dùng để phóng chiếu viễn kiến sẽ giới hạn. Bây giờ, chúng ta đã thiết lập là khi con tìm cách biểu hiện điều gì, câu hỏi là: viễn kiến của con thuần nhất đến đâu và con dùng bao nhiêu sức mạnh để phóng chiếu nó vào tấm gương vũ trụ?

Điều kế tiếp mà ta cần xem xét là chuyện gì xảy ra khi viễn kiến được phóng chiếu ra khỏi tâm con. Nó đã rời tâm con và đang đi tới cái mà các thày gọi là tấm gương vũ trụ. Khi các thày đưa ra một giáo lý, dĩ nhiên là có một khó khăn là các thày một mặt cần giản dị hóa để mọi người có thể hiểu dễ dàng, nhưng mặt khác, khi giản dị hóa thì các thày có thể khiến mọi người lầm tưởng là thực tại giản dị như vậy.

Con có thể có ý tưởng là tấm gương vũ trụ giống một tấm gương bình thường, và khi con đứng trước nó thì tia ánh sáng toát ra từ cơ thể con đập vào tấm gương và phản chiếu lại vào mắt con. Trong trường hợp tấm gương vũ trụ, dĩ nhiên là tình trạng phức tạp hơn, vì tấm gương vũ trụ là gì? Tấm gương vũ trụ là bốn tầng của vũ trụ vật chất trong hệ thống năng lượng của trái đất. Trái đất nằm ở trung tâm hệ thống này, nhưng nó không phải là hành tinh duy nhất hay đơn vị duy nhất trong hệ thống đó.

Dĩ nhiên là con cũng có bốn tầng: bản sắc, tư tưởng, cảm xúc và vật chất. Điều mà con cần nhận ra, như thày đã giảng trong bài trước, là mọi thứ là làn sóng điện từ. Khi con phóng chiếu ra một viễn kiến thì con phóng chiếu cái gì? Một làn sóng điện từ hay ít ra là một số làn sóng phức tạp! Để viễn kiến hay sự phóng chiếu này trở lại con như một hoàn cảnh vật lý, nó phải đi xuyên qua bốn tầng bản sắc, tư tưởng, xúc cảm, vật chất của hệ thống năng lượng của trái đất. Đương nhiên là câu hỏi trở nên: Cái gì ở trong bốn tầng đó? Bốn tầng đó là trường năng lượng, và trong các trường năng lượng đó có nhiều làn sóng. Khi sự phóng chiếu của con đi qua các trường năng lượng đó, không thể tránh là các làn sóng năng lượng của sự phóng chiếu sẽ tạo ra mô thức giao thoa (interference patterns) với các làn sóng năng lượng có mặt trong toàn thể đơn vị năng lượng nơi con sống. Đây chỉ giản dị là cơ học sóng.

Con cũng biết là có rất nhiều hỗn loạn, rất nhiều năng lượng ô uế trong bốn thể phàm của trái đất – và vật chất rất dày đặc – nên con có thể thấy đây là một lý do vì sao con phóng chiếu ra một viễn kiến và không (hay ít ra là chưa) nhận lại kết quả mong muốn. Điều này có thể khiến con nghi ngờ là con đường mà các thày mô tả không thực sự khả thi. Con có thể gặt hái kết quả của những nỗ lực của con chăng?

6.4. Một hiểu biết tinh vi hơn về viễn kiến

Điều con cần nhận ra ở điểm này là con cần hiểu biết một cách tinh vi hơn. Khi thày nói “hiểu biết”, thày không muốn nói đến cách vận hành máy móc nhưng là mục đích của hệ thống năng lượng của trái đất. Ở đây chúng ta gặp một vấn đề gây khó khăn cho nhiều người tâm linh. Tại sao con là một người tâm linh theo giáo lý của các chân sư thăng thiên? Đó là vì, tuy con không có trí nhớ ý thức về Sứ vụ Thiêng liêng của con, con có cái biết trực giác nội tại là có cái hơn cuộc sống vật chất mà con thấy những người chung quanh con đeo đuổi.

Con không chỉ chú tâm vào điều kiện vật chất mà thôi. Con có thể mong muốn một số điều kiện vật chất nhưng chúng không hoàn toàn quy định cuộc sống của con, vì nếu không thì con đã không theo con đường tâm linh. Cái biết trực giác nội tại của rất, rất nhiều người là cái biết cuộc sống như thế nào khi con ở trên một hành tinh có một tâm thức đại chúng cao hơn trái đất. Rất ít nguời theo giáo lý chân sư thăng thiên đã bắt đầu cuộc hành trình trong cõi vật chất trên trái đất. Đa số các con tới từ hành tinh khác nơi con đã đầu thai và đạt được một tầng tâm thức nào đó trước khi con tình nguyện đầu thai trên trái đất. Điều này có nghĩa con có, không phải một ký ức ý thức, nhưng một ký ức tiềm thức về đời sống trên các hành tinh đó, và đời sống đó thực sự thoải mái hơn đời sống trên trái đất. Con thấy chăng, trên một hành tinh ít vật chất dày đặc hơn và tâm thức đại chúng ít dày đặc hơn trái đất, biểu hiện viễn kiến của con dễ dàng hơn nhiều. Con không gặp sự đối kháng của tâm thức đại chúng. Sự phóng chiếu của con gặp ít giao thoa hơn trước khi trở lại con như hoàn cảnh vật lý.

Đây là điều khiến một số người nản chí vì con có cảm giác là đã bỏ ra đủ cố gắng và đáng lẽ phải gặt hái thành quả vật lý của những cố gắng này. Nhưng con không thấy những kết quả này biểu hiện, và do đó con nản chí và bắt đầu nghi ngờ là con đường tâm linh có thực sự hiệu quả chăng. Dĩ nhiên, đó là lúc con dễ bị ảnh hưởng bởi các phóng chiếu của sa nhân lúc nào cũng tìm cách đẩy con ra khỏi con đường tâm linh. Họ cũng tìm cách cản con bước vào con đường tâm linh ngay từ đầu, nhưng một khi con đã bắt đầu, thì họ tìm cách làm con vấp ngã khiến con rời con đường tâm linh.

Đây là điểm con cần nhận ra là trái đất rất khác một số hành tinh khác nơi con đã đầu thai. Trái đất là một hành tinh rất tăm tối; trái đất là một hành tinh rất dày đặc. Một trong những mục đích của trái đất là phục vụ như chặng nửa đường cho những dòng sống chưa sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm trọn vẹn về đời họ.

Con có thể nhìn vào trái đất và thấy có rất ít người chịu nghe giáo lý của chân sư thăng thiên. Điều này giúp con nhận ra là nhiều người chưa sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời của họ. Cốt lõi của giáo lý của chân sư thăng thiên là gì? Đó là con lấy trách nhiệm về cuộc đời mình, về trạng thái tâm thức của mình. Nhiều người chưa sẵn sàng làm điều này và đó là lý do vì sao rất khó biểu hiện một viễn quan đúng như những gì con phóng chiếu ra.

Vậy con có thể tự hỏi: “Nhưng tại sao tôi đã tình nguyện xuống hành tinh này?” Câu trả lời rất đơn giản. Con xuống đây để chứng minh cho mọi người thấy là có thể sống một cách khác cách họ đang sống. Con tới đây để chứng minh là có một cách cao hơn, có một cách sống cao hơn, một cách sống tâm linh hơn. Đây là lý do vì sao con ở đây.

Một khi học viên đã thực sự nhận ra điều này trong các tầng nội tâm của họ, thì thày thấy một sự chuyển đổi nơi những người trước đó nghi ngờ con đường tâm linh. Tựa như là có một bóng đèn bật sáng trong tâm họ. Thày hy vọng là sẽ giúp con trải nghiệm với tâm ý thức điều mà con đã trải nghiệm ở thể bản sắc. Giống như một người thốt nhiên nhận ra: “Ồ, tôi không ở đây để biểu hiện một hoàn cảnh bên ngoài nào đó, một nếp sống thoải mái, một căn nhà đẹp, người phối ngẫu toàn hảo, rất nhiều tiền, và cái này cái kia. Đấy không phải là lý do vì sao tôi ở đây. Tôi ở đây để tiến bước trên con đường của quả vị Ki-tô và chứng minh nó.

6.5. Làm hòa với cuộc sống của mình

Một lần nữa, con có thể nhìn vào cuộc đời của Giê-su. Thày không biểu hiện người bạn đời toàn hảo, gia đình toàn hảo, căn nhà toàn hảo, rất nhiều tiền, địa vị trong xã hội, tất cả những điều mà mọi người ao ước. Nếu con nhìn vào Giê-su và cuộc đời của thày với thước đo của những gì đa số con người sở hữu ngày hôm nay, thì con có thể nói là thày đã thất bại hòan toàn khi so sánh với mục đích và viễn kiến của những người đó. Tất cả những gì thày làm là đi khắp nơi và nói những lời mà đa số không hiểu, và rốt cuộc bị giết mà không đạt được thành tựu nào trong khoảng thời gian đó. Có thể là một số người sau đó đã lấy một số điều thày giảng và tạo nên một cái gì đó, nhưng nếu nhìn cuộc đời của Giê-su khi thày tại thế thì ta có thể cho rằng thày đã thất bại hòan toàn. Thày không biểu hiện bất cứ mục tiêu nào mà các người thời đó ước muốn và người bình thường thời nay ước muốn.

Con có thể nhìn vào cuộc đời của mình và nói: “Vậy tôi có biểu hiện được điều gì đáng quý so với mục tiêu của con người bình thường?” Nếu câu trả lời là: “Không”, thì con có thể nói tiếp: “Điều này có tệ chăng? Những điều được coi là đáng quý kia có thể không phù hợp với Sứ vụ Thiêng liêng của tôi. Nếu một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của tôi là biểu hiện quả vị Ki-tô, thì Sứ vụ Thiêng liêng của tôi có lẽ không có những mục tiêu duy vật mà người bình thường trong nền văn hóa của tôi có. Vậy có thể nào tôi tới điểm nhìn lại cuộc đời của tôi như nó đã hình thành từ trước tới nay, và tôi làm hòa với sự kiện nó đã là như thế ấy.”

Con yêu dấu, con thấy chăng là khi con đạt được hiểu biết thực sự, thì con nhận ra là điều con có không phải là điều tâm ý thức con mong muốn. Khi con đạt được hiểu biết này, con nhận ra là điều mà tâm ý thức con mong muốn không phải là điều con thực sự mong muốn trong kiếp sống này. Điều con thực sự muốn là hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con, không phải là những mục tiêu phiến diện do nền văn hóa của con quy định. Khi nhận ra điều này, con có thể nhìn vào cuộc đời mình và nói: “Tôi đã theo con đường mà tôi có thể theo được, dựa trên con người của tôi, trình độ tâm thức của tôi khi tôi đầu thai và nền văn hóa của tôi.”

Con không cần nhìn lại chính mình và nghĩ là mình đã có sơ suất, đã có làm gì sai. Khi con nhận ra là con có một Sứ vụ Thiêng liêng và nó đòi hỏi con chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô (và con đường tới quả vị Ki-tô rất khác cuộc sống của người bình thường), thì con bắt đầu làm hòa với cuộc đời của mình. Con thấy chăng, các thày là chân sư thăng thiên không giống các thày giáo muốn con nhìn vào mọi khía cạnh của đời mình, phân tích mọi chuyện con đã làm, tìm ra những gì con làm sai, và những gì con đáng lý phải làm tốt hơn.

Ở tầng này của khóa nhập thất của thày, mục đích của thày là giúp con hoàn toàn làm hòa với cuộc đời con cho tới điểm này. Thày muốn giúp con tới điểm con có thể nhìn vào đời mình và nói: “Cuộc đời của tôi là như thế đó. Tôi đã làm những điều tôi đã làm vì tôi có lý do. Có thể lý do là tôi phải trải qua kinh nghiệm đó để nhận ra rằng tôi thực sự không muốn điều mà trước kia tôi ước muốn. Tôi thực sự không muốn những mục tiêu vật chất đó, những điều kiện vật chất đó. Tôi muốn cái gì hơn nữa. Tôi muốn cái gì cao hơn.”

6.6. Biến con đường tâm linh thành một cuộc đua

Con yêu dấu, con thấy chăng là có một thời trong cuộc đời con khi con cảm thấy lúc nào mình cũng đang đi chậm ở phía sau. Con lúc nào cũng đang đeo đuổi một hũ vàng ở cuối cầu vồng. Con lúc nào cũng đang đeo đuổi một mục đích nào đó và cảm thấy mình sẽ không bao giờ biểu hiện được nó. Rất, rất nhiều học viên đã dùng con đường tâm linh (và ngay cả giáo lý của chân sư thăng thiên) để khuếch đại tiến trình này.

Khi con tìm ra con đường tâm linh, con nhận ra là con có một số mục tiêu tâm linh. Con muốn có một trạng thái tâm thức cao hơn, và con nỗ lực để đạt được điều đó. Con cảm thấy con chưa tới đích, và bất cứ con làm điều gì cũng chưa đủ, cũng chưa tốt đủ vì con chưa biểu hiện được trạng thái tâm thức cao hơn mà con mường tượng.

Điều thày mong muốn là giúp con tới điểm con nhận ra cuộc đời con (cho tới lúc này) đúng như nó phải là, dựa trên trạng thái tâm thức và hoàn cảnh bên ngoài của con. Con đã làm đúng y điều con phải làm. Điều còn lại là con ý thức học bài học mà con cần học khi con làm những gì con đã làm.

Điều quan trọng không phải là đổ lỗi cho mình. Điều quan trọng không phải là tìm ra con đã làm gì sai. Điều quan trọng là con tới điểm nhận ra: “Con thực sự cần phải lớn lên trong một hoàn cảnh nào đó, cùng với những người thuộc một nền văn hóa nào đó, trong một gia đình nào đó, một dân tộc nào đó. Con phải lớn lên ở đó và phải trải qua một giai đoạn thích nghi với hoàn cảnh đó. Con phải trầm mình trong đó, con phải đeo đuổi một số mục tiêu, nhưng con không cần phải đeo đuổi chúng suốt đời. Con đã làm vậy để chứng minh con giống mọi người khác trong nền văn hóa đó, từ một góc nhìn vỏ ngoài. Nhưng nay con có cơ hội vượt lên trên hoàn cảnh đó và chứng minh con có thể hơn một người như thế, con có thể sống một cách khác.

Con yêu dấu, con thấy chăng là thày đang hướng dẫn con nhận ra là con đã sống cuộc đời cho tới điểm này dựa trên một viễn quan nào đó. Bây giờ con tới điểm tham dự khóa nhập thất của thày ở cõi ê-the và con đang đọc và nghiên cứu bài giảng này với tâm ý thức. Con có cơ hội thay đổi cuộc sống mình và có một viễn quan cao hơn, đó chính là viễn quan mà con đã thiết lập trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Thày hy vọng con thấy thày muốn nói gì. Cho tới nay, con đã sống dựa trên một viễn quan nào đó. Viễn quan đó không có gì sai, nhưng nó hạn hẹp, một phần vì trạng thái tâm thức của con, tâm lý của con, và phần kia vì nền văn hóa nơi con sống. Điều này hoàn toàn phải lý. Một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con đã ấn định là con hội nhập một nền văn hóa nào đó, một hoàn cảnh nào đó. Như các thày đã nói, cuộc sống, sự tăng triển, là tiến trình hội nhập trước và sau đó tỉnh ngộ. Ngay lúc này con đang ở điểm tỉnh ngộ, khi con nhận ra có một viễn quan cao hơn là viễn quan con đã sống theo cho tới ngày hôm nay. Nó là viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, và viễn quan này rất khác viễn quan mà con có cho tới điểm này.

Lý do vì sao con rất cần hiểu điều này rất giản dị, nhưng cũng rất thâm sâu, rất quyết định, rất căn bản. Con yêu dấu, con thấy chăng là con không thể phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ bất cứ điều gì cao hơn viễn kiến hiện nay của con. Để có thể đón nhận một viễn kiến cao hơn cái con đang có hiện nay, con phải sẵn sàng từ bỏ viễn kiến con có từ trước tới nay. Con phải sẵn sàng nhận ra: “Tôi nhận ra là tôi đã có một viễn kiến hạn hẹp. Tôi muốn đón nhận một viễn kiến cao hơn, và điều này có nghĩa là tôi sẵn sàng buông bỏ viễn kiến cũ.”

Khi học viên nhận ra điều này ở tầng bản sắc, ở khóa nhập thất của thày, thái độ của họ chuyển đổi. Thày hy vọng rằng khi con theo học khóa học này, con cũng có một chuyển đổi tương tự ở tầng tâm ý thức và nhận ra là cuộc đời mình có thể đi theo một hướng hoàn toàn mới.

Thày biết là nhiều người trong các con đã đi theo con đường tâm linh từ rất lâu rồi. Thày biết là nhiều người đã học giáo lý chân sư thăng thiên từ lâu rồi, và con có thể nhìn lại quãng thời gian này và nói: “Nhưng tôi đã trải qua nhiều chuyển đổi trong khoảng thời gian 20 hay 30 năm trên con đường tâm linh. Tôi đã thay đổi rất nhiều so với trước kia.” Điều này đúng, và con đã thay đổi nhiều, và như vậy con sẽ dễ chấp nhận là có một viễn kiến cao hơn cả viễn kiến con hiện có. Con có thật sự chờ đợi tham dự khóa học của Tia thứ Năm của Viễn kiến, do Thượng sư Tia thứ Năm hướng dẫn, mà không mở rộng viễn kiến của mình? Dĩ nhiên là dù con đã trải qua nhiều chuyển đổi lớn lao và đã nâng cao viễn kiến rất nhiều, con vẫn còn thành tựu được hơn nữa. Có một viễn kiến cao hơn mà con chưa nhận ra.

6.7. Khía cạnh Alpha và Omega của viễn kiến cao hơn

Dĩ nhiên, thày cảm thấy vui mừng được đặc biệt giúp con nhận ra viễn kiến đó, và viễn kiến có hai khía cạnh Alpha và Omega. Con cần thấy gì nơi con để có thể biểu hiện quả vị Ki-tô? Con sẽ hành động ra sao ở thế giới bên ngoài khi con hiện thị và biểu lộ quả vị Ki-tô?

Bây giờ chúng ta có thể trở về xem xét Sứ vụ Thiêng liêng và viễn kiến của con. Thày có nói là trong nhiều trường hợp, con đã ngăn chặn trong tiềm thức việc biểu hiện một viễn kiến mà con phóng chiếu ra với tâm ý thức. Bây giờ con có thể bắt đầu xem xét các viễn kiến, mục tiêu và ước muốn mà con đã có và những gì con đã phóng chiếu ra với tâm ý thức của con. Con có thể bắt đầu tự hỏi: “Trong suốt cuộc đời, con đã có một số mục tiêu, nhưng bây giờ con sẵn sàng so sánh các mục tiêu này với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con sẵn sàng suy xét xem con có cần vứt bỏ một số mục tiêu này không.”

Con yêu dấu, con thấy chăng là chúng ta đang tới một điểm tế nhị. Thày đã đối chiếu cuộc đời của một số sa nhân đã điều khiển được hoàn cảnh vật chất của họ, và cuộc đời của Giê-su. Khi con nhìn vào đời của Giê-su, con có thể nói là thày không kiểm soát được bao nhiêu hoàn cảnh vật chất của thày. Rốt cuộc thì thày đã bị giới quan chức bắt giữ, kết án tử hình và bị hành quyết một cách rất khó chịu. Những việc này có chứng tỏ là thày kiểm soát được hoàn cảnh vật chất chăng? Các sa nhân có chấp nhận để chuyện này xảy ra với họ chăng?

Khi con bắt đầu mở tâm đón nhận viễn kiến cao hơn về hậu quả cho chính con khi con bước trên con đường của quả vị Ki-tô và biểu hiện quả vị Ki-tô, con thấy là trong một số trường hợp con sẽ không hoàn toàn kiểm soát được hoàn cảnh vật lý của con. Thày không nói là con cần bị bắt giữ, hành hạ, tra tấn và giết như Giê-su. Chúng ta không cần xem xét những chuyện này ngày nay, vì hoàn cảnh đã thay đổi, ít ra là trong đa số quốc gia.

Thày không phủ nhận là hiện nay có những người trong một số quốc gia, đã có trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ, là họ sẽ cho phép mình bị hành hạ, tra tấn và giết để khiến một số sa nhân bị đem ra xét xử. Trong những quốc gia mà quyển sách này được phổ biến, con hy vọng là trường hợp này không xảy ra. Tuy nhiên, ngay cả trong những vùng an bình hơn trên thế giới, rất có thể là chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô sẽ cần con trải nghiệm một số hoàn cảnh vật lý và vật chất mà con không hoàn toàn kiểm soát được.

6.8. Sự tiến hóa toàn vũ của trái đất

Con yêu dấu, vì sao lại như vậy? Để hiểu được điều này, con cần phải hiểu trái đất đang ở đâu trong tiến trình tiến hóa tòan vũ. Trái đất đang đi theo một tiến trình tự nhiên hướng về thời Hoàng Kim của Saint Germain, nhưng trái đất chưa đi vào tâm thức của thời hoàng kim. Sẽ có một điểm khi trái đất đi sâu vào thời Hoàng kim và lúc đó một khía cạnh tự nhiên của việc biểu lộ quả vị Ki-tô là thể hiện một số hoàn cảnh vật chất cao hơn.

Nhưng ở giai đoạn hiện nay, vẫn còn rất nhiều người bị kẹt trong một trạng thái tâm thức thấp, và mục đích chủ yếu của con đường tới quả vị Ki-tô không phải là chứng minh khả năng điều ngự ngoại cảnh qua đó con có thể biểu hiện đúng hoàn cảnh vật lý mà con mong muốn. Mà là chứng minh khả năng điều ngự nội tâm qua đó con chứng minh rằng, bất kỳ hoàn cảnh bên ngoài ra sao chăng nữa, con vẫn là chính mình. Con không cho phép hoàn cảnh bất thuận lợi bên ngoài lấy đi sự bình an của con. Con đeo đuổi viễn kiến của Sứ vụ Thiêng liêng của con, dù con không được hoàn cảnh bên ngoài lý tưởng.

Qua đó con chứng minh cho mọi người là thay vì đợi phải có điều kiện vật chất lý tưởng trước khi biểu hiện tâm bình an, một cuộc đời vui tươi hay sự đeo đuổi mục tiêu cao, thì con biểu hiện những điều đó ngay bây giờ, con bắt đầu ngay bây giờ. Con cần phải chứng minh cho mọi người điều ngược lại lời gian dối của sa nhân mà nhiều người đã tin theo. Như thày có nói trong bài giảng đầu, một trong những điều gian đối này là con cần chờ điều kiện lý tưởng trước khi đi con đường tâm linh, trước khi con biểu hiện quả vị Ki-tô. Điều tự nhiên là trong giai đoạn hiện nay, một phần của việc chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô là chứng minh rằng con có thể biểu hiện quả vị Ki tô dù con chưa có điều kiện lý tưởng.

Khi con nhận ra điều này, con thốt nhiên thấy rằng: “Ồ, đổ năng lượng và chú tâm vào việc biểu hiện điều kiện vật chất quả là vô lý. Tôi cần bắt đầu ngay bây giờ việc chú tâm đạt quả vị Ki-tô và sau đó chứng minh nó.” Thày không muốn nói là con phải nhảy vào làm ngay. Con đang tự nhiên ở tầng này của khóa tự điều ngự, và các thày có mục đích dẫn con đạt một trình độ cao hơn trình độ hiện nay của con rất nhiều. Thày muốn nói rằng khi con có viễn kiến về nơi con muốn đến, con có thể làm hòa với hoàn cảnh bên ngoài của con như nó hiện đang là.

6.9. Chướng ngại lớn nhất trên đường tới quả vị Ki-tô

Con hiểu là có một nguyên lý đằng sau việc này, một nguyên lý rất quan trọng. Các thày có nói là con sẽ không thực sự biểu hiện một hoàn cảnh khác khi con chưa bình an với hoàn cảnh hiện nay của con. Nguyên lý này đặc biệt áp dụng cho những người tâm linh khi họ tới điểm một phần Sứ vụ Thiêng liêng của họ là quả vị Ki-tô. Lý do thông thường nhất khiến một người trì hoãn quả vị Ki-tô là trong tâm ý thức, họ bị dính mắc vào chuyện biểu hiện một hoàn cảnh bên ngoài nào đó, họ quá chú tâm vào hoàn cảnh đó và trong tiềm thức, họ nói rằng: “Tôi không thể biểu hiện quả vị Ki-tô cho tới khi tôi có được những hoàn cảnh bên ngoài này.”

Cách duy nhất để thoát ra khỏi thế tiến thoái lưỡng nan này là con nhận ra là không hoàn cảnh bên ngoài nào có thể đem lại quả vị Ki-tô và không hoàn cảnh bên ngoài nào có thể ngăn chặn nó. Quả vị Ki-tô là một trạng thái nội tâm, và nó sẽ bắt đầu biểu hiện khi con quyết định bây giờ là lúc biểu hiện. Con cần tới điểm con nhìn hoàn cảnh của mình và nói: “Bất kỳ hoàn cảnh của tôi khó khăn tới đâu, bất kỳ tôi có một số điều kiện hay không có, tôi sẽ chú tâm biểu hiện quả vị Ki-tô ngay bây giờ.Đó là lúc con đã làm hòa với hoàn cảnh hiện nay của con.

Nhiều người trong số các con đã kinh nghiệm rằng khi con tới điểm này, đột nhiên hoàn cảnh bên ngoài thay đổi. Nhiều người trong số các con có khả năng trải qua kinh nghiệm này: con tới điểm con nhìn vào một hoàn cảnh bên ngoài đã thu hút sự chú ý của con, và đột nhiên con làm hòa với nó và nói: “Nhưng chuyện này không thể ngăn chặn quả vị Ki-tô của tôi, vậy tại sao tôi lại phải lo lắng?” Đó là lúc con kinh nghiệm là hoàn cảnh bên ngoài đột nhiên thay đổi. Điều mà lúc trước tưởng như khóa chặt và ngoài khả năng thay đổi của con, đột nhiên trở nên uyển chuyển và hoàn cảnh bắt đầu chuyển đổi.

Nguyên lý đằng sau việc này là: Hoàn cảnh bên ngoài không quan trọng khi con bước trên con đường tới quả vị Ki-tô. Hoàn cảnh bên ngoài không phải là một chướng ngại, nó là một cơ hội để con chứng minh là con không thể và sẽ không bị quy định bởi hoàn cảnh vật chất. Quả vị Ki-tô là gì? Phản Ki-tô là gì?

Con hãy nhớ lại câu chuyện Giê-su nói với Phê-rô (Peter): “Hãy đứng sau ta, Satan. Con đang không ưu tiên việc của Thượng đế mà ưu tiên việc của con người.” Tâm thức Satan là tâm thức đòi hỏi Tánh linh phải thuận theo điều kiện hiện thời của vật chất. Đó là điều Phê-rô phóng chiếu lên Giê-su, lúc đó Phê-rô muốn Giê-su (là người đại diện tâm thức Ki-tô) phải thuận theo những gì Phê-rô chờ đợi phải xảy ra cho Giê-su.

Thời bấy giờ, lúc Giê-su bắt đầu được biết tới ở Israel, có nhiều người muốn Giê-su trở nên một vị vua-chiến sĩ giải thoát nước Israel khỏi tay người La mã. Khi Giê-su không muốn đóng vai trò này, họ giận dữ và chối bỏ thày. Họ cũng phóng chiếu lên Ki-tô là Ki-tô phải thuận theo điều kiện trong vật chất, nhưng mục tiêu của Ki-tô là gì? Đó là giải thoát con người khỏi các điều kiện hiện hành trong vật chất. Làm sao con giải thoát con người khỏi các điều kiện hiện hành bằng cách thuận theo chúng? Con chỉ giải thoát họ được bằng cách chứng minh rằng bất kỳ điều kiện hiện hành như thế nào, chúng không quy định được con như một sinh thể tâm linh; con hơn những điều kiện đó. Đó là cách con chứng minh quả vị Ki-tô.

6.10. Tầm quan trọng của việc buông bỏ viễn kiến cũ

Nếu con còn cảm thấy là điều kiện vật chất hiện thời đang giới hạn việc biểu lộ quả vị Ki-tô của con, thì con không thể biểu lộ quả vị Ki-tô, con không thể thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của con. Do đó, con cần tới điểm nhận ra là điều kiện hiện thời của vật chất là sản phẫm của một viễn kiến hạn hẹp. Viễn kiến hạn hẹp của hầu hết mọi người trên trái đất này đã được phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ từ rất lâu rồi và đã tạo ra điều kiện hiện thời của vật chất, kể cả độ dày đặc của vật chất, sự hỗn loạn, chiến tranh, đấu tranh và xung đột mà con thấy trên hành tinh. Làm sao con, là một đại diện của Ki-tô Hằng Sống, có thể giúp giải thoát con người nếu con không sống theo một viễn kiến cao hơn? Làm sao con có thể mở tâm một cách ý thức với viễn kiến này nếu con không nhận ra là con cần buông bỏ viễn kiến cũ, và con cần thấy nó hạn hẹp. Con cần cho cái ta dựa trên viễn kiến này chết đi và nói: “Nó có là gì với ta đâu? Con sẽ đi theo ngài,” và sau đó con đi theo Ki-tô Hằng Sống cho tới khi thấy được viễn kiến cao hơn đó.

Đó là cách duy nhất con chứng minh quả vị Ki-tô, và đó là lý do vì sao con cần tới điểm con không bám víu viễn kiến cũ. Con có thể đã có viễn kiến đó từ rất lâu rồi, nhưng con cần nhìn nó lại một lần nữa. Con cần nhận ra con là cái Ta Biết. Con là cái biết thuần khiết và do đó con có thể bước ra ngoài phin lọc nhận thức của viễn kiến hiện thời của con. Con có thể tháo ra cặp kính màu, con nhìn cuộc đời của con mà không có viễn kiến cũ, không có phin lọc nhận thức, không bị pha màu và bây giờ con thấy được điều mà cho tới nay con không thấy.

Đây là điểm thày đôi khi gặp khó khăn nhất để giúp các học viên đã theo chân sư thăng thiên từ rất lâu. Con yêu dấu, con có thể nghĩ là những người tới khóa nhập thất của thày đều đã đọc quyển sách này, nhưng điều này không đúng. Con là người đang đọc quyển sách này, con đang cưỡi một ngọn sóng gồm nhiều người (trong đó có người chưa bao giờ nghe nói tới giáo lý chân sư thăng thiên) đang hòa điệu và gia nhập một phong trào cấp tiến gồm hàng triệu người sẵn sàng đi bước kế tiếp.

Có những người không đọc quyển sách này (trong đó có người không nhìn nhận vị sứ giả này là sứ giả chân chính) nhưng họ đã theo giáo lý chân sư thăng thiên từ nhiều chục năm. Họ đã sử dụng giáo lý để tạo ra một viễn kiến đặc trưng của con đường tâm linh, của cuộc đời họ, của hành tinh và của điều chân sư thăng thiên mong muốn. Trong nhiều trường hợp, viễn kiến này giới hạn Sứ vụ Thiêng liêng và việc biểu lộ quả vị Ki-tô của họ, và thày có khi gặp rất, rất nhiều khó khăn khi thày giúp những người đó buông bỏ viễn kiến hạn hẹp của họ. Họ nghĩ rằng viễn kiến đó là viễn kiến chân chính duy nhất vì nó dựa trên giáo lý của chân sư thăng thiên. Họ không chịu nhìn nhận là họ đã dùng giáo lý của chân sư thăng thiên để chứng thực một viễn kiến hạn hẹp. Các thày không chứng thực nó, nhưng chính họ đã làm điều này.

Nhận ra điều này có thể là một điều rất đau đớn; nó đặc biệt đau đớn khi nhận ra với tâm ý thức. Thày phải nói với con rằng có nhiều người đã theo giáo lý chân sư thăng thiên từ nhiều chục năm nhưng họ đã bỏ rơi quả vị Ki-tô vì họ đã lạm dụng, đã diễn giải sai giáo lý. Điều này đã khiến họ tập trung tâm họ vào một viễn kiến không có trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ và không giúp họ đạt được quả vị Ki-tô cá nhân của họ.

Thày có thể làm gì cho những học viên này? Trong một số trường hợp, thày không làm gì được ngoài việc chờ đợi và hy vọng họ sẽ chán ngán viễn kiến này và mở tâm đón nhận cái gì cao hơn với tâm ý thức của họ. Vì sao buông bỏ viễn kiến cũ lại quan trọng như vậy? Con yêu dấu, làm sao con có thể bước lên một tầng tâm thức cao hơn nếu con không buông bỏ viễn kiến con đã tạo ra ở tầng hiện thời của con? Đây chính là nguyên lý của quả vị Ki-tô.

6.11. Buông bỏ cái ta cũ

Các thày đã nói về phàm linh, các thày đã nói về cái ta. Ngay lúc này, con đang ở một tầng tâm thức nào đó. Con đã tạo ra một cái ta cho con cảm giác tiếp nối ở tầng đó. Điều này không có gì sai trái cả. Con không thể làm điều gì khác, nhưng nếu con muốn vươn lên tầng tâm thức kế tiếp, con không thể đem theo cái ta đó. Con không thể thuyên chuyển theo, con không thể kiện toàn nó, con không thể phát triển nó. Con cần cho nó chết đi, và sau đó, dĩ nhiên, con hình thành một cái ta khác ở tầng tâm thức kế tiếp.

Đa số con người không biết là khi họ chuyển dời từ một tầng tâm thức lên tầng kế tiếp, cái ta cũ chết đi và một cái ta mới sinh ra. Điều này xảy ra ngoài cái biết có ý thức, nó xảy ra dần dần, trơn tru nên đa số không nhận ra là có một cái ta đã chết đi. Con có thể tới điểm con có ý thức về chuyện này, hoặc ít nhất con có ý thức là để tiến cao hơn trên con đường tâm linh, con cần buông bỏ một cái gì đó, một viễn kiến cũ, một cái ta cũ. Con càng làm điều này một cách ý thức thì con càng tiến nhanh, vì con tránh không bị kẹt ở một tầng nào đó.

Khi con lên mỗi tầng của con đường tâm linh thì đó là một chiến thắng quyết định, một bước nhảy vọt. Nó không phải là một tiến triển tuần tự; nó là bước nhảy rõ rệt, quyết định của tâm thức. Nó là một chiến thắng, nhưng sa nhân luôn luôn tìm cách khiến chiến thắng cuối của con là chiến thắng cuối cùng vì con trở nên dính mắc vào một điều gì ở tầng đó và không vươn lên trên được nữa. Những đệ tử chân sư thăng thiên mà thày đề cập tới đã có tiến bộ và đã đạt được một tầng tâm thức cao hơn khi họ chưa biết giáo lý chân sư thăng thiên. Nhưng nếu họ ngừng ở chỗ đó thì họ đã không tận dụng được giáo lý chân sư thăng thiên vì mục tiêu của các thày là hướng dẫn con đạt được thăng thiên. Do đó con cần tiếp tục vươn lên qua suốt 144 tầng tâm thức cho tới khi con tới tầng cao nhất, và lúc đó con có thể nhảy bước nhảy vọt cuối cùng lên trạng thái thăng thiên.

Con luôn luôn, luôn luôn cần buông bỏ cái cũ để được tái sinh trong cái ta mới, viễn kiến mới sẽ nâng con lên cao hơn. Con yêu dấu, tiến trình này không đẹp đẽ sao? Tại sao lại nhìn nó như một đe dọa? Tại sao lại nhìn nó như mình phải mất mát cái gì? Nếu con thấy là mình dính mắc vào điều gì, ngần ngại không chịu buông bỏ điều gì, thì đó chính là tự ngã, là tàn dư của tự ngã, vì chỉ có tự ngã mới muốn nắm chặt. Con yêu dấu, thày bảo đảm với con, là khi con tới tầng này của khóa tự điều ngự, con đã tới điểm con chào đón tăng triển, con muốn tăng triển, con ao ước tăng triển.

Tại sao không chào đón tăng trưởng một cách ý thức và nhận ra rằng tăng trưởng có nghĩa là buông bỏ cái cũ? Sẽ luôn luôn có cảm giác muốn giữ lại điều gì đó, nhưng khi con biết có ý thức là đây chỉ là tự ngã (nó không có tầm quan trọng lớn, nó chỉ có mặt), con chỉ nhìn nó mà không cần đi sâu vào nó và nói: “Ôi, tôi biết nó là gì, nhưng tôi vẫn buông bỏ nó. Tôi vẫn buông bỏ cái ta cũ này, cái viễn kiến cũ này, hãy đi đi.”

Đó là lúc con khiến con đường tu trở nên dễ dàng vì mỗi bước trở nên một niềm vui lớn hơn, thay vì là một cuộc chiến đấu liên miên với tự ngã (với “kẻ đứng trên ngưỡng cửa”, như các thày đã gọi nó) lúc nào cũng muốn giữ con ở tầng cũ và không muốn buông con ra. Thật đúng là tự ngã hay kẻ đứng trên ngưỡng cửa không muốn buông con ra, nhưng điều này không có nghĩa là con không thể buông ra. Khi con buông nó ra, thì nó biến mất, và con tiếp tục tiến bước.

Viễn kiến vừa chủ động vừa thụ động

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 10/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion, Thượng sư của Tia thứ Năm. Mục đích của quyển sách này là cho con kích thích bên ngoài, lời nhắc nhủ bên ngoài, giúp con nắm vững và hội nhập các bài học mà con đã học ở cõi ê-the khi con tham dự khóa nhập thất của thày ở tầng thứ năm của khóa tự điều ngự. Trong bài giảng đầu này, chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách xem xét một khía cạnh của Tia thứ Năm thường được gọi là viễn kiến.

Trong các kinh sách cổ có câu nói: “Nếu không có viễn kiến thì con người sẽ tử vong”. Đây là một câu có giá trị đáng ngờ vì có ai mà không có viễn kiến? Ai ai cũng có một viễn kiến, dù họ có nhận biết điều này hay không, dù họ có được coi là người nhìn xa thấy rộng hay không. Con người ai ai cũng có một viễn kiến. Vấn đề là con người không biết mình có một viễn kiến và không biết là họ làm gì với nó. Thực ra thì con người không tử vong nếu không có viễn kiến, nhưng ta cần xem xét là con người có loại viễn kiến nào.

4.1 Viễn kiến không thụ động

Con là người quen thuộc với giáo lý của các thày biết ít nhiều về nhị nguyên và bất nhị. Do đó, chắc con thấy rõ là câu trên phải là: “Nếu có viễn kiến nhị nguyên thì con người sẽ tử vong”. Nếu con người không có viễn kiến Ki-tô, là viễn kiến dựa trên duy nhất, thì lúc đó họ sẽ tử vong. Vì sao lại như vậy? Đó là vì chính khả năng nhìn giúp con phóng chiếu lên tấm gương vũ trụ. Như các thày đã nói nhiều lần: “Tấm gương vũ trụ có thể làm được gì ngoại trừ phản chiếu lại cho con điều mà con phóng chiếu lên nó?” Điều này dẫn tới khai ngộ cốt yếu mà con sẽ gặp ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày.

Đại đa số con người trên hành tinh này đã lớn lên với một cái nhìn sai lạc về viễn kiến. Họ cho rằng viễn kiến thụ động. Nếu con nhớ lại điều con học ở nhà trường thì con được dạy là hai mắt là dụng cụ nhận tín hiệu. Chúng nhận ánh sáng đến từ môi trường chung quanh, và từ đó con nhìn ra những gì trước mặt mình. Con yêu dấu, điều này hoàn toàn sai sự thực. Con không thấy những gì trước mặt con.

Các thày đã cố giảng điều này nhiều lần, nhưng ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày, con đơn giản không thể tiến lên bước kế tiếp nếu con không thực sự hiểu điều này. Hiểu nó trên mặt lý thuyếttrí năng không đủ. Con cần thấu hiểu nó như một trải nghiệm toàn diện chuyển đổi tâm thức của con và khiến con nhận ra trong cả bốn thể phàm của mình là tầm nhìn không phải là một khả năng thụ động. Nó chính thực là một khả năng chủ động, qua nó con liên tục phóng chiếu ra ngoài, và điều gì con phóng chiếu ảnh hưởng rất nhiều điều con thấy.

Quả thực là điều con phóng chiếu ra ngoài ảnh hưởng những gì con tưởng đến với con từ bên ngoài. Điều con thấy không phải là điều đến với con từ bên ngoài; điều con thấy (và các khoa học gia vật lý lượng tử đã bắt đầu nhận ra điều này) là cái gì đã được sản xuất trong tâm của con. Con không có cách chi tiến lên tới tầng tâm thức 96 nếu con không thấu hiểu và hội nhập thực trạng này. Ta có thể nói là công việc chính của con trong phần còn lại của khóa học tự điều ngự này là làm sạch, làm sáng tỏ viễn kiến của con để con nhận ra những điều mà con phóng chiếu ra ngoài. Con làm chủ những gì con phóng chiếu ra, do đó con làm chủ những gì được gửi trả về con từ tấm gương vũ trụ. Tấm gương chỉ phản chiếu lại điều con phóng chiếu ra.

4.2. Một ảo tưởng vi tế trên đường tu

Đây chính thực là một trở ngại lớn cho nhiều học viên đến khóa nhập thất của thày. Rất có thể là con đã tiến triển trên con đường tu tới điểm này, con đã trải qua các khai ngộ dưới sự hướng dẫn của bốn vị Thượng sư đầu, nhưng con vẫn chưa buông bỏ được một trong những ảo tưởng vi tế nhất trên đường tâm linh. Ảo tưởng này đến thẳng từ tâm thức sa ngã. Giê-su đề cập đến ảo tưởng này khi thày nói: “Vương quốc thiên đàng chịu sự bạo lực, và người hung hãn muốn chiếm nó bằng vũ lực.”

Các sa nhân đã từ rất lâu tìm cách chiếm thiên đàng bằng vũ lực. Con không thể chiếm thiên đàng bằng vũ lực, và do đó lời của Giê-su đã không đuợc ghi chép đúng đắn, vì dĩ nhiên là thày biết đâu là sự thực. Con không thể chiếm thiên đàng bằng vũ lực vì con không thể vượt quá bốn tầng của bầu cõi chưa thăng thiên khi con còn đang hiện thân ở một trong bốn tầng này. Con không thể nào ảnh hưởng tới cõi tâm linh.

Điều con có thể làm được là dùng lực để ép dòng chảy của năng lượng đi về một hướng giúp con có một số quyền năng, một số khả năng cao hơn những gì được coi là bình thường trên hành tinh này. Như các thày đã nói trước đây, dùng lực để đạt được một số khả năng là điều hoàn toàn có thể làm được. Như thày Serapis Bey đã giảng, có một số thày giả đã tự tạo cho mình một số khả năng làm chóa mắt đệ tử. Con yêu dấu, nếu thày là người đi tìm một vị thày tâm linh, thì thày sẽ không chọn người có một số khả năng nào đó, nhưng thày sẽ chọn vị nào có viễn kiến tinh khiết nhất. Thày muốn nói gì khi thày nói “viễn kiến tinh khiết”? Điều này sẽ trở nên sáng tỏ khi con đọc qua từng phần của quyển sách này.

Ở đây thì thày muốn nêu ra ý niệm là có học viên đến tầng đầu của khóa nhập thất của thày mà vẫn chưa buông bỏ được ý tưởng là mục đích của khóa học tự điều ngự này, hay của con đường tâm linh nói chung, là đạt được một số khả năng, một số khả năng phi thường. Điều tàn hại hơn nữa là nhiều người vẫn chưa hiểu, chưa thực sự nhận ra là mục đích con đường tâm linh không phải để đạt một khả năng máy móc. Thày biết rõ điều này vi tế, nhưng thày muốn con suy ngẫm sự khác biệt vi tế này.

Thày có nói là vũ trụ là một tấm gương toàn vũ. Nó chỉ có thể phản chiếu lại con những gì con phóng chiếu ra. Nghe giống như vũ trụ vận hành một cách máy móc. Quả thực là ta có thể nói là vũ trụ cũng vận hành máy móc như một tấm gương, vì những gì con phóng chiếu tới Ánh sáng Mẫu-Vật, thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lên hình tướng của hình ảnh mà con phóng chiếu một cách khá máy móc. Ánh sáng Mẫu-Vật không sáng tạo khi gửi lại con những gì con phóng chiếu ra. Ánh sáng Mẫu-Vật gửi lại con y như những gì con phóng chiếu ra. Điều vi tế là không có cách gì để gian lận tiến trình này – con có hiểu điều này chăng?

4.3 Không thể gian lận cách vận hành của vũ trụ

Có rất nhiều đạo sư và thày giáo trong các lãnh vực Thời đại Mới, Thái độ Tư tưởng Tích cực, giúp mình thêm ý chí (hay bất kỳ tên gọi nào khác) tìm cách khiến con tin rằng nếu con theo vài bước giản dị, học một số công thức, đọc một số lời khẳng định, thì con có thể xoay đổi đời mình một cách nhanh chóng. Chỉ cần áp dùng vài phương cách giản dị là con có thể thu hút một người bạn đời tuyệt vời nhất, có được tất cả tiền bạc mà con mong muốn và bất kỳ điều gì khác mà con ao ước. Điều này không thể xảy ra – có đúng vậy chăng, con yêu dấu? Không có cách chi gian lận cách vận hành của vũ trụ.

Con có thể dùng tâm ý thức và gia nhập một khóa học được cống hiến và tập trung tâm ý thức của mình vào một viễn kiến tích cực của đời sống. Con có thể vẽ ra một họa đồ tìm kho tàng, viết ra thật rõ những gì con muốn, làm theo các bước thực hành và tập trung viễn kiến của mình vào một mục đích nào đó. Con có thể đem hết năng lượng mà con có và phóng chiếu viễn kiến đó lên tấm gương vũ trụ, nhưng nếu con chỉ làm điều này với tâm ý thức của con thì kết quả sẽ chỉ giới hạn. Vì con vẫn phóng chiếu một viễn kiến khác – và có thể là một viễn kiến đối ngược – với tiềm thức của con, tức là ba tầng tâm xúc cảm, tư tưởng và bản sắc. Như các thày đã giảng, thay vì con giải quyết các lập trình hay phàm linh nội tại ở ba tầng cao của tâm, thì con tạo ra một lập trình mới, một phàm linh mới, và lúc đó vấn đề là phàm linh nào mạnh hơn. Cho dù có một phàm linh mạnh hơn, nhưng các phàm linh kia vẫn còn đó và vẫn tiếp tục phóng chiếu ra ngoài.

Ta có thể trở lại câu nói trong kinh sách cổ: “Nếu không có viễn kiến thì con người sẽ tử vong”. Ta nay có thể nói: “Nếu không có viễn kiến thuần nhất thì con người sẽ tử vong”. Con phóng chiếu ra điều gì nếu con không có một viễn kiến đồng nhất? Con gửi đi “tín hiệu lộn xộn”, theo lối nói bình dân, và khi đó thì tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu lại con điều gì? Dĩ nhiên là tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu lại một hoàn cảnh bên ngoài phản ánh điều này. Đó là vì sao thày nói không có cách nào gian lận cách vận hành của vũ trụ, không có cách máy móc nào. Con không thể tạo ra một công thức máy móc cho con hoàn cảnh mà con mong muốn. Như thày có nói, con có thể tạo ra một số công thức cho con một số khả năng tạm thời. Tỷ dụ, con có thể, như một số người đã làm, thu hút về mình tài sản đồ sộ trong kiếp sống này.

Nhưng điều đó không có nghĩa là họ đã tránh được Luật Nhân Quả. Do đó, trong một kiếp sống tới, họ sẽ phải trải nghiệm đối cực kia của viễn kiến bất quân bình mà họ đã phóng chiếu ra. Điều thày muốn nói ở đây là: ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày, học viên cần nhận ra rằng tất cả những hứa hẹn giả đang hiện hành là giả. Và con cũng cần hiểu rõ tại sao chúng là giả. Các hứa hẹn đó giả vì chúng khiến con tạo ra một lập trình mới với tâm ý thức của con nhưng chúng không giải quyết những lập trình khác nơi các tầng khác của tâm. Chúng giả vì con phải chọn lựa con muốn gì trong cuộc đời. Con muốn tự điều ngự hay con muốn hoàn cảnh vật lý, vật chất hay kinh nghiệm nào đó trên trái đất?

4.4. Điều ngự thế giới hay điều ngự cái ta

Con yêu dấu, thày vừa nói gì đó? Thày vừa nói là vũ trụ là tấm gương, nó phản chiếu lại con y hệt những gì con phóng chiếu vào nó. Con có thể nhìn một số người và thấy là họ có động lực cao (hay ta cũng có thể nói là khả năng điều ngự cao) giúp họ có được đúng hoàn cảnh vật lý mà họ mong muốn. Con có thể nhìn vào những người đã tạo ra hay thu hút được tài sản to lớn. Họ sống trong một dinh thự đẹp dẽ, họ có người phối ngẫu xinh đẹp, họ có những hoàn cảnh bên ngoài tuyệt hảo và mọi chuyện nằm dưới tầm kiểm soát của họ y như ý họ muốn. Con có thể thấy điều này và nói: “Tôi cũng muốn sống một cuộc đời mà không phải lo thiếu tiền bạc, có được một căn nhà xinh đẹp và có mọi chuyện dưới tầm kiểm soát của mình.” Con có thể nhìn các người đó và nói: “Tôi cũng muốn được như vậy. Đây chắc hẳn là tự điều ngự nếu tôi thể hiện được những hoàn cảnh đó.”

Con yêu dấu, nếu đó là thái độ của con, nếu đó là điều con ao ước, thì không có gì sai trái với việc đó cả. Như các thày đã nói, trái đất là một bộ máy tạo kinh nghiệm nơi con có thể có một số trải nghiệm cho tới khi con chán ngán chúng và sẵn sàng tiến lên bước khác. Như con chắc đã bắt đầu nhận ra, mục đích của khóa tu tự điều ngự này không phải là cho con quyền năng biểu hiện đúng những hoàn cảnh vật lý mà con muốn. Chuyện quan trọng không phải là biểu hiện hoàn cảnh vật lý nào đó; chuyện quan trọng là tự điều ngự. Điều khác biệt là gì? Điều khác biệt rất giản dị.

Sa nhân đưa ra lập luận dối trá rằng khi con có một số hoàn cảnh vật chất nào đó, thì lúc đó con sẽ hạnh phúc, lúc đó con sẽ được bình an trong tâm. Họ đựa ra lập luận dối trá này vì họ tin điều đó là thật. Họ không thể tránh tin điều đó vì họ ở trong tâm thức nhị nguyên. Trong nhị nguyên, con thấy mình là sinh thể tách biệt có nghĩa là con thấy có sự phân chia giữa điều ở bên trong tâm mình và ở bên ngoài. Con (luôn luôn) kinh nghiệm rằng hoàn cảnh bên ngoài tâm ảnh hưởng trạng thái tâm của con.

Do đó, con rơi vào bẫy của ảo tưởng cho rằng cách duy nhất để làm chủ trạng thái tâm của mình là làm chủ ngoại cảnh. Một khi con có được ngoại cảnh như ý muốn, thì trạng thái tâm sẽ tự động theo sau, sẽ theo sau một cách máy móc. Đây là điều Giê-su ám chỉ khi thày nói về ý muốn dùng bạo lực để cưỡng chiếm thiên đàng. Khi thày nói thiên đàng, dĩ nhiên là thày muốn nói tới tâm Ki-tô, trong đó con hoàn toàn bình an. Đây là ý muốn dùng bạo lực để đạt được bình an nội tâm bằng cách ép buộc ngoại cảnh phải tuân theo tầm nhìn của họ. Tầm nhìn đó đưa ra các hoàn cảnh lý tưởng mà họ cho rằng sẽ đem lại sự bình an nội tâm một cách máy móc.

Dĩ nhiên các thày đã nói nhiều lần là con không phải là một sinh thể máy móc. Do đó, bất kỳ ngoại cảnh như thế nào chăng nữa, con không nhất thiết được bình an. Ngoại cảnh không thể nào tạo ra bình an nội tâm vì bình an nội tâm và hạnh phúc là một điều kiện nội tâm. Đó là lý do con đang theo học một khóa tu mà các thày gọi là khóa tự điều ngự. Tự điều ngự không có nghĩa là điều khiển ngoại cảnh, những điều kiện bên ngoài cái ta, mà là điều khiển hoàn cảnh nội tâm, những hoàn cảnh bên trong cái ta. Con có thể nghĩ là con đã nghe các thày nói điều này rồi – và quả thực các thày có giảng điều này rồi. Nhưng con có thực sự thể nhập nó chưa? Con có khóa chặt tâm mình vào điều đó chưa? Con có nhận ra trong cả bốn tầng tâm của con chưa? Cái Ta Biết của con đã bước ra khỏi động lượng cũ xưa muốn tìm cách kiểm soát thế giới bên ngoài chưa? Con đã bước ra khỏi ham muốn cũ xưa muốn có một số hoàn cảnh nơi thế giới bên ngoài chưa?

4.5. Không có công thức máy móc

Đó là lý do vì sao thày nói đường tu không máy móc. Con không thể chế ra một công thức tạo ra một số ngoại cảnh nào đó và sau đó sẽ tự động đạt được bình an nội tâm. Như thày có nói, con có thể chế ra một công thức tạo ra một số ngoại cảnh nào đó. Đó là điều có thể làm được. Đây không phải là diều dễ làm cho đa số con người trên hành tinh này, nhưng con đã thấy một số người dùng tâm của họ phóng chiếu ra một viễn kiến, và qua đó thu thập được nhiều tài sản, quyền lực hay những thứ khác.

Nhưng điều mà con có thể thấy, nếu con dùng viễn quan Ki-tô, là hầu hết những người đó là sa nhân đã qua một thời gian rất, rất dài xây dựng được động lực kiểm soát thế giới vật chất. Điều họ làm được giống như sự chuyển động của một quả lắc. Khi quả lắc di chuyển qua một phía thì họ dần dần có càng ngày càng nhiều kiểm soát trên ngoại cảnh. Khi quả lắc tới điểm xa nhất mà động lực có thể đảy nó tới, thì họ có vẻ đạt được quyền lực và tài sản to lớn trên trái đất. Nhưng họ tất nhiên sẽ tới điểm bất quân bình cao nhất mà họ có thể tạo ra trong vũ trụ , và quả lắc sẽ bắt đầu di chuyển về hướng kia. Họ sẽ càng ngày càng có ít kiểm soát trên ngoại cảnh, và họ có thể sẽ có nhiều kiếp sống trong đó họ hầu như không kiểm soát được điều gì trong cuộc sống của họ. Con sẽ thấy là những người uy quyền ngày hôm nay sẽ không phải là người uy quyền trong tương lai, và họ cũng không là người uy quyền trong quá khứ (ít nhất là trong quá khứ xa).

Nếu con muốn có một kinh nghiệm nào đó, nếu con ao ước có được cái có vẻ là sự điều ngự vật chất, thì thày không lên án con, thày không chỉ trích con. Thày nhìn nhận là cách duy nhất để con vượt qua mong ước đó là con tìm cách thể hiện nó cho tới khi con chán ngán kinh nghiệm đó. Thày sẽ chỉ giản dị nói với con: “Thày không phải là vị thày mà con cần ở điểm này trên con đường tu của con. Các vị Thượng sư khác cũng vậy. Khóa học tự điều ngự này không phải là điều con cần ở điểm này. Con cần đi tìm một vị thày khác có thể cho con điều con mong ước.” Quả thực là có học viên đã tới điểm này, sau khi đã học xong bốn tia sáng trước, và nay phải đối mặt với thực tại này và thốt nhiên nhận ra là con đường tu này không phải điều họ muốn ở điểm này trên tiến trình tiến hóa toàn vũ của họ – và họ quyết định bỏ đi.

Sau đó, dĩ nhiên là họ sẽ được tiếp đón niềm nở trở lại khi họ sẵn sàng trở lại. Họ sẽ phải đi xuống và bắt đầu trở lại với Chân sư MORE, nhưng tuy thế các thày không lên án ai, không bao giờ đuổi ai đi. Con thấy chăng, thày cần phải khiến học viên đối diện chính mình ở điểm này, ở tầng đầu của khóa nhập thất của thày, để giúp họ soi rõ viễn kiến của họ về con đường tâm linh là gì, viễn kiến của họ về khóa học này là gì.

Lúc đó họ có một chọn lựa: họ có sẽ thăng vượt viễn kiến của họ và thuận theo mục đích của khóa học, hay họ đi nơi khác và theo đuổi viễn kiến mà họ nghĩ cần thể hiện trong đời sống của mình? Khi học viên vượt qua được thử thách này và quyết định: “Có”, họ có muốn tự điều ngự, họ có muốn theo học khóa tu này, họ có muốn theo học với thày, thì chúng ta có thể tiếp tục. Lúc đó chúng ta tiến tới thử thách cam go khác mà con phải đối mặt ở tầng thứ nhất này của khóa nhập thất của thày. Đây là điều mà thày đã bắt đầu mô tả, khi thày nói là con cần nhận ra viễn kiến không thụ động, mà là một khả năng rất chủ động.

4.6. Làm sao tâm khiến viễn kiến bị lệch lạc

Bây giờ thày muốn con nhớ lại một số điều con học ở nhà trường. Con học rằng trong thế giới có một số đồ vật, như bàn, ghế, đường xá, xe cộ, cây cối, núi, sông, đại dương, trái đất vân vân. Khi con nhìn vào các đồ vật đó, ánh sáng chiếu vào chúng và dội về mắt con. Ánh sáng phản chiếu đó dội vào màng võng mạc trong mắt con, và qua đó con thấy đồ vật đó. Bây giờ, ta phải xem xét mô hình này để đi quá những gì con học ở nhà trường.

Trước tiên, ta cần chất vấn rằng có thực sự những đồ vật trong thế giới hay không, ít ra là những đồ vật theo nghĩa con đã được dạy dỗ. Thày không nói là cả thế giới vật chất không hiện hữu hay được tạo nên bởi viễn kiến của con. Quả thực là đồ vật trong thế giới bên ngoài.

Ta có thể chất vấn là các đồ vật đó rắn chắc hay là cái gì khác. Khi con học giáo lý của các thày, hay ngay cả khi con học đôi chút về vật lý lượng tử, thì con thấy là ngay cả các khoa học gia cũng đã bắt đầu đặt nghi vấn là có những đồ vật thực sự rắn đặc hay không. Họ biết rằng, khi ta nghĩ sâu về vấn đề, là mọi thứ trong vũ trụ được cấu tạo bởi sóng năng lượng rung động. Con không nhất thiết thấy một đồ vật, con thấy một trường năng lượng. Đây là một điều quan trọng cần ghi nhớ, và thày sẽ trở lại điểm này trong các bài giảng tới.

Câu hỏi mà thày muốn con suy ngẫm ở đây là: “Những tia sáng dội vào mắt con thực sự từ đâu tới?” Chúng bay bay chơi vơi trong không gian, hay chúng phát xuất từ mặt trời hay từ một nguồn ánh sáng nhân tạo? Con dĩ nhiên biết là trong bóng tối con không thấy được gì hết. Phải chăng là đồ vật không có đó khi tối đen? Không phải đâu, dĩ nhiên là chúng có đó. Trường năng lượng có đó, vậy thì các tia ánh sáng đập vào mắt con sau khi đã dội vào đồ vật từ đâu tới? Ở đây, ta cần nhận ra là có khía cạnh vật lý và phi vật lý của nhãn quan, ít nhất là theo định nghĩa mà con hiện có về từ “vật lý”.

Nếu con là người tâm linh, thì con thể nào cũng có nghe đến quan niệm “nhãn quan thứ hai” hay “khai mở con mắt thứ ba” giúp con người thấy được trường năng lượng bao quanh con người hay đồ vật. Điều con cần nhận ra là lúc nào cũng có sóng ánh sáng tiết ra từ bất cứ đồ vật nào. Một đồ vật là một trường năng lượng và nó liên tục tỏa ra tia điện từ, ngay cả ban đêm. Chuyện dĩ nhiên xảy ra là khi mặt trời ló dạng hay khi con bật lên ngọn đèn điện là lúc đó có những tia điện từ và con mắt có thể nhận được, và do đó con thấy được đồ vật.

Con yêu dấu, ta hoàn toàn có khả năng thấy ban đêm mà không cần đeo những cặp kính dị hợm khiến mọi vật hiện ra với màu xanh. Việc thấy được trong bóng tối rõ như con thấy được ban ngày với con mắt vật lý là điều hoàn toàn có thể làm được. Tại sao con không thấy được hào quang, tại sao không thấy được ban đêm? Đó là vì con không thấy được những gì con mắt thấy. Điều mà thày đang nói là có nhiều tia ánh sáng đi vào đôi mắt vật lý của con hơn là con thấy. Vì sao đa số con người không thấy được hào quang bao quanh mỗi người? Không phải là vì con mắt của họ không nhận được những tia ánh sáng từ hào quang của người khác; mà là vì tâm của họ lọc đi những tia sáng được coi là không liên quan hay thừa thãi.

4.7. Bốn tầng của nhãn quan

Chúng ta hãy xem xét chuyện gì xảy ra khi một tia ánh sáng đập vào con mắt vật lý. Như các con đã được dạy trong nhà trường, tia sáng đập vào màng võng mạc (retina) và màng võng mạc gửi một tín hiệu đến vùng vỏ não thị giác (visual cortex) trong não bộ. Bài học nhà trường của con có lẽ chấm dứt nơi đây, nhưng con cần nhận ra đây là một tiến trình rất phức tạp và tinh vi. Con biết là trong một máy ảnh kỹ thuật số có một bộ cảm biến (sensor), và khi ánh sáng đập vào bộ phận này, nó biến tia ánh sáng thành một tín hiệu mà một máy điện toán có thể đọc được. Con cũng biết là máy điện toán được thiết kế dựa trên một hệ thống nhị phân gồm tín hiệu bật hay tắt. Nói cách khác, máy điện toán không biết các sắc thái vi tế, các chuyển màu tế nhị; nó chỉ biết bật hay tắt, số không hay số một, chỉ có hai trạng thái mà thôi. Màng võ mạc trong con mắt cũng hoạt động tương tự nhưng nó có hơn hai trạng thái; nó không nhị phân.

Đúng thực là màng võng mạc có thể xử lý bảy mức độ hay bảy chuyển màu vi tế. Điều này có nghĩa là khi màng võng mạc gửi tín hiệu về vùng vỏ não thị giác, nó không gửi tín hiệu bật tắt, mà gửi bảy sắc thái màu, bảy ghi mã tín hiệu. Khi màng võng mạc chuyển tia ánh sáng (hay ấn tượng của tia ánh sáng) thành tín hiệu mà não bộ có thể xử lý, thì nó gửi những tín hiệu này theo mạng lưới dây thần kinh về vùng vỏ não thị giác. Chuyện xảy ra trong vùng vỏ não thị giác lại là một quá trình phức tạp và tinh vi hơn nữa. Không có một đối chiếu một với một giữa những gì vùng vỏ não thị giác nhận được từ màng võng mạc và những gì con thấy. Thật sự là cũng không có một đối chiếu một với một giữa tia ánh sáng đập vào màng võng mạc và tín hiệu mà màng võng mạc chuyển về não bộ.

Điều con cần nhận ra là sự thực đơn giản là con không thấy bằng hai mắt mà con thấy bằng bộ óc. Bây giờ con cần phải tiến xa hơn và nhận ra rằng khía cạnh vật lý của nhãn quan (xảy ra trong não bộ) chỉ là khía cạnh thô thiển nhất của nhãn quan. Nó là nền tảng của nhãn quan, nhưng chỉ là một phần rất nhỏ của những gì nhãn quan thực sự bao gồm. Có một khía cạnh của nhãn quan liên hệ đến thể cảm xúc, có một khía cạnh khác liên quan đến thể tư tưởng và một khía cạnh khác liên quan đến thể bản sắc. Con không thấy bằng mắt, con không thấy bằng não bộ, con thấy bằng cả bốn thể phàm.

Thể cảm xúc của con là gì? Như con có thể tưởng tượng, nó là một trường năng lượng. Bây giờ thì con có thể nhớ lại một điều khác mà con có thể đã học hay không học ở nhà trường, nhưng các thày cũng đã giảng điều này, và nó rất giản dị. Ánh sáng điện từ hay sóng điện từ là làn sóng. Khi các làn sóng tương tác, tùy theo đặc tính rung động của chúng, chúng có thể giao thoa (interference) với nhau hay đi xuyên qua nhau. Khi hai làn sóng giao thoa, thì đặc tính của hai làn sóng quyết định mô thức giao thoa và do đó kết quả của sự tương tác.

4.8. Nhãn quan xảy ra như thế nào ở tầng vật lý

Điều thày muốn nói là như sau: con có một tia điện từ đập vào mắt. Nó đập vào màng võng mạc, mà bản chất thực cũng là một trường năng lượng. Một mô thức giao thoa được tạo ra với bảy sắc thái màu. Kết quả của mô thức giao thoa đó là một tín hiệu được gửi tới não bộ, tới vùng vỏ não thị giác. Khi tín hiệu này tới vùng vỏ não thị giác, cũng là một trường năng lượng, thì một mô thức giao thoa mới được tạo ra, và những gì vùng vỏ não thị giác xử lý là kết quả của mô thức giao thoa đó. Rất có thể (và điều này thực sự xảy ra với đại đa số con người) là vùng vỏ não thị giác cũng ảnh hưởng điều mà con thấy. Có một sự diễn giải được đặt lên những gì con thấy ở tầng vật lý. Thày cho con một thí dụ giản dị. Chắc hẳn là con cũng đã thấy những ảo thị đơn giản. Ảo thị đơn giản nhất gồm hai đường thẳng, một đường có hai mũi tên chĩa ra ngoài, và đường kia có hai mũi tên chĩa vào trong. Khi con nhìn hai đường thẳng đó, con có cảm tưởng là một đường dài hơn đường kia, nhưng khi con lấy thước đo thì hai đường có chiều dài hoàn toàn như nhau. Chuyện xảy ra là hướng của hai mũi tên đã đánh lừa con mắt của con và gây cho con cảm tưởng là một đường dài hơn đường kia.

Đây là điều mà vùng vỏ não thị giác áp đặt lên nhãn quan của con. Có một số lập trình trong vùng vỏ não thị giác liên quan đến cõi vật lý, thế giới vật chất, cách con nhìn đồ vật – thấy nó là gì. Những điều này đương nhiên là phức tạp hơn đường thẳng; chúng liên quan đến hình dạng, khả năng giúp con nhận diện một hình dạng. Thí dụ, nếu con trở về thời người cổ xưa sống trong rừng và có thể bị ác thú tấn công, thì vùng vỏ não thị giác của họ rất, rất nhanh nhận ra hình dạng nào là một mối đe dọa. Lúc đó, não bộ có thể gửi tín hiệu tới cơ bắp để tháo chạy trước khi tâm ý thức có thì giờ phản ứng lại hoàn cảnh đang xảy ra.

Con thấy là ở đây có khía cạnh thực tại thực tiễn. Có những hoàn cảnh trong đời khi con cần phản ứng nhanh đến độ con không thể lấy một quyết định ý thức, con cần phải phản ứng bằng tiềm thức. Các con đều làm chuyện này khi con lái xe, hay đi xe đạp. Phản ứng xảy ra ở tầng vật lý thuần túy.

Không có gì sai trái với sự kiện này. Tuy nhiên, con cũng cần nhận ra là vì trái đất có một quá trình rất dài chìm đắm trong tâm thức nhị nguyên, nên tất cả mọi người đều có một số điều, mà con có thể gọi là bản năng, lập trình trong não bộ của họ. Trên con đường tâm linh, con sẽ tới một điểm, khi con đã đi quá tầng 96, khi con cần phải tháo gỡ các lập trình này.

Thày giảng phần này để cho con nhận ra sự kiện là ngay ở tầng vật lý, tầng của não bộ, đã có những yếu tố khiến nhãn quan của con bị bóp méo. Có một sự diễn giải được áp đặt lên những gì con thấy. Diễn giải đơn giản nhất là: “Hoàn cảnh trước mặt có là một mối nguy hiểm hay không?” Nhưng có rất nhiều diễn giải vi tế khác.

4.9. Nhãn quan ở các tầng cao hơn

Khi tín hiệu đã đi qua vùng vỏ não thị giác, thì mô thức giao thoa tạo ra ở đó được gửi tới thể cảm xúc. Thể cảm xúc của con cũng là một trường năng lượng, do đó ở đó lại có thêm một tương tác, một mô thức giao thoa. Điều mà con thấy ở tầng cảm xúc sẽ bị ảnh hưởng bởi những gì sẵn có trong thể cảm xúc của con. Tức là những lập trình ở trong đó, những dạng năng lượng ở trong đó. Nếu con có nhiều sợ hãi trong thể cảm xúc của con, con sẽ có khuynh hướng diễn giải nhiều hoàn cảnh như đe dọa tuy chúng không nhất thiết là đe dọa. Đó là lý do vì sao con thấy hai người đối diện cùng hoàn cảnh nhưng phản ứng khác nhau, vì một người có nhiều sợ hãi trong thể cảm xúc hơn người kia.

Cũng như vậy, sau khi đã tương tác ở thể cảm xúc, xung lực tới thể tư tưởng. Ở đó, nó lại tạo nên một mô thức giao thoa, và sau đó nó tới thể bản sắc. Bây giờ, con – là cái Ta Biết – con thấy gì? Con thấy xung lực ở điểm nào? Điều này tùy thuộc con, cái Ta Biết, đang chú tâm vào phần nào của bốn thể phàm. Có những người chú tâm vào cõi vật lý, vào xác thân vật lý. Đó thường là những người đã trải qua những hoàn cảnh nguy hiểm cho xác thân họ. Họ có thể là quân sĩ trong chiến tranh, họ có thể là người bất lương lúc nào cũng cảm thấy bị đe dọa, hay họ là người thổ dân sống trong rừng rậm. Những người này hoàn toàn chú tâm vào cõi vật lý đến độ họ không thấy (ít nhất là một cách ý thức) những gì xảy ra ở các tầng cao hơn. Ta có thể nói là chuỗi nhãn quan của họ ngưng ở tầng vật lý.

Sau đó, lại có những người chú tâm vào cõi xúc cảm, và đương nhiên là họ thấy mô thức giao thoa được tạo ra khi xung lực tới thể cảm xúc. Họ không thấy điều xảy ra khi nó đi lên các tầng cao hơn, ít ra là một cách ý thức, vì họ không suy nghĩ một cách có ý thức. Sau đó, đương nhiên là lại có những người chú tâm vào cõi tư tưởng, và có người chú tâm vào cõi bản sắc. Tất cả các học viên tới khóa nhập thất của thày đều chú tâm vào tầng tư tưởng cao hay tầng bản sắc. Con không thể đi trên con đường tâm linh tới điểm này và không vượt qua tầng vật lý và cảm xúc. Con không thể hoàn toàn chú tâm vào cảm xúc, chẳng hạn, và đạt được các khai ngộ của thày Serapis Bey.

Điều mà con cần nhận ra, và đây là điều thày muốn con suy ngẫm trong bài giảng này, là thể tư tưởng và thể bản sắc của con sẽ bóp méo tầm nhìn của con. Thày biết là điều này có thể khiến con lo sợ hay khó hiểu. Nếu con đang đeo một cặp kính màu vàng và không biết mình đang đeo một cặp kính màu vàng, thì làm sao con có thể nhìn mà không qua cắp kính nào? Dĩ nhiên, đây là công việc của thày, là vị thày hướng dẫn con qua bảy tầng của khóa nhập thất này, để giúp con dần dần nhận rõ hơn là con có một phin lọc, và con có khả năng bỏ phin lọc ra và đạt được tầm nhìn thanh khiết hơn, rõ ràng hơn.

Thày không muốn con hoảng sợ, cảm thấy chán nản hay cảm thấy đây là một công việc không thể làm được. Dĩ nhiên là nó làm được, và thày sẽ khiến nó càng ngày càng dễ làm khi chúng ta tiến thêm trong khóa học này. Điều mà thày muốn con quyết định một cách ý thức là con có muốn theo khóa học này hay con muốn có trải nghiệm khác ở điểm này của đời con. Nếu con muốn trải nghiệm khác thì con cần tìm ra một vị thày có thể cho con kinh nghiêm bên ngoài mà con mong muốn hay một mức độ điều khiển thế giới vật chất nào đó.

4.10. Tự chủ đúng và sai

Con biết rằng khóa học này là khóa học tự-điều ngự. Điều mà sa nhân muốn đạt được là làm chủ thế giới bên ngoài mà không làm chủ thế giới bên trong. Câu nói này thoạt trông có vẻ mâu thuẫn, vì có các thày giả tuyên bố là họ đã đạt được tự chủ, họ làm chủ hoàn toàn hành động và trạng thái tâm của họ. Điều đó có đôi chút thực chất, vì con có thể đạt được một mức làm chủ nào đó trên bốn thể phàm của mình. Đó chính là điều mà các thày giả mà thày đề cập tới đã đạt được. Họ đã đạt được khả năng làm chủ phần nào bốn thể thấp của họ và làm chủ hoàn cảnh bên ngoài của họ.

Con không thể gian lận vũ trụ; nó phản chiếu lại con những gì con phóng chiếu ra. Nếu con muốn có điều kiện nào đó biểu hiện thì con phải kiểm soát được những gì con phóng chiếu ra. Dĩ nhiên có thể có (như con đã từng thấy trong quá khứ) một người biến toàn thể dân chúng thành nô lệ của mình, và do đó họ làm việc để người đó được cung điện nguy nga, một đạo quân hùng mạnh và quyền uy rộng lớn. Điều này cũng cần khả năng điều ngự tâm vì con cần khả năng uốn cong ý chí người khác theo ý chí của mình.

Nhưng đây không phải là tự điều ngự. Đây là điều ngự bốn thể phàm, nhưng không phải là điều ngự cái ta vì cái ta nhiều hơn là bốn thể phàm. Vậy tự điều ngự là gì? Đó là ý định thanh khiết. Thày Serapis nói về ý định thanh khiết khi con tới điểm không còn hung hãn nữa. Khi con không còn tìm cách uốn cong người khác theo ý chí của con bằng cách ép họ phải từ bỏ ý chí của họ, thì lúc đó con có tự điều ngự.

Đó là lúc con không còn muốn ép buộc vũ trụ cho con một số điều kiện dù con không có những điều kiện tương ứng bên trong mình. Con yêu dấu, con có thấy điều thày muốn nói chăng? Vũ trụ là một tấm gương. Nếu con muốn một số điều kiện (mà con cần trong thế giới bên ngoài), con cần phải tạo ra viễn kiến về các điều kiện đó bên trong tâm con, và sau đó con phóng chiếu viễn kiến đó ra Ánh sáng Mẫu-Vật, tấm gương toàn vũ.

Vấn đề là con tạo dựng viễn kiến này qua tâm nhị nguyên, tâm tách biệt hay qua tâm Ki-tô. Thày phải nói con là khi con tới tầng này của khóa nhập thất của thày, con sẽ vẫn con tàn dư của động lực phóng chiếu qua tâm tách biệt. Điều này có nghĩa là con còn một ít ham muốn, một ít nhu cầu của tâm tách biệt mà con nghĩ (có thể một cách không ý thức) là con cần thỏa mãn. Con cho rằng một phần của con đường tự điều ngự là con thực hiện những ham muốn này và có khả năng biểu hiện các ngoại cảnh đó.

Điều này có thể là tâm điều ngự vật chất, nhưng không phải là tâm điều ngự tâm. Nhưng thực ra thì không có tâm điều ngự tâm, vì điều thày dạy trong khóa tự điều ngự này là dẫn con tới điểm con không có hai tâm. Con chỉ có một tâm mà thôi.

Con có thấy chăng là nhị nguyên dựa trên sự phân chia cơ bản giữa ta và thế giới, giữa ta và người? Khóa học tự điều ngự là khóa học chiến thắng nhị nguyên, chiến thắng tách biệt, đi tới cái mà các thày gọi là Tâm Ki-tô, nơi con thấy cái Duy Nhất của mọi sự sống. Con có thấy điểm khác biệt chăng?

Sa nhân nói rằng: “Ta muốn một số điều kiện biểu hiện nơi thế giới bên ngoài. Ta biết là vũ trụ vận hành như một tấm gương, do đó ta phải tạo trong bốn thể phàm một khuôn đúc của những điều kiện mà ta muốn biểu hiện trong thế giới vật lý, và sau đó ta phải phóng chiếu, với toàn thể sức lực mà ta có, khuôn đúc này lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Một thời gian sau đó thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lên hình tướng đó.” Con có thấy điều họ muốn làm chăng? Như thày có nói trước đây, họ muốn tạo một lập trình mới, một phàm linh mới, và phàm linh này làm gì? Nó tạo ra chia rẽ trong tâm họ.

Điều mà sa nhân gọi là điều ngự là khi họ tạo ra một phàm linh nội tại mạnh mẽ đến độ nó có thể nhất thời khống chế được những phàm linh nội tại khác. Do đó như thày có nói, khi quả lắc đi qua một phía thì họ có thể biểu hiện những điều kiện đó. Nhưng rồi sẽ tới lúc họ giản dị không còn đủ sức mạnh để tiếp tục, và lúc đó phàm linh dũng mãnh mà họ tạo ra sẽ hết hơi. Các phàm linh khác bắt đầu nổi lên lại và tạo ra sự phân rẽ trong tâm, và quả lắc bắt đầu xoay lại phía kia. Lúc đó họ sẽ trải nghiệm nhiều kiếp sống đầy hỗn mang, xáo trộn và địa vị thấp trong thế giới bên ngoài.

Tự điều ngự là khi con dần dần làm tan đi các phàm linh nội tại, làm tan đi sự phân rẽ nội tại. Con thăng vượt các phân rẽ nội tại và càng ngày càng đến gần điểm mà viễn kiến của con dựa trên Duy nhất.

4.11. So sánh Giê-su và các tỷ phú

Ở đây, con nên nhìn một cách ý thức về cuộc đời và sứ mạng của Giê-su, hay của đức Phật. Con hãy so sánh Giê-su hay đức Phật với những người đương thời giàu có và đầy quyền lực nhất, như các nhà tỷ phú, có được tất cả những gì họ mong muốn, có thể kiểm soát mọi khía cạnh cuộc đời bên ngoài của họ. Con có nghĩ chăng là một người giàu có và nhiều quyền lực, người giàu nhất trên thế giới, có khả năng tự điều ngự cao hơn Giê-su hay đức Phật chăng? Người đó – có thể – có nhiều hơn khả năng thể hiện điều kiện vật lý. Nhưng có thực chăng là họ có khả năng đó hơn Giê-su hay đức Phật, vì chắc hẳn Giê-su và đức Phật có khả năng thể hiện bất kỳ điều kiện bên ngoài mà các thày muốn cho chính mình.

Con cần tự đặt câu hỏi: “Vì sao hai vị thày tâm linh đó, có khả năng tự điều ngự, lại sống cuộc đời rất bình dị, và trên mặt vật chất rất nghèo? Họ không có của cải gì, không sở hữu gì. Giê-su không có tu viện, không có cơ sở cố định, mà đi giảng đạo khắp nơi. Tại sao thày không thể hiện những điều kiện mà thày mong muốn? Thày đã không làm vậy, vì trong những kiếp trước thày đã thể hiện nhiều điều kiện bên ngoài và thày đã tới điểm chán ngán kinh nghiệm này và mong muốn một kinh nghiệm cao hơn.

Kinh nghiệm cao hơn này là gì? Đó là con bắt đầu nhìn quá cái ta của mình! Viễn kiến của con không trụ ở cái ta tách biệt, con không chú tâm vào những gì con muốn cho cái ta tách biệt. Con càng ngày càng chú tâm nhiều hơn đến tổng thể, con chiến thắng sự phân rẽ giữa ta và người. Con hoặc thấy cái ta là tất cả hoặc cái ta là một phần của tổng thể. Thành tựu sáng tạo tối hậu cho cái ta là làm điều gì nâng cao tổng thể thay vì tập trung tất cả năng lượng, chú tâm và viễn kiến vào việc nâng cao cái ta tách biệt.

Con có thấy chăng là con sẽ tới điểm bắt đầu nhận ra rằng điều sa nhân muốn là nâng cái ta tách biệt của họ lên trên những người khác? Khi con nhận ra là trong vũ trụ có sự quân bình, có tương tác hành động và phản ứng, có luật Nhân Quả, thì con nhận ra rằng nếu một người nâng mình rất cao so với người khác, thì điều này chỉ có thể thực hiện bằng cách tạo một bất quân bình trong đó người khác bị đè xuống. Sự bất quân bình này không thể tiếp diễn mãi mãi. Đó là lý do vì sao thày nói rằng người nâng mình lên trong một kiếp, sẽ phải bị hạ xuống trong những kiếp tới. Không thể có cách nào khác hơn.

Con nhận rằng trong tâm thức nhị nguyên, con luôn luôn tìm cách đi tới một cực điểm. Khi con làm vậy, con tạo một sự bất quân bình, và sẽ đến một lúc quả lắc đi ngược trở lại để tạo ra một trạng thái quân bằng nào đó. Khi con đạt được viễn kiến Ki-tô, con sẽ thấy là con có thể hành động để nâng một cái ta tách biệt của mình lên mà không đè các ta tách biệt khác xuống không đè những phần khác của vũ trụ xuống. Con thực sự có thể nâng cái ta của mình lên theo một cách mà toàn thể cũng được nâng cao luôn. Đó là viễn kiến Ki-tô. Khi con tới điểm mà năng lượng, sự chú ý và thời giờ của con tập trung vào việc nâng cao Tất cả, thì lúc đó con bắt đầu đạt được tự điều ngự.

4.12. Chuyển đổi tâm mình trước khi thay đổi thế giới

Điếu này không có nghĩa con ngưng không là một con người; nó không có nghĩa là con không có một cuộc sống tích cực trong xã hội. Nó không có nghĩa là con không thể có một căn nhà của mình, không thể có một gia đình, không thể có vật sở hữu. Các thày không nói là mọi người trong thế giới hiện đại phải sống như Giê-su. Như các thày đã nói, trong thời đại hiện nay điều quan trọng hơn là con có cuộc sống tích cực trong xã hội.

Con có thể tới điểm mà những gì con sở hữu không sở hữu con, vì đối với con chúng chỉ là phương tiện để đạt được một cứu cánh, chúng không phải là cứu cánh. Con không tập trung vào việc tạo ra một số điều kiện vật chất để tạo ra trạng thái bình an nội tâm. Tâm con tập trung vào việc đạt được bình an nội tâm qua uy lực của chính cái tâm. Khi con điều ngự được cách tạo bình an nội tâm bất kỳ ngoại cảnh như thế nào, thì con đâu cần các ngoại cảnh này nữa? Điều này không có nghĩa là con không thể có chúng, nhưng con có hiểu ý thày giảng chăng? Con không cố gắng có của cải vật chất hầu đạt được một kinh nghiệm nội tâm. Con tập trung vào kinh nghiệm nội tâm và hoàn cảnh bên ngoài sẽ chỉ là hoàn cảnh bên ngoài. Chúng ăn khớp với nhau và con tận dụng chúng, bất kỳ chúng là gì.

Có rất nhiều học viên đến tầng này của khóa nhập thất của thày và họ đã nghe nói đến tầng tâm thức cao hơn, giác ngộ, quả vị Ki-tô, hay bất kỳ tên nào khác. Họ vẫn nghĩ là nếu một số điều kiện bên ngoài không được hội đủ, thì họ không thể thực sự trải nghiệm các trạng thái tâm thức cao đó.

Con yêu dấu, con có thấy chăng là nếu con có thái độ đó, thì con sẽ không bao giờ, không bao giờ đạt tới điểm điều kiện bên ngoài lý tưởng đến độ con có thể nói: “Bây giờ thì tôi có thể biểu hiện một trạng thái tâm thức cao hơn”. Lý do rất giản dị; các thày đã nói nhiều lần: “Tâm thức đi trước biểu hiện vật lý”. Nếu con nghĩ là biểu hiện vật lý phải đi trước – và sau đó tâm thức sẽ theo sau – thì con sẽ không bao giờ đạt trạng thái tâm thức cao hơn. Nếu con đợi điều kiện lý tưởng để con thể hiện trạng thái tâm thức cao hơn, thì điều đó sẽ không bao giờ xảy ra.

Trước khi thày chấm dứt bài giảng, điều mà thày muốn con suy ngẫm (thày biết là thày đã khiến con suy ngẫm nhiều điều rồi, nhưng thày muốn cho con một điều nữa) là: con hãy xét xem con có trong tâm ý tưởng rất tinh tế cho rằng để có thể thực sự đi trên con đường tâm linh, để có thể biểu hiện một trạng thái tâm thức cao hơn, để có thể thật sự chú tâm vào việc tu tâm linh, một số điều kiện bên ngoài, một số điều kiện vật chất phải được hoàn thành. Nếu con có ý tưởng đó, con hãy suy ngẫm chúng là gì và suy ngẫm câu thày nói: Con có thể chờ đợi điều kiện lý tưởng bên ngoài mãi mãi. Con sẽ không biểu hiện được quả vị Ki-tô nếu con không quyết định tập trung sự chú ý vào bên trong. Con sẽ tìm cái đà trong chính mắt con, con sẽ nhìn chính mình, con sẽ chú tâm vào việc đạt tự điều ngự thay vì điều ngự hoàn cảnh bên ngoài hay đợi cho các hoàn cảnh bên ngoài đó hiện ra như phép lạ.

Có người cho rằng con đường tự điều ngự là dùng vũ lực biểu hiện một số điều kiện bên ngoài. Có người cho rằng nó là thụ động chờ đợi một hồng ân Thiêng liêng nào đó biểu hiện các điều kiện đó. Cả hai điều đó sẻ không xảy ra. Thực ra, giữa hai điều đó, điều tốt hơn là tìm cách ép buộc ngoại cảnh và nhận ra rằng ngoại cảnh không cho con bình an nội tâm. Lúc đó con có thể tiến bước nhanh hơn là những người cứ mãi mãi chờ đợi hồng ân Thiêng liêng cho họ điều kiện để họ có thể biểu hiện bình an.

Tâm thức đi trước biểu hiện vật lý. Vì sao? Vì biểu hiện vật lý là phản ánh của tấm gương vũ trụ gửi lại con điều gì con phóng chiếu vào nó. Con hãy đừng chú tâm vào tấm gương, và hãy chú tâm vào những hình ảnh trong tâm mà con phóng chiếu ra ngoài. Con hãy chú tâm vào cuộn phim trong máy chiếu phim, chứ đừng chú tâm vào màn ảnh.

TA LÀ Hilarion, và thày sẽ hoan hỷ giảng cho con bài kế tiếp ở khóa nhập thất của thày.